1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

QUYỂN 2

VII. CHỈ TÁNH THẤY KHÔNG SANH DIỆT

Kinh : Lúc bấy giờ Ông Anan cùng cả đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình từ vô thủy đến nay bỏ mất Bản Tâm, vọng nhận bóng dáng do phân biệt tiền trần. Ngày nay khai ngộ, như hài nhi mất sữa bỗng gặp mẹ hiền, chắp tay lễ Phật, mong được nghe Như Lai bày tỏ cái chân, vọng, cái hư thật ở nơi thân tâm, và ở ngay hiện tiền phát minh ra hai cái Sanh Diệt và Chẳng Có Sanh Diệt.

Thông rằng: Trước, nói rằng: “Cái Thấy không có chỗ động, cái Thấy không có mở ra cuốn vào để chỉ bày rõ ràng cái Tánh không có sanh ra, không có diệt mất. Nhưng cái Tánh Bất Sanh Bất Diệt này hiện tìm thấy ở trong cái Thân Sanh Diệt. Cái Chơn Phát Minh Tánh là cái căn bản không sanh không diệt. Còn cái Vọng Phát Minh Tánh là cái căn bản sanh diệt. Ở trong ấy, hư thật khó biện rõ, nên cầu mong Như Lai bày rõ cho.

Xưa, Ông Tiết Giản hỏi Đức Lục Tổ: “Chư vị thiền đức ở chốn kinh đô đều nói rằng “Muốn được hiểu đạo, phải ngồi thiền, tập định. Nếu không nhờ thiền định mà được giải thoát là điều không hề có”. Chưa rõ chỗ dạy của Sư ra sao?”

Tổ đáp: “Đạo do tâm ngộ, đâu phải ở ngồi. Kinh nói: Nếu nói Như Lai có ngồi, có nằm, thì đó là hành tà đạo. Vì sao thế? Không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, không có sanh, không có diệt, là pháp thiền trong sạch của Như Lai. Chư pháp Không Tịch [Rỗng lặng] đó là sự ngồi trong sạch của Như Lai. Rốt ráo không chỗ chứng, huống là ngồi ư?”

Tiết Giản thưa: “Sáng ví dụ Trí Huệ, tối ví dụ phiền não. Nếu chẳng dùng Trí Huệ soi phá phiền não, nhờ đâu mà vượt khỏi sanh tử từ vô thủy?”

Tổ nói: “Phiền não tức Bồ Đề, không hai, không khác. Nếu dùng Trí Huệ soi phá phiền não, đó là kiến giải của Nhị Thừa, là căn cơ của xe dê, xe nai. Bậc Thượng Căn Đại Trí ắt chẳng như thế”.

Ông Tiết thưa: “Như thế nào là kiến giải Đại Thừa?”

Tổ nói rằng: “Cái Minh và cái Vô Minh, phàm phu thấy là hai. Với người Trí liễu đạt thì cái Tánh của chúng là không hai. Tánh Không Hai đó là Thật Tánh. Thật Tánh ấy, ở phàm ngu chẳng diệt, tại Hiền Thánh cũng chẳng tăng, trong phiền não cũng không loạn, nơi thiền định cũng không hề lặng dứt. Chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đến chẳng đi. Chẳng ở giữa, chẳng trụ trong, ngoài. Không sanh không diệt, Tánh Tướng như như. Thường trụ chẳng dời, gọi ấy là đạo”.

Tiết Giản thưa: “Thầy nói không sanh không diệt, khác gì ngoại đạo đâu?”

Tổ nói rằng: “Chỗ ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt ấy, là lấy Diệt dứt Sanh, lấy Sanh tỏ bày Diệt. Thế là diệt mà xem như chẳng Diệt, sanh mà nói Chẳng Sanh. Ta nói chẳng sanh chẳng diệt ấy, là Vốn Tự Không Sanh, nay cũng chẳng diệt, nên chẳng đồng ngoại đạo. Nếu ông muốn biết cái tâm yếu, chỉ với tất cả thiện ác đều chẳng dính dấp tới thì tự nhiên thấu vào được cái Tâm Thể trong sạch, trong trẻo như nhiên, hằng hằng vắng lặng, diệu dụng không cùng”.

Ông Tiết Giản nhờ lời chỉ dạy, hoát nhiên khai ngộ.

Đây là chỗ hiện tiền thấy có Sanh Diệt, bày rõ cái Chân Tánh chẳng có Sanh Diệt. Nếu chẳng phải là bực Phật với nhau thì không thể hiển bày rõ ràng như vậy.

Kinh: Khi ấy, vua Ba Tư Nặc đứng dậy bạch Phật: “Trước tôi chưa được vâng nghe lời Phật dạy bảo, tôi thấy các Ông Ca Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử đều nói “Thân này chết rồi thì mất hẳn gọi là Niết Bàn. Nay tuy được gặp Phật, nhưng tôi vẫn còn hồ nghi. Xin Phật chỉ rõ làm thế nào chứng biết chỗ chẳng Sanh Diệt của Tâm này. Hiện giờ các hàng Hữu Lậu trong đại chúng cũng đều trông mong được nghe điều ấy”.

Phật nói: “Đại Vương, thân ông hiện đây, nay ta hỏi ông: cái thân xác thịt của ông có giống được như kim cương, còn hoài chẳng hoại, hay lại biến đổi và tan rã?”

– Thế Tôn, cái thân hiện đây của tôi, rốt cuộc cũng thay đổi và tiêu diệt.

Phật bảo: “Đại Vương, ông chưa từng diệt, làm sao biết là phải bị diệt?”

Thông rằng : Đức Thế Tôn nhủ lời, bước bước đều quay về Chân. Như hỏi “Ông chưa từng diệt, làm sao biết diệt?” Nếu là bậc Thượng Căn Lợi Trí thì liền ngộ “Cái người biết sự diệt, vốn chưa từng sanh diệt”, liền chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Có nhà sư hỏi Tổ Vân Cư: “Mới sanh ra vì sao chẳng biết có?”

Đáp : “Chẳng cùng sanh”.

Hỏi : “Khi chưa sanh thì như thế nào?”

Đáp : “Chưa từng diệt”.

Hỏi : “Khi chưa sanh thì ở đâu?”

Đáp : “Có chỗ chẳng thu nạp”.

Hỏi : “Vì sao người chẳng thọ diệt?”

Đáp : “Diệt ấy chẳng thể được”.

Xem chỗ đối đáp của Tổ Vân Cư như thế, há phải mơ hồ! Cần rõ chuyện bên đó mới có thể xem lời nói này!

Kinh: “Bạch Thế Tôn, cái thân vô thường biến hoại của tôi đây tuy chưa diệt, song hiện giờ, tôi xét nó niệm niệm dời đổi, mãi mãi chẳng ngừng, như lửa thành tro dần dần tiêu mất. Tiêu mất chẳng ngừng nên tôi biết chắc thân này rồi phải diệt mất”.

Phật dạy: “Đúng thế! Đại Vương, tuổi tác của ông nay đã già yếu, vậy mặt mày của ông so với lúc còn bé như thế nào?”

– Bạch Thế Tôn, hồi còn bé nhỏ, tôi da thịt mịn màng, đến lúc trưởng thành, khí huyết đầy đủ, nay thì tuổi già, ngày thêm suy lão, hình sắc gầy ốm, tinh thần mõi mệt, tóc bạc da nhăn, sống chẳng còn lâu, so sánh thế nào được với thời trẻ mạnh?”

Phật bảo: “Đại Vương, hình dung của ông đâu có hư hao ngay”.

Vua bạch: “Thưa Thế Tôn, sự biến hóa âm thầm dời đổi nên tôi chẳng hay biết. Mưa nắng đổi dời lần đến như vầy. Vì sao? Tôi khi năm hai mươi tuy gọi là trẻ nhưng mặt mày đã già hơn khi mười tuổi. Khi ba mươi, lại suy sút hơn hồi hai mươi và đến nay sáu mươi hai, trông lại lúc năm mươi thì khi ấy còn khoẻ hơn nhiều. Bạch Thế Tôn, tôi thấy sự âm thầm thay đổi như thế, thân này tuy nay đã suy yếu, nhưng trong sự thay đổi còn chia từng mười năm một. Nếu tôi suy xét chín chắn hơn nữa thì cái sự biến đổi ấy đâu phải từng mười năm mà thật là mỗi năm mỗi thay đổi. Lại đâu phải mỗi năm mỗi thay đổi mà là mỗi tháng mỗi thay đổi, không những mỗi tháng thay đổi mà là mỗi ngày thay đổi. Suy cùng xét kỹ, thì sát na sát na, khoảng giữa mỗi niệm, không thể đứng yên, vậy nên tôi biết thân này rốt cuộc phải biến đổi và tiêu diệt”.

Phật bảo: “Đại Vương, ông thấy biến hóa dời đổi không ngừng, rõ là phải diệt. Vậy ông niệm niệm tiêu diệt như thế, ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?”

Thông rằng: Sắc Thân huyễn hóa rốt cuộc phải biến diệt. Cái Pháp Thân thanh tịnh vốn chẳng có sanh diệt. Chẳng phải ngoài cái sắc thân riêng có Pháp Thân. Pháp Thân như biển lớn, Sắc Thân như bọt nước. Bọt nước có sanh có diệt, nước biển nhất như. Bậc Đại Ngộ thì “Huyễn hóa, không thân tức Pháp Thân”. Vậy nên biết, trong thân có cái chẳng hề hoại diệt vậy.

Tổ Thạch Đầu có bài kệ rằng:

“Hỏi am này: hư, chẳng hư?

Hư, chẳng hư vẫn nguyên ông chủ

Chẳng ở Nam Bắc với Đông Tây

Nền tảng vững bền, quan trọng nhất”.

(Vấn thử am, hoại bất hoại

Hoại dữ bất hoại, chủ nguyên lai

Bất cư Nam Bắc dữ Đông Tây

Cơ chỉ kiên lao dĩ vi tối).

Lại tụng:

“Trụ am này, thôi kiến giải

Ai khoe bày chiếu, muốn người mua

Hồi quang phản chiếu bèn về vậy

Rỗng suốt Linh Căn, không sau trước”.

(Trụ thử am hưu tác giải

Thùy khoa phô tịch đồ nhơn mãi

Hồi quang phản chiếu tiện quy lai

Khuyếch đại Linh Căn phu hướng bối).

Than ôi! Người người sẵn đủ Tánh chẳng sanh diệt này, sao lại theo dòng đuổi bắt sóng để chẳng thể hồi quang phản chiếu!

Kinh: Vua Ba Tư Nặc chấp tay bạch Phật: “Tôi thật không biết”.

Phật dạy: “Nay Ta chỉ cho ông cái Tánh không sanh diệt. Đại Vương! Ông năm mấy tuổi thì thấy nước sông Hằng?”

Vua bạch: “Khi tôi lên ba, mẹ tôi dẫn đi làm lễ Thần Kỳ Bà Thiên [Thần Trường Thọ], có đi qua sông ấy. Lúc ấy, tôi liền biết đó là nước sông Hằng”.

Phật bảo: “Đại Vương, như lời ông nói “Lúc hai mươi tuổi thì suy hơn lúc mười tuổi”, cho đến nay đã sáu mươi, năm tháng ngày giờ niệm niệm đổi thay. Vậy, khi ông ba tuổi, thấy nước sông này, rồi đến khi mười ba tuổi thì nước ấy thế nào?”

Vua bạch: “Thưa, cũng như khi lên ba, in hệt như nhau không khác gì, và đến nay tuổi đã sáu mươi hai, cũng vẫn không khác”.

Phật bảo: “Nay ông tự buồn là mình tóc bạc, da nhăn. Mặt ông hẳn phải nhăn hơn hồi trẻ. Vậy cái Thấy sông Hằng hiện giờ của ông so với cái Thấy sông Hằng lúc nhỏ có già trẻ gì không?”

Vua bạch: “Thưa Thế Tôn, không”.

Phật bảo: “Này Đại Vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng Tánh của cái Thấy (Kiến Tinh Tánh) ấy chưa hề bị nhăn. Cái nhăn thì thay đổi còn cái không bị nhăn thì chẳng thay đổi. Cái thay đổi thì phải diệt, còn cái không thay đổi kia thì vốn không sanh không diệt, làm sao trong ấy lại có sanh tử cho ông thọ nhận mà ông lại còn dẫn lời của nhóm Mạt Già Lê kia, nói rằng “Thân này chết rồi thì diệt hẳn!”

Vua nghe xong lời dạy này, tin biết rằng thân này về sau, bỏ đời này qua đời khác, cùng với đại chúng nhảy nhót vui mừng, được sự chưa từng có.

Thông rằng: Ngoại đạo có sáu ông thầy:

Một là, Phú Lan Na Ca Diếp: cho rằng các pháp đều chẳng sanh, chẳng diệt.

Hai là, Mạt Già Lê Câu Xa Lê Tử: cho rằng chúng sanh tuy có khổ vui, nhưng không có nhân duyên, tự nhiên mà vậy thôi.

Ba là, Sán Đà Xa Tỳ La Chi Tử: cho rằng chúng sanh theo vận, thời gian chín muồi thì đắc đạo, đầy đủ tám vạn kiếp thì tự nhiên đắc đạo.

Bốn là, A Kỳ Da Sí Xá Khâm Ba La: cho rằng chúng sanh hiện chịu khổ báo, sau thì hưởng thọ vui sướng của Niết Bàn.

Năm là, Ca Lâu Cưu Đà Ca Chiên Diên: cho rằng các pháp cũng có, cũng không.

Sáu là, Tỳ Kiện Đà Nhã Đề Tử: cho rằng tất cả đều do Nghiệp định, không thể trốn lánh.

Tất cả đều là Đoạn Kiến vậy [Nhị kiến có hai thứ: Đoạn Kiến và Thường Kiến.- Đoạn Kiến: cái thấy sai lầm (vọng kiến), chấp chặt thân tâm con người dứt diệt (chết) Rồi chẳng còn nối sanh nữa, tức Vô Kiến]. Tuy cũng nói là chẳng sanh chẳng diệt, nhưng đó là đối với sanh diệt mà nói. Nhơn bởi sừng trâu Có (Hữu), mà nói sừng thỏ Không có (Vô). Đã có đối đãi, rốt cuộc thuộc về sanh diệt.

Nếu cái thấy sông y nhiên không khác thì có thể trộm thấy cái Chân Tánh bất biến. Ngay trong chỗ thấy trước mắt có sanh diệt mà hiển bày cái Tánh chẳng sanh diệt, thế mới biết trong thân có cái chẳng có Diệt đang hiện hữu. Tuy nói bỏ đời sống này qua đời sống khác, kỳ thực là diệt mà chẳng diệt. Há cái Đoạn Kiến của ngoại đạo có thể có nói được sao?

Có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu: “Thầy của con có nói “Khi thế giới hoại, Tánh này chẳng hoại”. Thế nào là cái Tánh này?”

Tổ Châu nói: “Tứ Đại, Ngũ Ấm”.

Vị tăng hỏi: “Cái ấy còn là hư hoại, thế nào là cái Tánh này?”

Tổ Châu nói: “Tứ Đại, Ngũ Ấm”.

Ngài Pháp Nhãn nói: “Ấy là một cái? Ấy là hai cái? Ấy là hoại? Ấy là chẳng hoại? Hãy hiểu làm sao? Thử quyết đoán xem!”

Có vị tăng hỏi Tổ Đại Tùy: “Kiếp Hỏa thiêu hết, Đại Thiên đều hoại. Chưa rõ cái Ấy hoại hay chẳng hoại?”

Tổ Tùy đáp: “Hoại”.

Vị tăng rằng: “Như thế thì theo nó đi ư?”

Tổ Tùy rằng: “Theo nó đi”.

Lại có vị tăng hỏi Tổ Long Tế: “Kiếp Hỏa thiêu hết, Đại Thiên đều hoại. Chưa rõ cái Ấy hoại hay chẳng hoại?”

Tổ Tế đáp: “Chẳng hoại”.

Vị tăng rằng: “Vì sao chẳng hoại?”

Tổ Tế đáp: “Vì đồng Đại Thiên”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Hoại, chẳng hoại, theo nó mà đi

Cảnh giới Đại Thiên, ở trong câu rõ

Không ai khóa buộc, đầu chân lại bị dây leo quấn

Hiểu, chẳng hiểu?

Chuyện thật rõ ràng, căn dặn kỹ

Biết Tâm, đem ra đừng thương lượng

Đưa ta phải đi cùng mua bán”.

Đại Tùy nói hoại, Long Tế nói chẳng hoại. Ấy là một? Ấy là hai? Tổ Tế bảo “Vì đồng Đại Thiên”. Tổ Tùy bảo “Theo nó đi!” Y nhiên là cái tông chỉ “Tứ Đại, Ngũ Ấm” của Ngài Triệu Châu. Khi thế giới hoại, Tánh này chẳng hoại. Chính phải ở trong Tứ Đại, Ngũ Ấm mà tìm cái chốn an ổn mới được!

VIII. CHỈ CHỖ ĐIÊN ĐẢO

Kinh: Ông Anan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật, chắp tay, quỳ dài, bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, nếu cái Thấy-Nghe này thật không Sanh Diệt thì tại sao Đức Thế Tôn lại bảo rằng chúng tôi đều bỏ mất Chân Tánh, làm việc điên đảo, lộn ngược. Xin Phật mở lòng từ bi rửa sạch trần cấu [Bụi dơ] cho chúng tôi”.

Khi ấy, Đức Như Lai liền duỗi cánh tay kim sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo Ông Anan: “Như nay ông thấy tay Mẫu Đà La [Mudra, còn gọi là Kiết Tường Thủ. Tức là kiết cái ấn quyết định (Quyết Định Ấn)] của Ta là chánh hay đảo (ngược)?”

Ông Anan bạch: “Chúng sanh thế gian cho đó là đảo ngược, còn tôi thì chẳng biết cái nào là chánh, cái nào là đảo”.

Phật bảo Ông Anan: “Nếu người thế gian cho vậy là đảo, thì người thế gian cho thế nào là chánh?”

Ông Anan bạch Phật: “Đức Như Lai đưa cánh tay lên, tay Đâu La Miên chỉ lên không thì gọi là chánh”.

Phật liền đưa cánh tay lên và bảo Ông Anan: “Cái điên đảo (lộn ngược) như thế chỉ là đầu đuôi thay đổi lẫn nhau thôi. Các người thế gian đều điên đảo gấp bội mà xem mà thấy. Nay lấy cái thân ông và Pháp Thân thanh tịnh Như Lai so sánh mà phát minh thì Thân của Như Lai gọi là Chánh Biến Tri, còn thân của các ông gọi là tánh điên đảo. Tùy ông xét kỹ: Thân ông, Thân Phật, cái gọi là điên đảo lộn ngược đó, do ở chỗ nào mà gọi là điên đảo?”

Thông rằng: Cái Pháp Thân thanh tịnh là cái Diệu Tâm mầu sáng, thuần chân vậy. Cái Thấy, Nghe, Hay, Biết (Kiến Văn Giác Tri) là vật bày hiện ra [Cái Dụng] ở trong Diệu Tâm vậy. Về gốc là Chánh, đuổi theo ngọn là Đảo (ngược). Thí như bọt nước sanh ra nơi biển, nhận biển là Chánh, nhận bọt là Đảo.

Phật hỏi Ông Anan: “Nay ông thấy Ta thả tay xuống là chánh hay đảo?”, thì chỉ nên ở nơi chỗ tự thấy mà tỉnh ngộ mạnh mẽ: cái nào chánh, cái nào đảo, chớ chẳng nên ở nơi tay Như Lai mà phân chánh, phân đảo.

Như ông Tu Bồ Đề ngồi yên tịnh trong hang núi, thấy Pháp Thân Như Lai chẳng duyên với Căn, Thức đó gọi là Chánh Biến Tri. Còn nếu lấy con mắt của Ông Anan để đối với tay của Như Lai, lại còn ở tay mà phân Chánh, phân Đảo đây bèn là chỗ động dụng của sáu Thức, bỏ gốc theo ngọn, đã lìa chánh vị nên gọi là tánh điên đảo, lộn ngược.

Mới đầu, Ông Anan lấy tay buông xuống làm đảo, lời nói còn mơ hồ. Đến khi hỏi “Lấy gì làm Chánh?”, thì lấy tay đưa lên làm chánh, mới biết chỗ Ông Anan cho là chánh và đảo đó chỉ là sự biện biệt căn cứ vào tay, chẳng phải ở nơi cái Thấy mà biện biệt. Sự ngắm nhìn đó đã là điên đảo vậy. Tay buông xuống, đầu đuôi thuận nhau, vốn là chánh, mà người đời cho đó là đảo! Tay đưa lên, đầu đuôi đổi chỗ, vốn là đảo mà người đời cho đó là chánh! Thế là ở trong sự ngắm nhìn điên đảo, lại còn chồng thêm điên đảo! Cho nên, so sánh phát minh thì bỏ mất cái Pháp Thân trong sạch mà nhận Thấy, Nghe, Hay, Biết đã là điên đảo. Lại chấp cái Thấy, Nghe, Hay, Biết ở trong sắc thân cho là chẳng sanh diệt mà bảo rằng đó là chánh chứ chẳng phải đảo, thì chẳng phải là trong điên đảo lại chồng thêm điên đảo sao?

Có nhà sư hỏi Tổ Động Sơn: “Bình thường Ngài dạy học nhơn hành điểu đạo [Đường chim, chỉ địa vị đến chỗ khó trên đường tu thiền: Hiểm khổ như đường chim. Lại còn chỉ địa vị đến đường rộng lớn mênh mông, không bờ cõi (như trên trời rộng lớn), như dấu vết con chim trong thinh không], chưa rõ thế nào là điểu đạo?”

Tổ Sơn nói : “Không gặp một người”.

Hỏi: “Hành (đi) như thế nào?”

Tổ Sơn: “Chính phải dưới chân không tư riêng”.

Hỏi: “Chỉ như chỗ hành điểu đạo, chẳng phải ấy là Bổn Lai Diện Mục [Cái xưa nay trước mắt] đó sao?”

Tổ Sơn rằng: “Thầy Xà Lê nhân sao điên đảo quá lắm?”

Hỏi: “Chỗ nào là điên đảo của kẻ học nhân?”

Tổ Sơn rằng: “Nếu không điên đảo, vì sao lại nhận tôi tớ làm chồng?”

Hỏi: “Như thế nào là Bổn Lai Diện Mục?”

Tổ Sơn nói : “Chẳng hành điểu đạo”.

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

“Lối cổ tiêu nhiên dựa Thái Hư

Nẻo nhiệm còn như trải gập gềnh

Chẳng lên điểu đạo tuy là diệu

Kiểm điểm về sau đã đụng đường”.

(Cổ lộ tiêu nhiên ỷ Thái Hư

Hành huyền du thị thiệp kỳ khu

Bất đăng điểu đạo tuy vi diệu

Kiểm điểm tương lai dĩ xúc đồ).

Ôi! Điểu đạo sâu xa nhỏ nhiệm đến thế, gần với chuyển công thành đạo mà môn hạ phái Động Sơn còn cho là điên đảo, huống là cái Thấy Nghe (Kiến Văn) rõ ràng còn dấu vết thô thiển mà lại cho là chẳng sanh diệt, thì sao đủ để đối sánh với cái Bồ Đề Vô Thượng ư?

Kinh: Khi ấy, Ông Anan cùng cả đại chúng sửng sốt nhìn Phật, mắt chẳng chớp nháy, chẳng biết thân tâm chỗ nào điên đảo.

Phật phát lòng Từ Bi, thương xót Anan và đại chúng, phát tiếng Hải Triều, bảo khắp trong hội: “Các trai lành, Ta thường dạy rằng: Sắc tâm, các duyên và các tâm sở, các pháp sở duyên đều duy tâm mà hiện. Thân ông, tâm ông đều là những vật hiện ra ở trong cái Diệu Tâm Mầu Sáng Thuần Chân. Tại sao các ông bỏ mất cái Tâm Tánh vốn nhiệm mầu, tròn sáng, quý báu để nhận lấy mê lầm trong cái Vốn Đã Giác Ngộ?

“Mê muội thành có hư không. Trong hư không mê muội ấy, kết cái tối ám thành sắc, sắc xen lẫn vọng tưởng ra hình tướng làm thân. Nhóm các duyên dao động bên trong, rong ruổi theo bên ngoài, rồi lấy cái tướng mù mịt lăng xăng đó làm Tâm Tánh. Một phen mê lầm cái tướng ấy làm tâm thì đưa tới cái lầm quyết định là tâm ở trong sắc thân, mà chẳng biết rằng cái sắc thân cho đến núi sông, hư không, đất đai bên ngoài, hết thảy đều là vật hiện trong cái Diệu Minh Chân Tâm này.

Thông rằng: Thân Ông là Tướng Phần, Tâm Ông là Kiến Phần. Tướng Phần gồm cả Căn, Trần, các pháp sở duyên, núi sông, đất đai, sáng tối, sắc không cả thảy. Kiến Phần gồm tám Thức và năm mươi mốt Tâm Sở, thiện ác nghiệp hành, tà chánh, nhân quả hết thảy. Cả Tướng Phần và Kiến Phần đều ở trong Như Lai Tạng lưu xuất, nên nói “Duy Tâm mà hiện ra”. Cái Tâm này vốn nhiệm mầu, chẳng nhờ tu tập. Làm sao thấy được cái Vốn Diệu đó?

Nói về Thể, thì gọi là Viên Diệu Minh Tâm. Từ cái mầu đẹp (Diệu) khởi ra cái Sáng Soi (Minh), nên gọi là Trọn Vẹn (Viên).

Nói về Dụng, thì gọi là Bửu Minh Diệu Tánh. Tức là ngay nơi Sáng Soi (Minh) mà Mầu Đẹp (Diệu), nên gọi là Quý Báu (Bảo).

Mầu Đẹp mà Sáng Soi, Sáng Soi mà Mầu Đẹp, không dấu vết nhiễm ô, tức là Đại Viên Cảnh Trí. Tất cả Tướng Phần, Kiến Phần đều là bóng hiện ra trong cái gương Đại Viên Cảnh Trí ấy. Nay bỏ quên cái Vốn Diệu ấy (Chân Tâm) mà nhận Thấy, Nghe (Tâm Thức) thì cũng như bỏ cái gương vốn có mà nhận bóng huyễn trong gương. Tuy là có biết đó mà kỳ thật là biết ở trong Mê, cho nên nói Mê trong Ngộ.

Từ chỗ “Nhận mê trong ngộ…” cho đến “Rồi lấy cái tướng mờ mịt lăng xăng làm Tâm Tánh”, phải đọc một hơi mới được.

Mê cái Tánh Diệu Minh mà thành Vô Minh. Do cái Vô Minh [Không biết Bổn Tánh] này mà thành ra cái Ngoan Không, nên nói “Mê muội thành Hư Không”. Cái Sở Biến là Ngoan Không và cái Năng Biến là Vô Minh, cả hai hòa hiệp, biến ra Tứ Đại để làm cái Ngoại Sắc của Y Báo [Vũ trụ, thế giới, tất cả sự vật ở thế gian thân tâm dựa nương ở. Nhân bởi nghiệp đời trước cảm ứng ra]. Lấy cái Sắc của bốn Đại xen lẫn với vọng tưởng của Tâm biến ra Nội Sắc của Chánh Báo [Căn thân. Theo nguyên nhân của nghiệp đời trước cảm ứng ra (thường gọi là trả báo) ngay nơi thân thể] chúng sanh.

Tưởng là vọng tưởng; tướng là vọng sắc. Tướng Tưởng làm Thân thì Kiến Phần và Tướng Phần đều đầy đủ, tức là Thức Thứ Tám. “Nhóm các duyên dao động bên trong” tức là Thức Thứ Bảy. “Rong ruổi theo cảnh ngoài” tức là Thức Thứ Sáu. Lấy cái Vô Minh này biến ra cái Tướng mờ mịt lăng xăng lẫn với duyên trần, rồi nhận cái đó làm Tự Tâm, há chẳng mê muội sao?

Cái Chân Tâm Diệu Minh tức là Pháp Thân trong sạch dọc suốt ba tế [Quá khứ, hiện tại và vị lai], ngang khắp mười phương chứ đâu phải ràng buộc trong thân sao? Còn cái thấy, nghe này thì rời mắt ắt không thấy, xa tai thì chẳng nghe; lấy nó làm Tâm, đó là cái lầm quyết định cho Tâm ở trong sắc thân. Đâu có biết rằng cái sắc thân này cho đến những thứ bên ngoài như núi sông, đất đai đều là những vật ở trong cái Chân Tâm Diệu Minh này. Như bóng dáng trùng trùng cũng đều là ảnh trong gương. Cho nên, nhận ra gương, là ngộ ở trong ngộ, gọi là Chánh Biến Tri. Còn nhận lấy bóng, tức là mê trong ngộ, gọi là tánh điên đảo.

Tổ Trường Sa nói rằng: “Nếu ta cứ một mực nêu cao Thiền thì trong pháp đường cỏ sẽ lên cao cả thước! Cực chẳng đã mà nói với các ông: Cùng khắp mười phương thế giới là con mắt của Sa môn! Cùng khắp mười phương thế giới là toàn thân của Sa môn! Cùng khắp mười phương thế giới là quang minh của chính mình! Cùng khắp mười phương thế giới không ai chẳng phải là chính mình. Ta thường nói với các ông: Ba đời Chư Phật, Pháp Giới, Chúng Sanh là cái ánh sáng của Ma Ha Bát Nhã. Khi ánh sáng chưa phát ra, hết thảy các ông hướng về chỗ nào mà rõ biết? Ánh sáng chưa phát còn không có bóng dáng Phật và chúng sanh, thì chỗ nào có được núi sông, quốc độ này đây?”

Khi đó, có nhà sư hỏi: “Như thế nào là con mắt của Sa môn?”

Tổ Sa rằng: “Mút mắt, ra chẳng khỏi”.

Lại nói: “Thành Phật, thành Tổ ra chẳng khỏi! Sáu nẻo luân hồi ra chẳng khỏi!”

Nhà sư rằng: “Chưa rõ cái gì ra chẳng khỏi?”

Tổ Sa rằng: “Ngày thấy mặt trời, đêm thấy sao”.

Hỏi: “Học nhân chẳng hiểu”.

Tổ Sa rằng: “Núi Cao Sơn [Tu Di] xanh lại càng xanh”.

Hãy nói là lời này của Tổ Trường Sa là chỉ cái Thức Tinh Nguyên Minh [Thức Tinh Vốn Sáng] hay là cái Bảo Minh Diệu Tánh? Hãy phân biệt rõ ràng xem!

Kinh: “Ví như bỏ cả trăm ngàn biển lớn trong lặng, chỉ nhận một cái bọt nước mà cho nó là toàn thể cả nuớc, cùng hết các biển lớn. Các ông là những kẻ mê lầm nhiều lớp, như cánh tay Ta buông xuống không khác gì. Như Lai gọi là đáng thương xót đó.

Thông rằng: Biết “Cái thấy sông” thật chẳng sanh diệt, hình như thuộc về ngộ, nhưng chấp Cái thấy sông này là ở trong sắc thân thì đó là mê trong ngộ. Cũng như bỏ biển cả mà nhận lấy bọt nước đã là mê, lại còn cho rằng bọt nước là toàn thể biển cả thì chẳng phải là mê trong mê hay sao?

Bỏ mất Chân Tánh mà nhận lấy cái Thấy-Nghe đã là mê, lại cho rằng cái Thấy-Nghe là cái Tánh chẳng sanh diệt, chẳng phải là mê trong mê sao? Chẳng ngộ mà mê, thì chỉ một lớp mê. Còn ngộ mà trong mê thì cái tình chấp lại càng sâu dày lắm, chẳng phải là chồng thêm nhiều lớp mê sao?

“Như cánh tay Ta buông xuống”, cái Thấy của ông có phân biệt, đã là điên đảo. Huống là đầu đuôi đổi nhau, xuôi ngược lầm lẫn thì há chẳng phải là điên đảo gấp bội sao? Đã ở trong điên đảo mà còn hỏi “Sao Đức Thế Tôn lại bảo chúng tôi là điên đảo?”, là điên đảo ở trong cái điên đảo vậy. Đó là cái mê ở trong mê vậy! Nên mới nói “Các ông là những người mê lầm nhiều lớp”.

Ngài Quốc sư Kính Sơn Khâm đang ngồi với Quốc sư Huệ Trung ở nội đình [Cung vua], thấy vua ngựï đến, Ngài đứng dậy.

Vua nói: “Thầy sao lại đứng dậy?”

Ngài nói: “Đàn việt đâu có thể hướng vào bốn oai nghi mà thấy bần đạo”.

Vua vui lòng.

Lại vua Túc Tông hỏi Ngài Huệ Trung Quốc sư : “Ngài ở Tào Khê được Pháp gì?”

Ngài đáp : “Bệ hạ có thấy một mảnh mây trong hư không chăng?”

Vua đáp : “Thấy”.

Ngài đáp rằng : “Đóng đinh vào đó. Treo dính lên đó”.

Vua lại hỏi : “Thế nào là mười Thân của Phật?”

Ngài bèn đứng thẳng lên mà rằng: “Am hiểu chăng?”

Vua nói: “Không hiểu”.

Ngài nói rằng: “Đưa qua đây cho lão tăng cái tịnh bình”.

Vua lại hỏi: “Thế nào là Vô Tránh [Không tranh cãi] Tam Muội?”

Ngài nói: “Đàn việt nhảy lên đỉnh Tỳ Lô mà đi”.

Vua hỏi: “Ý ấy thế nào?”

Ngài nói: “Chớ nhận Pháp Thân trong sạch của chính mình (tự kỷ)”.

Vua lại hỏi mà Ngài đều chẳng nhìn đến. Vua nói: “Trẫm là vua nước Đại Đường, Thầy sao lại chẳng nhìn đến?”

Ngài nói: “Vua có thấy hư không chăng?”

Vua đáp: “Thấy”.

Ngài nói: “Hư không ấy có chớp mắt nhìn Bệ hạ không?”

Xem chỗ chỉ bày của hai Ngài, một vị thì lấy “Sự chẳng thể hướng vào bốn oai nghi mà thấy bần đạo”, một vị thì lấy “Cái hư không có chớp mắt nhìn Bệ hạ chăng?”, thật đâu có hề lầm là ở trong sắc thân. Cái Thấy này với Cái thấy sông cách nhau như trời khác đất. Đáng cùng với Ông Tu Bồ Đề thấy Pháp Thân Phật, đồng gọi là Chánh Biến Tri. Tóm lại, lấy Niệm làm Tri thì Tâm chẳng khắp.

Ngài Mã Minh dạy: “Nếu cái tâm có động thì chẳng phải là Cái Biết Chân Thật. Cái tướng động đó là niệm khởi lên làm ngăn ngại vậy. Lìa tất cả các niệm ngăn ngại thì cái Biết bèn cùng khắp”.

IX. LỰA BỎ TÂM PHAN DUYÊN ĐỂ CHỈ TÁNH THẤY KHÔNG THỂ TRẢ VỀ ĐÂU

Kinh: Ông Anan vâng nghe lời Phật từ bi cứu độ dạy bảo, khóc lóc khoanh tay bạch Phật rằng: “Tuy tôi vâng nghe diệu âm của Phật như vậy, ngộ được cái Tâm Nguyên Diệu Minh là cái Tâm Địa tròn đầy thường trụ, nhưng tôi ngộ được pháp âm Phật vừa nói, là tôi hiện lấy tâm phan duyên mà thỏa mãn chỗ ước mong. Được tâm ấy một cách mơ hồ, chưa dám nhận là Tâm Địa xưa nay. Mong Phật thương xót, tuyên lời viên âm, nhổ gốc rễ nghi ngờ cho tôi để được trở về đạo Vô Thượng”.

Phật bảo Ông Anan: “Các ông còn lấy tâm phan duyên để nghe pháp thì cái pháp đó cũng là cái được duyên, chẳng phải được Pháp Tánh. Ví như có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người kia, thì người kia phải nhân ngón tay mà thấy mặt trăng. Chứ nếu người kia nhìn ngón tay mà cho đó là cái Thể của mặt trăng, thì không những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất cả ngón tay nữa. Tại sao thế? Vì lấy ngón tay chỉ mặt trăng mà làm mặt trăng vậy. Chẳng những bỏ mất ngón tay mà lại cũng không biết đâu là sáng và tối. Vì sao thế? Vì lấy cái Thể của ngón tay làm Tánh Sáng của mặt trăng, không biết hai tánh sáng, tối. Ông cũng như vậy đó”.

Thông rằng: Ông Anan ngộ được cái Tâm Nguyên màu sáng tròn đầy vốn chẳng phải là duyên. Tâm Địa thường trụ vốn là Ông Chủ vậy. Nhưng nay nhìn Phật, nghe Pháp, là còn thuộc vọng tâm phan duyên, chưa biết cái Tâm Địa Bổn Nguyên do đâu mà rõ biết? Nói tức là cái này, thì không dám. Nói lìa cái này mà có thì hiện ở đâu? Đức Phật sắp phá cái sai lầm của tâm phan duyên, nên trước chỉ bày rằng cái Pháp đang nói ra cũng chỉ là cái sở duyên, bởi thế Phật dạy “Cái Pháp đang được ông nghe đó cũng chỉ là sở duyên, chớ chẳng phải được Pháp Tánh”. Pháp bày ra là để thấy Tánh, thấy được Tánh thì Pháp không còn chỗ dùng. Kinh Kim Cang nói: “Ví như cái bè. Pháp còn nên bỏ huống là chẳng phải pháp”. Ở đây lại lấy ví dụ ngón tay chỉ mặt trăng, thấy được mặt trăng thì bỏ quên ngón tay đi vậy. Các bậc Cổ đức dẫn dụ phần nhiều tương hợp với chỗ này.

Có câu :

Trong bóng mây màu người tiên hiện

Tay cầm quạt hồng-la che mặt

Cần gấp đưa mắt xem người tiên

Chớ nhìn cây quạt trong tay tiên.

Lại còn nói :

Một thỏ phi thân ngang lối xưa

Ưng xanh vừa thấy liền bắt sống

Đến sau chó săn không linh tính

Chỉ hướng cây khô chỗ cũ tìm.

Ông Tô Đông Pha có bài văn: “Có một người mù hỏi hình thể mặt trời ra sao? Người kia lấy cái mâm đồng mà chỉ cho, người mù gõ lên nghe có tiếng. Ngày khác, nghe tiếng chuông cho đó là mặt trời!”

Có vị tăng hỏi Tổ Pháp Nhãn: “Ngón tay thì chẳng hỏi, thế nào là mặt trăng?”

Tổ Nhãn nói: “Ngón tay mà ông chẳng hỏi đó, là cái gì thế?”

Lại có vị tăng hỏi: “Mặt trăng thì chẳng hỏi, thế nào là ngón tay?”

Tổ Nhãn đáp: “Mặt trăng”.

Vị tăng nói: “Kẻ học nhân hỏi ngón tay, Hòa Thượng vì sao lại trả lời mặt trăng?”

Tổ Nhãn nói: “Vì ông hỏi ngón tay”.

Nếu rõ được gia phong [Thói nhà] của Pháp Nhãn tức thì ngón tay, mặt trăng bày rõ. Chẳng thế, thì ngay mặt lại lầm qua.

Kinh: “Nếu lấy cái phân biệt pháp âm của Ta mà làm tâm của ông, thì cái tâm ấy phải rời sự phân biệt tiếng nói mà tự nó có tánh phân biệt. Ví như người khách ngủ trọ quán trạm, ở tạm rồi đi, chẳng thể thường trụ mãi. Còn người chủ trạm thì không đi đâu cả, mới gọi là chủ trạm. Ở đây cũng thế, nếu thật là Tâm của ông thì chẳng đi đâu cả.

Thông rằng: Pháp âm đang nói là cái sở duyên. Chỗ sở duyên ấy, không thể chấp lấy làm Chân. Cái phân biệt pháp âm là cái năng duyên. Cái năng duyên đó há lại có thể y vào nó mà cho là Chân? Ngay khi cái Tâm và cái Tiếng gặp nhau, thì có sự phân biệt rõ ràng, nhưng Cái Phân Biệt đó cũng chỉ tạm thời, giống như người khách. Đến khi cái Tâm và cái Tiếng rời nhau ra, cái phân biệt mất hết, nhưng cái Tánh Phân Biệt không mất. Tánh này chẳng bởi nghe pháp mà có, chẳng bởi không nghe pháp mà thành không, nên gọi là chủ nhân. Nơi chỗ này thấy được, mới gọi là thấy Tánh. Nếu chấp lấy cái tâm phan duyên nghe pháp làm Tự Tánh, thì cũng giống như nhận khách làm ông chủ vậy.

Thầy Đại Điên [Đại Điên Hòa Thượng. Được mối thiền Tào Khê, nối pháp Tổ Thạch Đàu, ở Ấp Tây U Lãnh, dưới chân núi lập thiền viện Linh Sơn, truyền pháp cho đệ tử cả ngàn người] ban đầu tham học với Tổ Thạch Đầu.

Tổ hỏi: “Cái gì là Tâm ông?

Thầy Đại Điên nói: “Thấy ngôn ngữ là đó”.

Tổ Đầu bèn hét đuổi ra.

Qua một tuần, thầy Đại Điên bèn hỏi: “Cái trước đã chẳng phải, trừ cái ấy, ngoài ra cái gì là Tâm?”

Tổ Đầu nói: “Dẹp hết nhướng mày chớp mắt, đem Tâm lại đây!”

Thầy Điên nói: “Không có Tâm có thể đem lại được”.

Tổ Đầu rằng: “Xưa nay là có Tâm, sao nói không Tâm? Không Tâm cũng như báng pháp!”

Thầy Đại Điên nghe xong đại ngộ.

Một hôm, đứng hầu Ngài Thạch Đầu, Tổ hỏi: “Ông là tăng tham thiền hay là tăng tu Tịnh Nghiệp (Tịnh Độ) của Châu, Huyện?”

Đại Điên: “Là tăng tham thiền”.

Tổ Đầu: “Cái gì là thiền?”

Đại Điên: “Nhướng mày, chớp mắt”.

Tổ Đầu: “Dẹp hết nhướng mày chớp mắt, đem cái Bổn Lai Diện Mục của ông trình ra xem!”

Đại Điên: “Xin Hòa Thượng dẹp hết nhướng mày chớp mắt ra ngoài để soi xét”.

Tổ Đầu: “Ta dẹp rồi”.

Đại Điên: “Đem trình ra rồi vậy”.

Tổ Đầu: “Ông đã đem trình, Tâm ta thì sao?”

Đại Điên: “Chẳng khác Hòa Thượng”.

Tổ Đầu : “Chẳng liên quan việc ông”.

Đại Điên: “Vốn không vật”.

Tổ Đầu: “Ông cũng không vật”.

Đại Điên: “Đã không vật tức là chơn vật”.

Tổ Đầu: “Chơn Vật là Bất Khả Đắc, tâm ông thấy như vậy phải rất hộ trì”.

Cha con Thạch Đầu mấy phen lật qua, lật lại biện xét cốt để thẩm định Chơn Tâm, vốn là vô sở đắc, gọi là Chơn Chủ Nhân.

Kinh: “Tại sao lìa tiếng lại không có tánh phân biệt? Nói như thế chẳng những đối với tâm phân biệt các tiếng, mà cái phân biệt hình dung của Ta nếu rời các sắc tướng cũng không có tánh phân biệt.

“Như vậy cho đến mọi phân biệt đều không có, chẳng phải Sắc, chẳng phải Không, mà nhóm Câu Xá Ly mê lầm cho là Minh Đế, thì rời các pháp duyên cũng không có tánh phân biệt. Như vậy, Tâm Tánh của ông mỗi mỗi đều có chỗ trả về, làm sao làm chủ?

Thông rằng: Phân biệt âm thanh, phân biệt Sắc, Hương, Vị, Xúc, các Trần đều là bóng dáng phân biệt tiền trần. Tại sao lìa các tiền trần liền chẳng có tự tánh phân biệt? Dù cho diệt hết tất cả Thấy, Nghe, Hay, Biết cho đến phân biệt cũng không còn, ở trong giữ lấy cái Không-Không u nhàn, chẳng phải Sắc, chẳng phải Không mà ngoại đạo chấp lấy làm Minh Đế thì cũng mới chỉ là rời cảnh chứ chưa rời pháp, vẫn còn là bóng dáng phân biệt pháp trần.

Tại sao lại rời pháp duyên thì không có tự tánh phân biệt? Nhờ tiền trần mà có thì rời tiền trần bèn không. Nhờ pháp trần mà có, thì rời pháp trần bèn không có. Cái tánh phân biệt này, mỗi mỗi đều có chỗ trả về, làm sao làm ông chủ? Một cái Động (phân biệt tiền trần), một cái Tĩnh (phân biệt pháp trần) đều thuộc về bóng trong gương: bóng có chỗ trả về, gương thì chẳng có trả về đâu hết. Một lần đến, một lần đi đều thuộc về khách. Khách có về, chủ không có chỗ về. Không nhận gương mà nhận bóng, không nhận chủ mà nhận làm khách thì Tâm Tánh của ông cũng đồng với đoạn diệt, lấy gì làm Chân Tâm Thường Trụ?

Tổ Đại Điên thượng đường dạy rằng: “Phàm là người học đạo, cần phải biết cái Bổn Tâm của nhà mình. Thường thấy kẻ học đạo đời nay chỉ lấy nhướng mày, nháy mắt, một nói một nín rồi tự ấn khả mà cho là tâm yếu, như vậy thật là chưa rõ. Nay ta vì các ông mà nói ra rõ ràng, mỗi người nên nghe lãnh: chỉ dẹp trừ hết thảy hiện lượng tưởng niệm vọng động, đó tức là Chân Tâm. Cái Tâm này dầu với trần cảnh hay khi giữ vắng lặng, tuyệt không có giao thiệp, dính dáng gì. Tức Tâm là Phật, chẳng đợi tu hành, sửa chữa. Tại sao thế? Ứng cơ tùy chiếu, an nhiên tự dùng. Cùng tột chỗ dùng vốn bất khả đắc. Gọi đó là Diệu Dụng, ngay ấy là Bổn Tâm, phải rất hộ trì, không thể dễ dãi”.

Tổ Đại Điên chỉ ra rõ ràng ông chơn chủ, tiết lộ quá nhiều! Do đây có thể biết là Chơn Tâm cách biệt hẳn với Minh Đế của ngoại đạo.

Phái Số Luận phân tích vũ trụ gồm hai mươi lăm Đế, trừ Minh Đế là chẳng phải Sắc, chẳng phải Không, chẳng phải Tâm, còn lại đều chẳng ra ngoài Sắc, Không và Tâm.

Giác Đế Ngã Tâm, năm Tri Căn, năm Tác Nghiệp Căn, Tâm Bình Đẳng Căn cho đến Thần Ngã thuộc về Tâm. Năm Trần, năm Đại thuộc về Sắc. Không Đại thuộc về Không.

Cái Đế đầu tiên hết gọi là Minh Tánh, suy nghĩ cho là thường tồn. Cái Đế thứ hai mươi lăm gọi là Thần Ngã cũng cho là thường. Thần Ngã suy nghĩ về Thánh cảnh của mình thì Minh Tánh bèn biến đổi thành hai mươi ba Đế còn lại để cho Thần Ngã dùng. Chỗ mà Ngã thọ dụng, thì bị cảnh trói buộc, chẳng được giải thoát. Nếu Ngã chẳng suy nghĩ thì Minh Đế chẳng biến tức không trói buộc, cái Ngã bèn giải thoát. Đây là tông chỉ của phái này.

Ông Cáo Tử dạy rằng: “Chẳng được nơi lời thì chớ cầu nơi Tâm. Chẳng được nơi Tâm, chớ cầu nơi Khí”, rõ là một lối với Minh Đế, có người nói đó là Thiền, thật lầm to!

Kinh: Ông Anan thưa: “Nếu cái Tâm Tánh của tôi mỗi mỗi đều có chỗ trả về, thì cái Diệu Minh Nguyên Tâm mà Như Lai nói đó sao lại không trả về? Xin Phật thương xót chỉ bảo cho tôi điều ấy”.

Phật bảo Ông Anan: “Hãy lấy cái Kiến Tinh Minh Nguyên [Cái Thấy Vốn Sáng] của ông thấy tôi đây. Tuy cái Thấy này không phải là cái Minh Tâm Diệu Tinh [Chân Tâm], nhưng nó như mặt trăng thứ hai, chứ chẳng phải là bóng của mặt trăng (trên mặt nước). Ông nên nghe kỹ, nay Ta chỉ cho ông cái nghĩa không thể trả về.

“Này Ông Anan, cái đại giảng đường này mở rộng về phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng, nửa đêm không trăng, mây mù mờ mịt thì lại tối tăm. Chỗ có các cửa thì thấy thông suốt, chỗ có tường nhà thì thấy ngăn bít. Chỗ phân biệt được thì thấy cảnh sắc duyên. Chỗ trống rỗng toàn là hư không. Khi bụi nổi lên thì cảnh tượng mù mịt. Mưa tạnh trời quang lại thấy trong sạch.

“Này Ông Anan, ông đều xem rõ các tướng biến hóa ấy. Nay ta trả mỗi thứ về chỗ bản nhân của chúng. Thế nào là Bản Nhân? Ông Anan, các thứ biến hóa này: cái sáng trả về cho mặt trời. Vì sao thế? Vì không mặt trời thì không sáng, ánh sáng thuộc về mặt trời, nên trả về cho mặt trời. Cái tối trả về cho đêm không trăng. Thông suốt trả về cho các cửa. Ngăn bít trả về cho tường vách. Sắc duyên trả về cho phân biệt. Trống rỗng trả về cho hư không. Mù mịt trả về cho bụi bặm, trong sáng trả về cho trời tạnh. Tất cả những sự vật gì trong thế gian đều không ra ngoài những loại ấy.

“Còn cái Thấy (Kiến Tinh Minh Tánh) của ông thấy tám thứ kia thì ông định trả về đâu? Tại sao thế? Nếu trả nó về cho cái sáng, thì lúc không sáng chẳng thể thấy tối. Tuy là sáng tối các thứ có sai biệt, còn cái Thấy không có sai biệt.

“Các thứ có thể trả về, tự nhiên chẳng phải là ông, còn cái không trả về được, không phải chính ông thì là ai? Thế mới biết rằng Tâm ông vốn nhiệm mầu, sáng sạch, ông tự mê muội bỏ mất Bổn Tánh mà chịu luân hồi sanh tử, thường bị chìm đắm. Thế nên Như Lai gọi là đáng thương xót!”.

Thông rằng: Cái Thấy phân biệt duyên trần với cái Kiến Tinh Minh Nguyên khác nhau ở chỗ Năng, Sở. Cái Kiến Tinh Minh Nguyên đối với cái Minh Tâm Diệu Tinh phân ra ở chỗ Thể, Dụng. Bởi thế, cái Minh Tâm Diệu Tinh như mặt trăng thật, cái Kiến Tinh Minh Nguyên như mặt trăng thứ hai (do đè lên mắt mà thấy), còn cái Thấy phân biệt duyên Trần như bóng mặt trăng trong nước.

Trong hư không, nói cho cùng chỉ có tám thứ : sáng, tối, thông, bít… tới, lui, nên nói “Không ngoài các thứ ấy”. Cũng phảng phất tương tự như Bát Quái : trong sáng và mù mịt là tượng của Càn Khôn. Ngày sáng, đêm tối là tượng của Khảm, Ly. Thông, bít là tượng của Cấn, Đoài. Sự phân biệt thuộc động, tượng của Chấn. Tánh hư không tựa gió, nên là tượng của Tốn vậy.

Còn nơi Tâm người thì “thông, bít” gồm đủ cả mê, ngộ. “Duyên, sắc, hư không” đủ cả Hữu, Vô. Đục, trong gồm đủ cả thế trần và giác ngộ. Sáng, tối đủ cả Thánh, phàm. Tất cả đều là cảnh. Cảnh thì có sai biệt, cái Thấy không có sai biệt. Có sai biệt thì có chỗ trả về, còn không sai biệt thì vốn tự bất động. Các thứ có thể trả về là Cảnh, là Vật, chẳng phải là ông. Cái “Tự ông” chẳng thể trả về cho vật là cái Thấy, chẳng phải Vật, đó là cái Chơn Kiến Tinh của ông vậy. Có thể trả về gọi là Khách, không trả về đâu được là Chủ. Cái Kiến Tinh Minh Nguyên đã là như vậy, huống gì là cái Chơn Tâm vốn nhiệm mầu, sáng sạch không rơi vào cái Thấy, là Ông Chủ ở trong Ông Chủ. Ông Chủ trong Ông Chủ là cái căn bản chẳng sanh chẳng diệt, người người đều sẵn đủ, chẳng ở ngoài đến. Chẳng tự mình làm Ông Chủ, lưu lạc làm Khách là cũng bởi không nhận ra mặt trăng thật, mà lại nhận bóng mặt trăng trong nước làm Tự Tâm, làm sao khỏi đắm chìm sanh tử?

Có vị tăng hỏi Tổ Tào Sơn: “Cổ đức nói “Hết cả đại địa độc chỉ có một người này”, chưa biết là người nào?”

Tổ Sơn nói: “Chẳng thể có mặt trăng thứ hai”.

Hỏi : “Như thế nào là mặt trăng thứ hai?”

Tổ Sơn nói : “Cái đó cần lão huynh định lấy!”

Hỏi : “Thế sao là mặt trăng thứ nhất?”

Tổ Sơn nói : “Nguy!”

Một chữ Nguy này đủ thấy Tổ Tào Sơn chẳng dám bỏ mất Tánh Bổn Nhiên mà chịu luân hồi, chỗ tối thân thiết vậy.

Thầy Báo Từ Văn Toại thường nghiên cứu Thủ Lăng Nghiêm, ra mắt Tổ Pháp Nhãn, kể lại chỗ sinh sống của mình rất phù hợp với ý chỉ của kinh. Tổ Nhãn rằng: “Kinh Lăng Nghiêm há chẳng có cái nghĩa “Tám chỗ trả về” ư ?”

Sư Toại đáp : “Dạ, có”.

Tổ hỏi : “Cái sáng trả về cái gì?”

Đáp : “Sáng trả về mặt trời”.

Tổ hỏi : “Mặt trời trả về cái gì?”

Sư Toại ngẩn ngơ, không đáp được. Từ đó, khâm phục Tổ mà cầu học.

Thế mới biết cái chuyện Ông Chủ trong Ông Chủ chẳng phải là chỗ mà Chú, Sớ đến được.

Ngài Đoan Sư Tử tụng rằng:

“Giáo pháp Bát Hoàn có đã lâu

Từ xưa Chư Tổ mỗi phanh phui

Dầu chi hoàn được không hoàn được

Ấy cũng sức tôm chẳng khỏi thau”.

(Bát Hoàn chi giáo thùy lai cửu

Tự cổ tông sư các phân phẫu

Trực nhiên hoàn đắc bất hoàn thời

Dã thị hà khiên bất xuất đẩu).

X. LỰA RIÊNG TRẦN CẢNH ĐỂ NÊU RA TÁNH THẤY

Kinh: Ông Anan bạch: “Tuy tôi biết Tánh Thấy ấy không thể trả về đâu, nhưng làm sao biết được đó là Chân Tánh của tôi?”

Phật bảo Ông Anan: “Nay tôi hỏi ông: hiện ông chưa được đạo quả Vô Lậu Thanh Tịnh, nhờ thần lực của Phật mới thấy cõi Sơ Thiền không chướng ngại. Ông A Na Luật thì thấy cõi Diêm Phù Đề như xem quả Am Ma La trong bàn tay. Các vị Bồ Tát thấy trăm ngàn cõi. Mười phương Như Lai thì cùng tột các quốc độ thanh tịnh nhiều như vi trần, không chỗ nào không thấy. Còn chúng sanh thì thấy rõ được không quá gang tấc.

“Anan, nay tôi cùng ông hãy xem cung điện của Tứ Thiên Vương, chặng giữa xem khắp các loài Thủy, Lục, Không, Hành. Tuy có nhiều hình tượng sáng tối khác nhau, nhưng không có cái gì không phải là tiền trần phân biệt ngăn ngại. Ông hãy ở đó, phân biệt mình, vật. Nay tôi để ông lựa chọn trong sự thấy đó: cái gì là Ngã Thể (Tự Tánh) của ông, cái gì là hình tướng của vật?

“Anan, cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng đều là vật chứ chẳng phải ông, cho đến bảy núi Kim Sơn, xem xét cùng khắp tuy có những thứ ánh sáng nhưng cũng là vật chớ không phải ông. Lần lần xem đến: mây kéo, chim bay, gió động, bụi nổi, cây cối, núi sông, cỏ rác, người vật đều là vật chứ không phải là ông.

“Anan, các vật xa gần đó tuy sai khác nhau nhưng đồng do cái Thấy (Kiến Tinh) trong sạch của ông trông thấy, thì các vật đó tuy có sai khác mà Tánh Thấy không sai khác. Cái Tinh Diệu Minh này thật là Tánh Thấy của ông”.

Thông rằng: Ban đầu, Ông Anan hỏi cái Nguyên Tâm Diệu Minh tại sao không trả về. Đức Phật thấy cái Chân Tâm ấy không dấu vết, khó mà chỉ bày nên nương vào cái Kiến Tinh Minh Nguyên mà phương tiện chỉ bày. Cái Kiến Tinh rất gần với Chân Tâm, như mặt trăng thứ hai rất gần với mặt trăng thật. Nhưng cái Thấy này cũng là Vọng, cũng cần phải trả về, chỉ có mặt trăng thật ví dụ cho Chân Tánh là không thể trả về.

Văn sau có nói “Khi thấy mà có tướng thấy, cái thấy này không phải là cái thấy chân thật”. Thì há không phải cái Thấy này cũng có thể trả về hay sao? Ông Anan tuy biết cái Kiến Tinh không trả về, đã ngộ được cái nghĩa mặt trăng thứ hai, lại hỏi “Làm sao biết được đó là Chân Tánh của tôi?”, đó là muốn nghiệm xét cái nghĩa Mặt trăng thứ nhất, cái Tánh không thể trả về này hiện phải có phương tiện nào để khiến ta tự biết, tự tin vậy. Phật vẫn dùng cái Kiến Tinh mà phân tách, chỉ bày: cái bị Thấy là Vật, cái Thấy là ông. Vật có sai khác, cái Thấy không sai khác. Không sai khác là Kiến Tinh, cái Thấy.

Nói “Trông thấy trong sạch”, là vì tuy nhờ sắc căn trong sạch là con mắt để thấy bốn Đại, nhưng cũng do Tánh Thể Trong Sạch xưa nay phát khởi, không do tạo tác nên tự mầu đẹp (Diệu) mà sáng soi (Minh), gọi là Tánh Thấy. Cái Thấy (Kiến Tinh) đã là Chân Kiến của ông thì cái Tánh Thấy chẳng phải là Chân Tánh của ông sao? Cho nên nói “Cái Tinh Diệu Minh này thật là Tánh Thấy của ông”.

Vốn là Tánh thì chỉ có Một. Nhưng cái mức trong sạch của sự Thấy thì chẳng bằng nhau, tức là do thấu cùng cái Tánh hay chẳng thấu cùng cái Tánh mà có sai khác.

Phật Nhãn thì cùng tột mười phương quốc độ trong sạch của Như Lai nhiều như vi trần, không chỗ nào là không thấy. Pháp Nhãn là con mắt của Chư Bồ Tát thì thấy trăm ngàn thế giới. Huệ Nhãn là như Ông Tu Bồ Đề thấy Pháp Thân Phật. Thiên Nhãn, như Ông A Na Luật thấy cõi Diêm Phù Đề như thấy trái Am Ma La trong bàn tay. Nhục Nhãn, là chúng sanh thì thấy không quá gang tấc. Ông Anan chưa được thanh tịnh vô lậu, nhưng nhờ thần lực của Phật nên thấy cõi Sơ Thiền, đó là Nhục Nhãn mà được Thiên Nhãn. Chỗ thấy của năm loại Nhãn chẳng đồng, nhưng cái Thấy thì không hai, nên mới nói là “Không sai khác”. Hẳn là phải đến Phật Nhãn mới thấu cùng các cõi như vi trần, mới tròn đủ cái Dụng của Tánh Thấy.

Có nhà sư hỏi Tổ Vân Môn: “Như thế nào là Tổ Sư Tây lai ý?”

Tổ đáp: “Suốt ngày xem núi”.

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

“Thản nhiên tăng hỏi lão sư yên

Dường đặng Thiều Dương một câu truyền

Suốt ngày xem núi, tay tiên lộ.

Đêm khuya vượn hú, nguyệt ngoài hiên”.

Hãy nói “Suốt ngày xem núi” là chỉ cái Thấy hay chỉ Tánh Thấy, đối cùng “Tổ Sư Tây lai ý” hiểu thế nào đây?

Ngài Vân Cư Trí nói rằng: “Cái Tánh Trong Sạch xưa nay trong lặng, chẳng có một chút động lay, không thuộc Hữu, Vô, lìa ngoài Nắm, Bỏ, Tánh Thể làu làu, vốn tự như nhiên. Thấy rõ ràng như vậy, mới gọi là Thấy Tánh (Kiến Tánh). Tánh tức Phật, Phật tức Tánh nên nói là “Kiến Tánh thành Phật”.

Hỏi : “Tánh vốn trong sạch, chẳng thuộc Hữu, Vô sao lại còn có thấy?”

Đáp : “Thấy không chỗ thấy”.

Hỏi : “Đã không có chỗ thấy, sao lại còn có Tánh?”

Đáp : “Kiến Xứ (chỗ thấy) cũng không”.

Hỏi : “Như vậy thì khi thấy là ai thấy?”

Đáp : “Không người để thấy”.

Hỏi : “Rốt cùng thì như thế nào?”

Đáp : “Tính toán hư vọng mà cho là Có, liền có năng, sở: bèn mang tiếng là mê. Theo cái Thấy hư vọng đó sanh chuyện hiểu biết, liền đọa sanh tử. Người thấy biết rõ ràng thì chẳng có vậy. Suốt ngày thấy mà chưa hề thấy. Tìm cầu danh, xứ, thể, tướng bèn chẳng có được. Năng, sở đều dứt tuyệt, gọi là Thấy Tánh”.

Hỏi : “Cái Tánh này trải khắp cả thảy nơi chăng?”

Đáp : “Không đâu chẳng khắp”.

Hỏi : “Phàm phu đủ chăng?”

Đáp : “Đã nói là không đâu chẳng khắp thì phàm phu sao lại chẳng đủ?”

Hỏi : “Cớ sao Chư Phật, Bồ Tát chẳng bị sanh tử ràng buộc, mà chỉ có phàm phu bị trói cột vào cái khổ này, thì sao lại trải khắp?”

Đáp : “Phàm phu ở ngay trong Tánh trong sạch này vọng thấy có năng, có sở : bèn sa vào sanh tử. Chư Phật, Bồ Tát khéo biết trong Tự Tánh trong sạch nào có hữu, vô nên chẳng lập năng, sở”.

Hỏi : “Nếu nói như vậy thì có người hiểu, người chẳng hiểu hay sao?”

Đáp : “Cái hiểu còn chẳng thể được, há có người hiểu sao ?”

Hỏi : “Tột lý như thế nào?”

Đáp : “Ta lấy yếu lý mà nói, ông phải biết rằng trong Tánh trong sạch không có hữu, vô, phàm, Thánh; cũng chẳng có người hiểu, người không hiểu. Phàm với Thánh, cả hai chỉ có danh. Nếu theo danh mà khởi sanh hiểu biết liền đọa vào sanh tử. Nếu biết mọi sự đều giả danh, không thật, tức thì không có cái mang danh”.

Ngài lại nói: “Đây là chỗ tột rốt ráo : như cho rằng ta hiểu, kia chẳng hiểu, tức là đại bệnh. Thấy có phàm Thánh, dơ sạch, cũng là đại bệnh. Khởi niệm không có phàm Thánh, lại là bác không có nhân quả. Thấy có cái Tánh trong sạch để có thể trụ dừng, cũng là đại bệnh. Khởi kiến giải chẳng có trụ dừng cũng là đại bệnh. Như vậy, trong Tánh trong sạch, chẳng phá hoại phương tiện ứng dụng mà hưng vận từ bi. Như thế, chỗ đạo tràng hưng vận đó, tức toàn Tánh trong sạch, nên nói là Thấy Tánh thành Phật”.

Lời dạy trên của Tổ Vân Cư rất gần với câu “Thấy Tánh do lìa tướng Thấy” của kinh, nên trích ra đầy đủ.

Kinh: “Nếu cái Thấy là vật thì chắc ông cũng có thể thấy được cái Thấy của Ta. Nếu ông cho rằng khi chúng ta cùng thấy sự vật là ông thấy cái Thấy của Ta, thì khi ta không thấy sao ông không thấy được chỗ không Thấy của Ta? Nếu cho là ông thấy được cái không Thấy của Ta, thì cái không Thấy của Ta làm gì có tướng để cho ông thấy? Còn nếu không thấy được chỗ không Thấy của Ta thì cái Thấy tự nhiên chẳng phải là vật, sao nó lại chẳng phải là ông?”

Thông rằng : Quả là Đức Phật nêu lên cái ý của Ông Anan, thế giới như cái lồng đèn trên cây cột, đều có Danh, có Tướng thì “Cái Kiến Tinh Minh Nguyên là cái vật gì, xin khiến cho tôi được biết?” Phật bèn gợi ý rằng: “Khi ta thấy cái đài hương, thì ông làm sao?”

Anan nói : “Tôi cũng thấy đài hương, tức là thấy chỗ Thấy của Phật”.

Đức Phật nói: “Ta thấy cái đài hương thì ông cũng dễ biết, còn khi ta chẳng thấy đài hương, thì ông thế nào?”

Anan đáp: “Tôi cũng không thấy cái đài hương, tức là thấy chỗ chẳng Thấy của Phật”.

Đức Phật nói: “Ông nói rằng khi không Thấy thì tự ông biết. Vậy thì cái chỗ không Thấy của người khác, ông làm sao mà biết được?”

Người xưa đến trong cái Ấy, chỉ khá tự mình biết lấy, với người khác nói chẳng được! Chỉ như Thế Tôn nói: “Khi Ta không thấy, cũng như con linh dương treo sừng, tiếng vang, dấu vết, tin tức đều tuyệt dứt, ông hướng về đâu tìm kiếm?”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Toàn tượng (voi), nguyên trâu mù hết thảy

Xưa nay gây nghiệp, gọi chung khuôn

Như nay muốn gặp Hoàng Đầu Lão [Chỉ Phật]

Cõi Phật vi trần tại giữa đường”.

Ngài Tuyết Đậu đưa ra con mắt Giáo Pháp, chỉ tụng thấy Phật. Ngài Thiên Đồng thâm đắc ý kinh, tụng chỉ ngay cái Chân Kiến.

Tụng rằng:

“Biển cả giọt khô, hư không đầy ứ

Thầy tu lỗ mũi dài, Cổ Phật đầu lưỡi cụt

Đàn vừa qua chín khúc, thể ngọc một phen đổi

Ngay đó gặp nhau, ai biết hắn

Mới tin người ấy chẳng bạn bè”.

Tắc này là cơ duyên của hai lớp công án, hết sức phát huy mà chỉ nói được một nửa!

Kinh: “Lại nữa, nếu cái Thấy là vật thì đang khi ông thấy vật, ông đã thấy vật rồi thì vật cũng phải thấy ông. Thế là Thể và Tánh xen lộn, tức là ông với Ta cùng với cả thế gian không an lập được.

“Ông Anan, nếu khi ông thấy, đó chính là ông nào có phải Ta, thì cái Tánh Thấy cùng khắp đó chẳng phải là chính ông thì còn là ai? Tại sao lại tự nghi Chân Tánh của mình. Tánh của ông vốn không Chân hay sao mà bám lấy Ta cầu tìm cái thật?”

Thông rằng: Bộ Hiệp Luận nói rằng “Nghĩa của đoạn kinh này phát sanh từ một câu “Làm sao biết đó là Chân Tánh của tôi?” Nên Đức Thế Tôn mới khai thị cái tướng của sự không Thấy để khiến hiểu rõ Chân Tánh mà chẳng nên tìm cầu ở nơi phân biệt”.

Ngài Mã Minh nói “Tất cả Như Lai đều là Pháp Thân, bởi vì không có cái thấy kia-đây, sai khác, đồng nhau”. Nên nói rằng “Nếu thấy cái chẳng thấy thì tự nhiên đó không phải là cái tướng không thấy của người kia”. Nói “chẳng phải người kia” thì chỉ là cái tướng chẳng thấy của Anan đó thôi, mà không phải là cái chẳng thấy của Đức Thế Tôn. Vậy ắt là chỗ không thấy của Thế Tôn thì Anan không thể thấy được, chỉ có Thế Tôn thấy được. Nên nói rằng “Nếu không thấy được chỗ không thấy của Ta, thì cái thấy của ông chẳng phải là vật”. Nói “Chẳng phải vật” không phải là cái thấy của Thế Tôn, mà chỉ là cái tướng của cái chẳng thấy của Anan. Nếu Đức Thế Tôn cũng thấy cái thấy của Anan và Anan cũng thấy cái thấy của Thế Tôn” thì tức là cái Tánh Thấy trong sạch thành ra cái vật có hình tướng. Nên mới nói “Thể, Tánh lộn xộn chẳng có an lập”. Cái chỗ chẳng thấy là chỗ căn bản, quyết chẳng thể nào thấy được. Cũng như trồng cây mà hằng này cứ moi rễ lên xem thì cây sống sao được.

Ngài Phó Đại Sĩ có bài kệ :

“Có vật trước trời đất

Vốn phẳng lặng không hình

Hay làm chủ muôn tượng

Chẳng theo bốn mùa tàn”.

Bài này chỉ ra rõ ràng cái Chân Tánh, chẳng phải là chỗ cái thấy đến được. Vậy mới là mặt trăng thứ nhất, chứ chẳng phải riêng cái Kiến Tinh Minh Nguyên mới là không thể thấy được mà thôi đâu.

Đoạn kinh này ý nghĩa rất vi diệu, không có chỗ nào chẳng phát minh cái Tinh Diệu Minh, thật là cái Tánh Thấy của ông. Sao lại nói: “Cái thấy này là ông chứ không phải là vật”? Sở dĩ nói “Cái thấy không phải là vật”, vì nếu cái thấy là vật, thì cái thấy của tôi, ông có thể thấy. Nhưng cái thấy của tôi thì hẳn là ông không thể thấy được. Nếu bảo khi ông và tôi cùng thấy là ông thấy cái thấy của tôi, thì khi tôi thấy, ông có thể thấy cái thấy ấy. Còn khi tôi không thấy, thì ông vẫn thấy được chứ tại sao lại không được? Nếu bảo rằng khi tôi thấy, thì thấy cái thấy ấy; khi tôi không thấy thì thấy cái chẳng thấy mà cho đó là thấy chỗ chẳng thấy của tôi, thì đã tự mình không thấy chứ sao lại nói là thấy được cái tướng không thấy của tôi? Muốn lấy cái tướng chẳng thấy của tôi làm chỗ thấy của ông, rõ ràng đó là cái tướng của thấy mà chẳng phải là cái tướng của không thấy. Cái chỗ chẳng thấy đó hẳn nhiên ông không thể thấy được. Khi chỗ chẳng thấy đã không thể thấy, vậy khi cùng thấy cũng chẳng có thể thấy. Thấy cùng chẳng thấy đều không thể chỉ ra, thì cái thấy của tôi rõ ràng chẳng phải là vật.

Cái thấy của tôi đã không phải là vật thì cái thấy của ông rõ ràng cũng không thể là vật. Cái thấy của ông đã chẳng phải vật, tức là không thuộc về vật, tại sao chẳng phải là ông? Đây tức là lấy sự chẳng thể Thấy để biện rõ cái chẳng phải là vật vậy. Giả sử có thể thấy được, thì cái thấy cũng là vật thì làm sao làm chủ muôn tượng mà an lập thế gian? Cho nên, có cái Không Hình mới hiện ra hình tướng, có cái Không Phải Vật mới hay biết sự vật.

Cái thấy của tôi, cái thấy của ông, đã chẳng phải vật thì chẳng có ranh giới giáp nhau, đầy khắp pháp giới, không thiếu hụt, dư thừa chỗ nào. Hữu Tình và Vô Tình đều do cái ấy mà kiến lập, gọi đó là Chân Tánh. Cái Tánh mà chẳng thật là ông, thì cái thấy cũng chẳng thuộc về ông mới phải. Nhưng rõ ràng cái thấy là của ông mà chẳng phải là của tôi, thì cớ sao lại tự nghi nó chẳng chân thật, mà phải bám vào Ta để cầu xin cái Thật? Giả sử ta có thể đem cho ông được, thì chẳng phải là cái Chân Thật của ông vậy.

Có vị sư hỏi thiền sư Thượng Lam Siêu: “Thế nào là việc bổn phận của Thượng Lam?”

Tổ Lam rằng: “Chẳng theo ngàn Thánh mượn. Há hướng vạn sự cầu?”

Nhà sư hỏi: “Không mượn, không cầu, thì như thế nào?”

Tổ Lam rằng: “Chẳng thể cầm nắm. Trong tay Xà Lê đưa ra được ư?”

Tổ Đơn Hà tụng rằng:

“Một phiến Linh Minh vốn diệu viên

Ở trong không chánh cũng không thiên [Nghiêng]

Núi báu, cỏ lành không gốc rễ

Chẳng đợi Chúa Xuân, sắc tự nhiên”.

(Nhất phiến Linh Minh bổn diệu viên

Cá trung phi chánh diệc phi thiên

Bửu phong thoại thảo vô căn đế

Bất đải Xuân Công sắc tự tiền).

Ngộ chỗ này ắt biết Chân Tánh vốn không vật. Không vật thì không hỗn tạp. Không hỗn tạp nên vật và ta đồng nguồn, hồn nhiên đầy đủ. Nếu hướng theo người tìm cầu cho được, đều là chẳng phải.

Kinh : Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, nếu cái Tánh Thấy ấy thật là tôi chứ không phải ai khác, thì khi tôi cùng Như Lai xem cung điện quí báu của Tứ Thiên Vương, xem mặt trời, mặt trăng, cái Thấy ấy cùng khắp cõi Ta Bà, khi lui về tịnh xá thì chỉ thấy cảnh vườn chùa, đến khi thanh tâm nơi phòng chái thì chỉ thấy một chái nhà. Thưa Thế Tôn, cái Thấy như thế, Thể của nó xưa nay cùng khắp một cõi. Vậy mà nay ở trong phòng thì chỉ thấy một phòng, thế là cái Thấy rút lại từ lớn thành nhỏ hay tường nhà chia cắt làm cho đứt đoạn? Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Thế Tôn vì tôi từ bi chỉ rõ”.

Phật bảo Ông Anan: “Tất cả mọi thứ trong, ngoài, lớn, nhỏ của thế gian đều thuộc về tiền trần, không nên nói cái Thấy có co, có duỗi. Ví như trong đồ vật hình vuông thì thấy hư không vuông. Ta lại hỏi ông: “Cái hư không vuông ở trong đồ vật vuông ấy là nhất định vuông hay không nhất định vuông? Nếu nhất định vuông, thì khi thay cái đồ vật tròn vào lẽ ra hư không không tròn! Nếu không nhất định thì tại trong đồ vật vuông lẽ ra đã không có hư không vuông! Ông nói: Không biết nghĩa ấy do đâu; nghĩa đó như thế, chứ còn do đâu nữa?

“Anan, nếu muốn vào được cái không vuông, không tròn thì chỉ cần trừ bỏ cái vuông của đồ đạc, chứ cái Thể của hư không thì vốn không vuông. Chẳng nên nói rằng: lại phải trừ cả cái tướng vuông của hư không nữa!

“Lại như lời ông hỏi: Khi vào phòng, rút cái Thấy làm cho nhỏ lại, vậy thì khi ngẩng xem mặt trời, há lại kéo cái Thấy lên bằng mặt trời? Nếu xây tường nhà mà chia cắt cái Thấy làm cho đứt đoạn, thì khi xoi một lỗ nhỏ, sao lại không thấy dấu nối? Nghĩa ấy không đúng vậy!

“Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, mê mình mà làm vật, bỏ mất Bản Tâm, bị vật xoay chuyển, cho nên ở trong đó mà thấy lớn thấy nhỏ. Nếu có thể chuyển được vật thì đồng với Như Lai, thân tâm tròn sáng. Đó là Đạo Tràng Bất Động, trên đầu một mảy lông, trùm chứa mười phương quốc độ”.

Thông rằng: Ông Anan nói “Tánh Thấy có khắp chính là tôi chứ không ai khác. Thì chỗ Thấy của tôi cũng đồng với Phật Nhãn, tại sao khi xem mặt trời, mặt trăng thì khắp cõi Ta Bà, mà nay ở trong nhà thì chỉ đầy một nhà, vậy là cái Thấy này có co duỗi, lớn bé chẳng đồng, sao lại bảo là không sai khác ?” Đó là không biết rằng có lớn, có bé là do ở tiền trần, chớ chẳng quan hệ gì tới cái Tánh Thấy. Ví như vuông, tròn là do ở đồ vật, nào dính dáng gì đến hư không. Ở trong đồ vật mà xem hư không thì hình như có tướng vuông, tròn. Chỉ dẹp bỏ đồ vật đi, thì hư không ắt chẳng có vuông, tròn nào có thể chỉ ra được. Duyên theo trần mà xét cái Thấy thì hình như có tướng co, duỗi. Chỉ lìa tiền trần, thì Tánh Thấy vốn chẳng có co duỗi nào có thể được. Cái Thấy mà xoay chuyển theo tiền trần, cũng như xét hư không mà chẳng ở trong chính thái hư, lại nhìn trong một món đồ.

Thế nên, ở trong ấy thấy lớn thấy nhỏ, đó là mê mình là vật vậy. Còn nếu chuyển được vật, tức thì tất cả Sắc đều là Phật Sắc, tất cả mọi cái Thấy đều là cái Thấy của Phật. Một phen thân tâm quang đãng, rỗng không thì vật không còn chướng ngại, nên nói là thân tâm tròn sáng. Ở trong cái Viên đó, một tức là tất cả, nơi đầu một mảy lông trùm chứa khắp mười phương quốc độ, lại chẳng đồng với Phật Nhãn sao?

Có vị tăng hỏi Ngài Huỳnh Bá: “Đã nói Tánh tức là Thấy, Thấy tức là Tánh. Nếu như Tánh vốn không chướng ngại, không giới hạn thì sao cách vật chẳng thấy? Lại như trong hư không, gần thì thấy, xa thì không thấy là thế nào?”

Tổ Huỳnh Bá nói: “Đó là ông vọng sanh dị kiến. Nếu cách vật thì nói là không thấy, không có vật ngăn ngại thì nói là thấy, rồi cho là Tánh có cách ngại thì quả là chẳng hiểu gì cả. Tánh chẳng phải Thấy, chẳng phải không Thấy. Pháp cũng chẳng phải Thấy, chẳng phải không Thấy. Như người thấy Tánh thì chỗ nào mà chẳng phải là Bổn Tánh của mình? Nên chi sáu đường, bốn loại, núi sông, đất đai đều là cái Tánh trong sạch sáng suốt của ta. Thế mới nói : thấy Sắc tức là thấy Tâm. Sắc và Tâm chẳng hai, chỉ vì giữ lấy cái tướng mà khởi sanh Thấy, Nghe, Hay, Biết. Trừ bỏ vật trước mặt mới cho là Thấy, tức là sa vào kiến giải nương theo sự Thấy, Nghe, Hay, Biết của hàng Nhị Thừa. Trong hư không mà gần thì thấy, xa thì chẳng thấy, đó thuộc về ngoại đạo. Rõ ràng là: Đạo chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài, chẳng gần cũng chẳng xa. Quá gần mà không thể thấy, đó là Tánh của muôn sự muôn vật. Quá gần mà còn không thể thấy, huống là nói “Xa nên chẳng thể thấy”, thì đâu có ý nghĩa gì?”

Tổ Kính Thanh hỏi nhà sư: “Tiếng gì ngoài cửa vậy?”

Nhà sư rằng: “Tiếng giọt mưa”.

Tổ Thanh rằng: “Chúng sanh điên đảo, mê mình theo vật”.

Nhà sư hỏi: “Hòa Thượng như thế nào?”

Tổ Thanh rằng: “Nhuần nhã chẳng lầm lạc mình”.

Nhà sư hỏi: “Nhuần nhã chẳng lầm lạc mình, ý chỉ thế nào?”

Tổ Thanh rằng: “Lìa thân (xuất thân) còn khá dễ, thoát thể nói khó thay!”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Nhà im, tiếng giọt mưa

Nhà sư khó đáp lại

Nếu bảo từng Nhập Lưu [Vào dòng]

Như trước, sao chẳng hiểu!

Hiểu, chẳng hiểu?

Non Nam, núi Bắc chuyển mưa rào”.

Đây khá gọi là khắp pháp giới chẳng từng che dấu vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Cốc Ẩm Thông: “Nếu hay chuyển vật, tức đồng Như Lai. Muôn tượng là vật, làm sao chuyển được?”

Tổ Thông đáp: “Ăn cơm rồi, tuyệt không ý trí. Như có ý trí, tức bị vật chuyển vậy”.

Lại có vị sư hỏi Ngài Thiều Quốc sư: “Thế nào là Chuyển vật tức đồng Như Lai?”

Tổ Thiều đáp: “Ông gọi cái gì là vật?”

Nhà sư nói: “Như thế tức là đồng với Như Lai?”

Tổ Thiều nói: “Đừng làm con giả can mà tru! Suy nghĩ so sánh chuyện đồng với Như Lai, tức xa ngàn dặm, vạn dặm!”

Có nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu: “Trong mười hai thời dụng tâm thế nào?”

Tổ Châu nói: “Ông bị mười hai thời sai sử, lão tăng sai sử được mười hai thời”.

Đó là sự Chuyển Vật chân thật vậy.

Ngài BaÏch Vân Đoan tụng rằng:

“Nếu hay chuyển vật tức Như Lai

Xuân ấm hoa rừng chốn chốn khai

Vẫn có một đôi tay khô đét

Chưa từng rẻ rúng múa ba đài”.

(Nhược năng chuyển vật tức Như Lai

Xuân noãn sơn hoa xứ xứ khai

Tự hữu nhất song cùng tưởng thủ

Bất tằng dung dị vũ tam đài).

Ngài Chơn Như Triết tụng rằng:

“Nếu hay chuyển vật tức Như Lai

Cửa mở nơi nơi, thấy Thiện Tài

Trong ngõ liễu hoa bày nhảy múa

Say theo chín nẻo, ngủ lâu đài”.

(Nghược năng chuyển vật tức Như Lai

Xứ xứ môn khai kiến Thiện Tài

Hoa liễu hạng trung trình vũ hý

Cửu cù thừa túy ngọa lâu đài).

Nơi đầu một mảy lông trùm chứa khắp mười phương quốc độ. Với Phật Nhãn, thế giới hiện toàn chân chắc được, còn chúng sanh có thể như vậy không?

Ông Thứ Sử đất Giang Châu là Lý Bột hỏi Tổ Quy Tông: “Trong kinh giáo có nói: “Núi Tu Di ngậm chứa hột cải”, thì Bột này chẳng nghi. Nhưng nói: “Hột cải ngậm chứa núi Tu Di”, thì phải chăng là nói dối?”

Tổ Tông nói: “Người ta đồn Thứ Sử đọc vạn quyển sách, có thật không?”

Đáp: “Có vậy”.

Tổ Tông nói: “Rờ từ đầu đến gót chỉ như trái dừa lớn, vậy vạn quyển sách để ở chỗ nào?”

Ông Lý Bột cúi đầu mà thôi.

Do đây mà suy, tâm lượng của chúng sanh cùng với Như Lai nào có sai khác!

MỤC 3: PHẬT NÊU RA TÁNH THẤY NGOÀI CÁC NGHĨA “PHẢI” VÀ “CHẲNG PHẢI”
I. NGHI TÁNH THẤY HIỆN Ở TRƯỚC MẮT

Kinh: Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, nếu cái Thấy đó (Kiến Tinh) thật là Diệu Tánh của tôi, thì cái Chân Tánh đó hiện đang ở trước mắt tôi. Cái Thấy đó thật là tôi, thì thân tâm tôi hiện giờ lại là vật gì? Mà nay thân tâm này thật có phân biệt, còn cái Thấy kia lại không phân biệt riêng gì với thân tôi. Nếu nó thật là Tâm tôi, khiến cho tôi hiện nay có thấy, thì cái Tánh Thấy ấy thật là tôi mà thân này không phải là tôi. Thế thì đâu có khác gì trước kia Như Lai đã hỏi vặn rằng “Vật thấy được tôi”. Xin Phật rũ lòng đại từ, mở bày cho kẻ chưa ngộ”.

Thông rằng: Đoạn trước nói “Nhận vật lấy làm mình”, đoạn này nói “Mê mình làm vật”. Trước thì “Ở nơi Vọng mà lựa chọn cái Chân”, tức là tự Thân Mình mà lại gọi là vật. Ở đây thì “Lấy Chân mà hòa với Vọng”, thì muôn vật không có gì chẳng phải là Mình. “Ở nơi Vọng mà chọn lựa cái Chân”, mà nói Mình và Vật khác nhau, còn có thể tự biện ra. Chứ đến chỗ “Lấy Chơn mà hòa với Vọng” để nói Ta với Vật đều đồng thì thật là khó hiểu. Vì thế Anan nói “Nếu hay chuyển được vật tức đồng Như Lai”. Vậy thì cái Thấy này có khắp pháp giới, chỗ Thấy là núi là sông đều là Diệu Tánh của ta đó, nhỉ. Nay cái Diệu Tánh này bày trước mặt ta. Nếu cái Thấy ở trước mặt đã là Chân Tánh của ta, thì cái thân tâm phụ thêm này lại là cái gì? Nếu nói cái thân tâm chẳng phải là Tánh thì hiện giờ thân tâm vẫn hay biết rành rẽ. Nếu nói cái bày trước mặt đều là Tánh thì cái Thấy đó chẳng phân biệt được thân ta.

Nếu nói cái Thấy ấy vô hình, hồn nhiên cùng vật đồng thể, đúng là Bổn Tâm ta, có cảm mà ứng, khiến cho ta hiện giờ có thể thấy được, vậy Tánh Thấy chính thật là ta, đầy khắp trước mặt, mà sao lại có một cái thân trơ trọi ù lì lại chẳng phải là ta! Nào khác gì trước đây Như Lai đã hỏi vặn “Ông đã thấy vật, vật cũng phải thấy ông”. Cái Thấy này cũng bèn là ở ngoài, sao lại nói được đó là Chơn Tánh của ta?

Cứ theo chỗ thấy của Ông Anan tựa hồ trộm thấy được cái Tịch Diệt hiện tiền. Chỉ vì Ngã Kiến chưa trừ, ánh sáng chưa thấu thoát, trước mặt còn mơ hồ có vật, nên chưa thể hòa lẫn “Ta-Vật”, tiêu hết “Phải-Trái” vậy.

Tổ Thạch Đầu nhân xem bộ Triệu Luận đến chỗ “Hội muôn vật làm mình, thì chỉ có bậc Thánh Nhân mà thôi. Không có Mình nên không có chỗ nào chẳng phải là Mình! Pháp Thân không hình tượng, ai đâu có ta-người? Gương tròn chiếu diệu giữa hư không, muôn vật nhiệm mầu mà tự hiện. Gương Trí còn chẳng phải một, nào nói được chuyện đến-đi?”

Tuyệt làm sao lời nói ấy!

Sau này có vị tăng hỏi Tổ Trường Sa: “Làm sao chuyển được núi sông, quốc độ trở về nơi mình?”

Tổ Sa nói: “Làm sao chuyển được tự mình thành núi sông, quốc độ?”

Tăng nói: “Thưa, chẳng hiểu”.

Tổ Sa nói:

“Dưới thành Hồ Nam thích nuôi dân.

Gạo rẻ, củi nhiều đủ bốn phương”.

Vị tăng không có lời nói. Ngài bèn khai thị bằng bài kệ:

“Ai nói sông núi chuyển?

Sông núi chuyển về đâu?

Viên thông không hai phía

Pháp Tánh vốn không về”.

(Thùy vấn sơn hà chuyển

Sơn hà chuyển hướng thùy

Viên thông vô lưỡng bạn

Pháp Tánh bổn vô quy).

Đọc lời của hai vị tôn túc mà có nghi cái nghi của Ông Anan, thì có thể vỡ lở băng tan vậy.

II. CHỈ RA KHÔNG CÓ CÁI GÌ TỨC LÀ CÁI THẤY

Kinh: Phật bảo Ông Anan: “Nay ông nói rằng “Cái Thấy ở trước mắt ông”, nghĩa ấy không đúng. Nếu thật ở trước mắt ông và ông thật thấy được thì cái Thấy ấy (Kiến Tinh) đã có chỗ ở, không phải không thể chỉ ra được. Nay tôi và ông ngồi trong rừng Kỳ Đà, trông khắp rừng, suối và các điện, đường, trên đến mặt trời, mặt trăng, trước đối có sông Hằng. Nay ông bây giờ trước tòa sư tử của tôi, đưa tay chỉ bày trong các thứ hình tướng kia: chỗ im mát là rừng, cái sáng là mặt trời, ngăn ngại là vách, thông suốt là hư không, như thế cho đến cỏ cây, mảy mún, nhỏ lớn khác nhau, nhưng đã có hình thì không cái gì là không chỉ thẳng ra được. Vậy, nếu quả cái Thấy hiện ở trước mắt ông, thì ông hãy lấy tay chỉ rõ đích xác cái gì là cái Thấy. Anan, ông nên biết: nếu hư không là cái Thấy thì hư không đã thành cái Thấy, cái gì mới là hư không? Nếu vật là cái Thấy, thì vật đã thành cái Thấy, cái gì mới là vật? Ông hãy chia chẻ tỉ mỉ muôn tượng để tách ra cái Thấy trong sạch, sáng suốt mà chỉ bày cho Ta như các vật kia, rõ ràng không nhầm lẫn”.

Ông Anan bạch Phật: “Nay tôi ở trong giảng đường này, xa trông đến sông Hằng, trên đến mặt trời, mặt trăng. Đưa tay chỉ ra, đưa mắt mà xem thì những cái chỉ ra được đều là vật, chứ không có cái gì là cái Thấy. Thế Tôn, như lời Phật dạy, chẳng những hàng hữu lậu sơ học, Thanh Văn như chúng tôi, mà cho đến các vị Bồ Tát cũng không thể ở nơi hiện tượng muôn vật chỉ ra cái Thấy mà lìa ngoài tất cả vật lại có riêng tự tánh”.

Phật nói: “Đúng thế, đúng thế!”

III. CHỈ RA KHÔNG CÓ CÁI GÌ RA NGOÀI TÁNH THẤY

Phật lại bảo Ông Anan: “Như lời ông nói: Không có cái Thấy mà lìa ngoài tất cả vật lại riêng có tự tánh, do đó trong tất cả các vật chỉ ra được, không có cái gì là cái Thấy cả. Nay ta lại bảo ông: Ông cùng Như Lai ngồi trong rừng Kỳ Đà, lại xem vườn rừng cho đến mặt trời, mặt trăng, đủ thứ hình tượng khác nhau, chắc không có cái Thấy cho ông chỉ ra được. Vậy ông hãy phát minh trong các vật đó, cái gì chẳng phải là cái Thấy?”

Ông Anan bạch: “Quả thật, tôi nhìn khắp rừng Kỳ Đà này chẳng biết trong đó có cái gì không phải là cái Thấy. Tại sao thế? Nếu cái cây chẳng phải là cái Thấy thì làm sao thấy được cây? Còn nếu cái cây là cái Thấy thì sao lại là cây? Như thế cho đến nếu hư không chẳng phải là cái Thấy, thì làm sao thấy hư không. Nếu hư không tức là cái Thấy, thì sao lại là hư không? Tôi lại suy nghĩ: trong muôn vật đó, phát minh cho kỹ lưỡng, thật không có cái gì chẳng phải là cái Thấy cả”.

Phật nói: “Đúng thế, đúng thế!”

Thông rằng: Ông Anan đã biết “Cái chỉ được đều là vật, không có cái gì là cái Thấy” thì thân tâm ta cho đến núi sông bên ngoài, không có Tánh Thấy riêng biệt có thể chỉ ra được, mà sao lại nói “Nay cái Diệu Tánh ấy hiện bày trước mặt tôi”? Hơn nữa, đã biết “Trong muôn tượng, không có cái gì chẳng phải là cái Thấy”; tức thân tâm ta cho đến núi sông bên ngoài không có cái gì chẳng phải là Tánh Thấy, sao lại còn hỏi “Tánh Thấy thật là tôi, mà thân chẳng phải là tôi”?

Đức Thế Tôn bèn khiến ông tự phát huy, khiến cái nghi ngờ từ trước được giải tan ngay.

Xưa, thầy Thủ Tòa Tử Chiêu hỏi Hòa Thượng Pháp Nhãn: “Hòa Thượng khai đường kế pháp người nào?”

Tổ Nhãn rằng : “Ngài Địa Tạng”.

Thầy Chiêu nói: “Rất phụ phàng Tiên Sư Trường Khánh!”

Tổ Nhãn: “Tôi chẳng hiểu một lời chuyển ngữ của Ngài Trường Khánh”.

Thầy Chiêu nói : “Sao không hỏi?”

Tổ Nhãn : ““Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân [Vạn tượng chi trung độc lộ thân]” ý là sao?”

Thầy Chiêu bèn dựng đứng cây phất tử.

Tổ Nhãn : “Đó là cái học được ở chỗ Ngài Trường Khánh, còn riêng Thủ Tòa thì sao?”

Thấy Chiêu không nói được.

Tổ Nhãn nói : “Chỉ như Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân, đó là bác bỏ muôn tượng hay không bác bỏ muôn tượng?”

Thầy Chiêu đáp : “Chẳng bác bỏ”.

Tổ Nhãn nói : “Hai cái!”

Hỏi những người chung quanh, đều nói : “Bác bỏ muôn tượng”.

Tổ Nhãn nói: “Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân, cái Phù trừ quỉ!”.

Về sau, Thượng Tọa Tử Phương cũng từ Trường Khánh đến.

Tổ Nhãn lại đưa ra câu nói ấy. Thầy Tử Phương cũng dựng phất tử.

Tổ Nhãn nói: “Như thế này thì lại tranh cãi được!”

Thầy Phương nói: “Tôn ý của Hòa Thượng như thế nào?”

Tổ Nhãn đáp: “Kêu cái gì làm muôn tượng?”

Thầy Phương: “Người xưa chẳng bác bỏ muôn tượng!”

Tổ Nhãn nói: “Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân. Nói gì bác, chẳng bác?”

Thầy Tử Phương bỗng tỏ ngộ lời nói trước của Tổ Pháp Nhãn.

Cái loại cơ duyên này vốn từ chỗ Ngài Địa Tạng mà đắc, làm sao chẳng phải nói pháp Ngài Địa Tạng!

Mới đầu, Tổ Pháp Nhãn cùng với thầy Thiệu Tu, Pháp Tấn ba người đi đến Ngài Địa Tạng. Ngồi sưởi mà bàn về bộ Triệu Luận. Đến câu “Trời đất cùng ta đồng gốc”, Ngài Địa Tạng hỏi: “Núi sông, đất đai với tự kỷ của Thượng Tọa là đồng hay khác?”

Ngài Pháp Nhãn đáp: “Khác”.

Tổ Tạng đưa lên hai ngón tay.

Ngài Nhãn nói: “Đồng”.

Tổ Tạng lại đưa lên hai ngón tay, rồi đứng lên bỏ đi.

Tuyết ngưng, ba người từ giã ra về.

Tổ Tạng đưa tiễn ra cửa, rồi nói: “Bình thường, Thượng Tọa hay nói “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Bèn chỉ phiến đá ngoài sân, hỏi: “Hãy thử nói phiến đá kia là ở trong tâm hay ở ngoài tâm?”

Ngài Pháp Nhãn nói: “Ở trong tâm”.

Tổ Tạng nói: “Người hành cước vì lý do nào mà lại để phiến đá ở trong tâm?”

Ngài Pháp Nhãn cùng quẫn, không sao đáp được, bèn ném áo xuống chiếu, ở lại để cầu quyết trạch. Hơn một tháng, ngày kia Ngài trình kiến giải, nói cái lý đạo.

Tổ Tạng nói: “Phật Pháp chẳng phải như thế”.

Ngài Pháp Nhãn nói : “Tôi đã hết lời, tuyệt lý rồi”.

Tổ Tạng nói: “Nếu luận Phật Pháp, thì hết thảy hiện thành”.

Ngài Pháp Nhãn, ngay dưới câu nói đại ngộ. Mới tin rằng chỗ học được với Ngài Trường Khánh là chưa tới.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Lìa niệm: thấy Phật

Dẹp trần: ra kinh

Hiện thành gia pháp

Nào lập môn đình?

Trăng cùng thuyền lướt, sông trong vắng

Xuân theo ngọn cỏ ngấn tươi xanh

Bác, chẳng bác – Nghe cho kỹ!

Ba đường hoang trống về liền được

Tùng cúc thuở xưa hương vẫn thơm”.

(Ly niệm kiến Phật

Phá trần xuất kinh

Hiện thành gia pháp

Thùy lập môn đình

Nguyệt trục chu hành giang luyện tịnh

Xuân thùy thảo thượng thiên ngấn thanh

Bác, bất bác thinh đinh ninh

Tam kính tựu hoang quy tiện đắc

Cựu thời tùng cúc thượng phương hình).

Hãy lấy tắc công án này cùng với đoạn kinh trên, lật đi lật lại cho rõ ràng mùi mẻ, thì chẳng biết là Ông Quách Tượng [Nhà chú giải Trang Tử Nam Hoa Kinh] giải thích Trang Tử, hay Trang Tử giải thích Quách Tượng?

Kinh: Khi ấy, trong đại chúng những vị chưa chứng quả Vô Học nghe Phật nói thế, mờ mịt chẳng biết nghĩa ấy đầu đuôi thế nào, nên đồng thời sợ hãi, mất chỗ bám níu.

Như Lai biết đại chúng tâm niệm rối loạn, sanh lòng thương xót, an ủi Ông Anan và đại chúng rằng: “Này các trai lành, bậc Vô Thượng Pháp Vương, thật là Chân Thật Ngữ: như tánh Chân Như mà nói, không dối, không vọng, không phải là bốn thứ nghị luận càn dở Bất Tử của nhóm Mạt Già Lê. Ông hãy suy nghĩ chín chắn, chớ phụ lòng thương mến của Ta”.

Thông rằng: “Mờ mịt chẳng biết nghĩa ấy trước sau thế nào?” Trước là, “Cái Thấy chẳng phải là vật”. Sau là, “Cái Thấy chẳng phải là không phải vật”. Cái trước tức là “Chân Tánh hiện tiền”, cái sau tức là “Không thể chỉ ra được”. Cho nên mờ mịt mất chỗ bám níu vậy.

Chân Thật Ngữ v.v… tức là năm lời nói trong Kim Cang Bát Nhã:

– Phật Chân Ngữ thì chung với Nhị Thừa;

– Phật Thật Ngữ thì chung đồng với hàng Bồ Tát;

– Phật Như Ngữ thì không chung với Bồ Tát hay Nhị Thừa;

– Phật Vô Thật Ngữ;

– Phật Vô Hư Ngữ.

Vô Hư nên không là lời lừa dối, Vô Thật nên chẳng có khác lời. Chỗ thấy chưa dứt khoát cho nên nói “Chẳng khác”. Đây chỉ để nói tóm là không vọng ngữ.

Trong Luận Bà Sa: “Ngoại đạo cho trời là thường trụ, gọi là Bất Tử, cho rằng đáp lời mà chẳng rối loạn thì sanh về cõi trời kia. Nếu thật chẳng biết mà vội trả lời, thì sợ thành Kiểu Loạn [Dối trá, lộn xộn]. Nên khi hỏi thì đáp những lời bí mật, không cần phải nói ra đây. Hoặc là đáp một cách bất định. Phật quở rằng : Đó thật là kiểu loạn ”.

Đức Thế Tôn, nhân có ngoại đạo hỏi: “Hôm qua Ngài thuyết pháp gì ?”

Phật đáp : “Thuyết định pháp”.

Ngoại đạo lại hỏi: “Hôm nay thuyết pháp gì?”

Ngài đáp: “Bất định pháp”.

Ngoại đạo nói: “Hôm qua giảng định pháp, hôm nay sao lại giảng bất định pháp?”

Đức Phật nói: “Hôm qua định, hôm nay chẳng định”.

Hãy nói xem lời nói này của Thế Tôn là như Tánh Chân Như mà nói hay là kiểu loạn? Hãy tham!

IV. NGÀI VĂN THÙ KÍNH XIN PHẬT PHÁT MINH HAI THỨ

Kinh: Lúc ấy, Ngài Pháp Vương Tử Văn Thù Sư Lợi thương xót hàng tứ chúng, ở giữa đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, các đại chúng đây không ngộ được chỗ Như Lai phát minh hai nghĩa Tức Là (Thị) và Chẳng Phải Là (Phi Thị) nơi hai thứ Cái Thấy và Sắc Không. Thưa Thế Tôn, nếu những hình tượng tiền trần sắc không trước mắt tức là cái Thấy thì phải có chỗ chỉ ra được. Còn nếu chẳng phải là cái Thấy thì lẽ ra không thể thấy được. Nay đại chúng không rõ nghĩa ấy về đâu, nên mới kinh sợ, chứ không phải căn lành đời trước kém thiếu. Kính mong Như Lai thương xót, phát minh cho rõ: các vật tượng này và cái Thấy ấy vốn là vật gì mà ở trong đó không có các nghĩa Phải (Thị) cùng Chẳng Phải (Phi Thị)?”

Phật bảo Ngài Văn Thù cùng tất cả đại chúng rằng: “Mười phương Như Lai và các Đại Bồ Tát ở trong Tự Trụ Tam Ma Địa, thì trong ấy, cái thấy và cái được thấy cùng các chỗ Tưởng Tướng đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không chỗ có. Cái thấy cho đến những cái được thấy, tất cả vốn là Thể Bồ Đề sáng sạch nhiệm mầu. Làm sao ở trong đó lại có Phải hay Chẳng Phải?”

Thông rằng: Đức Văn Thù là thầy của bảy vị Phật thời quá khứ, quen thuyết Như Lai Thiền, nên yêu cầu Thế Tôn phát minh ra các vật tượng và cái Thấy vốn là vật gì. Trước, Đức Thế Tôn đã dạy “Sao chẳng biết sắc thân cho đến núi sông, hư không, đại địa đều là vật ở trong cái Chân Tâm Diệu Minh này”. Đã mở toang rõ ràng ra rồi, còn nói gì nữa! Vậy mà ở trong đó, bác bỏ vạn tượng thì mới có cái Chẳng Phải, không bác bỏ vạn tượng thì bèn có cái Phải. Hai tướng Phải, Chẳng Phải thật cùng cực vi tế, chỉ có cái Thấy chân chánh trực tiếp Thể Bồ Đề Vô Thượng mới có đường thoát thân. Cái Tâm Tánh Diệu Tịnh sáng suốt này tức là Tự Trụ Tam Ma Địa của Bồ Tát. Ở trong cái Tự Định này thì thoát hẳn căn trần nên cái Thấy cùng cái Được Thấy đều bất khả đắc.

Sắc Không là duyên cho cái Thấy, cho đến Tưởng Tướng là duyên của cái Ý, thuộc về sáu Trần. Thấy, Nghe, Hay, Biết thuộc về sáu Thức. Chứng Bồ Đề, không chỉ là Sở không, mà Năng cũng không. Nên nói “Vốn không chỗ có”, Năng Sở đều không. Cái Thấy cùng cái Được Thấy, hiện là vắng lặng. Tức đó là cái Thể Bồ Đề sáng sạch nhiệm mầu, chẳng kịp luận bàn, chẳng dung phân biệt. “Nhất Thiết Trí thanh tịnh, không hai, không hai phần, vì không riêng, không dứt” [Kinh Đại Bát Nhã] là vậy. Trong đó, làm sao có được phân biệt để mà nói “Cái này phải thật cái Thấy, cái này chẳng phải cái Thấy”? Nếu gượng sanh Phải hay Chẳng Phải, thì cũng như mắt bệnh, vọng thấy Không hoa. Nơi Chân Tánh Bồ Đề, nào đâu dính dáng!

Ngài Thạch Sương ban đầu đến viếng Tổ Đạo Ngô, hỏi rằng: “Như thế nào là “Chạm mắt là Bồ Đề”?”

Tổ Ngô liền gọi: “Sa di!”

Sa di lên tiếng dạ.

Tổ nói: “Thêm nước vào tịnh bình đi!”

Chập lâu rồi hỏi lại Ngài Thạch Sương: “Ông vừa mới hỏi cái gì thế?”

Ngài Thạch Sương vừa định nói, Tổ Ngô bèn quay về phương trượng.

Ngài Thạch Sương bèn tỉnh ngộ.

Tổ Đơn Hà tụng rằng:

“Buông tay trở lại, khéo làm Cơ!

Trong tiếng bình thường trí súng, cờ

Hỏi trùng, định đáp, về phương trượng

Câu ấy, phân minh lại chẳng ngờ”.

Muốn biết cái đạo lý “Chẳng Ngờ”, phải hỏi Ngài Thạch Sương mới được!

Về sau, có nhà sư hỏi Tổ Thạch Sương: “Trong khoảng gang tấc, vì sao chẳng thấy mặt thầy?”

Tổ Sương, cách cửa sổ, lên tiếng rằng: “Đạo ta cùng khắp chẳng từng che!”

Nhà sư lại đem đến hỏi Tổ Tuyết Phong : “Cùng khắp chẳng che”, ý chỉ thế nào?”

Tổ Phong đáp: “Có chỗ nào mà chẳng phải là Thạch Sương?”

Tổ Sương nghe được rồi nói rằng: “Cái lão già ấy bám vào để chết cho lẹ!”

Tổ Phong nghe được, bèn nói: “Tội lỗi của lão tăng vì chỉ dư một chữ “là”, mà dẫn người vào trong hang Tình giải, may gặp Thạch Sương mổ xẻ, phanh phui”.

Trong khoảng mảy lông, chẳng phải là bậc có mắt thì nào có biện ra nổi!

V. TÁNH THẤY KHÔNG CÓ PHẢI HAY CHẲNG PHẢI

Kinh: “Văn Thù, nay ta hỏi ông: “Như ông chính là Văn Thù, vậy thì còn có Văn Thù nào tức là Văn Thù nữa hay không?”

– Bạch Thế Tôn, đúng thế! Tôi chính thật là Văn Thù, không có cái gì tức là Văn Thù nữa. Tại sao thế? Nếu có cái Tức Là nữa thì thành ra hai Văn thù, nhưng giờ đây tôi chẳng phải không là Văn Thù. Trong đó, quả thật không có hai tướng Tức Là hay Chẳng Phải.

Thông rằng: Câu “Tôi chính thật là Văn Thù” trả lời nghĩa thứ nhất, bày ra cái Tâm Thể Bồ Đề sáng sạch, nhiệm mầu.

Câu “Không có cái gì tức là Văn Thù nữa” trả lời nghĩa thứ hai, phá cái chấp Sắc Không là cái Thấy.

Câu “Chẳng phải không là Văn Thù” trả lời nghĩa thứ ba, phá cái chấp Sắc Không chẳng phải là cái Thấy”.

Nếu bảo rằng “Sắc Không là Chơn Kiến”, thế là từ Vọng mà biện Chơn, do đó, đối với Cái Chơn của không Vọng thành ra hai nghĩa, nên nói: Nếu có Tức là Văn Thù thì thành ra hai Văn Thù.

Nếu bảo rằng “Sắc Không chẳng phải là Chân Kiến”, thế mà toàn thể vọng cảnh là chân, nên mới nói “Giờ đây tôi chẳng phải là không Văn Thù”.

Tổ Lạc Phổ bảo với đại chúng: “Nay có một việc muốn hỏi các ông: nếu nói là Phải tức là trên đầu chồng thêm đầu, nếu nói là Chẳng Phải, tức là chặt đầu mà cầu sống”.

Thầy Đệ Nhất Thủ Tòa nói: “Núi xanh thường cất bước, dưới mặt trời chẳng khêu đèn”.

Tổ Phố nói: “Đó là thời tiết nào mà nói lời ấy?”

Khi ấy, có thầy Thượng Tọa Ngạn trả lời rằng: “Lìa hai lối ấy, xin Hòa Thượng chớ hỏi!”

Tổ Phố nói rằng: “Chưa đúng trong đó. Nói lại đi!”

Thầy Ngạn đáp: “Ngạn này theo thì nói không cùng tận!”

Tổ Phố nói: “Ta chẳng kể ông cùng tận hay chẳng cùng tận!”

Đáp: “Ngạn theo hay không theo ấy, chỉ đối với Hòa Thượng”.

Tổ Phố bèn thôi.

Ngài Tu Sơn Chủ kệ rằng :

“Tức là cột, chẳng thấy cột

Chẳng phải cột, chẳng thấy cột

Thị [Tức là], Phi [Chẳng phải] đã bỏ hết

Trong Thị Phi, mời dùng”.

(Thị trụ bất kiến trụ

Phi trụ bất kiến trụ

Thị Phi dũ khứ liễu

Thị Phi lý tiến thủ).

Đối với hai tắc trên mà thấu thoát, thì Thị, Phi có thể tiêu tan hết!

Xưa, Ngài Phong Can muốn đi chiêm bái Ngũ Đài Sơn, hỏi Ngài Hàn Sơn và Thập Đắc rằng: “Các ông cùng ta đi thăm Ngũ Đài, tức là đồng lưu của ta; nếu chẳng cùng ta đi thăm Ngũ Đài thì chẳng phải là đồng lưu của ta!”

Ngài Hàn Sơn hỏi: “Ông đi Ngũ Đài làm gì?”

Ngài Phong Can đáp: “Lễ bái Văn Thù”.

Ngài Hàn Sơn nói: “Ông chẳng phải là đồng lưu của ta”.

Ngài Phong Can một mình đi vào Ngũ Đài, gặp một ông lão, bèn hỏi: “Chẳng phải là Văn Thù ư?”

Đáp: “Há lại có hai Văn Thù?”

Ngài bèn lễ bái, chưa kịp đứng lên, bỗng nhiên chẳng còn thấy.

Tổ Triệu Châu nói thay rằng: “Văn Thù, Văn Thù, lại Văn Thù! Ba phen bỏ Hạ, Ông Ca Diếp muốn bạch chùy đuổi ra. Vừa cầm dùi lên thì thấy có trăm ngàn, vạn, ức Văn Thù. Ông Ca Diếp dùng hết thần lực mà chùy không dỡ nổi. Đức Thế Tôn bèn hỏi Ông Ca Diếp: “Ông định đuổi Văn Thù nào?” Ông Ca Diếp không đáp được”.

Tổ Thiên Đồng nêu ra rằng: “Ông Đầu Đà sắc vàng [Ca Diếp] có tâm mà không có mật. Cứ hết lệnh mà làm! Chớ bảo trăm, ngàn, vạn, ức Văn Thù. Ngay cái Lão Cù Đàm mặt vàng ấy cũng phải đuổi ra! Nếu có thể như vậy thì không những dựng thẳng Chân Phong mà cũng khiến người sau biết rằng học trò của thầy tu ta khỏi cho rằng ông ngăn cản Phật Tổ chẳng được!”

Khoái thay! Khoái thay! Phải nên như vậy mà thấy. Ắt là cái Tâm Thể Bồ Đề sáng sạch nhiệm mầu cũng không có chỗ bám níu, làm sao mà có được hai tướng Thị, Phi?

Kinh: Phật dạy: “Tánh Thấy mầu sáng này cùng các thứ Không, Trần cũng lại như thế. Vốn là Chân Tâm Bồ Đề Vô Thượng, tròn sáng, mầu sạch mà lầm nhận cho là Sắc, Không cho đến các thứ Thấy, Nghe. Như mặt trăng thứ hai. Hai mặt trăng ấy, cái nào là mặt trăng thật, cái nào chẳng phải là mặt trăng ? Văn Thù ! Chỉ có một mặt trăng thật, trong đó tự không có cái Tức Là mặt trăng hay cái Chẳng Phải là mặt trăng!

Thông rằng: Câu “Vốn là Chân Tâm Bồ Đề Vô Thượng, tròn sáng mầu sạch mà lầm nhận là Sắc, Không cùng với các thứ Thấy, Nghe” cùng với câu ở đoạn trước: “Mê muội thành ra hư không, trong cái hư không mê muội ấy, kết cái tối tăm thành ra có Sắc, Sắc xen lẫn với vọng tưởng, tưởng tướng làm thân, nhóm các duyên lay động bên trong, rong ruổi theo cảnh vật bên ngoài, rồi lấy cái tướng mờ mịt lăng xăng đó làm Tâm Tánh”, thì chỗ sanh khởi giống nhau, đều do lấy vọng tưởng làm chỗ sùng mộ vậy. Vọng tưởng là gốc bệnh, như dụi mắt mà thấy vậy. Vốn là một Chân Tâm Mầu Sáng mà lấy cái thấy vọng tưởng phân biệt để nhìn, bèn có cái thấy sắc không, nghe-thấy. Cái vọng thấy và cái vọng-được-thấy này há có thể lìa Chân Tâm mà có tự thể sao? Đã gọi nó là Sắc, Không, Nghe, Thấy thì cách Chân Tâm xa rồi vậy. Ví như vốn một mặt trăng chơn thật, mà dùng cái thấy phân biệt của sự dụi mắt mà nói là có mặt trăng thứ hai. Cái mặt trăng thứ hai này há có thể lìa ngoài mặt trăng thật mà có tự thể sao? Đã gọi nói là mặt trăng thứ hai thì cách xa mặt trăng thật rồi đó. Cho nên, ở nơi Sắc, Không, Nghe, Thấy mà vọng làm chuyện đo lường mò mẫm rồi cho Sắc, Không, Nghe, Thấy tức là Chân Tâm cũng không được, mà cho rằng chẳng phải Chân Tâm cũng không được! Lấy Vọng tìm Chơn : Chơn theo Vọng mà chuyển! Cũng như ở nơi mặt trăng thứ hai mà vọng làm chuyện tính toán mò mẫm, lấy đó cho rằng tức là mặt trăng thì không được, mà cho là chẳng phải mặt trăng cũng không được! Lấy cái dụi mắt tìm trăng, trăng tùy theo dụi mắt mà chuyển!

Cái Tâm này vốn Chơn, bởi tùy Vọng Tưởng mà đổi. Như mặt trăng vốn thật, bởi do dụi mắt mà dời. Chỉ dứt trừ vọng tưởng ắt chỉ còn một Tâm Thể tròn sáng nhiệm mầu, không thấy có sắc, không, không thấy cái thấy-nghe, thì Phải, Chẳng Phải do đâu mà lập? Chỉ trừ sự dụi mắt, ắt độc một mặt trăng, xưa nay vẫn thế, có đâu mặt trăng thứ hai mà Phi mà Thị?

Chỗ này tức là đoạn văn trước nói “Tôi chính thật Văn Thù… Trong đó thật không hề có hai tướng phải cùng chẳng phải”, nên đoạn này nói “Cũng lại như thế”.

Xưa, Ngài Vân Nham đang quét sân.

Tổ Đạo Ngộ nói: “Việc nhỏ mọn quá”.

Vân Nham nói: “Cần biết có cái chẳng nhỏ mọn”.

Tổ Đạo Ngộ nói: “Như thế ắt có mặt trăng thứ hai vậy”.

Ngài Vân Nham đưa chổi lên, nói : “Cái này là mặt trăng thứ mấy?”

Tổ Đạo Ngộ bèn thôi mà bỏ đi.

Tổ Huyền Sa riêng nói rằng: “Đích thị là mặt trăng thứ hai!”

Tổ Trường Khánh rằng: “Bị người ta xây ngược chổi che đến mặt, còn làm quái gì nữa!”

Tổ Sa bèn thôi.

Tổ Vân Môn nói: “Tôi thấy tớ thì ân cần”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Nhờ nhau như thế rõ môn đầu

Được dụng, tùy nghi cũng tiện thôi

Xương voi trước hang tay rắn múa

Chỗ làm hồi nhỏ, già biết thẹn”.

Tổ Tuyết Phong từng khai thị chúng rằng: “Núi Nam có một con miết tỵ xà [Con ba ba lỗ mũi rắn], tất cả các ông cần phải xem cho kỹ”.

Tổ Vân Môn cầm cây gậy ném ra trước mặt, làm bộ sợ hãi.

Chỗ này há chẳng phải là “Tôi thấy tớ thì ân cần” sao? Cùng với Tổ Vân Nham đưa cây chổi lên nào có khác! Cho nên mới nói “Già biết thẹn” vậy.

Thiền sư Tây Viên Tạng một ngày kia tự nấu nước tắm. Có nhà sư hỏi: “Sao chẳng sai Sa di?”

Tổ Viên vỗ tay ba lần.

Vị sư kể lại với Tổ Tào Sơn. Tổ Sơn nói: “Cái vỗ tay, tựu trung là việc kỳ quái của Tây Viên. Một-ngón-tay-Thiền của Câu Chi, cũng vì chỗ thừa đương mà chẳng chịu kham nhận vậy”.

Vị sư lại hỏi: “Ngài Tây Viên vỗ tay, há chẳng phải là chuyện một bên mé của con tôi, cái tớ [Nô nhi, tỳ nữ] sao?”

Tổ Sơn nói: “Phải”.

Hỏi: “Hướng thượng [Từ ngọn chỉ gốc] lại có chuyện hay không?”

Tổ Sơn rằng : “Có”.

Hỏi: “Như thế nào là chuyện hướng thượng?”

Tổ Sơn nói: “Cái đồ con tôi, cái tớ”.

Xem cái lối đề xướng ấy của các vị lão túc, chính là sợ cho người nhận “Tớ làm chồng”, sa vào trong kiến giải mặt trăng thứ hai.

Kinh: “Vậy nên, hiện nay các ông phát minh các thứ Xem Thấy và trần cảnh đều là vọng tưởng, thì không thể ở trong đó mà chỉ ra Phải hay Chẳng Phải. Nhưng do tất cả đều là Chân Tâm nhiệm mầu sáng suốt nên có thể làm cho các ông ra khỏi các nghĩa Chỉ được và Không chỉ được”.

Thông rằng: Nếu chưa thấy Tánh thì Tánh ở trong cái Thấy, cùng tên là Kiến Tinh, đủ các thứ vọng tưởng phân biệt thì làm sao ra khỏi Tức là hay Chẳng Phải được. Nếu thấy Tánh, thì Tánh thoát ngoài cái Thấy, nên chẳng gọi là Thấy, Nghe, Hay, Biết. Tất cả phân biệt đều không, nên thoát ra ngoài sự Chỉ được hay Không chỉ được.

Câu “Không thể ở trong đó chỉ ra các nghĩa Phải và Chẳng Phải”, thì như mặt trăng thứ hai: cái nào Tức là mặt trăng ? Cái nào Chẳng Phải mặt trăng?

Câu “Nên có thể làm cho các ông ra ngoài các sự Chỉ được và Không chỉ được”, thì như một mặt trăng thật, trong đó tự nhiên chẳng có thật hay giả.

Vật là cái được chỉ ra, như đoạn trước nói “Những cái chỉ ra được đều là Vật”. Cái Thấy không có chỗ nào để chỉ ra, như đoạn trước nói “Chứ không phải là cái Thấy”. Ông Anan tuy có thể phát minh được hai nghĩa “Tiền trần chẳng phải là cái Thấy” và “Tiền trần tức là cái Thấy”, nhưng còn bị Thị, Phi trói buộc, chẳng thể thoát ra, cũng do bởi vì không biết chỗ quy về của cái nghĩa này, chỗ đó là Thấy Tánh vậy.

Nếu thấy cái Chân Tánh tròn sáng, nhiệm mầu vốn hằng hằng giác ngộ, thì cái Thấy cùng cái Được Thấy vốn không chỗ có, chỗ nào có cái “Chỉ ra”? Cái Thấy này cùng cái Được Thấy vốn là Tâm Thể Bồ Đề sáng sạch nhiệm mầu, thì chỗ nào mà chỉ ra chẳng được? Trong Thể Bồ Đề ấy, không có cái gì gọi là Phải hay Chẳng Phải, mới là con đường thoát thân (xuất thân). Chữ Xuất (thoát ra) ở chánh văn rất có ý vị. Sở dĩ ra được phải do chỗ này, nên kinh nói “Do thị”, chỉ rằng phải vào trong Kiến Tánh mới có thể ra được.

Có nhà sư hỏi Tổ Thiều Sơn: “Chỗ thị phi không đến, còn có câu biện luận không?”

Tổ đáp: “Có”

Nhà sư hỏi: “Đó là câu gì?”

Tổ Sơn nói: “Một mảnh mây trắng chẳng lộ bày vẻ xấu”.

Tổ Thiên Đồng nêu ra rằng: “Khắp thân che chở, chẳng phạm tôn nghiêm. Bỏ địa vị lui về, ở một bên nâng đỡ. Cần nên uyển chuyển. Có thấy hình tướng của Thiều Sơn ở chốn nào? Nếu tận lực tìm cha, hãy hướng vào trong ấy!”

Tổ Động Sơn kệ rằng:

“Núi xanh: cha mây trắng

Mây trắng: con núi xanh

Mây trắng suốt ngày dựa

Núi xanh vốn chẳng hay”.

(Thanh sơn bạch vân phụ

Bạch vân thanh sơn nhi

Bạch vân chung nhật ỷ

Thanh Sơn tổng bất tri)

Tổ Thiều Sơn nói: “Một mảnh mây trắng chẳng lộ bày vẻ xấu” vốn là đây”.

Có vị tăng hỏi thị giả Cổ Phong Kiền: “Như thế nào là nối bề ngoài?”

Ngài Phong nói rằng: “Chẳng nhờ việc trong nhà người khác”.

Hỏi: “Như thế nào là nối bề trong”.

Ngài đáp : “Nếu tìm cha, hãy hướng vào trong ấy!”

Tổ Thiên Đồng nói: “Tận lực tìm cha, hãy hướng vào trong ấy, vốn là chỗ này”.

Lại Tổ Đầu Tử tụng rằng :

“Mây trắng không hề đến đỉnh non

Mắt đầy khói, ráng, cảnh muôn ngàn

Một câu ngâm lạnh, ngàn xưa điệu

Muôn trùng xanh biếc, mọc trăng non”.

Phải biết rằng cái Tánh mầu sáng vốn hằng hằng Giác Ngộ, vượt ngoài Phải cùng Chẳng Phải, như mặt trăng thứ nhất. Phải rốt ráo được tông chỉ của Tông Tào Động mới được chỗ vi diệu.

MỤC 4: PHÁ NHỮNG THUYẾT NHÂN DUYÊN, TỰ NHIÊN
I. NGHI TÂM TÍNH TỰ NHIÊN NHƯ THẦN NGÃ.

Kinh: Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, thật như chỗ Pháp Vương [Phật] dạy: Cái Giác Duyên [Tâm Tánh] cùng khắp mười phương thế giới, lặng trong, thường trụ, tánh chẳng có sanh diệt. So với thuyết Minh Đế của nhóm Ông Phạm Chí Ta Tỳ Ca La [Thuộc ngoại đạo], hay cái thuyết Chân Ngã cùng khắp mười phương của các nhóm ngoại đạo Đầu Khôi [La hán tiểu thừa. Hoặc vào phép Hỏa Định (ngồi định mà chết, lấy lửa phép đốt tiêu cái thức đầu thai và cái nghiệp luân hồi); hoặc do thiêu xác (dùng giàn hỏa) Nên sắc thân tiêu dứt ra tro] có gì là khác?

“Thế Tôn cũng từng ở núi Lăng Già vì các Bồ Tát Đại Huệ mà giảng bày nghĩa này: Các ngoại đạo kia thường nói Tự Nhiên, còn Ta nói Nhân Duyên, chẳng phải cảnh giới của họ. Nay tôi xem cái Giác Tánh ấy, thấy là Tự Nhiên, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, lìa xa tất cả hư vọng điên đảo, hình như chẳng phải là Nhân Duyên, cũng không phải là Tự Nhiên của họ.

“Xin Phật khai thị thế nào để chúng tôi khỏi lạc vào tà kiến, được cái Tâm Tánh chân thật, mầu sáng, giác ngộ”.

Thông rằng: Chỗ nói Minh Đế của ngoại đạo, Thể chẳng sanh diệt, nói có Thần Ngã cùng khắp mười phương, chỉ là lấy cái Thức Thứ Tám làm Tông, chỉ được cái mùi vị vui thú mờ mờ mịt mịt, chớ chẳng phải có cái nhiệm mầu của Đại Viên Cảnh Trí. Đã có Thần Ngã, tức là căn bản sanh tử, sao được là cái Nhân Địa Chân Chánh?

Phật nói Nhân Địa Chân Chánh tức là Đệ Nhất Nghĩa Đế, lấy cái chẳng sanh chẳng diệt làm cái Nhân Địa tu hành, chẳng phải là cái nhân duyên thế tục.

Ông Anan vừa mới tin được, bỗng khởi nghi mà nói “Hình như chẳng phải là Nhân Duyên, cũng không phải là Tự Nhiên của ngoại đạo”, mà còn cho Giác Tánh là Tự Nhiên, nói rằng Giác Tánh lìa xa hai tướng Thị và Phi, lặng trong, thường trụ nên gọi là Tự Nhiên. Trước thì chấp cái Thấy Sông [Thấy Sông: xem Quyển I, phần II] là chẳng Sanh Diệt, đã là chưa đạt đến cội gốc. Nay thì chỉ ra cái “Tánh lìa khỏi cái Thấy”, cho đó là Tự Nhiên, lại càng chưa siêu thoát. Nên ông cầu xin Thế Tôn khai thị cho khỏi lạc vào những tà kiến hư vọng điên đảo của các thuyết Tự Nhiên và Nhân Duyên.

Tổ Trường Sa Sầm khiến vị tăng hỏi Hòa Thượng Hội: “Khi chưa thấy Nam Tuyền thì như thế nào?”

Ngài Hội im lặng hồi lâu.

Vị tăng hỏi: “Sau khi thấy thì thế nào?”

Ngài Hội nói: “Không thể riêng có!”

Vị tăng về thưa lại với Tổ Trường Sa. Tổ Sa nói:

“Đầu sào trăm thước đã được ngồi

Tuy rằng nhập được vẫn chưa Chân

Đầu sào trăm thước cần tiến bước

Mười phương thế giới hiện toàn thân”.

(Bách xích can đầu tọa để nhơn

Tuy nhiên đắc nhập bất vi Chơn

Bách xích can đầu tu tấn bộ

Thập phương thế giới hiện toàn thân).

Vị tăng hỏi: “Đầu sào trăm thước làm sao tiến bước?”

Tổ Sa đáp: “Núi Lãng Châu, sông Lễ Châu”.

Vị tăng thưa: “Dạ, chẳng am hiểu”.

Tổ Sa rằng: “Bốn biển, năm hồ vua trị trông”.

Ngài Thiên Đồng tụng:

“Một tiếng gà phá mộng ngọc nhân [Người ngọc]

Nhìn lại cuộc đời sắc sắc bằng

Có tin xuân sấm dục trùng nở

Đào lý vô ngôn, tự thành đường (lối)

Đến thời tiết, gắng sức cày

Ai ngại ruộng xuân bùn lút cẳng?”.

Cũng như họp nhau ngồi ở chỗ sạch sẽ, chẳng thể xuống nước, xuống bùn, ra tay ngang dọc bèn là cùng sanh diệt chống trái. Nên tuy là có nhập nhưng chẳng phải chân thật. Chỗ ngoại đạo gọi là Minh Đế, đại khái tựa hồ như đây.

Tổ Trường Sa nói: “Mười phương thế giới hiện toàn thân. Ngoại đạo cũng nói có Thần Ngã cùng khắp mười phương. Chỗ nào chẳng đồng, thử tham coi!”

II. CHỈ RA KHÔNG PHẢI LÀ TỰ NHIÊN

Kinh: Phật bảo Ông Anan: “Nay Ta phương tiện chỉ bày chân thật bảo ông như thế, ông còn chưa ngộ mà lầm cho là Tự Nhiên!

“Anan, nếu chắc là Tự Nhiên, tự phải chỉ rõ thể tánh của Tự Nhiên. Ông hãy xét trong cái Thấy Diệu Minh đó, lấy cái gì làm tự thể? Cái Thấy đó lấy cái sáng làm tự thể ư? Lấy cái tối làm tự thể ư? Lấy hư không làm tự thể ư? Lấy cái ngăn bít làm tự thể ư?

“Anan, nếu cái sáng là tự thể thì lẽ ra không thấy cái tối! Nếu lấy cái không làm tự thể thì lẽ ra không thấy được ngăn bít. Như vậy cho đến lấy cái tướng tối làm tự thể thì đến khi sáng, thì cái Tánh Thấy phải diệt mất, làm sao còn thấy cái sáng?”

Thông rằng: Nói rằng Tự Nhiên tức là nói tự thể vốn y nhiên thường trụ chẳng biến đổi. Vậy cái Tánh Thấy màu sáng này lấy cái thấy sáng làm Tự Nhiên ư? Lấy cái thấy tối làm Tự Nhiên ư? Lấy thấy hư không làm Tự Nhiên ư? Lấy ngăn bít làm Tự Nhiên ư? Nếu tự nhiên thấy Sáng thì lẽ ra không thấy Tối! Nếu tự nhiên thấy hư không thì lẽ ra không thấy ngăn bít! Nếu tùy Duyên mà biến đổi thì cái Thể chẳng phải là Tự Nhiên vậy.

Hoặc nói cái Thấy ấy là cái thể của Tự Nhiên; sáng, tối, hư không, ngăn bít tùy duyên mà thấy, há chẳng phải Tự Nhiên ư? Nhưng giả sử không có sáng, tối, hư không và ngăn bít thì cái Thấy dùng vào đâu? Cái gọi là Tự Nhiên ấy đều thành đoạn diệt đấy thôi.

Ở đây chỉ bác bỏ là không thể lấy Tự Nhiên làm Tánh Thấy, chứ chẳng phải nói rằng cái Tánh Thấy do sáng, tối, không, bít mà có. Nếu luận về chỗ sanh khởi từ đâu thì Tánh Thấy tuy chẳng do sáng, tối, không, bít mà có, lại từ Bổn Giác Diệu Minh lưu xuất ra. Nhưng thế thì Bổn Giác Diệu Minh lấy gì làm tự thể, thật mở miệng chẳng nói được!

Tổ Thạch Sương ban đầu ở Tổ Quy Sơn làm người giã gạo. Một hôm, đang sàng gạo, Tổ Quy Sơn nói: “Vật của thí chủ chớ làm rơi rớt”.

Ngài nói: “Chẳng có rơi rớt”.

Tổ Quy Sơn nhặt được một hột gạo trên mặt đất, rồi nói: “Ông nói chẳng rơi rớt, vậy cái này là cái gì?”

Ngài Thạch Sương không đáp được.

Tổ Quy Sơn lại nói: “Chớ khinh thường một hột gạo này. Trăm ngàn hột đều do một hột này sanh ra”.

Ngài Thạch Sương nói rằng: “Trăm ngàn hột từ một hột ấy sanh ra, chưa rõ một hột ấy từ chỗ nào sanh?”

Tổ Quy Sơn ha hả cười lớn, quay về phương trượng.

Tối đến, Tổ Quy thượng đường nói: “Này đại chúng, trong hột gạo có sâu, các người hãy xem cho kỹ!”

Ôi! Tìm cầu tự thể của cái sanh ra này chẳng thể được! Chỗ nào để an lập cái tên Tự Nhiên đây? Cho nên gọi ấy là Tự Nhiên thì chẳng phải!

III. NGHI LÀ NHÂN DUYÊN

Kinh: Ông Anan thưa: “Chắc là cái Tánh Thấy mầu nhiệm này Tánh nó chẳng phải là Tự Nhiên, thì nay tôi phát minh là nói do Nhân Duyên sanh, nhưng tâm trí còn chưa rõ, xin hỏi Như Lai, nghĩa lý thế nào cho hợp với Tánh Nhân Duyên?”

Thông rằng: Ông Anan thường nghe Thế Tôn lấy Nhân Duyên phá Tự Nhiên. Giờ đây, cái Tánh Thấy này đã chẳng phải là Tự Nhiên, ắt phải thuộc về Nhân Duyên. Bèn nghi cái nghĩa Nhân Duyên: vô thường, sanh diệt, đây có, kia không, thể chẳng thường khắp. Thế thì há đồng với Giác Tánh lặng trong thường trụ sao? Hành tướng trái nhau, làm sao hợp với Tánh Nhân Duyên? Cái nghi này rất vi tế. Luận Trung Quán nói: “Không có vật gì từ Duyên mà sanh khởi. Không có vật gì theo Duyên mà diệt mất. Khởi chỉ là các Pháp khởi. Diệt chỉ là các Pháp diệt”. Cũng như vẽ trên nước thành chữ, chưa từng sanh ra hay diệt mất. Như thế thì làm sao mà hợp với tính nhân duyên?

Thiền sư Báo Ân Minh thường nêu lên bài Minh ở tháp của Ngài Tuyết Phong mà hỏi các vị lão túc: “Phàm từ Duyên mà có: trước sau đều thành, hoại. Chẳng từ Duyên mà có: trải kiếp vẫn lâu bền. Bền chắc với hư hoại, dẹp qua một bên! Ngài Tuyết Phong ngày nay ở tại chỗ nào?”

Ngài Pháp Nhãn riêng nói rằng: “Chỉ nay, đấy là thành, đấy là hoại!”

Các bậc lão túc đương thời chẳng thể đối đáp.

Chỗ này há có thể lấy sự nông cạn mà dòm ngó sao?

IV. TÁNH THẤY KHÔNG PHẢI LÀ NHÂN DUYÊN, RỜI CÁC DANH, TƯỚNG

Kinh: Phật dạy: “Ông nói Nhân Duyên, Ta hỏi ông: “Nay ông do nhân bởi cái Thấy, Tánh Thấy hiện tiền. Vậy cái Thấy này nhân cái sáng mà có thấy? Nhân cái tối mà có thấy? Nhân hư không mà có thấy? Nhân ngăn bít mà có thấy?

“Anan, nếu cái Thấy nhân cái sáng mà có thì lẽ ra không thấy được tối; còn như nhân cái tối mà có thì lẽ ra không thấy được cái sáng. Như vậy cho đến nhân hư không, nhân ngăn bít thì cũng đồng như nhân cái sáng và cái tối.

“Lại nữa, Anan, cái Thấy ấy lại là nương cái sáng mà có thấy? Nương cái tối mà có thấy? Nương hư không mà có thấy hay nương ngăn bít mà có thấy? Anan, nếu nương hư không mà có thấy thì lẽ ra không thấy được ngăn bít. Nếu nương ngăn bít mà có thấy thì lẽ ra không thấy được hư không. Như vậy cho đến nương cái sáng, nương cái tối cũng đồng như nương hư không, nương ngăn bít.

“Nên, biết rằng cái Tinh Giác Diệu Minh như thế chẳng phải Nhân, chẳng phải Duyên, cùng chẳng phải Tự Nhiên, chẳng phải Không Tự Nhiên. Không có cái Không Phải hay Không Không Phải, không có Tức Là hay Không Tức Là, lìa cả thảy tướng, tức là cả thảy pháp. Nay ông làm sao ở trong ấy mà khởi tâm, dùng những danh tướng hý luận thế gian mà phân biệt cho được? Như lấy tay mà nắm bắt hư không, chỉ thêm tự làm nhọc mình. Hư không làm sao lại để cho ông nắm bắt?”

Thông rằng : Nương vào vật là Nhân; theo với vật là Duyên. Nhân thì gần, Duyên thì xa, nên phân làm hai môn. Tánh Thấy hiện tiền, nếu nói là Thông Bít mà hiển bày, thì được; chứ nói: tánh Thấy nhân sáng, tối, thông bít mà có, thì không được. Nói rằng Tánh Thấy duyên sáng, tối, thông, bít mà phát ra tác dụng, thì được, chứ nói: Tánh Thấy duyên sáng, tối, thông, bít mà khởi, thì không được.

Cho nên nói Nhân Duyên là sai. Vì sao thế?

Cái Tinh Giác Diệu Minh vốn không có hình tướng. Nếu nói là Nhân Duyên, là Tự Nhiên thì thuộc về tướng Nhân Duyên, tướng Tự Nhiên rồi. Bởi vậy, ban đầu nói “Chẳng phải Nhân, chẳng phải Duyên, cũng chẳng phải Tự Nhiên”, là để trừ bỏ Tướng. Nhưng còn cái chẳng phải Tướng ở trong đó. Kế đến nói “Chẳng phải Không Nhân Duyên, chẳng phải Không Tự Nhiên”, là để trừ bỏ Phi Tướng. Nhưng mà còn cái Không Phải Phi Tướng ở trong đó. Cuối cùng thì nói “Không có Không Phải hay Không Không Phải, không có Tức là hay Không Tức là. Đó là cái chỗ mà Phải và Chẳng Phải đều không tới được, chẳng cho phép sự luận bàn, chẳng dung tha suy tính, tức là cái thực tướng Tinh Giác Diệu Minh vậy.

Các tướng Phải hay Chẳng Phải kia đều là vọng tình biến kế phân biệt. Bản Thể Diệu Minh vốn không có chuyện đó, nên nói “Lìa cả thảy Tướng”. Biến kế vọng tưởng phân biệt đã lìa thì đó là cái Thể Viên Thành Thật, chạm vào đâu là hiện bày trước mắt. Thế nên mới nói “Tức cả thảy Pháp”.

Cổ Đức nói “Chỉ lìa vọng duyên tức Như Như Phật”, là nói chỗ này đây vậy.

Xưa, Tổ Sơ Sơn đến chỗ ở của Tổ Quy Sơn bèn hỏi: “Thầy tôi có nói: “Câu có, câu không, như dây leo bám cây. Bỗng nhiên cây ngã, dây khô, câu về chốn nào?”

Tổ Quy Sơn ha hả cười lớn.

Sơ Sơn nói: “Tôi mua vải làm giày, từ bốn ngàn dặm đến đây, Hòa Thượng đâu nên đùa cợt”.

Tổ Quy Sơn gọi thị giả: “Lấy tiền trả lại cho Ông Thượng Tọa này”.

Rồi dặn rằng “Sau này sẽ có con rồng một mắt vì thầy mà chỉ phá cho”.

Sau, Ngài Sơ Sơn đến Tổ Minh Chiêu, kể chuyện cũ.

Tổ Minh Chiêu nói: “Ngài Quy Sơn, có thể nói là đầu chánh, đuôi chánh, chỉ vì chẳng gặp tri âm!”

Ngài Sơ Sơn bèn hỏi: “Cây ngã, dây khô, câu về xứ nào?”

Tổ Chiêu nói: “Lại khiến Quy Sơn phát tiếng cười mới”.

Ngài Sơ Sơn ngay dưới lời nói có tỉnh ngộ, bèn nói: “Thì ra trong cái cười của Quy Sơn vốn có chứa đao!”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Dây khô, cây ngã, hỏi Quy Sơn

Ha hả cười to, há chẳng màng?

Trong cười có dao sắc, nhìn ra được

Không đường suy, nói, bặt cơ quan [Máy then]”.

(Đằng khô thọ đảo vấn Quy Sơn

Đại tiếu kha kha khởi đẳng nhàn

Tiếu lý hữu đao không đắc phá

Ngôn tư vô lộ tuyệt cơ quan).

Tổ Quy Sơn trong chỗ ấy, trước sau chỉ có ha hả cười to, như một dấu ấn ấn ra.

Ngài Sơ Sơn nói “Trong cái cười có đao!”, bèn chụp được hư không vậy.

Tổ Thạch Củng hỏi Thầy Tây Đường: “Ông có nắm bắt được hư không chăng?”

Ngài Tây Đường đáp: “Nắm bắt được”.

Tổ Củng nói: “Bắt thế nào?”

Tổ Đường lấy tay chụp nắm hư không.

Tổ Củng nói: “Ông chẳng biết chụp!”

Tổ Đường hỏi lại: “Sư huynh bắt như thế nào?”

Tổ Thạch Củng nắm mũi Ngài Tây Đường kéo đi.

Ngài Tây Đường nhịn đau, nói: “Gã đại hung thần này kéo lỗ mũi người!” Liền muốn thoát ra.

Tổ Thạch Củng nói: “Phải như thế mới bắt hư không được”.

Nên chi, lấy danh tướng hý luận mà nắm bắt hư không: Ôi, khó thay! Khó thay!

V. BÁC NHÂN DUYÊN, TỰ NHIÊN

Kinh: Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, nếu quả cái Tánh Diệu Giác chẳng phải Nhân, chẳng phải Duyên thế sao Thế Tôn thường chỉ dạy cho chúng Tỳ Kheo rằng Tánh Thấy có đủ bốn thứ Duyên, đó là: Nhân Hư Không, Nhân Ánh Sáng, Nhân Tâm Thức và Nhân Con Mắt. Nghĩa ấy thế nào?”

Phật bảo: “Anan, Ta nói như thế, là nói về các tướng nhân duyên của thế gian, chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa. Anan, Ta lại hỏi ông: Các người thế gian nói “Tôi thấy được”, thì thế nào gọi là thấy? Thế nào gọi là không thấy?”

Anan thưa: “Người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng, đèn mà thấy mọi thứ hình tướng thì gọi là thấy. Nếu không có ba thứ ánh sáng đó thì không thấy được”.

– Anan! Nếu khi không có ánh sáng mà gọi là không thấy, thì lẽ ra không thấy tối. Nếu có thấy tối, thì đó chỉ vì không có ánh sáng chứ đâu phải là không thấy? Anan, nếu trong khi tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy, thì khi sáng, không thấy tướng tối, cũng gọi là không thấy. Như thế thì cả hai tướng sáng, tối đều gọi là không thấy cả. Còn nếu như hai cái sáng, cái tối tự lấn đoạt nhau, chứ không phải trong đó cái Tánh Thấy của ông có lúc không có. Như thế thì biết: cả hai lúc sáng và tối đều gọi là thấy, chớ sao lại nói là không thấy?”

Thông rằng: Chỗ này, Thế Tôn trước là phá cái tướng Nhân Duyên của thế gian, sau là hiển bày cái Đệ Nhất Nghĩa Đế. Thế gian cho rằng cái Thấy nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn mà có. Nhưng không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn đâu phải là không có cái Thấy, cũng là thấy Tối, thấy Sáng đó vậy. Sáng, Tối tự chúng thuộc về tiền trần, cái Thấy (Kiến Tinh) vốn không sanh diệt. Do đó mà nói “Cái Thấy của thế gian cũng là chẳng phải Nhân, chẳng phải Duyên”, huống tiến đến chỗ này ư?

Thiền sư Cửu Phong Kiền thọ tâm ấn nơi Tổ Thạch Sương. Có nhà sư hỏi: “Trong kinh có nói: Đủ ba duyên ánh sáng mới thành cái Thấy. Ba Duyên chưa có, có thành cái Thấy không?”

Tổ Kiền nói: “Duyên có sai khác, cái Thấy không thiếu hụt”.

Vị sư hỏi: “Đã không thiếu hụt, ở trong tối sao chẳng thấy vật?”

Tổ Kiền nói: “Tuy chẳng thấy vật, đâu phải không thấy tối?”

Nhà sư hỏi: “Lìa hết ba duyên, như thế nào là chỗ Chân Kiến?”

Tổ Kiền nói: “Giáp vòng trái đất, mặt trời đen tợ sơn đen”.

Trong bài Tham Đồng Khế của Ngài Thạch Đầu có câu: “Ngay trong sáng có tối, chớ dùng tối gặp nhau! Ngay trong tối có sáng, chớ dùng sáng thấy nhau!”

Chính là đồng với cái ý chỉ này. Đây thật là nào có đồng bậc với sáng tối, cần phải có mắt mới phân biệt được.

VI. CHỈ THẲNG TÁNH THẤY

Kinh: “Cho nên, Anan, bây giờ ông nên biết rằng: Khi thấy sáng, cái thấy chẳng phải là sáng. Khi thấy tối, cái thấy chẳng phải là tối. Khi thấy không, cái Thấy chẳng phải là không. Khi thấy ngăn bít, cái thấy chẳng phải là ngăn bít. Bốn nghĩa đó đã thành rồi, ông lại nên biết: khi Thấy mà có tướng Thấy, cái Thấy đó chẳng phải là Tánh Thấy. Cái Thấy mà do lìa tướng Thấy, đó là Tánh Thấy Siêu Việt (Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến. Kiến do ly kiến, kiến bất năng cập).

“Vậy thì làm sao lại nói các tướng Nhân Duyên, Tự Nhiên hay Hòa Hợp?”

Thông rằng: Chỗ này Đức Thế Tôn hiển bày Đệ Nhất Nghĩa Đế, cái gọi là Con Đường Bồ Đề Nhiệm Mầu. Kiến và Kiến Duyên đủ năm thứ nghĩa: Sáng, Tối, Hư Không, Ngăn Bít là bốn thứ; Kiến Duyên và Kiến Tinh (cái Thấy) là một thứ Vọng Kiến. Thế Tôn ở chỗ này mà lựa ra cái Kiến Tinh chẳng phải là bốn thứ Sáng, Tối, Không, Bít. Lấy bốn nghĩa này suy ra để rõ được cái Thấy lìa duyên trần mà vẫn tự có. Ngay ở đây lại lựa ra cái Chơn Kiến (Tánh Thấy) soi rõ Kiến Tinh, là cái mà cái Thấy không thể bì kịp. Đây chính là mặt trăng thứ nhất, cho nên cái Thấy vẫn còn là vọng. A ha! Cái Chơn Kiến còn lìa cả mọi tướng thấy thì chỗ nào có hơi thở, bóng dáng gì để theo đó mà mô phỏng ra nó? Nói Nhân Duyên, nói Tự Nhiên, nói Hòa Hiệp, há chẳng là hư vọng ư?

Tổ Bá Trượng hỏi vị tăng: “Thấy không?”

Đáp: “Dạ, thấy”.

Tổ Trượng rằng: “Sau khi thấy thì như thế nào?”

Đáp: “Thấy chẳng có hai”.

Tổ Trượng nói: “Đã nói là thấy thì không hai, tức là không lấy cái Thấy mà thấy nơi Cái Vốn Thấy. Nếu Cái Vốn Thấy mà trở lại thấy, thì cái Thấy trước là đúng hay cái Thấy sau là đúng? Như nói, “Khi Thấy mà còn có tướng Thấy, đó chẳng phải là Chơn Kiến. Thấy mà do lìa tất cả tướng Thấy, cái Thấy ấy là Siêu Việt [Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến. Kiến do ly kiến, kiến bất năng cập]”. Bởi thế, chẳng hành cái Pháp Thấy, chẳng hành cái Pháp Nghe, chẳng hành cái Pháp Giác Ngộ, thì Chư Phật liền thọ ký”.

Lại nữa, kinh Bảo Tích nói: “Pháp Thân chẳng có thể lấy Thấy, Nghe, Hay, Biết mà tìm cầu. Chẳng phải là chỗ thấy của con mắt thịt, vì là không có Sắc. Chẳng phải là chỗ thấy của Thiên Nhãn vì không Hư Vọng. Chẳng phải chỗ thấy của Huệ Nhãn, vì lìa hình tướng. Chẳng phải chỗ thấy của Pháp Nhãn, vì lìa các Hành. Chẳng phải là chỗ thấy của Phật Nhãn, vì lìa hết thảy Thức. Nếu chẳng tạo ra các thứ Thấy như vậy, thì gọi đó là cái Thấy của Phật”.

Xưa, thiền sư Thiệu Long ban đầu ra mắt Tổ Trường Lô, được chỗ đại lược. Nhân có người đưa đến bộ Ngữ Lục của Ngài Viên Ngộ, sư đọc mà than rằng: “Nghĩ đến chua thì chảy nước miếng. Tuy chưa rửa sạch gan ruột, đã khiến người được vui sướng. Chỉ hận là chưa được giáp mặt chuyện trò”.

Bèn từ giả Ngài Trường Lô mà qua chỗ Ngài Trạm Đường. Trước làm khách của Ngài Hoàng Long, hỏi Tổ Tử Tâm; kế đó tham yết Ngài Viên Ngộ.

Một hôm, đang nhập thất thì Ngài Viên Ngộ nói: “Khi thấy mà có tướng Thấy, cái Thấy ấy không phải là cái Thấy Chân Thật. Thấy do lìa tướng Thấy, cái Thấy ấy siêu việt”.

Rồi đưa tay lên mà nói: “Thấy không?”

Sư Long nói: “Thấy”.

Tổ Viên Ngộ nói: “Trên đầu để thêm cái đầu!”

Sư Long nghe thì tức thời khế ngộ.

Tổ Viên Ngộ quát nạt rằng: “Thấy cái gì?”

Thiệu Long đáp: “Tre dày chẳng ngại nước chảy qua”.

Tổ Viên Ngộ chấp nhận, khiến trông coi chỗ cất kinh.

Có người hỏi Ngài Viên Ngộ: “Thiệu Long yếu như thế, sao làm nổi?”

Ngài đáp: “Con cọp ngủ đó!”

Thiền sư Đức Sơn Quyên thượng đường dạy rằng: “Khi thấy mà có tướng Thấy, đó chẳng phải là Chơn Kiến. Thấy do lìa tướng Thấy, đó là cái Thấy siêu việt”.

Rồi hét lên rằng: “Cá kình uống hết biển, lộ ra nhánh san hô”.

Trong đại chúng bỗng có ông tăng bước ra, nói: “Trưởng Lão thôi đừng nói chiêm bao, mới hứa cho y đủ một con mắt lẻ”.

Người xưa ở nơi câu này (“Kiến kiến chi thời,…”) đều nhờ ngón tay mà thấy mặt trăng. Một hột thuốc Tiên biến đổi cốt phàm, quả chẳng dễ dàng!

Kinh: “Hàng Thanh Văn các ông hẹp hòi không biết, chẳng có thể thông đạt Thật Tướng thanh tịnh. Nay ta khuyên dạy ông hãy khéo tư duy, chớ nên trễ nải trên đường Bồ Đề Mầu Nhiệm”.

Thông rằng: Cái Thật Tướng thanh tịnh ai ai cũng sẵn đủ. Vậy tại sao hàng Thanh Văn chẳng có thể thông đạt? Bởi vì chấp trước vậy. Cái ý thức chấp trước, chốn chốn đều thọ duyên theo. Chỉ có cái là không thể duyên với Bát Nhã. Nên Đức Thế Tôn thương xót, khuyên hãy khéo tư duy. Phải ở nơi Thấy mà lìa thấy, chứng Diệu Bồ Đề. Đó tức là chỗ chẳng phải cái Thấy đến được vậy.

Tổ Giáp Sơn nói: “Trước mắt không có pháp. Trước mắt là ý, chẳng phải trước mắt là pháp. Đó chẳng phải là chỗ tai, mắt đến được. Diệu khế chỗ này”.

Tổ Thiên Đồng nêu ra rằng: “Cái lão Giáp Sơn mở banh cái bao bố, đem đồ châu báu thảy ra trước mặt các ông. Chính ngay khi đó thì làm sao đây? Trên đường chẳng lượm của rơi, người quân tử mới khen là tốt đẹp”.

Ngay cái thoại đầu tuyệt diệu thế này mà còn chẳng cho giữ lại trong ngực, Thật là đến chỗ của Kiến do lìa kiến vậy.

MỤC 5: CHỈ RA CÁI VỌNG THẤY
I. XIN CHỈ DẠY TÁNH THẤY CHẲNG DO THẤY

Kinh: Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, như Đức Thế Tôn vì chúng tôi mà chỉ dạy về Nhân Duyên, Tự Nhiên, các tướng Hòa Hợp và Chẳng Hòa Hợp, tâm tôi còn chưa khai ngộ. Nay lại nghe Phật dạy: Tánh Thấy chẳng do thấy, thì lại càng thêm mê muội.

“Cúi mong Phật thương xót, bố thí cho con mắt Đại Huệ, chỉ bày cho chúng tôi cái Giác Tâm sáng sạch”.

Nói vậy xong, khóc lóc cúi lạy, vâng nghe lời dạy.

Khi ấy, Thế Tôn thương xót Ông Anan và cả đại chúng, sắp muốn hiển bày pháp Đại Tổng Trì (Đà La Ni), các Tam Ma Đề là Con Đường Vi Diệu của sự tu hành, nên mới bảo Ông Anan rằng: “Ông tuy có trí nhớ mạnh mẽ, nhưng chỉ thêm phần đa văn, chứ nơi pháp Xa Ma Tha quán chiếu vi mật, tâm còn chưa rõ. Nay ông hãy nghe kỹ, ta sẽ vì ông phân biệt chỉ bày, cũng là khiến cho những kẻ hữu lậu mai sau được quả Bồ Đề”.

Thông rằng: Tịch mà thường Chiếu, cho nên có thể soi rõ Kiến Tinh (cái Thấy) là hư vọng. Chiếu mà thường Tịch cho nên biết: “Tánh Thấy chẳng phải là cái thấy (Kiến phi thị kiến)”. Chỗ này mà hàng ngày chẳng viên dung ba Pháp Quán [Không, Giả và Trung] thì chưa dễ hiểu nổi.

Sư Thạch Môn Uẩn Huy làm vườn ở chỗ Tổ Thanh Lâm.

Một ngày kia đang đứng hầu, Tổ nói: “Hôm nay ông làm gì?”

Đáp: “Trồng rau”.

Tổ Lâm nói: “Khắp pháp giới, đó là thân Phật, ông hướng chỗ nào trồng”.

Sư đáp: “Cày vàng chẳng động đất, mầm linh tại chỗ sanh”.

Tổ Lâm hân hoan.

Hôm sau, Tổ Thanh Lâm vào vườn, gọi: “Uẩn Xà Lê!”

Sư Uẩn lên tiếng: “Dạ”.

Tổ Lâm rằng: “Trồng thêm cây không ảnh, để lại cho người sau xem”.

Sư Uẩn nói: “Nếu là cây không ảnh, há để chịu trồng ư?”

Tổ Lâm nói: “Không chịu trồng thì để đó! Ông từng thấy nhánh lá nó không?”

Đáp: “Chẳng từng thấy”.

Tổ Lâm: “Đã chẳng từng thấy, sao biết nó chẳng chịu trồng?”

Đáp: “Chỉ vì nó chẳng từng thấy, cho nên nó chẳng chịu trồng”.

Tổ Lâm rằng: “Đúng vậy, đúng vậy”.

Nếu ngộ được Tánh Thấy lìa mọi Tướng Thấy, thì tất cả Nhân Duyên, Tự Nhiên, Hòa Hợp do cái Thấy lập ra từ đâu mà sanh khởi?

Thiền sư Trí Cự ban đầu hỏi Tổ Tiên Tào Sơn rằng : “Người xưa nâng giữ cho người bên ngoài mé, kẻ học nhân này làm sao lãnh hội?”

Tổ Sơn đáp: “Lui bước liền tựu thành mình, muôn ngàn chẳng mất một!”

Thiền sư Trí Cự, ngay dưới lời, liền tiêu tan hết kiến giải, mới từ biệt đi. Sau đó, tham học khắp nơi.

Một hôm, đang xem kinh thì có vị sư hỏi: “Tâm của Thiền Tăng chẳng treo nhẫn đến một chữ cái, đâu thể học nhiều?”

Ngài đáp: “Văn tự thì khác nhau, muôn pháp thể vốn không. Mê thì câu câu đều là ghẻ lở. Ngộ thì lời lời đều là Bát Nhã. Ví không lấy, bỏ, nào hại Vẹn Tròn kia.

Cho nên nhớ nhiều, đa văn mà được như Ngài Trí Cự thì cái gì mà chẳng có thể?

II. CHỈ RA HAI THỨ VỌNG THẤY

Kinh: “Anan, tất cả chúng sanh luân hồi trong thế gian đều do hai cái Vọng Thấy điên đảo phân biệt. Ngay nơi Tâm Tánh mà phát sanh, ngay theo nghiệp mà xoay vần. Thế nào là hai cái Vọng Thấy? Một là, cái Vọng Thấy Biệt Nghiệp của chúng sanh. Hai là, cái Vọng Thấy Đồng Phận của chúng sanh.

Thông rằng: Sắp nói rõ cái Kiến Tinh (cái Thấy) là hư vọng, nên dùng hai cái Vọng Kiến Biệt Nghiệp và Đồng Phận mà chỉ bày. Đã rõ Biệt Nghiệp là hư vọng thì cái hư vọng của Đồng Phận có thể suy ra vậy. Đã biết Đồng Phận là hư vọng, thì có thể suy ra cái hư vọng của Kiến Tinh. Biết Kiến Tinh là hư vọng thì rõ ngay Tánh Thấy chẳng hư vọng. Hiểu suốt chỗ này thì Tánh Thấy chẳng phải là cái Thấy, có thể tự suốt nhiên không nghi ngờ gì nữa.

Thấy, Nghe, Hay, Biết cũng cùng là hư vọng điên đảo, vậy sao chỉ biện rõ ở cái Thấy mà thôi? Ở đoạn trước đã nói, “Khiến cho ông bị trôi lăn là lỗi ở tâm và con mắt”. Cho nên trôi nổi bôn ba theo sắc, chỉ có cái Thấy là khó trị nhất.

Ông Anan bị Cô Ma Đăng Già mê hoặc, đó chẳng phải Cô Ma Đăng Già mê hoặc Ông Anan, mà chính là do cái Vọng Thấy của Anan làm nên bệnh. Huống gì cái Vọng Thấy lưu chuyển này lại thuộc về sanh diệt, mà cái Thấy Chân Thật (Chơn Kiến) thì chẳng thể trả về đâu, lặng trong thường trụ. Cho nên lấy cái Thấy của người mù mà thấy sắc, thì sắc chẳng đáng ưa! Lấy cái Thấy của thấy tối mà thấy ánh sáng, tức là cái Thấy vốn chẳng có sáng, có tối. Đạt thẳng đến cái gốc nguồn của mọi cái Thấy, thì rõ suốt cái Tánh Thấy vốn không có cái Thấy nào đến được, thế thì còn đâu cái lầm lỗi trôi lăn?

Xưa, Tổ Quy Sơn hỏi Ngài Ngưỡng Sơn : “Chúng sanh trong đại địa, cái nghiệp thức mang mang, vốn không có gốc rễ, căn cứ. Ông làm sao biết kia có hay không có?”

Ngưỡng Sơn đáp: “Huệ Tịch này có chỗ nghiệm xét”.

Khi ấy, có một vị tăng đi ngang trước mặt, Ngài Ngưỡng Sơn gọi: “Thầy Xà Lê!”

Vị tăng quay đầu lại.

Ngưỡng Sơn nói: “Thưa Hòa Thượng, cái này chính là nghiệp thức mang mang, không có gốc rễ, căn cứ”.

Tổ Quy Sơn nói: “Đây thật là một giọt sữa sư tử, làm tiêu sáu đấu sữa lừa!”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Một gọi, quày đầu biết ta không?

Lưới trăng thưa thớt lại thành cong (như móc câu)

Con quí ngàn vàng vừa lưu lạc

Mờ mịt đường cùng chắc thấy sầu”.

Một tắc này đây, gọi là Vọng Kiến Biệt Nghiệp thì được đó!

Ông Thượng Thơ Trần Tháo đang cùng những bạn đồng liêu ở trên lầu thì thấy có vài nhà sư đi tới.

Có một vị quan nói: “Những người đi tới đó đều là tăng hành cước”.

Trần Tháo nói: “Chẳng phải đâu”.

Vị quan nói rằng: “Sao biết chẳng phải?”

Tháo nói: “Chờ tới rồi thẩm nghiệm xem”.

Chốc lát, các vị sư đi tới trước lầu. Ông Tháo đột nhiên kêu lớn: “Thượng Tọa!”

Các nhà sư đều ngẩng đầu lên.

Ông liền nói với các vị quan rằng: “Chẳng tin đạo”.

Các quan ngơ ngác.

Ngài Thiên Đồng nêu lên rằng: “Trần Thượng Thơ ngay mặt mà nêu rõ, dối Ngài Trường Lô một điểm chẳng được!”

Tức một tắc này, gọi là Vọng Kiến Đồng Phận thì được lắm ! Nhưng nếu trong các vị sư, có vị khi nghe la mà chẳng quay đầu, ắt khiến Ngài Ngưỡng Sơn phải nhổ lưỡi ra và Ông Trần Tháo phải xin lỗi đấy.

Kinh: “Thế nào là Vọng Kiến Biệt Nghiệp?

“Anan, như người thế gian con mắt bị nhặm đỏ thì ban đêm nhìn ngọn đèn thấy có riêng một bóng tròn năm màu bao phủ. Ý ông thế nào? Cái bóng sáng tròn hiện ra nơi ngọn đèn đó là sắc của ngọn đèn hay sắc của cái Thấy?

“Anan, nếu như đó là cái sắc của ngọn đèn thì sao những người không nhặm mắt lại không có thấy, mà chỉ có người nhặm mắt mới thấy cái bóng tròn? Nếu đó là sắc của cái Thấy thì cái Thấy đã thành sắc rồi, vậy người nhặm mắt thấy bóng tròn kia gọi là cái gì?

“Lại nữa, Anan, nếu cái bóng tròn ấy rời đèn mà riêng có, thì lẽ ra các bức bình phong, màn, bàn, ghế, cũng phải có bóng tròn. Còn nếu rời cái Thấy mà riêng có, thì lẽ ra không thể thấy được, cớ sao người nhặm mắt lại thấy cái bóng tròn ấy?

“Vậy nên biết rằng : Sắc thật ở nơi đèn, cái Thấy bị bệnh làm ra có bóng tròn. Cái bóng tròn và cái thấy có bóng tròn đều là bệnh nhặm. Cái Thấy Được Bệnh Nhặm thì vốn chẳng phải là bệnh.

“Rốt cuộc, không nên nói rằng cái bóng tròn ấy là ngọn đèn hay là cái Thấy, vì ở trong đó, cái bóng tròn không phải từ ngọn đèn, cũng không phải từ cái Thấy. Cũng như mặt trăng thứ hai, chẳng phải mặt trăng thật, cũng chẳng phải là cái bóng của mặt trăng. Tại sao thế? Bởi thấy cái mặt trăng thứ hai là do dụi mắt mà có. Cho nên những người Trí không nên đi tìm cái căn nguyên của mặt trăng do dụi mắt mà thành là hình tướng hay chẳng phải hình tướng, là lìa cái Thấy hay chẳng phải cái Thấy. Bóng tròn cũng như thế : nó do nhặm mắt mà thành. Muốn gọi cái gì là ngọn đèn hay cái gì là cái Thấy cũng còn chẳng được, huống hồ phân biệt cái bóng tròn là không phải ngọn đèn hay không phải là cái Thấy?

Thông rằng : Sắp chỉ rõ rằng Tánh Thấy chẳng phải là cái Thấy, nên lấy mắt nhặm làm ví dụ. Cái thấy-bệnh của mắt nhặm thì vọng thấy có bóng tròn. Người không nhặm làm sao thấy có bóng tròn? Nhặm mắt đó là bệnh, nhưng cái Thấy Được Bệnh Nhặm thì chưa từng bệnh vậy. Đó là để so sánh với cái Thấy (Kiến Tinh) là hư vọng, nên vọng thấy có Tâm Cảnh. Cái Tánh Thấy thì không hư vọng, nên không thấy có Tâm Cảnh. Vậy thì cái Thấy là hư vọng chứ Tánh Thấy chưa từng hư vọng vậy. Nếu ở nơi chỗ vọng thấy có Tâm Cảnh lại sanh khởi thêm cái thấy về Nhân Duyên, Tự Nhiên, Thị Phi thì cũng giống như người nhặm mắt thấy cái bóng tròn rồi truy tìm cái căn nguyên phát sanh của nó!

Cho cái bóng lòa ấy là ngọn đèn, là cái Thấy tức nói cái bóng tròn do ngọn đèn, do cái Thấy mà có: đó là nghĩa Nhân Duyên.

Cho cái bóng lòa ấy chẳng phải ngọn đèn hay cái Thấy, là nói cái bóng tròn lìa ngọn đèn, lìa cái Thấy mà riêng có: đó là nghĩa Tự Nhiên.

Đã chẳng phải là Nhân Duyên, lại chẳng phải là Tự Nhiên, thời chỉ do mắt nhặm mà thành có bóng tròn vậy.

Cái nhặm mắt thấy có bóng tròn, và cái dụi mắt thấy mặt trăng thứ hai, đồng là một cái bệnh-thấy. Nếu suy xét cái chỗ phát sinh của mặt trăng thứ hai này là hình tướng hay là cái Thấy, lìa hình tướng hay lìa cái Thấy thì quả là mê muội thay! Cũng như nói cái bóng tròn là ngọn đèn, là cái Thấy, hay chẳng phải ngọn đèn, chẳng phải cái Thấy, thì gọi là người Trí được sao?

Ở hai trường hợp này, biết rõ là hư vọng, suy cứu cái nghĩa Nhân Duyên, Tự Nhiên còn không thể được huống gì trong cái Bổn Giác Minh Tâm chẳng phải là nhặm mắt hay dụi mắt các thứ, vốn không có tướng tròn hay mặt trăng thứ hai thì ở chỗ nào mà vọng lập ba thứ hý luận Nhân Duyên, Tự Nhiên!

Cho nên, lấy Nhân Duyên, Tự Nhiên, Hòa Hợp mà luận về cái Thấy, cũng còn trong bệnh nhặm mắt vậy thôi, người Trí không thế, vì đó là Biệt Nghiệp Vọng Kiến.

Tổ Quy Sơn thấy lửa đồng [Dã hỏa], hỏi Ngài Đạo Ngô: “Có thấy lửa không?”

Đạo Ngô nói: “Dạ, thấy”.

Tổ Sơn: “Từ đâu khởi ra?”

Đạo Ngô: “Dẹp hết sự đi, đứng, nằm, ngồi xin thầy riêng đưa một câu hỏi xem?”

Tổ Quy làm thinh.

Tổ Phật Giám nêu ra rằng:

Rực rực lửa đồng

Người người đều thấy

Chỉ có Đạo Ngô

Thấy ra khắc hẳn.

Tổ Hương Lâm Viễn đang giãy cỏ, có vị tăng hỏi: “Hãy xem nhà người đời mất lửa”.

Tổ Viễn nói rằng: “Lửa trong chỗ nào?”

Vị tăng nói: “Chẳng có thấy sao?”

Tổ Viễn nói rằng: “Chẳng thấy”.

Vị tăng nói: “Cái lão già mù này”.

Khi ấy, chúng đều nói: “Viễn Thượng Tọa thua rồi!”

Sau Ngài Minh Giáo Khoan nghe chuyện, than rằng: “Phải là huynh Viễn ta mới được”.

Cái Thấy này xa khác lắm thay, chẳng rời Chánh Vị [Tự Tâm thường trụ]. Với cái Kiến Tinh của thế gian giống như bệnh nhặm mắt, làm sao sánh được?

Lại Tổ Quy Sơn, hỏi Ngài Đạo Ngô: “Đi đâu về đó?”

Ngài Đạo Ngô đáp: “Thăm bệnh về”.

Tổ Sơn: “Bao nhiêu người bệnh?”

Đáp: “Có người bệnh, có người không bệnh”.

Tổ Sơn: “Người không bệnh có phải là Trí Đầu Đà?”

Tổ Ngô nói: “Nói được cũng chẳng ăn nhằm gì”.

Tổ Thiên Đồng ở chỗ “Chẳng ăn nhằm [Giao thiệp] gì”, tụng rằng:

“Thuốc diệu nào từng qua miệng

Thần y không thể cầm tay

Nhược Tồn [Nhược Tồn : nếu còn.. ] nó vốn chẳng phải không

Chí Hư [Chí Hư : rỗng không.. ] nó vốn chẳng phải có

Chẳng Diệt mà sanh, chẳng mất mà thọ

Siêu hết trước Phật Oai Âm

Một mình bước sau Không Kiếp

An bình thì trời che đất chở

Vận chuyển thì thỏ chạy quạ bay”.

(Diệu dược hà tằng quá khẩu

Thần y mạc năng trốc thủ

Nhược Tồn dã cừ bổn phi vô

Chí Hư dã cừ bổn phi hữu

Bất Diệt nhi sanh, bất vong nhi thọ

Toàn siêu Oai Âm chi tiền

Độc bộ Kiếp Không chi hậu

Thành bình dã thiên cái địa kình

Vận chuyển dã ô phi thố tẩu)

Tắc này ở trong Chân Kiến mà nhổ sạch gốc bệnh. Bệnh với không bệnh cũng chẳng có liên quan gì, huống là phân biệt nhặm với chẳng nhặm!

Kinh: “Thế nào là Vọng Kiến Đồng Phận?

“Anan, cõi Diêm Phù Đề này, ngoài nước biển cả ra, trong đó đất liền có ba ngàn châu. Châu lớn chính giữa, bao quát từ Đông sang Tây có đến hai ngàn ba trăm nước lớn. Còn các châu nhỏ khác ở trong các biển, trong đó có châu đến hai trăm, ba trăm nước hoặc có mười, hai mươi cho đến ba mươi, bốn mươi, năm mươi nước.

“Anan, nếu ở trong đó có một châu nhỏ chỉ có hai nước mà riêng người trong một nước đồng cảm ác duyên, thì chúng sanh trong nước đó thấy tất cả những cảnh giới không tốt. Hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai mặt trăng, cho đến thấy nhiều ác tướng khác như Vựng, Thích, Bội, Quyết, Tuệ, Bột, Phi, Lưu, Phụ Nhĩ, Hồng Nghê. Chỉ nước đó thấy, còn chúng sanh nước bên kia thì không thấy mà cũng không nghe.

Thông rằng: Bộ Hiệp Luận nói “Vựng là khí chung quanh mặt trời. Thích là điều xấu ở mặt trời, mặt trăng. Bội, Quyết: khí xấu gần mặt trời. Tuệ là sao chổi. Bột : một loại sao chổi. Phi là phi tinh, một loại sao từ dưới bay lên. Lưu là lưu tinh, một loại sao từ trên rơi xuống. Phụ là phụ khí, khí giống như cõng mặt trời. Nhĩ là nhĩ khí, khí bên cạnh mặt trời như cái tai. Hồng Nghê là cầu vồng, cái sáng gọi là Hồng, cái tối gọi là Nghê”.

Sách Xuân Thu Truyện chép : năm Thứ Sáu đời vua Ai Công, nước Sở có điềm mây như con quạ đỏ ôm lấy mặt trời mà bay trong ba ngày. Vua sai hỏi Châu Thái Sử, Thái Sử nói: “Ứng vào thân vua”. Ông Đỗ Dự bàn thêm : “Mặt trời là vua của con người, yêu khí ôm lấy thì ứng vào vua. Chỉ có nước Sở thấy, thì vua nước khác không hề gì!”

Đời Lỗ Châu Công, năm Thứ Hai Mươi Sáu, tháng Một [Mười Một]nước Tề có sao chổi. Tề Hầu sai cầu đảo.

Ông Án Tử thưa: “Vô ích, làm vậy là mê tín. Đạo trời chẳng thay đổi, đâu có hai mệnh thì cầu đảo làm gì? Đạo trời có sao chổi là để trừ uế khí. Nếu vua không có uế đức thì cầu đảo làm gì? Còn nếu có uế đức thì cầu đảo sao được?” Ông Đỗ Dự bàn thêm : “Chỉ có nước Tề thấy, nước Lỗ không thấy”.

Hai đoạn trên để nghiệm câu trong kinh: “Có một châu chỉ có hai nước, mà riêng người trong một nước đồng cảm ác duyên thì chúng sanh trong nước đó thấy những cảnh giới không tốt”. Thật rõ ràng vậy.

Cảm ứng ác duyên có định nghiệp và bất định nghiệp. Định nghiệp thì không thể tránh. Bất định nghiệp thì có thể thay đổi.

Ví dụ, như Tổ đời Hai Mươi Ba, là Ngài Hạc Lặc Na [Haklena. Lặc Na: âm tiếng Phạn. Hạc: âm tiếng Hán; tôn giả sau khi sanh ra, có bầy hạc cảm mến bay theo nên gọi vậy] tôn giả, biết trước vị Tổ đời Hai Mươi Bốn là Sư Tử tôn giả sẽ gặp nạn. Một hôm, bỗng nhiên Tổ chỉ về hướng Đông Bắc, hỏi rằng: “Đó là khí tượng gì?”

Tổ Sư Tử thưa: “Tôi thấy khí như cái mống trắng khắp cả trời đất, lại có năm luồng hắc khí chạy ngang trong đó”.

Tổ nói: “Điềm đó thế nào?”

Ngài Sư Tử thưa: “Tôi không biết được”.

Tổ dạy: “Sau khi tôi mất năm mươi năm, nước Bắc Thiên Trúc sẽ có nạn nổi lên, chạm đến thân ông”.

Sau này, Ngài Sư Tử tôn giả quả bị vua nước Kết Tân giết. Cánh tay phải của vua tự nhiên rụng xuống đất, bảy ngày sau thì chết. Thái Tử Quang Thủ than rằng: “Vua cha ta cớ sao tự mình chiêu lấy tai họa”. Bấy giờ có vị Tiên núi Bạch Tượng rõ sâu nhân quả nên rộng nói cho Thái Tử nghe việc đời trước, mở thoát lưới ngờ. Đây là chỗ gọi là định nghiệp không thể tránh được vậy.

Vua Tống Cảnh Công bị sao Hỏa Tinh nên lo sợ, mời Ông Tử Vi vào hỏi.

Ông Tử Vi nói: “Bị sao Hỏa Tinh là điềm trời phạt, họa ứng vào thân bệ hạ, nhưng có thể dời qua quan Tể Tướng”.

Cảnh Công bảo: “Tể tướng để trụ nước, nếu dời qua mà chết thời không nên. Thôi, để quả nhân xin tự gánh chịu vậy”.

Ông Tử Vi nói: “Có thể dời qua nhân dân”.

Vua đáp: “Dân chết rồi thì làm vua với ai. Thôi, để trẫm chết một mình”.

Ông Tử Vi thưa: “Có thể dời vào năm”.

Vua đáp: “Năm đói kém thì dân chết đói. Làm vua mà muốn giết dân để tự mình sống thì còn ai xem ta là vua nữa. Âu cũng là mạng đã hết của quả nhân vậy. Khanh chẳng nên nhiều lời”.

Ông Tử Vi vội vàng quỳ xuống lạy mà tâu rằng: “Hạ thần xin chúc mừng bệ hạ. Trời ở trên cao mà nghe dưới thấp. Vua đã có được ba lần lời nói của người nhân, trời ắt thưởng vua ba lần. Đêm nay chắc sao sẽ dời chỗ, vua sống thêm hai mươi mốt năm”.

Cảnh Công nói: “Khanh làm sao biết?”

Ông Tử Vi thưa: “Vua có ba điều thiện thì được thưởng ba lần, do đó sao dời ba lần. Mỗi lần bảy năm, ba lần là hai mươi mốt năm. Nên tuổi thọ dài thêm hai mươi mốt năm. Nếu sai, hạ thần xin chịu chết”.

Vua ưng chịu.

Đêm đó, sao dời ba lần như Ông Tử Vi đã nói. Đây là chỗ gọi là bất định nghiệp có thể chuyển dời vậy.

Tóm lại, định nghiệp và bất định nghiệp ở nơi Tự Tánh nào có thêm bớt, cũng là Như Huyễn. Chấp Huyễn mà cho là thật, thì chỉ vì vọng thấy vậy thôi.

Mục 6: Chỉ Rõ Ý Nghĩa Tánh Thấy Không Phải Là Cái Thấy, Viên Mãn Bồ Đề

Kinh: “Anan, nay Ta đem hai việc ấy lui tới, kết hợp mà chỉ rõ.

“Anan, như cái Vọng Kiến Biệt Nghiệp của chúng sanh kia, thấy nơi ngọn đèn hiện ra bóng tròn, tuy giống như tiền cảnh mà thật ra là do bệnh nhặm của người ấy tạo thành. Nhặm thì mắt lòa, chẳng phải sắc tạo ra. Nhưng cái Thấy Được Bệnh Lòa vẫn không có lỗi lầm gì về sự thấy cả.

“So sánh với hiện giờ, ông dùng con mắt xem thấy núi sông, cõi nước và các chúng sanh, đều là do cái Bệnh Thấy từ vô thủy tạo thành. Cái Thấy và Cái Được Thấy hình như hiện ra tiền cảnh, thật ra vốn chỉ là cái Bệnh Lòa, thấy có năng kiến và sở kiến ở trong cái Giác Minh mà thôi.

“Những sự Thấy, Biết đều là bệnh nhặm, còn cái Bổn Giác Minh Tâm thấu suốt các duyên vốn không có bệnh nhặm. Cái Biết và Cái Được Biết đều là bệnh nhặm, còn cái Bổn Giác thì không ở trong bệnh nhặm. Đó là cái Tánh Thấy Hằng Thấy, làm sao gọi được là sự Thấy, Nghe, Hay, Biết?

“Vậy nên, nay ông nhìn thấy Ta, nhìn thấy ông, cùng mười loại chúng sanh trong thế gian đều là cái Thấy Nhặm, mà chẳng phải là cái Thấy Chân Thật thấy được bệnh nhặm. Cái Tánh Thấy Chân Thật kia vốn chẳng hề nhặm, cho nên không gọi là Thấy nữa.

Thông rằng: Lấy cái bóng tròn mà so với Tiền Cảnh, lấy mắt nhặm mà so với cái Bệnh Thấy, lấy cái Thấy Lòa mà so với cái Giác Minh [A Lại Da Thức còn có nhiễm ô], lấy cái Thấy Được Bệnh Nhặm so với Tánh Bản Giác [A Lại Da Thức không còn nhiễm ô, gọi là Bạch Tịnh Thức.]thì không gì mà chẳng rõ. Dù văn nghĩa khúc mắc, nhưng không có chỗ nào không phát minh cái Thấy là bệnh nhặm, mà cái Tánh Thấy Hằng Thấy vốn chẳng hề nhặm. Cái Thấy và Cái Được Thấy, đó là Căn và Cảnh hòa hợp, mà hiện ra có núi sông, cõi nước và chúng sanh, cũng giống như sự hiện ra của Cảnh vật trước mắt, thật cũng chỉ như cái bóng tròn thấy nơi ngọn đèn. Bóng tròn chẳng do sắc tạo ra, thì các thứ trên cũng không phải do Cảnh tạo ra. Nguyên là cái Giác Minh của ta vọng thấy có chỗ duyên, như con mắt nhặm thì thành ra có bóng tròn.

Cái Giác Minh này vọng thấy, nhân ở Minh mà lập ra Cái Sở, rồi lại duyên bám theo ngoại cảnh, đó là bệnh nhặm. Còn cái Bổn Giác Minh Tâm nào rơi vào nơi chốn, thường giác các tướng sanh khởi của các duyên, chẳng đuổi theo các duyên mà trôi lăn, thì vốn chẳng hề nhặm. Vậy, nên biết do cái Giác Minh của ta duyên nơi tiền cảnh mà thành cái Sở Giác (Cái Được Biết). Cái Sở Giác là bệnh nhặm, mà cái Tánh Bổn Giác thật là cái Thường Biết. Cái Bổn Giác Minh Tâm đã thường tỏ biết cái nhặm, biết cái nhặm là bệnh, vốn tự tại, nào có sa vào chuyện nhặm ? Nói là “Cái Biết và Cái Được Biết đều là bệnh nhặm”, nghĩa là cái Giác Minh của ta thấy có chỗ duyên bèn là bệnh nhặm, lấy cái Biết và Được Biết ấy làm duyên mà có. Nói là “Cái Bổn Giác không ở trong bệnh nhặm”, là tương ưng với Cái Bổn Giác Minh Tâm thường rõ các Duyên, mà không có bệnh nhặm; ở nơi phù trần chưa khởi, chẳng sa vào cái nhặm của Thức Giới. Đây chẳng phải là cảnh giới của Thấy, Nghe, Hay, Biết cho nên nói “Đây thật là Tánh Thấy Hằng Thấy, sao gọi được là sự thấy, nghe, hay, biết?”

Nếu lấy cái sự thấy, nghe, hay, biết mà cho đó là Tánh, thì chẳng khác nào lấy con mắt nhặm mà cho là con mắt trong sạch, sao mà thông cho nổi?

Ngài Tam Bình có bài kệ :

“Chỉ Thấy, Nghe này chẳng phải Thấy, Nghe

Tuyệt không thanh, sắc để trình ông

Trong đây nếu rõ, toàn vô sự

Thể, Dụng nào cần phân, chẳng phân”.

(Chỉ thử kiến văn phi kiến văn

Vô dư Thanh, Sắc khả trình quân

Cá trung nhược liễu toàn vô sự

Thể, Dụng hà phòng phân, bất phân).

Tổ Vân Môn nêu ra: “Ngay “Chỉ Thấy, Nghe này chẳng phải Thấy, Nghe”: gọi cái gì là Thấy, Nghe? “Tuyệt không thanh, sắc để trình ông”: có thanh, sắc nào ở nơi miệng? “Trong đây nếu rõ, toàn vô sự”: có chuyện gì đâu? “Thể, Dụng nào cần phân, chẳng phân”: lời nói là Thể, hay Thể là lời nói?”

Ngài lại đưa cây trụ trượng lên mà nói: “Trụ trượng là Thể, đèn lồng là Dụng, thế là phân hay chẳng phân? Chẳng thấy nói “Nhất Thiết Trí Thanh Tịnh” ư?”

Sau, Ngài Bạch Vân Đoan nêu ra rằng: “Vân Môn chỉ hiểu y theo khuôn sáo mà vẽ chân mày, viên thông thì chẳng thế!”

“Ngay “Thấy, Nghe này chẳng phải Thấy, Nghe. Tuyệt không thanh, sắc để trình ông”: mắt là mắt, tai là tai!

““Trong đây nếu rõ, toàn vô sự. Thể, Dụng nào cần phân, chẳng phân”: Bốn, năm trăm cành hoa liễu (trong) ngõ. Hai ba ngàn chỗ xướng ca lầu”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Thật gặp nhau, chẳng giao thiệp

Sáu cửa mở toang, bốn đường tuyệt dấu

Khắp cõi là quang minh, suốt thân không sau trước

Sợi tơ chẳng bận chuyện con thoi

Hoa mỹ tung hoành riêng ý khác”.

Ngài Tam Bình riêng có một bài tụng:

“Thấy, Nghe, Hay, Biết vốn chẳng (nguyên) nhân

Đương Thể rỗng mầu, tuyệt vọng, chân

Thấy Tướng, chẳng sanh si ái nghiệp

Rỗng nhiên, toàn hết : Thích Ca Thân”.

Lại nữa, Tổ Huệ Siêu thượng đường dạy rằng: “Này các Thượng Tọa, Thấy, Nghe, Hay, Biết thì chẳng phải là Thấy, Nghe, Hay, Biết. Thể hội chăng? Cùng với các vị Thượng Tọa nói rõ lắm rồi đó, nhưng phải chờ chư vị ngôï mới được!”

Hợp các đoạn trên để chú giải đoạn kinh này.

Kinh: “Anan, cái Vọng Kiến Đồng Phận của chúng sanh kia so với cái Vọng Kiến Biệt Nghiệp của một người thì một người đau mắt cũng đồng như một nước kia.

“Người đau mắt thấy bóng tròn là do mắt nhặm hư vọng sanh ra; còn trong một nước kia hiện ra các điềm xấu là do ác duyên đồng phận của chúng sanh tạo nên. Cả hai đều là do cái Thấy hư vọng từ vô thủy sanh ra.

“Suy ra, ba ngàn Châu trong cõi Diêm Phù Đề, cùng bốn biển lớn, Ta Bà thế giới, cho đến các cõi Hữu Lậu mười phương cùng các chúng sanh đồng ở trong Diệu Tâm Vô Lậu, nhưng do cái bệnh duyên hư vọng tạo thành Thấy, Nghe, Hay, Biết hòa hợp mà giả dối sanh ra, hòa hợp mà giả dối diệt mất. Nếu xa lìa các bệnh duyên hòa hợp và chẳng hòa hợp này, tức thì diệt trở lại được các nguyên nhân sanh tử, tròn đủ Thể Bồ Đề không sanh không diệt, đó là cái Bản Tâm Xưa Nay Trong Sạch, cái Vốn Giác Ngộ Thường Trụ Xưa Nay vậy.

Thông rằng: Lấy con mắt nhặm để hiển bày cái Vọng thì dễ, lấy cái điềm xấu mà hiển bày cái Vọng thì khó, cho nên lấy Biệt Nghiệp mà so với Đồng Phận vậy. Hơn nữa, cái Vọng là các điềm xấu trong Đồng Phận còn dễ biết, chứ cái Bệnh Duyên hư vọng là các cõi nước Hữu Lậu thì quả là khó tin. Cho nên lấy dễ mà suy ra khó vậy.

Chỗ thấy có núi sông, cõi nước cùng mười loại chúng sanh trong thế gian tuy thuộc hư vọng, nhưng đồng là cái Diệu Tâm Vô Lậu. Nói Diệu, tức là vật mà chẳng phải vật, tức là Cảnh mà chẳng phải Cảnh. Chỉ vì quay lưng lại với Giác mà hợp với Trần thì thành Hữu Lậu. Hữu Lậu thì bị vật chuyển, cùng với bệnh nhặm bèn đồng. Còn nếu trái với Trần, hợp với Giác thì vốn tự Vô Lậu. Vô Lậu thì chuyển được vật, tức đồng với không nhặm. Đồng một Giác Minh, mà Vô Lậu tức là Bổn Tâm Thanh Tịnh, Bổn Giác Thường Trụ; còn Hữu Lậu thì chẳng biết Chơn mà chạy theo Vọng, trôi lăn sanh tử, hòa hợp mà vọng sanh ra, hòa hợp mà vọng diệt mất. Tương ưng với đoạn trước: “Ngay trong đó mà lại phát sanh, do Nghiệp bèn chịu xoay vần”. Chơn, Vọng vốn hòa hiệp, mà nói riêng về Vọng bởi vì Chân Như đang ở trong phiền não vậy. Các tướng hòa hợp, tức là tại trong ba cõi mà lưu chuyển. Các tướng bất hòa hợp là cái kiến chấp chẳng sanh diệt, Tự Nhiên của ngoại đạo. Cả hai thứ duyên hòa hiệp và chẳng hòa hiệp này chính là gốc rễ, nguyên nhân của sanh tử, đều là cái vọng kiến điên đảo. Nếu cái Vọng Thấy mà tiêu tan, chỉ còn một Bổn Giác. Cũng như bệnh nhặm tiêu tan, thì chỉ còn một con mắt thuần túy sáng sạch. Há đó chẳng phải là Tánh Bồ Đề tròn đủ, bất sanh bất diệt sao? Đến trong cái Bồ Đề tròn đầy ấy rồi mới tin được “Thấy do lìa Thấy, Thấy ấy siêu việt” vậy.

Tổ Huyền Sa thượng đường dạy rằng: “Tôi nay hỏi các ông, các ông đang đảm đương chuyện gì vậy? Ở thế giới nào mà an thân lập mạng đây? Có thấy ra được không? Nếu chẳng nhìn ra được thì khác nào dụi mắt sanh ra hoa đốm, thấy toàn chuyện hư vọng. Có biết thế không? Như nay trước mắt thấy đủ núi sông, đất đai, sắc, không, sáng, tối, vô vàn sự vật đều là hoa đốm điên cuồng nhọc mệt. Phải gọi tất cả những thứ đó là tri kiến điên đảo.

“Phàm là người xuất gia, phải rõ Tâm, thấu đạt Cội Nguồn mới được gọi là Sa Môn. Nay các ông đã cạo đầu, khoác y làm nên hình tướng Sa Môn, tức là đã có phần tự lợi, lợi người mà nay chỉ thấy toàn là tối đen như mực, thì tự cứu còn chẳng xong huống là giải thoát cho người?

“Này các nhân giả, nhân duyên với Phật Pháp là sự lớn lao, chớ có dễ ngươi, xúm nhau mà nói tầm phào cho qua ngày qua buổi. Tháng ngày khó được, tiếc thay cho bậc đại trượng phu! Sao chẳng tự tỉnh sát, nhìn xem đó là vật gì? Chỉ như đây là Tông Thừa từ xưa, là dòng giống Phật Đảnh. Bởi vì các ông chẳng kham nhận lãnh, nên tôi mới phương tiện khuyên răn: Cần theo cửa Ca Diếp mà nối gót đốn siêu.

“Một cái cửa này vượt hẳn phàm Thánh, nhân quả, siêu việt thế giới Hải Diệu Trang Nghiêm của Phật Tỳ Lô, siêu việt các pháp môn phương tiện của Phật Thích Ca. Ngay đây là vĩnh kiếp: chẳng dạy cho các ông có được một vật gì để khởi lên nhãn kiến, sao chẳng tự mình gấp gấp nghiệm lấy? Để khỏi cần nói “Ta phải chờ hai, ba kiếp góp chứa nghiệp lành”.

“Này các nhân giả, Tông Thừa là cái việc gì mà chẳng thể do sự dụng công trang nghiêm của ông mới đắc, mà dù có tha tâm thông, túc mạng thông cũng không thể đắc? Hội chăng?

“Như Đức Thích Ca ra đời làm ra biết bao nhiêu trò biến hóa giỡn đùa, thuyết Mười Hai Thời Giáo như xối nước, làm nên một trường Phật Sự. Thế mà đối với pháp môn này thì một điểm dùng cũng chẳng được, dùng một chút nghề như mảy lông cũng chẳng được! Biết chăng? Như đồng trong việc mộng, thì có nói cũng là nói mớ thôi. Bậc Sa Môn chẳng có ra đời, không cùng việc mộng, bởi vì rõ biết. Các ông có biết không? Rõ được tức là người Đại Giải Thoát, Đại Triệt Ngộ. Bởi thế mà siêu phàm vượt Thánh, ra khỏi sanh, lìa khỏi tử, rời xa nhân quả, siêu Tỳ Lô, vượt Thích Ca, chẳng bị phàm Thánh, nhân quả dối lừa, chốn chốn nơi nơi không người biết được ông. Hiểu thế chăng?

“Đừng tham luyến hoài cái lưới ân ái sanh tử, bị nghiệp thiện, ác móc kéo lôi đi, chẳng có phần nào tự do. Dầu ông có luyện được cái thân, tâm giống như hư không chăng nữa, dù cho ông có đến được cái chỗ chẳng lay động của Tinh Minh trong trẻo đi nữa, thì cũng chẳng ra khỏi Thức Ấm. Cổ nhân gọi cái ấy như dòng nước chảy xiết, chảy xiết mà chẳng hay, nên lầm cho là yên tĩnh. Tu hành như đó mà đòi ra khỏi bờ cõi luân hồi thì không thể được, vẫn như trước mà bị luân hồi. Bởi thế, mới nói “Các Hành là vô thường”, ngay cả công quả của Tam Thừa, thấy thế cũng nên sợ hãi. Nếu không có Đạo Nhãn thì chẳng có gì là rốt ráo. Đâu bằng như nay kẻ bạc địa phàm phu, chẳng dùng một tơ hào công phu, liền đốn siêu tức khắc. Biết rõ chỗ đặt hết tâm lực chăng? Trở lại cầu muốn cái gì? Xin khuyên các ông! Ngay đây đang chờ các ông đó! Không dạy các ông gia công tu luyện! Như nay mà chẳng như vậy còn chờ đến khi nào? Được không?”

Rồi bèn xuống tòa.

Tổ Huyền Sa nhân đọc kinh Lăng Nghiêm mà phát minh Tâm Địa. Thốt lời, nhả khí mỗi mỗi đều hợp với kinh này. Ở nơi đấy mà tin nhập, liền ngay tròn đủ Bồ Đề Bổn Giác thường trụ, còn có vọng kiến nào là bệnh ư?

Kinh: “Anan, ông tuy đã ngộ cái Bản Giác Diệu Minh vốn chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên nhưng còn chưa rõ cái Bản Giác như thế không phải Hòa Hợp mà sanh, cũng không phải Không Hòa Hợp.

“Anan, nay tôi lại lấy tiền trần hỏi ông, bởi vì ông còn lấy hết thảy những tính Nhân Duyên Hòa Hợp của vọng tưởng thế gian mà tự nghi ngờ rằng chứng Tâm Bồ Đề cũng do Hòa Hợp mà phát khởi. Vậy thì hiện nay cái Thấy Mầu Sạch của ông là hòa với cái sáng? Là hòa với cái tối? Hòa với thông suốt Hay hòa với cái ngăn bít? Nếu hòa với cái sáng, mà nay ông đang thấy sáng, thì cái sáng hiện đó, ở chỗ nào xen lẫn với cái Thấy? Cái Thấy, cái sáng có thể nhận rõ, còn hình tượng xen lộn thì như thế nào? Nếu cái sáng chẳng phải là cái Thấy thì làm sao thấy được cái sáng? Nếu cái sáng tức là cái Thấy thì làm sao thấy được cái Thấy? Nếu cái Thấy cùng khắp thì còn chỗ nào để hòa được với cái sáng? Nếu cái sáng cùng khắp thì lẽ ra không Hòa được với cái Thấy. Cái Thấy đã khác với cái sáng thì khi xen lẫn tất phải làm mất tính cách của cái sáng. Cái Thấy xen vào làm mất tính chất của cái sáng, mà nói hòa với cái sáng thì không đúng nghĩa. Đối với cái tối, cái thông suốt và cái ngăn bít thì cũng như vậy.

“Lại nữa, Anan, hiện nay cái Thấy Mầu Sạch của ông hợp cùng cái sáng, hợp với cái tối, hợp với cái thông suốt hay hợp với cái ngăn bít? Nếu hợp với cái sáng thì đến khi tối, cái sáng đã mất rồi, cái Thấy đó không hợp với cái tối thì làm sao thấy được cái tối? Nếu khi thấy tối mà không hợp với cái tối thì lẽ ra khi hợp với cái sáng, không thấy được cái sáng! Mà đã không thấy được sáng thì làm sao hợp với cái sáng và rõ biết cái sáng không phải là tối. Đối với cái tối, cái thông suốt, cái ngăn bít thì cũng như vậy.

Thông rằng: Cái Bổn Giác Diệu Minh chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên, Ông Anan trước đã tỏ ngộ sơ qua là nó hình như chẳng phải là Nhân Duyên hay Tự Nhiên, nhưng lại chấp rằng ba duyên ánh sáng của thế gian họp lại thì thành ra cái Thấy. Ông còn nghi rằng chứng Bồ Đề Tâm hẳn do Hòa Hợp mà phát khởi.

Cái Thấy của thế gian kia không những thấy cái sáng, mà còn thấy cả cái tối, thì rõ ràng là không phải nhờ các duyên vậy. Huống là cái Bồ Đề Bổn Giác vốn thường trụ, lìa ngoài mọi cái Thấy, há có thể gọi là Hòa Hợp sao?

Nói là Hòa, thì như nước hòa với đất, trộn lẫn không phân biệt được. Nay cái Thấy và cái sáng, cái tối, cái thông suốt và cái ngăn bít làm sao hòa được? Cái Thấy thuộc về Hữu Tình, cái Cảnh thuộc về Vô Tình, rõ ràng có thể biện biệt. Như hai cái đó hòa trộn lẫn nhau thì làm nên hình trạng gì? Cái Thấy thì thấy được cái sáng, nên hình như là trộn lẫn được. Nhưng cái sáng thì không thể tự thấy, mà chỉ có cái Thấy mới có thể thấy, thì hai cái hẳn không thể trộn lẫn. Nếu có thể trộn lẫn, ắt là phải có chỗ chẳng cùng khắp, mà nay cái Thấy là Kiến Phần và cái Bị Thấy là Tướng Phần, mỗi cái đều tròn vẹn, đầy khắp pháp giới, còn chỗ nào để mà hòa đây? Giả sử có thể trộn lẫn, thì cái Thấy đã trộn lẫn với cái Cảnh, vậy còn đâu là cái Thấy nữa? Và cái Cảnh Tướng đã trộn lẫn với cái Thấy, thì không thể gọi là Cảnh Tướng. Cái Thấy cùng với Tướng Bị Thấy phải khác nhau, chẳng thể hòa vậy.

Nói là Hợp, thì như cái nắp và cái hộp hợp với nhau, nương nhau mà chẳng lìa. Nay thì cái Thấy cùng với tiền cảnh là sáng, tối, thông, bít làm sao hợp được? Vì nếu cùng cái sáng hợp thì không thể thấy cái tối. Đã không hợp với cái tối, mà có thể thấy được cái tối thì cũng phải không hợp với cái sáng mới có thể thấy được cái sáng. Còn nếu hợp với cái sáng thì không thấy được cái sáng vậy! Đã không thể thấy sáng thì không thể gọi là hợp nhau, làm sao lại cùng với cái sáng hợp được! Biết rằng Sáng chẳng phải tối, thì cả hai cái thấy sáng và cái thấy tối đều không hợp nhau được. Cái thấy hẳn là khác với tiền cảnh, không thể hợp được.

Đã là cái Kiến Tinh này thì sáng, tối, thông, bít đều chẳng phải là cái Thấy, nên mới nói là Trong Sạch (Tịnh). Nhưng sáng, tối, thông, bít chẳng có cái nào không phải là cái Thấy, nên gọi là Diệu. Nói Kiến Tinh là Diệu Tịnh vì nó là cái Tịnh Sắc Căn, chẳng dính dáng với vọng trần, chẳng phải do Hòa Hợp mà sanh ra, huống là cái Tánh Thấy vốn là Giác Ngộ, trong sạch cực cùng, mầu nhiệm cực cùng, há lại do căn trần hòa hợp mà hiện hữu ư?

Tổ Chương Kính thượng đường, nói: “Tột Lý quên lời, người đời chẳng hiểu. Gượng ép tu tập việc ngoài, cho là công phu. Chẳng biết rằng Tự Tánh vốn không dính dáng đến trần cảnh, đó là cái pháp môn Vi Diệu Đại Giải Thoát. Vốn có cái gương hằng giác, không nhiễm ô, không ngăn ngại. Cái Quang Minh đó chưa từng mai một, vô thủy đến nay không hề đổi khác. Cũng như mặt trời, xa gần đều soi chiếu. Tuy đến các sắc tượng mà chẳng hòa hợp với tất cả, Linh Diệu Độc Sáng, chẳng nhờ rèn luyện. Chỉ vì chẳng biết nên đeo giữ hình tướng. Chẳng khác nào dụi mắt thấy Không-hoa, uổng tự nhọc nhằn, qua nhiều đời kiếp. Nếu liền phản chiếu thì không có được người thứ hai! Làm lụng bày biện này kia, nào chẳng kém hao Thật Tướng!”

Ngài Không Thất Đạo Nhân Trí Thông nhân xem cuốn Pháp Giới Quán liền tỏ ngộ, làm hai bài kệ:

Bài Một :

Mênh mông trần thế một Tánh Như

Dọc ngang xen lẫn ấn Tỳ Lô

Toàn sóng là nước, sóng chẳng là nước

Toàn nước thành sóng, nước tự mình!

(Hạo hạo trần trung thể Nhất Như

Tung hoành giao hỗ ấn Tỳ Lô

Toàn ba thị thủy, ba phi thủy

Toàn thủy thành ba, thủy tự thù).

Đây là nghĩa Chẳng Hòa Hợp.

Bài Hai :

Ta, Vật vốn không khác

Trùng trùng gương, bóng đồng

Sáng trong, siêu chủ bạn

Tỏ tỏ, triệt Chân Không

Một Thể trùm muôn pháp

Trong lưới báu nhập nhau

Trùng trùng, không cùng tận

Động, tĩnh vốn viên thông

(Vật ngã nguyên vô dị

Sum la cảnh tượng đồng

Minh minh siêu chủ bạn

Liễu liễu triệt Chơn Không

Nhất Thể hàm đa pháp

Giao tham đế võng trung

Trùng trùng vô tận xứ

Động tĩnh tất viên thông).

Đây lại là nghĩa Chẳng phải Không Hòa Hợp.

Kinh: Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, như chỗ tôi suy nghĩ: cái Tâm Tánh này đối với các trần cảnh và các tâm niệm không Hòa Hợp chăng?”

Phật dạy : “Nay ông lại nói Tánh Giác không Hòa Hợp, thì ta lại hỏi ông: Cái Thấy Mầu Nhiệm này mà gọi là chẳng Hòa Hợp đó, là không hòa với cái sáng, là không hòa với cái tối, là không hòa với sự thông suốt, hay là không hòa với sự ngăn bít? Nếu không hòa với cái sáng, thì giữa cái Thấy và cái sáng phải có ranh giới. Ông nay hãy xét kỹ: chỗ nào là cái sáng? Chỗ nào là cái Thấy? Nơi cái Thấy, nơi cái sáng thì lấy từ đâu làm ranh giới? Anan, nếu ở trong ranh giới của cái sáng chắc không có cái Thấy, hai cái không đến với nhau, cái Thấy tự chẳng biết được cái sáng ở đâu, thì ranh giới làm sao thành lập? Đối với cái tối, cái thông suốt, cái ngăn bít thì cũng như thế.

“Lại cái Thấy mà gọi là chẳng có hòa hợp đó, là không hợp với cái sáng, không hợp với cái tối, không hợp với cái thông suốt, hay không hợp với cái ngăn bít? Nếu không hợp với cái sáng, tức là cái Thấy và cái sáng tánh trái ngược nhau, cũng như lỗ tai với cái sáng hoàn toàn không liên quan gì nhau. Nếu vậy thì cái Thấy không biết được cái sáng ở đâu, làm sao mà phân biệt ra được cái lẽ Hợp hay Chẳng Hợp? Đối với cái tối, cái thông suốt và cái ngăn bít thì cũng như thế.

Thông rằng: Chỗ Không Hòa Hợp mà Ông Anan nghi ấy là hai pháp Chơn và Vọng, hình như chẳng có tương nhập, vì ông chưa có thể dung thông Chơn, Vọng làm một.

Tạm nói là Không Hòa, thì cái Thấy và cái sáng phải có ranh giới. Tạm nói là Không Hợp, thì cái Thấy và cái sáng, tánh tướng trái ngược nhau. Nay đều chẳng phải vậy, nên biết rằng chẳng phải Không Hòa Hợp.

Ở đoạn trước, Ông Anan nói “Không thể ở nơi hình tướng của muôn vật trước mặt mà phân tách ra được cái Thấy có riêng tự tánh, lìa ngoài mọi vật”, thì cũng tương tự chỗ này. Đã nói Không Hòa Hợp là từ nơi sự diệu tịnh của cái Thấy mà nói, tịnh cho nên chẳng dung chứa sự xen tạp. Lại nói Chẳng phải Không Hòa Hợp, là từ riêng sự Diệu của cái Thấy mà nói, Diệu thì không chỗ nào mà không có.

Cuốn Bách Môn Nghĩa Hải nói “Thấu đạt Vô Sanh là hiểu rằng Trần Cảnh là Duyên của Tâm, và Tâm là Nhân của Trần Cảnh. Nhân Duyên hòa hiệp thì các huyễn tướng mới sanh ra. Do từ Duyên sanh, nên Vô Tự Tánh. Tại sao thế ? Vì nay Trần chẳng thể tự duyên mà phải chờ có tâm. Tâm chẳng thể tự mình làm tâm, tất phải chờ có duyên Trần. Do nương nhau mà có, nên không thể định. Do đó, Duyên Sanh tức là Vô Sanh, chứ chẳng phải bỏ Duyên Sanh mà nói Vô Sanh”.

Tổ Thiệu Tiên thượng đường, nói : “Vo chẳng dính, đập chẳng tan, phơi nắng không khô, ngâm nước không thối. Một mực treo giữa Thái Hư, mặc người mắt lạnh cạnh bên nhìn”.

Hòa Thượng Bì Thọ đang hơ lửa.

Ngài Đạo Ngô hỏi: “Làm gì thế?”

Tổ Thọ nói: “Hòa hiệp”.

Đạo Ngô: “Như thế tức là ngay đó mà thoát ư?”

Tổ Thọ rằng: “Cách xa bao nhiêu thời gian rồi vậy?”

Ngài Đạo Ngô phất tay áo, bỏ đi.

Một hôm, Ngài Đạo Ngô ở ngoài về, Tổ Bì Thọ hỏi: “Từ đâu về đó?”

Ngài Đạo Ngô đáp: “Gần đây thôi”.

Tổ Thọ rằng: “Dùng sàng sảy hai miếng da đó làm gì?”

Ngài Ngô: “Mượn”.

Tổ Thọ rằng: “Kia có thì cho ông mượn, còn không thì làm sao?”

Đạo Ngô: “Chỉ vì có nên mới mượn”.

Xem chỗ cử xướng của chư tôn túc như thế, thì cái Diệu Giác Nguyên đó cùng các duyên trần và các tâm niệm là Hòa Hợp hay chẳng Hòa Hợp? Cần có mắt mới được!

MỤC 7: TÓM THU VỀ NHƯ LAI TẠNG
I. TÓM THU

Kinh: “Anan, ông còn không biết rằng hết thảy các tướng huyễn hóa của tiền trần ngay nơi chỗ mà sanh ra, tùy theo chỗ mà diệt mất. Hư huyễn vì mê vọng nên nói là tướng, chứ thật tánh chúng là Diệu Giác Minh Thể. Như vậy, cho đến năm Ấm, sáu Nhập, mười hai Xứ và mười tám Giới đều là: – Nhân Duyên hòa hợp: in tuồng có sanh ra; – Nhân Duyên chia lìa: in tuồng diệt mất. Quyết chẳng biết rằng sanh, diệt, đến, đi vốn là Như Lai Tạng Tánh thường trụ, mầu sáng, bất động, tròn khắp, tánh diệu Chân Như. Trong Tánh Chân Thường ấy mà tìm cầu cho ra tướng đến, đi, mê, ngộ, sanh, tử rốt là không được.

Thông rằng: Ở đây bày thẳng Đốn Môn, mở ra con đường Diệu Bồ Đề, tức là ngay trong phù trần huyễn hóa mà chứng Chân Như. “Trong Tánh Chân Thường mà tìm cầu cho ra tướng đến, đi, mê, ngộ, sanh, tử rốt là không được”.

Các thứ Ấm, Nhập, Xứ, Giới chỉ có tướng huyễn vọng. Huyễn không tự tánh, nương Chân mà lập như hoa đốm khởi lên giữa hư không, toàn thể hoa đốm là hư không. Như sóng sanh trên nước, toàn sóng là nước. Cho nên kinh nói “Tánh của chúng thật là Diệu Giác Minh Thể”, Thể này chính là Pháp Thân. Tự nó gồm chứa vô lượng công đức nên gọi là Như Lai Tạng. Vốn chẳng đến đi, nên gọi là Thường Trụ. Vốn chưa từng mê muội, nên gọi là Diệu Minh. Vốn không sanh diệt, nên gọi là Bất Động. Vốn tự sẵn đủ nên nói là Tròn Khắp, Châu Viên. Một vị Thường Trụ nên Đến Đi bất khả đắc. Một vị Diệu Minh nên mê ngộ bất khả đắc. Một vị Bất Động nên sanh tử bất khả đắc. Một vị Tròn Khắp nên Chân Thường.

Cái gọi là Tánh Chân Như Mầu Nhiệm ở đây kỳ thật là cái “Xưa nay không một vật” vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá: “Kẻ học nhân này chẳng hiểu, Hòa Thượng chỉ bày như thế nào?”

Tổ Hoàng Bá nói: “Ta không có một vật nào hết. Từ xưa đến giờ chẳng từng đem ra một món vật cho người. Ông từ vô thủy đến nay chỉ vì bị người ta chỉ bày rồi tìm kiếm chuyện Khế Hợp, tìm kiếm chuyện Hiểu Ngộ. Như thế thì chẳng phải cả thầy trò đều lọt vào nạn vua sao ? Ông chỉ cần biết rằng, một niệm chẳng thọ tức là không có cái Thân Thọ. Một niệm không tưởng đến tức là không có cái Thân Tưởng. Quyết chẳng có trôi theo sự tạo tác, tức là không có cái Thân Hành. Chẳng có nghĩ suy, so sánh, phân biệt tức là không có cái Thân Thức. Nay ông vừa khởi ra một niệm tức thì có ngay vòng Thập Nhị Nhân Duyên: Vô Minh duyên ra Hành, vừa Nhân vừa Quả; cho đến Lão, Tử cũng vừa Nhân vừa Quả.

“Cho nên đồng tử Thiện Tài đi một trăm mười nơi cầu thiện tri thức, chỉ là hướng vào Thập Nhị Nhân Duyên mà cầu. Sau rốt gặp Đức Di Lặc. Đức Di Lặc lại chỉ đến gặp Đức Văn Thù. Văn Thù ấy, chính là cái Bổn Địa Vô Minh của ông. Nếu tâm tâm riêng khác, hướng ngoài mà tìm cầu thiện trí thức, thì một niệm vừa sanh liền diệt, vừa diệt liền sanh. Bởi thế, Tỳ Kheo các ông cũng sanh, cũng lão, cũng bệnh, cũng tử. Trả Nhân đền Quả xưa nay, tức là sự sanh diệt của năm Tụ. Năm Tụ là năm Ấm. Một niệm chẳng khởi tức là mười tám Giới bèn không, ngay thân là hoa trái Bồ Đề, ngay tâm tức là Bát Nhã. Nếu có chỗ dừng bám, thì ngay thân là xác chết, cũng gọi là quỉ giữ xác chết”.

Lời nói này của Tổ Hoàng Bá chẳng phải làm sáng tỏ câu kinh “Hư huyễn vì mê vọng nên nói là tướng, chứ thật tánh của chúng chính là Diệu Giác Minh Thể” đó sao?

Ông Hạo Nguyệt cúng dường, hỏi Tổ Trường Sa: “Rõ thì nghiệp chướng vốn là không. Chưa rõ, nợ xưa đành trang trải [Chứng Đạo Ca]”, vậy thì Tổ Sư Tử Tôn giả và Nhị Tổ Huệ Khả vì sao phải trả nợ xưa?”

Tổ Sa nói: “Đại Đức chẳng biết Bổn Lai Không [Cái xưa nay vốn Không].”

Hỏi: “Như thế nào là Bổn Lai Không?”

Đáp: “Là nghiệp chướng”.

Hỏi: “Như thế nào là nghiệp chướng?”

Đáp: “Là Bổn Lai Không”.

Rồi Tổ Sa dùng bài kệ chỉ bày:

“Giả Có, vốn chẳng Có

Giả Diệt, cũng chẳng Không

Nghĩa Niết Bàn, trả nợ

Một Tánh, chẳng khác gì”.

(Giả Hữu nguyên phi Hữu

Giả Diệt diệc phi Vô

Niết Bàn, thường trái nghĩa

Nhất Tánh, cánh vô thù).

Lời dạy này của Tổ Trường Sa chẳng phải làm rõ câu “Sanh diệt, đến đi đều vốn là Tánh Chân Như tròn khắp, bất động, mầu sáng, thường trụ của Như Lai Tạng” đó sao?

Lại Tổ Giáp Sơn về Tổ Định Sơn vừa đi vừa nói chuyện.

Tổ Định Sơn nói: “Trong sanh tử mà không có Phật, thì không có sanh tử”.

Tổ Giáp Sơn nói: “Trong sanh tử mà có Phật thì chẳng mê sanh tử”.

Hai bên chẳng chịu nhau, bèn có đến Tổ Đại Mai.

Giáp Sơn bèn thuật lại và hỏi chỗ thấy, hiểu của ai gần hơn.

Tổ Mai nói: “Một gần, một xa”.

Giáp Sơn lại hỏi: “Cái nào gần”.

Tổ Mai rằng: “Thôi về đi, ngày mai đến”.

Hôm sau, Giáp Sơn lại tới hỏi nữa.

Tổ Mai nói: “Gần thì chẳng hỏi, hỏi thì chẳng gần”.

Sau này, Ngài Giáp Sơn tự bảo : “Lúc đó mất một con mắt lẻ”.

Đây là một tắc, chẳng phải làm rõ câu “Trong Tánh Chân Thường mà cầu cho ra những cái đến đi, mê ngộ, sanh tử rốt là không được” đó sao?

Bản chú giải xưa cho rằng: Từ bảy chỗ trưng tâm và biện ra cái Thấy cho đến đây là rộng phá Chấp Ngã, là pháp Quán Không, Xa Ma Tha. Từ đây trở xuống là rộng phá Chấp Pháp, tức là pháp Quán Giả, Tam Ma Đề. Đối với chỗ “Chỉ thẳng Tâm người, thấy Tánh thành Phật” còn cách xa một đoạn đường.

Như thế là chưa hiểu rằng pháp Diệu Xa Ma Tha mà Ông Anan hỏi, thì ở đây, được đáp là Diệu Chân Như Tánh. Chỉ một chữ Diệu, thật khó hình dung, người ngộ tự biết lấy.

A. THU SẮC ẤM

Kinh: “Anan, thế nào năm Ấm vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh?

Thông rằng: Năm Ấm cũng gọi là năm Uẩn. Uẩn nghĩa là chứa nhóm, tích tụ. Ấm nghĩa là che đậy. Tích tụ hữu vi, che đậy Chân Tánh, cho nên cùng gọi là phạm vi của năm Ấm, rất là khó phá. Ở đây nói “Vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh” là nói suy từ gốc thì năm Ấm duyên khởi từ trong Như Lai Tạng mà lưu xuất ư? Hay là nói năm Ấm đều Không, tức hiển bày Tánh Diệu Chân Như ư? Điều này thuộc về Đốn Môn, tức là ở đoạn trước gọi là “Con Đường Diệu Tu Hành các Tam Ma Đề Đại Tổng Trì”. Chính là ở đây chỉ rằng : Ngũ Ấm tức là Như Lai Tạng, tức là Tánh Diệu Chân Như, không hai, không khác! Như thế thì dẹp tan Ngũ Ấm, cũng không có thứ lớp. Như luận về Lý Đốn Ngộ, phải ngay đây thấy được năm Ấm đều tự Vô Sanh, đều tự Tịch Tĩnh, cầu tướng năm Ấm rốt là không thể được. Thế thì năm Ấm đâu chẳng phải là Chân Như, mà Chân Như nào chẳng hề là Ngũ Ấm ư?

Có nhà sư hỏi Tổ Quy Sơn An rằng: “Rời bỏ năm Ấm, thế nào là cái thân xưa nay?”

Tổ An nói: “Đất, Nước, Lửa, Gió, Thọ, Tưởng, Hành, Thức”.

Vị sư nói: “Cái đó là năm Ấm”.

Tổ An nói: “Cái đó chẳng phải năm Ấm”.

Lại hỏi: “Cái Ấm này đã hết mà cái Ấm kia chưa sanh, thì như thế nào?”

Tổ An nói: “Cái Ấm này chưa hết, Đại Đức là cái gì?”

Đáp: “Chẳng hiểu được”.

Tổ An nói: “Nếu hiểu cái Ấm này, bèn rõ Ấm kia”.

Như theo Tổ An, quả là thấu suốt Ngũ Ấm vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.

Kinh: “Anan, ví như có người dùng con mắt trong sạch xem hư không trong tạnh, chỉ thấy một hư không trong sáng, vắng lặng chẳng có gì. Người ấy khi không chẳng lay động con mắt, nhìn sững hồi lâu nên mỏi mắt, bèn ở nơi hư không riêng thấy hoa đốm loạn xạ, lại thấy có tất cả những tướng giả dối lăng xăng. Nên biết rằng Sắc Ấm cũng là như thế.

“Anan, các hoa đốm lăng xăng ấy chẳng phải từ hư không mà đến, chẳng phải từ con mắt mà ra. Thật vậy, Anan, nếu nói từ hư không mà đến, đã từ hư không đến thì phải lại trở vào hư không. Nếu có ra, có vào như thế thì đã chẳng phải là hư không. Hư không mà chẳng phải trống rỗng thì tự nhiên không thể dung chứa hoa đốm sanh diệt ở trong ấy, cũng như thân thể Anan không thể dung chứa được một Anan khác.

“Còn cho rằng hoa đốm từ con mắt mà ra, đã từ con mắt ra thì phải trở vào con mắt. Lại cái tính hoa đốm ấy đã từ con mắt mà ra thì lẽ ra phải có Tánh Thấy. Nếu có Tánh Thấy thì khi đã ra làm hoa đốm giữa hư không, phải trở lại thấy được con mắt. Nếu không có Tánh Thấy, thì khi đi ra phải che lấp hư không, khi trở vào phải che lấp con mắt! Hơn nữa, khi thấy hoa đốm, đáng lẽ con mắt phải không lòa, chứ sao thấy hư không trong sáng thì mới gọi là con mắt trong sạch?

“Vậy, nên biết rằng: Sắc Ấm hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Ngài Long Thọ có bài kệ:

“Các pháp chẳng tự sanh

Cũng chẳng do (cái) khác sanh

Chẳng chung, chẳng không nhân

Nên gọi là vô sanh”.

(Chư pháp bất tự sanh

Diệc bất tùng tha sanh

Bất cọng bất vô nhân

Thị cố thuyết vô sanh).

Phàm các pháp chẳng tự sanh, vì chờ có các Duyên vậy. Chẳng do cái khác sanh, vì các Duyên đều vô tự tánh. Chẳng cùng sanh vì thể của trí và tu hành là không; vô tự tánh nên không hợp, không tán. Chẳng không Nhân, vì phải chờ tu hành giác ngộ mới hiển lộ, chứ chẳng phải tự nhiên mà thành.

Hãy biết rằng cái Diệu Giác Minh Thể này lìa ngoài hết thảy mọi lỗi lầm, vốn Tự Vô Sanh vậy. Từ năm Ấm, sáu Nhập, mười hai Xứ, mười tám Giới cho đến bảy Đại chẳng có chỗ nào không làm rộng sáng cái ý này. Ngộ được Vô Sanh tức là Con mắt thanh tịnh. Xưa nay vốn tự không hoa đốm, chỉ vì nhìn sững mà hoa mắt. Trái với Chân, hiệp với Vọng, bèn thấy có hoa. Hoa vốn không Thể, chẳng từ đâu sanh. Chỉ hết bệnh nhặm, hoa cuồng loạn tự diệt. Nếu ở nơi hoa đốm lăng xăng mà cho là có chỗ sanh ra, tức là tánh Nhân Duyên; nói là không có chỗ phát sanh, là tánh Tự Nhiên. Nay xét chỗ sanh ra, thì chẳng ở hư không mà sanh, cũng chẳng ở con mắt mà sanh, thì rõ là chẳng phải Nhân Duyên. Nếu quả là Tự Nhiên mà có thì khi thấy hoa đốm lẽ ra tự mình không có bệnh nhặm. Nếu không có bệnh nhặm mà thấy hoa đốm thì con mắt thấy hoa đốm phải gọi là con mắt trong sạch! Và thấy hư không trong sáng phải là con mắt nhặm! Thế, tại sao khi thấy hư không trong sáng lại gọi là con mắt trong sạch? Hoa đốm này chắc phải do bệnh nhặm mà sanh, chứ rõ ràng chẳng phải tự nhiên vậy!

Ôi! Hoa đốm đã thế, thì Sắc Ấm cũng thế. Vốn đều hư vọng, vốn vô tự tánh, tức Sắc tức Không. Cho nên gọi đó vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh vậy.

Đức Mã Tổ dạy chúng rằng: “Ba cõi duy chỉ là Tâm, muôn hình vạn tượng đều là một Pháp Ấn. Phàm thấy sắc là thấy tâm. Tâm chẳng tự là tâm, nhân sắc mà có. Các ông chỉ tùy thời mà nói năng, thì sự tức là lý, đều không chỗ ngại. Đạo quả Bồ Đề cũng lại như thế. Nơi tâm sanh ra thì gọi là sắc. Biết sắc là không thì sanh tức là chẳng sanh. Nếu hiểu ý này mới khá tùy thời ăn cơm mặc áo, nuôi lớn Thánh Thai [Điạ vị Thập Trụ, Thập Hành, Thập Hồi Hướng thuộc về Tam Hiền, gọi là Thánh Thai. Do chỗ tự dùng mình gieo làm nhân, bạn lành làm duyên, nghe chánh pháp mà tu tập nuôi lớn đến bậc Sơ Địa, thấy được Đạo, sanh trong nhà Phật], mặc tình qua ngày qua buổi, còn chuyện gì đâu! Các ông thọ lãnh giáo pháp của ta, hãy nghe kệ rằng:

“Tâm địa tùy thời nói

Bồ Đề chỉ là thế

Sự, lý đồng không ngại

Đang sanh tức chẳng sanh”.

(Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ Đề diệc chỉ ninh

Sự, Lý cu vô ngại

Đương sanh tức bất sanh).

Tổ Vân Môn dạy chúng rằng: “Chân Không chẳng hoại Có. Chân Không không khác Sắc”.

Có vị sư hỏi: “Cái gì là Chân Không?”

Tổ Môn nói: “Ông có nghe tiếng chuông không?”

Đáp: “Đó là tiếng chuông”.

Tổ Môn nói: “Năm Lừa [Năm Lừa : năm không có trong mười hai chi] mộng thấy được sao?”

Thiền sư Cao An Nhân dạy chúng rằng: “Bình thường chẳng muốn hướng theo lời trước, câu sau mà cổ vũ đùa giỡn với nam nữ nhà người. Vì sao? Vì thanh chẳng phải thanh, sắc chẳng phải sắc”.

Có vị tăng hỏi: “Như thế nào là thanh chẳng phải thanh?”

Đáp: “Gọi là sắc được không?”

Hỏi: “Như thế nào là sắc chẳng phải sắc?”

Đáp: “Gọi là thanh được chăng?”

Vị tăng làm lễ tạ.

Tổ Bèn nói: “Hãy thử nói xem: vì ông mà nói? Hay đáp lại lời ông? Nếu có người rõ được thì có chỗ nhập”.

Tổ Đơn Hà tụng rằng:

“Sắc tự sắc, hề, thanh tự thanh

Oanh non hót liễu, khói mong manh

Cửa cửa đều thông về kinh quốc

Nghiêng nghiêng ba đảo, biển đầy trăng

(Sắc tự sắc hề thanh tự thanh

Tân oanh đề xứ liễu yên kinh

Môn môn hữu lộ thông kinh quốc

Tam đảo tà hoành hải nguyệt minh).

Cho nên, biết Sắc Ấm vốn là Tánh Diệu Chân Như, liền đạt Vô Sanh đó.

B. THU THỌ ẤM

Kinh: “Anan, ví như có người tay chân yên ổn, năm vóc điều hòa, bỗng như quên mình, không có gì là trái là thuận. Người ấy khi không lấy hai bàn tay xoa nhau giữa hư không, thì nơi hai bàn tay ấy giả dối sanh ra những Cảm Xúc trơn rít, lạnh nóng. Nên biết Thọ Ấm cũng lại như thế.

“Anan, các Cảm Xúc giả dối kia không phải từ hư không mà đến, không phải từ bàn tay mà ra. Thật vậy, Anan, nếu từ hư không mà đến thì đã sanh Cảm Xúc nơi bàn tay, sao lại không sanh Cảm Xúc nơi thân thể, không lẽ hư không lại biết lựa chỗ để sanh ra Cảm Xúc? Nếu như từ bàn tay mà ra, thì lẽ ra không cần hai tay phải hợp lại. Lại đã từ bàn tay mà ra thì khi bàn tay hợp lại, biết có Cảm Xúc, đến khi bàn tay rời ra thì Cảm Xúc phải chạy vào, và xương tủy cánh tay phải biết đường vào của Cảm Xúc. Rồi hẳn phải có tâm hay biết, biết ra, biết vào và phải có một vật gì đi lại trong thân, sao lại phải chờ đến hai tay hợp lại mới gọi là Cảm Xúc?

“Vậy, nên biết rằng: Thọ Ấm hư vọng, vốn chẳng phải tính Nhân Duyên, chẳng phải tính Tự Nhiên.

Thông rằng: Trong cái Tạng Tánh không có các lãnh thọ. Khởi ra xúc tình nơi Cảnh, đem Cảnh vào tâm thì gọi là Thọ. Cho nên lấy hai tay xoa vào nhau thì hư vọng sanh ra trơn rít, lạnh nóng… Lạnh nóng vốn không có, do tiếp xúc mà có, nên gọi là huyễn xúc. Nếu Thọ Ấm do Nhân Duyên hay Tự Nhiên mà sanh thì không thể gọi là hư vọng. Nay Thọ chẳng phải từ hư không cũng chẳng phải từ bàn tay, tức là chẳng phải Nhân Duyên. Phải chờ hợp lại mới biết tức là chẳng phải Tự Nhiên. Chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên, đương thể Tịch Diệt. Vốn tự chẳng sanh thì không phải là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh sao? Gọi là Nhiệm Mầu (Diệu), vì Thọ mà thật chẳng Thọ.

Đức Thế Tôn nhân có vị Phạm Chí Trường Trảo đến để nghị luận, và cam đoan trước rằng: “Nếu cái nghĩa của tôi rớt, tôi sẽ tự chặt đầu”.

Thế Tôn nói: “Nghĩa của ông lấy gì làm Tông?”

Ông Phạm Chí đáp: “Tôi lấy “Tất cả đều chẳng lãnh thọ làm Tông”.

Thế Tôn nói: “Cái Thấy đó có thọ không?”

Vị Phạm Chí phất tay áo bỏ đi. Đến giữa đường, ông bèn tỉnh ngộ mà bảo với đệ tử rằng: “Ta phải trở lại dâng đầu cho Thế Tôn!”

Các đệ tử nói: “Trước đại chúng trời, người, Ngài đã thắng cuộc, sao lại chém đầu?”

Ông đáp: “Ta thà ở trước người Trí mà chém đầu còn hơn ở giữa người vô Trí mà đắc thắng”.

Rồi than rằng: “Nghĩa của ta bị rớt vào cả hai chỗ : Cái Thấy mà có thọ, là rơi vào phần thô. Cái Thấy mà không thọ, là rơi vào phần tế. Tất cả trời, người và hàng Nhị Thừa đều chẳng biết chỗ rơi kẹt của cái nghĩa ta đưa ra. Chỉ có Thế Tôn và các Đại Bồ Tát biết được cái nghĩa của ta bị rớt”.

Bèn trở lại chỗ Thế Tôn và thưa rằng : “Nghĩa của tôi bị rớt kẹt ở hai nơi, xin tự chặt đầu dâng Ngài”.

Đức Thế Tôn dạy: “Trong pháp của ta không có việc như vậy. Ông nên hồi tâm mà hướng về đạo”.

Ông Phạm Chí bèn cùng năm trăm đệ tử xuất gia theo Phật và chứng A La Hán.

Ôi, Thọ Ấm vi tế đến như vậy, đâu dễ gì phá!

C. THU TƯỞNG ẤM

Kinh: “Anan, ví như có người khi nghe nói đến trái mơ chua thì trong miệng chảy nước miếng. Khi nghĩ đến đứng trên vực núi thì lòng bàn chân thấy rợn rợn. Nên biết Tưởng Ấm lại cũng như vậy.

“Anan, câu chuyện mơ chua như thế chẳng từ trái mơ mà sanh ra, chẳng phải do cái miệng mà vào. Thật vậy, Anan, nếu do quả mơ sanh ra thì trái mơ tự nói lấy, nào phải chờ đến người nói? Nếu do cái miệng mà vào thì cái miệng tự nghe lấy, cần gì đến lỗ tai! Nếu chỉ có lỗ tai nghe, thì nước miếng kia sao không từ lỗ tai chảy ra! Chuyện nghĩ đến đang đứng trên vực núi lại cũng như vậy.

“Vậy, nên biết rằng: Tưởng Ấm là hư vọng, vốn chẳng phải tính Nhân Duyên, chẳng phải tính Tự Nhiên.

Thông rằng: Tư tưởng vốn không có thật tướng, do tâm mà thành có tướng, nên gọi là Tưởng. Nghĩ tưởng đến trái mơ chua thì chảy nước miếng. Nghĩ tưởng đến vực cao thì cảm thấy lòng bàn chân rợn rợn. Trái mơ nào có miệng, chỉ có nói đến thôi, thì nước miếng do đâu mà tới? Nên có là do Tưởng vậy. Lại nữa, trong mộng mà nói đến trái mơ chua, người nói chẳng phải là người thật, cái Nghe lại chẳng phải lỗ tai, thì nước miếng do đâu mà tới, đó là kết quả của Tưởng vậy. Nếu cái Tưởng này là tánh Nhân Duyên thì chắc là không thể ngoài trái mơ chua và miệng mà có. Nay việc nói chẳng phải là từ quả mơ, việc nghe chẳng do miệng, lỗ tai lại chẳng chảy nước miếng, mà trong miệng lại có nước sanh ra, thì rõ ràng không phải là Nhân Duyên.

Nếu cái Tưởng này là tánh Tự Nhiên, thì khi nói trái mơ chua lẽ ra lòng bàn chân phải thấy rờn rợn, nói đứng trên vực thẳm thì lẽ ra nước miếng chảy ra. Mà nay mỗi thứ đều tùy theo chủng tử, tập khí, chẳng phải không lý do mà tự nhiên có, nên rõ ràng là không phải Tự Nhiên.

Chẳng phải là Nhân Duyên, chẳng phải là Tự Nhiên, ngay đang lúc Tưởng, tức là Vô Tưởng, Như Như, một Tánh Nhiệm Mầu vậy.

Có một vị đạo sĩ hỏi Tổ Vạn Tùng: “Kẻ đệ tử này hơn ba mươi năm trừ dẹp vọng tâm mà không xong!”

Tổ Tùng nói: “Tôi có bốn câu hỏi đưa ra để tỏ cái Toàn Chân:

“Câu hỏi thứ nhất: Vọng tâm đã có từ lâu mau rồi?

“Câu hỏi thứ hai: Xưa nay vốn có Vọng Tâm không?

“Câu hỏi thứ ba: Vọng tâm làm sao mà đoạn?

“Câu hỏi thứ tư: “Vọng tâm đoạn là phải hay không đoạn là phải?”

Vị tăng lạy tạ rồi đi.

Ngài Hoàng Sơn Triệu Văn Nhụ thân cận Viên Thông quốc sư, từng có bài tụng:

“Vọng tưởng xưa nay vốn là Chân

Khi trừ lại dấy một lớp trần

Nói, suy, động, tĩnh nhờ gì đó?

Kỹ lưỡng mà xem, ai khác đâu”.

(Vọng Tưởng nguyên lai bổn tự Chơn

Trừ thời hựu khởi nhất trùng trần

Ngôn, tư, động, tĩnh thừa thùy lực

Từ tế khán lai vô biệt nhơn).

Thuở Phật còn tại thế, có ba người anh em nghe ở nước Tỳ Da Ly có người dâm nữ tên là Am La Bà Li. Lại nghe ở nước Xá Vệ có người dâm nữ là Tu Mạn Na, lại nghe ở thành Vương Xá có người dâm nữ tên là Ưu Bát La Bàn Na. Tất cả đều tuyệt sắc. Ngày đêm nhớ nghĩ, mới mộng thấy cùng các nàng đó ân ái. Đến khi tỉnh dậy, nhớ lại mới nghĩ rằng: “Người nữ chẳng tới, ta cũng không đi, mà chuyện dâm đã thành đầy đủ”.

Nhân đó mà tỏ ngộ tất cả các pháp đều như thế cả, do đó đốn chứng Duy Tâm.

Ôi! Như ba người ấy đáng gọi là tỏ suốt được sự hư vọng của Tưởng Ấm. Đốn chứng Duy Tâm chẳng phải là đã thấy Tánh Diệu Chân Như sao?

D. THU HÀNH ẤM

Kinh: “Anan, ví như dòng nước chảy xiết, sóng mòi nối nhau, lớp trước lớp sau, không vượt khỏi nhau. Nên biết Hành ấm lại cũng như thế.

“Anan, Tánh Chảy như vậy không nhân hư không mà sanh, không nhân nước mà có, cũng không phải tánh nước, cũng không rời hư không và nước. Thật vậy, Anan, nếu nhân hư không mà sanh, thì mười phương hư không vô tận thành ra dòng nước chảy vô tận, thế thì thế giới đều bị chìm đắm cả. Nếu nhân nước mà có, thì dòng chảy ấy bản tánh lẽ ra không phải là nước nữa và hiện nay đã có thể chỉ ra tướng của dòng chảy và tướng của nước khác nhau. Nếu Tánh Chảy tức là Tánh Nước, thì khi nước đứng lại, lẽ ra không phải là nước nữa. Nếu Tánh Chảy rời hư không và nước mà có, thì không thể có cái gì ở ngoài hư không cả, và ở ngoài nước không thể có dòng nước.

“Vậy nên biết rằng: Hành Ấm hư vọng, vốn không phải Tánh Nhân Duyên, không phải Tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Thức A Đà Na [Thức A Lại Da, Thức Thứ Tám] vi tế, tập khí hiện hành như dòng nước chảy xiết, tưởng chừng là đứng yên, gọi là Thức Thứ Tám. Gắn dính cái vọng động vào Tánh trong lặng, niệm niệm đổi dời, biến đổi chẳng hề ngừng nghỉ, gọi là Thức Thứ Bảy, đó là Hành Ấm. Hành Ấm [Cái Thức thi hành âm thầm] giống như dòng nước chảy xiết, theo Cảnh mà đổi dời. Nhưng cái dòng chảy đó, không phải từ Cảnh mà sanh, không phải từ Tâm mà sanh, chẳng phải tức là Tâm Cảnh, chẳng phải lìa ngoài Tâm Cảnh. Tất cả bởi vì Thức Thứ Bảy ở trong dựa vào Thức Thứ Tám, ngoài thì nương theo Thức Thứ Sáu, vốn không có tự tánh khá được. Đã vô tự tánh, tức là hư vọng vậy.

Nói dòng nước chẳng phải từ hư không sanh ra thì còn dễ hiểu, nhưng nói “Dòng nước chẳng phải từ nước mà có” thì khó biện ra. Cái Năng Hữu [Cái Có] là nước, cái Sở Hữu [Được Có] là dòng nước chảy. Cũng như cây sanh ra trái, thì trái chẳng phải là cây, rõ ràng có thể chỉ ra là cây khác trái. Thế mà dòng nước chảy và nước, hai tướng ấy không thể riêng ra mà tự có, thì tức là dòng nước không phải do nước mà riêng có, đã rõ ràng vậy. Dòng nước chảy chẳng phải tức là hư không hay nước, nghĩa là không phải Nhân Duyên. Chẳng lìa ngoài hư không và nước, tức chẳng phải Tự Nhiên. Chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên thì đương nhiên là hư vọng. Thấu suốt được là hư vọng, hiện giờ vốn tự Vô Sanh, đó là Tánh Diệu Chân Như.

Kinh Lăng Già nói “Có tướng thì sanh chấp ngại, có tưởng thì sanh vọng tưởng. Sự trôi chảy (lưu chú) sanh thì theo vọng mà trôi lăn. Nếu đến được Vô Công Dụng Địa thì vẫn còn trong tướng lưu chú. Cần phải vượt ra được cái sanh tướng lưu chú thứ ba, mới là tự tại khoái hoạt”.

Có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu: “Trẻ nhỏ sơ sanh có đủ sáu Thức hay không?”

Tổ Châu nói: “Trên dòng nước xiết, đánh cầu”.

Vị tăng lại hỏi Tổ Đầu Tư: “Trên dòng nước xiết đánh cầu, ý chỉ thế nào?”

Tổ Đầu Tử đáp: “Niệm niệm chẳng dừng”.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Sáu Thức vô công, hỏi một câu

Tác gia [Tiếng xưng hô của thiền tông, chỉ kẻ thật có chỗ then chốt. Nghiã là tông sư; như Triệu Châu gọi là tác gia] chung sức biện mối đầu

Mênh mông chảy xiết: cầu vẫn đánh

Chỗ ấy chẳng ngừng, ai biết xem?”.

(Lục Thức vô công thân nhất vấn

Tác gia tầng vọng biện lai đoan

Mang mang cấp xuất đả cầu tử

Lạc xứ bất đình thùy giải khán).

Đây là hoạt cú của Ngài Tuyết Đậu. Thử nói bài tụng đến vào chỗ nào? Nếu nhìn thấy được mới tin nổi Hành Ấm tức là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.

E. THU THỨC ẤM

Kinh: “Anan, ví như có người lấy bình tần già [Bình giống hình chim Tần Già (Kalavinka – Ca lăng tần già). Phật dùng làm thí dụ không có sự qua lại của cái không, không có sự sống chết của cái thức (tâm thức hay uẩn thức).] bịt cả hai lỗ, rồi vác cái bình đầy hư không đi xa ngàn dặm đem cho nước khác. Nên biết rằng Thức Ấm cũng lại như thế.

“Anan, cái hư không ấy không phải đến từ phương kia, cũng không phải nhập vào phương này. Thật vậy, Anan, nếu đến từ phương kia, thì trong cái bình đã đựng hư không đem đi, ở phương kia lẽ ra phải thiếu một bình hư không! Nếu đưa vào phương này thì khi mở miệng bình trút ra, lẽ ra phải thấy hư không ra!

“Vậy, nên biết rằng: Thức Ấm hư vọng, vốn không phải tánh Nhân Duyên, không phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Bộ Tông Cảnh Lục nói “Nếu chấp là có Thức, theo thân mà qua lại, nơi này Thức Ấm diệt, qua nơi kia Thức Ấm sanh thì cũng giống như đem hư không của xứ này qua cho xứ khác ở xa. Nếu ở nơi này Thức Ấm thật diệt mất, thì chỗ này phải thiếu hư không. Nếu ở nơi kia Thức Ấm lại sanh ra, thì khi mở nắp đổ bình, phải thấy hư không chảy ra. Bởi thế nên biết rằng: hư không bất động, Thức không đến-đi, Thức Ấm là hư vọng vậy.

Tổ Ôn Lăng nói: “Cái Tánh Không Chơn Giác cùng khắp pháp giới một khi đã mê thì là Thức, Thức cũng như hư không ở trong bình. Trong ngoài đều là một hư không: ví dụ cho Tánh và Thức vốn là một Thể. Bịt cả hai đầu: ví dụ cho hư vọng phân ra là Đồng, là Khác. Hư không không có sự đến-đi: ví dụ cho Tánh không có sanh, không có diệt. Cái bình: ví dụ cho cái nghiệp hư vọng. Hư không trong bình: ví dụ cho Thức hư vọng. Nghiệp mang Thức đi, như cái bình mang hư không. Đi qua nước khác: ví dụ cho sự luân chuyển hư vọng trong sáu nẻo luân hồi”.

Kinh Pháp Cú nói: “Cái tinh thần ở trong hình hài như con chim sẻ nhốt trong bình. Bình vỡ thì chim bay mất”.

Cái bình tần già này cũng giống như hình hài, hai ý giống nhau.

Quan Đại Phu Lục Tuyên hỏi Tổ Nam Tuyền: “Người xưa có nuôi trong bình một con chim, dần dần lớn lên, không ra khỏi bình được. Nay nếu không được hủy bình, không được làm hư hao chim, làm sao ra được?”

Tổ Nam Tuyền kêu lớn: “Đại Phu!”

Ông Lục Tuyên ứng tiếng dạ.

Tổ Tuyền nói: “Ra rồi vậy”.

Ông Lục Tuyên do chỗ đó mở tỏ, bèn lạy tạ.

Một hôm, lại hỏi Tổ Nam Tuyền: “Đệ tử theo Lục Hợp mà đến, trong ấy lại còn có thân chăng?”

Tổ Tuyền nói: “Phân minh nhớ giữ, cử động tựa chủ nhân”.

Ông Lục Tuyên nói: “Hòa Thượng thật không thể nghĩ bàn, đến chỗ nào thế giới thành tựu chỗ đó”.

Tổ Tuyền nói: “Thật ra, đều là chuyện của phần ông đó!”

Hòa Thượng Báo Ân Minh hỏi hai vị thiền khách: “Thủ Tòa vừa rời chỗ nào?”

Đáp: “Kinh đô”.

Tổ Minh nói: “Thượng Tọa rời kinh đô đến núi này, thì kinh đô thiếu Thượng Tọa mà núi này dư Thượng Tọa! Dư tức là ngoài tâm có pháp; thiếu thì tâm, pháp chẳng cùng khắp! Nói được lý đạo thì nên ở, chẳng hiểu thì nên đi”.

Hai vị này không đáp được.

Như thiền sư Thiên Y Hoài, chỗ thấy tự rành rẽ. Tổ Thiên Y đến ngọn núi Sam, được mời vào chùa, thượng đường nói : “Suốt hai mươi năm mến mộ núi này, hôm nay mừng đã đến được, quả là đầy đủ nhân duyên. Sơn tăng chưa đến núi này mà thân đã đến trước. Kịp tới khi đến đây, thì núi Sam đã ở trong thân của sơn tăng”.

Ở chỗ này mà mỗi mỗi đều thấu triệt, mới tin Thức Ấm là hư vọng, vốn chẳng hề có đến, có đi. Như bọt nước sanh ra, diệt mất, không lìa ngoài biển cả. Bọt nước là biển cả, thì Thức lại chẳng phải là Tánh Diệu Chân Như đó ư?

    Xem thêm:

  • Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cương Tam Muội Bản Tính Thanh Tịnh Bất Hoại Bất Diệt - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Kinh Tạng
  • Kinh Lực Trang Nghiêm Tam Muội - Kinh Tạng
  • Tịnh Lưu Ly Tịnh Độ Tiêu - Kinh Tạng
  • Pháp Tùy Hành Niệm Tụng Đại Tì Lô Già Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh Lược Thị Thất Chi - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm (Trọn bộ 4 tập) - Kinh Tạng
  • Ngữ Lục Của Thiền Sư Thụy Châu Động Sơn Lương Giới - Kinh Tạng
  • Ngữ Lục Của Thiền Sư Đàm Châu Quy Sơn Linh Hựu - Kinh Tạng
  • Phẩm Báo Ân Cúng Dường Thập Nhị Đại Oai Đức Thiên - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 17 – Làm Phúc - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Thành Tựu Tụng Niệm Cúng Dường Bồ Tát Cam Lộ Quân Đồ Lợi - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Tạp A-Hàm – HT Thích Đức Thắng dịch - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 09 – Thụ Thỉnh - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương - Kinh Tạng
  • Ngữ Lục Thiền Sư Tào Sơn Bản Tịch - Kinh Tạng
  • Phẩm Pháp Nghi Quỹ Niệm Tụng Cúng Dường Thánh Hạ Dã Hột Lí Phược Đại Oai Nộ Vương Lập Thành Đại Thần Nghiệm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Thiền Tâm dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Trung Quán dịch - Kinh Tạng