1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

QUYỂN 4

MỤC 8: CHỈ RÕ CĂN NGUYÊN HƯ VỌNG VÀ TÁNH GIÁC TOÀN VẸN
I. ÔNG MÃN TỪ TRÌNH BÀY CHỖ NGHI

Kinh: Lúc bấy giờ, Ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, gối phải chấm dất, chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn oai đức lớn, khéo vì chúng sanh diễn bày Đệ Nhất Nghĩa Đế của Như Lai. Đức Thế Tôn thường cho rằng trong những người thuyết pháp, tôi là thứ nhất. Nay tôi nghe pháp âm vi diệu của Như Lai, cũng như người điếc, cách ngoài trăm thước, nghe tiếng muỗi mòng vốn đã không thấy, huống là được nghe. Phật tuy tuyên bố rõ ràng, muốn khiến tôi trừ mê lầm, nhưng tôi còn chưa rõ nghĩa rốt ráo, vào chỗ không còn nghi hoặc.

“Bạch Thế Tôn, như các Ông Anan, tuy nghe mà ngộ, nhưng tập khí hữu lậu chưa trừ hết, còn bọn chúng tôi, là những người lên bậc Vô Lậu, tuy sạch hết các lậu, nay nghe pháp âm của Như Lai diễn nói, vẫn còn mắc những điều nghi hối.

“Bạch Thế Tôn, nếu như tất cả Căn, Trần, Xứ, Giới… của thế gian, đều là Như Lai Tạng, thanh tịnh bản nhiên sao bỗng dưng sanh ra có núi sông, đất đai, các tướng hữu vi theo nhau dời đổi, hết rồi lại có?

“Lại Đức Như Lai còn nói rằng đất nước, lửa gió, tánh vốn viên dung, toàn khắp pháp giới, lặng trong thường trụ. Bạch Thế Tôn, như tánh của Địa Đại là khắp cả, làm sao mà dung được Thủy Đại? Tánh nước là toàn khắp, thì Hỏa Đại chắc chẳng sanh, làm sao lại phát minh hai tánh Thủy Đại và Hỏa Đại đều khắp cả Hư Không, không xâm lấn tiêu diệt lẫn nhau? Bạch Thế Tôn, tánh của Địa Đại là ngăn ngại, tánh của Hư Không là rỗng suốt, làm sao cả hai Đại ấy đều toàn khắp pháp giới?

“Nay tôi không biết nghĩa ấy do đâu, xin Đức Như Lai ban bố lòng đại từ, vén mây mê lầm cho tôi cùng hết thảy trong đại chúng”.

Ông Mãn Từ nói thế xong, năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy từ bi vô thượng của Như Lai.

Thông rằng: Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh là Đệ Nhất Nghĩa Đế, viên dung vi diệu, cốt yếu ở chỗ Tâm Ngộ. Người ngộ rồi, đưa ra không gì là chẳng phải, chỗ chỗ dùng chẳng có nghi nan, một phen vượt lên liền đứng vào, nào mượn công lao huân tập? Như nhóm các Ông Anan, tập khí hữu lậu chưa trừ hết, đã phá các điều mê lầm thô, mà mê lầm vi tế hãy còn. Các vị đã lên hàng Vô Lậu ở trong hội chúng, thì tuy đoạn hết Phiền Não Chướng, mà Sở Tri Chướng vẫn còn, mắc ở trong địa vị có tu tập, làm sao lãnh ngộ cái Đệ Nhất Nghĩa Đế Tối Thượng?

Các tướng kia là hư vọng, vốn tự chẳng sanh mà nay nghi là có sanh. Bốn đại trong sạch như ngọc Ma Ni, tùy phương mà hiện sắc, tựa hồ có xanh vàng đỏ trắng mà vốn là không có. Thế mà nay nghi rằng chúng xâm lấn nhau! Chẳng phải là Ông Phú Lầu Na chấp lấy tướng để vấn nạn cái Tánh, mà thật ra, ông ở trong Bản Tánh viên dung lặng trong thường trụ mà sanh nghi. Cái “Nghiệp” của ông là đã lên bậc vô lậu, ở trong vô lậu ấy mới chỉ thấy cái Lặng Trong (Trạm) mà chưa thấy cái Lặng Trong Nhiệm Mầu (Diệu Trạm) của nó, mới chỉ thấy cái Trụ, mà chưa thấy được cái Vô Trụ của nó.

Tổ Triệu Châu nói : “Người ta thì khó thấy mà dễ biết, ta ở trong ấy thì dễ thấy mà khó biết”. Đây là chỗ kinh nói “Cũng như người điếc, cách ngoài trăm thước, nghe tiếng muỗi mòng”, đâu phải là lời hư dối ư?

Pháp Sư Trường Thủy Tuyền hỏi Hòa Thượng Lang Nha Giác: “Thanh tịnh bổn nhiên sao bỗng dưng sanh núi sông đại địa?”

Tổ Giác nói: “Thanh tịnh bỗng nhiên sao bỗng dưng sanh núi sông đại địa?”

Thầy Tuyền ở nơi đó tỉnh ngộ.

Hãy nói, như thế là có trả lời câu ấy hay không trả lời câu ấy? Nếu bảo là có trả lời, thì hiểu đạo lý ấy làm sao? Nếu bảo không trả lời, thì sao lại tỉnh ngộ?

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Thấy có, chẳng có

Ngửa tay, úp tay

Cái người trong núi Lang Nha ấy

Chẳng có rớt sau Đức Cù Đàm”.

Lại có nhà sư hỏi Tổ Thiều Quốc Sư : “Hết thảy núi sông đại địa từ đâu mà dấy ra?

Tổ Thiều nói : “Câu hỏi này từ đâu mà tới?”

Thật là mổ bụng khoét tim!

II. VÔ MINH ĐẦU TIÊN

Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Ông Phú Lâu Na và các vị A La Hán Vô Học hết lậu trong hội này rằng: “Ngày nay Như Lai vì khắp hội này, ở trong thắng nghĩa, hiển bày cái Tánh Chân Thắng Nghĩa. Khiến cho ở trong hội, những hàng định tánh Thanh Văn cùng hết thảy các vị A La Hán, chưa đắc hai pháp Ngã Không và Pháp Không, phát tâm hướng về Thượng Thừa đều được chỗ tu hành chân thật là Nhất Thừa Tịch Diệt, một vị thuần chân. Ông nay nghe kỹ, Ta hiện vì ông mà nói”.

Các Ông Phú Lâu Na kính vâng pháp âm Phật, yên lặng lắng nghe.

Phật dạy: “Phú Lầu Na! Theo như ông nói, thanh tịnh bổn nhiên sao bỗng dưng sanh núi sông, đại địa? Ông chẳng thường nghe Như Lai tuyên thuyết “Tánh Giác diệu minh, Bản Giác minh diệu” sao?”

Ông Phú Lầu Na thưa: “Bạch Thế Tôn, thế đấy, tôi thường nghe Phật tuyên thuyết nghĩa ấy.”

Thông rằng: Như Lai Tạng là Thắng Đế Đệ Nhất Nghĩa, ở đây nói là Tánh Chân Thắng Nghĩa. Tức là chỉ thẳng cái nguồn gốc sanh khởi ra núi sông, đất đai, khiến cho người ở ngay nơi nguyên đầu mà thấu suốt, lập tức liền tự thấy Tánh.

Hàng định tánh Thanh Văn tuy không còn rộn tạp, nhưng đó là cái tịch diệt chưa chân thật, vì chưa chứng các pháp vốn tự tịch diệt. Bậc A La Hán, tuy đắc Ngã Không mà chưa đắc Pháp Không, mê đắm vào Không Tịch, chưa thể hướng về Thượng Thừa. Thế nên, đến đây đều được Nhất Thừa, chẳng còn Thừa nào khác, nhập Phật Tri Kiến, mới là chỗ chánh tu hành vậy.

Nơi Tánh Giác thì nói Diệu Minh, vì cái Thể ấy vốn tự nhiệm mầu (Diệu) mà hằng sáng (Minh), chẳng do cái nào khác mà sáng. Nơi Bản Giác thì nói là Minh Diệu, vì do lực huân tu bất tư nghì mà rõ biết Tánh Giác nhiệm mầu vậy. Tức là Diệu mà Minh, chẳng có chút Vô Minh nào. Tức là Minh mà Diệu, thì chẳng ngừng trụ nơi cái Minh. Chính đó là chỗ Tâm Vương bày lộ rõ ràng. Còn như cái Giác Minh (A Lại Da) bèn rơi vào Tình Thức, lìa Giác liền là Vô Minh, làm sao nói rằng Diệu? Nên ở sau, kinh nói: “Cái Giác Minh là lầm lỗi”.

Tổ Triệu Châu thượng đường nói: “Đạo lớn không khó. Chỉ lìa chọn lựa. Vừa có lời nói là rơi vào chọn lựa, là minh bạch! Lão tăng chẳng ở trong minh bạch, vậy các ông có che chở, thương tiếc cho không?”

Khi ấy có nhà sư hỏi: “Đã chẳng ở trong minh bạch, thì che chở thương tiếc cái gì?”

Tổ Châu nói: “Ta cũng không biết”.

Nhà sư nói: “Hòa Thượng đã không biết, sao lại nói chẳng ở trong minh bạch?”

Tổ Châu nói: “Chỗ hỏi được đó, lễ bái mà lui đi!”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Tột Đạo không khó, mối đầu ngôn ngữ

Một: có nhiều thứ; hai : không riêng khác

Giữa không, mặt trời lên mặt trăng lặn

Trước vách, nước lạnh, núi sâu.

Sọ khô Thức tận, vui đâu lập?

Cây khô rồng ngâm, chưa hết khô

Khó, khó!

Chọn lựa minh bạch ông tự xem!”.

Ngài Triệu Châu nói “Chẳng ở trong minh bạch”, đó là cái cảnh giới thuần túy Diệu Minh của Ngài. Lại dạy người che chở thương xót là thông cho biết chút ít tin tức của cái Minh Diệu đó.

Nhà sư trộm thấy lối đường của Ngài Triệu Châu, muốn cùng Ngài trùng trùng mở rõ, bèn hỏi “Đã không ở trong minh bạch, thì che chở thương tiếc cái gì?” Tổ Châu nói “Ta cũng không biết”, lộ bày cái Minh Diệu rỡ ràng!

Lại hỏi, “Hòa thượng đã không biết, sao lại nói chẳng có ở trong minh bạch?”, thật là cái Diệu Minh rành rành vậy.

Tổ Triệu Châu rất ưng ý vị tăng có ít nhiều thấy biết, chỗ hỏi đều thông suốt, nên dạy “Lễ bái rồi lui”.

Trước sau, vị tăng đều không ở trong minh bạch, thì còn nói chọn lựa gì!

Ngài Tuyết Đậu muốn cùng Ngài Triệu Châu đổi vấn đề, tức là cần chọn lựa, cần minh bạch!

Tín Tâm Minh của Tam Tổ Tăng Xán có nói “Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch”.

Tổ Triệu Châu bèn nói: “Vừa có ngữ ngôn, đã là chọn lựa, đã là minh bạch, chính là sợ người ta rơi vào ngôn thuyết mà thành nghĩa thứ hai”.

Nếu là người thấy rõ suốt thì lời nói cũng không trở ngại, nên Ngài Tuyết Đậu nói “Đầu mối của ngôn, đầu mối của ngữ”. Còn nếu lìa ngôn ngữ, mà về ở một nơi, thì thật là “Cây khô trước hang núi có nhiều lối lạc, nên có nhiều thứ”. Như thấy được mỗi mỗi đều là đạo, thì tuy ngôn ngữ chi ly cũng không có hai thứ. Nên nói “Trên trời mặt trời, mặt trăng, trước hiên nước lạnh”, đều là một Cái Ấy, dao búa chẻ không ra. Đến chỗ này thì phân biệt, trò vui của Ý Thức đều hết sạch, đó là rồng ngâm trong cây khô, hồn nhiên là một cái Diệu Minh Chân Tế. Há dễ đến được ư, nên nói “Khó, khó!”. Nếu còn chút vui mừng, còn chút Ý Thức, thì gọi là “Chưa khô ráo hết”, đó còn là cái dụng sự của Giác Minh. Bởi thế mới nói: “Ánh sáng chiếu mắt tợ người mê. Minh bạch chuyển thân địa vị thối đọa”. Như thế thì không có chọn lựa, không minh bạch sao? Nói “Ông tự xem”, chính là muốn xét định cái chọn lựa này, cái minh bạch này có cùng với cái Chí Đạo tương đương hay không?

Đức Tam Tổ nói: “Chỉ không thương ghét, suốt nhiên minh bạch!”

Tổ Triệu Châu nói: “Chẳng ở trong minh bạch”.

Ngài Tuyết Đậu nói: “Chọn lựa, minh bạch, ông tự xem!”

Lời nói mỗi người mỗi khác, mà thật là đồng. Tham!

Kinh: Phật bảo: “Ông gọi là Giác Minh, vì Bản Tánh của nó là Minh, nên gọi là Giác. Hay vì cái Giác ấy chẳng Minh, mà gọi là Minh Giác?”

Phú Lâu Na thưa: “Nếu cái ấy mà chẳng có Minh, mà gọi là Giác, thì không Minh chỗ nào cả (Vô Sở Minh)”.

Phật dạy: “Nếu không có chỗ nào để Minh, thì cũng không có cái Minh Giác. Có chỗ thì không phải là cái Giác, không có chỗ thì cũng không có cái Minh. Không có Minh lại chẳng phải là cái Tánh Giác trong lặng sáng suốt. Vậy Tánh Giác vốn là Minh, vọng tưởng mà cho là cái Minh Giác.

Thông rằng: Một chữ Diệu là chỗ tự bí nhiệm của Phật. Ngắt bỏ ra chữ Diệu, mà chỉ luận cái Giác Minh, thì dù cho có mười năm phân giải cũng chẳng xong! Vì Tánh Thể vốn là Minh, tức là rỡ rỡ ràng ràng thế, mà gọi là Giác, thì lọt vào giới hạn của Minh, hóa ra Giác Thể có mờ tối, có chỗ chẳng Minh! Còn nếu thêm vào một chữ Minh, gọi đó là Minh Giác, thì lọt vào giới hạn của chẳng Minh! Hai bên đều là chông gai, vậy thế nào là con đường thoát thân?

Ông Phú Lâu Na dù có giỏi thuyết pháp đi chăng nữa cũng đâu có thể lấy cái không có chỗ để Minh (Vô Sở Minh) mà gọi là Giác được. Thế nên ông mới nói cái thể chẳng Minh ấy mà gọi là Giác, thì đã không có cái Năng Minh, tức cũng không có cái Sở Minh. Rõ ràng là Tánh Thể vốn là Minh mới có thể gọi là Giác. Cái Minh mà đã có chỗ (Sở), bèn là bỏ Giác mà hiệp trần, thì quá cách xa với cái Diệu của Tánh Giác vốn lìa thoát khỏi trần rồi vậy. Nếu thấy được cái Diệu của nó, thì hiểu rõ Như Lai nói “Tánh Giác Diệu Minh”, tức là Diệu mà Minh, chứ chẳng phải chẳng Minh! Còn Bổn Giác Minh Diệu, tức là Minh mà Diệu, thì đâu cần phải có Minh nữa! Chẳng phải Minh chẳng phải bất Minh, lìa hai lối phải và chẳng phải ấy, mới gọi là Tánh Giác.

Đức Thế Tôn vì thấy Ông Phú Lâu Na chưa hiểu thấu chỗ này, nên dạy: “Nếu theo lời ông, thì có chỗ Minh (Sở Minh), mới gọi là Minh Giác, nếu không có chỗ nào để Minh (Vô Sở Minh) thì không có Minh Giác, thì hóa ra Tánh Giác do Minh hay chẳng Minh mà còn hay mất ư? Ông há không biết Chân Giác là độc lập, lìa xa Năng, Sở đó sao?” Nếu cái Minh mà có chỗ, thì đã lìa ngoài địa vị Giác, không thể gọi là Giác nữa. Nếu cho cái Giác không có chỗ, rồi bày ra đèn đuốc mà soi, thì không thể gọi là Minh được nữa. Nếu tất cả chẳng Minh, thì đó là vô ký, chẳng phải là Tánh Chân Giác Trạm Minh. Tánh Giác Trạm Minh không cần có Minh mà không đâu chẳng là Minh. Cái ngoan không kia làm sao sánh được! Cái Tánh Giác nhậm vận biết khắp, tất nhiên là Minh. Nhưng nếu chấp chặt phải là Minh, liền vọng sanh phân biệt, tính toán bám níu không dứt, bèn trở thành cái Minh Giác. Cái Giác mà còn phải Minh, thì chẳng phải là Diệu Minh vậy. Có sở hay không có sở, rốt vẫn chưa lìa sở. Không có Minh hay phải có Minh, toàn chẳng có lìa năng. Cái Diệu của Tánh Giác, há có thể như vậy sao?

Ngài Triệu Châu hỏi Tổ Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?”

Tổ Nam Tuyền nói: “Bình thường tâm, đó là đạo”

Ngài Triệu Châu hỏi: “Lại có thể noi theo chăng?”

Tổ Tuyền nói: “Định hướng về là đã sai!”

Hỏi: “Không nghĩ suy được thì sao biết đó là đạo?”

Đáp: “Đạo chẳng phải biết, chẳng phải không biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu tỏ suốt cái đạo vốn chẳng có sự nghi ngờ, thì tròn khắp như thái hư, rỗng nhiên trống trải, sao còn có chuyện phải trái ư?”

Ngài Triệu Châu ngay dưới lời nói mà khế ngộ.

Như hai Ngài Nam Tuyền, Triệu Châu mới có diệu giải được như vậy. Tiếc cho Ngài Phú Lâu Na, còn nằm trong lý chướng, chưa khỏi chuyện hướng về đầu thứ hai (nghĩa thứ hai) mà phân giải!

III. NGUYÊN NHÂN VỌNG THẤY CÓ THẾ GIỚI

Kinh: “Cái Giác không có gì là Sở Minh, thế mà nhân Minh lập nên cái sở. Cái Sở đã vọng lập nên, thì sanh khởi ra cái Vọng Năng [Cái Năng dối trá] của ông. Trong cái vốn không đồng, không khác bỗng khởi dậy thành có cái khác. Khác với cái khác đã có, nhân cái khác ấy mà lập nên cái đồng. Cái Đồng, cái Khác đã phát minh ra, thì nhân đó mới lập ra lại cái không đồng không khác!

“Như thế mà rối loạn, đối đãi với nhau mà sanh lao nhọc. Lao lự kéo dài sanh ra trần tướng mà làm vẩn đục nhau, do đó mà dẫn khởi ra những trần lao, phiền não. Khởi lên thì có ra thế giới, yên lặng thì thành hư không. Hư không là Đồng, thế giới là Khác. Dầu là không đồng, không khác cũng vẫn là pháp hữu vi.

Thông rằng : Tánh Giác Trạm Minh, bất động toàn khắp, nào có chốn nơi. Đã chẳng sa vào nơi, chốn tức là không Đồng-Khác. Cái không Đồng-Khác này, chính là Pháp Vô Vi Chân Thật vậy.

Đức Mã Minh nói: “Nếu nói Tâm có động, thì chẳng phải là hiểu biết rốt ráo”.

Động còn không có, huống là có cái Sở ư? Vừa một niệm vọng động, liền nhận lấy cái Minh mà lập nên cái Sở. Sở lập thì Chân Giác ẩn mất. Cái Sở vọng lập nên, là do phân biệt mà gọi là Sở. Cái phân biệt đó là Năng. Cái bị phân biệt là Sở, thì cái hay phân biệt là Năng. Năng, Sở đã lập nên, thì cái Đồng, cái Khác bèn hiện hình, vì Năng tức là khác Sở, Sở tức là khác Năng. Vốn là một Chân Giác, vốn không Đồng-Khác, mà hốt nhiên thành Khác. Như thế đó, chỉ vì nhân cái Minh mà lập cái Sở vậy. Mà đâu chỉ có thành ra cái Khác mà thôi đâu! Muốn khác với tướng Khác ấy, lại lập nên cái tên Đồng. Ở trong động, thì có cái Khác, còn tịnh thì chỉ cho là Đồng. Khác ấy, là Khác với cái Giác không đồng, không khác. Đồng ấy, là Đồng với cái Giác không đồng, không khác. Ở trong đó mà phát minh ra, thì cho là Khác mà lại có Đồng, cho là Đồng mà lại có Khác. Bèn nhân đó mà lập thêm cái không Đồng, không Khác. Do cái Chẳng Sanh, Chẳng Diệt hòa hiệp cùng cái Sanh Diệt, mà thành Thức A Lại Da.

Vốn chẳng phải là một, chẳng phải khác. Thế mà cho là Đồng, thì năm Thức liền nắm quyền đối Cảnh, Thức Thứ Sáu hay phân biệt, Thức Thứ Bảy nhiễm ô. Cho là Khác, thì năm Thức bèn là Tướng Phần, Thức Thứ Sáu không có Tướng Phần nên chẳng lập được, Thức Thứ Bảy không có phân biệt nên chẳng có. Cái không Đồng không Khác này cũng toàn là Thức, so với cái không Đồng-Khác trước kia không do lập mà có, đó là Chân Tánh chẳng sanh chẳng diệt. Cái không Đồng, không Khác sau này là do lập ra, bèn là chủng tử sanh diệt. Trong ấy độc chỉ có cái bóng dáng của Năng-Sở, Đồng-Khác, mà thành cái phôi thai của nghiệp quả thế giới và chúng sanh. Thế nên có tướng Đồng, có tướng Khác, có tướng không Đồng, không Khác. Rối loạn lên như vậy, Năng Sở đối nhau, Đồng và Khác cùng thành hình, chẳng được thanh tịnh, mà có ra tướng Lao Nhọc. Tướng lao nhọc là Vô Minh. Lao nhọc kéo dài phát ra Trần Tướng, tự làm vẩn đục nhau.

Trộn lẫn lầm lộn Chân Tánh, gọi là “vẩn”, làm nhiễm cái thể thanh tịnh, gọi là “đục”. Từ đó mà dẫn khởi ra phiền não, trần lao, hai cái Kiến Hoặc và Tư Hoặc.

Do phiền não biến ra hai thứ Y Báo, Chánh Báo. Động là thế giới, tĩnh thành hư không. Hư Không là chỗ ở, trước đã nói “Nhân cái Khác lập nên cái Đồng”, tuy không có Năng và Sở, cũng là ngoan không. Thế giới là chỗ trên nói “Khởi lên mà thành cái Khác”. Động là Thể của “Thế”, Khác là Thể của “Giới”, có Năng có Sở thuần là cảnh động. Cái có Đồng có Khác là chỉ thế giới Y Báo, là dấu vết thô phù hữu vi. Còn chúng sinh Chánh Báo, vì có Tâm Tánh nên chẳng phải như cái “Khác” của thế giới, và vì có Sắc Tướng, nên chẳng phải như cái “Đồng” của hư không. Nhưng cái Sở thì có Sanh Diệt, cái Năng thì không Sanh Diệt. Rốt ráo thì cái Năng cũng là Sanh Diệt. Dù lìa cả Năng và Sở để đến chỗ không Sanh Diệt, không Đồng, không Khác, thì cũng đều là pháp hữu vi.

Cái Thức, vì có phân biệt nên là hữu vi. Cái Trí, không phân biệt nên là vô vi. Hữu vi, nên có các tướng hữu vi là nghiệp quả. Vô vi, tức là không có các tướng hữu vi nên không có nghiệp quả. Núi sông, đất đai vốn chẳng tự sanh, chỉ nhân Minh lập nên Sở, theo Vọng mà thấy có vậy.

Có nhà sư hỏi thiền sư Vân Cư Ứng : “Núi sông đại địa do đâu mà có?”

Tổ Ứng nói : “Do vọng tưởng có”.

Nhà sư nói : “Thầy tưởng ra cho tôi một nén vàng được không?”

Tổ Ứng bèn im lặng bỏ đi. Nhà sư không chịu.

Sau này, Tổ Vân Môn nói rằng: “Đã là dây leo chùm gởi, chẳng có thể chặt đứt nối lại được. Hãy đợi y nói “Tưởng ra một nén vàng được không?”, thì cầm gậy mà đánh!”

Đây là cỡ tác dụng nào?

Nên Tổ Vân Môn lấy cây trụ trượng dạy chúng rằng: “Cây gậy hóa thành con rồng, nuốt hết càn khôn. Núi sông đất đai còn chỗ nào được nữa?”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Cây trụ trượng, nuốt càn khôn

Nói gì chuyện bôn ba ở lãng Đào Hoa [Chỗ cá thi làm rồng]

Thành rồng (đốt đuôi [Cá hóa rồng ắt có sấm sét đốt cái đuôi. Ý nói tuyệt hậu sanh]) đâu phải kéo mây, làm mù!

Thi rớt nào phải vỡ mật kinh hồn

Nêu ra rồi, nghe chẳng nghe!

Ngay đây sừng sững lỗi lạc

Thôi đi trăm mối phân vân

Bảy mươi hai gậy nhẹ tha cho

Trăm năm mươi gậy khó tha ông

Sư vội chụp cây gậy xuống tòa

Đại chúng đồng nhau chạy tứ tán!”.

Ở chỗ này mà thấu triệt thì không chỉ là núi sông vẫn như xưa, mà cái Giác Minh cũng chẳng có chỗ ló đầu ra!

Kinh: “Cái Giác Minh và cái Hư Không vô tri đối đãi nhau thành ra có lay động, cho nên hóa ra phong luân nắm giữ thế giới. Do cái Hư Không mà sanh lay động, phát minh ra tánh cứng thì thành sự ngăn ngại, các thứ Kim quý đều từ Minh Giác lập nên tính cứng, cho nên có Kim luân mang giử cõi nước. Giác Minh thành tính cứng, thì thành có Kim quý, rồi lay động mà thành ra Gió. Gió và Kim cọ xát nhau, nên có Hỏa đại làm tánh biến hoá. Lửa bốc lên, Kim quý sanh ra tánh ướt, mà có Thủy luân trùm khắp mười phương cõi. Lửa bốc lên, Nước sa xuống, giao nhau phát nên tính cứng, chỗ ướt là biển lớn, chỗ khô là gò nổi. Do nghĩa ấy, trong biển lớn kia, hơi nóng thường bốc lên, trong gò nổi kia, sông ngòi thường chảy xuống. Thế Nước kém thế Lửa, thì kết thành núi cao, bởi thế đá núi, đập vào thì xẹt Lửa, nung thì chảy ra Nước. Thế Đất kém thế Nước, nẩy ra làm cỏ cây, cho nên rừng rú đốt thì thành Đất, vắt ra thành Nước.

“Các thứ hư vọng đóù giao nhau mà phát sanh, thay đổi làm chủng tử cho nhau. Do nhân duyên ấy, thế giới tiếp tục lẫn nhau.

Thông rằng: Thanh tịnh bổn nhiên, sao bỗng dưng sanh núi sông đại địa? Trước kia, năm Đại: Đất, Nước, Lửa, Gió và Không đều là Như Lai Tạng, thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới, theo nghiệp mà phát hiện, nào có nơi chốn? Sự có ra của chúng là do nghiệp lực của chúng sanh. Nghiệp lực của chúng sanh là do Vô Minh từ lúc ban đầu, mất đi cái Tánh Giác Diệu Trạm Tổng Trì, một niệm bỗng khởi động. Cái Giác đã lìa cái Không mà sanh ra Minh, thì Không cũng lìa Giác mà sanh Muội [Mê mờ]. Cái Giác Minh phát sanh ra Thức. Thức Tinh ở cái chỗ trong lặng chẳng động lay là Nước. Cái Không Muội kết thành Sắc, là Đất vậy. Đối đãi nhau thành ra lay động, thành Gió, thành Nước, do Đất khắc Nước mà sanh ra Mộc. Do Thổ của Không Muội lay động mà sanh ra Mộc, thì cái Giác Minh không lay động bèn thành cứng ngại, tức là Mộc khắc Thổ mà sanh Kim. Kim cùng Mộc hợp sanh Hỏa, nên nói: “Phong và Kim chà xát nhau mà có ra Hỏa”. Hỏa cùng Kim hợp sanh Thủy, nên nói: “Ngọn lửa bốc lên, nên có ra Thủy luân”. Thủy và Hỏa hợp sanh Thổ, Hỏa bốc lên, Thủy chảy xuống mà sanh ra biển cả, đất liền. Thổ cùng Thủy hợp, lại sanh ra Mộc; Thổ yếu Thủy mạnh, nên thảo mộc tươi tốt. Tốn là Gió, là Mộc; Phong là tánh của Mộc. Trước đã nói là đối đãi thành ra lay động nên có Phong Luân, thì mới có tánh của Mộc. Đến khi “nảy ra làm cây cỏ” thì Mộc mới rõ ràng có hình tướng.

Ngũ hành lấy sự sinh khắc làm vợ chồng, lấy tương sanh làm cha con. Con do mẹ sanh, ấy là cha yếu; sau đó âm dương hòa, sinh ra con. Con sanh mà khí của cha mẹ vẫn còn, nên đá núi có thể xẹt ra lửa, có thể chảy ra nước. Ấy là do Thủy khắc Hỏa mà thành. Cây cỏ có thể thành Đất, có thể thành Nước, là do Thổ khắc Thủy mà thành vậy. Suy theo đó thì vạn vật đều là như vậy cả. Tôi thường lấy Kinh Dịch so sánh: như hợp với các chi tiết. Mới tin rằng Thánh đời trước với đời sau, cái Đạo là một thôi vậy.

Cái Giác Minh phát sinh ra cái Thức, là nguồn gốc lặng lẽ tối sơ, đó là nghĩa Trời sanh Thủy trước hết vậy. Thủy sanh ra Mộc của Chấn, Tốn ở phương Đông. Mộc sanh ra Ly Hỏa ở phương Nam. Hỏa sanh Khôn Thổ ở Tây Nam. Thổ sanh Đoài Kim ở phương Tây. Mà Càn Kim ở Tây Bắc lại sanh Khảm Thủy ở phương Bắc. Như chiếc vòng không đầu mối, tiếp nối làm chủng tử cho nhau, nên Kinh Dịch nói: Đế xuất ra ở Chấn, tề ở Tốn. Chấn là Động, Tốn là Gió, chẳng phải là cái ý chỉ đối đãi nhau mà sanh động lay ư? Chấn là Mộc, Đoài là Kim, Đông Tây đối nhau mà làm vợ chồng, Hỏa ở nơi đó mà sanh ra, thế chẳng phải là ý chỉ Phong Kim cọ xát nhau ư Ly là Hỏa, Khảm là Thủy, Nam Bắc đối nhau mà làm vợ chồng, Thổ ở nơi đó sanh ra, chẳng phải là ý chỉ “Lửa nước giao nhau mà thành tính cứng” ư? Khôn là Đất, Cấn là Núi, đều thuộc Thổ, đây là chỗ bắt đầu và chấm dứt của vạn vật vậy. Thế nên, mùa Xuân, mùa Hạ vạn vật phát sanh, ở trên mặt đất, nên dễ thấy. Thu Đông vạn vật thâu góp lại, ở dưới mặt đất, nên không thể thấy.

Bức Hà Đồ, sở dĩ thành biến hóa ngũ hành và quỷ thần, không chỉ hợp với cái dụng lưu hành, mà cũng hợp với nguồn gốc sanh khởi. Chỗ tột đáy của thế giới này, y Phong luân mà trụ, tột đáy của đại địa, thì y Kim luân mà trụ. Thổ và Kim đồng là tính cứng, đều thuộc Địa Đại. Hỏa thì không nói chữ luân vì tánh nó là biến hoá, hay chảy tan và làm chín thành muôn vật.

Câu Xá Luận nói “Cái nghiệp lực của chúng sanh, trước hết ở dưới cùng nơi hư không, mà có Phong luân sanh. Trên Phong luân là Thủy luân. Trên Thủy luân mới có Kim luân”. Đối với đây có khác chút ít. Luận Câu Xá nói về sự an lập, từ dưới lên trên theo thứ tự. Ở đây nói về sự sanh khởi. Chẳng sợ lẫn lộn trở ngại nhau.

Tổ Ngưỡng Sơn Dũng dạy chúng rằng : “Một lời nói trọn hết non sông!”

Có vị tăng hỏi : “Như thế nào là một lời ấy?”

Tổ Sơn lấy đũa gắp lửa cắm vào phía bên lò, rồi để lại chỗ cũ.

Tổ Đầu Tử tụng rằng:

“Một câu nêu ra trùm muôn tượng

Ma Kiệt thành [Ma Kiệt : ở thành này, ngoại đạo hỏi Phật về sự sinh thành vũ trụ, Phật im lặng không nói gì] không, tự đóng cửa

Đương sơ thiền tăng mở hé mắt

Cắm đũa bếp bên lò lửa đỏ”.

Nếu là người đại triệt ngộ, thì xem ba cõi khởi diệt trong biển Đại Giác cũng đồng như bọt sanh diệt trong biển cả vậy. Huống là vốn tự vô sanh, tìm tướng của ba cõi, có chỗ nào được!

Kinh : “Lại nữa, Phú Lâu Na, cái Minh Vọng đó, chẳng phải là cái gì khác, lỗi là cái Giác Minh. Cái Sở Minh hư vọng đã lập, thì phạm vi của cái Năng Minh không vượt qua được. Do nhân duyên đó, mà nghe không ra ngoài tiếng, thấy chẳng vượt ngoài sắc. Sáu cái vọng : Sắc, Hương, Vị, Xúc… thành lập, do đó mà phân ra có Thấy, Nghe, Hay, Biết.

“Đồng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà có hiệp, có lìa, có thành, có hóa. Cái Thấy mà làm năng minh thì Sắc phát ra, rồi cái năng minh cho cái Thấy thì thành ra có Tư Tưởng. Thấy khác thì thành ra ghét, cùng cái Tư Tưởng thì thành thương. Chảy tràn cái thương yêu làm hạt giống, thu vào Tưởng Niệm làm ra thai. Giao cấu phát sanh, hấp dẫn cái cùng một nghiệp, nên có nhân duyên sanh ra Yết La Lam [Cũng gọi là Ca la la. Tiếng Phạn: Kalala. Dịch nghiã là tạp uế (cái nhơ bẩn, trộn lộn). Là một trong năm địa vị (từng giai đoạn của thai theo thai kỳ) của thai, gọi là thai nội ngũ vị], Át Bồ Đàm… Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh hay hóa sinh tùy theo chỗ mà ứng: noãn chỉ do Tưởng Niệm mà sanh, thai thì do Ái Tình mà có, thấp sanh thì do Cảm mà hợp, hóa sanh thì do Phân Lìa mà ứng ra. Tình và Tưởng, Hợp và Lìa thay đổi lẫn nhau, do đó mà chịu lấy Nghiệp, theo đuổi sự nổi chìm. Do nhân duyên ấy, chúng sanh nối tiếp nhau.

Thông rằng: Thế giới lấy cái Hư Không mê muội làm thể, nên có câu “Cái Tưởng lắng xuống thành quốc độ”. Chúng sanh lấy cái Giác Minh làm tánh, nên có câu “Tri giác là chúng sanh”.

Hư Không mê muội nhân Giác Minh mà hiện bày, cho nên thế giới do nghiệp lực của chúng sanh mà thành. Hai cái nối tiếp nhau, đều là lỗi lầm hư vọng nhân Minh mà lập cái Sở vậy. Chẳng phải tứ Đại kia có sanh ra. Chỉ vì nhân nhận cái Giác làm cái Minh, mới có cái Sở Minh. Sở thì thuộc Tướng Phần, Năng thì thuộc Kiến Phần. Tứ đại ở ngoài thế giới là Sơ Tướng Phần, tứ Đại ở thân thể là Thân Tướng Phần. Cái Sở đã vọng lập nên, bèn khiến cho sáu Căn cách ngại, nên trong Kiến Phần, phạm vi của cái Sáng không thể vượt qua khỏi sáu Căn.

Vốn chỉ là cái Giác Vô Thượng, viên dung, nay lại chia thành Thấy, Nghe, Hay, Biết thành ra ba thứ Căn, Trần, Thức dẫn khởi lên cái Nghiệp hư vọng. Từ đó cùng một Nghiệp ràng buộc nhau, có cha, mẹ và mình là ba thứ cùng Nghiệp, mà thành thai, noãn là vật hữu tình. Còn thấp sanh và hóa sanh, không do cha mẹ, chỉ do Nghiệp của mình mà thành vật. Lý do hấp dẫn đồng nghiệp, đều là do Thấy có mình mà ra.

Lấy vọng tâm mà thấy vọng cảnh, thì sắc do cái thấy mà phát sanh, không có cái thấy tức là không có sắc vậy. Lấy cái vọng thấy mà đuổi theo đám vọng sắc, thì cái Tưởng Niệm bèn do cái thấy mà thành, không có cái thấy thì không có Tưởng vậy. Cái thấy kết nhóm thành cái Tưởng, biết có mình thì tự thành Tình. Đó là sự kết hợp của đồng nghiệp, hấp dẫn nhau. Thấy khác thì thành thương, nên mẹ là chỗ mà mình thương. Con gái ở trong thai thì ngược lại. Tưởng chảy tràn thì thành sự thương, thương thì chẳng rời, mầm mống chủng tử sinh ra ở đó vậy. Nên thương yêu là gốc rễ của luân hồi. Mẹ đã thu nạp cái Tưởng, Tưởng kết lại thành khí huyết, thai thành ở đó vậy. Cho nên, cái Tưởng là môi giới của sự nối truyền sinh mạng, từ giao cấu mà phát sanh hình thể. Tinh huyết hòa hợp, một tuần chất lỏng đông lại, hai tuần là cái bọc, ba tuần là thịt mềm, bốn tuần là thịt chắc, năm tuần có hình thể, thai hay trứng đều như thế. Thấp sanh, hóa sanh thì cũng chẳng qua tiến trình đông đặc và bao bọc.

Noãn sanh vì sao để ở trước tiên? Vì Tưởng Niệm khởi động trước, sau mới có Tình Ái. Hơn nữa, noãn lại gồm cả thai, thấp hóa vậy. Loài người cũng có đủ bốn thứ sanh. Như bà Tỳ Xá Khê Nhĩ La có ba mươi hai người con dều là noãn sanh (Luận Câu Xá). Bà Yểm Thước La Bà Lợi Đảnh sanh một vị Chuyển Luân Thánh Vương [Tích xưa, có vua tên Bố Sát Đà Vương, trên đầu bỗng sanh một bọc mụt, trong bọc mụt sanh ra một đứa con. Lớn lên làm Kim Luân Vương, xưng là Đảnh Sanh Vương. Đảnh Sanh Kim Luân Vương chinh phục bốn châu thiên hạ, rồi lên cung trời Đao Lợi muốn hại Đế thích để thay ngôi. Việc chẳng thành, trở về đất lại, bị bệnh chết. Đảnh Sanh Vương ấy nay là Thích Ca Phật đó], gọi là thấp sanh. Đời Đức Phật, trong tứ chúng có một Tỳ kheo ni tên A La Bà, từ trong đất hóa sanh ra. Do đó mà biết rằng Tình biến ra Tưởng, hợp biến ra lìa, vốn chẳng có Nghiệp nhất định. Noãn đổi thành thai, thấp đổi ra hóa, cũng không có định chất. Chỉ theo nghiệp mà lên xuống, tùy theo chỗ mà ứng hiện ra, không có nẻo đường nhất dịnh. Chỉ do Tưởng Ái làm nhân, cha mẹ làm duyên, mà chúng sanh tiếp nối, như vậy đến vô cùng.

Ngài Đại Đồng Tế đến thăm Bàng cư sĩ.

Bàng Cư sĩ nói : “Nhớ lúc trong thai mẹ, có một tắc ngữ, xin đưa ra với thầy, cốt chẳng được làm đạo lý”.

Ngài Tế nói : “Giống như cách đời vậy”.

Cư sĩ nói : “Đã nói chẳng được làm ra đạo lý.

Ngài Tế nói : “Câu nói kinh người, há chẳng sợ sao?”

Cư sĩ nói : “Như kiến giải của thầy, có thể nói là kinh người!”

Ngài Tế nói : “Chẳng làm ra đạo lý, lại làm ra đạo lý!”

Cư sĩ nói : “Không chỉ cách một đời, hai đời!”

Ngài Tế nói : “Ông thầy cơm cháo này, cứ việc tra xét lỗi lầm!”

Cư sĩ búng tay ba tiếng.

Lại có thiền sư Quy Tông Khả Tuyên, nhân ông Quận Thú tức giận chẳng đúng theo lễ cửa quan, bức bách Ngài quá lắm. Ngài bèn viết thơ cho Ông Quách Công Phủ rằng: “Duyên đời của tôi còn sáu năm, nay Ông Quận Thú bức bách phải chết, sắp phó thác cái sanh ra sự bực tức còn dư lại ấy, mà thác sanh nhà ông, xin ông đừng lấy làm ngại.”.

Ông Phủ xem thơ vừa sợ vừa mừng. Nửa đêm, bà vợ nằm mộng thấy sư vào chỗ ngủ, la lên rằng : “Đây chẳng phải là chỗ để Hòa Thượng đến!” Ông Phủ lay bà vợ hỏi, bà liền thuật lại rõ ràng. Gọi lấy đèn đọc thơ, cùng nhau vui mừng không dứt. Bèn mang thai, đến khi sanh ra, đặt tên là Tuyên Lão. Đúng năm như đã báo trước.

Năm ba tuổi, có Ông Bạch Vân Đoan đến nhà, Tuyên Lão mới thấy thì bảo : “Cháu tôi đến vậy”.

Ông Đoan hỏi : “Xa Hòa Thượng mấy năm rồi?”

Tuyên Lão đếm ngón tay nói : “Bốn năm rồi.”

Ông Đoan hỏi : “Xa nhau ở chỗ nào?”

Đáp : “Ở trại Bạch Liên.”

Ông Đoan nói : “Lấy gì để nghiệm.”

Đáp : “Ba má ngày mai mời Hòa Thượng độ trai.”

Bỗng nghe tiếng xe đẩy tới.

Ông Đoan hỏi : “Ngoài cửa đó là tiếng gì?”

Tuyên Lão dùng tay làm bộ đẩy xe. Ông Đoan hỏi: “Về sau như thế nào?”

Đáp: “Bình địa lưỡng đầu câu [Chữ Lục]”.

Quả nhiên, sáu năm sau không bệnh mà mất. Đó là do Tuyên Lão thường ngày chẳng có cốt làm đạo lý, nên tuy cách dời, mà vẫn tỉnh thức như vậy. Nếu còn chút tơ hào tình tưởng Giác Minh treo trong ngực, thì đã bị Ông Bạch Vân Đoan khám phá ra rồi!

Kinh: “Ông Phú Lâu Na, các Tưởng Ái cùng nối kết, lòng thương chẳng thể rời, thì cha mẹ, con cháu trong thế gian sanh nhau không dứt, họ lấy Dục, Tham làm gốc. Tham và Ái cùng nuôi nhau, tham muốn chẳng ngừng thì các loài thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh trong thế gian, tùy theo sức mạnh yếu, lần lượt ăn nuốt lẫn nhau, chúng lấy Sát, Tham làm gốc. Người ăn dê, dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười loài chúng sanh chết sống, sống chết, ăn nuốt lẫn nhau, Nghiệp dữ cùng sanh, đến hết đời vị lai, loại này thì lấy đạo Tham làm gốc.

“Người này mắc nợ mạng người kia, người kia trả nợ cũ cho người này, do nhân duyên ấy, trải qua trăm ngàn kiếp, thường ở trong sanh tử. Người này yêu cái Tâm của người kia, người kia thích cái Sắc của người này, do nhân duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong trói buộc. Chỉ ba thứ Sát, Đạo, Dâm làm gốc rễ, mà do nhân duyên đó, nghiệp quả cứ tiếp tục.

“Phú Lâu Na, ba thứ tiếp nối nhau điên đảo ấy, đều là cái thấy biết của Giác Minh. Nhân biết mà phát ra có hình tướng, từ cái vọng thấy sanh ra có núi sông đất đai, các tướng hữu vi, thứ lớp đổi dời, đều nhân cái hư vọng đó mà hết rồi lại bắt đầu.

Thông rằng: Thế giới thuộc về Y Báo, Y Báo thì vô tình, do đó chẳng kết Nghiệp. Chúng sanh thuộïc Chánh Báo, Chánh Báo thì hữu tình, tức là có Nghiệp. Nghiệp không gì lớn hơn Sát, Đạo, Dâm, mà gốc bắt đầu từ Dâm. Cùng tư tưởng thì thương, thấy khác thì ghét, chỉ là cái thương ghét này, ngay đó là căn nguyên gây Nghiệp. Tưởng, Ái không kết hợp thì còn có thể lìa, chứ cả hai bên đã kết nối, thì đời đời, kiếp kiếp, chẳng thể tự rời nhau. Cha mẹ, con cháu sanh nhau ra chẳng dứt, đều do Dâm làm gốc.

Tham và Ái cùng nuôi dưỡng nhau, nên cảm thấy vui thích mùi vị mà Sát từ đó sanh ra. Tham mùi vị không ngừng, thì cầu cho được, Đạo (trộm cắp) từ đó sanh ra. Kỳ thật, chỉ bắt đầu từ một cái ưa thích: Ái. Yêu thích chẳng được thì ép uổng mà sát hại. Âm thầm lấy là đạo (trộm cắp), đều để thành tựu sự Ái cả. Cớ nên, trong cái Dâm, có đủ Sát, Đạo hai Nghiệp. Ghét mà kết tụ thì đền nợ, đền mạng, thường ở trong sanh tử. Thương mà kết tụ, thì thích tâm, thích sắc, thường ở trong trói buộc. Đó là thương ghét là nguyên nhân của Nghiệp, mà sanh tử trói buộc là quả của Nghiệp. Hết thảy ba loại điên đảo của chúng sanh trong thế giới đều là do trái với Chân mà hợp với Vọng, đều là do Giác Minh sanh ra. Cái Giác Minh hư vọng, vọng lập nên có Năng, có Sở, nên có ra núi sông, đất đai, thế giới tiếp nối, nghiệp quảû chúng sanh, các tướng hữu vi, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, tiếp tục chẳng ngừng. Nếu liền ngộ Vọng vốn không tự tánh, hiện tại tức là Vô Sanh, thì còn cái gì thứ lớp đổi dời, cái gì hết rồi lại bắt đầu sanh? Thế là Căn, Trần, Xứ, Giới rõ ràng là một cái Thanh Tịnh bổn nhiên, Như Lai Tạng Tánh vậy.

Tổ Vĩnh Gia nói : “Ngộ tức nghiệp chướng bổn lai Không. Chưa ngộ đành trả hoàn nợ cũ”. Lời nói có ý vị biết bao!

Ngài Vân Cư Ứng, tham học tại Tổ Động Sơn, khi làm việc vô ý cuốc chết con trùn.

Tổ Động Sơn nói : “Đồ quỷ ấy.”

Ngài Ứng nói : “Nó chẳng chết”.

Tổ Sơn nói : “Nhị Tổ đi qua Nghiệp Đô, lại làm sao?”

Ngài Ứng chẳng trả lời.

Sau có vị tăng hỏi Ngài: “Lúc Hòa Thượng ở Tổ Động Sơn, về nhân duyên giết chết con trùn, phải chăng Hòa Thượng không có lời đáp?”

Ngài Ứng nói: “Lúc ấy có lời chứ, chỉ là không có người để chứùng minh!”

Xem Ngài Vân Cư Ứng, thật là người ở ngoài ba cõi. Nên cái chỗ Tình và Tưởng không tới được, thì nói gì đến tướng nghiệp quả, chúng sanh!

IV. CHỈ RÕ GIÁC CHẲNG SANH MÊ

Kinh: Ông Phú Lâu Na thưa: “Nếu cái Diệu Giác đó, bản tánh là Diệu Minh, cùng với Tâm Như Lai, không tăng không giảm, mà không cớ gì bỗng sanh các tướng hữu vi núi, sông, đất đai. Vậy nay Như Lai đã đắc Diệu Giác Minh Không đó, thì lúc nào lại sanh ra núi, sông, đất đai và các tập lậu hữu vi?”

Phật bảo Ông Phú Lâu Na: “Ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm phương Nam làm phương Bắc, thì cái mê ấy nhân do Mê mà có hay nhân Ngộ mà sinh ra?”

Ông Phú Lâu Na thưa: “Người mê như vậy, cũng chẳng nhân Mê, cũng chẳng nhân Ngộ. Vì sao thế? Cái Mê vốn không có gốc gác, làm sao mà nhân Mê ? Ngộ chẳng sanh ra Mê, làm sao mà nhân Ngộ?”

Đức Phật nói: “Cái người mê kia, ngay trong lúc mê, bỗng có người ngộ chỉ bày cho khiến tỏ ngộ. Này Phú Lâu Na, ý ông thế nào? Người ấy đã thả cái Mê ra rồi, thì đối nơi xóm làng đó, có còn sanh mê lại không?”

– Bạch Thế Tôn, không”.

– Phú Lâu Na, mười phương Như Lai lại cũng như thế. Cái Mê ấy không có gốc gác, tánh nó rốt ráo không. Xưa vốn chẳng có Mê, chỉ hình như có Mê, có Giác. Giác được cái Mê, thì Mê diệt mà cái Giác vốn chẳng sanh Mê. Cũng như người lòa mắt, thấy hoa đốm giữa hư không. Bệnh lòa nếu hết, thì hoa đốm ở hư không diệt mất. Bỗng có người ngu, ở chỗ hư không mà hoa đốm kia đã diệt, đợi chờ hoa đốm sanh ra trở lại. Ông xét người đó là ngu hay là trí huệ?”

Ông Phú Lâu Na thưa: “Hư không vốn không có hoa đốm, mà vọng thấy có sanh có diệt. Thấy có hoa diệt mất giữa hư không đã là điên đảo rồi. Lại còn muốn bảo nó sanh ra lại thì thật là điên dại, làm sao mà gọi người điên như vậy là ngu hay là trí.”

Phật dạy: “Ông hiểu như thế, sao lại còn hỏi: “Tánh Diệu Giác Minh Không của Chư Phật Như Lai khi nào lại sanh ra núi, sông, đất đai ?” Cũng như quặng vàng lẫn lộn với vàng ròng, một khi vàng đã thành ròng, chẳng trở lại thành dơ tạp. Như cây đã đốt thành tro, không trở lại thành cây nữa. Bồ Đề, Niết Bàn của chư Phật Như Lai cũng lại như thế.

Thông rằng: Kinh Viên Giác, Bồ Tát Kim Cang Tạng hỏi Đức Thế Tôn rằng: “Nếu chúng sanh xưa nay thành Phật, thì tại sao có hết thảy Vô Minh? Nếu chúng sanh vốn có Vô Minh, thì vì nhân duyên gì Như Lai lại nói bổn lai thành Phật? Các loài dị sanh trong mười phương, vốn thành Phật Đạo, sau lại khởi Vô Minh, thì tất cả Như Lai khi nào lại sanh ra tất cả phiền não?”

Thế Tôn đáp rằng: “Này trai lành! Hết thảy thế giới thủy chung sanh diệt, trước sau Có, Không, Tụ, Tán, Khởi, Dừng niệm niệm nối nhau, xoay vòng đi lại, đủ thứ nắm bỏ, đều là luân hồi. Chưa ra khỏi luân hồi mà tìm hiểu Viên Giác thì tánh Viên Giác kia cũng đồng trôi chuyển. Nếu thoát khỏi luân hồi, thì làm gì có chuyện đó!”

Nay chỗ nghi của Ông Phú Lâu Na không khác với Bồ Tát Kim Cang Tạng mà Thế Tôn chỉ tùy theo cái thấy sanh diệt của ông mà phá. Đưa tiếp nhau bốn thí dụ: Thứ nhất là Giác chẳng trở lại Mê; hai là Diệt rồi chẳng sanh trở lại; ba là vàng ròng chẳng trở lại quặng; bốn là tro chẳng thành lại cây. Hai ý sau diễn lại hai ý chánh trước. Giác chẳng trở lại Mê, tức là Bồ Đề. Diệt chẳng trở lại sanh, tứùc là Niết Bàn. Đây là đã ra khỏi luân hồi mà biện hiểu Viên Giác. Tánh Viên Giác ấy tức chẳng có luân hồi, nên nói Bồ Đề, Niết Bàn của Chư Phật Như Lai cũng lại như thế.

Chúng sanh ở trong Mê, chỗ cần yếu là phải Giác. Nhưng từ xưa vốn không có sự Mê, cái Mê từ vô thủy, chỉ tương tự như Mê. Bởi vì ngay khi Mê cũng chưa từng bỏ mất, nên nói chỉ tựa hồ như Mê. Nay cũng không phải là không có Giác. Từ Mê mà Giác, thì cũng tựa hồ có Giác, vì ngay khi Giác, thì có đắc gì đâu, nên gọi là tợ hồ như Giác. Giác cái Mê, thì Mê diệt, đó là Thủy Giác. Giác cho đến chỗ Thủy Giác và Bổn Giác không khác, thì chỉ là một Diệu Giác. Thế là chẳng trở lại sanh Mê, chỉ tự chẳng Mê, Giác cũng thành vô dụng.

Quốc Sư Huệ Trung hỏi quan Cung Phụng Tử Lân rằng: “Phật là nghĩa gì?”

Lân đáp : “Là nghĩa Giác.”

Ngài nói : “Phật có từng mê không?”

Lân đáp : “Chẳng từng mê.”

Ngài nói : “Thế dùng Giác làm gì?”

Ông Lân không đáp được.

Lại Hòa Thượng Mễ Hồ, khiến nhà sư đến hỏi Tổ Ngưỡng Sơn: “Người đời nay có mượn sự Ngộ không?”

Tổ Ngưỡng nói: “Ngộ thì chẳng phải là không, ngặt vì sợ lạc vào đệ nhị đầu!”

Thầy Mễ Hồ rất chịu đó.

Tổ Đầu Tử nêu ra rằng : “Ngưỡng Sơn nói với người thì được, nhưng tự mình có khỏi lạc chăng? Nếu khỏi được, lại có người nhất định chẳng chịu đấy. Nếu không khỏi được, thì cũng lạc vào đệ nhị đầu. Mễ Hồ tuy là chấp nhận đó, nhưng tự mình lại có đường xuất thân hay không? Các ông thử xét xem coi! Nếu xét ra được, thì cả hai người ngói vỡ, băng tan! Nếu xét không được, hãy chớ gấp gáp!”

Rồi tụng rằng :

“Chót núi cao xanh mượn hỏi người

Chỉ nơi tột núi chữa yên thân

Tuy là khỏi được (tiết) Trùng Dương khiến

Cũng tợ linh miêu chẳng phạm xuân”.

Về sau, Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Đệ nhị đầu : phân Ngộ phá Mê

Mau hãy buông tay bỏ lưới, nôm

Công chưa xong hết, thành trói buộc

Trăng già mặt tuyết sương thu khóc

Chim hàn cây ngọc, gió thê lương

Đem đến Ngưỡng Sơn phân chân giả

Tỳ vết tuyệt không, ngọc trắng trong”.

Tóm lại, chẳng có được gió Xuân thì hoa không nở, đến khi hoa nở lại thổi rụng! Dầu có Diệu Ngộ, cũng cần mửa bỏ!

V. CHỈ CÁC ĐẠI CÓ THỂ TƯƠNG DUNG

Kinh: “Phú Lâu Na, lại chỗ ông hỏi: “Địa, Thủy, Hỏa, Phong, bản tánh viên dung, toàn khắp thế giới mà nghi sao tánh Nước, tánh Lửa lại không diệt lại nhau. Ông lại nêu ra Hư Không và Đất Đai đều cùng khắp pháp giới, lẽ ra chẳng tương dung.

“Phú Lâu Na, ví như Hư Không, bản thể chẳng phải là các tướng, nhưng không chống lại các tướng phát huy. Tại sao như thế? Phú Lâu Na, trong hư không kia, mặt trời soi thì sáng, mây tụ thì tối, gió lay thì động, tạnh ráo thì trong, mù đọïng thì đục, bụi nổi thì mịt mùø, nước lắng thì óng ánh. Ý ông thế nào? Các thứ tướng hữu vi khác nhau như vậy, là nhân các thứ kia mà sanh, hay nhân Hư Không mà có? Phú Lâu Na, nếu nhân các thứ kia sanh, thì khi mặt trời chiếu soi, đã là mặt trời sáng, mười phương thế giới dều thành sắc của mặt trời, làm sao ở giữa Hư Không, lại còn thấy mặt trời tròn? Nếu là Hư Không sáng, thì Hư Không phải tự chiếu soi lấy; thế sao giữa đêm hay lúc mây mù, lại chẳng có sáng chiếu ? Vậy, nên biết rằng cái sáng đó, chẳng phải là mặt trời, chẳng phải là Hư Không mà cũng chẳng khác mặt trời và Hư Không. Xét kỹ các tướng, vốn là hư vọng, không thể chỉ bày, cũng như mong hoa đốm giữa Hư Không kết thành quả của Hư Không! Sao lại còn hỏi nghĩa lấn diệt lẫn nhau? Xét kỹ cái tánh, vốn là chân thật, chỉ là Tánh Giác Diệu Minh, Tâm Tánh Diệu Minh đó vốn chẳng phải là lửa hay nước, thế sao lại còn hỏi chẳng có tương dung?

“Tánh Giác Diệu Minh chân thật thì cũng như vậy. Ông phát minh cái Hư Không, thì có Hư Không hiện; phát minh ra mỗi mỗi Đất, Nước, Lửa, Gió thì mỗi mỗi thứ hiện. Nếu cùng phát minh thì cùng có hiện.

“Thế nào là cùng có hiện ra? Phú Lâu Na, như trong một chỗ có nước hiện ra bóng mặt trời, hai người cùng xem mặt trời trong nước. Rồi một người đi về phương Đông, một người đi về phương Tây, thì mỗi bên đều có mặt trời đi theo, một cái về phương Đông, một cái về phương Tây, không có mẫu mực nhất định. Chẳng nên hỏi rằng: Mặt trời chỉ có một, tại sao mỗi cái đi theo mỗi người? Mặt trời đã thành hai, vì sao hiện ra chỉ có một? Quanh quẩn hư vọng như vậy, không có gì có thể làm bằng cứ.

Thông rằng: Ở trước, đáp câu hỏi “Thanh tịnh bổn nhiên sao bỗng dưng sanh núi sông, đại địa?” Lấy Tướng mà luận, thì có sanh là từ vọng thấy mà sanh. Trong Tánh mà luận, thì tức là Vô Sanh, Giác chẳng trở lại Mê vậy. Tướng nguyên là Vọng, có gì mà lấn diệt? Tánh vốn Vô Sanh, cái gì mà chẳng tương dung? Cho nên bảy Đại là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh. Như Lai Tạng vốn chẳng phải là bảy Đại, nhưng chẳng ngăn bảy Đại kia phát hiện. Ví như Hư Không, bản thể của nó chẳng phải là các tướng mà chẳng ngăn ngại các tướng kia phát huy. Chỉ một Hư Không mà Đất tích tụ thì Tướng của Đất hiện ra, Nước lắng thì Tướng Nước hiện ra, mặt trời chiếu thì Tướng Lửa hiện ra, Gió thổi thì Tướng Gió hiện ra, trong tạnh thì Tướng Hư Không hiện ra. Sáng, Tối là thuộc về cái Thấy, khí đục nên thuộc về cái Thức. Bảy ví dụ trên để ví dụï cho bảy Đại vậy.

Bảy Đại không tự sanh, cũng chẳng phải do cái khác sanh. Chẳng phải cái khác sanh, nên chẳng phải là không hay là có. Chẳng do mặt trời, chẳng do Hư Không, nên chẳng phải là cọng sanh. Chẳng khác mặt trời và Hư Không, nên chẳng phải là không nguyên nhân mà sanh. Do đó, nói: vốn Vô Sanh vậy. Đã vốn Vô Sanh, thì tùy theo nghiệp mà có hiện, cũng là hoa đốm. Hoa-không nào kết thành trái-không, thì làm sao có chuyện lấn diệt cho đến sự chẳng tương dung? Tướng tuy là hư vọng mà Tánh vốn là Chân, thanh tịnh toàn khắp, vốn chẳng phải là hình tướng nước, lửa gì đâu. Không hình thì có gì mà ngăn ngại nhau, há lại có sự chẳng tương dung cho đến sự hại diệt lẫn nhau sao? Tướng của bảy Đại đã như hoa không, tánh của bảy Đại cũng như Hư Không, thì Như Lai Tạng, Diệu Giác Minh Tâm cũng giống như thế vậy.

Như phát minh ra Hư Không, thì có Hư Không hiện. Lấy Sự mà nói, thì như đào giếng. Lấy Nghiệp mà nói, thì đó là vọng khởi lên cái thấy có Hư Không. Do cái Thấy mà có Hư Không, Đất, Nước, Lửa, Gió cũng là như thế. Mỗi mỗi phát minh, thì mỗi mỗi hiện ra. Nếu cùng phát minh, thì cùng có hiện. Chẳng kể núi Nam nổi mây mà núi Bắc mưa xuống, đều là trong Hư Không vô ngại. Bèn như mặt trời trong nước, mỗi người đi về mỗi hướng Đông, Tây, đều có mặt trời cùng theo. Chẳng tin vào mặt trời trên không, mà lại nghi ngờ mặt trời trong nước, cũng như mây bay mà tưởng mặt trăng chạy; thuyền đi mà cứ tưởng là bờ trôi! Đã từ vọng thấy mà có sanh ra, thì há có thể ở nơi chỗ thấy hư vọng đó mà biện luận là một hay chẳng phải một, thế chẳng phải là cái lầm quá cỡ sao?

Hoặc hỏi rằng: “Đất, nước, lửa, gió hiện có thật trước mắt, sao gọi là hư vọng?”

Đáp rằng: “Người vô trí gọi là thật có. Người có con mắt Trí Huệ xem thì chẳng phải thế! Ví như đứa trẻ con xem thấy bóng trong gương vui mừng muốn chụp lấy. Người lớn hiểu biết, đâu có bị lầm theo. Phàm phu thấy vi trần hòa hợp gọi là đất thực, bậc có thiên nhãn có thể thấy ra sự phân tán của đất này, ở nơi chỗ bắt đầu, vốn bất khả đắc, nên biết hình tướng nguyên là hư vọng”.

Tổ Pháp Nhãn hỏi Trưởng Lão Bảo Tư rằng: “Người xưa nói: Núi sông không cách trở, quang minh chốn chốn thấu suốt. Vậy làm sao là cái quang minh chốn chốn thấu suốt?”

Ngài Bảo Tư nói: “Bờ Đông tiếng đánh lưới!”

Tổ Quy Tông Nhu riêng nói rằng: “Hòa Thượng định cách trở!”

Như chỗ hỏi đáp của hai vị tôn túc, chẳng có rỉ giọt, mà còn bị Quy Tông xét ra!

Thầy Tam Tạng Đại Nhĩ ở Ấn Độ đến kinh đô, tự nói là có tha tâm thông. Vua Túc Tông mời Quốc Sư Huệ Trung xét thử.

Quốc Sư nói: “Ông hãy nói lão tăng bây giờ ở tại đâu?”

Vị kia đáp: “Hòa Thượng là thầy của một nước, sao lại đi Tây Xuyên xem đua thuyền!”

Chặp lâu, lại hỏi: “Ông hãy nói lão tăng bây giờ ở tại nơi đâu?”

Vị Tam Tạng đáp: “Hòa Thượng là thầy của một nước, sao có thể đến cầu Thiên Tân xem hát khỉ!”

Chặp lâu, lại hỏi: “Ông nói lão tăng ngay bây giờ ở tại nơi đâu?”

Thầy Tam Tạng chịu, không biết được.

Tổ sư quát rằng: “Con cáo đồng, tha tâm thông ở tại chốn nào?”

Vị kia không đáp được.

Có nhà sư hỏi Tổ Ngưỡng Sơn: “Thầy Đại Nhĩ Tam Tạng vì sao trong lần thứ ba chẳng thấy được Quốc Sư?”

Tổ Ngưỡng nói: “Hai lần trước là cái tâm giao thiệp với cảnh, còn lần sau thì vào Tam muội Tự thọ dụng, nên chẳng thấy!”

Vị tăng thuật lại, và hỏi Tổ Huyền Sa.

Tổ Huyền Sa nói: “Ông nói hai lần trước thấy cái gì?”

Lại có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu: “Trong lần thứ ba, vị Tam Tạng chẳng thấy Quốc Sư, chưa rõ Quốc Sư ở tại chỗ nào?”

Tổ châu nói: “Ở trên lỗ mũi Tam Tạng!”

Vị tăng sau lại hỏi Tổ Huyền Sa: “Đã ở trên lỗ mũi, tại sao mà chẳng thấy?”

Tổ Huyền Sa nói: “Chỉ vì quá gần!”

Tổ Thiên Đồng nêu ra rằng: “Tam Tạng không thấy Quốc Sư hãy để đó. Ông hãy nói xem Quốc Sư có tự biết chỗ không? Nếu nói là tự biết, thì trăm chim ngậm hoa, Chư Thiên cúng dường, chưa có ngày thôi! Hãy nói chính ngay lúc ấy, ở tại chốn nào?”

Thế, có thể biết Quốc Sư hai lần tâm giao thiệp với cảnh, chẳng ngăn ngại mỗi mỗi phát minh thì mỗi mỗi hiện ra. Huống như Diệu Giác Minh Tâm là cái Tam Muội Tự thọ dụng thì chỗ ở làm sao mà biết, sao còn gạn hỏi chuyện lấn diệt hay chẳng tương dung?

VI. CHỈ TÁNH DIỆU MINH LÀ NHƯ LAI TẠNG, RỜI CẢ HAI NGHĨA “PHI” VÀ “TỨC”

Kinh: “Phú Lâu Na, ông lấy cái Sắc, cái Không mà lấn cướp lẫn nhau ở nơi Như Lai Tạng, thì Như Lai Tạng theo ông làm Sắc làm Không, toàn khắp pháp giới. Vậy nên ở trong đó, Gió thì động, Hư Không thì yên lặng, mặt trời thì sáng, mây thì tối. Chúng sanh mê muội, trái với Giác, hợp với Trần, nên phát ra trần lao mà có các tướng thế gian.

“Ta thì lấy Tánh Diệu Minh, bất sanh bất diệt, hợp với Như Lai Tạng. Như Lai Tạng đó chính là Tánh Giác Diệu Minh, tròn vẹn chiếu soi pháp giới. Thế nên, ở trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, đạo tràng bất động, cùng khắp mười phương thế giới. Thân trùm cả mười phương hư không vô tận, nơi đầu một mảy lông, hiện ra cõi Phật, ngồi trong vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn. Diệt trần hợp Giác, nên Chân Như Diệu Giác Minh Tánh hiện bày.

Thông rằng: “Chưa ra khỏi luân hồi mà bàn luận Viên Giác, thì Tánh Viên Giác cũng cùng trôi lăn. Nếu hết khỏi luân hồi thì làm gì có chuyện đó.” Tức ở đoạn này nói: “Lấy cái tướng của Sắc, của Không, mà lấn cướp lẫn nhau để luận Như Lai Tạng thì Tánh Như Lai Tạng cũng theo Sắc Không mà thành tam giới lưu chuyển; như vậy mà muốn khỏi thế gian nhọc mệt thì không thể có. Chúng sanh mê muội, không thấu suốt được rằng Sắùc Không cùng với ta vốn là một Thể. Vì hình tướng trói buộc nên đụng đâu cũng thành ra trở ngại, chính là vì trái với Tánh Giác, nên vốn là Minh mà chẳng được Diệu, bèn gọi đó là Mê. Trần tướng thuộc về sanh diệt, nguyên chẳng phải vốn có. Tánh Giác tuyệt không sanh diệt, chẳng nhờ ngoài đến. Chẳng phải vốn có, thì có thể diệt; chẳng ở ngoài đến, nên có thể hợp cùng. Đó là Chân Như Diệu Giác, tròn đủ chiếu soi pháp giới, một tức tất cả, tất cả tức một, ngang dọc tự do, sự sự vô ngại. Đây là diệu dụng không thể nghĩ bàn, chẳng phải do tu mà thành, nên tạm nói là hiện bày ra mà thôi vậy.

Luận An Tâm Pháp Môn của Sơ Tổ Đạt Ma nói: Khi mê thì người đuổi theo pháp, khi ngộ thì pháp đuổi theo người. Ngộ thì thức thu nhiếp sắc, mê thì sắc thu nhiếp thức. Hễ có tâm phân biệt so đo trong hiện lượng của Tự Tâm, bèn đều là mộng. Nếu thức tâm tịch diệt, không có một chỗ nào cho động niệm, đó gọi là Chánh Giác.

Ngài Thần Tú làm bài kệ:

“Thân là cây Bồ Đề

Tâm như đài gương sáng

Luôn luôn siêng chùi lau

Chớ để bám bụi trần”.

Chỉ một cái “Siêng chùi lau” đó, bèn là lấy Tâm Sanh Diệt mà hợp với Như Lai Tạng, nên mới ở ngoài cửa.

Bài kệ của Đức Lục Tổ là:

“Bồ Đề vốn không cây

Gương sáng chẳng phải đài

Xưa nay không một vật

Chỗ nào dính bụi đời?”.

Chỉ cái “Không một vật” này, bèn là lấy Chẳng Sanh Chẳng Diệt hợp cùng Như Lai Tạng, hợp nối địa vị Tổ vậy.

Tổ Triệu Châu thượng đường nói: “Như ngọc sáng trong tay, người Hồ đến thì người Hồ hiện, kẻ Hán đến thì kẻ Hán hiện. Lão tăng cầm một cọng cỏ dùng làm thân vàng trượng sáu [Thân Phật]. Lấy thân vàng trượng sáu dùng làm một cọng cỏ. Phật là phiền não, phiền não là Phật”.

Có nhà sư hỏi: “Phật là phiền não của nhà nào?”

Tổ đáp : “Là phiền não đối với tất cả mọi người.”

Hỏi : “Làm sao được khỏi?”

Tổ Triệu Châu nói: “Dùng cái khỏi để làm gì?”

Ở đây, Tổ Triệu Châu không dùng cái Diệt Trần, không dùng sự Hiệp Giác, lại hay ở trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, đủ để cùng Lục Tổ nắm tay cùng đi!

Tổ Viên Chiếu thượng đường nói: “Nơi đầu một mảy lông, hiện quốc độ Phật, ngồi trong vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn”.

Cầm đứng cây gậy lên mà nói: “Cái này đây là Trần, làm sao nói là cái đạo lý chuyển pháp luân? Hôm nay sơn tăng chẳng tiếc lông mày, mà nói rõ với các ông: Đưa lên thì nước biển nổi sóng, núi Tu Di chập chùng! Bỏ xuống thì bốn biển lặng trong, đất trời nghiêm tĩnh. Xin hỏi các ông: Đưa lên là phải? Bỏ xuống là phải? Nên đoạn hay chẳng đoạn, lưỡng trùng công án!”

Rồi gõ thiền sàng mà xuống tòa.

Lại nữa, Ni Sư Diệu Tổng thượng đường nói: “Tông thừa một phen xướng lên, thì Ba Tạng hết đường dẫn giải. Tổ lệnh thi hành ra, mười phương yên dứt. Hàng Nhị Thừa nghe đến hoảng hồn chạy mất, Thập Địa đến chỗ này vẫn còn như nghi. Nếu là bậc tuấn kiệt, thì chưa nói đã rõ. Giả sử có thủ đoạn dời sao, đổi Bắc Đẩu, bày bố trương cờ gióùng trống thì cũng bỏ công, nào có thật nghĩa! Một đường hướng thượng, ngàn Thánh chẳng truyền, người học nhọc công, như vượn bắt bóng! Linh Sơn phó chúc, rủ lòng thuận với thời cơ mà diễn nói ba Thừa, mỗi tùy theo căn khí. Bắt đầu ở vườn Lộc Uyển, chuyển pháp luân Tứ Đế, độ trăm ngàn vạn chúng.

“Ngày nay, sơn tăng cùng với địa phương nơi này, cũng Phật cũng Tổ, sông núi, đất đai, cỏ cây rừng bụi, bốn chúng ngay đây, mỗi mỗi đều chuyển đại pháp luân, ánh sáng giao nhau thành lưới báu. Nếu mỗi một cọng cỏ, mỗi một cội cây không chuyển đại pháp luân thì chẳng gọi được là chuyển pháp luân lớn. Bởi thế mà nói nơi đầu một mảy lông hiện ra cõi nước Chư Phật, ngồi nơi một vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn. Ở trong thời gian không gian ấy mà làm ra vô lượng vô biên Phật sự rộng lớn, khắp cùng pháp giới, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ. Chẳng động bước mà dạo chơi lầu các Di Lặc. Chẳng xoay lại cái Nghe mà nhập vào cửa mở khắp của Quan Âm. Tình với vô tình, Tánh Tướng bình đẳng, chẳng phải là Thần thông diệu dụng, cũng chẳng phải Pháp vốn như thế”.

Ở chỗ này mà tự do rành rẻ thì ơn vua, ơn Phật tức thời trả hết! Hãy nói như thế nào là một câu trả ơn?

Trời cao muôn trượng ở,

Biển rộng trăm sông về.

Các vị tôn túc khế hợp sâu xa với cảnh giới Diệu Minh, cực lực tuyên dương, lời lời đều có đạo vị.

Kinh: “Nhưng Như Lai Tạng Bản Diệu Viên Tâm không phải là Tâm, không phải là Địa, Thủy, Phong, Hỏa; không phải là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý; không phải Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; không phải Nhãn Thức Giới cho đến không phải là Ý Thức Giới; không phải là Minh hay Vô Minh, không phải hết Minh hay hết Vô Minh, như vậy cho đến không phải là Lão, không phải Tử, không phải hết Lão, Tử; không phải là Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không phải Trí, không phải Đắc; không phải là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ; không phải là Ba La Mật Đa, như vậy cho đến cũng không phải là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, không phải Đại Niết Bàn, không phải Thường, không phải Lạc, không phải Ngã, không phải Tịnh; tất cả đều chẳng phải, chẳng phải là pháp thế gian hay xuất thế gian.

“Tức Như Lai Tạng Diệu Minh Tâm Nguyên, tức là Tâm, tức là Không, tức là Địa, Thủy, Phong, Hỏa tức là Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý; tức là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; tùức là Nhãn Thức Giới cho đến tức là Ý Thức Giới; tức là Minh, tức là Vô Minh, tức là Minh và Vô Minh tận, như thế cho đến tức là Lão, tức là Tử, tức Lão Tử tận; tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo; tức là Trí, tức là Đắc; tức là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ, tức là Ba La Mật Đa. Như thế cho đến tức là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri; tức là Đại Niết Bàn, tức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, tất cả đều tức là, tức là pháp thế gian và xuất thế gian vậy.

“Tức cái Như Lai Tạng Diệu Minh Tâm Nguyên, lìa Tức là, lìa Chẳng phải, cũng Tức là cũng Chẳng phải. Làm sao chúng sanh trong ba cõi và các hàng Thanh Văn, Duyên Giác xuất thế gian, lấy cái tâm có chỗ biết mà đo lường Bồ Đề Vô Thượng của Như Lai, hay dùng ngôn ngữ thế gian mà vào Tri Kiến Phật.

Thông rằng: Đoạn kinh này chỉ có Ngài Trường Thủy là xếp lại có thứ tự.

Nói rằng: Bản Diệu Viên Tâm không phải là Tâm, không phải là Không, hết thảy đó, là tóm về Chẳng phải Tướng để hiển bày Chân Đế.

Nói rằng: Nguyên Minh Diệu Tâm tức là Tâm, tức là Không, hết thảy đó, là tóm về Tức là Tướng để hiển rõ Tục Đế.

Nói rằng: Diệu Minh Tâm Nguyên lìa Tức Là, lìa Chẳng Phải cũng Tức Là cũng Chẳng Phải, là tóm về phủ che và soi chiếu để hiển bày Trung Đạo. Phủ che cả chân lẫn tục, nên nói lìa Tức là, lìa Chẳng phải. Chiếu soi cả chân và tục, nên nói cũng Tức là cũng Chẳng phải.

Ba Đế là một Thể, nên đều nói tức là Như Lai Tạng.

Ban đầu, lấy cái chẳng phải để dẹp tướng, kế đó lấy chỗ Tức là để dẹp cái Chẳng phải, cuối cùng nói rằng còn mang vác danh từ, lời nói thì chưa cùng tột ý chỉ của Nhất Chân. Lìa Tức là lìa Chẳng phải, không cả Chẳng phải và Không chẳng phải, ngôn ngữ hết đường, tâm hành tuyệt dấu, mới hiển lộ Nhất Chân pháp giới Như Lai Tạng Tâm. Cho nên, trong kinh Duy Ma Cật, ba mươi mốt vị Bồ Tát thuyết pháp môn Bất Nhị đều dùng lời nói để dẹp hình tướng, còn Ngài Văn Thù lấy lời nói để dẹp lời nói. Đức Duy Ma Cật lấy không lời nói mà dẹp lời nói, mới là rốt ráo.

Tất cả pháp thế gian không ra ngoài năm Ấm, bảy Đại, Căn, Trần, Xứù, Giới. Pháp xuất thế gian không ra ngoài Thanh Văn, Duyên Giác nhị thừa. Chỉ có Bồ Tát với Phật, ở nơi thế mà xuất thế, chẳng có chuyên về xuất thế vậy. Tâm thuộïc về Thức, nên thu nhiếp năm Ấm, Nhãn Thức Giới v.v… thì thu nhiếp mười hai Xứ. Đó là sáu cõi phàm phu vậy. Hàng Duyên Giác quán mười hai nhân duyên, có tướng sanh khởi, có tướng tu trừ, đó là cảnh giới Duyên Giác. Biết cái Khổ, đoạn cái Tập, chứng Diệt, tu Đạo, là cảnh giới Thanh Văn. Có Trí, có Đắc, cho đến sáu Ba La Mật, là cảnh giới của Bồ Tát. Ba hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri và bốn Đức Niết Bàn, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đều là Phật Giới. Thế gian và xuất thế gian không ngoài những cảnh giới trên. Nếu nơi mỗi Giới mà chấp trước vào cái Tức là thì chẳng có tròn vẹn, nên phải ở nơi Chẳng phải mà thấy tròn vẹn. Một khi chấp trước lấy cái Chẳng phải, thì chẳng diệu, nên phải ở nơi Tức là để thấy cái Diệu. Diệu mà Minh, Minh mà Diệu, chẳng phải Tức, chẳng phải Phi, cũng là Tức, cũng là Phi, Năng Sở đều lìa, không còn chút bóng dáng vang vọng nào khá được, đó là Bồ Đề Vô thượng chân thật vậy.

Ngài Mã Minh nói: “Cái Chân-Thật-Không ấy là từ xưa đến nay không tương ưng với tất cả nhiễm pháp, lìa tất cả pháp và tướng sai biệt, không có một chút tâm phân biệt hư vọng vậy. Nên biết Chân Như chẳng phải là có tướng, chẳng phải là không có tướng, chẳng phải là Hữu-Vô-Tướng, chẳng không phải Hữu-Vô-Tướng, chẳng phải tướng khác, chẳng tướng Một hay Khác, chẳng phải không tướng Một, Khác. Nói tóm lại, vì hết thảy chúng sanh có phân biệt hư vọng, nên không thể tiếp xúc được Chân Như. Thế nên, chúng sanh ba cõi thì thấy cái Giả của Chân Như; Thanh Văn, Duyên Giác thì thấy cái Không của Chân Như, nên đối với Trung Đạo Đế của Bồ Tát còn không thể đo lường nổi, huống là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Chỉ có Phật cùng với Phật mới có thể thấu suốt rốt ráo. Ngay hàng Đăng Địa Bồ Tát, còn có chỗ chẳng thấy, thì há ngôn ngữ thế gian mà có thể suy đoán tăm hơi ư? Vô Thượng Bồ Đề không thể lấy tâm trí mà biết, không thể lấy lời lẽ nói năng mà nhập, càng thâm nhập thì càng thấy chỗ nhiệm mầu của nó vậy”.

Có nhà sư hỏi Tổ Mã Tổ [Đạo Nhất thiền sư, xứ Giang Tây, đời Đường. Là người kế pháp của Tổ Nam Nhạc Nhượng. Ngài họ Mã thị, đời ấy gọi là Mã Tổ. Trong niên hiệu Ngươn Hòa được phong tặng là Đại Tịch.] : “Hòa Thượng vì sao nói “Tức Tâm tức Phật”?”

Đáp : “Để dỗ trẻ con nín khóc”.

Hỏi : “Nín rồi thì như thế nào?”

Đáp : “Chẳng phải Tâm, chẳng Phật”.

Hỏi : “Người ngoài hai loại ấy đến chỉ dạy làm sao?”

Đáp : “Vì y mà nói chẳng phải vật”.

Hỏi : “Bỗng gặp người trong ấy đến thì như thế nào?”

Đáp : “Liền dạy y thể hội đạo lớn”.

Ngài Mã Tổ đã ở trong Niết Bàn Diệu Tâm nên xuất lời, hà hơi đều hợp với Tâm đó.

Lại nữa, Đức Mã Tổ nghe Ngài Đại Mai trụ sơn, mới bảo nhà sư đến hỏi: “Hòa Thượng ra mắt Mã đại sư, được cái gì mà trụ núi này?”

Ngài Đại Mai nói: “Đại sư nói với tôi “Tức Tâm, tức Phật”. Tôi bèn ở trong ấy mà trụ”.

Nhà sư nói: “Gần đây, Phật Pháp của đại sư lại khác”.

Ngài Mai nói: “Ra sao?”

Đáp : “Đại sư lại nói “Chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật””.

Ngài Đại Mai nói: “Cái ông già ấy làm mê loạn người chưa có ngày thôi! Mặc kệ ông ta chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật. Tôi vẫn tức Tâm, tức Phật!”

Nhà sư ấy về thưa lại với Đức Mã Tổ, Ngài nói : “Trái mơ (Đại Mai) chín rồi vậy”.

Thiền sư Đông Tự Hội thường sợ đệ tử lấy câu “Tức Tâm, tức Phật” mà đàm luận, ghi nhớ, đọc tụng không ngừng. Ngài bảo : “Phật trụ chỗ nào mà nói tức Tâm? Tâm như ông thầy vẽ, sao nói tức Phật?” Bèn khai thị cho chúng rằng : “Tâm chẳng phải Phật, Trí chẳng phải Đạo. Gươm mất đã xa rồi, mới khắc dấu vào ghe!”

Tổ Nam Tuyền có lần nói: “Giang Tây Mã Tổ dạy tức Tâm tức Phật, Vương Lão sư (là Nam Tuyền) chẳng nói thế! Chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải Vật, nói như thế thì có lỗi gì chăng?”

Ngài Triệu Châu lễ bái rồi bỏ đi ra.

Khi ấy có nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu : “Thượng Tọa lễ bái rồi bỏ đi ra, là ý gì thế?”

Ngài nói : “Ông hãy trở lại hỏi lấy Hòa Thượng”.

Nhà sư bèn hỏi Tổ Nam Tuyền : “Vừa rồi ý của Triệu Thượng Tọa là thế nào?”

Tổ Truyền nói : “Ông ấy lãnh hội được ý chỉ Lão tăng”.

Ở nơi chỗ dụng xứ của các vị lão túc mà chẳng có nghi, mới có thể nhập Phật Tri Kiến.

Kinh: “Ví như đàn cầm, sắt, không hầu, tỳ bà tuy là có diệu âm, mà không có ngón tay diệu thì rốt cuộc chẳng phát ra được. Ông và chúng sanh cũng như thế đó. Cái Chân Tâm hằng giác quý báu, mỗi mỗi đều tròn đủ. Như ta ấn ngón tay thì Hải Ấn phát ra ánh sáng. Còn các ông vừa tạm khởi tâm, thì trần lao đã nổi dậy. Do chẳng siêng năng cầu đạo Vô Thượng Giác, ưa nhớ Tiểu Thừa được chút ít đã cho là đủ”.

Thông rằng: Diệu Minh, Minh Diệu chính là Diệu Âm này, với cái diệu của ngón tay đều chẳng phải là chỗ nghĩ bàn có thể đến được. Tức là như ta ấn ngón tay, tiếng nhiệm mầu theo đó phát ra, như Hải Ấn phát sáng, sắc sắc tròn đầy, có gì tạo tác đâu?

Kinh Đại Tập nói: “Toàn thể sắc tượng của cõi Diêm Phù Đề đều là ấn văn của đại hải, nên gọi là Hải Ấn”.

Các ông thì vừa mới móng tâm, cũng như đàn với tay chẳng có rập nhau, đã chẳng nghe được nhiệm mầu, mà trần lao nổi lên loạn xạ. Chỉ vì dùng cái tâm sanh diệt tương ưng với Như Lai Tạng, không tùy thuận Định Huệ chiếu soi, mà tùy với vô minh phiền não, nên có trần lao. Trần lao che khuất thì tuy có Chân Tâm Bảo Giác, mỗi mỗi tròn đầy, cũng không thể phát ra được.

Thiền sư Đông Minh Thiên, một hôm đang đọc kinh Lăng Nghiêm, có vị đạo giả tên Trung hỏi: “Như Ta ấn ngón tay thì Hải Ấn phát quang”, ý Phật như thế nào?”

Ngài nói : “Cái lão Thích Ca, đáng cho hai mươi gậy!”

Hỏi : “Vì sao như thế?”

Đáp : “Dùng ấn ngón tay làm gì?”

Hỏi : “ “Ông vừa móng tâm, trần lao đã nổi”, lại là sao?”

Đáp : “Đó cũng là Hải Ấn phát quang!”

Kỳ diệu thay, kỳ diệu thay! Phải thấy được như thế mới gọi là chuyển Lăng Nghiêm.

Thiền sư Tiến Phúc Ngộ Bổn thượng đường nói: “Vua Càn Thát Bà vừa tấu nhạc, thì núi sông, đất đai đều nhảy múa. Có đâu như lão què Vân Môn, thoát đạo Hai Mươi Lăm tháng Chạp! Bác Sơn này ngày nay, có Điều thì chụp Điều, không có Điều thì chụp lấy Lệ, chỉ cần ứng với thời tiết”.

Bỗng cầm lên cây gậy, gác ngang đầu gối, làm thế gãy đàn, rồi nói: “Có nghe thưởng thức tiếng đàn chăng?”

Chặp lâu nói rằng: “Dầu cho làm tiếng phụng hoàng kêu. Rốt cuộc có ai hay Chỉ Pháp [Pháp của ngón tay]!”. Đánh vào bàn một cái, rồi xuống tòa.

Than ôi, Chỉ Pháp há thật chẳng truyền sao? Siêng năng cầu đạo Vô Thượng Giác, tự mình hiện được đó.

VII. CHỈ MÊ VỌNG KHÔNG CÓ NHÂN, HẾT MÊ LÀ BỒ ĐỀ

Kinh: Ông Phú Lâu Na thưa: “Chân Tâm tròn sáng, trong sạch nhiệm mầu của tôi và của Như Lai, đều tròn đầy không hai, thế mà tôi từ xưa mắc lấy Vọng Tưởng, ở lâu trong luân hồi nay được Thánh Thừa, còn chưa rốt ráo. Thế Tôn thì các Vọng đều diệt sạch, độc chỉ một Chân Thường mầu nhiệm. Xin hỏi Như Lai, tất cả chúng sanh nhân gì mà có Vọng, tự mình che lấp tánh Diệu Minh, phải chịu sự trôi chìm này?”

Phật bảo ông Phú Lâu Na: “Ông tuy trừ được nghi ngờ, mà các điều lầm còn sót lại chưa dứt hết. Nay ta lại lấy những việc thế gian trước mắt mà hỏi ông. Ông há chẳng có nghe trong thành Thất La Phiệt, có anh Diễn Nhã Đạt Đa vào buổi sáng lấy cái gương soi mặt, bỗng ưa cái đầu trong gương và mày mắt có thể thấy được, rồi nổi giận trách cái đầu của mình sao không thấy mặt mày, cho là loài yêu quái, rồi không vì cớ gì phát điên lên bỏ chạy. Ý ông thế nào? Người ấy vì nguyên nhân nào mà khi không phát điên bỏ chạy?”.

Ông Phú Lâu Na thưa: “Tâm người ấy điên cuồng, chứ không có lý do nào khác”.

Đức Phật nói: “Tánh Diệu Giác tròn đầy vốn sáng suốt, nhiệm mầu tròn khắp. Đã gọi là Vọng thì làm sao có nhân, nếu có nguyên nhân thì sao gọi là Vọng? Chỉ tự các Vọng Tưởng xoay vần làm nhân cho nhau, từ cái Mê mà tích chứa thêm Mê, trải qua vô số kiếp nhiều như bụi. Tuy Phật chỉ rõ ra, còn chưa thể trở lại. Như thế, nguyên nhân của Mê chỉ là nhân Mê mà tự có. Tỉnh ngộ cái Mê ấy vốn không có nguyên nhân, Vọng nào còn có chỗ nương dựa? Còn không có chỗ sanh ra, muốn diệt cái gì?

“Người được Bồ Đề như người tỉnh giấc, kể lại chuyện trong chiêm bao, tâm dù rõ ràng nhưng đâu còn nhân duyên nào nữa để cầm được vật trong mộng? Huống là cái Mê thấy mọi sự hiện giờ chẳng có nguyên nhân ở đâu cả, vốn không chỗ có! Như anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa [Ở đây, lấy cái bản đầu của mình ví dụ cho Chơn Tánh; cái đầu trong gương ví dụ cho Vọng Tưởng (cái giả hình) ; chỗ vui vẻ thấy cái đầu trong gương có mặt mày ví dụ chỗ nhìn nhận cái giả tưởng là thật, chấp cứng, chẳng chịu bỏ. Chỗ chẳng thấy cái bản đầu của mình là vì Chơn Tánh không có hình tướng chi cả] trong thành kia nào có nhân duyên gì, bỗng tự sợ cái đầu mình rồi bỏ chạy. Tự nhiên hết điên, thì cái đầu đâu phải từ ở ngoài mà có được. Dầu chưa hết cuồng, cái đầu kia cũng có khi nào mất.

“Phú Lâu Na, bản tánh của Vọng là như vậy đó, đâu có nguyên nhân gì mà có?

“Ông chỉ không tùy theo phân biệt các thế gian, nghiệp quả và chúng sanh, ba thứ tương tục đó. Ba Duyên ấy đã đoạn, thì ba nhân cũng chẳng sanh, liền trong tâm ông cái điên cuồng của chàng Diễn Nhã Đạt Đa tự hết. Hết đó tức là Bồ Đề, cái Tâm tuyệt vời trong sạch sáng suốt, vốn khắp cùng pháp giới, không do đâu mà được, nào phải nhọc nhằn khẩn thiết tu chứng gì đâu”.

Thông rằng: Ông Phú Lâu Na đã chứng Hết Lậu, đã được Thánh Quả, sao lại còn các điều mê lầm còn sót chưa hết dứt? Chỉ vì trước kia có dụng công diệt trừ vọng tưởng, nghĩa là cái Tâm diệt trừ vọng tưởng này chính là cái Giác Minh Phân Biệt sợ cái đầu của mình mà phát điên bỏ chạy! Diệt Vọng cầu Chân, có cái Chân để đắc thì cũng như nhìn cái đầu trong gương, mày mắt thấy được. Chân nào có mất bao giờ, nhưng khó nổi đo lường, cũng như cái đầu vốn chẳng hề mất mà mặt mày khó thấy. Một khi sanh phân biệt đây là chúng sanh, đây là nghiệp quả rồi cho là khác với Chân Như của ta. Thế dầu có được Chân Như, do đoạn trừ Vọng mà chứng đắc, cũng chẳng phải là Tự Tánh Thiên Chân Phật xưa nay vậy. Ông Phú Lâu Na chưa thấu rõ chỗ này, nên cho rằng Vọng đã có thể diệt, thì vọng sanh ắt phải có nguyên nhân, cần biết cái nguyên nhân của nó, mới đoạn trừ được.

Ở đoạn trước đã nói: nhân Minh mà lập Sở, chính bởi vì thế mà Vọng sanh ra. Thế ấy cũng là phân biệt, chính thật là Vọng!

Đức Thế Tôn chỉ thẳng Đốn Môn, chẳng cần diệt Vọng, chỉ ngưng đi phân biệt, thì Bồ Đề tự sẵn đủ. Chỉ thôi chạy điên, thì cái đầu xưa vẫn y nguyên ra đó!

Sở dĩ vọng phân biệt, Vọng chạy điên, là vì tích chứa mê lầm mà có. Cái Mê vốn chẳng nhân đâu mà có, không từ Mê mà sanh ra, không từ Ngộ đến. Mê đã không gốc gác gì, thì Vọng nương đâu mà có? Vọng thật không chỗ nương, Vọng vốn chẳng sanh vậy. Vọng nguyên là chẳng sanh, không đâu mà có thể diệt. Diệt mà không đâu có thể diệt, đó là Tịch Diệt Hiện Tiền.

Tánh Diệu Giác tròn sáng, vốn sáng suốt nhiệm mầu tròn khắp, nguyên là không có chuyện sanh diệt, tuyệt không có mảy mún vọng nào cả. Trong Bồ Đề, tìm cái Chân còn không thể được, thì từ chỗ nào kiếm được cái vọng ư?

Cho nên, không tùy thuận theo phân biệt nơi chỗ sanh ra của ba thứ tương tục cùng cái nhân duyên đoạn trừ để cho khỏi sanh ra, tức thì một tâm niệm chẳng sanh, vạn pháp nào có lỗi? Đó là cái Bồ Đề tuyệt trần trong sạch, nào mượn sức người tu chứng để được ư? Ba Duyên tịch diệt, ba Nhân chẳng sanh, ở ngay trong đó mà tự thành Diệt Tận Định.

Ông Phú Lâu Na đều thường khởi ra các sự phân biệt, cho là Bồ Đề do tu chứng mà được. Chỉ cần đừng phân biệt rối rắm như vậy, thì không có Vọng nào để khá diệt, không có Chân nào khá đắc, bèn là thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới. Nếu nói Như Lai Độc Diệu Chân Thường, là do cả thảy đều trọn dứt diệt mà chứng được, thì chưa thấy chỗ diệu kỳ của Như Lai vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá : “Như nay hiện có đủ thứ vọng niệm, vì sao lại nói không?”

Tổ Hoàng Bá nói: “Vọng vốn không có tự thể, chỉ là nơi Tâm của ông khởi lên. Như ông biết Tâm nguyên là Phật, Tâm vốn chẳng có vọng, thì Tâm nào có khởi, luống lại đi nhận vọng ư? Như ông chẳng sanh tâm động niệm, thì tự nhiên chẳng có vọng nào cả. Do đó mới nói: Tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh, tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt.”

Nhà sư hỏi: “Nay ngay lúc vọng niệm khởi, thì Phật tại chỗ nào?”

Tổ Bá nói: “Nay ngay khi ông tỏ ra biết vọng niệm khởi lên, thì cái tỏ biết đó chính là Phật. Còn trong ấy mà không có vọng niệm, thì Phật cũng không. Vì sao như thế? Vì ông khởi tâm làm nên cái thấy Phật, bèn là có Phật để thành. Làm nên cái thấy có chúng sanh, bèn là có chúng sanh để độ. Khởi tâm động niệm đều là chỗ thấy của ông. Nếu không có tất cả mọi cái thấy thì Phật có ở chốn nào? Như Ngài Văn Thù vừa khởi lên cái Phật Kiến, liền bị hai ngọn núi Thiết Vi đè!

Nhà sư hỏi: “Nay chính lúc tỏ ngộ, Phật ở tại chốn nào?”

Tổ Bá đáp: “Cái hỏi đó từ đâu mà lại? Cái Giác đó từ đâu mà khởi lên? Nói, nín, động, tịnh, cả thảy thanh sắc, toàn là Phật sự, chỗ nào tìm Phật? Chẳng thể trên đầu lại chồng thêm cái đầu, trên miệng để thêm cái miệng! Chỉ đừng sanh dị kiến, thì núi là núi, nước là nước, tăng là tăng, tục là tục. Núi sông đại địa, nhật nguyệt tinh tú đều chẳng ra ngoài Tâm ông. Tam thiên thế giới đều là tự kỷ của ông. Chỗ nào mà có lắm thứ? Ngoài Tâm không pháp, ngập mắt núi xanh, thế giới, hư không, xứ xứ sáng rỡ, không một mảy tơ để ông chen vào kiến giải. Thế nên, tất cả thanh sắc là con mắt huệ của Phật. Pháp chẳng khởi lên một mình, nương cảnh mới có sanh, vì có vật mà có nên nhiều trí. Suốt ngày nói mà nào từng nói. Suốt ngày nghe mà nào từng nghe. Như thế nên Đức Thích Ca bốn mươi chín năm thuyết pháp mà chưa hề nói ra một chữ”.

Nhà sư hỏi: “Nếu như thế, chỗ nào là Bồ Đề?”

Tổ Bá nói: “Bồ Đề không là chỗ nào hết. Phật cũng chẳng đắc Bồ Đề, chúng sanh chẳng mất Bồ Đề. Không thể lấy thân mà được đó, không thể lấy Tâm mà cầu đó. Tất cả chúng sanh tức là tướng Bồ Đề”.

Nhà sư hỏi: “Như thế nào phát Bồ Đề Tâm?”

Tổ Bá nói: “Bồ Đề là không chỗ đắc. Nay ông chỉ phát tâm Vô Sở Đắc, quyết định không có một pháp nào để đắc, tức là Bồ Đề Tâm. Bồ Đề không có chỗ sanh ra, cho nên không có chuyện đắc. Thế nên nói rằng: “Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng, không có chút pháp nào có thể đắc, Phật bèn thọ ký cho Ta”. Phải rõ rằng, tất cả chúng sanh vốn là Bồ Đề, không lẽ trở lại đắc ư? Giờ đây ông hỏi phát Bồ Đề Tâm, muốn đem một cái tâm mà học lấy Phật Đạo. Chỉ nghĩ định làm Phật Đạo thôi, thì mặc cho ông tu ba a tăng tỳ kiếp cũng chỉ định được cái Báo Thân, Hóa Thân Phật. Thế thì đối với cái Chân Tánh Phật bổn nguyên của ông có giao thiệp gì? Nên nói: Cầu bên ngoài ông Phật có hình tướng, thì có giống gì ông đâu?”

Lại Tổ Lâm Tế nói rằng: “Chư vị học Đạo ở các nơi nói có Đạo để tu, có Pháp để chứng. Các ông thử nói xem chứng Pháp gì, tu Đạo gì? Hiện giờ đây chỗ dùng của các ông có thiếu hụt cái gì đâu? Sửa sang thêm thắt chỗ nào? Các ông thầy trẻ tuổi hậu sinh không hiểu, liền tin ngay đám cáo chồn tinh mị đó, để cho họ bày chuyện trói buộc người khác.

“Họ nói : Hình tướng đạo lý là do giữ gìn, mến tiếc ba nghiệp mới được thành Phật.

“Nói như vậy thì chỉ như mưa bụi mùa Xuân.

“Cổ nhân nói: “Trên đường gặp người đạt đạo, thứ nhất là chẳng hướng về đạo”!

“Do đó mà nói:

“Nếu người tu đạo, đạo chẳng hành

Muôn ngàn tà cảnh lại đua sanh

Gươm Trí đưa ra không một vật

Cái sáng chưa bày, tối đã minh!”.

“Bởi thế, cổ nhân nói “Bình thường tâm là Đạo”. Đại Đức tìm kiếm cái gì? Ngay bây giờ đây, cái trước mắt nghe Pháp là đạo nhân không chỗ nương [Đạo nhân vô], khắp chốn rõ ràng phân minh, chưa từng thiếu hụt. Các ông như muốn cùng Phật, Tổ chẳng khác, chỉ như thế mà thấy, chẳng khởi nghi lầm. Như các ông tâm tâm chẳng khác, thì gọi là Tổ. Tâm mà có chút sai khác đi: Tánh, Tướng liền khác nhau. Tâm như như chẳng khác, thì Tâm và Tướng không hai”.

Lại có nhà sư hỏi thiền sư Tiến Phúc Tư rằng : “Điện xưa không có Phật thì như thế nào?”

Tổ Tư nói : “Phạm âm ở đâu tới?”

Lại hỏi : “Chẳng mượn tu chứng, làm sao đắc thành?”

Tổ Tư nói : “Tu chứng tức chẳng thành”.

Chỗ Thấy của các vị tôn túc, mỗi mỗi đều suốt hợp với ý chỉ “Nào phải nhọc nhằn, ráo riết tu chứng gì đâu?” Đây tức là Niết Bàn Diệu Tâm, Chánh Pháp Nhãn Tạng, nào phải chờ đến chuyện Linh Sơn đưa lên cành hoa, Ngài Ca Diếp mỉm cười, rồi sau mới gọi là “Biệt truyền Tâm Ấn” ư?

Kinh: “Ví như có người ở trong áo mình buộc một hạt Châu Như Ý mà không hay biết; nên phải xin ăn lưu lạc phương xa, nghèo nàn gầy ốm. Tuy bần cùng hết sức nhưng hạt châu không hề mất. Bỗng dưng có người Trí chỉ bày cho hạt châu, liền muốn gì có nấy, thành giàu có lớn, mới hay hạt Thần Châu chẳng phải do ở ngoài mà được.

Thông rằng: Kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm chỉ thẳng tâm người, thấy Tánh thành Phật đều lấy hạt châu trong áo làm ví dụ. Như Lai Tạng Tánh, bị năm Ấm che đậy, như hạt châu buộc trong áo, nên không dễ thấy được. Hướng ra ngoài chạy kiếm thì mỗi ngày đều thấy chẳng đủ, nghèo ốm ở phương xa, chạy cuồng chín cõi. Cầu cái vui của trời, người, giữ riêng cái lợi ích nhỏ nhen, thì cũng còn là rong ruổi ăn xin. Còn như được Bổn Tâm, thì đầy đủ dư dật. Hạt châu tên Như Ý, muốn gì được nấy. Nào ngờ tự tánh vốn tự sẵn đủ! Nào ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp (Lục Tổ khi ngộ đạo)! Nên diệu dụng chẳng hề thiếu hụt, thành giàu có vô biên. Một hạt Thần Châu này, mê cũng chưa từng mất, ngộ cũng chẳng từng được. Chỉ được người Trí chỉ cho, bèn tự thọ dụng không cùng, nào mượn chỗ tu chứng ư?

Một hôm, Đức Thế Tôn đưa ra một viên ngọc ma ni tùy sắc, rồi hỏi các vị Thiên Vương của năm phương rằng: “Viên ngọc này màu gì?”

Các vị Thiên Vương mỗi người nói mỗi màu khác nhau. Thế Tôn cất viên ngọc vào tay áo, rồi đưa tay lên hỏi: “Viên ngọc này có màu gì?”

Các vị Thiên Vương thưa: “Trong tay Phật không có châu, lấy chỗ nào có màu?”

Đức Thế Tôn than rằng: “Các ông sao mê mờ điên đảo lắm thế! Ta lấy hạt châu của thế gian đưa ra thì mỗi ông đều tranh nhau nói màu xanh, vàng, trắng, đỏ… Còn ta đưa hạt châu thật ra chỉ cho, lại rốt cuộc chẳng hay biết!”

Khi ấy, các vị Thiên Vương năm phương đều ngộ đạo.

Ngài Đại Châu, ban đầu ra mắt Đức Mã Tổ.

Tổ hỏi: “Từ đâu đến?”

Đáp rằng: “Ở chùa Đại Vân tại Việt Châu đến”.

Tổ nói: “Đến đây định có chuyện gì?”

Đáp: “Thưa, đến cầu Phật Pháp”.

Tổ đáp: “Kho báu nhà mình thì chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy rông làm chi? Ta, trong ấy một vật cũng không, ông cầu Phật Pháp nào?”

Ngài bèn làm lễ rồi hỏi: “Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải (Đại Châu)?”

Đức Mã Tổ nói: “Tức nay đang hỏi ta là cái đó. Kho báu của ông, hết thảy hiện thành, tuyệt không thiếu hụt, liền dùng tự tại, nào phải hướng ngoài tìm kiếm”.

Ngài Đại Châu ngay dưới lời nói tự rõ Bổn Tâm, chẳng do hiểu biết, vui mừng lễ tạ, hầu Tổ trong sáu năm. Về sau, viết cuốn “Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận”. Tổ xem rồi bảo với đại chúng: “Ở Việt Châu có viên ngọc lớn (Đại Châu), tròn sáng trong suốt, tự tại không gì ngăn ngại”.

Ngài Ngưỡng Sơn tham lễ thiền sư Đông Tự Hội.

Thiền sư hỏi: “Ông là người xứ nào?”

Ngài Ngưỡng đáp: “Người Quảng Nam”.

Thiền sư Hội nói: “Tôi nghe ở Quảng Nam có viên minh châu trấn biển, có đúng không?”

Ngài Ngưỡng đáp: “Thưa, phải”.

Tổ Hội nói: “Châu ấy như thế nào?”

Ngài Ngưỡng nói: “Không trăng thì ẩn, có trăng thì hiện”.

Tổ Hội: “Có đem đến được không?”

Ngài Ngưỡng: “Đem đến được”.

Tổ Hội: “Sao chẳng trình ra với lão tăng?”

Ngài Ngưỡng Sơn khoanh tay bước tới, nói: “Hôm qua đến Qui Sơn cũng bị đòi hạt châu ấy! Ngay ấy không có lời để đối đáp, chẳng có lý lẽ nào để đưa ra!”

Tổ Hội nói: “Thật là sư tử con khéo hay gầm rống!”

Trăm, ngàn năm về sau, nhờ có các vị tôn túc hộ trì được hạt thần châu, chẳng do ngoài mà được, thì càng tin lời Phật chẳng có sai lầm.

VIII. LẠI PHÁ XÍCH NHÂN DUYÊN, TỰ NHIÊN

A. XƯA NAY KHÔNG VỌNG

Kinh: Khi ấy Ông Anan ở trong đại chúng, đảnh lễ chân Phật rồi đứng dậy thưa rằng: “Đức Thế Tôn hiện nói về các nghiệp Sát, Đạo, Dâm. Ba Duyên đã đoạn, nên ba Nhân chẳng sanh. Tánh điên trong tâm chàng Nhã Đa tự hết, hết tức là Bồ Đề, chẳng từ ai mà được. Đây là nhân duyên rồi, thật là rõ ràng, tại sao Như Lai lại bỏ đi nghĩa Nhân Duyên? Chính tôi từ Nhân Duyên mà tâm được khai ngộ.

“Bạch Thế Tôn! Nghĩa ấy đâu chỉ đối với hàng Thanh Văn Hữu Học tuổi nhỏ như chúng tôi, mà nay trong hội này, Ông Đại Mục Kiền Liên, cùng Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề đều từ Ông lão Phạm Chí nghe được lý nhân duyên của Phật mà phát tâm khai ngộ, được thành vô lậu. Nay nhờ Phật dạy rằng Bồ Đề chẳng do Nhân Duyên, thì các thuyết Tự Nhiên của nhóm Câu Xá Ly thành Vương Xá lại thành Đệ Nhất Nghĩa! Xin Phật rủ lòng từ bi, khai mở cho sự mê lầm”.

Thông rằng: Đức Thế Tôn dạy: “Ba Duyên dứt lìa, nên ba Nhân chẳng sanh”, chính là dạy nhóm Ông Phú Lâu Na chẳng tùy theo phân biệt các pháp ba thứ nhân duyên đoạn diệt nối nhau, thì tánh cuồng điên tự hết, Bồ Đề hiện tiền. Đó là Đức Phật chẳng muốn họ lấy cái Tâm Sanh Diệt mà hợp với Như Lai Tạng, riêng mở ra một pháp môn Đốn Ngộ. Nghĩa là lấy sự đoạn trừ Nhân Duyên mà được cái bất sanh bất diệt còn chẳng cho phép thay, huống là lại có Nhân Duyên sao?

Ông Anan, một bề đa văn, quen theo cái biết Nhân Duyên và Tự Nhiên phá hoại lẫn nhau, rồi hiểu lầm rằng ba Duyên đoạn dứt, ba Nhân chẳng sanh, nghĩa là theo trong Tiểu Thừa, ba nghiệp Sát, Đạo, Dâm chẳng có duyên theo thì ba nhân Tham, Sân, Si chẳng sanh ra. Nếu có nhân duyên thì có đối đãi, rõ ràng thế kia, sao có thể nói là không có Nhân Duyên? Ngay như Ông Đại Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất gặp được Tỳ kheo Mã Thắng dạy cho “Các Pháp theo nhân duyên mà sanh, các pháp theo nhân duyên mà diệt”, ngay dưới lời nói chứng Sơ Quả, thế là do Nhân Duyên mà khai ngộ. Các Trưởng Lão cũng đều như thế. Nay Phật bỏ lý Nhân Duyên, thì hóa ra nhóm Mạt Già Lê, Câu Xá Ly nói rằng “Chúng sanh tuy có sướng khổ, nhưng không có Nhân Duyên, chỉ Tự Nhiên như vậy thôi”, thì có gì khác đâu? Há chẳng biết rằng nghe lý Nhân Duyên của Phật, được thành Vô Lậu, thì chỗ nói “Theo duyên mà sanh, theo duyên mà diệt” là đã ngộ thấy cái yếu chỉ Vô Sanh. Cái sanh diệt kia, đều là Duyên đó vậy, cho nên, đắc Vô Lậu, há lại vướng mắc ở Nhân Duyên ư?

Thị giả Hội Thông của Tổ Ô Sào một ngày kia muốn từ giã mà đi.

Tổ Sào nói : “Nay ông đi đâu?”

Đáp : “Hội Thông này vì Pháp mà xuất gia, Hòa Thượng chẳng rủ lòng từ dạy bảo, nên nay đi các nơi để học Phật Pháp”.

Tổ Sào nói : “Nếu là Phật Pháp thì ở đây ta cũng có chút ít”.

Hỏi : “Như thế nào là Phật Pháp của Hòa Thượng?”

Tổ Ô Sào liền rút ra một sợi lông bố, đưa lên mà thổi.

Thầy Hội Thông bèn lãnh ngộ.

Ngài Phần Dương tụng rằng:

“Sơ tâm thị giả mộ thắng duyên

Biệt thầy định trải học tham thiền

Ô Sào biết đấy, cơ duyên đến

Thổi lông, ngay đó được tâm an”.

Như cái cơ duyên này, há cũng nói là Nhân Duyên ư!

Kinh: Phật bảo Ông Anan: “Như Anh Diễn Nhã Đạt Đa ở trong thành, cái nhân duyên tánh cuồng mà diệt trừ được, thì cái tánh không cuồng tự nhiên hiện ra. Các lý lẽ Nhân Duyên, Tự Nhiên rốt cuộc chỉ là như vậy.

“Anan, Anh Diễn Nhã Đạt Đa cái đầu vốn là tự nhiên, vốn tự như thế, có khi nào mà không tự nhiên đâu, thì vì nhân duyên gì mà sợ cái đầu để phát điên cuồng bỏ chạy? Nếu cái đầu là tự nhiên, vì nhân duyên mà điên thì sao không cứ tự nhiên, vì nhân duyên mà mất? Cái đầu vốn không mất, mà sự điên cuồng sợ hãi vọng có ra, chứ nào có bao giờ thay đổi gì, thì nào phải cần đến nhân duyên. Nếu tính điên vốn là tự nhiên, vốn có sẵn sự điên rồ sợ hãi như vậy, thì khi chưa điên, cái điên ấy núp trốn chỗ nào? Nếu tính không điên là tự nhiên, thì cái đầu cũng vẫn tự nhiên, sao lại điên cuồng bỏ chạy? Nếu ngộ cái đầu vốn sẵn như thế, biết sự phát điên bỏ chạy của mình, thì Nhân Duyên và Tự Nhiên đều là hý luận.

Thông rằng: Nếu nói Nhân Duyên đoạn diệt rồi sau đó Chân Tánh Bồ Đề tự nhiên hiện ra, thì chẳng phải là chánh luận. Chuyện Anh Diễn Nhã Đạt Đa sợ đầu bỏ chạy mà xét cho cùng, thì chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên, dứt khoát rõ ràng vậy. Trước tiên, lấy cái đầu mà luận, thì cái đầu vốn tự nhiên, chắc không thể vì nhân duyên mà bị đoạt mất. Thế sao vì nhân duyên soi gương mà phát cuồng? Đã cho Nhân Duyên là đúng, thì Tự Nhiên không còn đứng vững, thế thì tại sao không do nhân duyên mà thật mất cái đầu? Nhưng cái đầu vốn chẳng mất, anh chàng kia tự cuồng mà chạy, thì cái cuồng này vốn hư vọng có ra, thì rõ ràng chẳng có liên quan gì đến chuyện Nhân Duyên vậy. Đã chẳng từ nhân duyên mà sanh, cũng chẳng theo nhân duyên mà diệt, mà nói nhân duyên tánh cuồng có thể diệt trừ được, là hoàn toàn sai lầm vậy.

Lấy tánh cuồng mà luận, nếu tánh cuồng vốn là tự nhiên thì nó núp trốn ở đâu? Còn tánh không cuồng là tự nhiên thì tại sao điên chạy? Cuồng hoặc không cuồng đều không có tự tánh, chẳng có liên quan gì đến lý Tự Nhiên, thật là rõ ràng như vậy. Đã chẳng phải là tự nhiên núp ẩn, cũng chẳng phải tự nhiên có ra, nên nói tánh không cuồng tự nhiên hiện ra là sai lầm vậy. Thế nên biết rằng, nói Nhân Duyên, nói Tự Nhiên nào có dính dáng gì với cái đầu? Nói vốn là cuồng, nói vốn là không cuồng, thì nào có xong hết chuyện tánh cuồng? Những thứ ấy đều thuộc về hý luận, chẳng có gì chân thật.

Chỉ cần ngộ được cái đầu xưa nay vốn có sẵn, vốn không hề mất. Biết rõ sự phát điên bỏ chạy, thì điên vốn hư vọng mà có ra. Chỉ một chữ Ngộ này, chỉ một chữ Biết này, tức là sự thọ dụng chân thật của nhà mình, chẳng có lời lẽ nói năng nào đến được nổi. Ngộ cái đầu, tức là ngộ Bản Lai Diện Mục, nào có chút gì đổi khác. Biết cuồng, tức là biết sự vọng sanh ra phân biệt mà chạy điên trong chín cõi. Cái Ngộ ấy, cái Biết ấy, như tia chớp, như lửa xẹt ra từ đá, trong khoảng sát na, há là cái chỗ đứng được của các thứ Nhân Duyên, Tự Nhiên sao? Thế nên, nói rằng “Hết tức Bồ Đề, không do ai mà được, xa lìa các thứ Nhân Duyên và Tự Nhiên” là thế.

Thiền sư Trí Nham ở núi Ngưu Đầu, đời Đại Nghiệp nhà Tùy làm chức Lang tướng, lập nhiều chiến công. Đến đời Vũ Đức nhà Đường, bốn mươi tuổi bèn xin xuất gia, theo học thiền sư Bảo Nguyệt. Có hai người bạn trước ở trong quân đội nghe Ngài ẩn tu, mới vào núi tìm Ngài. Gặp gỡ, mới hỏi rằng: “Lang tướng quân điên sao, ở chốn này làm gì?”

Ngài đáp: “Cái điên của tôi thì sắp tỉnh, cái điên của các ông thì đang phát! Than ôi! Ham sắc mê thanh, tham danh muốn lợi, trôi lăn sanh tử, từ đâu mà có!”

Hai người cảm ngộ, than thở mà đi.

Sau, Ngài tham yết thiền sư Lại Dung, phát minh được đại sự. Tổ Lại Dung bảo rằng: “Ta lãnh nhận yếu quyết chân chánh của đại sư Đạo Tín, chỗ sở đắc đều mất sạch. Nếu như có một pháp vượt hơn Niết Bàn, ta cũng nói như là mộng huyễn. Ôi! Một mảy bụi bay mà che trời! Một hạt cải rơi mà trùm đất! Ông nay đã trải qua cái Thấy ấy, ta lại còn gì nói nữa”.

Bởi thế, hết điên thì như Ngài Trí Nham, có thể nói là Chân Ngộ vậy.

B. ĐƯA VÀO BỒ ĐỀ

Kinh : “Thế, nên Ta nói : “Ba Duyên lìa dứt, tức là Tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề sanh, tâm sanh-diệt diệt, đó cũng chỉ là sanh diệt. Diệt và sanh đều hết ráo, là vô công dụng Đạo. Nếu có Tự Nhiên, như vậy là nói tâm tự nhiên sanh, tâm-sanh-diệt diệt, thế cũng là sanh diệt, và cái không sanh diệt thì gọi là Tự Nhiên. Cũng như thế gian, những tướng hòa lẫn thành một thể gọi là tính hòa hiệp, còn cái chẳng hòa hiệp thì gọi là tính bản nhiên. Bản nhiên chẳng phải bản nhiên, hòa hợp chẳng phải hòa hợp, hòa hợp và bản nhiên đều lìa. Lìa và không lìa đều chẳng phải. Câu nói ấy mới gọi là pháp không hý luận.

“Bồ Đề Niết Bàn còn ở xa lắm, nếu ông không trải qua nhiều kiếp siêng năng tu chứng thì tuy có ghi nhớ thanh tịnh diệu lý mười hai bộ kinh của mười phương Như Lai như cát sông Hằng cũng chỉ tăng thêm hý luận.

Thông rằng : Đoạn này giãi bày rõ cái ý “Nào nhờ siêng năng cần khổ tu chứng”. Bỗng nhiên cuồng hết chẳng phải khó nhọc đoạn trừ duyên, nên không phải là Nhân Duyên. Nếu nói: “Vì ba Duyên đoạn dứt, thì ba Nhân chẳng có sanh ra, nhờ nhân duyên đó mà được Tâm Bồ Đề”, thế là Tâm Bồ Đề sanh là do tâm sanh-diệt diệt. Diệt Vọng chứng Chân thì Chân cũng thành Vọng, đó cũng chỉ là pháp sanh diệt thôi, chẳng phải là Bồ Đề. Cái nhân duyên như vậy thuộc về sanh diệt, nên cũng dễ hết.

Đến chỗ diệt và sanh đều hết ráo, thì không những tâm sanh diệt hết mà cái diệt sanh diệt cũng hết tận. Đã không có sự sanh ra để diệt, tức là không có công phu nào để dùng. Ở trong đó nếu có cái bất sanh bất diệt mà gọi là Tự Nhiên, thì cái tâm tự nhiên này do nơi diệt và sanh đều hết mà hiển ra, đó là cái tâm tự nhiên sanh. Nhưng nhờ ở tâm sanh-diệt diệt mất mà có thì cũng là pháp sanh diệt, chẳng phải là Bồ Đề. Chữ “cũng” thật có ý vị! Cái không sanh diệt kia gọi là Tự Nhiên, sao cũng gọi là sanh diệt? Vì đối với cái sanh diệt mà hiển bày cái không sanh diệt, thế là có đối đãi vậy. Cũng như đối với hòa hợp mà hiển bày cái không hòa hợp. Có cái bản nhiên thì có cái không bản nhiên, có cái hòa hợp thì có cái không hòa hợp, rõ ràng toàn là đối đãi. Cũng như đối với sừng trâu có, rồi nói sừng thỏ không, nên cũng thuộc về sanh diệt. Cái kia chỉ làm không cái sanh diệt, chẳng có thể làm không cái Tự Nhiên. Cũng như nói “Nhà kia không có người”, thì mới chỉ làm “không” người ở trong đó, chứ chưa “không” được cái nhà. Đó không phải là cái thấy chân thật. Nên nói là hý luận.

Nếu giờ đây mà hợp với không hợp, bản nhiên với không bản nhiên, các pháp đối đãi, hết thảy đều xa lìa mà cũng không có cái tâm xa lìa, nên lìa hay hợp đều mất hết. Đã lìa Sở, lại lìa Năng; Năng Sở đều lìa, chỉ là một Chân Thật, câu này mới gọi là pháp không hý luận.

Nhưng nếu y theo câu này mà giữ Bồ Đề Niết Bàn Vô Thượng, thì cũng còn xa lắm! Vì sao thế? Vì còn ở tại hữu vi, có công phu, có huân tập vậy. Bồ Đề Chánh Giác, Niết Bàn Diệu Tâm chỉ có thể ở tại sát na mà ngộ nhập, chẳng phải là chỗ ông trải qua nhiều kiếp cần khổ để tu chứng được. Cái chẳng do trải qua nhiều kiếp cần khổ tu chứng mà được, cái ấy không nương nhờ Nhân Duyên, Tự Nhiên gì ráo để đắc. Cái mà phải nhờ trải qua nhiều kiếp cần khổ tu chứng, thì tất phải do Nhân Duyên, Tự Nhiên mà được. Cứ thế, thì tuy ghi nhớ diệu lý thanh tịnh của mười phương Chư Phật là Pháp không hý luận, cũng chỉ tăng thêm các thứ hý luận Nhân Duyên, Tự Nhiên mà thôi, nào có thật đắc được gì. Nên chi, nghe nói “Ba Duyên đoạn dứt, ba Nhân chẳng sanh”, rồi theo đó phân biệt mà được Tâm Bồ Đề, thì chẳng phải là thực đắc, đó là chỗ nói “Lấy Tâm Sanh Diệt hợp với Như Lai Tạng” vậy. Chỉ không theo đó mà phân biệt, thì tánh cuồng tự hết. Hết là Bồ Đề, không do ai mà được, bèn là thật đắc, vì là lấy cái Chẳng Sanh Chẳng Diệt hợp với Như Lai Tạng vậy. Cái cơ duyên tối thượng này, há đồng với lối nói Tự Nhiên của nhóm Câu Xá Lê được ư?

Đức Lục Tổ dạy: “Cái Bất Sanh Bất Diệt mà ngoại đạo nói, là lấy Diệt dừng Sanh, lấy Sanh mà bày ra cái Diệt, thế là có Diệt mà xem như không Diệt, có Sanh mà nói là chẳng Sanh. Ta nói chẳng Sanh chẳng Diệt là vốn Tự Vô Sanh, nay cũng không có Diệt. Bởi thế, chẳng đồng với ngoại đạo”.

Ngài Tiến Sơn Chủ hỏi Ngài Tu Sơn Chủ rằng: “Biết rõ Tánh sanh mà chẳng sanh, thì vì sao còn lưu lại cái sanh?”

Tu Sơn nói : “Măng rốt cuộc thành tre chứ, như nay làm cật tre, khiến trở lại đâu được!”

Tiến Sơn nói : “Sau này ông sẽ tự ngộ chỗ ấy”.

Tu Sơn nói : “Tôi chỉ như thế, ý chỉ của Thượng Tọa như thế nào?”

Ngài Tiến Sơn nói: “Cái này là Giám Viện Phòng, cái kia là Điển Tòa Phòng”.

Ngài Tu Sơn bèn lễ bái.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Hoát nhiên mất chỗ nương

Tự do nào chẳng quản

Nước nhà bình ổn thấy ai đâu

Lực lượng mống sanh phân giai cấp

Thân tâm rỗng rang tuyệt thị phi

Thị phi tuyệt!

Lập cả đại phương : không dấu vết!”.

Thế đó, chứng Bồ Đề Vô Thượng vốn đâu có sa vào thềm bực (giai cấp). Lại có dấu vết gì thấy được!

Kinh : “Ông tuy nói lý Nhân Duyên, Tự Nhiên, chắc chắn rõ ràng, người đời xưng ông là đa văn bậc nhất. Vậy mà lấy cái đa văn huân tập nhiều đời đó cũng chẳng khỏi nạn Cô Ma Đăng Già, phải đợi thần chú Phật Đảnh của Ta khiến cho lửa dâm trong lòng cô Ma Đăng Già hết tức thời mà đắc A Na Hàm, hiện ở trong Pháp của Ta, tinh tấn như rừng, sông ái cạn khô, khiến ông giải thoát.

“Bởi thế nên, Anan, ông tuy nhiều kiếp ghi nhớ những bí mật mầu nhiệm trang nghiêm của Như Lai, không bằng chỉ một ngày tu Nghiệp vô lậu, lìa xa thế gian hai thứ khổ ghét-thương. Như Cô Ma Đăng Già, trước là dâm nữ, do sức thần chú, tiêu tan lòng ái dục, nay ở trong Phật Pháp tên là Tánh Tỳ Kheo Ni. Cùng với Da Du Đà La là mẹ của La Hầu La, đồng ngộ được nhân đời trước, biết nhân khiến trải qua nhiều đời, tham ái là khổ, một niệm huân tu pháp thiện vô lậu; một người được ra khỏi trói buộc, còn một người được thọ ký. Sao ông còn tự coi thường mình, ở mãi trong vòng nghe, thấy!”

Thông rằng: Rõ ràng là Ông Anan nhiều kiếp đa văn mà không tránh khỏi nạn Cô Ma Đăng Già, thế thì ghi nhớ diệu lý thanh tịnh của Như Lai không thể chứng quả được. Cũng rõ ràng là thần chú Phật Đảnh có thể khiến cho lòng dâm của Cô Ma Đăng Già tức thời tiêu hết, nghĩa là sự huân tu không thể nghĩ bàn khiến tự ra khỏi ràng buộc vậy. Nhớ giữ pháp bí mật nhiệm mầu trang nghiêm, tức là hữu lậu. Bỏ Vọng theo Chân, tức là hai cái khổ thương, ghét. Khổ còn không khỏi, huống là đắc quả ư? Tu tập pháp môn Viên Đốn tức là vô lậu. Ngộ biết nhân đời trước, tham ái chẳng sanh, bèn được thọ ký, nào chỉ đắc quả thôi sao? Cô Ma Đăng Già chứng quả thứ Ba, A Na Hàm, gọi là ra khỏi trói buộc. Bà Da Du Đà La cũng là nhân duyên nhiều kiếp với Đức Thế Tôn, ở hội Pháp Hoa được thọ ký thành Phật. Đây chỉ là nữ giới mà một niệm xoay lòng còn nên bực tinh tấn. Huống gì hàng Thanh Văn các ông, sao tự khinh thường mình, không liền đốn ngộ? Đã thế lại nương nhờ nhân duyên trừ Vọng mà bám lấy hý luận của ngoại đạo để ở mãi trong vòng thấy nghe sao?

Thiền sư Sở Nam thượng đường nói: “Này các ông, dù có hiểu giáo pháp của Chư Phật ba đời như rót nước vào bình, chẳng bằng một niệm tu Vô Lậu Đạo, khỏi bị nhân quả trời người trói buộc!”

Khi ấy có nhà sư hỏi : “Vô Lậu Đạo như thế nào để tu?”

Tổ Sở Nam nói : “Chưa từng có Xà Lê để nắm bắt!”

Hỏi : “Chưa từng có tôi đây, thì dạy ai nắm bắt?”

Đáp : “Cái nắm cũng không!”

Được một hai lời chuyển ngữ này, thì ý chỉ chưa nói hết của Như Lai đã lộ rồi!

MỤC 9: CHỈ NGHĨA QUYẾT ĐỊNH
I. CÁC PHÉP TU HÀNH SAU KHI ĐỐN NGỘ, PHÁT BỒ ĐỀ TÂM

Kinh: Ông Anan và cả đại chúng nghe lời Phật dạy, nghi lầm tiêu tan, ngộ được Thật Tướng, thân ý nhẹ nhàng an ổn, được cái chưa từng có. Rồi lại rơi nước mắt, đảnh lễ chân Phật, quỳ thẳng, chấp tay mà bạch Phật rằng: “Đấng Vô Thượng Đại Bi, Thanh Tịnh Bảo Vương, khéo mở tâm chúng tôi, dùng đủ thứ nhân duyên như thế, phương tiện dìu dắt những kẻ chìm đắm trong tối tăm ra khỏi bể khổ.

“Bạch Thế Tôn, nay tôi được vâng nghe Pháp Âm như vậy, biết Như Lai Tạng, Diệu Giác Minh Tâm cùng khắp mười phương thế giới, trùm chứa các cõi nước của Như Lai trong mười phương, các cõi Phật Diệu Giác Vương trong sạch, quý báu trang nghiêm. Như Lai lại trách tôi đa văn mà không có công dụng, không kịp thời tu tập. Nay tôi giống như người long đong phiêu bạt, bỗng nhiên gặp vị Thiên Vương cho cái nhà tốt; mặc dầu được cái nhà lớn, nhưng cần yếu phải do cửa mà vào. Xin nguyện Như Lai, không bỏ lòng đại bi, chỉ bày cho chúng tôi, những kẻ mờ tối trong hội này, rời bỏ Tiểu Thừa, đều được con đường Phát Tâm căn bản đến Vô Dư Niết Bàn của Như Lai, khiến cho hàng Hữu Học biết theo đâu nhiếp phục các sự bám níu (phan duyên) lâu đời, được Tổng Trì Đà La Ni, nhập Phật Tri Kiến”.

Ông Anan nói lời ấy rồi, năm vóc mọp sát đất, trong hội một lòng mong đợi ý chỉ từ bi của Phật.

Thông rằng: Từ lúc bắt đầu, phân lựa Chân Vọng để phát minh Tánh Giác, cho đến chỗ nói lên cái Tánh Chân Thắng Nghĩa trong thắng nghĩa, để thông suốt các nghi ngờ, vướng mắc khiến cho tin hiểu Chân Tánh là Tâm Nhân Địa. Cái Tâm Nhân Địa đã chân thật, mới có thể viên thành quả địa tu chứng. Thế nên, đoạn trước là phần Kiến Đạo. Từ đây về sau, riêng nói phần Tu Đạo.

Ông Anan đã được Pháp Thân, nhưng vẫn còn Vô Minh vi tế. Nay đã trừ các điều mê lầm, ngộ Thật Tướng, nhưng lại có lời than là không kịp thời tu tập. Rốt cuộc là vẫn còn là ở ngoài cửa. Tuy biết có cái nhà đẹp đẽ của Thiên Vương nhưng chưa thể vào. Sở dĩ không được cái cửa để vào, thứ nhất là, do còn ưa mến Tiểu Thừa, chẳng rõ con đường Phát Tâm căn bản; thứ hai là, do sự bám níu, đó chính là cái khổ mà không thể nhập Tri Kiến Phật. Tuy là do thói quen đa văn khiến như thế, nhưng cũng là vì hàng Hữu Học trong hội mà hỏi.

Tổ Mục Châu nói với đại chúng rằng: “Tất cả các ông có được chỗ đầu mối để vào chưa? Nếu chưa được cái chỗ đầu mối để vào, thì cần phải tìm cho ra chỗ đầu mối để vào, để sau này khỏi cô phụ lão tăng”.

Thiền sư Nghiêu Phong Xiêm thượng đường dạy: “Đông qua Thu lại, cửa lâu đài mở hoác. Nếu vào được, chớ có chần chờ. Các Thượng Tọa! Hướng vào trong ấy bước vào được chưa? Như bước vào được thì đúng như cổ nhân nói “Nơi đây là Di Lặc. Cửa nào chẳng Thiện Tài”. Nếu bước vào chưa được, ấy là các Thượng Tọa tự mình chạy điên. Chớ có đau đáu đứng hoài như vậy! Trân trọng!”

Có vị quan hỏi Tổ Mục Châu: “Ba cửa đều mở, theo cửa nào nhập?”

Tổ châu gọi lớn: “Thượng Thơ!”

Quan ứng tiếng: “Dạ!”

Tổ Châu nói: “Theo cửa Tín mà vào”.

Vị quan lại thấy bức họa trên vách, hỏi rằng: “Hai vị tôn giả đối mặt nhau bàn luận chuyện gì?”

Tổ Châu đánh cây lộ trụ, nói: “Trong Ba Thân, Thân nào chẳng nói pháp!”

Ngài Mục Châu môn phong cao ngất, đến chỗ này đều bày trọn hết rõ ràng, như tin đến nơi, bèn chẳng trải qua thứ bực.

Kinh: Khi ấy, Đức Thế Tôn thương xót các hàng Thanh Văn, Duyên Giác trong hội chưa được tự tại nơi Tâm Bồ Đề, cùng những chúng sanh về sau phát Bồ Đề Tâm trong thời mạt pháp, khi Phật diệt độ rồi, khai thị cho con đường tu hành nhiệm mầu Vô Thượng Thừa, mà tuyên giảng cho Anan và các đại chúng rằng : “Các ông quyết định phát Tâm Bồ Đề, đối với Pháp Tam Ma Đề nhiệm mầu của Như Lai chẳng sanh lòng mệt mỏi, thì trước hết nên rõ hai nghĩa quyết định của Sơ Tâm Giác Ngộ”.

Thông rằng: Chỗ Ông Anan hỏi, có hai nghĩa: Một là, con đường căn bản phát tâm để đến Vô Dư Niết Bàn của Như Lai. Hai là, nhiếp phục tâm bám níu, nhập Phật Tri Kiến. Bởi thế, Đức Thế Tôn nói lên hai nghĩa quyết định.

Muốn biết con đường Phát Tâm căn bản, phải chọn lựa gốc rễ Sanh Tử, để được cái Tánh Không Sanh Diệt, lấy đó làm cái Tâm Nhân Địa, rồi mới viên thành Diệu Đức Niết Bàn chẳng sanh chẳng diệt. Đây là nghĩa thứ nhất của Sơ Tâm.

Muốn nhiếp phục Tâm Phan Duyên bám níu, phải xét rõ gốc rễ phiền não, biết sáu Căn làm môi giới cho giặc, tự làm tự chịu. Chỉ cần chọn lựa một Căn viên thông, một cửa mà thâm nhập, thì sáu Căn hay biết kia, đồng thời trong sạch, đây là nghĩa thứ hai của Sơ Tâm.

Muốn đắc Vô Sanh, phải diệt sạch phiền não. Hết sạch phiền não, thì chứng Vô Sanh. Hai cái này chưa từng rời nhau được. Ở đây nói Diệu Tam Ma Đề, lại nói Diệu Tu Hành Lộ, là luôn luôn tỉnh thức nơi một chữ Diệu, cần yếu tương ưng với Diệu Minh, Minh Diệu, mà chẳng chấp lấy tướng để cầu Bồ Đề vậy.

Các hàng Thanh Văn, Duyên Giác chưa khỏi được sự chấp nắm lấy tướng, nên ở trong Bồ Đề chưa được tự tại. Duy chỉ ngộ một cái Diệu này, chẳng mượn khó nhọc, cần cù tu chứng, mới gọi là Vô Thượng Thừa vậy.

Sơ Tổ Đạt Ma đến Kim Lăng, Lương Võ Đế hỏi: “Trẫm lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng nhiều không kể xiết, vậy công đức thế nào?”

Tổ đáp : “Đều không có công đức”.

Vua hỏi : “Vì sao không?”

Tổ nói : “Đó chỉ là quả nhỏ của trời, người, là cái nhân hữu lậu, như bóng theo hình, tuy là có mà không thật”.

Vua hỏi : “Thế nào là công đức chân thật?”

Tổ nói : “Trí trong sạch, tròn đầy, mầu nhiệm, thể tự không tịch, công đức như thế không thể lấy thế gian cầu được”.

Vua lại hỏi : “Như thế nào là Thánh Đế Đệ Nhất Nghĩa”.

Tổ nói : “Rỗng rang như nhiên, tuyệt không có Thánh”.

Vua nói : “Vậy trước mặt trẫm đây là ai?”

Tổ nói : “Không phân biệt”.

Vua không lãnh hội được. Tổ biết căn cơ chẳng khế hợp, bèn ẩn qua Giang Bắc.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Thánh Đế rỗng nhiên,

Có đâu nói trúng!

Đối Trẫm là ai?

Lại nói : Không biết [Biết : phân biệt]

Bởi thế lặng lẽ qua sông

Há đâu khỏi sanh gai góc?

Cả nước đuổi theo, không trở lại

Nghìn thuở, muôn xưa, chẳng nhớ nhau

Hết nhớ nhau!

Gió mát khắp cùng, đâu chỗ tột?

Ngài nhìn qua trái, qua phải rồi nói: “Trong ấy lại có Tổ Sư chăng?”

Tự nói : “Có, thì kêu lại đây rửa chân cho lão tăng!”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Rỗng nhiên không Thánh

Căn cơ xa tít

Đắc, chẳng trúng nhằm mũi mà quơ búa

Thất, chẳng quày đầu mà rớt vào ống bễ lò

Lặng lẽ ngồi yên tại Thiếu Lâm

Nín thinh toàn nêu lên chánh lệnh

Thu trong, trăng chuyển, sương vần

Ban đêm sao Bắc Đẩu soi cán

Y bát truyền con cháu không ngừng

Từ đó trời người thành thuốc, bệnh”.

Nếu luận về con đường Vô Thượng Thừa tu hành mầu nhiệm, thì Thánh Đế Đệ Nhất Nghĩa còn chẳng chịu cho, huống là rơi vào nghĩa thứ hai, thứ ba!

II. TÂM NHÂN ĐỊA

Kinh: “Thế nào là hai nghĩa quyết định của Sơ Tâm? Anan, nghĩa thứ nhất là: Nếu các ông muốn rời bỏ Thanh Văn, mà tu Bồ Tát Thừa để vào Tri Kiến của Phật, thì nên xét kỹ cái Nhân Địa Phát Tâm và cái Quả Địa Giác Ngộ là đồng nhau hay khác nhau. Anan! Nếu ở nơi nhân địa mà lấy cái Tâm Sanh Diệt làm gốc, nhân đó mà tu để cầu quả Bất Sanh Bất Diệt của Phật Thừa, thì không thể có chuyện ấy được.

Thông rằng: Đây là chỉ bày Thấy Tánh Đệ Nhất Nghĩa vậy. Nếu luận về Thấy Tánh, thì chẳng mượn ở công phu huân tập, mà chỉ quán xét Chỗ Nhân Địa Phát Tâm cùng với Quả Địa Giác Ngộ là đồng hay khác. Bởi thế, Thánh nhân không nghĩ suy mà đắc, không gắng sức mà vẫn trúng. Hạng Xích Tử [Cái Tâm như con nít vô tư] cũng chẳng lo nghĩ mà biết, chẳng học hành mà nên. Chẳng học tập, chẳng lo toan, là cái Nhân; chẳng nghĩ suy, chẳng cố gắng, là cái Quả vậy. Nên nói : “Bậc đại nhân chẳng hề mất cái tâm xích tử. Nhân và Quả vốn khế hợp, tuyệt không có tăng, giảm”. Không thấy Tánh, đâu đủ sức nói lời ấy!

Ngài Mã Tổ khi còn tại núi Nam Nhạc, ở riêng một phòng nơi Viện Truyền Pháp, chỉ tập ngồi thiền, ai đến thăm hỏi đều không màng đến. Đại sư Hoài Nhượng đến cũng chẳng để ý. Đại sư thấy Mã Tổ cốt cách khác thường, bèn nhớ lại lời tiên tri của Đức Lục Tổ, mới dùng những phương tiện dẫn dạy cho.

Một hôm, Đại sư lấy một viên gạch ra trước am mà mài. Mã Tổ cũng không để ý đến.

Lâu lắm, Ngài Mã Tổ mới hỏi : “Làm cái gì thế?”

Đại sư đáp : “Mài để làm cái gương soi!”

Mã Tổ hỏi : “Mài gạch mà thành gương được sao?”

Đại sư nói : “Mài gạch đã không thành gương, thì ngồi thiền hóa lại thành Phật ư ?”

Mã Tổ bèn rời chỗ ngồi thiền, nói : “Như thế nào là phải?”

Đại sư đáp : “Ví như ngồi xe, xe chẳng đi, thì đánh xe là đúng hay đánh bò là đúng?”

Mã Tổ không đáp được.

Đại sư lại nói: “Ông học tọa thiền, hay học tọa Phật? Nếu học tọa thiền thì thiền chẳng phải là chuyện ngồi, nằm. Nếu học tọa Phật thì Phật chẳng phải là cái tướng ngồi, nên trong pháp vô trụ, chẳng có nắm bỏ. Nếu ông tọa Phật tức là giết Phật. Nếu chấp vào tướng ngồi thì chẳng tỏ suốt được lý”.

Mã Tổ bèn lễ bái, và hỏi: “Dụng tâm như thế nào, liền hợp với Vô Tướng Tam Muội?”

Đại sư nói: “Ông học pháp môn Tâm Địa, như gieo giống xuống. Tôi nói pháp yếu, như trời mưa thấm. Duyên ông thích hợp nên sẽ thấy Đạo”.

Mã Tổ nói: “Đạo chẳng phải là sắc tướng, làm sao có thể thấy?”

Đại sư nói : “Pháp nhãn Tâm Địa thì thấy Đạo. Vô Tướng Tam Muội cũng thế”.

Ngài Mã Tổ hỏi : “Có thành hoại không?”

Đại sư nói : “Nếu lấy sự thành hoại, tụ tán mà thấy Đạo, thì chẳng phải là thấy Đạo. Nghe kệ ta đây:

“Tâm địa ngậm muôn giống

Gặp mưa mầm đều sanh

Hoa Tam Muội, vô tướng

Nào hoại với nào thành”.

Mã Tổ nghe qua lời dạy, hoát nhiên khai ngộ. Hầu đại sư mười năm, ngày càng mật nhiệm, về sau hoằng hóa ở Giang Tây.

Đại sư Hoài Nhượng hỏi chúng : “Mã Tổ Đạo Nhất có vì chúng nói pháp không?”

Chúng đáp : “Đã nói pháp cho chúng rồi”.

Đại sư nói : “Chưa thấy có ai mang tin tức của ông ta đến”.

Bèn sai một nhà sư đi, dặn rằng : “Đợi lúc ông ta thượng đường nói pháp, thì chỉ hỏi : “Làm sao?” Ông ấy nói thế nào hãy nhớ lấy đem về đây”.

Vị sư đến chỗ Mã Tổ, làm y theo lời đại sư dặn.

Khi trở về, nói với đại sư rằng : “Đạo Nhất nói : “Từ sau loạn rợ Hồ, ba mươi năm nay chưa hề thiếu tương muối””.

Đại sư bằng lòng.

Tổ Tuyết Phong gởi lời cho Tổ Nham Đầu rằng : “Từ khi ở Ngao Sơn thành Đạo về sau, cho đến bây giờ no hoài chẳng đói”.

Thế thì, cũng tương tự với câu trên của Ngài Mã Tổ, đều là Nhân Địa Phát Tâm với Quả Địa Giác Ngộ không có đồng, khác vậy. Kia học ngồi thiền, có tu có chứng, bèn thuộc về Pháp Sanh Diệt, đối trong chỗ Vô Thượng Thừa, xa bao ngàn dặm!

Kinh: “Do nghĩa đó, ông phải thấy rõ các vật của thế gian đều là pháp có thể làm ra, tất cả đều phải theo sự biến diệt.

“Anan, ông xem các pháp có thể làm ra trong thế gian, có cái nào là không hư hoại? Nhưng không hề nghe hư không tan rã. Vì sao thế? Vì hư không chẳng có thể làm ra, do đó trước sau không có hoại diệt. Vậy trong thân ông tướng cứng là Địa Đại, thấm ướt là Thủy Đại, hơi ấm là Hỏa Đại, động lay là Phong Đại. Do bốn cái ràng buộc này mà chia cái Diệu Giác Minh Tâm trong lặng tròn khắp của ông thành ra cái Thấy, cái Nghe, cái Biết, cái Xét Nghĩ. Từ đầu đến cuối tạo thành năm lớp bẩn trược.

“Thế nào là Trược? Anan, ví như nước trong, thanh khiết bản nhiên, còn bụi đất, tro cát kia bản chất là ngăn ngại. Hai bên tự thể như vậy thì không hợp nhau được. Có người thế gian, lấy bụi đất kia, ném vào nước sạch, thì đất mất đi ngăn ngại, nước mất đi trong sạch, hình trạng đục vẩn, gọi đó là Trược. Năm lớp bẩn trược của ông cũng giống như vậy.

“Anan, ông thấy hư không khắp mười phương thế giới. Hư không và cái thấy chẳng phân rời nhau. Có cái không mà không có hình thể, có cái thấy mà không hay biết, đan nhau giả dối mà thành. Đó là lớp thứ nhất, gọi là Kiếp Trược.

“Thân ông hiện nắm giữ bốn Đại làm cái thể, Thấy, Nghe, Hay, Biết bị che bít thành ra ngăn ngại. Còn các thứ Địa, Thủy, Hỏa, Phong lại thành ra hay biết. Đan nhau hư vọng mà thành. Đây là lớp thứ hai, gọi là Kiến Trược.

“Lại trong tâm ông, những sự Nhớ, Biết, Học Tập, phát ra tri kiến, dung chứa hiện ra sáu trần. Rời trần thì không có tướng; rời hay-biết thì không có tánh. Đan nhau hư vọng mà thành. Đây là lớp thứ ba, gọi là Phiền Não Trược.

“Lại tâm ông ngày đêm sanh diệt không ngừng, cái tri kiến thường muốn ở lại thế gian, nhưng nghiệp xoay chuyển thì lại thường dời đi các cõi. Đan nhau hư vọng mà thành. Đây là lớp thứ tư, gọi là Chúng Sanh Trược.

“Cái thấy, cái nghe của ông vốn tánh không khác nhau, mà do các trần cách trở, không do đâu lại sanh ra khác nhau. Trong tánh thì biết nhau, mà trong chỗ dùng lại trái ngược nhau. Cái đồng và cái khác mất chuẩn đích. Xen nhau hư vọng mà thành lập. Đây là lớp thứ năm, gọi là Mệnh Trược.

Thông rằng: Nghĩa thứ nhất là cần rõ con đường phát tâm căn bản, phải xét xem Nhân Địa Phát Tâm với Quả Địa Giác Ngộ là đồng hay khác. Gọi là xét xem thì hẳn phải xét kỹ: Cái gì là căn bản sanh tử, khác với Quả Địa Giác Ngộ; cái gì là căn bản Bất Sanh Bất Diệt, đồng với Quả Địa Giác Ngộ?

Vốn là một cái Diệu Giác Minh Tâm lặng trong tròn khắp, vốn không có sự chẳng đồng, lấy đâu có khác? Chỉ vì dán kín tánh trong lặng mà phát khởi bốn Đại, kết thành sáu Căn. Căn và Trần làm nhiễm ô nhau, tạo thành năm lớp Trược, còn cái Diệu Giác Minh Tâm rời cái bản vị của nó mà chia ra thành Thấy, Nghe, Hay, Biết lưu chuyển trong vòng sanh tử. Cái Thấy Nghe Hay Biết đó, từ đầu cho đến cuối, từ Sắc đến Thức, chẳng rời khỏi phạm vi của năm Ấm, chính là căn bản của sanh tử vậy. Lấy cái này làm Nhân để cầu Phật Thừa thì không thể nào được. Vì sao? Các Pháp có-thể-làm-ra của thế gian đều theo biến diệt, nhưng Hư Không chẳng thể làm ra nên không hư hoại. Độc chỉ Phật không có làm, nên chẳng sa vào các số, đó là Chân Không. Tuy cái hư không của thế gian cũng cần tiêu mất, huống là bốn Đại ở trong thân đều có chỗ để trả về! Cái Thấy Nghe Hay Biết lìa ngoài trần không có tự thể, thì cái hay biết sanh diệt của năm lớp Trược đó lại có thể lấy làm Nhân để tu hành sao?

Nói năm Trược là sao? Sắc thuộc Tướng Phần, Thức thuộc Kiến Phần; nước ví dụ cho Thức, đất ví dụ cho Sắc. Cái thấy và hư không đan kết với nhau, như nước và đất hợp lại nên gọi là Trược.

Khi cái Thấy mới vừa động, chỉ thấy một hư không. Có hư không mà không hình thể, tức là ngoan không. Có cái Thấy mà không hay biết, đó là Vô Minh. Đã có Hư Không khắp mười phương cõi, thì Thành, Trụ, Hoại, Không do đấy mà bắt đầu, nên gọi là Kiếp. Hư Không và cái Thấy chẳng phân chia, nghĩa là Kiến Phần và Tướng Phần xen lộn làm thành Trược, nên gọi là Kiếp Trược, thuộc về Sắc Ấm.

Cái Thấy, Nghe, Hay, Biết vốn không ngăn ngại, do bốn Đại lấp bít nên có ngăn ngại. Đất, Nước, Gió, Lửa vốn không có hay biết, do sự xoay lại của sáu Căn mà có hay biết. Đó là Kiến Phần với Tướng Phần trong thân xen lộn mà thành cái Trược, nên gọi là Kiến Trược, thuộc về Thọ Ấm.

Ở trước, thu nhiếp sáu Căn làm Kiến Đại, ở đây cũng tóm gồm sáu Căn làm cái Thấy. Cái Trược thấy cảnh thì nhận lấy, thu vào, thuộc về năm Thức trước. Ghi Nhớ, Học Tập thuộc về Thức Thứ Sáu. Cái Thấy Biết chính là do Chân Tánh phát khởi, Tánh phát ra mà Biết, cho nên cái Thấy Biết là Thức, không thể gọi là Tánh. Chính là trong cái Ý Tưởng, chứa nhận sáu Trần, hiển hiện bóng dáng gọi là Nội Trần, cũng có thể gọi là tướng. Nội Trần lìa ngoài sáu Trần, tự nó không có thật tướng, lìa ngoài cái Hay Biết, tự nó không có chân tánh. Đó là phiền não, trần lao làm loạn nhiễu cái Tánh Giác trong lặng. Thế nên, cái Hay Biết và Pháp Trần (Nội Trần) xen lẫn mà làm thành Trược, nên gọi là Phiền Não Trược, thuộc về Tưởng Ấm.

Cái Ý Tưởng hiểu biết thì muốn ở mãi thế gian, luyến níu tam giới, điều này cũng dễ biết. Luân hồi, nghiệp lực xoay chuyển thường khiến đổi dời các cõi nước, biến hóa chuyển dời kín nhiệm, không thể dễ biết. Hết thảy chẳng rời ngoài Nhân và Quả của chúng sanh. Cái Hiểu Biết của Ý và hình tướng của chúng sanh lưu chuyển mà thành ra cái Trược, nên gọi là Chúng Sanh Trược, thuộc về Hành Ấm.

Hành Ấm thuộc về Thức Thứ Bảy, cái Trược của nó dễ phân biện ra. Còn Thức Ấm thuộc về Thức Thứ Tám, cái Trược của nó khó biết. Cái Thấy, Nghe, Hay, Biết là từ cái nguồn vốn trong lặng mà phân ra, nên vốn là không khác bản tánh. Sáu Trần thì chẳng đồng, dẫn dắt mà sanh ra sáu Thức; mắt chẳng phân biệt được Tiếng, tai chẳng phân biệt được Sắc, chẳng dùng lẫn cho nhau được, nên sanh ra khác nhau. Bản tánh thì chẳng khác nhau, nên ở trong Tánh vốn là biết nhau. Chỉ có các Trần cách trở, nên ở trong Dụng thì trái nghịch nhau. Tánh vốn chẳng sanh chẳng diệt nên đồng. Chỗ dùng thì hòa hợp với sanh diệt, nên có khác. Chưa chuyển được Thức Thứ Tám thì chưa có Hậu Đắc Trí, nên đối với năm Thức trước chẳng được viên diệu. Thế nên, ở trong Tánh thì vốn rõ ràng biết nhau, mà đến khi dùng ra, lại ngược trái với cái dùng của Như Lai. Bởi vì chuyển chẳng tận nên mất chuẩn đích mà gọi là Thức. Chuyển tận thì không mất chuẩn đích, nên bình đẳng mà gọi là Tánh. Như Lai Tạng vốn Một Tánh, không có hai, Đức Phật y vào chuẩn đích đó mà diệt cái Tâm Sanh Diệt. Còn hàng Nhị Thừa thấy có Tự Tướng và Cọng Tướng, nên ở trong cái Đồng mà mất chuẩn đích. Như Lai Tạng tùy duyên mà hiện Sắc, Không; Đức Như Lai y theo đó mà nói cả hai loại đều Không. Còn hàng Nhị Thừa giữ lấy cái Chân mà chứng cái Diệt, nên ở nơi cái Khác mà mất đi chuẩn đích.

Còn một mảy tơ chưa chuyển hóa, thì mệnh căn vẫn còn, thọ sanh thì đến trước, chết thì dứt đi sau cùng, làm chủ nhân ông. Đây là Tánh và Thức, đan lẫn nhau mà thành cái Trược, gọi là Mệnh Trược, thuộc về Thức Ấm.

Năm lớp Trược này đều chẳng phải thật có, nên gọi là hư vọng mà thành. Như nước trong sạch, nguyên không có đất bụi; hay như đất ngăn ngại, nguyên không có nước. Hai tánh chẳng có hợp theo nhau, vì tâm, cảnh chẳng có đến nhau. Nếu biết Tánh trong lặng vốn không có tính dán kín kia, thì biết Vọng tức là Lìa, Lìa Vọng tức là Giác. Chỉ là một Diệu Giác Minh Tâm vắng lặng tròn khắp, chẳng sa vào Thấy, Nghe, Hay, Biết như nước vốn tự sáng trong, Trược nào có được? Ắt phải rõ suốt cái xưa nay vốn không có Trược, mới có thể làm cái căn nhân chẳng sanh chẳng diệt về sau vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Lương Sơn : “Thế nào là chuyện trước Không Kiếp?”

Tổ Sơn đáp :

“Đánh vang trống Trời Đất

Người đời lắng chẳng nghe”.

Ngài Đơn Hà tụng rằng :

“Hư Không làm trống khắp cần đánh

Người đánh tuy nhiều, ít kẻ nghe

Nửa đêm sọ khô kinh tan mộng

Đầy đầu trăng sáng chẳng lo về”.

Đức Tứ Tổ Đạo Tín, năm mười bốn tuổi đến lễ Đức Tam Tổ Tăng Xán, hỏi rằng : “Xin Hòa Thượng từ bi, ban cho pháp môn Giải Thoát”.

Tam Tổ nói : “Ai trói buộc ông?”

Đáp : “Không ai trói buộc”.

Tam Tổ nói : “Vậy cầu giải thoát làm gì?”

Tứ Tổ ngay dưới lời nói đại ngộ. Đây là chỗ gọi là đại căn, đại khí vậy.

Thiền sư Tư Không Sơn Bổn Tịnh làm bài kệ :

“Thấy Nghe Hay Biết không chướng ngại

Sắc Hương Vị Xúc, thường Tam Muội

Như chim trong không, chỉ thế bay

Không nắm, không bỏ, không thương ghét

Nếu rõ ứng xứ chẳng phải tâm

Mới được gọi là Quán Tự Tại”.

Như Thiền sư Bổn Tịnh ấy thì tuy ở nơi ngũ trược ác thế mà nào từng chẳng sạch?

Kinh : “Anan, nay ông muốn cho cái Thấy, Nghe, Hay, Biết vĩnh viễn khế hợp với Thường Lạc Ngã Tịnh của Như Lai, thì trước hết phải lựa bỏ gốc rễ sanh tử, y theo cái Không Sanh Diệt, thì Tánh trong lặng toàn khắp thành tựu. Dùng cái trong lặng này, mà xoay các thứ Sanh Diệt hư vọng trở về Bổn Giác. Được Tánh không sanh diệt của Bản Giác thuần sáng làm cái Tâm Nhân Địa, như thế mà sau viên thành Quả Địa Tu Chứng. Như lóng nước đục, đựng trong một món đồ để yên lặng, để yên lặng thâm sâu bất động, thì đất cát tự chìm lắng xuống. Nước trong hiện ra ngay trước mặt, gọi là bắt đầu dẹp phục phiền não khách trần. Bỏ hết bùn chỉ còn nước trong, gọi là vĩnh viễn dứt lìa căn bản vô minh. Sáng suốt tinh thuần, tất cả các biến hiện không còn là phiền não, đều hợp với diệu đức trong sạch Niết Bàn.

Thông rằng : Sách Đại Học có câu : “Biết Chỉ rồi sau mới có Định”, mấy chữ này là bí quyết của ngàn Thánh. Đoạn kinh này hợp với câu nói ấy. Ông Lục Tượng Sơn nói : “Tâm này Lý này đồng vậy”, cho nên chẳng phải là lời nói hư dối.

Câu “Trước hết phải chọn ra căn bản sanh tử, y theo cái không sanh diệt, thì Tánh trong lặng toàn khắp thành tựu. Như lóng nước đục, đựng trong món đồ để yên”, là chỗ nói “Biết chỉ rồi sau mới định” vậy.

Câu “Dùng cái trong lặng này mà xoay các thứ Sanh Diệt hư vọng trở về Bổn Giác, như nước yên lặng thâm sâu không động thì đất cát tự chìm, nước trong hiện ra ngay trước mắt”, là chỗ nói “Định rồi sau mới tĩnh”.

Câu “Nước trong hiện tiền, gọi là bắt đầu dẹp phục phiền não khách trần, bỏ hết bùn chỉ còn nước trong, gọi là vĩnh viễn dứt lìa căn bản vô minh”, là chỗ nói “Tịnh rồi sau mới an”.

Câu “Sáng suốt tinh thuần, tất cả các biến hiện không còn là phiền não”, là chỗ nói “An rồi sau mới gặp việc”

Câu “Đều hợp với Diệu Đức trong sạch Niết Bàn”, là chỗ nói “Ứng đối với việc rồi sau mới đắc”.

Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là bốn Diệu Đức của Niết Bàn, chỉ có Phật với Phật mới có thể rốt ráo, nay lấy thấy, nghe, hay, biết mà khế hợp nên gọi là “viễn”, lâu dài.

Trước hết, chọn ra căn bản sanh tử, tuy để chỉ cái nghiệp dụng của năm Trược, nhưng Thức Ấm chính là gốc rễ sanh tử. Thức ấy nương theo cái Chẳng Sanh Diệt hòa hợp với cái Sanh Diệt mà có tên. Nên phải lựa bỏ chủng tử Sanh Diệt mà y theo tánh trong lặng tròn khắp Chẳng Sanh Diệt. Thức Ấm lặng trong không lay động, tựa như chẳng có Sanh Diệt, nhưng trong lặng mà thực ra là căn bản Sanh Diệt. Còn Tánh trong lặng tròn đầy, vốn tự viên thành, chẳng phải do tạo tác, tức là Thật Tế Lý Địa Chân Như vậy. Y theo cái trong lặng tròn đầy này, thì vốn tự là vô sự, bèn ở nơi cái Tánh tròn lặng này mà xoay lại các thứ Sanh Diệt hư vọng. Từ trước kia bao nhiêu công phu Sanh Diệt đều là hư vọng, tuy đến chỗ Sanh Diệt đều hết, cũng là do công phu huân tập mà được, thì chẳng phải là Bản Giác. Thức Ấm xoay về, thì Bản Giác hiện tiền. Cái Bản Giác sáng suốt này, vốn là không có Sanh Diệt, chỉ do phân ra làm Thấy, Nghe, Hay, Biết mà lọt vào trong phạm vi của Thức Ấm, bị Thức Ấm che lấp, chẳng hiển lộ ra được.

Nay Thức diệt, Tánh hiện, bày lại cái Bản Lai Diện Mục của ta. Cái Bản Giác sáng suốt này tức là Thấy, Nghe, Hay, Biết mà chẳng phải là Thấy, Nghe, Hay, Biết. Cái Thấy, Nghe, Hay, Biết có khởi, có diệt, tánh Bản Giác sáng suốt không có khởi diệt. Bởi thế, chẳng lấy Thấy, Nghe, Hay, Biết làm Tâm Nhân Địa, mà lấy Bản Giác sáng suốt làm Tâm Nhân Địa, sau mới viên thành quả vị Bất Sanh Bất Diệt Như Lai. Bốn đức Niết Bàn tức là cái quả chẳng sanh chẳng diệt nên nói rằng hay đoạn khách trần phiền não và căn bản Vô Minh. Nên nói “Tánh sáng thuần”, là như vàng ròng, chẳng trở lại thành quặng, tro chẳng lại thành gỗ, chẳng làm ra phiền não nữa. Bởi thế mà một niệm Vô Sanh, tức là chứng Niết Bàn, tức Nhân tức Quả, tức ngay một lần mà đầy đủ. Có sự “Lý tuy là đốn ngộ, Sự thì dần dần trừ dứt” ấy, là Nhân gồm Thập Tín, cho đến Quả Địa suốt thông, các phần tròn đủ; tóm lại là một tánh Giác Nguyên Minh trọn thành mà thôi vậy.

Tổ Tào Sơn, thấy ông đạo giả Chỉ Y [Chỉ y : áo giấy] bèn hỏi : “Có phải là đạo giả Chỉ Y không?”

Thầy Chỉ Y rằng : “Không dám”.

Tổ Sơn nói : “Như thế nào là công chuyện của Chỉ Y (áo giấy)?”

Thầy Y đáp : “Một cái áo lông vừa khoác lên thân, vạn pháp thảy đều Như”.

Tổ Sơn nói : “Như thế nào là cái Dụng của Chỉ Y?”

Thầy Y tiến lên, ứng : “Dạ”. Bèn đứng mà đi thoát (chết).

Tổ Tào Sơn nói : “Ông đã biết như thế mà đi, sao lại chẳng như thế mà đến?”

Thầy Y bỗng mở mắt hỏi : “Một Chân Tánh nhiệm mầu, khi không mượn bào thai thì như thế nào?”

Tổ Sơn nói : “Vẫn chưa là Diệu”.

Thầy Y nói : “Thế nào là Diệu?”.

Tổ Tào Sơn nói : “Chẳng mượn lấy cái mượn!”

Thầy Y bèn cung kính xuống tăng đường mà ngồi tịch.

Ngài Tào Sơn có bài tụng :

“Giác Tánh sáng đầy, không tướng thân

Chớ đem Thấy Biết vọng sơ, quen

Niệm khác, ngay trong huyền chỉ, tối

Tâm sai, với Đạo chẳng chung gần

Tình phân vạn pháp, chìm tiền cảnh

Thức soi nhiều mối, mất gốc Chân

Như thế, trong câu mà hiểu được

Như nhiên vô sự, bổn lai nhân”.

Lại như Ngài Cửu Phong Kiền, ở chỗ Tổ Thạch Sương làm thị giả. Sau khi Tổ Thạch Sương tịch, đại chúng muốn mời Ông Thủ Tọa nối tiếp làm trụ trì.

Ngài Cửu Phong không chịu, nói: “Đợi tôi hỏi qua đã! Nếu hiểu ý Tiên Sư, thì xin hầu hạ như Tiên Sư vậy”.

Bèn hỏi : “Tiên sư nói “Thôi đi! Hết đi! Một niệm muôn năm đi! Tro lạnh cây khô đi! Lư hương cổ miếu đi! Một vóc lụa trắng đi!” Những thứ khác thì chẳng hỏi, như thế nào là “Một vóc lụa trắng đi!”?”

Thủ Tọa nói : “Đó chỉ là nói rõ một chuyện về bên Sắc”.

Ngài Cửu Phong nói : “Vốn chưa hiểu ý của Tiên Sư”.

Thủ Tọa nói : “Ông chẳng chấp nhận tôi ư?”

Thủ Tọa bèn thắp hương mà nói : “Tôi nếu chẳng hiểu ý của Tiên Sư, thì khói hương bay lên rồi vẫn không thoát đi được!”

Nói xong liền ngồi mà tịch.

Ngài Cửu Phong bèn vỗ vào lưng vị Thủ Tọa mà nói : “Ngồi tịch, đứng chết thì chẳng phải là không có, nhưng ý của Tiên Sư vẫn còn nằm mộng mà thấy!”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Một tông Thạch Sương

Tự trao Cửu Phong

Thắp hương đi thoát

Chánh mạch khó thông!

(Hạc) Lấy trăng làm ổ : ngàn năm mộng!

Nhà tuyết người mê, một sắc công (trình)!

Tọa đoạn mười phương còn bị lộ

Im dời một bước : ngắm rồng bay”.

Thuận Mặc Hòa Thượng tụng rằng :

“Ngồi chi uổng mất một cây hương

Cửu Phong nào có bức cao hiền

Nếu đem một sắc thừa ngôi vị

Cô phụ Tiên Sư chẳng cậy duyên”.

Tổ Thạch Sương dạy chúng có nói rằng : “Chưa từng mất cái chiếu soi, vẫn còn là ngoại thiệu [Nối Pháp theo bên ngoài], chỉ là loại bầy tôi, cũng gọi là mượn. Nếu sanh ra mà mảy lông chẳng hở, như Thái Tử mới sanh ra thì có thể nối ngôi báu, gọi là nội thiệu [Nối ở bên trong], gọi là dòng dõi nhà vua, chẳng cần mượn danh cú vậy”.

Mượn tức là chuyện một bên của một sắc. Kia nguyên chưa được cái Tánh chẳng sanh diệt để làm Tâm Nhân Địa, thế mà muốn viên thành Quả Địa, cùng hợp với Diệu Đức trong sạch của Niết Bàn, thì khó vậy.

A. XÉT RÕ GỐC RỄ PHIỀN NÃO

Kinh: “Cái nghĩa Thứ Hai là, các ông muốn quyết phát tâm Bồ Đề, nơi Bồ Tát Thừa sinh dõng mãnh quyết định quăng bỏ các tướng hữu vi, thì phải xét rõ gốc rễ phiền não: những thứ ấy từ vô thủy đến nay, phát sanh nghiệp và nảy nở ra, là ai làm ai chịu?

“Anan, ông tu đạo Bồ Đề mà không xét kỹ cái Căn Bản Phiền Não thì không thể biết Căn Trần hư vọng điên đảo chỗ nào? Chỗ điên đảo còn chẳng biết thì làm sao hàng phục được chúng mà giữ Như Lai Vị?

Thông rằng: Xét xem cái Nhân Địa Phát Tâm để thể hội cái Chân. Xét xem căn bản phiền não, để dứt hết cái Vọng. Trong cái Vọng lại chẳng có Vọng, tức là Vọng tức là Chân vậy.

Căn bản phiền não có hai thứ: Một là, phát sanh Nghiệp Vô Minh, là phiền não đời quá khứ. Hai là, nảy sanh Vô Minh, là khi đầu thai, đối với cha mẹ mà khởi Thức Tình [Sáu thức trong sáu tình] thương ghét. Cả hai thứ phiền não vốn không có tự tánh. Như biết là vô tự tánh, trọn không có người làm ra, cũng không có người lãnh chịu. Đương thể không tịch, cái gì là phiền não? Người Tiểu Thừa kia, chưa rời công dụng hữu vi, cho là có thật phiền não, cần nên phá trừ. Thế là vì chưa rõ Căn Trần là hư vọng. Như Bồ Tát Thừa thì khác, bước đi ngay trong cái Vô Thượng Bồ Đề, chỉ ở giữa Căn và Trần, xét biết rõ cái gì làm ra, cái gì lãnh chịu, bỗng nhiên phá tan Vô Minh từ vô thủy, lập tức dừng ngay.

Ngài La Sơn Nhàn, trước hỏi Tổ Thạch Sương: “Khi khởi diệt chẳng ngừng thì như thế nào?”

Tổ Sương nói: “Ngay giờ tro lạnh, củi khô đi! Một niệm muôn năm đi! Nắp, rương hợp nhau đi! Sạch ròng không vết đi!”

Ngài La Sơn không hiểu, qua hỏi Tổ Nham Đầu. Tổ Nham quát rằng: “Thế cái gì khởi diệt?”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Chặt đứt dây leo già

Hang bộng chồn đập phá

Báo gặp sương mù mà đổi vằn

Rồng nương sấm sét mà thay cốt

Á!

Khởi diệt lăng xăng đó vật gì?”.

Ở đây mà tỉnh thức, thì chẳng hướng về cửa sáu Căn mà nắm giữ, phân chia quen lạ vậy.

Bàng Cư Sĩ kệ rằng :

“Một bầy sáu tên giặc

Đời đời lừa giết người

Ta nay rõ bay rồi

Chẳng cùng bay gần gũi

Nếu bay chẳng phục ta

Đến đâu ta cũng nói

Dạy người biết hết bay

Nếu bay chịu phục ta

Ta bèn chẳng phân biệt

Cùng bay ở một chỗ

Đồng chứng Vô Sanh Diệt”.

Đây là cái biết chân thật chỗ nào điên đảo, nên hay hàng phục được mà giữ Như Lai vị vậy.

Kinh: “Anan, ông hãy xem người trong thế gian mở nút. Hễ không thấy chỗ thắt nút, thì làm sao biết mở? Nhưng không hề nghe nói hư không bị phá tan. Vì sao thế? Vì hư không không có hình tướng, không có thắt hay cởi vậy. Thì như ông hiện giờ, sáu thứ : Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt cho đến Thân Ý đang làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà. Do thế mà từ vô thủy, thế giới chúng sanh sanh ra ràng buộc ở nơi sự vật thế gian, không thể siêu vượt khỏi.

Thông rằng : Ở trước, lấy ví dụ hư không chẳng hư hoại, nên chẳng sanh diệt. Ở đây, dụ hư không không có thắt nút nên không có phiền não. Hư không còn thế, thì Tự Tánh Chân Không sao lại có phiền não sanh diệt ư? Như bỏ sanh diệt, giữ lấy cái Chân Thường, thì cái ánh sáng thường hằng hiện bày trước mắt, khi ấy Căn, Trần, Thức tiêu mất, thì thế giới chúng sanh còn thể nào sanh trói buộc? Bên trong ánh sáng phát ra thì các trần tướng biến hóa của thế gian tiêu tan như băng gặp nước sôi; tức thời hóa thành Tri Giác Vô Thượng. Thế là nơi sự vật thế gian mà siêu vượt khỏi vậy. Của báu nhà mình là như vậy, sao chẳng tự giữ gìn thương tiếc.

Sáu Thức ở trong, sáu Trần ở ngoài, đều do sáu Căn dẫn dắt tự phát sanh ràng buộc, nên gọi là mai mối cho giặc.

Có nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn : “Bậc Sa môn há chẳng phải là người đầy đủ đại từ, đại bi sao?”

Tổ Tào Sơn nói : “Phải”.

Hỏi : “Bỗng gặp sáu tên giặc cướp đến thì sao?”

Tổ Sơ nói: “Cũng cần đầy đủ đại từ, đại bi”.

Hỏi: “Thế nào là đầy đủ đại từ, đại bi?”

Tổ sơ nói: “Một gươm chém sạch!”

Hỏi: “Sau khi hết sạch rồi thì sao?”

Tổ Sơn nói: “Mới được hòa đồng”.

Lại có nhà sư hỏi Tổ Bửu Phước: “Nhà nghèo nàn mà gặp ăn cướp thì làm sao?”

Tổ Phước nói: “Không thể hết sạch đâu”.

Hỏi: “Vì sao mà không thể hết sạch?”

Tổ Phước nói: “Ăn cướp chính là người nhà”.

Hỏi : “Đã là người nhà, tại sao lại đổi thành ăn cướp của nhà?”

Tổ Phước nói : “Trong đã không có nội ứng, thì ngoài làm gì được?”

Hỏi : “Bỗng nhiên bắt được ăn cướp thì công về đâu?”

Tổ Phước nói : “Thưởng cũng chưa từng nghe”.

Hỏi : “Như thế thì nhọc nhằn mà không có công ư?”

Tổ Phước nói: “Công chẳng phải là không có, nhưng thành mà không có chỗ ở”.

Hỏi : “Đã thành công vì sao không có chỗ ở?”

Tổ Phước nói: “Chẳng có nghe nói: “Thái bình vốn chỗ tướng quân mong. Chẳng để tướng quân thấy thái bình” sao?”

Ở chỗ này có thể biết rằng, mượn công phu để tỏ rõ địa vị thì Tông Môn chẳng phế bỏ, chứ nào từng một mực nói thiền là vô sự không tu gì cả sao?

Kinh : “Anan, thế nào gọi là thế giới chúng sanh? Thế là thời gian dời đổi; giới là không gian phương chốn. Nay ông nên biết rằng những phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới là giới. Quá khứ, vị lai, hiện tại là thế. Phương chốn có mười, sự trôi chuyển có ba. Tất cả chúng sanh dệt cái hư vọng mà hỗ tương thành ra như vậy. Sự đổi dời là ở trong thân, thời gian và không gian gắn bó với nhau. Nhưng tính của giới đó tuy thiết lập ra mười phương, mà rõ ràng có thể xác định nơi chốn của nó. Thế gian chỉ nhận các phương Đông, Tây, Nam, Bắc; phương trên, phương dưới thì không có vị trí rõ ràng; còn phương giữa cũng không có vị trí nhất định. Số bốn của giới đã rõ rồi, hợp cùng với số ba của thế, thì ba nhân bốn, bốn lần ba, xoay chuyển thành số mười hai. Biến đổi ba lớp, từ một chục thành trăm, thành ngàn. Ở trong sáu Căn trước sau bao gồm, mỗi thứ có thể có đến một ngàn hai trăm công đức.

“Anan, ông lại xét trong sáu Căn đó, hơn kém thế nào?

“Như Nhãn Căn xem thấy, phía sau thì tối, phía trước thì sáng, phương trước toàn sáng, phương sau toàn tối, trái phải hai bên, ba phần chỉ được có hai. Tóm lại, công đức của Nhãn Căn không toàn vẹn, trong ba phần thì một phần không có, vậy nên biết Nhãn Căn chỉ có tám trăm công đức.

“Như Nhĩ Căn nghe khắp, mười phương không sót, động thì như có xa, có gần, tĩnh thì không có bờ bến. Nên biết Nhĩ Căn đầy đủ một ngàn hai trăm công đức.

“Thân Căn biết chạm xúc, biết các cảm xúc dễ chịu và khó chịu. Khi hợp thì biết, khi rời thì không biết. Rời chỉ có một phần, hợp thì có hai phần nên nghiệm nơi Thân Căn ba phần thiếu một. Nên biết rằng Thân Căn chỉ có tám trăm công đức.

“Ý Căn lặng chứa hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian trong mười phương, ba đời. Dù Thánh hay phàm, không có cái gì chẳng bao dung cùng tột bờ bến. Nên biết rằng Ý Căn đầy đủ một ngàn hai trăm công đức.

Thông rằng: “Hết thảy chúng sanh dệt cái hư vọng mà hỗ tương thành ra như vậy. Sự dời đổi là ở trong thân, thế và giới gắn bó với nhau”, câu ấy nghĩa là thế giới là sự kết thành của nghiệp lực chúng sanh. Thân là Chánh Báo, thế gian là Y Báo, chỉ do nghiệp quả mà nên dạng hình, làm khách trọ đổi dời, trôi nổi không cùng. Giao thiệp với trần thế, đều do sáu Căn làm môi giới. Trong sáu Căn, mỗi cái đều có một ngàn hai trăm công đức, căn cứ trên tánh hiểu biết thì đồng, còn đối với cái dụng của sáu Căn phân biệt thì có khác, bởi thế mà có đầy đủ và thiếu kém khác nhau.

Ở trước có nói “Khiến ông lưu chuyển thì lỗi lầm là Tâm và Mắt”, thế nên bảy lần hỏi Tâm, tám chỗ trả về, để tỏ rõ cái thấy hư vọng. Ở đây lại tỏ rõ đủ sáu Căn là môi giới cho giặc, nên luận bàn rõ ràng sự hơn kém của sáu Căn ấy. Khiến chọn lấy Nhĩ Căn Viên Thông để làm gốc tu chứng. Nhãn Căn, Tỷ Căn, Thân Căn thì ba phần thiếu đi một, không đầy đủ dung lượng của cái Tánh. Thiệt Căn, Ý Căn, tuy đầy đủ công đức như Nhĩ Căn, nhưng Thiệt Căn thì rơi vào lời nói, Ý Căn thì rơi vào sự suy nghĩ. Chẳng bằng được Nhĩ Căn, không hình tướng, không mùi, rất gần với Tánh Thể, bởi vậy phải nên theo nó vậy.

Lấy không gian giao thiệp với thời gian, gọi là nhân thành ba lớp. Thứ nhất là, bốn phương hướng với ba đời, thành ra mười hai. Thứ hai là, một phương với ba đời, biến thành mười, các phương khác cũng thế, cọng thành một trăm hai mươi. Thứ ba là, một phương từ mười biến thành một trăm, các phương khác cũng như vậy, cọng thành một ngàn hai trăm. Số của thời gian là số ba, nên nhân ba lần. Không gian phương hướng có mười, nên một biến thành mười. Đó là con số của tự nhiên. Trong Kinh Dịch, số đại diễn là năm mươi, lấy năm nhân mười, lấy mười nhân năm, cũng giống như phép này. Chỗ dùng của Thánh nhân trước sau đồng một đường lối.

Mỗi phương có hai trăm công đức, mỗi phương phụ có một trăm công đức. Tóm lại, mỗi phương có ba trăm công đức. Nay Nhãn Căn thấy ba phương chính phía trước và hai bên thì có sáu trăm công đức, cộng với hai phương phụ phía trước là hai trăm, thành có sáu trăm công đức. Còn ở phía sau thiếu một phương chính (hai trăm) và hai phương phụ (một trăm nhân hai) không thấy được. Thật ra, thì sáu Căn mà trong sạch, có thể dùng thay cho nhau. Như trong kinh Hoa Nghiêm, y theo kinh mà tu hành, nếu đã phát ra được cái giải tương tự, thì tuy nhãn Căn chỉ có tám trăm công đức, cũng đầy đủ bao nhiêu công đức như năm Căn kia. Còn nếu sáu Căn làm mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà, thì đan dệt hư vọng mà đổi dời, không còn bờ bến. Cho nên, tu thì công đức vốn vô cùng, không tu thì nghiệp quả cũng vô cùng vậy.

Tổ Pháp Nhãn thượng đường nói: “Người xưa nói: “Thế nào là Thiền? Ba cõi đăng đẳng! [Không hở sót] Thế nào là Đạo? Mười phương mênh mông!” Vì sao nói ba cõi đăng đẳng? Đâu là mười phương mênh mông? Cái đạo lý ấy thể hội được chăng? Lấp mắt đi, lấp tai đi, lấp hết lưỡi, thân, ý! Chỗ nào thiếu hụt? Chỗ nào động lay? Các Thượng Tọa hiểu làm sao? Ngang cũng chẳng được, dọc cũng chẳng được, bỏ cũng chẳng được, nắm cũng chẳng được, không có chỗ dụng tâm, cũng không có chỗ bày vẽ! Nếu hiểu được như thế, mới thấu hiểu pháp môn tuyệt hết chọn lựa, cả thảy ngữ ngôn dứt rỉ chảy!”

“Từng có nhà sư hỏi: “Thế nào là lời tuyệt hết rỉ chảy?” Trả lời cho nhà sư rằng: “Miệng giống như lỗ mũi thì rất phải”. Các Thượng Tọa như hiểu được chỗ này, thì tự nhiên rỗng suốt. Như tỏ suốt được, thì hết mười phương thế giới là tròng mắt Kim Cang. Hãy vô sự! Trân trọng”.

Lại còn thiền sư Hoàng Long Chấn thượng đường nói: “Nêu ra cái nhân duyên của người xưa hỏi thầy Xà Lê, thầy chẳng được lấy theo xưa mà hiểu. Nếu lấy theo xưa mà hiểu thì mất đi con mắt hiện giờ. Nêu ra cái nhân duyên hiện giờ hỏi thầy Xà Lê, thầy không được lấy theo hiện giờ mà hiểu. Nếu lấy theo hiện giờ mà hiểu, thì ngăn che con mắt xưa nay của thầy. Dù cho chẳng mất đi, chẳng ngăn che, chẳng phải xưa, chẳng phải nay, thì cũng còn là thuốc với bệnh trị lẫn nhau, là lời nói dỗ cho hết khóc! Còn như một câu thấu thoát, thầy Xà Lê nói được chăng? Nếu không nói được, hãy đợi nói chuyện Thực Tướng với La Hán Phong, rồi sẽ nói cho mấy thầy”.

Các lời nói ở trên, tuy chỉ riêng tỏ rõ việc hướng thượng, mà lại cùng kinh này khai phát. Liền được Miệng giống như lỗ mũi, Mắt tựa lông mày, sáu Căn không chỗ nương gởi, bèn chứng cái nhiệm mầu của Vô Sanh. Đến khi Hết cả đại địa là một con mắt lẻ của Sa Môn, thì lại không còn chỗ nào để nuốt hay nhả. Cái công đức này há có thể lấy chuyện thế gian mà cầu được ư?

Kinh: “Anan, nay ông muốn ngược dòng Ái Dục sanh tử trở lại cùng tột của sự lưu chuyển, đến chỗ Không Sanh Diệt, thì phải nghiệm xét sáu Căn đang thọ dụng đây: cái nào là hợp, cái nào là lìa, cái nào sâu, cái nào cạn, cái nào viên thông, cái nào chẳng viên mãn. Nếu ở chỗ đó ngộ được Căn viên thông, ngược dòng nghiệp từ vô thủy dệt đan hư vọng, theo được Tánh viên thông, thì so với cái Căn không viên thông, thật là gấp bội, như một ngày so với một kiếp. Nay Ta đã hiển bày đầy đủ những công đức vốn có của sáu Căn trong lặng, tròn sáng, số lượng là như vậy. Tùy ông chọn cho kỹ, cái nào có thể vào, ta sẽ phát minh khiến ông tăng tiến.

“Mười phương Như Lai, nơi mười tám giới, mỗi mỗi đều tu hành mà được Vô Thượng Bồ Đề tròn đủ, trong các giới đó, không có chỗ nào hơn kém. Chỉ vì ông có thấp kém, mà ở trong ấy chưa tròn cái Huệ Tự Tại được. Thế nên, ta nêu lên khiến ông chỉ cần ở nơi một Căn mà thâm nhập. Nhập Một thì không có vọng, cả sáu Căn kia cùng lúc thanh tịnh.

Thông rằng : Cái gốc của sự lưu chuyển tức là cái Diệu Trạm Bất Động vậy. Tách ra khỏi cái ấy, thì trôi lăn theo cảnh, gọi là dòng sanh tử. Nghịch lại mà nhập vào, ngược dòng vẹn tròn cái Một, gọi là Chẳng Sanh Diệt. Sanh diệt là vọng, chẳng sanh diệt thì không vọng. Sáu Căn thọ dụng, tuy là liên quan với vọng mà bày tỏ công đức, thật vốn là một Tinh Minh phân ra, đồng một Tánh trong lặng tròn sáng vậy. Chỉ cần thâm nhập một cửa, đạt thẳng đến chỗ bản nguyên, theo tánh viên thông, chẳng sanh ràng buộc, nhiếp phục được tâm bám níu trước kia, nhập Phật Tri Kiến, thì sáu Căn thọ dụng đều thành diệu dụng.

Đức Lục Tổ dạy: “Nếu khởi cái chân chánh Bát Nhã quán chiếu, trong khoảng sát na vọng niệm đều tan hết. Như biết tự tánh, một ngộ liền đến Phật địa. Thiện Tri Thức! Trí Huệ quán chiếu, trong ngoài sáng suốt, thấu suốt từ Bổn Tâm. Nếu thấu suốt Bản Tâm tức là giải thoát. Giải thoát, đó là Bát Nhã Tam Muội. Bát Nhã Tam Muội, tức là Vô Niệm. Sao gọi là Vô Niệm? Như thấy tất cả pháp, tâm chẳng nhiễm trước, đó là Vô Niệm. Dùng bèn khắp tất cả chỗ, mà cũng chẳng bám luyến chỗ nào. Trong sạch lấy Bổn Tâm, khiến sáu Thức ra sáu cửa, ở trong sáu Trần mà không nhiễm, không lẫn lộn; đến đi tự do, suốt dùng không mắc vướng, tức là Bát Nhã Tam Muội, tự tại giải thoát, gọi là Hạnh Vô Niệm”.

Lời nói này của Đức Lục Tổ, theo Ý Căn mà vào, nối tiếp thẳng từ môn phong của Đức Ca Diếp.

Tổ Ngưỡng Sơn ở Tổ Quy Sơn, đang chăn trâu trước sườn núi, thấy một nhà sư lên núi, không bao lâu lại xuống.

Tổ Ngưỡng Sơn hỏi : “Thượng Tọa sao không ở lại trong núi?”

Nhà sư đáp : “Chỉ vì nhân duyên chẳng khế hợp”.

Tổ Ngưỡng nói : “Có nhân duyên nào, ông thử nêu ra đi!”

Đáp : “Hòa Thượng hỏi tôi tên gì. Tôi nói “Quy Chơn”. Hòa Thượng nói “Quy Chơn ở chỗ nào?” Tôi không đáp được”.

Tổ Ngưỡng nói : “Thượng Tọa hãy trở lại thưa với Hòa Thượng : “Tôi nói được”. Hòa Thượng hỏi “Nói làm sao?” Thì chỉ trả lời “Trong mắt, trong tai, trong mũi!””

Nhà sư trở lại, làm như lời chỉ dặn.

Tổ Quy Sơn nói : “Gã nói láo buông tuồng! Đây là lời nói thiện tri thức của năm trăm người”.

Thiền sư Bàn Am Thành thượng đường nói :

“Trong mũi là tiếng, trong tai hương

Trong mắt mặn lạt, lưỡi đen vàng

Ý thì cảm giác, thân phân biệt

Nhà tuyết như xuân, hạ mát trong”.

Thấy được như vậy, mới biết rằng trong thân nam nhập định thì trong thân nữ xuất định. Hoa quỳ theo mặt trời mà xoay chuyển, vằn con tê giác do ngắm trăng mà sanh! Cây Hương Phong thành ông lão; con sâu thành trái quả-lỏa. Nếu mà chẳng biết, khổ thay cho Phật! Cho phép các ông đầy đủ “Một con mắt lẻû!”

Quả như chỗ thấy của các vị tôn túc, mới được cái tin tức của sáu Căn thanh tịnh.

Kinh : Ông Anan bạch Phật : “Thưa Thế Tôn! Làm sao ngược dòng vào sâu một Căn lại có thể khiến cho sáu Căn cùng một lúc đều thanh tịnh?”

Phật bảo Ông Anan: “Ông nay đã đắc quả Tu Đà Hoàn, đã diệt được Kiến Hoặc của chúng sanh thế gian ba cõi, nhưng còn chưa biết những tập khí hư vọng chứa nhóm trong Căn từ vô thủy. Các tập khí kia cần phải nhờ tu mới đoạn trừ được. Huống chi, những phân loại, số mục “Sanh, Trụ, Dị, Diệt” ở trong đó.

Thông rằng: Kiến Đạo đoạn tám mươi tám Kiết Sử; Tu Đạo đoạn tám mươi mốt cái Tư Hoặc. Sơ quả Tu Đà Hoàn tuy đoạn hoặc phân biệt chỗ thô, vẫn còn tế hoặc câu sanh chưa đoạn, nên chưa chứng đến biên giới của Khổ. Chứng được Khổ Biên tế cho đến địa vị Vô Học, thì không những biết các phân loại, số mục Sanh, Trụ, Dị, Diệt của một hữu tình, mà còn hành tướng vi tế của hết thảy hữu tình và vô tình trong tam thiên đại thiên thế giới. Sự tỏ suốt cùng cực này, hẳn là do sự đoạn trừ do tu hành mà được vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Quy Sơn: “Người đốn ngộ lại còn tu nữa không?”

Tổ Quy Sơn nói: “Nếu thật ngộ được cội gốc, thì người ấy tự biết, khi ấy tu và không tu chỉ là lời nói hai đầu. Như nay tuy nhờ duyên mà được Sơ Tâm, một niệm đốn ngộ cái Lý ở nơi mình, nhưng còn tập khí từ vô thủy kiếp, chưa thể nhanh chóng thanh tịnh. Cần dạy người ấy tịnh trừ các hiện nghiệp lưu chứa nơi Thức, tức là tu vậy. Không có riêng pháp nào để dạy người ấy hướng theo tu hành nữa.

“Từ chỗ Nghe nhập vào Lý, cả cái Nghe lẫn cái Lý đều bày hiện nhiệm mầu, tâm tự tròn sáng, chẳng ở trong chỗ mê lầm. Dù có trăm ngàn diệu nghĩa, chế phục đương thời, cũng chỉ mới được ngồi mà mặc áo, phải tự hiểu làm ra kế sống mới được. Nói tóm lại, ở nơi Thật Tế chẳng thọ nhận một mảy trần, nhưng trong cửa muôn Hạnh không bỏ một pháp. Như một đao xông suốt vào, thì tình phàm ý Thánh đều hết ráo, thể lộ Chân Thường, Lý Sự không hai, tức Như Như Phật”.

Phàm Lý Sự chẳng hai, chẳng phải tu, chẳng có chứng. Tổ Quy Sơn hết lời bày tỏ một đường tối thượng. Nào có quét dẹp hết tiệm tu, mà lại chẳng cần phương tiện trợ giúp.

Kinh: “Nay ông hãy xem sáu Căn hiện giờ là Một hay là Sáu?

“Anan, nếu nói là Một thì sao Tai chẳng thấy, Mắt chẳng nghe, Đầu sao chẳng đi, Chân sao chẳng nói?

“Nếu sáu Căn nhất định là Sáu, thì như nay trong hội này, ta đang tuyên dương pháp môn vi diệu cho ông, trong sáu Căn của ông cái nào đang lãnh nhận?”

Anan thưa: “Tôi dùng Tai nghe!”

Phật dạy: “Tai ông tự nghe, thì liên quan gì đến Miệng và Thân, mà Miệng lại hỏi nghĩa, còn Thân thì lại đứng dậy kính vâng! Thế nên phải biết, chẳng phải Một mà cuối cùng thành Sáu, chẳng phải Sáu mà cuối cùng thành Một. Rốt cuộc cái Căn của ông, vốn chẳng phải là Một, hay là Sáu. Chỉ vì do từ vô thủy đến nay, điên đảo kết nhóm, nên ở nơi Tánh trong lặng tròn khắp mà sanh ra cái nghĩa Một và Sáu. Ông là Tu Đà Hoàn, tuy được cái Sáu đã tiêu, mà chưa mất hết cái Một.

“Như hư không bao la, tham hợp với các vật dụng, do vật dụng có hình dáng khác nhau, mà gọi là hư không có khác nhau! Nếu trừ bỏ các vật dụng mà xem hư không, thì nói là hư không là một. Hư không bao la kia đâu có vì ông mà thành đồng hay chẳng đồng, huống gì lại gọi đó là một hay chẳng phải một. Thế thì sáu Căn thọ dụng hay biết của ông, cũng lại như thế.”

Thông rằng: Chỗ này chính là giải nghĩa chỗ nghi về “Vào sâu một Căn, thì sáu Căn đồng thời thanh tịnh”. Nếu sáu Căn nguyên là một, vốn tự thanh tịnh, thì sao lại là sáu tên giặc? Nếu sáu Căn nguyên là sáu, chẳng có thể dùng thay cho nhau, thì làm sao có thể thanh tịnh cùng một lúc? Nay như hư không vốn là một, mà tham hợp với những vật dụng thì thành sáu. Do các vật dụng hình dáng khác nhau mà gọi là có những hư không khác nhau, rồi gọi đó là sáu chứ không phải là một. Nếu dẹp hết vật dụng, nhìn xem hư không, thì nói hư không là một, cho là cái sáu tiêu rồi, chỉ còn lại cái một. Đây là để ví dụ về nghĩa phát sanh của một và sáu. Hư không bao la kia nào có hòa hợp gì với hình thể của vật dụng, vốn chẳng phải là đồng, là khác. Đã không có chuyện đồng hay khác thì chỗ nào mà lập ra cái tên sáu với một? Đây là để ví dụ vốn chẳng có gì là một hay sáu. Khi thấy ra vốn chẳng phải là một hay sáu, trong lặng tròn đầy, xưa nay tịch diệt, thì có chỗ nào mà chẳng thanh tịnh đâu?

Tu Đà Hoàn, gọi là Nhập Lưu, vào dòng, mà không có chỗ nhập. Chẳng nhập vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp tức là cái sáu tiêu tan. Nhưng còn chấp là có Niết Bàn ở đâu đó, nên chưa mất đi cái Một. Cái Một từ chỗ nào tới? Hư không từ chỗ nào khởi ra? Thế mới biết đã “Hướng thượng” mà lại còn có chuyện!

Tổ Dược Sơn hỏi Ngài Vân Nham: “Ngoài chỗ Bá Trượng ra, ông còn đến chỗ nào?”

Đáp: “Có từng đến Quảng Nam”.

Tổ Sơn nói: “Nghe nói ngoài cửa Đông thành Quảng Châu có một tảng đá bị Quan Châu dời đi, có thật không?”

Ngài Nham nói: “Không những Quan Châu, mà hết thảy người trong nước dời cũng chẳng động”.

Tổ Dược Sơn lại hỏi: “Nghe nói ông biết giỡn đùa làm trò với sư tử, có phải không?”

Đáp : “Phải”.

Hỏi : “Làm trò được mấy xuất?”

Đáp : “Làm trò được sáu xuất”

Tổ Sơn nói : “Ta cũng làm trò được”.

Hỏi : “Hòa Thượng làm trò được mấy xuất?”

Tổ Sơn nói : “Ta làm trò được một xuất”.

Ngài Nham nói : “Một tức sáu, sáu tức một”.

Sau Vân Nham đến Tổ Quy Sơn, Tổ hỏi: “Có nghe Trưởng Lão ở chỗ Dược Sơn làm trò giỡn sư tử, có thật không?”

Đáp : “Thật”.

Hỏi: “Giỡn hoài hay có lúc dẹp bỏ?”

Ngài Nham nói: “Muốn giỡn thì giỡn, muốn dẹp thì dẹp”.

Hỏi: “Khi dẹp thì sư tử ở chỗ nào?”

Ngài Nham nói: “Dẹp hết, dẹp hết vậy”.

Cần biết Ngài Vân Nham giỡn sư tử, chứ không phải giỡn với tinh hồn, vì Ngài có tảng đá mà người cả nước đẩy xô chẳng động.

Kinh: “Do hai thứ Sáng và Tối bày tỏ lẫn nhau trong Tánh tròn đầy nhiệm mầu, mà dính che tánh trong lặng, phát ra cái Thấy. Cái Kiến Tinh dọi ra cái Sắc, kết Sắc thành Căn. Gốc Căn gọi là bốn Đại thanh tịnh. Nhân gọi là hình thể con mắt, như trái bồ đào. Phù căn bốn trần, rong ruổi chạy theo Sắc.

“Do hai thứ Động và Tĩnh đối chọi lẫn nhau trong Tánh tròn đầy nhiệm mầu, mà làm dính che Tánh trong lặng, phát ra cái Nghe. Cái Thính Tinh phóng dọi cái Tiếng, cuộn xếp cái tiếng lại thành Căn. Gốc Căn gọi là bốn Đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái tai, như lá mới cuốn. Phù căn bốn trần, rong ruổi chạy theo Tiếng.

“Do hai thứ Thông và Bít phát hiện lẫn nhau trong Tánh tròn đầy nhiệm mầu, mà làm dính che Tánh trong lặng, phát ra cái Ngửi. Cái Ngửi phóng dọi ra Hương, thu nạp cái Hương thành Căn. Gốc Căn gọi là bốn Đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái mũi như hai móng tay rủ xuống. Phù căn bốn trần, rong ruổi chạy theo Hương.

“Do hai thứ Nhạt và Có Vị xen phát lẫn nhau trong Tánh tròn đầy nhiệm mầu, mà làm dính che Tánh trong lặng, phát ra cái Nếm. Cái Nếm phóng dọi ra Mùi Vị, thắt cái Vị thành Căn. Gốc của Căn gọi là bốn Đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái lưỡi như vành trăng non. Phù căn bốn Trần, rong ruổi chạy theo Vị.

“Do hai thứ Lìa và Hợp so sánh lẫn nhau trong Tánh tròn đầy nhiệm mầu, mà làm dính che Tánh trong lặng, phát ra cái Biết Xúc Chạm. Cái Biết Xúc Chạm phóng dọi ra thành Xúc, ôm nắm cái Xúc lại thành Căn. Gốc Căn gọi là bốn Đại thanh tịnh, nhân gọi là hình thể cái thân như cái trống cơm. Phù căn bốn trần, rong ruổi chạy theo Xúc.

“Do hai thứ Sanh và Diệt, nối tiếp lẫn nhau trong Tánh tròn đầy nhiệm mầu, mà làm dính che Tánh trong lặng, phát ra cái Biết. Cái Biết phóng dọi ra thành các pháp, tóm thu các pháp thành Căn. Gốc Căn gọi là bốn Đại thanh tịnh, nhân gọi cái Ý như cái thấy trong phòng tối. Phù căn bốn trần, rong ruổi chạy theo pháp.

Thông rằng: Nguyên nương y một Tinh Minh, chia thành sáu cái hòa hợp, ở đây mà thấy rõ. Từ nguyên do kết tạo ra sáu Căn cho đến cách thế rong ruổi chạy theo Trần, đều đầy đủ chi tiết. Ở đây cũng như chỗ ví dụ trước về hư không bao la tham hợp với các vật dụng. Cái Thể Tinh Minh, Sắc gặp thì thành cái Thấy, Tiếng gặp thì thành cái Nghe. Thế sao là Tánh tròn đầy mầu nhiệm?

Thật cũng như nước lặng trong mà bởi có bụi rớt vào mà thành dính che vậy.

Bốn Đại thanh tịnh tỏ rõ cái Căn thắng nghĩa, hay soi chiếu Cảnh mà phát ra cái Thức, là Sắc Căn trong sạch. Phù căn bốn trần để tỏ rõ cái Căn phù trần, hay rong ruổi chạy theo trần tướng, đủ thứ nghiệp. Tánh của Đất, Nước, Lửa, Gió tất cả vốn là Không, nên gọi là bốn Đại trong sạch. Tướng của Đất, Nước, Lửa, Gió vốn là lay động, nên nói bốn trần như cái thấy trong phòng tối. Sao có được phù căn bốn trần? Bởi mê muội thành ra hư không, trong cái hư không mê muội đó, kết cái Tối làm hình Sắc. Cái Sắc tối tăm này xen lẫn với Vọng Tưởng, nhóm các duyên mà lay động bên trong. Vì có cái Tối để thấy nên gọi là Phù Căn. Vì có lay động nên gọi là Trần. Như trong năm loại Sắc, cái Sắc vô hình là do chỗ thọ nhận mà dẫn phát ra, rồi cũng cái Thọ nhớ giữ. Căn chìm vào bên trong, Trần nổi ra bên ngoài. Trần là cái chỗ để nương sao lại nói là rong ruổi? Vì, nêu lên cái Sở Y để hiển cái Năng Y vậy.

Thiền sư Phổ An có bài kệ :

“Vê chẳng thành viên, đập chẳng rời

Nào cần Nam Nhạc với Thiên Thai

Đầu cửa sáu căn không người dụng

Có chuyện Hồ Tăng [Tổ Đạt Ma] đến tự Tây ?”.

Có nhà sư ở Tổ Bửu Phước đến Tổ La Hán Sâm.

Tổ Sâm hỏi: “Phật Pháp ở đấy chỉ dạy người ta như thế nào?”

Nhà sư đáp: “Ngài Bửu Phước có lần dạy chúng rằng : Bịt đi mắt ông, dạy ông nhìn mà chẳng thấy! Lấy đi tai ông, dạy ông lắng mà chẳng nghe! Giữ chặt ý ông, dạy ông phân biệt chẳng được!”

Tổ Sâm nói: “Ta hỏi ông: Không bịt mắt ông, ông thấy cái gì? Không lấp tai ông, ông nghe được cái gì? Không giữ chặt ý ông, ông làm thế nào để có sự phân biệt?”

Nhà sư nghe xong tỉnh ngộ.

Đó là ở chính nơi đầu cửa sáu Căn thấy được lối vào, bèn thấy ngay một đoạn chân phong là Tánh tròn đủ nhiệm mầu.

Lại có nhà sư, nghe một khúc trong cuốn Tây Sương Ký, “Nào ngăn được lúc đi. Khóe mắt đâu chuyển động”, bèn đại khế ngộ.

Há phải đợi Hồ Tăng từ Tây đến sao?

Kinh: “Anan, sáu Căn như vậy do tánh Giác Minh kia, có cái Minh mà thành Minh Giác, mất đi tánh thuần túy tỏ biết, dính với cái Vọng mà có ra cái Hay Biết. Do đó mà nay ông rời Tối rời Sáng thì chẳng có cái Thấy ở đâu cả. Rời Động, rời Tĩnh thì không có cái Nghe ở đâu cả. Không có Thông, không có Bít, thì cái Ngửi chẳng sanh. Chẳng Mùi, chẳng Nhạt, thì cái Nếm chẳng ở đâu mà có. Không Rời, không Hợp thì Cảm Giác vốn không. Không Diệt không Sanh, thì cái Hay Biết có ở chỗ nào?

“Ông chỉ không theo mười hai Tướng hữu vi động tĩnh, lìa hợp, nhạt vị, thông bít, sanh diệt, sáng tối kia, mà tùy đó nhổ rứt một Căn ra khỏi cái dính, phục về bên trong, trở lại nguồn chân, phát ra cội nguồn sáng suốt chói rực. Cái Bổn Tánh chói rực đã hiện ra rõ ràng thì năm cái dính kia cũng bứt ra, giải thoát hoàn toàn. Khi đó, cái hay biết có mà chẳng do tiền trần, vốn sáng suốt mà chẳng theo căn, cái sáng suốt chỉ gởi ở nơi Căn mà chiếu sáng. Bởi thế sáu Căn có thể dùng thay lẫn nhau.

Thông rằng: Đoạn trước nói: “Biết rõ cái Vọng chẳng phải cái gì khác, mà lỗi là cái Giác Minh. Cái Sở Minh đã vọng lập ra, thì cái Minh chẳng thấu thoát, mà hạn cuộc nơi Căn”.

Đoạn này nói: “Do tánh Giác Minh kia, có cái Minh mà thành Minh Giác, mất đi tánh thuần túy tỏ biết, dính với cái Vọng mà có ra cái Hay Biết, chạy theo Trần Tướng”.

Cả hai đoạn bày rõ sáu cái Căn hư vọng thành tựu là do phân chia Tánh trong lặng tròn đầy kia, cái Hay Biết thuần túy ban đầu phóng dọi ra mà có! Thế nên, vốn là tánh Minh Diệu chân thật, mà ở trong chẳng lìa khỏi Căn, bên ngoài chẳng thể rời Trần, bèn bị Căn Trần che lấp, không còn chỗ nào hiển lộ.

Phải biết sáu Trần là hư vọng, vốn không có tự tánh. Sáu Căn là hư vọng vì lìa ngoài Trần thì không có tự thể. Trần không có tự tánh, nên cũng có thể dính kín, mà cũng có thể ra thoát vậy. Căn thì không tự thể, nên có Cảnh thì bèn có, không có Cảnh thì bèn không.

Luận Bát Thức Quy Củ nói: Bậc Nhị Địa chỉ trụ ở ba thứ : Nhãn, Nhĩ, Thân gọi là Sơ Thiền của Sắc Giới. Không ăn bằng cách nhai, nên Thiệt Thức chẳng khởi. Không có các thứ tạp uế, nên Tỷ Thức chẳng sanh. Độc chỉ trụ trong ba cái Thức của Mắt, Tai và Thân. Đến Đệ Tam Địa, vì do Định sanh nên ba cái Thức Mắt, Tai và Thân cũng không khởi lên.

Chỗ này tức là trừ bỏ vật dụng mà thấy hư không, thì hư không cũng làm gì có? Thế nên, biết một hay sáu đều là hư vọng ráo, còn chẳng phải một, chẳng phải sáu mới là có chút chân thật. Cái Vọng nép phục tức là cái Chân hiện. Chân hiện thì Vọng không còn dính. Đã thoát khỏi sự dính, thì cái sáng chói rực rỡ phát ra mà chẳng do Trần tướng khởi. Đã chẳng do Trần thì đó là cái Chân Thật, xưa nay vốn sáng suốt chẳng phải từ Căn ra, là Tánh sáng lặng, tròn đầy vậy.

Tuy chẳng theo Căn mà có, nhưng nương gởi ở Căn mà phát ra ánh sáng đó thôi. Căn gọi là nương gởi, vì nguyên là không có vị trí nhất định. Thế nên, Nghe chẳng phải nhất định ở Tai, Thấy không nhất định ở Mắt, mà sáu Căn có thể dùng thay lẫn cho nhau, chứ không như trước kia : sự Nghe chẳng ra ngoài Tiếng, Thấy chẳng vượt khỏi Sắc, tự sanh ràng buộc, chẳng thể siêu việt được.

Đức Phật Tỳ Xá Phù có kệ:

“Giả mượn bốn Đại để làm thân

Tâm vốn vô sanh, nhân cảnh có

Tiền cảnh là không, tâm cũng không

Tội phước như huyễn, khởi cũng diệt”.

Đoạn kinh trên là chú giải của bài kệ này vậy.

Có nhà sư hỏi Thiều Quốc Sư: “Theo trong giáo pháp có lời dạy : Mắt chẳng thấy sắc trần. Ý chẳng biết các pháp. Như thế nào là mắt chẳng thấy sắc trần?”

Quốc Sư nói: “Đó là lỗ tai thấy!”

Hỏi: “Như thế nào là ý chẳng biết các pháp?”

Quốc Sư nói: “Con mắt biết”.

Hỏi: “Như vậy thì thấy nghe bặt đường, mà thanh, sắc vẫn náo động?”

Quốc Sư nói: “Ai nói với ông ?”

Rồi nói: “Phàm tất cả vấn đáp như mũi kim đối nhau, không mảy tơ sai khác. Sự không gì chẳng thông suốt, Lý không đâu chẳng đủ. Bởi vì tất cả ngôn ngữ, tất cả tam muội, ngang dọc, cạn sâu, ẩn hiện, đến đi, chính là Thực Tướng của Chư Phật. Chỉ cứ như giờ đây tức thời nghiệm lấy”.

Hòa Thượng Định Huệ Tín hỏi một nhà sư: “Quốc Sư Huệ Trung nói vô tình thuyết pháp. Các vị tôn túc phương Nam bàn luận như thế nào?”

Nhà sư nói: “Khắp cả đều là sáu căn dùng thay nhau”.

Ngài Huệ Tín nói : “Trong kinh nói: Vô Nhãn, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý. Lấy cái gì dùng lẫn cho nhau?”

Nhà sư định suy nghĩ, Ngài bèn đánh.

Như Ngài Huệ Tín mới là hỗ dụng hiện tiền, còn vượt Thiều Quốc Sư bảy bước!

Kinh: “Anan, ông há chẳng biết ngay ở trong hội này, Ông A Na Luật Đà không có Mắt mà thấy; rồng Bạt Nan Đà không có Tai mà nghe; thần nữ Căng Già không có Lưỡi mà biết mùi vị; thần Thuấn Nhã Đa không có Thân mà biết cảm giác, trong hào quang Như Lai chiếu ra, làm cho tạm hiện ra có thân, chứ bản chất của ông là gió làm gì có thân thể? Các vị Thanh Văn được tịch diệt ở trong Diệt Tận Định, như Ông Ma Ha Ca Diếp trong hội này, diệt mất Ý Căn từ lâu mà vẫn hiểu biết tròn vẹn sáng suốt, không do ở tâm niệm”.

Thông rằng: Kinh nói, “Vốn sáng suốt mà chẳng theo Căn”, cho đến việc “Sáu Căn dùng thay nhau”, ở chỗ nào mà nghiệm? Ông Luật Đà được nửa cái Thiên Nhãn nên không cần nhờ con Mắt. Rồng lấy sừng nghe nên chẳng cần đến Tai. Thần sông Căng Già ngửi Hương vốn chẳng dùng Mũi. Ông Bạt Đề lưỡi trâu mà vẫn phân biệt các Vị. Thần Thuấn Nhã không thân mà vẫn có xúc giác. Các vị Thanh Văn đã chứng Diệt Tận Định, như Đại Ca Diếp, đã diệt mất Ý Căn từ lâu.

Do đó mà biết sáu Căn có thể không có, thì vốn chẳng phải là sáu. Sáu Căn có thể dùng thay cho nhau, thì vốn chẳng phải là một. Chẳng phải một, chẳng phải sáu, mà cái Thể trong lặng tròn đầy kia, ai ai cũng sẵn đủ, há chẳng ở nơi đây mà càng tự tin lấy sao?

Ngài Phổ Dung Trí Tạng đến chỗ Ngũ Tổ Pháp Diễn đang nhập thất, Tổ đem chuyện Thảnh Nữ [Chuyện Cô Thảnh Nữ lìa hồn như sau: Đời Đường có ông Trương Giật, có con gái là Thảnh Nương, đã hứa gả cho cháu là Vương Trụ. Lớn lên, định gả cho nơi khác. Vương Trụ bỏ đi. Nửa đêm thấy Thảnh Nương tới. Hai người ở với nhau có hai con. Sau năm năm, Vương Trụ đưa vợ con về thăm nhà để xin lỗi. Ông Giật rất kinh ngạc, vì cô Thảnh vẫn ở nhà từ trước đến giờ, và nằm bệnh đã năm năm. Hai cô gặp nhau thì nhập thành một] lìa hồn mà hỏi. Ngài liền khế ngộ, làm bài kệ:

“Hai cô hợp thành một cô dâu

Cuộc đời ngăn đứt, khó gặp nhau

Từ đây qua lại không tung tích

Lúc đến, người đi chớ hỏi đường!”.

Ông Trương Tử Thiều đến Tổ Kính Sơn, cùng với ông giúp việc trong chùa đàm luận về “Cách Vật”.

Tổ Kính Sơn Huệï nói: “Ông chỉ biết có Cách Vật mà không biết có Vật Cách”.

Ông Thiều ngơ ngác. Tổ Huệ cười lớn.

Tử Thiều hỏi: “Thầy có thể đem ra thí dụ được chăng?”

Tổ Huệ nói: “Không thấy trong tiểu thuyết có chép: Đời Đường, có người làm quan Lang Thủ cùng An Lộc Sơn mưu phản. Khi vua Đường Minh Hoàng đến đất Thục, thấy hình tượng của người này, nổi giận ra lệnh cận thần chém đầu bức tượng. Khi ấy Lang Thủ đang ở Thiểm Tây mà đầu bỗng rớt xuống đất”.

Ông Tử Thiều nghe xong liền ngộ ý chỉ sâu mầu.

Ngài Phần Dương có bài tụng Lục Tướng:

“Thấy là A Na Luật

Rõ ràng không một vật

Núi sông cùng đất đai

Diễn bày Ba La Mật.

Nghe là Bạt Nan Đà

Tiếng thông, không gì quá

Xa gần đồng đều rõ

Chẳng cần niệm Ma Ha.

Ngửi là Căng Già nữ

Tâm từ bi cùng khắp

Sạch dơ đều rõ hết

Tức đó, không ta người.

Nếm là Kiều Phạm Ba

Ngọt đắng cũng bình thường

Vào miệng rõ cay chua

Giống như trăng giữa trời.

Xúc là Thuấn Nhã Đa

Thiện ác, hết thảy hòa

Cắt xẻ không vui giận

Chỉ thật A Di Đà.

Ý là Đại Ca Diếp

Tỳ Lô [Pháp Thân] là Một Pháp

Nhà tối rõ ràng phân

Chi phái ngàn hoa lá”.

Chỗ Thấy của Ngài Phần Dương xa thẳm lạ thường, mượn sáu Căn này mà mỗi mỗi chỉ ra cửa hướng thượng. Trái lại, không rời chuyện “Phục về nguồn Chân, phát ra cội nguồn sáng suốt chói rực” mà thôi vậy.

Kinh: “Anan, giờ đây các Căn của ông mà nhổ sạch ra được, thì cái sáng chói bên trong phát ra. Như thế, các phù trần và các tướng biến hóa của thế gian vật chất đều tiêu mất như băng gặp nước sôi, lập tức hóa thành Tri Giác Vô Thượng.

Thông rằng: Tùy theo nhổ dứt một Căn, thoát khỏi sự dính, phục về bên trong, trở lại cùng tột dòng Căn đến chỗ chẳng sanh chẳng diệt. Đó là chuyện phía bên công phu, cái cơ duyên là do ở ta.

Các Căn nhổ sạch, cái sáng chói bên trong phát ra, sanh diệt dứt hết, Tịch Diệt hiện tiền. Đây là chuyện phía bên Đốn Ngộ, cơ duyên chẳng ở tại ta. Do đó, không ngộ thì căn thân phù trần, các tướng biến hóa của thế gian sự vật đều quy về Pháp Sanh Diệt, như nước đóng thành băng. Còn một phen Đốn Ngộ, liền chuyển cái Sanh Diệt làm Tánh Chẳng Sanh Chẳng Diệt, như nước sôi tiêu tan băng giá, mà trở lại thành nước vậy. Nước là cái Bổn Lai vậy. Vô Thượng Tri Giác là cái vốn có của ta vậy. Đã thành ra cái Tri Giác Vô Thượng, thì còn có sáu tên giặc nào để lo nữa ư?

Ngài Long Đàm Tín hỏi Tổ Thiên Hoàng Ngộ rằng: “Từ khi đến đây, con chẳng được Hòa Thượng chỉ bày cho tâm yếu”.

Tổ Hoàng nói: “Từ khi ông đến đây, ta chưa từng có lúc nào mà không chỉ bày tâm yếu”.

Ngài Long Đàm nói: “Chỉ bày chỗ nào đâu?”

Tổ Hoàng nói: “Ông đem trà tới, ta vì ông rước lấy. Ông đem cơm tới, ta vì ông lãnh lấy. Khi ông cung kính, ta bèn cúi đầu. Có chỗ nào là chẳng chỉ bày cái tâm yếu cho ông đâu?”

Thầy Long Đàm đứng trân, suy nghĩ.

Tổ Hoàng nói: “Thấy thì thấy ngay. Nghĩ suy liền trật.”

Long Đàm ngay khi ấy khai ngộ. Bèn thưa: “Bảo nhiệm [Gìn giữ.] thế nào?”

Tổ Hoàng nói:

“Theo Tánh rong chơi

Tùy duyên phóng khoáng

Chỉ hết phàm tâm

Không riêng Thánh giải”.

Tổ Giáp Sơn có thầy Tiểu Sư theo làm thị giả đã lâu. Tổ bảo đi hành cước, đi các nơi học thiền. Sau nghe Tổ Giáp Sơn nhóm chúng, tiếng đạo vang xa. Thầy Tiểu Sư bèn về thăm và hỏi: “Hòa Thượng có chuyện kỳ đặc như thế, sao chẳng sớm nói cho con?”

Tổ Sơn nói: “Ông vo gạo thì ta chụm lửa, ông dọn cơm thì ta bày bát. Chỗ nào là ta phụ rẫy ông đâu?”

Tiểu Sư nghe đó, liền ngộ nhập.

Đều có thể nói là “Lập tức hóa thành Tri Giác Vô Thượng” đó vậy.

Kinh: “Anan, như người thế gian kia gom cái Thấy ở nơi con mắt. Nếu bảo nhắm kín thì tướng Tối hiện ra trước mặt, cả sáu Căn đều tối, đầu và chân cũng thế. Người kia lấy tay rờ quanh ngoài thân thể, thì tuy chẳng thấy, mà vẫn phân biệt được đầu và tay, cái tri giác vẫn đồng như cũ.

“Cái Thấy nhân nơi Sáng, khi Tối thành ra không thấy. Còn cái Thấy mà không nhân nơi cái Sáng mà vẫn tự phát ra, thì các tướng Tối chẳng bao giờ làm mờ tối đi được. Căn và Trần đã tiêu tan rồi, thì sao tánh Giác Minh không trở thành nhiệm mầu cùng khắp?

Thông rằng: Đoạn trước chỉ bày Tánh Trạm Viên chẳng theo Căn, ở đây chỉ ra Tánh Trạm Viên chẳng nương nơi duyên. Người nhắm mắt kia, lấy tay rờ theo thân thể người khác thì phân biệt được đầu và chân. Cái tri giác trong tối với cái tri giác khi Sáng không khác nhau. Người đời còn chẳng cần mượn cái duyên ánh sáng mà vẫn phân biệt được, huống gì Chân Giác của Thánh Nhân há lại mượn duyên ư? “Cái Thấy nhân nơi Sáng, khi Tối thành ra không thấy”. Đó là nói theo thế đế. Như vậy là cho rằng cái thể Giác Minh, nhờ có ánh sáng mà sáng, do bởi tối mà thành tối. Nay hãy xem người nhắm kín mắt, chẳng có nhờ Duyên ánh sáng mà vẫn hay biết, trong bóng tối cũng vẫn phân biệt rõ đầu và chân. Cái Thấy này, Sáng không làm cho nó Sáng, Tối không làm cho nó Tối, không ngăn cách nó được. Căn và Trần đã tiêu mất, bèn tay có thể làm mắt, mắt có thể làm tai. Một Căn về gốc, sáu Căn thanh tịnh, làm sao tánh Giác Minh chẳng thành nhiệm mầu tròn khắp?

Cái Giác Minh từ sáu Căn mà phát ra ấy, phạm vi của cái Sáng giới hạn bởi Căn, nên chẳng thể nhiệm mầu tròn khắp. Duy cái Giác Minh chẳng nương cậy Căn và Trần, mà tự phát ra, đó là thần thông diệu dụng, cảm ứng khắp nơi, đó thật là sáu Căn dùng thay nhau, tức là cái gốc cho ba mươi hai Ứng Thân do Viên Thông của Đức Quán Thế Âm vậy.

Ngài Vân Nham hỏi Tổ Đạo Ngô: “Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát dùng bao nhiêu tay mắt ấy như thế nào?”

Tổ Ngô nói: “Như người nửa đêm trở tay rờ cái gối”.

Ngài Nham nói: “Tôi hiểu”.

Tổ Ngô nói: “Ông hiểu làm sao?”

Ngài Nham nói: “Khắp Thân [Biến Thân] là tay, mắt”.

Tổ Ngô nói: “Nói thì quá lắm, mà chỉ nói được tám tướng thành Đạo”.

Ngài Vân Nham nói: “Sư huynh nói thế nào?”

Tổ Ngô nói: “Suốt Thân [Thông Thân] là tay, mắt”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Một khiếu rỗng thông

Tám mặt cửa song

Không tướng, không thân, xuân vào luật

Chẳng ngăn, chẳng ngại, nguyệt trời không

Mắt quý sạch trong, tay công đức

Khắp Thân nào giống được Suốt Thân!

Hiện tiền tay, mắt toàn cơ hiện

Đại dụng tung hoành, mặc cữ kiêng”.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Khắp Thân phải, Suốt Thân phải

So ra còn cách mười muôn dặm!

Cánh bằng che khắp mây lục hợp

Cuốn gió rền vang bốn biển xanh

Cái ấy bỗng sao, hề, bụi sanh?

Trong ấy, mảy tơ, hề, chưa dứt!

Anh thấy chăng,

Lưới châu buông xuống, ảnh trùng trùng

Đầu gậy, tay mắt từ đâu khởi?”.

Ôi chao! Sao Khắp Thân lại cách Suốt Thân mười vạn dặm? Vì Khắp Thân là chưa lìa được Thân Kiến. Suốt Thân là gồm hết thảy mà quên đi. Chút tơ hào sai khác này, không đầy đủ con mắt thì nào có biện được. Ngài Tuyết Đậu thì tay, mắt đều quên. Còn Ngài Thiên Đồng chẳng ngại cơ duyên cùng diệu dụng, nên huyền lại càng huyền vậy.

B. ĐÁNH CHUÔNG ĐỂ THỂ HIỆN TÍNH THƯỜNG

1. NGHI CĂN TÁNH KHÔNG CÓ TỰ THỂ

Kinh: Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, như lời Phật dạy, muốn cầu được thường trụ, thì phải ở từ Nhân Địa là Giác Tâm, và những danh mục tu chứng phải cần tương ưng với quả vị. Thưa Thế Tôn, như trong quả vị đó, thì bảy danh hiệu là Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật Tánh, Am Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí, tuy tên gọi khác nhau, nhưng Thể Tánh là trong sạch tròn đầy, vững chắc như Kim Cương Vương, thường trụ chẳng hoại.

“Nếu cái Thấy Nghe này lìa ngoài cái sáng, cái tối, cái động, cái tĩnh, cái thông bít thì rốt ráo không có tự thể; cũng như cái tâm niệm rời ngoài Tiền Trần vốn không chỗ có, thế thì tại sao lại lấy cái rốt ráo là đoạn diệt này mà làm Nhân Địa để tu cho được bảy quả đức Thường Trụ của Như Lai? Thưa Thế Tôn, nếu lìa ngoài sáng và tối, thì cái thấy của tâm niệm diệt mất. Tới lui qua lại, suy xét chín chắn, thì vốn không có Tâm tôi và cái Tâm Sở của tôi, vậy lấy gì làm Nhân Địa để cầu Vô Thượng Giác? Đức Như Lai trước kia có nói cái Tánh trong lặng tròn đầy thường trụ, nay lời nói khác nhau, hóa thành hý luận. Đâu là lời chân thực của Như Lai. Xin Thế Tôn rủ lòng đại từ, mở chỗ mê chấp cho tôi.

Thông rằng: Ông Anan cho cái Nhân là Nhân Thực, cái Quả là Quả Thực, nên cho là lìa ngoài Trần không có tự thể, lìa ngoài Niệm không có Tâm: nghi là đoạn diệt. Đó là vì ông chưa từng biết rằng cái Tâm đối với Cảnh nguyên thuộc về sanh diệt, là sanh diệt thì có thể đoạn, còn cái Tâm lìa Cảnh, không thuộc sanh diệt, nên chưa từng đoạn được. Cái Tánh trong lặng tròn đầy thường trụ rốt ráo là vô sở đắc, xem xét nhặt nhiệm thì vốn không có Tâm ta, cùng với Tâm Sở của ta. Lấy cái ấy làm Nhân, thì đó là Chánh Nhân; lấy cái ấy chứng quả, thì đó là Chân Quả. Cái Tánh trong lặng tròn đầy thường trụ vốn là như thế, sao lại nghi ngờ là mâu thuẫn ư? Vốn là một Tánh mà có bảy thứ tên gọi.

Kinh Bảo Tích nói: Không Như Lai Tạng lìa tất cả phiền não của tâm thức không giải thoát. Bất Không Như Lai Tạng đầy đủ hằng sa Pháp không thể nghĩ bàn của Phật Trí giải thoát. Không Bất Không Như Lai Tạng tùy hiện sắc không, ứng khắp tất cả.

Không Như Lai Tạng là Quả Thường Trụ. Đại Viên Cảnh Trí thấy rõ tất cả mà không phân biệt. Am Ma La Thức phân biệt tất cả mà không nhiễm trước. Vì rõ ràng thấu suốt nên gọi là Phật Tánh. Rõ ràng thấu suốt là cứu cánh Giác, nên gọi là Bồ Đề. Cứu cánh Giác, Thể vốn Tịch Diệt, nên gọi là Niết Bàn. Tịch Diệt nên hết thảy vọng tâm không chạm tới được, nên gọi là Chân Như. Bảy quả đức vốn là một Thể vậy.

Sơ Tổ Đạt Ma chỉ dùng tám chữ bao quát đầy đủ hết. Đó là : “Tịnh Trí Diệu Viên, Thể Tự Không Tịch”. Tịnh là Bạch Tịnh Thức. Trí là Đại Viên Cảnh Trí. Không là Không Như Lai Tạng. Tịch là Niết Bàn. Còn Chân Như, Bồ Đề, Phật Tánh, không ngoài hai chữ Diệu Viên. Hai chữ Diệu Viên tức là phân biệt mà chẳng phân biệt, sanh diệt mà chẳng sanh diệt, đó là Tánh Giác Như Như tròn khắp vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá: “Thế nào là Đạo? Thế nào là tu hành?”

Tổ Bá đáp: “Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành?”

Hỏi: “Tông sư các nơi truyền nhau tham thiền học đạo như thế nào?”

Tổ Bá nói: “Lời tiếp dẫn hạng độn căn, chưa thể nương dựa được”.

Hỏi: “Ấy đã là lời tiếp dẫn hạng độn căn, còn chưa rõ là tiếp hạng thượng căn thì nói pháp gì?”

Tổ Bá nói: “Nếu là người thượng căn, thì chỗ nào mà đến Đạo, tìm Đạo? Cái Tự Mình còn bất khả đắc, huống là có riêng pháp để tìm cầu? Chẳng thấy trong kinh nói, “Các pháp có hình trạng gì?”, sao?”

Hỏi: “Nếu như thế kia, ắt chẳng cần tìm kiếm gì hết thảy?”

Tổ Bá nói: “Như thế ấy thì chẳng hao tâm lực”.

Hỏi: “Nếu như thế thì thành đoạn diệt, chẳng phải là không có ư?”

Tổ Bá nói: “Ai bảo cái ấy không có. Nhưng cái đó là gì mà ông định tìm kiếm nó?”

Hỏi: “Đã chẳng cho tìm kiếm, cớ sao lại còn nói chẳng đoạn lìa nó?”

Tổ Bá nói: “Chẳng tìm kiếm, tức bèn thôi nghỉ. Ai bảo ông đoạn lìa? Ông thấy hư không trước mắt đó, làm sao đoạn lìa nó?”

Hỏi: “Có phải pháp ấy đồng như hư không chăng?”

Tổ Bá nói: “Hư không có bao giờ nói với ông là đồng hay khác gì đâu. Ta mới tạm nói thế, ông lại ngay liền ở trong ấy mà sanh tri giải”.

Hỏi: “Vậy nên chẳng cho người sanh tri giải ư?”

Tổ Bá nói: “Ta không hề ngăn chướng ông. Nhưng tri giải là thuộc Tình, Tình sanh thì Trí cách”.

Hỏi: “Hướng vào trong ấy mà chẳng sanh tình, thế có đúng không?”

Tổ Bá nói: “Như chẳng sanh tình, thì ai nói là đúng?”

Thế mà hơn ngàn năm rồi, vẫn còn có cái nghi như của Ông Anan, nếu được vài lời của Ngài Hoàng Bá, bèn cùng trùng tuyên cái chỉ thú sâu xa!

2. CHỈ BÀY TÁNH NGHE LÀ THƯỜNG TRỤ

Kinh: Phật bảo Ông Anan: “Ông học đa văn, chưa dứt hết sạch các lậu. Trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên đảo, mà cái điên đảo thật sự ở trước mắt, lại chưa biết được. E rằng ông thật sự còn chưa tin phục, nay ta thử đem các chuyện trần tục để giải trừ cái nghi của ông”.

Liền đó, Như Lai ra lệnh cho La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi Ông Anan: “Nay ông có nghe không?”

Ông Anan và đại chúng đều nói: “Có nghe”.

Chuông hết kêu, không còn tiếng. Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe không?”

Ông Anan và đại chúng đều nói : “Không nghe”.

Khi ấy La Hầu La lại đánh một tiếng chuông.

Phật lại hỏi : “Nay ông có nghe không?”

Ông Anan và đại chúng lại đều nói : “Có nghe”.

Phật hỏi Ông Anan: “Theo ông, thế nào là nghe, thế nào là không nghe?”

Ông Anan cùng đại chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông nếu có đánh thì chúng tôi được nghe. Đánh lâu hết tiếng, âm vang đều không còn, thì gọi là không nghe”.

Như Lai lại bảo Ông La Hầu La đánh chuông, rồi hỏi Ông Anan: “Theo ông, hiện giờ có tiếng không?”

Ông Anan và đại chúng đều nói : “Có tiếng”.

Ít lâu tiếng hết, Phật lại hỏi rằng : “Theo ông, hiện giờ có tiếng không?”

Ông Anan và đại chúng đều đáp : “Không có tiếng”.

Lát sau, Ông La Hầu La lại đánh tiếng chuông; Phật lại hỏi: “Theo ông nay có tiếng không?”

Anan và đại chúng đều nói : “Có tiếng”.

Phật hỏi Ông Anan : “Theo ông, thế nào là có tiếng, thế nào là không tiếng?”

Ông Anan và đại chúng đều bạch Phật rằng : “Chuông nếu có đánh thì có tiếng chuông. Đánh lâu tiếng hết, âm vang đều không còn, thì gọi là không tiếng”.

Phật bảo Ông Anan và đại chúng rằng : “Nay cớ sao các ông nói trái ngược, lộn xộn thế?”

Đại chúng và Ông Anan cùng bạch Phật : “Cớ sao giờ đây chúng tôi bị gọi là trái ngược, lộn xộn?”

Phật dạy : “Ta hỏi ông sự Nghe, thì ông bảo là Nghe. Hỏi ông cái Tiếng, thì ông nói là Tiếng. Chỉ có sự Nghe và cái Tiếng mà trả lời không nhất định, như thế không gọi là trái ngược lộn xộn sao được?

“Anan! Tiếng kêu không còn vang, thì ông nói là không Nghe. Nếu thật không Nghe, nghĩa là Tánh Nghe đã diệt, giống như cây chết khô, vậy khi tiếng chuông lại đánh lên, làm sao ông còn biết được? Biết rằng có, biết rằng không, đó là cái Tiếng của Trần hoặc có hoặc không, chứ Tánh Nghe đó, há vì ông mà có hoặc không ư? Tánh Nghe nếu thật là không có, thì còn cái gì biết là không có?

“Thế nên, Anan, cái Tiếng ở trong cái Nghe tự có sanh có diệt, không phải vì ông nghe cái Tiếng Sanh cái tiếng diệt, mà khiến cho Tánh Nghe ông ông thành có, thành không. Ông còn điên đảo, lầm cái Tiếng là cái Nghe, lạ gì chẳng mê mờ mà lấy cái thường làm cái đoạn. Trọn chẳng nên nói rằng, lìa ngoài các thứ động tịnh, đóng bít, mở thông thì cái Nghe không có tự tánh.

“Như người ngủ mê trên giường gối, khi ấy trong nhà có người giã gạo. Người ấy trong mộng, nghe tiếng giã gạo, lầm cho là vật gì khác, hoặc cho là đánh trống, hoặc cho là đánh chuông. Ngay trong khi mộng, người ấy cũng lấy làm lạ sao tiếng chuông lại vang lên như tiếng vang của cây, của đá. Khi chợt tỉnh dậy, liền biết là tiếng chày, bèn nói với người nhà : “Khi tôi đang nằm mộng, lầm tiếng chày này là tiếng trống”. Này Anan, người ấy ở trong mộng nào còn nhớ các thứ động tĩnh, mở đóng, thông bít. Thế thì thân thể tuy ngủ mà tánh Nghe chẳng mờ. Dầu thân ông có tiêu tan mất, thân mạng đổi dời, Tánh ấy làm sao vì ông mà tiêu diệt được?

“Bởi vì chúng sanh từ vô thủy đến nay, đeo đuổi theo hình theo tiếng, chạy theo niệm mà lưu chuyển, không từng khai ngộ Bản Tánh trong sạch, nhiệm mầu, vĩnh cửu. Không theo cái thường còn ấy, mà chạy tìm các thứ sanh diệt, bởi thế đời này sang đời khác cứ dơ trộn mà lưu chuyển. Chỉ bỏ đi chuyện sanh diệt, giữ lấy Tánh Chân Thường, thì cái ánh sáng thường trụ hiện ngay trước mắt, mọi thứ căn, trần, tâm thức tức thì tiêu mất.

“Tướng vọng tưởng là trần, thức tình là cấu. Hai thứ ấy một lúc xa lìa, thì con mắt Pháp của ông ngay liền trong sáng. Thế thì sao không thành Tri Giác Vô Thượng?”

Thông rằng: Đức Phật dạy, “Thoát khỏi sự dính, phục vào bên trong”, tức là Tánh lặng trong tròn đầy, thường trụ vậy. Ông Anan nghi rằng lìa ngoài tiền trần thì không có tự tánh, sợ là đồng với đoạn diệt, bởi vậy, ngay nơi tiếng chuông mà hiển Tánh Nghe. Cái Tiếng tan mất không còn âm vang, thì chỉ là không có Tiếng chứ thật không phải là không có cái Nghe. Cái Tiếng thì có sanh diệt, cái Nghe thì không có sanh diệt. Nếu nói cái Nghe do cái Tiếng mà sanh, do cái Tiếng mà diệt, thì đang khi không nghe, ai biết là không nghe? Do đó, cái hoặc có hoặc không thì có thể diệt, còn cái Biết Có Biết Không ấy chưa từng diệt vậy. Chẳng những khi tỉnh thức đối cảnh thì chẳng diệt, mà ngay khi ngủ nằm mộng, lìa tiền cảnh cũng chẳng có sanh diệt. Chẳng những khi ngủ nằm mộng căn vẫn còn thì chẳng diệt, mà khi thân thể mất rồi, căn tiêu tan hết cũng chẳng có diệt. Chỗ này so với “Cái thấy sông [Phần II. Đoạn vua Ba Tư Nặc]” ở đoạn trước cũng tương tự. Ở trước, hiển bày cái Thấy, là ý nghĩa về chỗ chẳng sanh chẳng diệt. Còn ở đây hiển bày cái Nghe, ý để chỉ cái Nhĩ Căn viên thông vậy.

Xoay ngược lại cái Nghe để nghe tự tánh, tức là khai ngộ Bản Tánh trong sạch, nhiệm mầu, thường hằng. Ánh sáng thường trụ hiện ngay trước mặt, tức đó là cái Tịch Diệt hiện tiền. Da thịt lột thoát hết, chỉ có một cái Chân Thực. Như thế mới có thể gọi là con mắt Pháp sáng trong, thành Vô Thượng Giác.

Ông Đỗ Hồng Tiệm hỏi thiền sư Vô Trụ ở chùa Bảo Đường rằng : “Đệ tử nghe Hòa Thượng Kim nói: Không nhớ, không niệm, chớ vọng. Pháp môn ba câu, có phải không?”

Sư đáp: “Phải”.

Ông Đỗ hỏi: “Ba câu ấy là một hay ba?”

Sư nói: “Không nhớ là giới, không niệm (vô niệm) là Định, chớ vọng là Huệ. Một Tâm chẳng sanh, đó là Giới Định Huệ, chẳng phải một, chẳng phải ba”.

Ông Đỗ lại hỏi : “Thầy có dùng ba câu ấy để tiếp người không?”

Sư nói : “Người học nhân sơ tâm, thì còn khiến họ dứt niệm, dừng làn sóng thức, nước trong thì cảnh hiện, ngộ cái Thể Vô Niệm, Tịch Diệt hiện tiền, lúc ấy vô niệm cũng chẳng còn lập”.

Khi ấy, trên cây trước sân có tiếng quạ kêu.

Ông Đỗ hỏi : “Thầy có nghe không?”

Sư nói: “Nghe”.

Quạ bay đi mất, lại hỏi : “Thầy có nghe không?”

Sư nói: “Nghe”.

Ông Đỗ nói: “Quạ bay đi rồi, đâu còn tiếng, sao nói là nghe?”

Thiền sư bèn dạy cả đại chúng rằng: “Đời Phật khó gặp, Chánh Pháp khó nghe! Mỗi người hãy lóng nghe kỹ! Có nghe, không nghe, đều chẳng liên quan gì đến Tánh Nghe. Xưa nay chẳng sanh, sao từng có diệt? Khi có Tiếng, đó là cái Tiếng của Trần tự sinh, khi không có tiếng, đó là cái Tiếng của Trần tự diệt, nhưng cái Tánh Nghe này, chẳng theo Tiếng mà sanh, chẳng theo Tiếng mà diệt. Ngộ Tánh Nghe này thì khỏi tiếng tăm của Trần ràng buộc. Phải biết cái Nghe không có sanh không có diệt, cái Nghe không có chuyện đến, đi”.

Ông Đỗ và đại chúng cúi đầu vâng lãnh.

Ông Đỗ lại hỏi: “Sao là chẳng sanh, sao là chẳng diệt, như thế nào được giải thoát?”

Thiền sư nói: “Thấy Cảnh, tâm chẳng khởi là chẳng sanh. Chẳng sanh tức là chẳng diệt! Đã không sanh diệt thì nào có bị tiền trần trói buộc? Ngay đây là Giải Thoát. Chẳng sanh là vô niệm, vô niệm thì không sanh diệt. Vô niệm là không buộc, vô niệm là không thoát. Rốt ráo là : Biết Tâm là lìa Niệm, Thấy Tánh là giải thoát. Ngoài Biết Tâm, Thấy Tánh mà lại có pháp môn chứng Bồ Đề Vô Thượng, thật không thể có”.

Ông Đỗ hỏi: “Sao gọi là Biết Tâm, Thấy Tánh?”

Thiền sư nói: “Hết thảy người tu học, theo niệm mà trôi dạt, đều vì chẳng biết Chân Tâm. Cái Chân Tâm ấy, niệm sanh cũng chẳng thuận theo mà sanh, niệm diệt cũng chẳng nương theo mà mất. Chẳng đi chẳng đến, chẳng định chẳng loạn, chẳng nắm chẳng bỏ, chẳng nổi chẳng chìm. Vô vi, vô tướng, sống động lưu thông, bình thường, tự tại. Tâm Thể ấy rốt ráo bất khả đắc, không thể lấy tri thức mà biết, chạm mắt đều là Như, không có gì là chẳng phải thấy Tánh”.

Ông Đỗ và đại chúng làm lễ, xưng tán, vui mừng hớn hở mà đi.

Ngài Bảo Đường, diễn lại Lăng Nghiêm, xét xem lời nói như cùng một miệng thuyết ra.

Chỉ có Tổ Vân Môn, chỗ thấy lại khác. Tổ thượng đường, nghe tiếng chuông, liền nói: “Thế giới rộng rãi thế kia, cớ sao nghe tiếng chuông lại mặc áo thất điều?”

Đối với chỗ này mà chẳng có chút nghi, mới gọi là Pháp Nhãn [Một trong ngũ nhãn. Xem xét thấu biết rõ ràng cái duyên sanh ra cái pháp sai khác nhau.] thanh tịnh.

    Xem thêm:

  • Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cương Tam Muội Bản Tính Thanh Tịnh Bất Hoại Bất Diệt - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Kinh Tạng
  • Kinh Lực Trang Nghiêm Tam Muội - Kinh Tạng
  • Tịnh Lưu Ly Tịnh Độ Tiêu - Kinh Tạng
  • Pháp Tùy Hành Niệm Tụng Đại Tì Lô Già Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh Lược Thị Thất Chi - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm (Trọn bộ 4 tập) - Kinh Tạng
  • Ngữ Lục Của Thiền Sư Thụy Châu Động Sơn Lương Giới - Kinh Tạng
  • Ngữ Lục Của Thiền Sư Đàm Châu Quy Sơn Linh Hựu - Kinh Tạng
  • Phẩm Báo Ân Cúng Dường Thập Nhị Đại Oai Đức Thiên - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 17 – Làm Phúc - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Thành Tựu Tụng Niệm Cúng Dường Bồ Tát Cam Lộ Quân Đồ Lợi - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Tạp A-Hàm – HT Thích Đức Thắng dịch - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 09 – Thụ Thỉnh - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương - Kinh Tạng
  • Ngữ Lục Thiền Sư Tào Sơn Bản Tịch - Kinh Tạng
  • Phẩm Pháp Nghi Quỹ Niệm Tụng Cúng Dường Thánh Hạ Dã Hột Lí Phược Đại Oai Nộ Vương Lập Thành Đại Thần Nghiệm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Thiền Tâm dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Trung Quán dịch - Kinh Tạng