1
2
3

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội

Việt dịch: Tuệ Khai

QUYỂN THƯỢNG

Tôi nghe như vầy, một thuở đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại thành Vương Xá, cùng với đại Tỳ kheo tăng gồm ba vạn hai ngàn người, bảy vạn hai ngàn vị Đại Bồ tát. Các vị là những bậc tri thức được Đàlani, thành tựu biện tài “lạc thuyết vô tận”, an trụ tam muội mà chẳng động chuyển, có thể giỏi biết rõ tuệ vô tận, được pháp nhẫn sâu, thâm nhập vào cửa pháp, ở những vô lượng A-tăng-kỳ kiếp đã tu thiện pháp đều thành tựu hết, tiêu diệt điều phục mọi ma, hàng phục các oán địch, nhiếp lấy cõi Phật nghiêm tịnh tối tôn, có đại từ bi, các tướng tốt nghiêm thân, đối với đại tinh tấn được đến bờ kia, giỏi biết tất cả phương tiện ngôn từ, hành động oai nghi đầy đủ thanh tịnh, đều đã được trụ ở ba cửa giải thoát, dùng trí vô ngại thông đạt ba đời, phát tâm quyết định chẳng bỏ tất cả, nhớ nghĩ nghĩa thú trí tuệ kham nhẫn… Đức của những vị Bồ tát ấy đều như vậy. Những vị ấy tên là : Chuyển Bất Thoái Pháp Luân Bồ tát, Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân Bồ tát, Vô Ngại Chuyển Pháp Luân Bồ tát, Ly Cấu Tịnh Bồ tát, Trừ Chư Cái Bồ tát, Thị Tịnh Uy Nghi Kiến Giai Ái Hỉ Bồ tát, Diệu Tướng Nghiêm Tịnh Vương Ý Bồ tát, Bất Cuống Nhất Thiết Chúng Sinh Bồ tát, Vô Lượng Công Đức Hải Ý Bồ tát, Chư Căn Thường Định Bất Loạn Bồ tát, Thật Âm Thanh Bồ tát, Nhất Thiết Thiên Tán Bồ tát, Đà La Ni Tự Tại Vương Bồ tát, Biện Trừ Trang Nghiêm Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ tát, Di Lặc Bồ tát, Tu Di Đảnh Vương Bồ tát, Hải Đức Bảo Nghiêm Tịnh Ý Bồ tát, Đại Nghiêm Tịnh Bồ tát, Đại Tướng Bồ tát, Quang Tướng Bồ tát, Quang Đức Bồ tát, Tịnh Ý Bồ tát, Hỷ Vương Bồ tát, Kiên Thế Bồ tát, Kiên Ý Bồ tát,… Những vị Đại Bồ tát như vậy có đến bảy vạn hai ngàn người và những Đế Thích, Phạm Thiên Vương, Hộ Thế thiên vương sở hữu của ba ngàn đại thiên thế giới, cùng với các trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, người và chẳng phải người…, những người tri thức gieo trồng nhiều căn lành, những kẻ ưa đại pháp đều đến tập hội.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý ở trong đại chúng nghĩ rằng : “ Vào ngày hôm nay, ta sẽ hỏi đức Như Lai những vấn đề này : Muốn thủ hộ Phật chủng, pháp chủng, tăng chủng. Khiến cho các cung ma bị che kín biến mất. Tiêu diệt điều phục người tự đại tăng thượng mạn. Người chưa gieo trồng căn lành, nay phải khiến họ gieo trồng. Người đã gieo trồng thiện căn, nay phải khiến họ tăng trưởng. Nếu có người chưa phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì phải khiến cho họ phát tâm. Người đã phát tâm thì khiến họ chẳng thoái chuyển. Người đã chẳng thoái chuyển thì khiến họ mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Kể ra người có sở đắc trụ các tà kiến thì đều khiến cho họ phát tâm lìa bỏ. Người ưa pháp nhỏ thì khiến họ chẳng nghi ngờ pháp lớn. Người ưa pháp lớn thì khiến họ vui mừng”. Khởi lên ý niệm đó rồi, Bồ tát liền đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay hướng về đức Phật mà bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay, con muốn ở trong pháp của đức Như Lai có ít điều hỏi han. Nguyện xin đức Thế Tôn hứa cho !

Đức Phật bảo rằng :

– Này Kiên Ý ! Ông cứ tùy ý mà hỏi ! Ta sẽ giải nói khiến cho ông vui lòng.

Bồ tát Kiên ý bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Vả có thứ tam muội có thể khiến cho Bồ tát mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ được chẳng lìa khỏi sự gặp các đức Phật, có thể dùng ánh sáng soi khắp mười phương, được tuệ tự tại để phá các ma, được trí tự tại, được trí tự nhiên, được trí vô sinh, có khả năng chẳng theo người khác mà được, chẳng đoạn dứt biện tài, đến tận đời vị lai được Như Ý túc, thọ vô lượng mạng. Người ưa Thanh văn thì thị hiện thừa Thanh văn. Kẻ ưa Bích Chi Phật thì thị hiện thừa Bích Chi Phật. Người ưa Đại thừa thì vì họ thị hiện Đại thừa. Thông đạt pháp Thanh văn mà chẳng vào đạo Thanh văn. Thông đạt pháp Bích Chi Phật mà chẳng vào đạo Bích Chi Phật. Thông đạt Phật pháp mà chẳng diệt tận rốt ráo. Thị hiện uy nghi hình sắc Thanh văn mà bên trong chẳng lìa khỏi tâm Bồ đề của Phật. Thị hiện uy nghi hình sắc Bích Chi Phật mà bên trong chẳng lìa khỏi lòng đại bi của Phật. Dùng sức tam muội Như Huyễn thị hiện uy nghi hình sắc của Như Lai. Dùng sức căn lành thị hiện ở trên trời Đâu suất, thị hiện thọ thân sau, vào trong bào thai, rồi sinh ra, xuất gia, ngồi ở đạo tràng của Phật… Dùng sức thâm tuệ thị hiện chuyển bánh xe pháp. Dùng sức phương tiện thị hiện vào Niết bàn. Dùng sức tam muội thị hiện phân chia xá lợi. Dùng bản nguyện lực thị hiện pháp diệt tận… Kính thưa đức Thế Tôn ! Tu hành tam muội gì thì có thể khiến cho Bồ tát thị hiện được những công đức như vậy mà chẳng rốt ráo vào đến Niết bàn ?

Đức Phật bảo Bồ tát Kiên Ý rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này Kiên Ý ! Chỉ ông mới có thể hỏi Như Lai những nghĩa như vậy ! Phải biết rằng, ông có thể đem lại nhiều lợi ích an vui cho chúng sinh, thương xót chúng sinh, làm lợi ích an lạc cho trời người, Bồ tát đời nay và đời sau được nhờ lợi ích. Phải biết rằng ông đã gieo trồng sâu căn lành, đã cúng dường thân cận vô lượng trăm ngàn ức đức Phật đời quá khứ, tu hành khắp các đạo, hàng phục ma oán địch. Ở trong Phật pháp, ông được trí tự tại, giáo hóa thủ hộ các chúng Bồ tát. Ông đã biết tất cả các Phật pháp tạng, từng ở chỗ các đức Phật nhiều như cát sông Hằng thành tựu sự hỏi đáp. Này Kiên Ý ! Ở trong chúng hội này, Như Lai chẳng thấy trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà và các Thanh văn, người cầu Bích Chi Phật có thể đặt ra vấn đề đó. Chỉ có các ông, bậc đại trang nghiêm mới có thể đặt ra những vấn đề như vậy. Nay ông hãy lắng nghe và suy nghĩ chu đáo những vấn đề đó. Ta sẽ vì ông nói sự thành tựu tam muội của các Bồ tát được công đức hơn ở đây.

Ngài Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Con nguyện muốn được nghe !

Đức Phật dạy :

– Này Kiên Ý ! Có tam muội tên là Thủ Lăng Nghiêm. Nếu có Bồ tát được tam muội đó thì đúng như lời nói của ông, Bồ tát đều có thể thị hiện vào Niết bàn mà chẳng diệt vĩnh viễn, thị hiện các hình sắc mà chẳng hoại sắc tướng du hành khắp đất nước của tất cả chư Phật mà đối với đất nước không có gì phân biệt, có thể được gặp hết tất cả các đức Phật mà chẳng phân biệt pháp tính bình đẳng, thị hiện tu hành khắp tất cả các hạnh mà có thể giỏi biết các hạnh thanh tịnh, với các trời người là tối tôn tối thượng mà chẳng tự cao kiêu mạn buông lung, hiện làm sức tự tại của tất cả ma mà chẳng nương cậy vào việc hành động của ma, đi khắp trong tất cả ba cõi mà đối với pháp tướng không chuyển động, thị hiện sinh ra khắp trong các đường mà chẳng phân biệt có tướng các đường, giỏi có thể giải nói tất cả pháp cú, dùng ngôn từ giải bày ý nghĩa câu pháp ấy mà biết văn tự vào trong tướng bình đẳng, đối với ngôn từ không có sự phân biệt, thường ở tại thiền định mà thị hiện giáo hóa chúng sinh, tu hành đến tận nhẫn, vô sinh pháp nhẫn mà nói các pháp có tướng sinh diệt, bước đi một mình không sợ giống như sư tử.

Lúc bấy giờ, trong hội các Đế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế thiên vương, tất cả đại chúng đều nghĩ rằng : “ Chúng ta còn chưa từng nghe đến danh tự của Tam muội đó, huống gì là được nghe giải nói ý nghĩa của Tam muội ấy. Hôm nay đến đây sung sướng được gặp đức Phật còn được thiện lợi là đều được cùng nhau nghe nói danh tự của tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân cầu Phật đạo mà nghe được nghĩa thú của tam muội Thủ Lăng Nghiêm tín giải chẳng nghi ngờ thì phải biết là người đó nhất định đối với Phật đạo chẳng còn thoái chuyển nữa, huống là tin rồi thọ trì đọc tụng, vì người khác giải nói, theo đúng như lời nói tu hành”. Các Đế Thích, Phạm vương, Hộ Thế thiên vương đều lại nghĩ rằng : “ Hôm nay, chúng ta sẽ vì đức Phật Như Lai mà bày tòa ngồi Sư tử, tòa ngồi Chánh pháp, tòa ngồi đại thượng nhân, tòa ngồi Đại Trang nghiêm, tòa ngồi Đại Chuyển Pháp Luân… sẽ thỉnh đức Như Lai ngồi ở tòa ngồi này của ta mà nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm”. Trong đó, người người đều tự cho rằng, chỉ có ta vì đức Phật bày tòa ngồi Sư tử còn người khác chẳng thể làm. Lúc bấy giờ, Đế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế thiên vương đều vì đức Như Lai bày tòa ngồi Sư tử, trang hoàng thanh tịnh, đoan nghiêm, cao hiển. Họ dùng vô lượng áo báu trải lên tòa ngồi ấy, trương lên mọi bảo cái vi diệu, họ lại dùng mọi thứ báu làm lan can, diềm cửa. Ở bên phải bên trái tòa ngồi có vô lượng cây cối cành lá trồng xen kẽ thành hàng lối tương ứng buông xuống những tràng phan, giăng mắc trướng đại bảo, mọi thứ báu đan xen vào nhau, còn treo lủng lẳng những chuông báu nhỏ. Chư thiên còn dùng đủ loài hoa đẹp của trời tung lên trên những tòa ngồi ấy, đốt đủ thứ hương trời để xông thơm, vàng, bạc, mọi thứ ánh sáng báu xen lẫn nhau tỏa chiếu. Đủ thứ loại nghiêm tịnh không gì chẳng đầy đủ. Trong giây lát, ở trước đức Như Lai, có tám muôn bốn ngàn ức nadotha tòa Sư tử báu đặt ở trong chúng hội mà không có sự đụng chạm trở ngại. Mỗi một thiên tử chẳng nhìn thấy tòa ngồi của người khác, họ đều nghĩ rằng, riêng một mình ta vì đức Phật bày tòa Sư tử, đức Phật sẽ ngồi trên tòa do ta bày ra mà nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Các Đế Thích, Phạm vương và Hộ Thế thiên vương bày tòa ngồi đã xong, đều bạch đức Phật rằng :

– Nguyện xin đức Như Lai ngồi lên tòa ngồi của con để nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm !

Tức thời đức Thế Tôn hiện đại thần lực, ngồi lên khắp tám muôn bốn ngàn ức nadotha tòa Sư tử. Chư thiên, mỗi mỗi đều thấy đức Phật ngồi trên tòa ngồi do mình bày ra, chẳng thấy các tòa ngồi khác. Có một vị Đế thích nói với một vị Đế thích khác rằng :

– Này ông hãy xem, đức Như Lai ngồi trên tòa ngồi của tôi kìa !

Như vậy, Đế thích, Phạm vương, Hộ Thế thiên vương đều nói với nhau rằng : “ Này ông hãy xem, đức Như Lai ngồi trên tòa ngồi của tôi kìa !” Có một vị Đế thích nói rằng :

– Hôm nay, đức Như Lai chỉ ngồi tòa ngồi của tôi, chẳng ngồi ở tòa ngồi của ông !

Lúc bấy giờ, do túc duyên của các Đế thích, Phạm vương, Hộ Thế thiên vương đáng được độ, lại muốn thị hiện chút ít thế lực của tam muội Thủ Lăng Nghiêm và cũng vì muốn thành tựu hạnh đại thừa nên đức Như Lai khiến cho những chúng hội đều thấy đức Như Lai ngồi tại khắp tám muôn bốn ngàn ức nadotha tòa Sư tử báu. Tất cả đại chúng đều rất vui mừng được thấy việc chưa từng có. Mọi người đều đứng dậy chắp tay làm lễ đức Phật, đều nói lên rằng :

– Hay thay ! Đức Thế Tôn uy thần không lường đã khiến cho các thiên tử đều thỏa mãn sở nguyện.

Các thiên tử ấy đã vì đức Như Lai thiết lập tòa ngồi, thấy thần lực đức Phật, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đồng bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con vì muốn cúng dường đức Như Lai, diệt trừ khổ não của tất cả chúng sinh, giữ gìn chánh pháp chẳng đoạn dứt Phật chủng, vậy nên đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện khiến cho chúng con vào đời vị lai tạo tác được sức uy thần như vậy của đức Phật như sự tạo tác biến hiện của đức Như Lai hôm nay vậy.

Lúc bấy giờ, đức Phật khen các thiên tử rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Đúng như lời nói của các ông ! Vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh mà phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì đó là sự cúng dường Như Lai hạng nhất !

Trong chúng Phạm thiên, có một vị Phạm Vương tên là Đẳng Hạnh, bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Vị Như Lai nào là đúng vị Như Lai chân thật ? Vị ngồi trên tòa của con là đúng ? Hay vị trên tòa khác là đúng ?

Đức Phật bảo rằng :

– Này Đẳng Hạnh ! Tất cả các pháp đều rỗng không như huyễn, từ hòa hợp mà có, không có tác giả, đều từ nhớ tưởng phân biệt mà khởi lên, không có chủ tể nên tùy ý mà sinh ra ! Các vị Như Lai đó đều là chân thật. Sao gọi là thật ? Các vị Như Lai đó vốn tự chẳng sinh, vậy nên là thật ! Các vị Như Lai đó hôm nay không, sau này cũng không, vậy nên là thật ! Các vị Như Lai đó chẳng phải bốn địa nhiếp lấy, vậy nên là thật ! Các vị Như Lai đó chẳng bị nhiếp lấy của các ấm, giới, nhập, vậy nên là thật ! Các vị Như Lai đó như trước, giữa, sau ngang bằng không sai biệt, vậy nên là thật ! Này Phạm vương ! Các vị Như Lai đó ngang bằng, không sai biệt, sở dĩ vì sao ? Vì các vị Như Lai đó do sắc “Như” nên ngang bằng ! Do thọ, tưởng, hành, thức “Như” nên ngang bằng ! Do vậy nên ngang bằng ! Các vị Như Lai đó do đời quá khứ “Như” nên ngang bằng ! Do đời vị lai Như nên ngang bằng ! Do đời hiện tại Như nên ngang bằng ! Do pháp huyễn Như nên ngang bằng ! Do pháp ảnh Như nên ngang bằng ! Do pháp không sở hữu nên ngang bằng ! Do không chỗ từ đó lại, không chỗ từ đó đi nên ngang bằng ! Vậy nên Như Lai gọi là Bình Đẳng. Như và tất cả pháp ngang bằng, các vị Như Lai đó cũng lại như vậy. Như và tất cả chúng sinh ngang bằng, các vị Như Lai đó cũng lại như vậy. Như và các đức Phật của tất cả thế gian ngang bằng, các đức Như Lai đó cũng lại như vậy. Như và tất cả thế gian ngang bằng, các đức Như Lai đó cũng lại như vậy. Vậy nên danh hiệu các đức Phật là Bình Đẳng. Này Phạm Vương ! Các vị Như Lai đó chẳng qua khỏi tất cả các pháp Như nên tên là Bình Đẳng! Này Phạm vương ! Ông phải biết rằng, Như Lai biết hết tất cả các pháp bình đẳng như vậy nên Như Lai đối với tất cả pháp tên là Bình Đẳng !

Phạm vương Đẳng Hạnh bạch đức Phật rằng :

– Thật chưa từng có ! Thưa đức Thế Tôn ! Đức Như Lai được các pháp bình đẳng đó rồi, dùng thân diệu sắc thị hiện cho chúng sinh ?

Đức Phật dạy rằng :

– Đó đều là sự thành đạt thế lực bản hạnh của tam muội Thủ Lăng Nghiêm vậy. Do việc đó nên Như Lai được các pháp bình đẳng này rồi thì dùng thân diệu sắc thị hiện cho chúng sinh.

Khi nói pháp này, Phạm vương Đẳng Hạnh và một vạn Phạm thiên, ở trong các pháp được Nhu Thuận nhẫn.

Lúc bấy giờ, đức Như Lai nhiếp thu trở lại thần lực, các đức Phật và tòa ngồi đều biến mất, tất cả chúng hội chỉ thấy một đức Phật. Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ tát Kiên Ý rằng :

– Tam muội Thủ Lăng Nghiêm chẳng phải là việc có thể được của Bồ tát sơ địa, nhị địa, tam địa, tứ địa, ngũ địa, lục địa, thất địa, bát địa, cửu địa mà chỉ có Bồ tát trụ ở Thập địa mới có thể được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó. Những gì là tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó ? Đó là :

1- Sửa trị lòng giống như hư không.

2- Quan sát các lòng của chúng sinh hiện tại.

3- Phân biệt các căn lợi, độn của chúng sinh.

4- Quyết định rõ biết nhân quả của chúng sinh.

5- Ở trong các nghiệp không nghiệp báo.

6- Vào đủ thứ lạc dục, vào rồi chẳng quên.

7- Hiện biết không lường đủ thứ các tính.

8- Thường có thể du hí hoa âm tam muội, có thể thị hiện cho chúng sinh tam muội Kim Cương Tâm, tất cả thiền định tự tại tùy ý.

9- Quan sát khắp tất cả chỗ đến các đường.

10- Với trí tục mạng được không gì ngăn ngại.

11- Thiên nhãn không ngăn.

12- Được trí Lậu Tận chẳng phải lúc chẳng chứng.

13- Đối với Sắc, Vô sắc được trí Đẳng nhập.

14- Đối với tất cả sắc thị hiện du hí.

15- Biết các âm thanh giống như tướng của tiếng vang.

16- Thuận vào niệm tuệ.

17- Có thể dùng lời nói khéo làm vui chúng sinh.

18- Theo ứng nói pháp.

19- Biết thời, phi thời.

20- Có thể chuyển các căn.

21- Nói pháp chẳng trống rỗng.

22- Thuận vào chân tế.

23- Có thể khéo léo nhiếp phục các loài chúng sinh.

24- Có thể đầy đủ hết các Balamật.

25- Uy nghi tiến, dừng chưa từng có khác.

26- Phá các nghĩ tưởng hư dối phân biệt.

27- Chẳng hoại pháp tính đến tận bờ cõi ấy.

28- Cùng một lúc hiện thân trụ ở tất cả chỗ của chư Phật.

29- Có thể thọ trì lời nói pháp của tất cả Phật.

30- Ở trong khắp tất cả các thế gian tự tại biến thân giống như bóng (ảnh) hiện.

31- Giỏi nói các thừa độ thoát chúng sinh, thường có thể hộ trì Tam Bảo chẳng dứt.

32- Phát Đại trang nghiêm đến tận đời vị lai mà lòng chưa từng có ý tưởng mệt mỏi.

33- Ở khắp tất cả các chỗ sinh ra thường có thể hiện thân tùy lúc chẳng dứt.

34- Ở những nơi sinh ra thị hiện có sở tác.

35- Có thể giỏi thành tựu tất cả chúng sinh.

36- Có thể giỏi hiểu biết tất cả chúng sinh.

37- Tất cả hàng Nhị thừa chẳng thể đo lường.

38- Có thể giỏi biết đủ các phần âm thanh.

39- Có thể khiến tất cả các pháp xí thạnh.

40- Có thể khiến cho một kiếp trở thành A-tăng-kỳ kiếp.

41- Atăngkỳ kiếp khiến trở thành một kiếp.

42- Có thể khiến cho một nước vào A-tăng-kỳ nước.

43- A-tăng-kỳ nước khiến vào một nước.

44- Vô lượng nước Phật vào một lỗ chân lông.

45- Tất cả chúng sinh thị hiện vào một thân.

46- Rõ các cõi Phật đồng như hư không.

47- Thân có thể đến khắp không còn cõi Phật nào.

48- Khiến cho tất cả thân vào với pháp tánh đều khiến không thân.

49- Tất cả pháp tính thông đạt vô tướng.

50- Có thể giỏi biết tất cả phương tiện.

51- Một tiếng nói ra có thể thông đạt hết tất cả pháp tính.

52- Diễn nói một câu có thể đến vô lượng A-tăng-kỳ kiếp.

53- Giỏi quan sát tất cả pháp môn sai biệt.

54- Biết tốt đồng dị, sơ lược hay rộng rãi để nói pháp.

55- Giỏi biết ra khỏi tất cả ma đạo.

56- Phóng ra ánh sáng trí tuệ phương tiện.

57- Nghiệp thân, miệng, ý lấy trí tuệ làm đầu.

58- Thần thông vô hành luôn hiện ở trước.

59- Dùng bốn vô ngại trí có thể khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỉ.

60- Hiện sức thần thông, thông suốt tất cả pháp tính.

61- Có thể dùng nhiếp pháp nhiếp lấy hết chúng sinh.

62- Giải các ngôn ngữ của chúng sinh ở thế gian.

63- Đối với pháp như huyễn không có chỗ nghi ngờ.

64- Khắp tất cả chỗ sinh ra có thể tự tại.

65- Vật cần dùng theo ý mình không thiếu thốn.

66- Tự tại thị hiện tất cả chúng sinh.

67- Đối với kẻ thiện hay ác đều đồng phước điền.

68- Được vào pháp bí mật của tất cả Bồ tát.

69- Thường phóng ánh sáng soi không còn thế giới nào.

70- Trí ấy sâu xa không người nào có thể đo.

71- Tâm ấy giống như đất nước lửa gió.

72- Giỏi đối với chương cú ngôn từ của các pháp mà chuyển bánh xe pháp.

73- Đối với địa vị Như Lai không có gì ngăn ngại.

74- Tự nhiên mà được pháp nhẫn vô sinh.

75- Được lòng như thật, các bẩn phiền não chẳng thể làm ô nhiễm.

76- Khiến cho tất cả nước vào một lỗ chân lông mà chẳng nhiễu hại tính của nước.

77- Tu tập không lường căn lành phước đức.

78- Khéo biết tất cả phương tiện hồi hướng.

79- Giỏi có thể biến hóa tu hành hết tất cả các hạnh Bồ tát.

80- Tất cả pháp của Phật lòng được yên ổn.

81- Đã được lìa bỏ thân nghiệp đời trước.

82- Có thể vào pháp tạng bí mật của chư Phật.

83- Thị hiện tự do du hí các dục.

84- Nghe vô lượng pháp có thể thọ trì đầy đủ.

85- Cầu tất cả pháp lòng không chán đủ.

86- Thuận các thế pháp mà chẳng nhiễm ô.

87- Ở vô lượng kiếp vì người nói pháp đều khiến cho họ cho như là từ sáng sớm đến bữa ăn.

88- Thị hiện đủ thứ loại gù lưng, tàn phế, què, thọt, điếc, mù, câm, ngọng để giáo hóa chúng sinh.

89- Hàng trăm ngàn lực sĩ Kim Cương Mật Tích thường theo hộ trì.

90- Tự nhiên có thể xem biết các Phật đạo.

91- Có thể ở trong một niệm thị hiện thọ vô lượng vô số kiếp sống lâu.

92- Thị hiện làm tất cả pháp nghi (thức) nhị thừa mà bên trong chẳng bỏ các hạnh Bồ tát.

93- Tâm ấy giỏi tịch không không có tưởng.

94- Đối với mọi kỹ nhạc thị hiện tự vui thích mà bên trong chẳng bỏ niệm Phật tam muội.

95- Hoặc thấy, hoặc nghe và xúc chạm ở chung thì đều có thể thành tựu vô lượng chúng sinh.

96- Có thể ở từng niệm từng niệm thị hiện thành Phật đạo, tùy theo sự giáo hóa xưa mà khiến cho được giải thoát.

97- Thị hiện vào thai, sơ sinh.

98- Xuất gia, thành tựu Phật đạo.

99- Chuyển bánh xe pháp.

100- Vào đại Diệt độ mà chẳng diệt mãi.

Này Kiên Ý ! Tam muội Thủ Lăng Nghiêm không lường như vậy đều có thể thị hiện tất cả thần lực của Phật, vô lượng chúng sinh đều được nhiêu ích. Này Kiên Ý ! Tam muội Thủ Lăng Nghiêm chẳng dùng một việc, một duyên, một nghĩa mà có thể biết. Tất cả thiền định, tam muội, giải thoát, thần thông như ý, trí tuệ vô ngại đều thu nhiếp ở trong Thủ Lăng Nghiêm. Ví như vũng nước, suối, sông ngòi… các dòng chảy đều vào biển lớn. Như vậy mọi sở hữu thiền định của Bồ tát đều ở tại tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Ví như vua Chuyển Luân Thánh có đại dũng tướng, những bốn thứ binh đều là tùy tùng. Này Kiên Ý ! Như vậy sở hữu tam muội môn, thiền định môn, biện tài môn, giải thoát môn, đàlani môn, thần thông môn, minh giải thoát môn. Các pháp môn đó đều thu nhiếp tại tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Tùy theo có Bồ tát hành tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì tất cả tam muội đều tùy tùng. Này Kiên Ý ! Ví như khi vua Chuyển Luân Thánh đi thì bảy báu đều đi theo. Như vậy, này Kiên Ý ! Thủ Lăng Nghiêm tam muội được tất cả pháp trợ Bồ đề đều tùy tùng. Vậy nên tam muội này tên là Thủ Lăng Nghiêm.

Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :

– Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, chẳng hành động cầu tài mà xử dụng bố thí. Báu vật, đồ ăn thức uống, quần áo, voi ngựa, xe cộ… sở hữu của ba ngàn thế giới và các biển lớn, cung trời, nhân gian, những vật như vậy tự tại thí cho. Đây đều là sự đạt được của công đức xưa, huống là dùng thân lực tạo tác theo ý mình. Đó gọi là quả báo bản sự của Bồ tát trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội Đàn Balamật ! (Bố thí).

Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :

– Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, chẳng lại thọ giới, đối với giới chẳng động. Vì muốn giáo hóa, dẫn đường các chúng sinh nên Bồ tát thị hiện thọ trì giới hạnh, các oai nghi, thị hiện có sự phạm giới, sự diệt trừ tội lỗi mà bên trong luôn không có lỗi khuyết. Vì muốn giáo hóa chúng sinh nên Bồ tát sinh ở Dục giới làm vua Chuyển Luân với các chúng thể nữ cung kính vây quanh, hiện có vợ con, năm dục tự buông thả mà bên trong luôn ở tại thiền định tịnh giới, giỏi thấy rõ lỗi hoạn của ba cõi (hữu). Này Kiên Ý ! Đó gọi là quả báo bản sự của Bồ tát trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội Thi Balamật (trì giới).

Đức Phật bảo ngài Kiên Ý Bồ tát rằng :

– Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm tu hành nhẫn nhục rốt ráo tận cùng. Chúng sinh chẳng sinh mà tu với Nhẫn, các pháp chẳng khởi mà tu với Nhẫn, tâm không hình sắc mà tu với Nhẫn, chẳng được bĩ ngã mà tu với Nhẫn, chẳng nghĩ sinh tử mà tu với Nhẫn, dùng tính Niết bàn mà tu với Nhẫn, chẳng hoại pháp tính mà tu với Nhẫn… Bồ tát tu hành nhẫn nhục như vậy mà không có sự tu hành, cũng không gì chẳng tu. Vì giáo hóa chúng sinh nên Bồ tát sinh ra ở Dục giới, thị hiện có sân hận mà bên trong thanh tịnh, hiện hành động xa lìa mà không có gần, xa. Bồ tát vì tịnh chúng sinh hủy hoại oai nghi thế tục mà chưa từng hủy hoại tính của các pháp, hiện có sở nhẫn mà không có pháp, thường định chẳng hoại người khả dĩ nhẫn. Bồ tát thành tựu nhẫn nhục như vậy là đoạn dứt được lòng nhiều sân ác của chúng sinh mà luôn khen ngợi phước của nhẫn nhục, cũng lại chẳng được sân nhuế nhẫn nhục (?). Này Kiên Ý ! Đó gọi là Bồ tát trụ ở quả báo bản sự của Thủ Lăng Nghiêm tam muội sằn đề Balamật (tinh tấn).

Đức Phật bảo ngài Kiên ý rằng :

– Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm phát đại tinh tấn được các thiện pháp mà chẳng dấy động nghiệp thân miệng ý. Bồ tát vì người giải đãi thị hiện làm tinh tấn là muốn khiến cho chúng sinh theo học kết quả của mình mà đối với các pháp không phát khởi, không thọ lấy. Sở dĩ vì sao ? Vì Bồ tát biết hết tất cả các pháp, thường trụ ở pháp tính, chẳng đến chẳng đi. Xa lìa hành động thân, miệng, ý như vậy mà có thể thị hiện phát khởi hành tinh tấn, cũng chẳng thấy pháp có người thành tựu. Bồ tát hiện ở thế gian phát khởi hành tinh tấn mà ở bên trong, bên ngoài, không sở tác gì; thường có thể qua lại vô lượng nước Phật mà đối với thân tướng bình đẳng chẳng động, thị hiện phát khởi hành tất cả pháp lành mà đối với các pháp chẳng được thiện, ác, hiện hành động cầu pháp, có sự hỏi han, thính thọ mà đối với Phật pháp chẳng theo lời dạy khác, hiện hành động gần gũi hòa thượng, các thầy mà được tất cả các trời người tôn trọng, hiện siêng năng thỉnh vấn mà bên trong tự được biện tài không chướng ngại, hiện hành động cung kính mà được tất cả trời người kính ngưỡng, thị hiện vào thai mà đối với các pháp không gì nhiễm ô, hiện có sinh ra mà đối với các pháp chẳng thấy sinh diệt, hiện làm trẻ con mà các căn của thân đều đầy đủ, hiện làm kỹ nghệ, phương thuốc, chú thuật, văn chương, toán số, nghề khéo, việc hay… mà bên trong việc đời trước, đời sau đều thông đạt, hiện có bệnh khổ mà đã vĩnh viễn lìa khỏi hoạn nạn, phiền não, thị hiện già suy kiệt mà ở trước đây, sau này các căn chẳng hoại, thị hiện có chết, mà chưa từng có sinh diệt, lùi, mất. Này Kiên Ý! Đó gọi là Bồ tát trụ ở quả báo bản sự của Thủ Lăng Nghiêm tam muội tinh tấn Balamật.

Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :

– Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm tuy biết các pháp thường chính là định tướng mà bày cho chúng sinh các thiền sai biệt. Bồ tát hiện thân trụ ở thiền để giáo hóa kẻ loạn tâm mà đối với các pháp chẳng thấy có loạn. Tất cả các pháp đúng như tướng của pháp tính, dùng tâm điều phục mà đối với các thiền chẳng động. Bồ tát hiện các uy nghi đi lại ngồi nằm mà thường tịch nhiên ở tại thiền định, thị hiện đồng với mọi người có lời nói mà luôn chẳng bỏ các tướng thiền định, thương xót chúng sinh vào với thành ấp, tụ lạc, quận quốc mà luôn luôn ở tại định, vì muốn nhiêu ích cho các chúng sinh nên thị hiện có ăn uống mà luôn luôn ở tại định. Thân Bồ tát ấy bền chắc như Kim cương, bên trong thật chẳng rỗng, chẳng thể phá hoại, bên trong ấy không có sinh tạng, thực tạng, đại tiện, tiểu tiện, xú uế, bất tịnh. Bồ tát thị hiện có sự ăn uống mà không có gì ăn vào, chỉ vì từ mẫn nhiêu ích chúng sinh. Ở tất cả mọi chỗ không có lỗi hoạn, thị hiện làm hành động của tất cả phàm phu mà thật ra không làm các hành động đã qua. Này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì hiện ở tại chỗ không nhàn hay tụ lạc không khác, hiện ở tại nhà hay xuất gia không khác, hiện làm bạch y mà chẳng buông lung, hiện làm Sa môn mà chẳng tự cao. Bồ tát ở trong các pháp ngoại đạo xuất gia vì hóa độ chúng sinh mà không có sự xuất gia, chẳng bị sự tiêm nhiễm của tất cả tà kiến, cũng không ở trong đó cho là thanh tịnh. Bồ tát hiện làm pháp nghi của tất cả ngoại đạo mà chẳng thuận theo sự hành đạo ấy. Này Kiên ý ! Ví như vị đạo sư đem những người đi qua con đường hiểm nguy rồi quay trở lại độ người khác. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, theo sự phát ý đạo của các chúng sinh hoặc đạo Thanh văn, hoặc đạo Bích Chi Phật, hoặc phát khởi Phật đạo… thì tùy nghi thị hiện dẫn đường khiến cho họ được độ thoát rồi liền quay trở lại độ các chúng sinh khác. Vậy nên Đại Sĩ gọi là Đạo sư. Ví như chiếc thuyền chắc chắn, từ bờ bên này đưa vô lượng người đến bờ bên kia (bờ giải thoát), đến bờ bên kia rồi quay trở lại đưa những người khác. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm thấy các chúng sinh rơi vào nước sinh tử, bị sự cuốn trôi của bốn dòng sông. Vì muốn độ thoát, khiến cho họ được ra khỏi, Bồ tát tùy theo sự gieo trồng thiện căn của họ mà thành tựu cho. Hoặc thấy người có thể dùng Duyên Giác để độ thì liền vì họ hiện thân thị hiện Niết bàn đạo. Hoặc thấy người có thể dùng Thanh văn để độ thì vì họ nói Tịch diệt vào chung Niết bàn. Rồi nhờ sức tam muội Thủ Lăng Nghiêm nên quay trở lại thị hiện sinh ra độ thoát người khác nữa. Vậy nên Đại sĩ gọi là Thuyền Sư. Này Kiên Ý ! Ví như nhà huyễn thuật bậc thầy ở trước nhiều người tự hiện thân chết sình trương thối rữa rồi hoặc bị lửa thiêu đốt hay bị chim thú ăn nuốt. Ở trước mọi người thị hiện thân như vậy, được tài vật rồi, nhà huyễn thuật liền sống lại. Đó là do tài năng giỏi học huyễn thuật của người ấy vậy. Bồ tát như vậy trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, vì hóa độ chúng sinh thị hiện già chết mà thật ra không có sinh già bịnh chết. Này Kiên Ý ! Đó gọi là quả báo bản sự của Thủ Lăng Nghiêm tam muội Thiền Balamật.

Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :

– Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, tu hành trí tuệ, các căn mạnh mẽ sắc bén. Chưa từng thấy có tính chúng sinh mà vì muốn hóa độ chúng sinh nên nói có chúng sinh, chẳng thấy thọ mạng mà nói có thọ mạng, chẳng được nghiệp tính và nghiệp báo tính mà thị hiện chúng sinh có nghiệp và nghiệp báo, chẳng được các tính phiền não sinh tử mà nói sẽ thấy biết phiền não sinh tử, chẳng thấy Niết bàn mà nói đến Niết bàn, chẳng hấy các pháp có tướng sai biệt mà nói các pháp có thiện và bất thiện, đã có thể qua đến bờ kia nhưng hiện sinh ở Dục giới mà chẳng đắm trước Dục giới, hiện hành thiền của Sắc giới mà chẳng chấp trước Sắc giới, hiện vào định Vô sắc mà sinh ra ở Sắc giới, hiện hành thiền Sắc giới mà sinh ra ở Dục giới, hiện ở Dục giới mà chẳng làm hạnh Dục giới… Bồ tát đó biết hết các thiền và biết thành phần của thiền, tự tại đều có thể vào thiền ra thiền, vì giáo hóa chúng sinh mà tùy ý sinh ra, tất cả chỗ sinh ra đều có thể thọ thân, thường có thể thành tựu trí tuệ thâm diệu, đoạn trừ các hạnh của tất cả chúng sinh, vì giáo hóa chúng sinh hiện có sở hạnh mà đối với các pháp thật không sở hành, đều đã ra khỏi tất cả các hành, đã diệt trừ tâm ngã, ngã sở từ lâu mà thị hiện thọ nhận các vật cần dùng. Bồ tát thành tựu trí tuệ như vậy, có gì tạo tác thi hành đều theo trí tuệ mà chưa từng bị sự ô nhiễm của nghiệp quả. Bồ tát vì hóa độ chúng sinh thị hiện câm ngọng mà bên trong thật có phạm âm vi diệu, thông đạt hết bờ kia ngôn ngữ Kinh thư. Bồ tát chẳng cần suy nghĩ trước sẽ nói pháp gì mà tùy theo mọi người đến, lời nói đều vi diệu, đều có thể khiến lòng vui mừng của họ được kiên cố. Bồ tát tùy theo sự thích ứng của họ mà vì họ nói pháp mà trí tuệ Bồ tát đó chẳng giảm. Này Kiên Ý ! Ví như con trai, con gái hoặc lớn hoặc nhỏ tùy theo đồ đựng mang theo đi đến chỗ có nước như suối như ao sông ngòi biển lớn, rồi tùy theo đồ đựng lớn, nhỏ đều lấy đầy nước đem về mà lượng nước này không chỗ giảm thiểu. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, tùy theo thành phần chúng đến, hoặc chúng Sát lợi hoặc chúng Bàlamôn hoặc chúng cư sĩ, chúng Đế thích, chúng Phạm vương… đến với các chúng đó chẳng cần gia thêm tâm lực, có thể dùng lời nói khéo đều khiến cho chúng vui mừng, tùy theo sự thích ứng mà vì họ nói pháp, nhưng trí tuệ biện tài ấy không chỗ giảm thiểu. Này Kiên Ý ! Đó gọi là quả báo bản sự của Thủ Lăng Nghiêm tam muội Bát nhã Balamật.

Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :

– Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, chúng sinh thấy đều được độ thoát. Có người nghe danh tự, có người thấy uy nghi, có người nghe nói pháp, có người thấy mặc nhiên thì họ đều được độ thoát. Này Kiên Ý ! Ví như vua cây thuốc lớn tên là Hi Kiến mà có người nhìn thấy thì bệnh đều được lành. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm mà chúng sinh nhìn thấy thì bệnh tham sân si đều được trừ lành. Như vua thuốc lớn tên là Diệt Trừ. Nếu khi chiến đấu dùng thuốc ấy bôi lên trống thì những người bị tên bắn, đao, xà mâu làm bị thương, được nghe tiếng trống, trừ hết độc của tên. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, có người nghe tên thì mũi tên tham sân si tự nhiên bật ra, các độc tà kiến đều bị diệt trừ hết, tất cả phiền não chẳng phát động nữa. Này Kiên Ý ! Ví như cây thuốc tên là Cụ túc mà có người dùng rễ thì bệnh được trừ lành; dùng thân, đốt, lõi, da, cành, lá, hoa, quả đều có thể chữa lành bệnh; hoặc dùng sống, hoặc khô, hoặc cắt từng đoạn từng đoạn đều có thể chữa lành các bệnh của chúng sinh. Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm cũng lại như vậy. Đối với các chúng sinh không lúc nào chẳng ích lợi, thường có thể diệt trừ mọi hoạn nạn. Đó là Bồ tát dùng việc nói pháp kiêm thêm hành bốn nhiếp pháp, các Balamật khiến cho mọi người được độ thoát. Con người hoặc cúng dường, hoặc chẳng cúng dường, có ích, không ích nhưng mà Bồ tát đó dùng pháp lợi khiến cho họ được yên ổn. Cho đến thân chết có loài ăn thịt như các loài súc sinh hai chân, bốn chân và các chim, thú, người cùng chẳng phải người. Các chúng sinh đó đều do nguyện lực của giới Bồ tát nên chết được sinh lên cõi trời, thường không các hoạn nạn đau bệnh, suy nhược, phiền não. Này Kiên Ý ! Trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, Bồ tát giống như cây thuốc.

Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :

– Bồ tát trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội sáu Balamật thì đời đời tự biết chẳng theo học người khác. Nhấc chân hạ chân, hít vào, thở ra, từng niệm từng niệm luôn luôn có sáu Balamật. Vì sao vậy ? Này Kiên Ý ! Vì Bồ tát như vậy thì thân đều chính là pháp hạnh, đều chính là pháp. Này Kiên Ý ! Ví như có vị vua hoặc các đại thần đem trăm ngàn thứ hương thơm nghiền chung thành bột. Nếu có người đến tìm trong thứ bột đó một thứ hương không pha tạp các hương khác, này Kiên Ý ! Như vậy trong bột hương trăm ngàn thứ đó có thể tìm được một thứ hương chẳng pha tạp mùi hương khác chăng ?

– Thưa đức Thế Tôn ! Chẳng thể được vậy !

– Này Kiên Ý ! Bồ tát đó dùng tất cả hương Balamật xông ướt thân tâm nên ở trong từng niệm từng niệm phát sinh sáu Balamật. Này Kiên Ý ! Sao gọi là Bồ tát ở trong từng niệm từng niệm phát sinh sáu Balamật ? Này Kiên Ý ! Bồ tát đó, tất cả đều xả bỏ, lòng không tham trước, đó là Đàn Balamật. Lòng giỏi tịch diệt rốt ráo không ác, đó là Thi Balamật, biết tận tướng của tâm, ở trong các trần mà không bị tổn thương, đó là Sằn đề Balamật (nhẫn nhục). Siêng quan sát chọn lựa tâm, biết tâm lìa khỏi tướng, đó là Tỳ lê gia Balamật (tinh tấn). Giỏi tịch tịnh điều phục tâm ấy rốt ráo, đó là Thiền Balamật. Quan sát tâm, biết tâm, thông đạt tướng của tâm, đó là Bát nhã Balamật. Này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở pháp môn Thủ Lăng Nghiêm tam muội như vậy thì từng niệm từng niệm đều có sáu Balamật.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Thật chưa từng có vậy ! Bồ tát thành tựu Thủ Lăng Nghiêm tam muội thì sự thi hành của Bồ tát ấy chẳng thể nghĩ bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu các Bồ tát muốn tu hành Phật hạnh thì phải học tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Vì sao vậy ? Thưa đức Thế Tôn ! Vì Bồ tát đó thị hiện làm tất cả các hạnh phàm phu mà ở trong lòng Bồ tát ấy không tham sân si.

Lúc này, trong chúng có vị Đại Phạm vương tên là Thành Từ bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu Bồ tát muốn làm tất cả các hạnh phàm phu thì phải học tam muội Thủ Lăng Nghiêm ! Vì sao vậy ? Vì Bồ tát đó thị hiện làm tất cả các hạnh phàm phu mà lòng không có tham sân si.

Đức Phật dạy rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này Thành Từ ! Đúng như lời nói của ông ! Nếu Bồ tát muốn làm tất cả các hạnh phàm phu thì phải học tam muội Thủ Lăng Nghiêm, chẳng nghĩ đến tất cả các sở học vậy !

Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Bồ tát muốn học tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì phải học thế nào ?

Đức Phật dạy rằng :

– Này Kiên Ý ! Ví như học bắn thì trước hết bắn cái chuẩn lớn. Bắn chuẩn lớn được rồi học bắn cái chuẩn nhỏ. Bắn chuẩn nhỏ được rồi tiếp theo học bắn đích. Học bắn đích rồi tiếp theo học bắn cây gậy. Học bắn cây gậy rồi thì học bắn một trăm sợi lông. Học bắn một trăm sợi lông rồi thì học bắn mười sợi lông. Bắn được mười sợi lông rồi thì học bắn một sợi lông. Bắn được một sợi lông rồi thì học bắn một phần trăm sợi lông. Người có khả năng bắn vậy rồi thì gọi là thiện xạ, theo ý chẳng rỗng không. Người đó nếu muốn bắn ở trong đêm tối, nghe được âm thanh hoặc người hay chẳng phải người, chẳng cần dùng tâm lực mà bắn thì đều trúng cả. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát muốn học tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì trước hết phải học tâm ái lạc. Học tâm ái lạc rồi phải học thâm tâm. Học thâm tâm rồi phải học đại từ. Học đại từ rồi phải học Đại bi. Học Đại bi rồi phải học bốn phạm hạnh của bậc Thánh là từ bi hỷ xả. Học bốn phạm hạnh Thánh rồi phải học được ngũ thông tối thượng luôn tự theo thân. Học ngũ thông đó rồi thì lúc bấy giờ liền có thể thành tựu sáu Balamật. Thành tựu sáu balamật rồi liền có thể thông đạt phương tiện. Thông đạt phương tiện rồi thì được trụ ở đệ tam Nhu thuận nhẫn. Trụ ở đệ tam Nhu thuận nhẫn rồi thì được pháp Nhẫn Vô Sinh. Được pháp nhẫn Vô Sinh rồi thì các đức Phật trao ký (thọ ký). Các đức Phật thọ ký rồi thì có thể vào đệ bát địa Bồ tát.Vào đệ bát địa Bồ tát rồi thì được tam muội Chư Phật Hiện Tiền. Được tam muội Chư Phật Hiện Tiền rồi thì luôn luôn chẳng lìa khỏi sự nhìn thấy các đức Phật. Luôn luôn chẳng lìa khỏi sự nhìn thấy các đức Phật rồi thì có thể đầy đủ tất cả nhân duyên Phật pháp. Đầy đủ tất cả nhân duyên Phật pháp rồi thì có thể hưng khởi công đức trang nghiêm cõi Phật. Có thể hưng khởi công đức trang nghiêm cõi Phật rồi thì có thể đủ sinh vào gia tộc danh tiếng. Có thể đủ sinh vào gia tộc danh tiếng rồi thì vào thai, sinh ra. vào thai sinh ra rồi thì có thể đủ mười địa. Đủ mười địa rồi thì lúc bấy giờ bèn được thọ chức hiệu Phật. Thọ chức hiệu Phật rồi liền được tất cả tam muội Bồ tát. Được tất cả tam muội Bồ tát rồi nhiên hậu mới được tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Được tam muội Thủ Lăng Nghiêm rồi có thể vì chúng sinh thi hành Phật sự mà cũng chẳng xả pháp hạnh Bồ tát. Này Kiên Ý ! Nếu Bồ tát học các pháp như vậy thì được Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Bồ tát đã được tam muội Thủ Lăng Nghiêm rồi thì đối với các pháp không có gì học nữa. Vì sao vậy ? Vì trước đã giỏi học tất cả pháp. Ví như học bắn mà đã có thể bắn một phần trăm sợi lông thì chẳng còn gì để học nữa. Sở dĩ vì sao ? Vì trước đã học hết rồi. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì đối với tất cả pháp không có gì để học nữa, tất cả tam muội, tất cả công đức đều đã học vậy.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con nay muốn nói ví dụ, nguyện xin đức Thế Tôn hứa cho !

Đức Phật dạy rằng :

– Cứ nói đi.

– Thưa đức Thế Tôn ! Ví như vua trời Đại Phạm của ba ngàn đại thiên thế giới thì tự nhiên đều có thể quan sát khắp ba ngàn đại thiên thế giới chẳng cần gia thêm công lực. Như vậy Bồ tát trụ tam muội Thủ Lăng Nghiêm đối với tất cả pháp tự nhiên có thể quan sát chẳng cần dùng công lực, lại có thể biết lòng và sở hạnh trong lòng của tất cả chúng sinh.

Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :

– Đúng như lời nói của ông ! Nếu Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì đều biết hết tất cả các pháp Bồ tát và tất cả pháp của Phật.

Lúc bấy giờ, trong hội có trời Đế Thích tên là Trì Tu Di Đỉnh, ở rốt tại ngoài biên của ba ngàn đại thiên thế giới này, bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ví như đứng trên đỉnh núi Tu Di có thể nhìn thấy hết tất cả thiên hạ. Như vậy Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, đối với hạnh của Thanh văn, Bích Chi Phật và tất cả các hạnh của chúng sinh, tự nhiên có thể nhìn thấy.

Lúc bấy giờ, ngài Kiên Ý Bồ tát hỏi ngài Đế thích Trì Tu Di Đỉnh này rằng :

– Ngài từ bốn thiên hạ nào đến ? Ngài trụ ở đỉnh núi Tu Di nào ?

Ngài Đế Thích đó đáp lại rằng :

– Thưa thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì chẳng nên hỏi chỗ sở trụ ấy. Sở dĩ vì sao ? Vì như Bồ tát này thì tất cả nước Phật đều chính là trú xứ mà chẳng tham trước trú xứ, chẳng được trú xứ, chẳng thấy trú xứ.

Ngài Kiên Ý hỏi rằng :

– Ngài đã được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó rồi sao ?

Đế Thích đáp rằng :

– Trong tam muội đó chắc là có tướng được, chẳng được nữa sao ?

Ngài Kiên Ý nói rằng :

– Chẳng có vậy !

Ngài Đế Thích nói rằng :

– Thưa thiện nam tử ! Ngài phải biết rằng, Bồ tát hành tam muội đó, ở trong các pháp đều không sở đắc !

Ngài Kiên Ý nói rằng :

– Như sự biện luận của ngài thì nhất định ngài đã được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó rồi !

Ngài Đế thích nói rằng :

– Thưa thiện nam tử ! Tôi chẳng thấy pháp có chỗ trú xứ. Người đối với tất cả pháp không chỗ trụ thì mới được tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Thưa thiện nam tử Trụ ở tam muội đó thì đối với các pháp đều không sở trụ. Nếu không sở trụ tức là không sở thủ. Nếu không sở thủ tức là không sở thuyết.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Kiên Ý Bồ tát rằng :

– Ông có thấy Đế thích Trì Tu Di Đỉnh đó không ?

– Thưa đức Thế Tôn ! Con đã thấy.

– Này Kiên Ý ! Ông Đế thích đó tự nhiên tùy ý có thể được tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Trụ ở tam muội đó thì ở các cung điện Đế thích của ba ngàn đại thiên thế giới này, ông ấy đều có thể hiện thân.

Lúc ấy, ngài Thích Đề Hoàn Nhân của thế gian này bạch đức Phật rằng: – Thưa đức Thế Tôn ! Nếu Đế thích Trì Tu Di Đỉnh có thể hiện thân ở các cung điện Đế Thích, còn con đối với xứ sở của tất cả Đế thích thì vì sao chẳng nhìn thấy ?

Lúc bấy giờ, Đế thích Trì Tu Di Đỉnh nói với ngài Thích Đề Hoàn Nhân rằng :

– Thưa ngài Kiều Thi Ca ! Nếu tôi hôm nay dùng thân thật thị hiện cho ngài thì ngài ở cung điện chẳng vui vẻ nữa. Tôi thường đến cung điện chỗ ở của ngài mà ngài chẳng thấy tôi.

Khi ấy, ngài Thích Đề Hoàn Nhân bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con muốn thấy vị Đại sĩ này thành tựu diệu thân.

Đức Phật dạy rằng : – Này Kiều Thi Ca ! Ông muốn thấy sao ?

– Thưa đức Thế Tôn ! Con nguyện ưa muốn thấy !

Đức Phật nói với Đế thích Trì Tu Di Sơn rằng :

– Này thiện nam tử ! Ông hãy thị hiện cho ông Đế thích này thấy thân chân thật vi diệu của ông !

Vị Đế thích Trì Tu Di Sơn đó liền hiện ra thân chân thật vi diệu. Lúc bấy giờ, trong hội những Đế thích, Phạm vương, Hộ Thế thiên vương, Thanh văn Bồ tát, người chẳng được tam muội Thủ Lăng Nghiêm … thân họ đều biến mất giống như mực tụ lại. Thân của Đế thích Trì Tu Di Sơn như vua núi Tu Di, cao lớn lồng lộng, ánh sáng chiếu ra xa. Khi ấy ánh sáng thân đức Phật bồi thêm lại càng sáng rỡ. Ngài Thích Đề Hoàn Nhân bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Việc chưa từng có vậy ! Hôm nay sắc thân của vị Đại sĩ này thanh tịnh thù diệu khó bì kịp ! Thân của các Đế thích, Phạm Thiên, Hộ thế thiên vương đều biến mất giống như mực tụ lại ! Thưa đức Thế Tôn ! Con ở trên Thiện Diệu Đường Núi Tu Di, mang chuỗi ngọc Ma ni Thích Ca Tỳ Lăng Già. Do ánh sáng của chuỗi ngọc đó mà tất cả thân của thiên chúng đều biết mất. Hôm nay do ánh sáng của vị đại sĩ này thân con lại biến mất, dù con có mang chuỗi ngọc báu cũng không có quang sắc.

Đức Phật bảo ngài Thích Đề Hoàn Nhân rằng :

– Này Kiều Thi Ca ! Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới đầy ngọc ma ni Thích Ca Tỳ Lăng Già mà lại có những ngọc ma ni trời chiếu sáng thì có thể khiến cho ngọc này đều biết mất. Này Kiều Thi Ca ! Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới đầy các ngọc Ma ni trời chiếu sáng mà lại có ngọc Ma ni Kim Cương Minh thì có thể khiến cho ngọc này đều biến mất. Này Kiều Thi Ca ! Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới đầy ngọc ma ni Kim Cương Minh mà lại có các ngọc Ma ni Minh Tập thì có thể khiến cho ngọc này biến mất. Này Kiều Thi Ca ! Ông có thấy ông Đế thích đó mang các ngọc Ma ni Minh Tập không ?

– Thưa đức Thế Tôn ! Con đã thấy ! Chỉ vì ngọc này, ánh sáng của nó mạnh quá, mắt con chẳng chịu nổi.

Đức Phật bảo ngài Kiều Thi Ca :

– Nếu có Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm, hoặc làm Đế thích đều mang chuỗi ngọc Ma ni như vậy.

Lúc bấy giờ, ngài Thích Đề Hoàn Nhân bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có người chẳng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì chẳng được diệu thân thanh tịnh như vậy, cũng lại mất luôn tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó.

Lúc này, thiên tử Cù Vực nói với ngài Thích Đề Hoàn Nhân rằng :

– Những người Thanh văn đã vào pháp vị, tuy lại khen ngợi yêu thích Phật đạo nhưng không thể làm, vì đã ở nơi sinh tử tạo tác sự ngăn cách vậy. Nếu có người đã phát, hoặc hôm nay mới phát, hay ngày mai sẽ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì người ứng hợp yêu thích Phật đạo, có thể được sắc thân thượng diệu như vậy. Ví như có người bẩm sinh bị mù, tuy họ lại khen ngợi yêu thích mặt trời mặt trăng, nhưng kẻ ấy chẳng nhờ ánh sáng mặt trời mặt trăng. Như vậy người Thanh văn vào pháp vị, tuy lại khen ngợi yêu thích Phật pháp mà công đức Phật đối với bản thân không ích. Vậy nên muốn được diệu thân này, người trí tuệ lớn phải phát tâm Bồ đề thì liền được sắc thân thượng diệu như vậy.

Khi thiên tử Cù Vực nói lời nói đó thì một vạn hai ngàn thiên tử phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý hỏi thiên tử Cù Vực rằng :

– Làm công đức gì chuyển được thân nữ nhân ?

Đáp rằng :

– Thưa thiện nam tử Người phát khởi Đại thừa chẳng thấy nam, nữ có khác biệt. Sở dĩ vì sao ? Vì bậc Nhất Thiết Trí thì tâm chẳng trụ ở ba cõi. Vì có phân biệt nên có nam có nữ. Câu hỏi của ngài, làm công đức gì chuyển được thân nữ nhân ? Phụng sự đời trước, tâm Bồ tát không dua nịnh quanh co.

– Sao gọi là lòng không siểm khúc mà phụng sự ?

Đáp rằng :

– Như phụng sự đức Thế Tôn !

– Sao gọi là tâm ấy mà chẳng dua nịnh quanh co (siểm khúc).

Đáp rằng :

– Nghiệp thân theo miệng. Nghiệp miệng theo ý. Đó gọi là lòng nữ nhân không siểm khúc !

Hỏi rằng :

– Sao gọi là chuyển thân nữ nhân ?

Đáp rằng :

– Như thành !

Hỏi rằng :

– Sao gọi là như thành ?

Đáp rằng :

– Như Chuyển !

Hỏi rằng :

– Lời nói này của thiên tử có nghĩa gì ?

Đáp rằng :

– Thưa thiện nam tử ! Tất cả các pháp chẳng thành chẳng chuyển. Các pháp một vị gọi là vị pháp tính. Thưa thiện nam tử ! Tôi tùy theo sở nguyện có thân nữ nhân, hoặc khiến thân tôi được thành nam tử mà đối với thân tướng nữ chẳng hoại chẳng xả. Thưa thiện nam tử ! Vậy nên ông phải biết, là nam là nữ đều là điên đảo. Tất cả các pháp và cùng với điên đảo, rốt cùng đều lìa khỏi hai tướng.

Bồ tát Kiên Ý hỏi thiên tử Cù Vực rằng :

– Ngài đối với tam muội Thủ Lăng Nghiêm biết phần ít thôi sao ?

Đáp rằng :

– Thưa thiện nam tử ! Tôi biết người khác được thân mà tự mình chẳng chứng. Tôi nghĩ đời đã qua, khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tại nhà vua Tịnh Phạn làm Bồ tát. Ngài ở bên trong cung điện giữa đám thể nữ nửa đêm mà vẫn thanh tịnh. Lúc bấy giờ, các Phạm Thiên Vương ở phương Đông nhiều như cát sông Hằng đến, có người hỏi Bồ tát thừa có người hỏi Thanh văn đạo. Đức Bồ tát đều tùy theo điều hỏi mà đáp. Ở trong Phạm chúng có một vị Phạm Vương chẳng giải được hành động phương tiện của Bồ tát mà nói lên rằng : “ Thưa ngài ! Ngài có trí tuệ, giỏi đáp câu hỏi như vậy thì tại sao còn tham ái vương vị, sắc dục ?” Các vị Phạm vương khác biết rõ phương tiện trí tuệ của đức Bồ tát nên nói với vị Phạm vương này rằng : “ Bồ tát chẳng tham vương vị, sắc dục mà vì giáo hóa, thành tựu chúng sinh nên ở tại gia cư hiện làm Bồ tát. Hôm nay ngài ở tha phương thành tựu Phật đạo, chuyển bánh xe diệu pháp !” Vị Phạm vương đó nghe xong, nói rằng : “ Đắc được tam muội gì, có thể tạo tác thần biến tự tại như vậy”. Các Phạm vương khác nói rằng : “ Đó là thế lực của tam muội Thủ Lăng Nghiêm”. Thưa thiện nam tử ! Vào lúc đó, tôi tác khởi ý niệm này : “ Đức Bồ tát trụ ở tam muội mà thần lực cảm ứng thật chưa từng có ở tại ái dục, lãnh đạo việc nước mà có thể chẳng lìa khỏi tam muội như vậy”. Tôi nghe điều này xong thì cung kính bội phần gia tăng, đối với Bồ tát đã phát sinh Thế Tôn tưởng, phát sâu tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện vào đời sau cũng sẽ thành tựu công đức như vậy. Thưa thiện nam tử ! Sự nhìn thấy của tôi một phần ít như vậy. Tôi chỉ biết tam muội Thủ Lăng Nghiêm này sẽ có thế lực công đức không lường chẳng thể nghĩ bàn !

Ngài Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Hy hữu ! Thưa đức Thế Tôn ! Vị thiên tử Cù Vực đó, thân tâm nói lên điều này đều chính là vì đức Như Lai làm thiện tri thức, luôn theo thủ hộ ngài. Thưa đức Thế Tôn ! Thiên tử Cù Vực chẳng bao lâu cũng sẽ trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, được thế lực tự tại thần biến đó, như việc làm hôm nay của đức Thế Tôn không khác.

Ngài Kiên Ý Bồ tát bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay, trong hội này chắc có người được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó chăng ?

– Lúc bấy giờ, trong hội có vị thiên tử tên là Hiện Ý nói với Bồ tát Kiên Ý rằng :

– Ví như người khách buôn vào đến biển lớn mà nói lên rằng : “ Trong biển lớn này có ngọc Ma ni, có thể mang đi chăng ?”. Lời nói của ngài giống lời đó. Sở dĩ vì sao ? Vì hôm nay tại hải hội đại trí của Như Lai mà trong ấy Bồ tát thành tựu pháp bảo, phát khởi đại trang nghiêm. Ngài ngồi trong hội ấy mà đặt vấn đề : Ở trong hội này chắc có Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó chăng ? Thưa ngài Kiên Ý ! Hôm nay trong hội này tự có Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm hiện thân Đế thích. Có Bồ tát hiện thân Phạm vương. Có Bồ tát hiện thân các trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, atula, Calâula, Khẩnnala, Mahầulagià. Có Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Có Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm dùng các tướng tốt mà tự trang nghiêm thân. Có Bồ tát vì hóa độ chúng sinh tự hiện làm tướng mạo hình sắc thân nữ. Có Bồ tát hiện tướng mạo hình sắc Thanh văn. Có Bồ tát hiện tướng mạo hình sắc Bích Chi Phật. Thưa ngài Kiên Ý ! Đức Như Lai tự tại tùy theo chúng ngài đến, hoặc chúng Sát lợi, chúng bàlamôn, hoặc chúng Cư sĩ, chúng Đế thích, chúng Phạm vương, các chúng Hộ Thế…. tùy theo các chúng đó đều có thể thị hiện tướng mạo hình sắc. Ngài phải biết đều chính là quả báo bản sự của tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Thưa ngài Kiên Ý ! Nếu thấy chỗ nói pháp của đức Như Lai thì ông phải biết trong chỗ này có vô lượng những vị đại Bồ tát, những bậc Đại trí tự tại phát khởi đại trang nghiêm, đối với tất cả pháp hành động tự tại, những bậc có thể theo đức Như Lai chuyển bánh xe pháp.

Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con hôm nay cho rằng thiên tử Hiện Ý đó được tam muội Thủ Lăng Nghiêm này đúng như trí tuệ biện tài, thần thông vô ngại như vậy của vị ấy.

Đức Phật dạy rằng :

– Đúng như lời nói của ông ! Thiên tử Hiện Ý đó đã trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, thông đạt tam muội đó nên có thể nói lời nói đó.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo thiên tử Hiện Ý rằng :

– Ông có thể thị hiện một phần nhỏ bản sự của tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó !

Thiên tử Hiện Ý nói với ngài Kiên Ý rằng :

– Ngài muốn thấy chút ít thế lực của tam muội Thủ Lăng Nghiêm chăng ?

Đáp rằng :

– Thưa thiên tử ! Tôi nguyện ưa muốn thấy !

Thiên tử Hiện Ý giỏi được thế lực của tam muội Thủ Lăng Nghiêm nên liền hiện lên biến ứng khiến cho chúng hội đều trở thành Chuyển Luân Thánh Vương với ba mươi hai tướng tốt tự trang nghiêm và các quyến thuộc bảy báu theo hầu. Thiên tử nói rằng :

– Ngài thấy những gì ?

– Ngài Kiên Ý đáp rằng :

– Tôi thấy chúng hội đều làm sắc tướng của Chuyển Luân Thánh Vương với quyến thuộc bảy báu theo hầu.

Lúc bấy giờ, thiên tử lại thị hiện chúng hội đều làm Thích Đề Hoàn Nhân ở cung trời Đao Lợi với trăm ngàn thiên nữ tấu lên mọi thứ kỹ nhạc, vây quanh vui sướng. Thiên tử lại dùng thần lực khiến cho khắp chúng hội đều trở thành uy nghi sắc tướng Phạm vương ở tại cung phạm tu hành bốn vô lượng. Thiên tử lại hỏi ngài Kiên Ý :

– Ngài thấy những gì ?

Đáp rằng :

– Thưa thiên tử ! Tôi thấy chúng hội đều chính là Phạm vương !

Lại thị hiện thần lực, thiên tử khiến cho khắp chúng hội đều trở thành tướng mạo hình sắc của trưởng lão Đại Ca Diếp nắm giữ y bát vào các thiền định, tu hành tám giải thoát đều không có khác. Thiên tử lại hiện thần lực khiến cho khắp đại chúng đều như uy nghi tướng tốt của thân Phật Thích Ca Mâu Ni, đều có Tỳ kheo quyến thuộc vây quanh. Thiên tử lại hỏi ngài Kiên Ý rằng :

– Ngài thấy những gì ?

Đáp rằng :

– Thưa thiên tử ! Tôi thấy đại chúng đều là uy nghi tướng tốt của thân Phật Thích Ca Mâu Ni, đều có Tỳ kheo quyến thuộc vây quanh.

Thiên tử Hiện Ý nói với ngài Kiên Ý rằng :

– Đó là thế lực tự tại của tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Như vậy thưa ngài Kiên Ý ! Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì có thể đem ba ngàn đại thiên thế giới vào trong hạt cải, khiến cho các núi sông, mặt trời, mặt trăng, tinh tú đều hiện ra như cũ mà chẳng dồn ép các chúng sinh. Thưa ngài Kiên Ý ! Tam muội Thủ Lăng Nghiêm chẳng thể nghĩ bàn thế lực như vậy đó !

Lúc bấy giờ, các đại đệ tử và những trời, rồng, dạ xoa, Càn thát bà, Đế thích, Phạm Vương, Hộ Thế thiên vương, đồng thanh bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có người được tam muội Thủ Lăng Nghiêm này thì công đức người đó chẳng thể nghĩ bàn. Sở dĩ vì sao ? Vì người đó tức là Phật đạo cứu cánh, thành tựu trí tuệ, thần thông, các minh. Ngày hôm nay chúng con ở trên một tòa ngồi, thấy khắp chúng hội đủ thứ sắc tướng, ngần ấy biến hiện. Chúng con suy nghĩ rằng, nếu người chẳng được nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì phải biết đó là ma đã được tiện nghi. Nếu người được nghe thì phải biết người đó được sự ủng hộ của các đức Phật. Huống gì là kẻ nghe rồi theo đúng lời nói mà tu hành ? Thưa đức Thế Tôn ! Bồ tát nếu muốn thông đạt Phật pháp, đến bờ kia thì phải một lòng nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm, thọ trì, đọc tụng, vì người khác giảng nói. Thưa đức Thế Tôn ! Bồ tát nếu muốn khắp hiện tất cả hình sắc uy nghi, muốn biết khắp hết lòng và sở hạnh trong lòng của tất cả chúng sinh, lại muốn biết khắp tất cả chúng sinh để tùy bệnh mà cho thuốc thì phải giỏi nghe pháp bảo tam muội đó mà thọ trì, đọc tụng. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu người được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó thì phải biết là người đó đã vào trí tuệ tự tại của cảnh giới Phật.

Đức Phật dạy rằng :

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Đúng như lời nói của các ông ! Nếu người chẳng được tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì chẳng được gọi là Thâm Hạnh Bồ tát. Như Lai chẳng cho là người này đầy đủ Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Vậy nên các ông muốn tu hành cùng khắp tất cả đạo thì phải học được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó, chẳng nghĩ đến tất cả các sở học vậy.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý hỏi thiên tử Hiện Ý rằng :

– Bồ tát, nếu muốn được tam muội đó thì phải tu hành pháp gì ?

Thiên tử đáp rằng :

– Bồ tát nếu muốn được tam muội đó thì phải tu hành pháp phàm phu.Nếu thấy pháp phàm phu, pháp Phật chẳng hợp chẳng tan thì đó gọi là tu tập tam muội Thủ Lăng Nghiêm.

Ngài Kiên Ý hỏi rằng :

– Ở trong pháp Phật có hợp tan sao ?

Thiên tử đáp rằng :

– Trong pháp phàm phu còn không hợp tan huống là pháp Phật. Sao gọi là tu hành ? – Nếu có thể thông đạt các pháp phàm phu, pháp Phật không hai thì đó gọi tu tập mà thật ra pháp này không hợp không tan. Thưa thiện nam tử ! Tất cả các pháp gom lại (tập) tướng vô sinh. Tất cả các pháp gom lại tướng vô hoại. Tất cả các pháp gom lại tướng hư không. Tất cả các pháp gom lại tướng vô thọ (nhận).

Ngài Kiên Ý lại hỏi :

– Tam muội Thủ Lăng Nghiêm đi đến chỗ nào ?

Thiên tử đáp rằng :

– Tam muội Thủ Lăng Nghiêm đi đến tâm hành của tất cả chúng sinh mà cũng chẳng duyên tướng thủ của tâm hành, đi đến tất cả các chỗ sinh mà cũng chẳng bị sự nhiễm bẩn của chỗ sinh, đi đến chỗ Phật của tất cả thế giới mà chẳng phân biệt tướng tốt của thân Phật, đi đến tất cả âm thanh ngôn ngữ mà chẳng phân biệt các tướng văn tự. Tam muội Thủ Lăng Nghiêm có thể khai thị khắp tất cả Phật pháp mà chẳng đến với chỗ hết rốt ráo. Thưa thiện nam tử ! Ngài hỏi tam muội đó đến chỗ nào ? Tùy theo chỗ đến của Phật. Tam muội đó thì cũng đến như vậy.

Ngài Kiên Ý hỏi rằng :

– Đức Phật đến chỗ nào ?

Thiên tử đáp rằng :

– Đức Phật “Như Như” nên đến không chỗ đến !

Lại hỏi :

– Đức Phật chẳng đến Niết bàn sao ?

Đáp rằng :

– Tất cả các pháp rốt cùng Niết bàn. Vậy nên Như Lai chẳng đến Niết bàn. Sở dĩ vì sao ? Vì tính Niết bàn nên chẳng đến Niết bàn.

Lại hỏi :

– Hằng hà sa số những đức Phật đời quá khứ chẳng đến Niết bàn sao ?

Đáp rằng :

– Hằng sa những đức Phật có sinh như vậy sao !

Ngài Kiên Ý nói rằng :

– Đức Như Lai đã nói, hằng sa những đức Phật sinh đã diệt độ !

Thiên tử nói rằng :

– Này thiện nam tử ! Đức Như Lai chẳng nói rằng, một người ra đời đem lại nhiều sự nhiêu ích an lạc cho chúng sinh. Ý ngài thế nào ? Theo đức Như Lai là nhất định được những chúng sinh có sinh diệt sao ?

Đáp rằng :

– Thưa thiên tử ! Đức Như Lai đối với pháp chẳng được sinh diệt. Thưa thiện nam tử ! Ngài phải biết rằng, đức Như Lai tuy nói các đức Phật xuất hiện ở thế gian nhưng đối với tướng Như Lai thật ra là vô sinh. Đức Như Lai tuy nói các đức Phật đến với Niết bàn, nhưng đối với tướng Như Lai thật ra là vô diệt.

Lại hỏi :

– Nay hiện vô lượng đức Như Lai được thành đạo chăng ?

Đáp rằng :

– Như Lai, tướng không sinh, không diệt như vậy mà thành đạo. Thưa thiện nam tử ! Các đức Phật, hoặc ra đời, hoặc vào Niết bàn đều không có khác. Sở dĩ vì sao ? Vì Như Lai thông đạt tất cả các pháp chính là tướng tịch diệt. Đó gọi là Phật.

Lại hỏi :

– Nếu tất cả pháp rốt cùng tịch diệt thì tướng Niết bàn có thể thông đạt sao ?

Đáp rằng :

– Như tất cả pháp rốt cùng tịch diệt thì đồng với tướng Niết bàn. Tướng thông đạt cũng lại như vậy. Thưa thiện nam tử ! Như Lai chẳng do sinh, trụ, diệt mà ra. Không sinh, trụ, diệt thì đó gọi là Phật xuất hiện.

Ngài Kiên Ý hỏi rằng :

– Ngài trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì có thể nói lời như vậy sao?

Đáp rằng :

– Thưa thiện nam tử ! Ý ngài thế nào ? Đức Như Lai hóa độ người trụ ở trong pháp nào mà có sở thuyết ?

Ngài Kiên Ý đáp rằng :

– Thừa thần lực đức Phật có thể có sở thuyết !

Lại hỏi :

– Đức Phật trụ ở chỗ nào mà tạo tác hóa nhân ?

Đáp rằng :

– Đức Phật trụ ở thần thông “chẳng hai” mà tạo tác hóa nhân.

Thiên tử nói rằng :

– Như Như Lai trụ ở pháp chẳng trụ mà tạo tác hóa nhân. Những hóa nhân cũng trụ ở pháp chẳng trụ mà có sở thuyết.

Ngài Kiên Ý nói rằng :

– Nếu không chỗ trụ thì làm sao có nói ?

Thiên tử nói rằng :

– Như không chỗ trụ thì nói cũng như vậy.

Lại hỏi :

– Sao gọi là Bồ tát đầy đủ biện tài lạc thuyết ?

Đáp rằng :

– Bồ tát chẳng dùng ngã tướng, chẳng dùng bỉ tướng, chẳng dùng pháp tướng mà có sở thuyết. Đó gọi là đầy đủ biện tài Lạc thuyết. Tùy theo lời nói pháp mà tướng văn tự chẳng cùng tận, tướng của pháp cũng chẳng cùng tận. Nói như vậy mà chẳng dùng hai lời nói thì đó gọi là đầy đủ biện tài lạc thuyết. Lại nữa, thưa thiện nam tử ! Nếu Bồ tát chẳng bỏ tướng huyễn của các pháp, đối với âm thanh chẳng bỏ tướng của tướng vang. Đó gọi là đầy đủ biện tài lạc thuyết. Lại như các văn tự, âm thanh, ngôn ngữ không xứ sở, không phương hướng, không trong, không ngoài, không có chỗ trụ, từ mọi duyên mà có. Tất cả các pháp cũng lại như vậy, không xứ sở, không phương hướng, không trong, không ngoài, không chỗ trụ, chẳng phải là quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng được sự biểu hiện của văn tự ngôn từ, bên trong tự thông đạt mà có sở thuyết. Đó gọi là đầy đủ biện tài lạc thuyết. Ví như tiếng vang. Tất cả âm thanh đều tùy theo tướng của tiếng vang mà có sở thuyết.

Ngài Kiên Ý hỏi rằng :

– Tùy nghĩa là sao ?

– Thưa thiện nam tử ! Tùy hư không chính là nghĩa của tùy. Như hư không không chỗ tùy thì tất cả các pháp cũng không chỗ tùy, các pháp không so sánh, không có thí dụ. Nhưng vì người có được nói rằng, có chỗ tùy !

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen thiên tử rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Đúng như lời nói của ông. Bồ tát đối với vấn đề này chẳng nên kinh sợ ! Sở dĩ vì sao ? Vì nếu có chỗ tùy thì chẳng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Thiên tử Hiện Ý đó từ cõi Phật nào đi đến thế gian này ?

Thiên tử nói rằng :

– Ngài hỏi những gì ?

Ngài Kiên Ý đáp rằng :

– Tôi nay muốn làm lễ về phương nào đó mà từ trú xứ ở đó Đại Sĩ du hành đến đây !

Thiên tử nói rằng :

– Nếu tay của người được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó thì chư thiên nhân dân của tất cả thế gian đều nên kính lễ !

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Bồ tát Kiên Ý rằng :

– Thiên tử Hiện Ý này từ thế giới Diệu Hỷ của đức Phật A Súc đi đến đây. Người này ở đó thường nói về tam muội Thủ Lăng Nghiêm . Này Kiên Ý! Tất cả các đức Phật không ai chẳng nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Này Kiên Ý ! Thiên tử Hiện Ý đó ở thế giới Ta Bà này sẽ được thành Phật. Người này muốn đoạn dứt đời năm trược ác này, chọn lấy cõi Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sinh tu tập tăng trưởng Thủ Lăng Nghiêm nên đi đến cõi này.

Ngài Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Nay thiên tử này bao lâu nữa sẽ ở thế giới này được thành Phật đạo ? Hiệu của vị ấy là gì ? Thế giới tên gì ?

Đức Phật dạy rằng :

– Thiên tử đó qua khỏi một ngàn đức Phật của Kiếp Hiền diệt độ rồi, trải sáu mươi hai kiếp không có Phật nữa, khoản giữa thời gian ấy chỉ có trăm ngàn vạn ức Bích Chi Phật ra đời. Chúng sinh trong thời gian ấy được đủ thứ căn lành. Qua khỏi kiếp đó rồi thì thiên tử đó sẽ được thành Phật hiệu là Tịnh Quang Xưng Vương Như Lai. Thế giới ấy tên là Tịnh Kiến. Vào thời đó, đức Như Lai Tịnh Quang Xưng Vương có thể khiến cho lòng chúng sinh được thanh tịnh. Chúng sinh của thế giới đó chẳng bị sự che lấp của tham dục, sân nhuế và ngu si, được niềm tin thanh tịnh của pháp, đều tu hành thiện pháp. Này Kiên Ý ! Đức Phật Tịnh Quang Xưng Vương sống lâu mười tiểu kiếp, dùng ba thừa pháp độ thoát chúng sinh. Trong ấy, vô lượng, vô biên Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm ở trong các pháp được tự tại lực. Lúc ấy ma hoặc dân ma đều tu Đại thừa, bi mẫn chúng sinh. Đất nước của đức Phật ấy không có ba đường ác và các xứ sở hoạn nạn, thanh tịnh trang nghiêm châu Uất Đan Việt, không có những việc ma, lìa khỏi các tà kiến. Sau khi đức Phật diệt độ, pháp trụ ngàn vạn ức năm. Này Kiên Ý ! Thiên tử đó sẽ ở đất nước thanh tịnh như vậy mà thành Phật đạo.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý nói với thiên tử rằng :

– Ngài được lợi lớn ! Đức Như Lai đã trao lời ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho ngài.

Thiên tử đáp rằng :

– Thưa thiện nam tử ! Đối với tất cả pháp, nếu không sở đắc thì đó gọi là lợi lớn. Đối với pháp mà có được (đắc) thì đó gọi là không lợi. Thưa thiện nam tử ! Vậy nên ông phải biết, nếu chẳng được pháp thì đó gọi là lợi lớn.

Khi nói lời pháp đó thì hai vạn năm ngàn thiên tử đã từng ở đời trước gieo trồng mọi gốc đức, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; có một vạn Bồ tát được pháp nhẫn Vô sinh.

***

QUYỂN HẠ

Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Việc chưa từng có vậy ! Hôm nay nói về tam muội Thủ Lăng Nghiêm mà bọn ác ma chẳng đến nhiễu loạn.

Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất rằng :

– Ông có muốn thấy ma suy bại áo não không ?

– Thưa vâng ! Con muốn thấy ! !

Lúc bấy giờ, đức Phật phóng ra ánh sáng của tướng đại nhân từ khoản mày bạch hào. Tất cả chúng hội đều thấy bọn ác ma bị năm ràng buộc chẳng thể tự mở ra. Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất rằng :

– Ông có thấy bọn ác ma bị năm trói buộc không ?

– Thưa vâng ! Con đã thấy ! Bọn ác ma này bị ai trói buộc ?

Đức Phật dạy rằng :

– Đó là sức uy thần của tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Ở tại cõi Phật có thuyết giảng về tam muội Thủ Lăng Nghiêm, trong cõi ấy bọn ác ma muốn dùng tâm ác gây chướng ngại thì tam muội Thủ Lăng Nghiêm cùng với sức uy thần của chư Phật nên các ma ấy đều tự thấy thân bị năm trói buộc. Này Xá Lợi Phất ! Ở tại chỗ ta đã nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì hoặc ta còn hiện tại hay sau khi ta diệt độ, các ma, ma dân và mọi người mang lòng ác ở tại chỗ ấy do sức uy thần của tam muội Thủ Lăng Nghiêm nên chúng đều bị năm trói buộc.

Lúc bấy giờ, trong hội, trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà.v.v… bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con đối với tam muội này lòng không có nghi ngờ, chẳng bị chướng ngại. Chúng con chẳng muốn thân bị năm trói buộc. Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con cung kính tam muội này nên đều sẽ đến hộ trì người nói pháp đó, đối với tam muội đó phát sinh Thế Tôn tưởng.

Đức Phật bảo các trời, rồng, thần rằng :

– Do vậy nên các ông sẽ đối với mười hai “kiến phược” mà được giải thoát. Những gì là mười hai ? – Ngã kiến phược – Chúng sinh kiến phược – Thọ mạng kiến phược – Nhân kiến phược – Đoạn kiến phược – Thường kiến phược – Ngã tác kiến phược – Ngã sở kiến phược – Hữu kiến phược – Vô kiến phược – Bỉ thử kiến phược – Chư pháp kiến phược. Đó là mười hai kiến trói buộc. Các ông phải biết, nếu có chúng sinh ở trong Phật pháp khởi lên lòng sân hận muốn hủy hoại thì đều do trụ ở mười hai kiến trói buộc đó. Nếu người tín giải, thuận theo, chẳng ngược lại đối với mười hai kiến phược này sẽ được giải thoát.

Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Bọn ác ma hôm nay có được nghe nói đến tên của tam muội Thủ Lăng Nghiêm này không ?

Đức Phật dạy rằng :

– Chúng cũng được nghe ! Nhưng do bị trói buộc nên chẳng thể đến được.

Ngài Xá Lợi Phất bạch rằng :

– Sao đức Như Lai chẳng dùng sức uy thần khiến cho bọn ma chẳng nghe nói danh tự của tam muội Thủ Lăng Nghiêm ?

Đức Phật dạy rằng :

– Ông hãy dừng lại ! Chớ nói lời nói này ! Giả sử trong những thế giới nhiều như cát sông Hằng đầy lửa lớn mà người được nghe nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm này thì sẽ từ trong đó qua khỏi. Vì sao vậy ? Vì nếu người chỉ nghe nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm thôi thì ta nói rằng, người này được thiện lợi lớn hơn cả người được tứ thiền, sinh lên bốn cõi Phạm. Này Xá Lợi Phất ! Nếu khiến cho bọn ác ma hôm nay được nghe nói đến danh tự của tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì do cái nhân duyên này chúng sẽ được ra khỏi tất cả việc ma. Nếu do bị trói buộc mà được nghe thì chúng cũng sẽ đối với mười hai kiến phược này mà được giải thoát. Vậy nên, này Xá Lợi Phất ! Người ác tà kiến mắc vào lưới ma mà còn nên nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm này, huống gì kẻ tịnh tâm hoan hỷ muốn nghe.

Lúc bấy giờ, trong chúng hội có một vị Bồ tát tên là Ma Giới Hành Bất Ô bạch đức Phật rằng :

– Kính thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay con sẽ hiện ở trong ma giới, dùng thần lực tự tại làm cho ma được trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm.

Đức Phật dạy :

– Tùy ý ông !

Bồ tát Ma Giới Hành Bất Ô liền ở trong hội bỗng nhiên biến mất. Ngài hiện ra ở Ma cung, nói với ác ma rằng :

– Các ngươi chắc chẳng nghe đức Phật nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm mà vô lượng chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ra khỏi cảnh giới của ngươi. Họ cũng đều sẽ lại độ thoát người khác ra khỏi cảnh giới của ngươi !

Ma liền báo rằng :

– Ta nghe đức Phật nói danh tự tam muội Thủ Lăng Nghiêm nhưng vì bị năm trói buộc nên chẳng thể đến được. Đó là hai, hai tay, hai chân và đầu bị trói buộc.

Lại hỏi ác ma rằng :

– Ai trói buộc ngươi ?

Ma liền đáp rằng :

– Ta vừa dấy lên lòng muốn đến phá hoại nhiễu loạn những người thính thọ tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì liền bị năm trói buộc. Ta vừa nghĩ lại, các đức Phật Bồ tát có uy đức lớn khó có thể phá hoại, nhiễu loạn. Nếu ta đến thì hoặc sẽ tự hủy hoại, chẳng bằng tự trụ ở cung điện này. Ta dấy lên ý nghĩ đó xong thì năm phược liền được giải thoát.

Bồ tát đáp rằng :

– Đúng vậy ! Tất cả phàm phu nhớ tưởng phân biệt, điên đảo chọn lấy tướng vậy nên có trói buộc, động niệm hí luận vậy nên có trói buộc, thấy nghe hiểu biết vậy nên có trói buộc. Thật ra trong vấn đề này không có người trói, kẻ mở. Sở dĩ vì sao ? Vì các pháp không trói buộc, vốn giải thoát. Các pháp không mở vốn không trói. Thường tướng giải thoát không có ngu si. Đức Như Lai dùng pháp môn này để nói pháp. Nếu có chúng sinh được biết ý nghĩa này mà muốn cầu giải thoát, lòng siêng tinh tấn thì đối với các pháp được giải thoát.

Bảy trăm thiên nữ trong ma chúng dùng hoa thơm của trời, bột thơm, hương xoa và các chuỗi ngọc tung lên người Bồ tát Ma Giới Hành Bất Ô mà nói rằng :

– Tôi sẽ khi nào ở cảnh giới ma mà được giải thoát ?

Bồ tát bảo rằng :

– Các ngươi, nếu có thể chẳng hoại sự trói buộc của ma thì được giải thoát. Sao gọi tên là sự trói buộc của ma ? Đó là sáu mươi hai kiến. Nếu người chẳng hoại những kiến này thì tức là đối với sự trói buộc của ma mà được giải thoát.

Thiên nữ lại nói :

– Sao gọi tên là chẳng hoại các kiến mà được giải thoát ?

Đáp rằng :

– Các kiến vốn không chỗ từ đó lại, đi không chỗ đến. Nếu biết tướng của các kiến không đi lại tức là đối với sự trói buộc của ma mà được giải thoát. Các kiến chẳng phải có chẳng phải không, nếu chẳng phân biệt có, không tức là đối với sự trói buộc của ma mà được giải thoát. Nếu không sở kiến thì đó là Chánh kiến. Như vậy Chánh kiến không chánh, không tà. Nếu pháp không chánh, không tà, không tác, không thọ tức là đối với sự trói buộc của ma mà được giải thoát. Các kiến đó chẳng phải trong, chẳng phải ngoài cũng chẳng phải trung gian. Như vậy các kiến cũng lại chẳng niệm thì đối với sự trói buộc của ma mà được giải thoát.

Bảy trăm thiên nữ nghe nói pháp này liền được Thuận nhẫn mà nói lên rằng :

– Chúng tôi cũng sẽ ở trong ma giới tu hành không nhiễm ô, độ thoát tất cả sự trói buộc của ma.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Ma Giới Hành Bất Ô nói với ác ma rằng :

– Các quyến thuộc của ngươi đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ông làm những việc gì ?

Đáp rằng :

– Tôi bị năm trói buộc nên không biết đang làm việc gì.

Bồ tát đáp rằng :

– Ngươi phát Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác sẽ từ sự trói buộc này mà được giải thoát.

Các thiên nữ thương xót ma nên đều nói lên rằng :

– Hãy phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đi ! Chớ đối với sự yên ổn, phát sinh bố úy tưởng ! Chớ ở trong vui mà sinh ra khổ tưởng ! Chớ đối với giải thoát mà sinh ra ý tưởng trói buộc.

Lúc bấy giờ, ác ma sinh lòng dua nịnh quanh co mà nói rằng :

– Nếu ngươi lìa bỏ tâm Bồ đề thì ta sẽ phát tâm !

Các thiên nữ dùng sức phương tiện mà nói với ma rằng :

– Chúng tôi đều đã lìa bỏ tâm này rồi, ông liền có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ! Nếu một Bồ tát phát tâm Bồ đề thì tất cả Bồ tát cũng đồng tâm đó. Sở dĩ vì sao ? Vì tâm không sai biệt, đối với các chúng sinh tâm đều bình đẳng.

Lúc bấy giờ, ác ma nói với Bồ tát Ma Giới Hành Bất Ô rằng :

– Hôm nay tôi sẽ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do căn lành đó khiến cho ta được mở trói.

Nói lời này xong thì ma liền tự thấy thân từ trói buộc đã được cởi mở. Bồ tát Ma Giới Hành Bất Ô dùng thần lực phóng ra ánh sáng lớn, thị hiện thân tịnh diệu, soi chiếu cung ma. Ma tự thấy thân mình không có uy quang giống như mực đen tụ lại. Trong ma chúng, có hai trăm thiên nữ đắm sâu vào dâm dục, thấy thân sắc Bồ tát này đoan chính, khởi lên lòng nhiễm ái, đều nói rằng :

– Người đó, nếu có thể cùng ta tùng sự thì chúng ta đều thuận theo lời dạy bảo của người ấy.

Bồ tát này biết túc duyên của các thiên nữ ứng hợp hóa độ thì tức thời hóa làm hai trăm thiên tử, sắc mạo đoan nghiêm như thân mình không khác. Ngài lại hóa ra hai trăm đài giao lộ báu hơn cả cung quán của ma. Các thiên nữ đó đều tự thấy thân mình ở tại đài báu này. Mỗi mỗi người đều tự cho rằng, mình cùng với Bồ tát này chung nhau vui vẻ. Sở nguyện được thỏa mãn, ý dâm dục dứt, họ đều sinh ra thân tâm yêu kính Bồ tát. Bồ tát tức thời theo sở ứng của họ mà vì họ nói pháp, khiến cho họ đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bồ tát Ma Giới Hành Bất Ô nói với ác ma rằng :

– Ngươi có thể đi đến chỗ đức Phật !

Ma nghĩ rằng, sự trói buộc của ta đã được mở rồi, ta phải đi đến chỗ đức Phật phá hoại, nhiễu loạn nói pháp. Lúc bấy giờ, ác ma với quyến thuộc vây quanh đi đến chỗ đức Phật mà bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ngài chớ nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm này nữa. Sở dĩ vì sao ? Vì nói tam muội đó thì thân con tức thời bị năm trói buộc. Nguyện xin đức Như Lai thay đổi nói việc khác !

Bồ tát Kiên Ý nói với ác ma rằng :

– Ai cởi trói cho ngươi ?

Đáp rằng :

– Bồ tát Ma Giới Hành Bất Ô cởi mở trói buộc cho tôi !

– Ông đã hứa việc gì mà được cởi trói ?

Ma nói rằng :

– Tôi hứa phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Kiên Ý Bồ tát rằng :

– Hôm nay ác ma đó vì mở trói nên phát tâm Bồ đề, chẳng phải là ý thanh tịnh. Như vậy, này Kiên Ý ! Sau năm trăm năm, sau khi ta diệt độ có nhiều Tỳ-kheo vì lợi dưỡng nên phát tâm Bồ đề, chẳng phải là ý thanh tịnh. Này Kiên Ý ! Ông quan sát thế lực của tam muội Thủ Lăng Nghiêm, uy thần của Phật pháp ! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đó dùng tâm khinh hí (lòng đùa cợt coi thường), tâm tham lợi dưỡng, tâm chạy theo người khác để nghe tam muội đó mà phát tâm Bồ đề. Ta đều biết, những tâm này cùng với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã tạo tác được nhân duyên. Huống gì là người nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó mà có thể dùng tâm thanh tịnh phát khởi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ông phải biết người này, ở trong Phật pháp nhất định đã được rốt cùng.

Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay ác ma này nghe nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm được cởi trói nên phát tâm Bồ đề, cũng được đầy đủ nhân duyên Phật pháp sao ?

Đức Phật dạy rằng :

– Đúng như lời nói của ông ! Ác ma do nhân duyên phước đức nhân duyên của tam muội đó và nhân duyên phát tâm Bồ đề nên vào đời vị lai được xả bỏ tất cả việc ma, hành động ma, lòng dua nịnh quanh co của ma và việc suy tàn ưu não của ma. Từ nay về sau dần dần sẽ được sức tam muội Thủ Lăng Nghiêm, thành tựu Phật đạo.

Bồ tát Kiên Ý nói với ác ma rằng :

– Đức Như Lai đã trao lời ký cho ông !

Ma nói rằng :

– Thưa thiện nam tử ! Tôi nay chẳng dùng tâm thanh tịnh phát khởi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì vì sao đức Như Lai trao cho tôi lời ký ? Như đức Phật đã nói rằng, từ tâm có nghiệp, từ nghiệp có quả báo. Tôi từ vô tâm cầu đạo Bồ đề thì đức Như Lai vì sao trao cho tôi lời ký.

Đức Phật muốn đoạn dứt sự nghi ngờ của chúng hội nên bảo ngài Kiên Ý rằng :

– Bồ tát thọ ký phàm có bốn loại. Sao gọi là bốn ? Có loại chưa phát tâm mà trao cho ký. Có loại vừa phát tâm mà trao cho ký. Có loại bí mật trao cho ký. Có loại được Vô sinh pháp nhẫn hiện tiền mới trao cho ký. Đó gọi là bốn. Chỉ có Như Lai có thể biết việc này. Tất cả Thanh văn, Bích Chi Phật chẳng thể biết được. Này Kiên Ý ! Sao gọi là có loại chưa phát tâm mà được trao cho ký ? – Hoặc có chúng sinh qua lại năm đường, hoặc ở địa ngục, hoặc ở súc sinh, hoặc ở ngã quỉ, hoặc ở trên trời, hoặc ở nhân gian mà các căn mãnh mẽ thông lợi ưa thích Đại pháp. Phật biết người đó qua trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ ngần ấy kiếp sẽ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Họ lại ở trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ ngần ấy kiếp, tu hành đạo Bồ tát, cúng dường trăm ngàn vạn ức nadotha ngần ấy đức Phật, giáo hóa trăm ngàn vạn ức không lường ngần ấy chúng sinh khiến trụ ở Bồ đề. Họ lại qua trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ ngần ấy kiếp sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hiệu tự như vầy…, đất nước như vây…, số chúng Thanh văn, thọ mạng như vầy…, sau khi diệt độ pháp trụ một số năm như vầy…

Đức Phật bảo :

– Này Kiên Ý ! Như Lai đều biết rõ những việc này, lại còn hơn thế nữa. Đó gọi là chưa phát tâm mà trao cho lời ký.

Lúc bấy giờ, trưởng lão Đại Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Từ nay về sau, chúng con sẽ đối với tất cả chúng sinh phát sinh Thế Tôn tưởng ! Sở dĩ vì sao ? Vì chúng con không có trí tuệ như vậy thì những chúng sinh nào có căn Bồ tát ? Những chúng sinh nào không có căn Bồ tát ? Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con chẳng biết được những việc như vậy. Hoặc đối với chúng sinh phát sinh lòng khinh mạn tức là tự làm tổn thương mình.

Đức Phật dạy rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này Ca Diếp ! Ông nói lời này hay lắm ! Do việc này nên trong kinh ta nói, con người thì chẳng nên dối xưng lường chúng sinh. Sở dĩ vì sao ? Vì nếu dối xưng lường đối với chúng sinh khác tức là tự làm tổn thương mình. Chỉ có Như Lai ứng hợp xưng lường chúng sinh và cùng bình đẳng. Do nhân duyên đó, nếu các Thanh văn và Bồ tát khác đối với các chúng sinh nên phát sinh Phật tưởng. Vừa phát tâm đã được thọ ký là hoặc tự có người đã lâu gieo trồng gốc đức, tu tập hạnh lành, lòng siêng tinh tấn, các căn dũng mãnh, thông lợi, ưa thích Đại pháp, có lòng Đại bi, khắp vì chúng sinh cầu đạo giải thoát. Người phát tâm đó liền trụ ở Bất thoái chuyển, vào địa vị Bồ tát, định số đọa xong là ra khỏi tám nạn. Những người như vậy, khi vừa phát tâm, các đức Phật liền trao cho ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, danh hiệu như vầy…, đất nước như vầy…, thọ mạng như vầy…Những người như vậy, Như Lai biết lòng mà trao cho ký. Đó gọi là phát tâm liền trao ký. Trao ký bí mật là tự có Bồ tát chưa được thọ ký mà thường tinh tấn siêng năng cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ưa đủ thứ bố thí, ưa Nhất thiết trí, thọ pháp kiên cố, giữ giới chẳng bỏ, phát khởi trang nghiêm sâu sắc, có sức nhẫn lớn, lòng bình đẳng với chúng sinh, siêng tu hành tinh tấn, cầu các pháp lành, thân tâm chẳng lười biếng như cứu lửa cháy đầu, hành niệm yên ổn có thể được tứ thiền, ưa cầu trí tuệ, hành Bồ đề của Phật, đã lâu tu hành Lục độ, có thành tựu tướng Phật. Các Bồ tát khác, trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà.v.v… đều tác khởi ý nghĩ rằng, như Bồ tát này lòng siêng tinh tấn thật là hiếm có, không biết bao lâu sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ? Danh hiệu của vị ấy là gì ? Đất nước tên là gì ? Số chúng Thanh văn nhiều ít ra sao ? Phật vì đoạn dứt sự nghi ngờ của chúng sinh này nên trao cho Bồ tát ấy lời ký khiến cho chúng hội đều nghe biết mà chỉ riêng một mình Bồ tát đó chẳng được nghe biết. Nhờ thần lực của đức Phật nên khiến cho tất cả chúng sinh biết Bồ tát đó sẽ thành Phật, hiệu tự, đất nước như vầy…, số chúng Thanh văn nhiều ít như vầy…Khi sự nghi ngờ của chúng đều giải quyết xong thì họ đối với Bồ tát này phát sinh Thế Tôn tưởng mà Bồ tát đó chẳng thể tự biết là mình được thọ ký hay là chưa được thọ ký. Đó là Bồ tát bí mật được thọ ký. Hiện tiền thọ ký là có Bồ tát tích tập căn lành đã lâu, không gì chẳng thấy được, thường tu phạm hạnh, quán vô ngã, rỗng không, đối với tất cả các pháp được Vô sinh nhẫn. Đức Phật biết người này công đức trí tuệ đều đã đầy đủ thì ngài ở trong đại chúng, tất cả trời, người, ma, phạm chí, Samôn, Bàlamôn… hiện tiền trao lời ký, nói lên rằng : “ Này thiện nam tử ! Ông qua trăm ngàn vạn ức ngần ấy kiếp sẽ được thành Phật, hiệu tự như vầy…, đất nước như vầy…, số chúng Thanh văn như vầy…, thọ mạng như vầy…” Đồng thời vô số người theo hiệu lực của người đó đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Người đó ở trước đức Phật đã được thọ ký rồi thì thân bay bổng lên hư không cao đến bảy cây Đa la. Này Kiên Ý ! Đó gọi là Đệ tứ hiện tiền thọ ký.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Hôm nay trong hội này chắc có Bồ tát do bốn việc này mà được thọ ký chăng ?

Đức Phật đáp rằng :

– Có.

– Thưa đức Thế Tôn ! Là ai ?

Đức Phật nói rằng :

– Con của cư sĩ Lạc Dục, Bồ tát Sư Tử Hống Vương này là chưa phát tâm mà được thọ ký. Như vậy, vô số Bồ tát của những thế giới phương khác cũng chưa phát tâm mà được thọ ký. Lại có Bồ tát Tịch Diệt, Bồ tát Đại Đức Pháp Vương Tử, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử… vô lượng những Bồ tát như vậy.v.v… lúc vừa phát tâm liền được trao cho lời ký, đều trụ ở trong địa vị Bất thoái chuyển. Trong hội này lại có Bồ tát Trí Dũng, Bồ tát Ích Ý… vô lượng những Bồ tát như vậy được bí mật trao cho lời kí. Này Kiên Ý ! Ta và Di Lặc cùng một ngàn vị Bồ tát của Kiếp Hiền đều được pháp nhẫn Vô sinh được Hiện tiền thọ ký.

Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Thật hy hữu ! Thưa Thế Tôn ! Sở hành của Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn, thọ ký cũng chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả Thanh văn, các Bích Chi Phật còn chẳng thể biết huống là chúng sinh khác.

Đức Phật dạy rằng

– Này Kiên Ý ! Sự phát khởi thế lực thần uy tinh tấn của sở hành Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Ma Giới Hành Bất Ô đã giáo hóa thiên nữ khiến cho họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Họ đều dùng hoa trời tung lên trên đức Phật, bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con chẳng ưa bí mật được thọ ký. Chúng con nguyện được pháp nhẫn Vô sinh hiện tiền thọ ký. Nguyện xin đức Thế Tôn hôm nay cho con thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác !

Đức Phật mĩm cười, miệng ngài phát ra đủ thứ ánh sáng màu sắc vi diệu, soi khắp các thế giới, rồi trở lại theo đỉnh đầu mà vào. Ngài Anan bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Vì nhân duyên gì mà ngài cười ?

Đức Phật bảo ngài Anan rằng :

– Hôm nay ông có thấy hai trăm thiên nữ đó chắp tay kính lễ Như Lai không ?

– Thưa đức Thế Tôn ! Con đã thấy !

– Này Anan ! Các thiên nữ đó đã từng ở chỗ của năm trăm đức Phật xưa gieo trồng căn lành. Từ đây về sau họ sẽ lại cúng dường vô số các đức Phật. Qua bảy trăm A-tăng-kỳ kiếp rồi, họ đều được thành Phật hiệu là Tịnh Vương. Này Anan ! Các thiên nữ đó sau khi mạng chung được chuyển thân nữ, đều sẽ sinh lên cõi trời Đâu Suất, cúng dường phụng sự Bồ tát Di Lặc.

Lúc bấy giờ, ác ma nghe các thiên nữ được thọ ký rồi thì bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con nay tự đối với quyến thuộc sở hữu chẳng được tự tại, do họ nghe nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó, huống là người khác nghe. Nếu người được nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì liền được định rốt cùng ở trong Phật pháp.

Lúc ấy, thiên nữ lấy lòng không khiếp sợ nói với ác ma rằng :

– Ông chớ buồn thảm ! Chúng tôi nay chẳng ra khỏi cảnh giới của ông. Sở dĩ vì sao ? Vì ma giới “Như” tức là Phật giới “Như”, Ma giới Như, Phật giới Như chẳng hai, chẳng khác biệt mà chúng tôi chẳng lìa khỏi cái “Như” đó. Tướng Ma giới tức là tướng Phật giới, pháp ma giới, pháp Phật giới chẳng hai, chẳng khác biệt mà chúng tôi đối với pháp, tướng này chẳng ra, chẳng qua. Ma giới không có định pháp có thể bày, Phật giới cũng không có định pháp có thể bày, ma giới, Phật giới chẳng hai, chẳng khác biệt mà chúng tôi đối với pháp tướng này chẳng ra, chẳng qua. Vậy nên ông phải biết là tất cả các pháp không có quyết định. Không quyết định nên không có quyết thuộc, không chẳng phải quyến thuộc.

Lúc bấy giờ, ác ma ưu sầu khổ não muốn trở lại trên cõi trời. Bồ tát Ma Giới Hành Bất Ô nói với ác ma rằng :

– Ông muốn đi đâu ?

Ma đáp rằng :

– Tôi nay muốn trở lại cung điện đã ở.

Bồ tát nói rằng :

– Chẳng rời khỏi chúng này tức chính là cung điện của ông.

Lúc ấy ác ma liền tự thấy thân mình ở tại cung điện của mình. Bồ tát nói rằng :

– Ông thấy những gì ?

Ác ma đáp rằng :

– Tôi tự thấy thân mình ở tại cung điện của mình; vườn rừng, ao đẹp chính là sở hữu của tôi.

Bồ tát nói rằng :

– Nay ông hãy đem dâng lên đức Như Lai !

Ma nói rằng :

– Được vậy !

Ma vừa nói lời nói đó, liền thấy đức Như Lai, Thanh văn Bồ tát, tất cả đại chúng đều ở trong cung điện ấy, nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm.

Lúc bấy giờ, ngài Anan bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Chỗ sở trụ của đức Phật nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm, có bữa ăn bố thí rồi thì đức Phật được thành đạo. Hai thí chủ này, người nào phước nhiều ?

Đức Phật dạy rằng :

– Này Anan ! Bố thí Phật ăn rồi, Phật thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ăn rồi Phật chuyển bánh xe pháp, ăn rồi Phật nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Ba bữa ăn này, phước không có sai khác. Này Anan ! Ta ở chỗ nào được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì ông phải biết, nơi ấy tức là Kim cương. Các đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại đều ở trong chỗ ấy được thành Phật đạo. Tùy theo chỗ sở trụ, nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm ngang bằng không sai khác và chỗ có đọc tụng, chép thành sách cũng lại như vậy. Này Anan ! Bố thí Phật một bữa ăn rồi Phật bắt đầu chuyển pháp luân, hoặc có pháp sư được cho ăn rồi đọc tụng giảng nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm, phước của hai sự bố thí này ngang bằng không có khác. Lại nữa, này Anan ! Phật trụ ở tinh xá, dùng 18 thứ thần thông biến hóa độ thoát chúng sinh. Lại có tinh xá, trong đó người ta đọc tụng giảng nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Phước đức của hai chỗ này chẳng sai khác.

Lúc bấy giờ, ngài Anan nói với ác ma rằng :

– Ông được lợi lớn ! Ông có thể đem cung điện dâng đức Phật và thỉnh ngài trụ !

Ma nói rằng :

– Đó là ân lực của Bồ tát Ma Giới Hành Bất Ô an bài !

Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Bồ tát Ma Giới Hành Bất Ô đó trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, thần lực tự tại, mới được như vậy ư ?

Đức Phật dạy rằng :

– Này Kiên Ý ! Đúng như lời nói của ông ! Hôm nay, Bồ tát này trụ ở tam muội đó, có thể sử dụng thần lực theo ý tự tại thị hiện hành động của tất cả hạnh của ma giới mà có thể chẳng bị sự nhiễm bẩn của ma hạnh. Ông ấy cùng các thiên nữ thị hiện vui vẻ vói nhau mà thật ra chẳng thọ pháp ác dâm dục. Thiện nam tử đó trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, thị hiện vào cung ma mà thân chẳng lìa khỏi Phật hội, hiện hành động ở ma giới, du hí vui vẻ mà dùng Phật pháp để giáo hóa chúng sinh.

Ngài Kiên Ý Bồ tát bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Đức Như Lai trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội đó thì có thể thị hiện bao nhiêu thần lực tự tại ? Hay thay ! Thưa đức Thế Tôn ! Nguyện xin ngài diễn nói cho chúng con chút ít.

Đức Phật dạy rằng :

– Này Kiên Ý ! Ta nay trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm này là ở ba ngàn đại thiên thế giới này, trăm ức bốn thiên hạ, trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức xứ sở bốn vua trời, trăm ức trời Đao Lợi, trăm ức trời Dạ ma, trăm ức trời Đâu suất đà, trăm ức trời Hóa lạc, trăm ức trời Tha Hóa Tự Tại… cho đến trăm ức trời A Ca Ni Sất, trăm ức vua núi Tu di, trăm ức biển lớn. Đó gọi là ba ngàn đại thiên thế giới. Này Kiên Ý ! Ta trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội, ở ba ngàn đại thiên thế giới này, hoặc ở cõi Diêm phù đề hiện làm Bố thí Balamật; hoặc ở cõi Diêm Phù Đề hiện làm Trì giới Balamật; hoặc ở cõi Diêm Phù Đề hiện làm Nhẫn nhục Balamật; hoặc ở cõi Diêm Phù Đề hiện làm Tinh tấn Balamật; hoặc ở cõi Diêm Phù Đề hiện làm Thiền Balamật; hoặc ở cõi Diêm Phù Đề hiện làm Trí tuệ Balamật; hoặc ở cõi Diêm Phù Đề hiện làm Ngũ thông thần tiên; hoặc ở cõi Diêm Phù Đề hiện ở tại nhà; hoặc ở cõi Diêm Phù Đề hiện làm xuất gia. Ta, hoặc ở bốn thiên hạ hiện Nhất sinh bổ xứ ở tại cõi trời Đâu suất; hoặc ở bốn thiên hạ hiện làm Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc làm Thích Đề Hoàn Nhân, hoặc làm Phạm vương, hoặc làm Tứ thiên vương, hoặc làm vua trời Dạ ma, hoặc làm vua trời Đâu Suất Đà, hoặc làm vua trời Hóa Lạc, hoặc làm vua trời Tha Hóa Tự Tại, hoặc hiện làm trưởng giả, hoặc hiện làm cư sĩ, hoặc lại hiện làm tiểu vương, đại vương, hoặc làm Sát lợi, hoặc làm Bàlamôn, hoặc làm Bồ tát … Ta, hoặc ở bốn thiên hạ, muốn từ trời Đâu suất sinh xuống thế gian, hoặc hiện vào thai, hoặc hiện ở trong thai, hoặc hiện muốn sinh ra, hoặc hiện sinh ra rồi đi bảy bước, đưa tay lên tự xưng rằng, trên trời dưới trời chỉ có ta là tôn quí, hoặc hiện ở trong cung cùng với thể nữ, hoặc hiện xuất gia, hoặc hiện khổ hạnh, hoặc hiện chọn lấy cỏ trải chỗ ngồi, hoặc hiện ngồi đạo tràng, hoặc hiện hàng phục ma, hoặc hiện thành Phật, hoặc hiện quan sát thọ vương (vua loài cây), hoặc hiện Đế thích, Phạm vương thỉnh chuyển bánh xe pháp, hoặc hiện chuyển bánh xe pháp, hoặc hiện xả thọ (bỏ thọ mạng, chết), hoặc hiện vào Niết bàn, hoặc hiện đốt cháy thân, hoặc hiện toàn thân xá lợi, hoặc hiện tán thân xá lợi, hoặc hiện pháp muốn diệt, hoặc hiện pháp đã diệt, hoặc hiện thọ mạng không lường, hoặc hiện thọ mạng ngắn ngủi, hoặc hiện đất nước không có tên đường ác, hoặc hiện có các đường ác, hoặc hiện cõi Diêm Phù Đề thanh tịnh trang nghiêm đẹp đẽ như cung điện trời, hoặc hiện cõi ấy tệ ác, hoặc hiện trên, giữa, dưới. Này Kiên Ý ! Đó đều là thần lực tự tại của tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Bồ tát thị hiện vào với Niết bàn nhưng chẳng rốt cùng tịch diệt mà ở ba ngàn đại thiên thế giới, có thể hiện thần lực tự tại như vậy, thị hiện những việc trang nghiêm như vậy. Này Kiên Ý ! Ông hãy quan sát Như Lai, ở bốn thiên hạ này chuyển bánh xe pháp, ở cõi Diêm Phù Đề khác thì chưa thành Phật đạo, hoặc có cõi Diêm Phù Đề thì ta hiện vào Diệt độ. Đó gọi là pháp môn sở nhập của tam muội Thủ Lăng Nghiêm.

Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các trời, rồng, dạ xoa, Càn thát bà.v.v… các Bồ tát đại đệ tử đều nghĩ rằng : “ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ có thể ở ba ngàn đại thiên thế giới này, có thần lực đó hay ở thế giới khác cũng có thần lực đó ?” Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử biết ý của chúng hội, muốn đoạn dứt sự nghi ngờ này nên bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con đã du hành các đất nước Phật, ở trên thế giới này, qua số cõi nhiều bằng sáu mươi lần cát sông Hằng, có thế giới Phật tên là Nhất Đăng Minh, đức Phật ở trong cõi ấy vì người nói pháp. Con đến chỗ ấy đầu mặt làm lễ dưới chân đức Phật mà hỏi rằng : “ Thưa đức Thế Tôn ! Tự hiệu ngài là gì ? Chúng con làm sao phụng trì danh hiệu Phật ?” Đức Phật đó đáp cho con rằng : “ Ông hãy đi đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tự ngài sẽ đáp cho ông !” Thưa đức Thế Tôn ! Công đức trang nghiêm của đất nước đức Phật ấy nói cả một kiếp còn chẳng thể hết,. Hơn thế nữa, đất nước đó không có tên Thanh văn, Bích Chi Phật mà chỉ có các Bồ tát tăng, thường giảng nói pháp luân Bất thoái chuyển. Nguyện xin đức Thế Tôn hãy nói danh hiệu đức Phật đang giảng nói pháp ở cõi Nhất Đăng Minh này !

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử rằng :

– Các ông hãy lắng nghe ! Chớ mang lòng sợ sệt mà sinh tâm nghi hối ! Sở dĩ vì sao ? Vì thần lực của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, thế lực của tam muội Thủ Lăng Nghiêm cũng chẳng thể nghĩ bàn. Này Văn Thù Sư Lợi ! Người giảng nói pháp ở cõi Nhất Đăng Minh đó, Phật hiệu là Thị Nhất Thiết Công Đức Tự Tại Quang Minh Vương. Này Văn Thù Sư Lợi ! Đức Phật Thị Nhất Thiết Công Đức Tự Tại Quang Minh Vương của cõi Nhất Đăng Minh là chính thân ta ở đất nước đó thị hiện thần lực của Phật. Ta ở cõi đó nói pháp luân Bất thoái chuyển. Đó là cõi tu hành thanh tịnh đời trước của ta. Này Văn Thù Sư Lợi ! Nay ông phải biết rằng, ta ở vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức nadotha cõi đều có thần lực mà tất cả Thanh văn Bích Chi Phật chẳng thể biết. Này Văn Thù ! Đây đều là thế lực của Thủ Lăng Nghiêm tam muội đó. Bồ tát thường ở vô lượng thế giới thị hiện thần biến bằng tam muội này mà chẳng động chuyển. Này Văn Thù Sư Lợi ! Ví như mặt trời mặt trăng từ nơi cung điện, ban đầu chẳng di động mà hiện tất cả thành ấp, tụ lạc. Bồ tát như vậy trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, đầu tiên chẳng di động mà có thể ở khắp cùng vô lượng thế giới thị hiện thân mình, tùy sự ưa thích của mọi người mà vì họ nói pháp.

Lúc bấy giờ, chúng hội được việc chưa từng có, đều rất vui mừng nhảy nhót không lường, chắp tay cung kính. Và các trời, rồng, dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Mahầulagià.v.v… dùng hoa trân châu, hoa xen sắc màu vi diệu, bột thơm, hương xoa tung lên trên đức Phật, đều tấu lên kỹ nhạc sở hữu của chư thiên để cúng dường đức Như Lai và các đệ tử. Họ cũng đều cởi thượng y (áo) dâng lên đức Phật và các vị Bồ tát.v.v… Họ dùng hoa diệu sắc lớn như núi Tu di cùng những hương thơm đủ mùi, bột thơm, hương xoa, chuỗi ngọc, trân bảo tung lên trên đức Phật và đều nói lên rằng :

– Kính thưa đức Thế Tôn ! Nếu có xứ sở giảng nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì đất nơi ấy tức là Kim cương. Nếu người được nghe nói tam muội đó mà tín thọ, đọc tụng, vì người diễn nói, chẳng kinh chẳng sợ thì phải biết là người này cũng là Kim cương, thành tựu “nhẫn bất hoại”, trụ sâu ở niềm tin sự hộ trì của chư Phật, gieo trồng thâm hậu căn lành, được đại thiện lợi, hàng phục ma oán địch, đoạn các đường ác, được sự thủ hộ của thiện tri thức. Thưa đức Thế Tôn ! Như con hiểu được ý nghĩa lời nói của đức Phật là nếu có chúng sinh nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó, liền có thể tín thọ, đọc tụng, giải nghĩa, vì người diễn nói, đúng như lời nói tu hành thì phải biết rằng, người đó được trụ ở Phật pháp, nhất định chẳng lùi.

Đức Phật dạy rằng :

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Đúng như lời nói của các ông ! Nếu người chẳng gieo trồng thâm hậu các thiện căn mà nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì chẳng thể tín thọ. Ít có chúng sinh nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm mà có thể tín thọ, có nhiều chúng sinh chẳng có thể tín thọ. Này thiện nam tử ! Con người có bốn pháp nghe tam muội đó có thể tín thọ. Những gì là bốn ?

– Một là từng ở chỗ các đức Phật đời quá khứ nghe tam muội đó.

– Hai là được sự hộ trì của thiện tri thức thâm lạc Phật đạo.

– Ba là căn lành thâm hậu ưa thích Đại pháp.

– Bốn là thân tự được chứng thâm pháp Đại thừa.

Có bốn pháp đó thì có thể tín thọ tam muội đó. Này thiện nam tử ! Lại có người mãn nguyện A la hán và người đầy đủ chánh kiến, người tin tu hành hành chánh kiến. Người đó tin thuận lời nói đức Như Lai nên tin tam muội đó mà thân chẳng chứng. Sở dĩ vì sao ? Vì tam muội đó thì tất cả Thanh văn, Bích Chi Phật chẳng thể thông đạt huống là chúng sinh khác.

Lúc bấy giờ, trưởng lão Đại Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ví như người mù bẩm sinh, trong mơ mắt được nhìn thấy đủ thứ sắc màu, lòng rất vui mừng, liền ở trong mơ cùng người có mắt ở chung cùng chuyện trò. Người đó thức dậy rồi chẳng còn thấy hình sắc nữa. Chúng con cũng vậy. Khi chưa nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm, lòng ôm niềm hoan hỉ cho là được thiên nhãn cùng với các Bồ tát ở chung cùng nói năng bàn luận nghĩa lý. Thưa đức Thế Tôn ! Con nay theo đức Phật nghe tam muội đó chẳng biết việc ấy như người mù bẩm sinh chẳng thể được biết pháp sở hành của các đức Phật, Bồ tát. Chúng con từ nay về sau tự nhìn thấy mình như người sống mù, đối với thâm pháp của đức Phật, không có trí tuệ, chẳng thấy chẳng biết sở hạnh của đức Thế Tôn. Chúng con từ này về sau, biết các Bồ tát thật sự được thiên nhãn thì có thể được những trí tuệ thâm sâu như vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu người không có tâm Nhất thiết trí (Tát bà nhã) thì ai sẽ tự cho rằng ta là người trí, ta là ruộng phước.

Đức Phật dạy rằng :

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Này Ca Diếp ! Đúng như lời nói của ông ! Những trí tuệ thâm sâu sở đắc của Bồ tát, Thanh văn, Bích Chi Phật chẳng thể bì kịp !

Khi Đại Ca Diếp nói lời nói đó thì tám ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử rằng :

– Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Cái gọi là phước điền thì sao gọi là phước điền ?

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói rằng :

– Có mười pháp hạnh gọi là phước điền. Những gì là mười ?

– Trụ ở cửa giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà chẳng vào pháp vị.

– Thấy biết bốn đế mà chẳng chứng đạo quả.

– Tu hành tám giải thoát mà chẳng bỏ hạnh Bồ tát.

– Có thể dấy khởi tam minh mà hành ở ba cõi.

– Có thể hiện uy nghi hình sắc Thanh văn mà chẳng theo âm thanh từ người khác cầu đạo.

– Hiện uy nghi hình sắc Bích Chi Phật mà dùng biện tài vô ngại nói pháp.

– Thường ở tại Thiền định mà có thể hiện làm tất cả các hạnh.

– Chẳng lìa khỏi chánh pháp mà hiện vào tà đạo.

– Tham sân, nhiễm ái mà lìa khỏi tất cả phiền não của các dục.

– Vào đến Niết bàn mà đối với sinh tử chẳng hoại, chẳng bỏ.

Người có mười pháp này thì phải biết người đó là ruộng phước chân thật.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý hỏi ngài Tu Bồ Đề rằng :

– Thưa trưởng lão Tu Bồ Đề ! Đức Thế Tôn nói ngài là đệ nhất phước điền. Ngài có được ở tại mười pháp đó không ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp rằng :

– Tôi đối với pháp đó, một pháp còn không có huống gì có mười ?

Ngài Kiên Ý nói rằng :

– Vì sao ngài được gọi là đệ nhất phước điền ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp rằng :

– Tôi chẳng phải là đệ nhất phước điền ở trong các đức Phật, Bồ tát. Đức Phật nói tôi là đệ nhất phước điền ở trong hàng Thanh văn, Bích Chi Phật. Thưa ngài Kiên Ý ! Ví như vị vua nhỏ ở vùng biên địa cũng gọi là vua. Nếu vua Chuyển Luân Thánh đến vùng biên địa thì các vị tiểu vương đều chẳng gọi là vương. Khi ấy, chỉ có vua Chuyển Luân Thánh, uy đức của vua thành thù diệu tôn thắng vậy. Thưa ngài Kiên Ý ! Theo chỗ thành ấp, tụ lạc không có Bồ tát, tôi ở trong chỗ ấy được làm phước điền. Nếu chỗ có Phật, có Đại Bồ tát thì tôi ở trong chỗ ấy chẳng gọi là phước điền. Các vị Bồ tát đều có tâm Nhất Thiết Trí, vậy nên hơn tôi.

Lúc bấy giờ, đức Phật khen ngài Tu Bồ Đề rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Đúng như lời nói của ông ! Đó là lời nói của người đại đệ tử không có tăng thượng mạn.

Bồ tát Kiên Ý lại hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử rằng :

– Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Cái gọi là đa văn thì sao gọi là đa văn ?

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp rằng :

– Nếu người được nghe một pháp cú liền giải ra ngàn vạn ức nghĩa trong câu ấy, trăm ngàn vạn kiếp phu diễn giải nói, trí tuệ biện tài chẳng thể cùng tận. Đó là đa văn. Lại nữa, thưa ngài Bồ tát Kiên Ý ! Nếu nghe lời nói của vô lượng chư Phật trong mười phương thì có thể thọ trì hết, không có một câu nào mà trước chẳng nghe. Phàm những điều nghe được đều là đã nghe trước. Tùy theo pháp đã nghe mà có thể thọ trì chẳng quên. Vì chúng sinh nói mà không có chúng sinh, thân cùng chúng sinh và lời nói pháp không có sai khác. Đó gọi là đa văn.

Lúc bấy giờ, trong hội, có Bồ tát thiên tử tên là Tịnh Nguyệt Tạng nghĩ rằng : “ Đức Phật nói ngài Anan là tối đệ nhất ở trong hàng đa văn. Như lời nói về đa văn của ngài Văn Thù Sư Lợi thì Anan nay chắc có phải chăng ?” Nghĩ vậy rồi, hỏi ngài Anan rằng :

– Đức Như Lai nói ngài là tối dệ nhất ở trong hàng Đa văn. Sự đa văn của ngài chắc như lời nói của ngài Văn Thù Sư Lợi chăng ?

Ngài Anan đáp rằng :

– Như lời nói của ngài Văn Thù Sư Lợi về đa văn thì tôi không việc đó.

Ngài Tịnh Nguyệt Tạng nói rằng :

– Thế tại sao đức Như Lai thường xưng nói ngài là tối đệ nhất ở trong hàng đa văn ?

Ngài Anan đáp rằng : – Các đệ tử của đức Phật theo đuổi âm thanh mà được giải thoát, ở trong số người đó, đức Phật nói tôi là đệ nhất. Chẳng phải ngài cho tôi là đa văn đệ nhất trong các Bồ tát biển trí không lường không ai bằng, đại tuệ vô ngại biện tài. Thưa thiên tử ! Ví như nhờ có ánh sáng mặt trời, mặt trăng mà người của cõi Diêm Phù Đề thấy các hình sắc, được có sở tác. Tôi cũng như vậy, chỉ nhờ ánh sáng trí tuệ của đức Như Lai mà được thọ trì pháp. Tôi ở trong pháp ấy tự không có lực. Ngài phải biết, đó đều là thần lực của đức Như Lai.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngài Anan rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Đúng như lời nói của ông ! Sự thọ trì tụng niệm các pháp của ông, ông phải biết là chính thần lực của Như Lai.

Khi ấy, đức Phật bảo ngài Tịnh Nguyệt Tạng rằng :

– Sự thọ trì các pháp của ông Anan rất ít, còn pháp ông ấy chẳng tụng đến thì vô lượng vô biên. Này thiên tử ! Việc được các pháp ở đạo tràng của ta hàng trăm ngàn ức phần mà ta nói chẳng được một. Những điều nói của ta hằng trăm ngàn ức phần thì Anan chẳng thọ trì được một. Này thiên tử ! Chỉ trong một ngày một đêm, Như Lai nói pháp cho các Đế thích, Phạm vương, Hộ Thế thiên vương, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà.v.v.. Thiên tử Bồ tát của thế giới mười phương bằng cách dùng tuệ lực mà làm kệ tụng, nói kinh Nhân duyên, Thí dụ, sự tu các Balamật của chúng sinh và nói pháp Thanh văn, Bích Chi Phật thừa, Phật Vô Thượng Thừa, Nhiếp Đại Thừa, hủy báng (Ái = chê bai) sinh tử, khen ngợi Niết bàn. Giả sử chúng sinh sở hữu bên trong cõi Diêm Phù Đề thành tựu đa văn như ông Anan thì dù ở trong trăm ngàn kiếp chẳng thể thọ trì hết những pháp đó. Này thiên tử ! Do nhân duyên đó, ông phải biết là các pháp đã nói của Như Lai vô lượng vô biên mà ông Anan họ trì được rất là ít vậy.

Lúc bấy giờ, thiên tử Tịnh Nguyệt Tạng liền dùng mười vạn hoa cái bằng bảy báu dâng lên đức Như Lai. Những hoa cái ấy tức thời tụ khắp trên hư không mà chúng sinh đều được che, đều biến thành màu vàng. Dâng hoa cái lên xong, thiên tử bạch rằng :

– Kính thưa đức Thế Tôn ! Con nguyện dùng phước đức đó khiến cho khắp chúng sinh được biện tài thuyết pháp sẽ như đức Thế Tôn, có thể thọ trì pháp như ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử !

Đức Phật biết Bồ tát thiên tử ưa sâu Phật đạo nên trao cho lời ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà nói rằng :

– Hôm nay thiên tử đó, qua bốn trăm bốn mươi vạn kiếp, sẽ được làm Phật hiệu là Nhất Bảo Cái, nước tên là Nhất Thiết Chúng Bảo Trang Nghiêm.

Khi nói pháp đó, có hai trăm Bồ tát sinh lòng giải đãi cho là các đức Phật Thế Tôn, pháp của các đấng ấy rất sâu, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác như vậy khó được, chúng ta chẳng thể đầy đủ được việc đó. Chẳng bằng chúng ta chỉ dùng Bích Chi Phật thừa để vào Niết bàn. Sở dĩ vì sao ? Vì đức Phật nói Bồ tát có thoái chuyển thì hoặc làm Bích Chi Phật, hoặc làm Thanh văn.

Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử biết hai trăm Bồ tát này có lòng giải đãi, thoái chuyển, muốn phát khởi trở lại khiến cho họ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đồng thời ngài cũng muốn giáo hóa trời, rồng, dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Mahầulagià .v.v… trong chúng hội nên bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con nhớ kiếp quá khứ tên là Chiếu Minh. Con ở trong kiếp ấy, ba trăm sáu mươi ức đời dùng Bích Chi Phật thừa vào với Niết bàn.

Khi ấy, lòng của tất cả chúng hội đều sinh nghi ngờ rằng, nếu đã vào Niết bàn thì chẳng nên quay trở lại sinh tử nối nhau. Nay ngài Văn Thù Sư Lợi vì sao nói lên lời như vầy, thưa Thế Tôn ! Con nhớ kiếp đời đã qua tên là Chiếu Minh. Con ở trong kiếp ấy ba trăm sáu mươi ức đời, dùng Bích Chi Phật thừa vào với Niết bàn. Việc này là thế nào ? Lúc đó ngài Xá Lợi Phất thừa thần chỉ của đức Phật, bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu người đã được vào với Niết bàn thì chẳng nên lại có sinh tử nối tiếp nhau. Vì sao ngài Văn Thù Sư Lợi đã vào Niết bàn rồi, trở lại sinh ra nữa ?

Đức Phật dạy rằng :

– Ông có thể hỏi ông Văn Thù Sư Lợi việc đó ! Tự ông ấy sẽ trả lời cho ông !

Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng :

– Nếu người đã được vào Niết bàn thì ở trong các hữu chẳng lại nối tiếp nhau nữa. Hôm nay tại sao ngài nói lên lời này, thưa đức Thế Tôn ! Con nhớ trong kiếp Chiếu Minh đời quá khứ, ba trăm sáu mươi ức đời, dùng Bích Chi Phật thừa vào với Niết bàn. Ý nghĩa này ra sao ?

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp rằng :

– Đức Như Lai hiện tại chính là người biết tất cả, người thấy tất cả, người nói chân thật, người chẳng lừa dối, người trời người thế gian không thể lừa dối nên lời nói của tôi thì đức Phật tự chứng biết ! Tôi nếu nói khác đi tức là lừa dối đức Phật. Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Trong kiếp Chiếu Minh, có đức Phật ra đời hiệu là Phất Sa, ngài đem lại lợi ích cho các trời, người của thế gian rồi vào Niết bàn. Sau khi đức Phật đó diệt độ, giáo pháp trụ thế được mười vạn năm. Sau khi pháp diệt, chúng sinh trong kiếp ấy đối với Bích Chi Phật có nhân duyên hóa độ. Giả sử trăm ngàn ức đức Phật vì họ nói pháp, họ chẳng tin, chẳng thọ. Chỉ có thể dùng phép tắc uy nghi của thân Bích Chi Phật mà độ thoát được họ. Các chúng sinh đó đều chung chí cầu đạo Bích Chi Phật. Khi đó, không có Bích Chi Phật ra đời nên các chúng sinh đó không có chỗ được nhân duyên gieo trồng thiện căn. Tôi, vào lúc bấy giờ, vì giáo hóa nên tự xưng, thân tôi chính là Bích Chi Phật. Tùy theo các đất nước, thành ấp, tụ lạc đều biết thân tôi chính là Bích Chi Phật. Khi tôi đều vì họ thị hiện uy nghi hình sắc Bích Chi Phật thì các chúng sinh đó hết lòng cung kính. Họ đều đem đồ ăn thức uống cúng dường cho tôi. Tôi thọ thực rồi, quan sát sự ứng hợp nghe pháp theo duyên xưa của họ mà vì họ giả nói rồi thân bảy bổng lên hư không giống như vua chim nhạn. Lúc đó chúng sinh đều rất vui mừng, đem lòng cung kính đầu mặt làm lễ ta mà nói rằng : “ Nguyện khiến cho chúng con vào đời vị lai đều được pháp lợi như vị này hôm nay”. Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Do nhân duyên đó mà thành tựu được vô lượng vô số chúng sinh, khiến cho họ gieo trồng căn lành. Khi tôi quan sát biết những người cúng dường cho tôi ăn phát sinh lòng giải đãi, tức thời bảo rằng : “ Thời gian Niết bàn của ta đã đến !” trăm ngàn chúng sinh nghe lời nói đó rồi, đều mang hoa hương, tạp hương, dầu váng sữa, đi đến chỗ của tôi. Tôi, vào lúc đó, nhập vào Diệt Tận định nhưng do bản nguyện nên chẳng rốt ráo tịch diệt. Các chúng sinh đó cho là tôi đã mạng chung, để cúng dường tôi họ dùng củi thơm mà hỏa thiêu thân tôi, cho là tôi diệt thật sự. Khi đó, tôi lại đến thành lớn của nước khác tự xưng tôi là thân Bích Chi Phật. Chúng sinh trong thành ấy cũng đem đồ ăn thức uống lại cúng dường tôi. Rồi tôi ở trong thành ấy thị hiện vào Niết bàn, họ cũng cho là tôi diệt đều đến cúng dường, cùng hỏa thiêu thân tôi. Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Như vậy tôi vào thời bấy giờ, trọn một tiểu kiếp ba trăm sáu mươi ức đời làm thân Bích Chi Phật thị hiện vào Niết bàn ở các đại thành. Ở mỗi một đại thành tôi đều dùng Bích Chi Phật thừa độ thoát ba mươi sáu ức chúng sinh. Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Như vậy Bồ tát dùng Bích Chi Phật thừa vào với Niết bàn mà chẳng diệt vĩnh viễn.

Khi ngài Văn Thù Sư Lợi nói lời nói đó thì ba ngàn đại thiên thế giới sáu thứ chấn động, ánh sáng soi khắp, hàng ngàn ức chư thiên cúng dường ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, mưa xuống các hoa trời đều nói lên rằng :

– Thật là hy hữu ! Hôm nay chúng tôi được đại thiện lợi là được thấy đức Phật Thế Tôn và thấy ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, lại còn được nghe nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Thưa đức Thế Tôn ! Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử thành tựu pháp chưa từng có như vậy. Ngài trụ ở tam muội nào mà có thể thị hiện pháp chưa từng có như vậy !

Đức Phật bảo chư thiên rằng :

– Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm mới có thể làm được việc hy hữu như vậy. Bồ tát trụ tam muội này vì tạo tác tín hạnh mà chẳng tin theo người khác, cũng tạo tác pháp hạnh mà ở pháp tướng chuyển bánh xe pháp chẳng lui, chẳng mất, cũng tạo tác bát nhân (Bát đại nhân giác), ở những vô lượng A-tăng-kỳ kiếp vì kẻ tám tà mà hành đạo làm Tu đà hoàn. Bồ tát làm chúng sinh phiêu lưu trong dòng sinh tử chẳng vào pháp vị tạo tác Tư đà hàm. Bồ tát hiện khắp thân mình ở các thế gian, tạo tác A na hàm. Bồ tát cũng quay trở lại giáo hóa chúng sinh tạo tác A la hán. Bồ tát đó cũng luôn tinh tấn cầu học Phật pháp cũng làm Thanh văn, dùng vô ngại biện vì người nói pháp mà làm Bích Chi Phật, vì muốn giáo hóa tạo nhân duyên cho chúng sinh mà thị hiện vào Niết bàn. Rồi do lực tam muội nên sinh ra trở lại nữa. Này các thiên tử ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, đều có thể tu hành khắp các hạnh của hiền thánh, cũng tùy theo địa vị ấy có lời nói pháp mà chẳng trụ ở trong.

Chư thiên nghe đức Phật nói ý nghĩa như vậy đều rơi nước mắt mà nói lên rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu người nào đã vào địa vị Thanh văn, Bích Chi Phật thì vĩnh viễn mất tam muội Thủ Lăng Nghiêm như vậy.

– Thưa đức Thế Tôn ! Chắc người tạo tác trọng tội ngũ nghịch mà được nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó thì chẳng vào pháp vị (địa vị) làm A la hán lậu tận ! Sở dĩ vì sao ? Vì người tội ngũ nghịch nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó, phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi thì tuy duyên tội xưa phải đọa tại địa ngục, nhưng nhờ nhân duyên thiện căn nghe tam muội đó mà trở lại được làm Phật. Thưa đức Thế Tôn ! A la hán lậu tận giống như đồ bễ, vĩnh viễn chẳng đủ sức dung chứa tam muội Thủ Lăng Nghiêm này. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như có người bố thí món bột nấu dầu mật. Có nhiều người mang đủ thứ đồ đựng, trong đó có một người lơ đểnh làm vỡ đồ mình mang theo nên tuy đi đến chỗ bố thí món bột nấu với dầu đường mà không được ích gì, chỉ được no mình, chẳng thể mang về cho người khác. Trong số đó có người giữ đồ đựng cẩn thận thì bản thân được no đủ còn lấy đầy đồ đựng về bố thí cho người khác. Món bột nấu với dầu đường chính là chánh pháp của đức Phật. Kẻ mang đồ vỡ chỉ được tự no đủ, chẳng thể đem về cho người khác tức chính là Thanh văn, Bích Chi Phật. Người mang đồ lành tức chính là Bồ tát, tự thân được no đủ, cũng có thể đem cho tất cả chúng sinh.

Lúc đó, hai trăm thiên tử lòng muốn thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, từ khi các thiên tử nghe lời nói đó rồi và nghe thế lực công đức của ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, họ lại đem hết lòng phát khởi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng theo tấm lòng thoái chuyển lúc trước nữa. Họ đều bạch đức Phật rằng :

– Chúng con thậm chí gặp sự nguy hại mất mạng chẳng bỏ tấm lòng đó, cũng nhất định chẳng bỏ tất cả chúng sinh. Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con nghe nhân duyên căn lành của tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó nguyện xin sẽ được mười lực Bồ tát. Những gì là mười ?

– Đối với tâm Bồ đề được lực kiên cố.

– Đối với Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn được lực thâm tín.

– Đối với đa văn được lực chẳng quên.

– Đối với việc qua lại sinh tử được lực không mệt mỏi.

– Đối với các chúng sinh được lực Đại bi bền vững.

– Ở trong bố thí được lực tiếp tục xả (xả bỏ bền chắc).

– Ở trong trì giới được lực chẳng hoại.

– Ở trong nhẫn nhục được sức chịu bền.

– Đối với ma chẳng thể hoại được lực trí tuệ.

– Đối với các thâm pháp được lực tín lạc.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ tát Kiên Ý rằng :

– Nếu có chúng sinh, ở hiện tại hôm nay hoặc sau khi ta diệt độ, nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm mà có thể tin ưa thì phải biết người đó đều được hết mười lực Bồ tát đó.

Lúc ấy, trong chúng hội, có vị Bồ tát tên là Danh Ý bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Muốn được phước thì nên cúng dường Phật. Muốn được tuệ thì nên siêng đa văn. Muốn được sinh chỗ tốt thì nên siêng trì giới. Muốn giàu to thì nên gia thêm bố thí. Muốn được diệu sắc thì nên tu nhẫn nhục. Muốn được biện tài thì nên kính sư trưởng. Muốn được Đàlani thì nên lìa khỏi tăng thượng mạn. Muốn được trí thì nên tu chánh ức niệm (nhớ nghĩ). Muốn được vui thì nên bỏ tất cả ác. Muốn lợi ích chúng sinh thì nên phát tâm Bồ đề. Muốn được âm thanh vi diệu thì nên tu thật ngữ (lời nói chân thật). Muốn được công đức thì nên ưa viễn ly (xa lìa). Muốn cầu pháp thì nên gần thiện tri thức (bạn lành). Muốn ngồi thiền thì nên lìa khỏi rối loạn ồn ào. Muốn tư tuệ (suy nghĩ) thì nên tu tư duy. Muốn sinh Phạm thế thì nên tu vô lượng tâm. Muốn sinh trời người thì nên tu thập thiện. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu người muốn được phước đức, muốn được tuệ, muốn sinh chỗ tốt, muốn giàu to, muốn diệu sắc, muốn biện tài, muốn Đàlani, muốn được trí, muốn được vui, muốn lợi ích chúng sinh, muốn âm thanh vi diệu, muốn công đức, muốn cầu pháp, muốn ngồi thiền, muốn tư tuệ, muốn sinh Phạm thế, muốn sinh trời người, muốn được Niết bàn, muốn được tất cả công đức… thì phải nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm, thọ trì, đọc tụng, vì người khác giảng nói, theo đúng lời nói tu hành. Thưa đức Thế Tôn ! Bồ tát làm sao tu tam muội đó?

Đức Phật dạy rằng :

– Này Danh Ý ! Nếu Bồ tát có thể quan sát các pháp rỗng không, không gì chướng ngại, từng niệm từng niệm diệt hết, lìa khỏi yêu ghét. Đó gọi là tu tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Lại nữa, này Danh Ý ! Học tam muội đó chẳng dùng một việc. Sở dĩ vì sao ? Vì tùy theo lòng và sở hành trong lòng của các chúng sinh mà tam muội đó có các hạnh đó. Tùy theo lòng và sở nhập của lòng của các chúng sinh mà tam muội đó có các nhập đó. Tùy theo cửa vào các căn của các chúng sinh mà tam muội đó có các cửa vào đó. Tùy theo danh sắc sở hữu của các chúng sinh mà Bồ tát được tam muội đó cũng thị hiện ngần ấy danh sắc. Có thể biết như vậy thì gọi là tu tam muội đó. Tùy theo tướng mạo danh sắc của tất cả các đức Phật mà Bồ tát được tam muội đó cũng thị hiện ngần ấy tướng mạo danh sắc. Có thể biết như vậy thì gọi là tu tam muội đó. Tùy theo sự thấy đất nước của tất cả các đức Phật mà Bồ tát cũng tự thành tựu đất nước đó. Đó gọi là tu tam muội Thủ Lăng Nghiêm.

Bồ tát Danh Ý bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Tam muội đó tu hành rất khó.

Đức Phật bảo ngài Danh Ý rằng :

– Vì điều đó nên ít có Bồ tát trụ ở tam muội này, phần nhiều các Bồ tát tu hành các tam muội khác.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Danh Ý bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Đức Bồ tát Nhất Sinh Bổ Xứ Di Lặc này tiếp theo đức Thế Tôn sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì đức Di Lặc có được tam muội Thủ Lăng Nghiêm chăng ?

Đức Phật đáp rằng :

– Này Danh Ý ! Những Bồ tát được trụ ở Thập Địa Nhất Sinh Bổ Xứ, thọ chánh vị của Phật thì đều được tam muội Thủ Lăng Nghiêm.

Bồ tát Di Lặc tức thời thị hiện thần lực như vầy : Bồ tát Danh Ý và các chúng hội nhìn thấy những cõi Diêm Phù Đề của ba ngàn đại thiên thế giới đều chính là Bồ tát Di Lặc trong những cõi ấy. Hoặc họ thấy ngài ở trên trời hoặc thấy tại nhân gian, hoặc thấy xuất gia, hoặc thấy tại gia, hoặc thấy đứng hầu đức Phật đều như Anan, hoặc trí tuệ đệ nhất như là Xá Lợi Phất, hoặc thấy thần thông đệ nhất như ngài Mục Kiền Liên, hoặc thấy đầu đà đệ nhất như ngài Đại Ca Diếp, hoặc thấy nói pháp đệ nhất như ngài Phú Lâu Na, hoặc thấy ưa giới đệ nhất như ngài La Hầu La, hoặc thấy trì giới đệ nhất như ngài Ưu Ba Ly, hoặc thấy thiên nhãn đệ nhất như ngài A Na Luật, hoặc thấy tọa thiền đệ nhất như ngài Ly Bà Đa… Như vậy trong tất cả các đệ nhất họ đều thấy đức Di Lặc. Hoặc họ thấy ngài Di Lặc vào các thành ấp, tụ lạc xin ăn, hoặc thấy nói pháp, hoặc thấy ngồi thiền. Bồ tát Danh Ý và các đại chúng, tất cả đều Bồ tát Di Lặc thị hiện thế lực thần thông của tam muội Thủ Lăng Nghiêm, thấy rồi vui mừng bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ví như vàng ròng tuy bị gọt dũa mà chẳng mất đi tính vàng ấy. Các bậc Đại sĩ đó cũng lại như vậy, tùy theo chỗ thử thách, đều có thể thị hiện chẳng thể nghĩ bàn pháp tính.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Danh Ý bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con cho rằng, nếu Bồ tát có thể thông đạt tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì phải biết rằng Bồ tát ấy thông đạt tất cả đạo hạnh. Đối với Thanh văn thừa, Bích Chi Phật thừa và Phật Đại thừa họ đều thông đạt hết.

Đức Phật dạy rằng :

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Đúng như lời nói của ông ! Nếu Bồ tát có thể thông đạt tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì có thể thông đạt tất cả đạo hạnh.

Lúc bấy giờ, trưởng lão Đại ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con cho rằng, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, ở đời trước đã từng làm Phật sự, thị hiện ngồi đạo tràng, chuyển bánh xe pháp, thị hiện cho các chúng sinh thấy vào Đại Diệt Độ.

Đức Phật dạy rằng :

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Đúng như lời nói của ông ! Này Ca Diếp ! Quá khứ xa xưa, vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp, lúc ấy có đức Phật hiệu là Long Chủng Thượng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Ở phương Nam thế giới này, qua khỏi một ngàn đất nước Phật, có nước tên là Bình Đẳng. Nước này không có núi sông, cát, sỏi, sành, đá, gò, đống… đất bằng như bàn tay sinh ra cỏ mềm mại như Ca lăng già. Đức Phật Long Chủng Thượng ở thế giới đó được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lần chuyển pháp luân đầu tiên, ngài giáo hóa thành tựu bảy mươi ức số chúng các Bồ tát, tám mươi ức người thành A la hán, chín vạn sáu ngàn người trụ ở trong pháp nhân duyên của Bích Chi Phật. Sau ấy nối tiếp có vô lượng Thanh văn tăng. Này Ca Diếp ! Thọ mạng của đức Phật Long Chủng Thượng được bốn trăm bốn mươi vạn năm, độ trời người xong rồi vào Niết bàn, tán thân xá lợi lưu bố khắp thiên hạ, khởi dựng ba mươi sáu ức tháp cho chúng sinh cúng dường. Sau khi đức Phật ấy diệt độ, pháp ngài trụ thế mười vạn năm. Khi đức Phật Long Chủng Thượng sắp muốn vào Niết bàn, trao cho Bồ tát Trí Minh lời ký biệt rằng : “ Bồ tát Trí Minh này tiếp theo sau ta sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng hiệu là Trí Minh. Này Ca Diếp ! Ông cho là đức Phật Long Chủng Thượng của thế giới Bình Đẳng lúc bấy giờ, há là người khác ư ? Ông chớ sinh ra sự nghi ngờ này. Sở dĩ vì sao ? Vì đức Phật kia tức là Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử đó ! Này Ca Diếp ! Vả lại hôm nay ông đã quan sát thế lực của tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Các vị Đại Bồ tát dùng thế lực đó nên đã thị hiện vào thai, mới sinh ra, xuất gia, đến dưới cây Bồ đề, ngồi ở đạo tràng, chuyển bánh xe diệu pháp, vào Đại Bát Niết bàn, phân bố xá lợi… mà cũng chẳng bỏ pháp Bồ tát, đối Bát Niết bàn chẳng rốt ráo diệt.

Lúc ấy, trưởng lão Đại Ca Diếp nói với ngài Văn Thù Sư Lợi rằng :

– Ngài mới có thể thi hành việc khó hiếm có như thế này để thị hiện cho chúng sinh !

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói rằng :

– Thưa ngài Ca Diếp ! Ý ngài thế nào ! Núi Kỳ Xà Quật đó là do sự tạo ra của ai ? Thế giới này cũng từ đâu ra ?

Ngài Ca Diếp đáp rằng :

– Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Tất cả thế giới do sự hình thành của bọt nước, cũng từ nghiệp nhân duyên nhiều chẳng thể nghĩ bàn của chúng sinh tạo ra.

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói rằng :

– Tất cả các pháp cũng từ nghiệp nhân duyên nhiều chẳng thể nghĩ bàn mà có. Tôi đối với việc đó không có công sức gì. Sở dĩ vì sao ? Vì tất cả các pháp đều thuộc nhân duyên, không có chủ nên tùy ý tạo thành. Nếu có thể hiểu được điều này thì chẳng khó gì ! Thưa ngài Ca Diếp ! Nếu người chưa thấy bốn Đế mà nghe việc như vậy có thể tín giải thì đây là khó. Người thấy bốn Đế rồi, được các thần thông mà nghe việc này có thể tin thì chẳng đủ cho là khó.

Lúc bấy giờ, thân đức Thế Tôn thăng lên hư không, cao bảy cây Đa la, ngồi kiếp già, thân phát ra ánh sáng soi khắp mười phương vô lượng thế giới. Nhờ đó tất cả chúng hội đều thấy các đức Phật nhiều không lường trong mười phương đều đang nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm này chẳng thêm chẳng bớt, từ xa nghe được hết. Các đức Phật mười phương cũng thăng lên hư không, cao bảy cây Đa la, ngồi kiết già, thân phát ra ánh sáng soi khắp mười phương vô lượng thế giới. Những chúng sinh ở đó cũng thấy thân đức Phật Thích Ca Mâu Ni thăng lên hư không ngồi kiết già. Những chúng hội ở đó đều dùng hoa từ xa tung đến đức Phật Thích Ca Mâu Ni và đều thấy mọi hoa ở trên không trung hợp thành bảo cái bằng hoa (cái táng che bằng hoa). Ở cõi này, Bồ tát và những trời rồng, Dạ xoa, Càn thát bà.v.v.. đều cũng dùng hoa tung đến các đức Phật đó. Hoa đều ở trên đức Phật hóa thành bảo cái bằng hoa. Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thu lấy thần túc trở lại, ngồi ở tòa ngồi cũ, bảo ngài Kiên Ý rằng :

– Đó là lực thần thông của Như Lai, vì khiến cho công đức của chúng sinh tăng thêm nên Như Lai thị hiện việc này.

Khi đức Phật hiện sức thần thông thì tám ngàn trời người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lại khi cuộc nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm này sắp xong thì Bồ tát Kiên Ý và năm trăm vị Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm, đều được thấy thần lực sở hữu của các đức Phật trong mười phương. Đối với pháp thậm thâm của đức Phật các vị được ánh sáng trí, trụ ở đệ Thập Địa, thọ quả vị Phật. Đồng thời ba ngàn đại thiên thế giới sáu thứ chấn động phóng ra ánh sáng lớn soi khắp thế giới, ngàn vạn kỹ nhạc đều tấu lên cùng lúc, chư thiên ở trong hư không mưa xuống đủ loại hoa.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Anan rằng :

– Ông phải thọ trì tam muội Thủ Lăng Nghiêm này mà phúng tụng, vì người giảng nói rộng rãi !

Đế thích Trì Tu Di Sơn Đỉnh bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ngài Anan trí tuệ nhớ nghĩ có hạn lượng, là người Thanh văn theo âm thanh của người khác, vì sao đức Như Lai đem pháp báu tam muội này chúc lụy cho ngài Anan ?

Đế thích Trì Tu Di Sơn Đỉnh nói lên lời chí thành rằng :

– Nếu ta có thể ở đời nay và đời sau, rộng rãi tuyên dương lưu bố tam muội báu đó không có hư dối thì cây ở trong núi Kỳ Xà Quật này đều sẽ như cây Bồ đề của đức Phật, dưới những cây ấy đều có Bồ tát.

Đế thích Trì Tu Di Sơn Đỉnh nói lời đó xong, liền các cây đều như cây Bồ đề. Dưới mỗi một cây đều thấy có Bồ tát. Các cây Bồ đề đều phát ra lời rằng :

– Đúng như lời nói của Đế thích Trì Tu Di Sơn Đỉnh ! Quả thật con người đó nhất định có thể khiến cho tam muội này được tuyên dương lưu bố rộng rãi!

Lúc bấy giờ, các trời rồng, dạ xoa, Càn thát bà.v.v.. đồng thanh bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Giả sử đức Như Lai sống lâu một kiếp mà chẳng làm việc khác, chỉ dùng Thanh văn thừa vì người nói pháp, mỗi một cuộc nói pháp đều như khi chuyển pháp luân lần đầu để độ chúng sinh. So với việc nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm để độ chúng sinh thì việc nói này hơn nhiều. Sở dĩ vì sao ? Vì các chúng sinh đó đều do Thanh văn thừa qua đến Bồ tát thừa trăm phần chẳng bằng một, trăm ngàn vạn ức phần… cho đến việc tính toán thí dụ đã chẳng thể bì kịp. Như vậy tam muội Thủ Lăng Nghiêm có vô lượng thế lực này có thể thành tựu các Bồ tát, khiến cho họ được đầy đủ Phật pháp.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ngài thật sự sống bao lâu ? Khi nào ngài sẽ vào rốt ráo Niết bàn ?

Đức Phật dạy rằng :

– Này Kiên Ý ! Phương Đông cách thế giới này ba vạn hai ngàn cõi Phật, có đất nước tên là Trang Nghiêm. Trong nước đó có đức Phật hiệu là Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, hiện tại hôm nay đang nói pháp. Này Kiên Ý ! Như thọ mạng của đức Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương so với thọ mạng của ta cũng lại như vậy.

– Thưa đức Thế Tôn ! Thọ mạng của đức Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương là bao lâu ?

Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :

– Ông hãy tự đến đó hỏi ! Tự đức Phật đó sẽ trả lời cho ông !

Tức thời, ngài Kiên Ý thừa thần lực của đức Phật, lại dùng sức của tam muội Thủ Lăng Nghiêm và sức thần thông thiện căn của mình, chỉ trong phút chốc đã đến thế giới Trang Nghiêm kia, đầu mặt làm lễ dưới chân đức Phật đó, nhiễu quanh bên phải ba vòng, lui về đứng một bên mà bạch đức Phật rằng : “ Thưa đức Thế Tôn ! Ngài sống bao lâu mới vào Niết bàn ?” Đức Phật đó đáp rằng : “ Như thọ mạng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni kia, thọ mạng của ta cũng lại như vậy ! Này Kiên Ý ! Ông muốn biết thì ta cho biết, thọ mạng của ta là bảy trăm A-tăng-kỳ kiếp. Thọ mạng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng vậy”.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý, lòng rất vui mừng, liền trở về thế giới Ta Bà, bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Đức Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương kia sống lâu bảy trăm A-tăng-kỳ kiếp, bảo con rằng : “ Như thọ mạng của ta, thọ mạng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng lại như vậy”.

Lúc ấy, ngài Anan đứng dậy, trật áo vai phải, chắp tay hướng về đức Phật mà bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như con đã hiểu được ý nghĩa của lời nói đức Phật. Con cho là đức Thế Tôn đã dùng danh tự khác, ở thế giới Trang Nghiêm đó, để làm lợi ích cho chúng sinh.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngài Anan rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Ông nhờ thần lực của Phật mà có thể biết việc đó. Thân đức Phật kia chính là thân ta. Ta dùng danh tự khác ở cõi đó nói pháp, độ thoát chúng sinh. Này Anan ! Sức thần thông tự tại như vậy đều chính là thế lực của tam muội Thủ Lăng Nghiêm.

Khi đó, đức Phật bảo Bồ tát Kiên Ý rằng :

– Này Kiên Ý ! Do việc đó nên ông phải biết rằng, ta thọ bảy trăm A-tăng-kỳ kiếp mới sẽ rốt ráo vào với Niết bàn.

Hội đại chúng nghe đức Phật nói thọ mạng của ngài chẳng thể nghĩ bàn như vậy đều rất vui mừng, được sự kiện chưa từng có, thưa với đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Thần lực của chư Phật rất chưa từng có, tất cả sở hành chẳng thể nghĩ bàn. Ở nơi này hiện thọ mạng ngắn như vậy mà thật ra ở chỗ kia sống lâu đến bảy trăm A-tăng-kỳ kiếp. Thưa đức Thế Tôn ! Nguyện khiến cho tất cả chúng sinh đầy đủ thọ mạng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.

Lúc đó, đức Thế Tôn lại bảo ngài Kiên Ý rằng :

– Thủ Lăng Nghiêm tam muội này theo ở tại quận quốc, thành ấp, tụ lạc, tinh xá, rừng trống… thì trong chỗ ấy các ma và dân của ma chẳng được sự tiện lợi của chúng.

Ngài lại bảo ngài Kiên Ý rằng :

– Nếu có pháp sư chép thành sách, đọc tụng, giải nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm này thì đối với loài người, loài chẳng phải người không có sợ sệt, lại còn được hai mười phần công đức chẳng thể nghĩ bàn. Những gì là hai mươi ?

– Phước đức chẳng thể nghĩ bàn.

– Trí ấy chẳng thể nghĩ bàn.

– Tuệ ấy chẳng thể nghĩ bàn.

– Phương tiện chẳng thể nghĩ bàn.

– Biện tài chẳng thể nghĩ bàn.

– Pháp minh chẳng thể nghĩ bàn.

– Tổng trì chẳng thể nghĩ bàn.

– Pháp môn chẳng thể nghĩ bàn.

– Nhớ nghĩ theo nghĩa chẳng thể nghĩ bàn.

– Các lực thần thông chẳng thể nghĩ bàn.

– Phân biệt các ngôn ngữ của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn.

– Hiểu sâu niềm vui trong lòng chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn.

– Được thấy các đức Phật chẳng thể nghĩ bàn.

– Việc nghe các pháp chẳng thể nghĩ bàn.

– Giáo hóa chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn.

– Tự tại tam muội chẳng thể nghĩ bàn.

– Thành tựu cõi thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

– Hình sắc tối diệu chẳng thể nghĩ bàn.

– Công đức tự tại chẳng thể nghĩ bàn.

– Sửa trị các Balamật chẳng thể nghĩ bàn.

– Được Phật pháp chẳng thoái chuyển chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là hai mươi. Này Kiên Ý ! Nếu có người chép thành sách, đọc tụng tam muội Thủ Lăng Nghiêm này thì được hai mươi phần công đức chẳng thể nghĩ bàn đó. Vậy nên, này Kiên Ý ! Nếu người muốn được các lợi ích của đời nay và đời sau thì phải chép thành sách, đọc tụng, giải nói, tu hành tam muội Thủ Lăng Nghiêm này. Này Kiên Ý ! Nếu cầu Phật đạo mà thiện nam tử, thiện nữ nhân ở ngàn vạn kiếp, lòng siêng tu hành sáu Balamật. Nếu có người nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm này thì liền có thể tín thọ, lòng chẳng lùi mất, chẳng kinh chẳng sợ, phước thắng hơn người trước đó, mau chóng đạt đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Huống gì nghe rồi thọ trì đọc tụng, theo đúng lời nói tu hành, vì người giải nói ? Nếu có Bồ tát muốn nghe pháp chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật mà chẳng kinh chẳng sợ, muốn ở trong tất cả các pháp hiện rõ tự biết, chẳng theo lời dạy người khác thì nên phải tu tập tam muội này. Nếu người muốn được nghe pháp chưa nghe mà tín thọ chẳng ngược lại thì nên phải nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm này.

Khi đức Phật nói kinh Thủ Lăng Nghiêm tam muội này thì vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lại gấp bội số người đó trụ địa vị Bất thoái chuyển, lại gấp bội số người đó được pháp nhẫn Vô sanh. Một vạn tám ngàn Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Một vạn tám ngàn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni chẳng thọ các pháp, hết lậu, giải thoát, được Alahán. Hai vạn sáu ngàn Ưu bà tắc, Ưu bà di ở trong các pháp được pháp nhãn tịnh. Ba mươi nadotha chư thiên được vào thánh vị. Đức Phật nói Kinh rồi, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, ngài Kiên Ý Bồ tát .v.v… tất cả các đại Bồ tát và các Thanh văn đại đệ tử, tất cả các trời, rồng, thần, Càn thát bà, A tu la.v.v.. nhân dân của thế gian nghe lời Phật nói hoan hỉ tín thọ.

    Xem thêm:

  • Kinh Lực Trang Nghiêm Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Tự Thệ Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Như Lai Độc Chứng Tự Thệ Tam Muội - Kinh Tạng
  • Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ - Kinh Tạng
  • Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Nguyệt Ðăng Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cang Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Ấn Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Pháp Hoa Tam Muội - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Tam Muội Ngồi Thiền - Kinh Tạng
  • Pháp Thức Thực Hành Tam Muội Chuẩn Đề - Kinh Tạng
  • Kinh Hoằng Đạo Quảng Hiển Tam Muội - Kinh Tạng
  • Dược Sư Tam Muội Hành Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Kinh Tạng
  • Quán Niệm A Di Đà Phật Tướng Hải Tam Muội Công Đức Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Tập Đại Phương Đẳng Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội - Kinh Tạng
  • Phẩm Pháp Nghi Quỹ Niệm Tụng Cúng Dường Thánh Hạ Dã Hột Lí Phược Đại Oai Nộ Vương Lập Thành Đại Thần Nghiệm - Kinh Tạng
  • Đà La Ni Bí Mật Phật Đỉnh Tôn Thắng Tâm Phá Địa Ngục Chuyển Nghiệp Chướng Xuất Tam Giới - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm - Kinh Tạng