1
2

QUYỂN HẠ

Bấy giờ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi vâng lời Phật dạy xong, liền nhập thần thông Tam muội, tâm tự tại đối với tất cả pháp. Nhập vào Tam muội này xong, khởi sức thần thông, hiện các việc thần biến như đã nói ở trên, hiển nhiên rực sáng, thảy đều hiện tiền, như lời Phật dạy không thêm không bớt, làm cho những người dự trong hội ấy không ai mà không thấy được.

Bấy đại chúng thấy thần lực này đều khen là chưa từng có, đồng thanh xướng lên :

– Lành thay ! Lành thay ! Chư Phật Như Lai vì chúng sanh nên xuất hiện ở thế gian. Lại có vị đại sĩ thiện xảo như vậy đồng xuất hiện thế gian mới có thể hiện ra sức thần thông bất ngả tư nghị này !

Bấy giờ ác ma thấy các thứ thần biến này xong, vui mừng, nhảy nhót, lạy dưới chân Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, chấp tay cung kính hướng về đức Như Lai thưa rằng :

– Đồng tử Văn Thù Sư Lợi rất là hy hữu mới có thể hiện thần thông biền hóa bất khả tư nghị này. Các người nghe thấy ai mà không kinh ngạc hồ nghi. Nếu có chúng sanh nghe được việc này có thể sanh tâm tín thọ, dù cho ác ma nhiều như các sông Hằng, muốn làm não hại kẻ ấy thì không bao giờ hại được.

Bạch Thế tôn, con là ác ma thường ở chỗ Phật, rình rập chờ cơ hội, tâm thích não hại tất cả chúng sanh. Nếu có người siêng năng tu tập điều lành thì con dùng oai thần của con làm chướng ngại họ.

Bạch Thế tôn, kể từ hôm nay con phát tâm tuyên thệ sâu xa rằng : chỉ cần người nào đem pháp môn này hoằng dương ở đâu, ở trong đất nước, thành ấp, tụ lạc trong một trăm do tuần, thì có con ở trong đó ( để hộ vệ ), thí như người mù chẳng làm gì được, không thể đối với chúng sanh ấy sanh tâm não hại. Nếu con thấy có người thọ trì, đọc tụng tư duy, giải thích kinh này, liền sanh tâm tôn trọng, cung cấp cúng dường.

Bạch Thế tôn ! Bạn đảng của chúng con thích gây lưu nạn cho Phật pháp. Nếu thấy có người tu hành thiện pháp, họ liền gây thêm sự áp bức, cản trở, khiến cho phải thối thất. Nay con vì đoạn trừ những ác sự như vậy nên nói Đà la ni ( thần chú ) này.

Liền nói chú rằng :

– Đát điệt tha A ma lê, Tỳ ma lê, Sĩ đá đáp tỳ, A yết bà nể thị đa thiết đốt lộ, thệ duệ, thệ da mạt để, thâu bà mạt để, Thiểm mê phiến để, A phổ mê, Phổ phổ mê, địa rị, A khế, mạc khế, khư khế, nhị lý la, A già mê, Phổ la, Phổ la phổ la, Th6u mê thâu thâu mê, địa rị, địa rị, A na bạt để, sĩ đá đáp tỳ, Ngật lý đa yết thê, Ngật lý đa tỳ đề, tỳ lô chiết đảm, Tát đạt ma Bà nổ câu, yết tả tô đát la ta 3đà lộ ca, A bạt la mục đa y bà tô lý da.

Bạch Thế tôn ! Đà la ni này ủng hộ vị pháp sư, hay khiên cho vị ấy dũng mãnh, tinh tấn, biện tài vô đoạn. Tất cả các ác ma không lợi dụng được. Lại khiến cho ma ấy sanh tâm hoan hỷ, lấy y phục, ngọa cụ, ẩm thực, thuốc thang, các nhu cầu cần thiết để cúng dường.

Bạch Thế tôn, nếu có thiện nam, thiện nữ nhân thọ trì chú này, ngày đêm liên tục sẽ được tất cả Thiên, Long, Càn tháp bà, A tu la, Ca câu la, Khẩn na la, ma hầu la già, nhân và phi nhân … thường hộ vệ, tất cả kẻ oán thù thì không hại được.

Đức Phật nói với ma :

– Lành thay ! Lành thay ! Nay ngươi nói Đà la ni này, khiến cho vô lượng hằng hà sa thế giới sáu thứ chấn động. Ma vương nên biết, sự biện tài của ngươi là do thần lực của Văn Thù Sư Lợi đồng tử tạo ra.

Khi Bồ tát Văn Thù Sư Lợi dùng thần lực khiến cho ma Ba Tuần lúc nói thần chú này làm cho ba vạn người trong chúng đều phát tâm A Nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Bấy giờ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi làm sự biến hóa ấy xong, thâu nhiếp thần lực, liền bảo đồng tử Thiện Thắng :

– Này thiên tử ! Nay ta muốn đến cõi Đâu Suất Đà, ngươi hãy về trước bảo thiên chúng tụ tập.

Khi đồng tử Thiện Thắng nghe lời ấy xong, cùng với quyến thuộc đi nhiễu bên phải của đức Phật và Bồ tát, đại chúng như Văn Thù Sư Lợi … ở trong hội biến mất, trong khoanh khắc đi đến thiên cung. Đến thiên cung xong, khắp bảo thiên chúng :

– Các ngươi nên biết ! Bồ tát ma ha tát Văn Thù Sư Lợi vì thương xót chúng ta nên muốn đến đây. Tất cả thiên chúng hãy nên lìa bỏ các sự vui chơi phóng dật, cùng đến tụ tập ở đây để nghe pháp.

Khi đồng tử Thiện Thắng nói lời ấy xong, kiến lập đạo tràng ở trong thiên cung rất rộng, thanh tịnh, trang nghiêm đẹp đẽ, làm bằng các ngọc báu như ý của trời, Đông, Tây rộng ba vạn hai ngàn do tuần. Tây- bắc một vạn sáu ngàn do tuần. Lại ở trong đạo tràng ấy đặt vô lượng trăm ngàn tòa sư tử, tòa ấy cao rộng, các thứ trang nghiêm, dùng y báu cõi trời phủ lên trên.

Lúc đồng tử Thiện Thắng trang nghiêm đạo tràng và tòa sư tử xong, cong mình chấp tay từ xa hướng về Bồ tát Văn Thù Sư Lợi thưa rằng :

– Con đến thiên cung chuẩn bị mọi việc đã xong, mong ngài giáng lâm, nay đã đúng lúc.

Bấy giờ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và các Bồ tát một vạn hai ngàn người, Đại Thanh văn một ngàn năm trăm người, ngoài ra có vô lượng trăm ngàn Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thác bà, … từ tòa đứng dậy đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu bên hữu ba vòng, ở trước đức Như Lai biến mất. Trong khoảnh khắc đến cõi trời Đâu Suất Đà, đi vào trong đạo tràng, ngồi trên các tòa đã soạn sẵn.

Khi ấy các vị trời Tứ Thiên Vương, Tam Thập Tam, Dạ Ma, Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại, và các chúng Phạm thiên trong cõi sắc giới, cùng nhau thông báo rằng :

– Hiện nay Bồ tát Văn Thù Sư Lợi ở tại cõi trời Dâu Suất Đà muốn thuyết đại pháp. Chúng ta nên cùng nhau đến chỗ ấy để nghe những pháp chưa được nghe, và để thấy những việc hy hữu.

Họ nói như vậy xong, chúng các thiên tử nhiều vô lượng vô số ở trong dục giới, sắc giới, trong một khoảnh khắc đều từ chỗ ở của mình đến tập hội tại cung trời Đâu Suất. Nhờ sức oai thần của Bồ tát Văn Thù Sư Lợi khiến cho đạo tràng dung chứa tất cả mà không trở ngại.

Bấy giờ thiên tử Thiện Thắng bạch Bồ tát Văn Thù Sư Lợi rằng :

– Thưa đại sĩ ! Nay đại chúng này đều đã đên tập hội, mong ngài sử dụng biện tài để khai sáng giáo pháp.

Lúc ấy Bồ tát Văn Thù Sư Lợi khắp bảo thiên chúng :

– Các nhân giả ! Nếu các Bồ tát trụ trong bốn chủng hạnh thì có thể thanh tựu tất cả thiện pháp. Những gì là bốn ? Một là trì giới. Hai là tu thiền. Ba là thần thông. Bốn là điều phục. Nếu Bồ tát hay trì giới thì thành tựu đa văn. Nếu hay tu thiền thì thành tựu Bát-nhã. Nếu được thần thông thì thành tựu thắng trí. Nếu biết điều phục thì có thể thành tựu tâm không phóng dật. Vì vậy ta nói : “ Các Bồ tát trụ nơi bốn hạnh thì có thể thành tựu tất cả thiện pháp “.

Này các nhân giả ! Nên biết trì giới thì đầy đủ tám pháp mà được thanh tịnh. Những gì là tám ?

1/ Thân hành đoan trực

2/ Các nghiệp thuần tịnh

3/ Tâm không ô uế

4/ Chí khí kiên trinh

5/ Tự nuôi sống bằng chánh mạng

6/ Đầu đà tri túc

7/ Xa lìa các tướng dối trá, hư ngụy không thật.

8/ Luôn luôn không bỏ mất tâm Bồ đề.

Đó gọi là trì giới có tám thứ thanh tịnh.

Lại nữa, này nhân giả ! Nên biết, đa văn cũng dùng tám pháp mà được thanh tịnh. Những gì là tám ?

1/ Kính thuận sư trưởng

2/ Hàng phục kiêu mạn

3/ Siêng năng ghi nhớ thọ trì

4/ Chánh niệm không nhầm lẩn

5/ Thuyết pháp và giải thích không mệt mỏi.

6/ Không tự kiêu căng, khoe công

7/ Quán sát như lý.

8/ Theo lời dạy mà tu hành

Đó là đa văn có tám thứ thanh tịnh

lại nữa, này các nhân giả ! Nên biết thiền định cũng nhờ tám pháp mà được thanh tịnh. Những gì là tám ?

1/ Thường ở chỗ vắng vẻ, tịch tịnh tư duy

2/ Không cùng mọi người tụ hội, đàm thuyết

3/ Đối với cảnh giới bên ngoài không có tham trước.

4/ Cả thân lẩn tâm đề xả bỏ các sự vinh hoa tốt đẹp.

5/ Ăn uống thiểu dục

6/ Không có tâm phan duyên.

7/ Không thích trau chuốt âm nhạc, văn tự.

8/ Khuyên bảo người khác làm cho đều được cái vui của bậc thánh.

Đó gọi là thiền định có tám thứ thanh tịnh.

Lại nữa, này các nhân giả ! Nên biết Bát-nhã cũng nhờ tám pháp mà được thanh tịnh. Những gì là tám ?

1/ Khéo biết các uẩn

2/ Khéo biết các giới

3/ Khéo biết các xứ

4/ Khéo biết các căn

5/ Khéo biết ba giải thoát môn

6/ Vĩnh viễn chặt đức tất cả căn bản phiền não

7/ Vĩnh viễn ra khỏi tất cả các hoặc ngăn che trói buộc.

8/ Vĩnh viễn xa lìa tất cả các sở hành của các kiến

Đó gọi là tám thứ thanh tịnh của Bát-nhã.

Lại nữa, này các nhân giả ! Nên biết Thần thông cũng nhờ tám pháp mà được thanh tịnh. Những gì là tám ?

1/ Thấy tất cả sắc không bị chường ngại

2/ Nghe tất cả tiếng không bị giới hạn

3/ Biết khắp ý nghĩ trong tâm chúng sanh

4/ Nhớ nghĩ về đời trước không bị chướng ngại, không đắm trước.

5/ Thần túc du hành trong khắp các nước Phật.

6/ Sạch hết tất cả lậu mà không sai thời

7/ Rộng tập căn làng mà lìa các sự tán loạn, náo động.

8/ Như lúc phát lời thệ nguyện, luôn vì các thiện hữu mà rộng độ chúng sanh.

Đó gọi là tám thứ thanh tịnh của thần thông.

Lại nữa, này các nhân giả ! Nên biết, với trí cũng có tám pháp mà được thanh tịnh. Những gì là tám ?

1/ Trí về khổ khắp biết năm uẩn

2/ Trí về tập, vĩnh viễn đoạn trừ các ái

3/ Trí về diệt, quán các duyên khởi rốt ráo không sanh.

4/ Trí về đạo, có thể chứng công đức của hữu vi vô vị.

5/ Trí về nhân quả, biết nghiệp cùng với việc làm không chống trái.

6/ Trí quyết định rõ biết vô ngã, vô chúng sanh …

7/ Trí tam thế, khéo hay phân biệt sự luân chuyển của ba đời.

8/ Trí nhất thiết trí, đó là Bát-nhã ba la mật, đối với tất cả xứ không chỗ nào mà không chứng nhập.

Đó gọi là tám thứ thanh tịnh của trí.

Lại nữa, này các nhân giả ! Nên biết sự điều phục cũng nhờ tám pháp mà được thanh tịnh. Những gì là tám ?

1/ Bên trong luôn luôn tịch tịnh

2/ Bên ngoài gìn giữ hành động

3/ Không bỏ ba cõi

4/ Tùy thuận duyên khởi

5/ Quán sát các pháp bản tánh của chúng không sanh.

6/ Quán sát các pháp không có tác giả

7/ Quán sát các pháp bổn lai vô ngã

8/ Rốt ráo không khởi tất cả phiền não.

Đó gọi tám thứ thanh tịnh nhờ điều phục.

Lại nữa, này nhân giả ! Nên biết, không phóng dật cũng dùng tám pháp mà được thanh tịnh. Những gì là tám ?

1/ Không ô uế giới hạnh

2/ Hằng tịnh đa văn

3/ Thành tựu các định

4/ Tu hành Bát-nhã

5/ Đầy đủ thần thông

6/ Không tự mình cống cao

7/ Tiêu diệt các điều tranh luận

8/ Không thối chuyển đối với các thiện pháp.

Đó gọi là tám thứ thanh tịnh của sự không phóng dật.

Này chư nhân giả ! Nếu các Bồ tát an trụ không phóng dật thì không mất ba thứ vui. Những gì là ba ? – Đó là vui các cõi thiên, vui thiền định, vui Niết- bàn.

Lại được giải thoát ba ác đạo. những gì là ba ? Đó là : địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ.

Lại không bị ba thứ khổ bức bách. Những gì là ba ? Đó là : khổ về sanh, khổ về già, và khổ về chết.

Lại được xa lìa vĩnh viễn ba thứ sợ hãi. Những gì là ba ? Đó là : sợ không sống, sợ tiếng ác, sợ oai đức của đại chúng.

Lại được siêu xuất ba thứ hữu. Những gì là ba ? Đó là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu.

Lại được tẩy trừ ba thứ cấu uế. Những gì là ba ? Đó là cấu uế tham dục, sân nhuế và ngu si.

Lại được viên mãn ba thứ học. Những gì là ba ? Đó là học về giới, học về tâm và học về huệ.

Lại được ba thứ thanh tịnh. Những gì là ba ? Đó là thân thanh tịnh, ngữ thanh tịnh và ý thanh tịnh.

Lại được đầy đủ ba thứ tạo thành phước. Những gì là ba ? Đó là thí thành phước, giới thành phước, và tu thành phước.

Lại có thể tu ba giải thoát môn. Những gì là ba ? Đó là không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, và vô nguyện giải thoát môn.

Lại khiến cho ba thứ chủng tánh vĩnh viễn không đoạn tuyệt. Những gì là ba ? Đó là Phật chủng tánh, Pháp chủng tánh và Tăng chủng tánh.

Này chư nhân giả ! Hạnh không phóng dật có năng lực như vậy, cho nên các ngươi nên cùng nhau tu hành.

Lại nữa chư nhân giả ! Bồ tát thực hành sáu ba la mật, mỗi mỗi có đủ ba sở tri chướng. Nếu trụ pháp bất phóng dật thì mau chóng có thể đoạn trừ. Những gì là ba ? Đó là tự mình không bố thí, không muốn người khác thí, sân hận với người bố thí. Tự mình không trì giới, không muốn người khác trì giới, sân hận với người trì giới. Tự mình không nhẫn nhục, không muốn người khác nhẫn nhục, sân hận người hay nhẫn nhục. Tự mình không tinh tấn, không muốn người khác tinh tấn, sân hận với người hay tinh tấn. Tự mình không tu định, không muốn người khác tu định, sân hận với người hay tu định. Tự mình không có trí tuệ, không muốn người khác có trí tuệ, sân hận với người có trí tuệ. Như vậy, Bồ tát thự hành lục độ, mỗi mỗi có đủ ba chướng sai biệt, nhưng nhờ không phóng dật mà được đoạn trừ.

Lại nữa, này chư nhân giả ! Bồ tát thực hành sáu ba la mật đều dùng ba pháp mà được thành tựu viên mãn. Ba pháp này đều nhờ không phóng dật mà có. Những gì là ba ? Đó là : Bố thí có ba, nghĩa là : hay xả tất cả, không cần quả báo và hồi hướng bồ đề. Trì giới có ba, nghĩa là : hết lòng kính thọ, hộ trì không sót, và hồi hướng Bồ đề. Nhẫn nhục có ba, nghĩa là : nhu hòa, khoan dung, tự bảo vệ và bảo vệ kẻ khác, hồi hướng Bồ đề. Tinh tấn có ba, nghĩa là : không bỏ gánh nặng thiện, không có tưởng khứ lai, hồi hướng Bồ đề. Thiền định có ba, nghĩa là : khắp nhập các định, không bị phan duyên, hồi hường Bồ đề. Bát nhã có ba, nghĩa là : trì sáng chiếu khắp, diệt các hý luận, hồi hướng Bồ đề. Như vậy gọi là Bồ tát tu lục độ, mỗi mỗi độ đều có ba thứ, có thể thành pháp viên mãn, nhờ hạnh không phóng dật mà được sanh trưởng.

Lại nữa, các nhân giả ! Tất cả Bồ tát nhờ không phóng dật nên mau thành tựu ba mươi bảy Bồ đề phần … mà có thiện pháp, chứng được Vô thượng Bồ đề của chư Phật. Vì sao mau thành pháp Bồ đề phần ? Đó là các Bồ tát nhờ không phóng dật, tu tứ niệm xứ, không trải qua sự cần khổ, mau thành viên mãn.

Tu thế nào ? Đó là quán thân-xứ là vô sở hữu, quán thọ-xứ là vô sở hữu, quán tâm-xứ là vô sở hữu, quán pháp xứ là vô sở hữu. Đối với tất cả pháp đều vô sở đắc. Như vậy gọi là Tu Tứ Niệm Xứ.

Lại nữa, các Bồ tát nhờ không phóng dật nên tu bốn chánh cần mau được viên mãn. Tu tập thế nào ? Đó là các Bồ tát tuy luôn quán sát tất cả các pháp bổn lai là vô sanh, vô sắc, vô khởi, vô tác giả, giống như hư không, nên tất cả các pháp ác bất thiện chưa sanh, khiên cho không sanh, nhiếp tâm chánh trụ, cần hành tinh tấn. Tuy tin hiểu tất cả pháp là không, vô sở hữu, nhưng vì các pháp thiên chưa sanh, muốn khiến cho sanh cho nên nhiếp tâm chánh trụ, cần hành tinh tấn, tuy biết các pháp bổn lai là tịch tịnh những đa sanh các pháp thiện, muốn khiến cho an trụ, không bị thối thất, càng thêm tăng trưởng, nên nhiếp tâm chánh trụ, cần hành tinh tấn.

Đó là các Bồ tát tuy luôn quán sát tất cả pháp là không có sở tác, không có năng tác, thể tướng bình đẳng, trong đó không có một chút pháp nào có thể được hoặc sanh hoặc diệt, nhưng thường tịnh tấn tu tập không xả, đó gọi là tu tập chánh cần.

Lại nữa, các Bồ tát nhờ không phóng dật nên tu tứ thần túc mau được viên mãn. Tu tập thế nào ? Đó là tất cả các Bồ tát tuy đã vĩnh viễn đoạn trừ dục tham mà vẫn luôn không từ bỏ thiện pháp, muốn thân hay tâm thường tu thiện hạnh. Tuy quán các pháp là không, vô sở đắc mà vì hóa d7ộ chúng sanh nên thường hành tinh tấn. Tuy rõ biết tâm ứ1c như huyễn như hóa mà vẫn luôn không xả, đủ các Phật pháp, thành tâm chánh giác. Tuy biết các pháp không y cứ, không tạo tác, không thể thủ trước, mà hằng tùy theo các điều nghe được, như lý tư duy. Như vậy gọi là tu tập thần túc.

Lại nữa, các Bồ tát nhờ không phóng dật nên tu ngũ căn mau thành viên mãn. Tu tập thế nào ? Đó là các Bồ tát tuy nương vào tự lực mà giác ngộ, không nghe theo người khác, để giáo hóa chúng sanh, khiến cho họ rõ biết, phát sanh niềm tin sâu xa. Tuy không có ý tưởng đến, cũng không có ý tưởng đi, nhưng siêng tu tất cả các nhất thiết trí hạnh. Tuy đối với cảnh giới không nghĩ, không nhớ, nhưng ở trong đó không quên, không ngu. Tuy dùng ánh sáng trí tuệ hiểu rõ các pháp, nhưng luôn chánh định, tịch nhiên không động. Tuy thường an trụ bình đẳng pháp tánh nhưng đoạn trừ các chướng uế, phân biệt hý luận. Như vậy gọi là tu tập ngũ căn.

Lại nữa, các Bồ tát nhờ không phóng dật nên tu tập ngũ lực mau được viên mãn. Tu tập thế nào ? Đó là các Bồ tát khi tu tín lực thì tất cả hý luận ngoại đạo không thể làm cho họ khuynh động. Khi tu tinh tấn lực thì tất cả ác ma không thể làm trở ngại, phá hoại được. Nhờ tu niệm lực nenkho6ng rơi vào địa vị Thanh văn và Bích Chi Phật. Nhờ tu định lực nên mau được xa lìa ngũ cái phiền não. Nhờ tu huệ lực nên vĩnh viễn không thủ đối với các cảnh giới thấy được. Đó gọi là tu tập ngũ lực.

Lại nữa, các Bồ tát nhờ không phóng dật nên tu thất giác phần mau được viên mãn. Tu như thế nào ? Đó là các Bồ tát đối với tất cả cá thiện pháp luôn không quên mất. Đó là tu niệm giác phần, đối với các duyên khởi thường thích quán sát, đó là tu trạch pháp giác phần. Khi hành đạo Bồ đề, vĩnh viễn không thối chuyển, đó là tu tinh tấn giác phần, biết pháp vốn đủ, chẳng có mong cầu, đó là tu hỷ giác phần. Xa lìa thân tâm tán động, đó là tu ỷ giác phần. Nhập không, vô tướng, vô nguyện giải thoát, đó là tu định giác phần, lìa tâm sanh khởi học tập, đó là ti xả giác phần. như vậy gọi là tu pháp Thất giác phần.

Lại nữa, các Bồ tát nhờ không phóng dật nên tu Bát thánh đạo mau được viên mãn. Tu tập như thế nào ? Đó là nhờ xa lìa đoạn kiến, thường kiến, gọi là tu tập chánh kiến, lìa dục giác, nhuế giác và hại giác, gọi là tu tập chánh tư duy. Xa lìa sự bất bình đẳng của mình và người, gọi là tu tập chánh ngữ. Lìa tưởng dua nịnh, hư ngụy, không thật, gọi là tu tập chánh mạng. Lìa bỏ việc làm thân tâm khiếp nhược gọi là tu tập chánh nghiệp. Xa lìa tâm tự kiêu căng, khinh mạng người khác, gọi là tu tập chánh cần. Xa lìa các sự hôn trầm, ngu si gọi là tu tập chánh niệm. Dứt hết các sự phân biệt, gọi là tu tập chánh định. Đó gọi là tu tập Bát thánh đạo phần.

Này các nhân giả ! Tôi lấy cái nghĩa đã nói như trước nên bảo các Bồ tát nên trụ không ph1ng dật, được thành tựu ba mươi bảy thứ Bồ đề phần … tất cả thiện pháp, chứng được Vô thượng Bồ đề của chư Phật.

Chư nhân giả ! Bồ tát không phóng dật này đã nhập vào Bồ đề phần như vậy rồi thì ra khỏi tất cả các bùn lầy ứ đọng của sanh tử, đã ra khỏi sanh tử rồi, đối với tất cả pháp, hoàn toàn không có cái thấy. Vì không có cái thấy nên chẳng có gì để nói. Vì không có gì để nói nên được nhập vào tất cánh tịch tịnh.

Sao gọi là tất cánh tịch tịnh ? Vì tất cả pháp chẳng phải sở tác nên không thể nắm giữ. Vì không thể nắm giữ nên không có công dụng. Vì không có công dụng nên không thể an lập. Vì lấy đó làm hữu nên biết chính là tất cánh tịch tịnh.

Khi Bồ tát nói pháp này, có một van hai ngàn thiên tử ở trong hội xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Bấy giờ thiên tử Thiện Thắng lại bạch Bồ tát Văn Thù Sư Lợi :

– Đại sĩ ! Sao gọi là tu hành Bồ tát đạo ?

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đáp :

– Thiên tử ! Bồ tát tuy không bỏ sanh tử mà không bị các điều ác của sanh tử ô nhiễm. Tuy không trụ ở vô vi mà hằng tu công đức. Tuy tu hành đầy đủ sáu ba la mật mà thị hiện hạnh Thinh văn và Bích Chi Phật. Đó gọi là tu hành Bồ tát đạo.

Lại nữa, này thiên tử. Hoặc Bồ tát tuy đối với Không, thanh tịnh mà khéo thị hiện các cảnh, cũng không nắm giữ cảnh, tuy đối với vô tướng thanh tịnh mà khéo nhập các tướng, cũng không chấp nơi tướng; tuy đối với vô nguyện thanh tịnh mà khéo hành nơi Tam giới, cũng không đắm trước cảnh giới; tuy đối với vô sanh vô diệt thanh tịnh mà khéo nói sanh tử, cũng không thọ sanh tử. Vì sao vậy ? Đó là Bồ tát điều phục tâm. Tuy rõ biết tất cả pháp là không, vô sở hữu, nhưng vì các chúng sanh trong cảnh giới mà sanh kiến trước, nhưng vì kiến trước nên tăng trưởng phiền não. Bồ tát muốn khiến các chúng sanh đoạn trừ các kiến trước nên mới thuyết pháp, khiến cho chúng sanh biết rằng tất cả cảnh giới là không. Như đã nói về không, vô tướng, vô nguyên thì với vô sanh vô diệt đều cũng như vậy. Đó gọi là tu hành hành Bồ tát đạo.

Lại nữa, thiên tử ! Có đi có lại, gọi là tu Bồ tát đạo. sao gọi là có đi có lại ? Đó là quán tâm ưa thích điều dục của các chúng sanh, gọi là có đến đi tùy theo sự ưa thích của họ mà thuyết pháp, nên gọi là lại. Tự nhập Tam muội gọi là đi, khiền các chúng sanh đạt được Tam muội gọi là lại. Tự hành thánh đạo gọi là đi, mà hay giáo hóa tất cả phàm phu gọi là lại. Tự được vô sanh pháp nhẫn gọi là đi, khiến cho các chúng sanh đều được nhẫn này, gọi là lại. Tự dùng phương tiện ra khỏi sanh tử gọi là đi, khiến cho chúng sanh đều được xuất ly , gọi là lại. Tâm thích tịch tĩnh gọi là đi, thường ở tại sanh tử giáo hóa chúng sanh gọi là lại. Tự siêng quán sát hành qua lại gọi là đi, vì các chúng sanh thuyết pháp như vậy gọi là lại. Tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát gọi là đi, vì khiến cho chúng sanh đoạn trừ ba tâm tâm giác quán mà thuyết pháp gọi là lại. phát lời thệ nguyện kiên cố gọi là đi, tùy theo thệ nguyện, cứu vớt chúng sanh gọi là lại. Phát tâm Bồ đề, nguyện ngồi đạo tràng gọi là đi, tu đủ các hạnh Bồ tát phải làm gọi là lại. Đó gọi là con đường của Bồ tát đi và lại.

Khi Bồ tát nói đến pháp này có năm trăm Bồ tát ở trong hội đều được vô sanh pháp nhẫn. Bấy giờ thiên tử Thiện Thắng lại bạch Bồ tát Văn Thù Sư Lợi :

– Đại sĩ ! Tôi từng nghe có tất cả các công đức của thế giới Quang Minh. Thế giới như vậy ở chỗ nào ? Tên của đức Phật ở đó là gì mà Ngài đang thuyết pháp tại đó ?

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đáp :

– Thiên tử ! Ở trên phương này trải qua hai mươi lăm hằng hà sa cõi Phật có thế giới tên là Nhất Thiết Công Đức Quang Minh, hiệu của Phật là Phổ Hiển Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Ngài ở trong cõi đó diễn nói chánh pháp.

Thiên tử Thiện Thắng thưa :

– Đại sĩ ! Tâm con muốn thấy được thế giới và đức Như Lai cõi ấy. Cúi mong Ngài xót thương làm cho con được thấy.

Khi ấy Bồ tát Văn Thù Sư Lợi liền nhập Tam muội, Tam muội này gọi là Ly Cấu Quang Minh. Từ trong thân ngài phóng ra vô số ánh sáng. Ánh sáng này trên thấu đến mười hai hằng hà sa cõi Phật, thẳng tới thế giới Nhất Thiết Công Đức Quang Minh. Vô số sắc quang chiếu khắp nước ấy. Các Bồ tát xứ ấy thấy hào quang này nên được điều chưa từng có, liền chấp tay cung kính bạch đức Như Lai Phổ Hiền rằng :

– Bạch Thế tôn, nay luồng ánh sáng này từ đâu chiếu đến ?

Đức Phật Phổ Hiền đáp :

– Thiện nam tử ! ở phương dưới trải qua mười hai hằng hà sa cõi Phật có thế giới tên la Ta Bà, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Chánh đẳng giác, hiện nay ngài đang thuyết pháp. Ngài có vị Bồ tát tên là Văn Thù Sư Lợi, trụ bất thối chuyển nhập Tam muội Ly Cấn Quang Minh. Trong thân vị ấy phóng ra vô số ánh sáng, ánh sáng xa đến mười phương vô lượng a tăng kỳ thế giới, mỗi mỗi thế giới hào quang đều trùm khắp. Cho nên bây giờ có ánh sáng này.

Các Bồ tát kia lại thưa rằng :

– Bạch Thế tôn! Nay chúng con đều mong được thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ tát Văn Thù Sư Lợi của thế giới Ta Bà.

Bấy giờ đức Như Lai Phổ Hiền liền phóng luồng ánh sáng lớn trong bàn chân tướng có bánh xe ngàn căm, hào quang ấy rất sáng, chiếu xa mười hai hằng hà sa cõi Phật ở phương dưới, nhập vào thế giới Ta Ba, hào quang bao trùm tất cả.

Các bồ tát ấy nhờ hào quang của đức Phật, không ai mà không thấy Phật Thích Ca Mâu Ni và các Bồ tát … ở cõi Ta Bà. Các Bồ tát ở cõi Ta Bà cũng thấy đức Như Lai Phổ Hiền và chúng Bồ tát ở cõi kia.

Bấy giờ đức Như Lai Phổ Hiền bảo các Bồ tát rằng :

– Ở thế giới Ta Bà đức Phật luôn nói Đại pháp. Các ngươi ai có thể đến để nghe và thọ trì pháp ?

Trong chúng có một vị Bồ tát tên là Chấp Trí Cự, từ tòa đứng dậy, bạch đức Thế tôn :

– Nay con mong được nương theo thần lực của Phật để đến thế giới của Ta Bà. Cúi xin đức Như Lai dũ lòng thương xót chấp thuận.

Đức Phật Như Lai Phổ Hiền nói :

– Này thiện nam tử ! Nay đã đúng lúc, mau đến cõi đó.

Bấy giờ Bồ tát Chấp Trí Cự cùng mười ức Bồ tát cúi đầu đính lễ đức Như Lai Phổ Hiền, chấp tay cung kính nhiễu bảy vòng quanh phía hữu, liền biến mất ở cõi đó. Thí như khoảnh khắc lực sĩ co duỗi cánh tay, đến cung trời Đâu Suất của thế giói Ta Bà, khéo an trụ trong lầu quán, phía trước chúng hội của Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, cúi đầu chấp tay đảnh lễ dưới chân Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, bạch rằng ;

– Thưa đại sĩ ! Ngài đã phóng hào quang đến nước chúng tôi. Dức Thế tôn chúng tôi là Như Lai Phổ Hiền, Ứng Chánh đẳng giác, cho phép chúng tôi đến thế giới này để ra mắt, đảnh lễ, chiêm ngưỡng và nghe pháp của đại sĩ.

Bấy giờ thiên tử các cõi Dục giới, Sắc giới, các Bồ tát nước kia đến, họ đều nói rằng :

– Lành thay ! Lành thay ! Không thể nghĩ lường. Hết sức hy hữu ! Hết sức hy hữu ! Chỉ có đại sĩ quyền xảo Văn Thù Sư Lợi mới có sự thần thông biến hóa như vậy. Ngài dùng sức Tam muội phóng luồng hào quang này mới có thể đến được thế giới phương trên kia, khiến các Bồ tát đến dầ9y nhanh như vậy.

Khi ấy Bồ tát Văn Thù Sư Lợi lại vì đại chúng rộng tuyên diệu pháp. Có bảy mươi hai na do tha các chúng thiên tử ở trong hội sanh tâm tín giải sâu xa, phát tâm A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề.

Bấy giờ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi ở cung trời Đâu Suất, sự việc đã hoàn mãn, cùng với các Bồ tát, Thích, Phạm, Tứ thiên vương … vô lượng chư thiên và các Bồ tát đi đến từ quốc độ Nhất Thiết Công Đức Quang Minh, không rời khỏi tòa, biến mất khỏi cung trời, trong khoảng một niệm đi đến chỗ đức Phật, đều từ tòa đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật, chấp tay cung kính, nhiễu bên hữu bảy lần. Khi nhiễu quanh đức Phật xong thì Bồ tát Chấp Trí Cự cùng mười ức vị đến trước bạch đức Phật :

– Bạch Thế tôn ! Đức Phật Như Lai Phổ Hiền có lời hỏi thăm Ngài : thân thể có khỏe mạnh, ít bệnh ít não; an lạc chăng ?

Bấy giờ Thế tôn như pháp an ủy, hỏi thăm các Bồ tát xong, khắp xem các đại chúng mới đến, bảo mọi người ngồi xuống, rộng rãi thuyết pháp, làm cho không ai mà không hoan hỷ.

Bấy giờ đức Thế tôn lại bảo đại chúng :

– Các người nên biết ! Đồng tử Văn Thù Sư Lợi và Bồ tát Chấp Trí Cự này vì muốn thành thực vô lượng chúng sanh, mới hiện việc thần thông biến hóa này. Đây là hai vị trượng phu mới có thể thành tựu các thứ phương tiện, đạt lý sâu xa, trí huệ biện tài, đã ở trong vô lượng a tăng kỳ kiếp thi hành Phật sự, vì chúng sanh mới sanh ở thế gian. Nếu có chúng sanh nào được thấy hai vị Bồ tát này, nên biết liền được sáu căn tự tại, vĩnh viễn không vào cảng giới ác ma.

Bấy giờ Bồ tát Chấp Trí Cự và các chúng Bồ tát mới đến, vào quốc độ này được thấy Thế tôn, nhờ được nghe pháp nên chứng được Vô sanh nhẫn. Khi được nhẫn này xong, nhiễu phía bên hữu đức Phật, kính lạy dưới hai chân Ngài.

Ngay lúc ấy, thế giới ba ngàn đại thiên chấn động. Các Bồ tát này ngay khi ở trước đức Phật biến mất không hiện, chỉ trong khoảnh khắc quay về bổn quốc.

Bấy giờ đức Thế tôn bảo trưởng lão A-Nan :

– Ngươi nên phụng trì pháp môn này, rông thuyết cho mọi người.

Tôn giả A-Nan thưa :

– Bạch Thế tôn ! Pháp môn này tên gọi là gì ? Phụng trì như thế nào ?

Đức Phật dạy :

– Pháp môn này gọi là “ Văn Thù Sư Lợi nói về cảnh giới bất tư nghị của Phật “. Phải phụng trì như vậy.

Đức Phật nói kinh này xong, Thiên tử Thiện Thắng, trưởng lão A-Nan và hết thảy thiên, nhân, A tu la, Càn thác bà … ở thế gian đều hết sức hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

    Xem thêm:

  • Kinh Trung Bộ 104 – Kinh Làng Sama (Sàmagàma sutta) - Kinh Tạng
  • Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Căn Bổn Đại Giáo Vương Kinh Kim Sí Điểu Vương Phẩm - Kinh Tạng
  • Phật nói Luận A Tỳ Đàm về Sự Thế Giới Thành Lập - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 48 – Kinh Kosambiya (Kosambiya sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Khổ Ấm Nhân Sự - Kinh Tạng
  • Kinh Trưởng Giả Cự Lực Hỏi Về Đại Thừa - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 128 – Kinh Tùy Phiền Não (Upakkilesa sutta) - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Niệm Tụng Đà La Ni Nhứt Kế Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Nhật Tử Vương Sở Vấn - Kinh Tạng
  • Kinh Tôn Giả Hộ Quốc Hỏi Về Đại Thừa - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 14 – Tiểu Kinh Khổ Uẩn (Cùladukkhakkhanda sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Vì Ta Già La Long Vương Sở Thuyết Đại Thừa - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Lục Tự Chú Công Năng Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Khổ Ấm - Kinh Tạng
  • Giải Thích Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa 12 Tương Khế Với 108 Danh Hiệu Vô Cấu Của Thiên Nữ Đại Cát Tường - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác - Kinh Tạng
  • Kinh Tổng Trì Nhứt Thiết Như Lai Ô Sắt Nị Sa Tối Thắng - Kinh Tạng
  • Thức Xoa Ma Na Ni Giới Bổn - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Cúng Dường Dược Sư Thất Phật Kinh Như Ý Vương - Kinh Tạng