QUYỂN TRUNG
Phần thứ ba : Sở tri tướng
Đã nói về sở tri y, còn sở tri tướng nên quán như thế nào ?
Đại khái có 3 thứ : một là tướng y tha khởi, hai là tướng biến kế sở chấp, ba là tướng viên thành thật.
Thế nào là tướng y tha khởi ?
Nghĩa là thức A-lại-da làm chủng tử, hư vọng phân biệt gồm thâu các thức.
Thế là thế nào ?
Nghĩa là các thức sai biệt như thân thức, thân giả thức, bỉ sở thụ thức, bỉ năng thụ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức, tự tha sai biệt thức, thiện thú ác thú tử sinh thức. Trong đây nếu thân thức, thân giả thức, thụ giả thức, bỉ sở thụ thức, bỉ năng thụ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức thì do chủng tử danh ngôn huân tập. Nếu là tự tha sai biệt thức, tức do chủng tử ngã kiến huân tập. Nếu là thức thiện thú ác thú sinh tử, tức do chủng tử hữu chi huân tập. Do các thức này bao gồm tạp nhiễm tất cả các cõi chúng sinh nên hiển hiện sự phân biệt của tướng y tha khởi. Như vậy các thức đều thuộc hư vọng phân biệt, nên tính của duy thức là vô sở hữu, không nơi căn cứ cho nghĩa chân thật. Đó là tướng y tha khởi.
Thế nào là tướng biến kế sở chấp ?
Nghĩa là trong duy thức không có nghĩa chân thật, chỉ hiển hiện nghĩa tương tự mà thôi.
Thế nào là tướng viên thành thật ?
Nghĩa là ở nơi tướng y tha khởi kia, do là tướng của nghĩa tương tự nên vĩnh viễn không có thật tính.
Phải biết trong các thức này, thân thức, thân giả thức và thụ giả thức là 6 nội giới như nhãn v.v…Sở thụ thức kia, tức 6 ngoại giới như sắc v.v… Năng thụ thức kia tức là 6 thức giới như nhãn v.v…Ngoài ra các thức khác tức các sai biệt của các thức trên đây.
Lại nữa các thức đều chỉ có thức mà không có thật, vậy lấy ví dụ gì để thấy rõ ?
Để thấy rõ, các thí dụ thường dùng như chiêm bao v.v…Nghĩa là như trong chiêm bao, không có gì là thật mà chỉ có thức. Tuy có các ảnh tượng giống thật hiện ra như sắc, thanh, hương, vị, xúc, nhà cửa, đất đai, rừng núi. Những thứ này đều không có thật. Do thí dụ này phải biết rõ lúc nào, nơi nào cũng chỉ có thức. Chữ v.v…nghĩa là ngoài thí dụ chiêm bao còn những thí dụ khác nữa như ảo thuật, cuồng say, con nai khát nước, hoa mắt.
Khi ngủ đã thức dậy thì lúc ấy, nơi ấy đều là cảnh chiêm bao v.v… chỉ có thức. Như từ chiêm bao thức dậy mới biết trong chiêm bao đều chỉ có thức.
Thế sao lúc đang thức không có sự hiểu biết như vậy ?
Khi có chân trí giác ngộ thì hiểu biết như vậy. Như ở trong chiêm bao thì không có sự hiểu biết này. Từ chiêm bao thức dậy rồi mới có sự hiểu biết này. Cũng giống như vậy, khi chưa được chân trí giác ngộ thì không có sự hiểu biết này. Được chân trí giác ngộ mới thấy biết được như vậy.
Người chưa được chân trí giác ngộ, đối với đạo lý duy thức làm sao đối chiếu biết được ?
Do giáo và lý có thể đối chiếu biết được. Giáo là như Kinh Thập Địa, Phật nói 3 cõi chỉ có tâm mà thôi. Phật cũng nói như vậy trong Kinh Giải Thâm Mật. Trong kinh ấy, Bồ-tát Từ Thị hỏi Thế Tôn :
Các ảnh tượng của hành tướng trong Tam-ma-địa là khác hay không khác với tâm ?
Phật bảo Từ Thị : Phải nói là không khác. Bởi vì sao ? Bởi các ảnh tượng kia chỉ là thức, nên ta nói do thức duyên, chỉ do thức hiện khởi.
-Thế Tôn ! Nếu ảnh tượng của các hành tướng trong Tam-ma-địa không khác với tâm này thì sao tâm này trở lại chấp lấy cái tâm này ?
-Từ Thị ! Không có một tí pháp nào có thể chấp lấy một tí pháp nào. Nhưng tâm ấy khi sinh khởi tức có hiện ra ảnh tượng như vậy. Như bản chất làm duyên trở lại thấy bản chất. Như nói nay ta thấy ảnh tượng, và bảo rằng lìa bản chất mà có ảnh tượng để thấy, thì ảnh tượng hiện ra kia với tâm này cũng vậy. Như vậy khi tâm sinh khởi thì thấy có ảnh tượng tương tự hiện ra.
Do giáo nghĩa này mà lý cũng được hiển lộ. Bởi vì sao ? Vì trong định, tùy tâm quán thấy các hiện tượng như toàn một màu xanh bầm mà không một màu nào khác. Màu xanh bầm là chỉ thấy tự tâm. Do đạo lý này Bồ-tát đối với tất cả cảnh hiện trong thức đều có thể đối chiếu mà biết là đều chỉ có thức, không có cảnh giới thật.
Lại nữa cái màu xanh bầm không phải do thức duy trì và hồi ức, cái thấy là duyên cảnh hiện tiền trước mắt. Và cái nghe và suy nghĩ thành ra 2 cái gìn giữ và nhớ lại cũng lấy quá khứ làm cảnh sở duyên, cho nên ảnh tượng hiện ra cũng là duy thức. Do từ tỷ lượng này, Bồ-tát tuy chưa được chân trí giác ngộ cũng có thể đối chiếu mà biết được lý duy thức.
Như vậy là đã nói các thức ví dụ như chiêm bao v.v…. Tức trong các ví dụ, nhãn thức v.v…các thức đều có thể thành duy thức. Nhưng nhãn thức v.v… các thức đã là có sắc cảnh, mà cũng là chỉ có thức, thì làm sao thấy được ?
Đây cũng giống như trước, nghĩa là phải suy từ giáo và lý.
Nếu các thức này, bản thể cũng là thức thì tại sao hiển hiện tương tự tính chất của sắc và liên tục tồn tại ?
Vì cùng với các pháp tạp nhiễm điên đảo làm chỗ dựa. Nếu không như vậy thì trong phi nghĩa đã không khởi nghĩa điên đảo. Nếu không thì đã không có 2 chướng tạp nhiễm là phiền não và sở tri. Nếu không thì cũng không có các pháp thanh tịnh. Vì vậy các thức đã chuyển biến như vậy. Ở đây có bài tụng như sau :
Loạn tướng và loạn thể,
Đều cho là sắc thức,
Cùng với phi sắc thức,
Nếu không, mọi sự không.
Vì sao thân thức, thân giả thức, thụ giả thức, sở thụ thức, năng thụ thức đều cùng tồn tại cùng hòa hợp chuyển biến trong tất cả thân ?
Vì vậy mới có thể thể hiện đầy đủ sự thụ dụng trong đời sống.
Vì sao thế thức v.v…các thức có chuyển biến sai biệt ?
Vì từ vô thủy đến nay sinh tử lưu chuyển không đoạn dứt. Vì thế giới chúng sinh không số lượng. Vì thế giới như cái đồ đựng không số lượng. Vì ngôn ngữ nói về các việc làm không số lượng. Vì các sự giữ lấy, thụ dụng khác nhau không số lượng. Vì sự thụ dụng quả dị thục của nghiệp ái phi ái khác nhau không số lượng. Vì chịu các thứ sinh tử khác nhau không số lượng.
Lại nữa, làm thế nào thành lập các thức như vậy làm tính của duy thức ?
Nói sơ lược có 3 tướng : một là do chỉ có thức mà không có thật, hai là do 2 tính mà có 2 thức tướng phần và kiến phần khác nhau, ba là do rất nhiều thứ hành tướng sinh khởi. Bởi vì sao ? Vì tất cả thức không có thật nên thành duy thức. Bởi có tướng phần và kiến phần nên thành 2 thứ thức. Nếu các thức như nhãn thức v.v… lấy các thức như sắc thức v.v… làm tướng phần, thì lấy cái thức của nhãn thức làm kiến phần, cho đến cái thức của thân thức làm kiến phần. Nếu ý thức lấy tất cả các thức từ đầu tiên là nhãn thức đến cuối cùng là pháp thức làm tướng phần, thì lấy thức của ý thức làm kiến phần. Do đó ý thức có phân biệt, tương tự như tất cả thức mà sinh khởi. Ở đây có bài tụng như sau :
Duy thức : hai, nhiều thứ,
Quán như vậy :ngộ nhập.
Do ngộ nhập duy thức,
Chiết phục rồi thoát ly.
Lại ở đây có một số sư nói chỉ có một ý thức. Ý thức ấy tùy chuyển mà có các tên khác nhau. Như nghiệp của ý, gọi là thân nghiệp, ngữ nghiệp.
Lại nữa ở tất cả nơi sở y, khi chuyển biến thì sinh nhiều thứ ảnh tượng gồm có 2 loại : ảnh tượng thật và ảnh tượng phân biệt. Lại nữa ở tất cả mọi nơi sự chuyển biến tựa ý thức chạm xúc ảnh tượng. Trong thế giới có hình sắc thì ý thức này dựa vào thân, như các sắc căn nương tựa vào thân vậy. Ở đây có bài tụng như sau :
Đi xa, đi một mình,
Không thân ngủ trong hang.
Điều phục tâm khó trị,
Là chân thật phạm chí.
Lại như kinh nói các cảnh giới mà 5 căn đi qua, ý thức đều có thể tiếp thụ. Ý thức là chỗ dựa của 5 căn.
Lại có chỗ nói trong 12 xứ, 6 thức thân đều gọi là ý xứ. Nếu nơi nào lập thức A-lại-da làm thức thật thì nên biết rằng tất cả các thức khác là thức tướng phần của nó. Nếu ý thức và các thức nó y chỉ là thức kiến phần của nó. Do thức tướng phần kia là tướng sinh duyên của thức kiến phần. Khi tựa như thật hiển hiện thì nó có thể làm chỗ y chỉ cho thức kiến phần sinh khởi. Như vậy là đã xác lập các thức thành tính của duy thức.
Mọi sự thật hiện tiền rõ ràng mà làm sao biết rằng nó không phải thật có ?
Như Thế Tôn nói : Nếu Bồ-tát thành tựu 4 pháp có thể ngộ nhập tất cả duy thức, tất cả đều không có thật. Một là thành tựu cái trí biết thức tướng trái nhau. Như ngạ quỷ, bàng sinh và chư thiên đối với cùng một sự việc mà có sự thấy biết khác nhau. Hai là thành tựu cái trí biết không có cảnh sở duyên mà thức vẫn có thể có hiện hành. Như duyên quá khứ, vị lai, ảnh tượng trong chiêm bao. Ba là thành tựu cái trí biết phải lìa sự dụng công mà không điên đảo. Như trong thật nghĩa có thể duyên nghĩa thức mà không điên đảo, vì chân thật không do dụng công. Bốn là thành tựu 3 cái thắng trí biết tùy chuyển. Những gì là ba ? Một là được tâm tự tại. Tất cả Bồ-tát được tĩnh lự tùy theo sức thắng giải mà các nghĩa hiển hiện. Hai là người được pháp tu quán Xa-ma-tha thì vừa tác ý các nghĩa liền hiển hiện. Ba là người đã được trí vô phân biệt thì trước khi trí vô phân biệt hiện tiền, các nghĩa đều không hiển hiện. Do 3 thứ thắng trí tùy chuyển đây với 3 thứ nhân duyên nói trên mà thành tựu lý thật và không thật.
Nếu tự tính y tha khởi thật chỉ có thức, làm chỗ y chỉ cho những hiển hiện không thật thì sao gọi là y tha khởi ? Vì nhân duyên gì gọi là y tha khởi ?
Từ chủng tử huân tập sinh ra, do duyên cái khác mà sinh khởi nên gọi là y tha khởi. Sau khi sinh ra một sát-na không có công năng mà tự nhiên tồn tại nên gọi là y tha khởi.
Nếu tự tính biến kế sở chấp dựa vào y tha khởi, hiển hiện tựa như thật mà không thật có thì sao thành biến kế sở chấp ? Vì nhân duyên gì gọi là biến kế sở chấp ?
Vì là hành tướng của ý thức, chấp trước khắp cả điên đảo sinh ra, nên gọi là biến kế sở chấp. Vì không có tự tướng, chỉ do chấp trước khắp cả mà được, nên gọi là biến kế sở chấp.
Nếu tự tính viên thành thật là vĩnh viễn không còn tướng biến kế sở chấp thì thế nào là thành viên thành thật ? Do nhân duyên gì gọi là viên thành thật ?
Do tính không biến đổi nên gọi là viên thành thật. Lại do tính nó là sở duyên của thanh tịnh, là tính vượt trội hơn tất cả thiện pháp. Do nghĩa vượt trội này mà gọi là viên thành thật.
Lại nữa có năng biến kế, có sở biến kế mới thành tự tính của biến kế sở chấp. Vậy cái gì là năng biến kế, cái gì là sở biến kế, cái gì là tự tính của biến kế sở chấp ?
Ý thức là năng biến kế, vì có phân biệt. Bởi vì sao ? Vì ý thức này dùng danh ngôn tự huân tập làm chủng tử, và dùng danh ngôn huân tập của tất cả thức làm chủng tử, cho nên ý thức có vô số hành tướng phân biệt chuyển biến khắp tất cả sự phân biệt kế đạc nên gọi là biến kế. Còn tự tính y tha khởi gọi là sở biến kế. Lại nếu do cái tướng này khiến cho tự tính y tha khởi thành biến kế, thì gọi là tự tính biến kế sở chấp. Do tướng như vậy mà có nghĩa như vậy.
Lại nữa thế nào là biến kế có thể kế đạc khắp cả ? Duyên cảnh giới nào ? Thủ lấy tướng mạo gì ? Do cái gì chấp trước ? Lấy cái gì khởi lên ngôn ngữ ? Lấy cái gì nói năng ? Tăng ích cái gì ?
Do duyên tên gọi làm cảnh. Trong tự tính y tha khởi, thủ lấy tướng mạo của y tha khởi. Do vọng kiến mà chấp trước. Lấy sự tìm cầu mà khởi lên ngôn ngữ. Do 4 thứ thấy, nghe, hay, biết mà khởi lên sự nói năng. Trong sự không thật, tăng thêm sự hiện hữu. Do đó biến kế có thể kế đạc khắp tất cả.
Lại nữa 3 tự tính này khác nhau hay không khác nhau ?
Phải nói là chẳng khác, chẳng phải không khác. Nghĩa là tự tính y tha khởi là do từ một cái khác mà thành ra có y tha khởi. Tức là tự tính này là do cái khác nên thành biến kế sở chấp. Tức là tự tính này là do cái khác nên thành viên thành thật.
Vậy do cái khác gì mà tính y tha khởi này thành y tha khởi ?
Là do các chủng tử y tha huân tập sinh khởi.
Do cái khác gì mà tính y tha khởi này thành biến kế sở chấp ?
Là do tướng sở duyên của biến kế, và cũng là sở biến kế của biến kế.
Do cái khác gì mà tính y tha khởi này thành viên thành thật ?
Là như biến kế tất cả rồi mà không thật có như đã biến kế.
Ba tự tính này, mỗi tính có bao nhiêu thứ ?
Y tha khởi đại khái có 2 thứ. Một là do chủng tử y tha huân tập sinh ra. Hai là không thành tính y tha là tạp nhiễm hay thanh tịnh. Do có 2 thứ y tha khác biệt nên gọi là y tha khởi.
Biến kế sở chấp cũng có 2 thứ. Một là tự tính biến kế chấp. Hai là sai biệt biến kế chấp. Do đó nên gọi là biến kế sở chấp.
Tính viên thành thật cũng có 2 thứ. Một là tự tính viên thành thật. Hai là thanh tịnh viên thành thật. Do đó nên gọi là tính viên thành thật.
Lại nữa biến kế có 4 thứ : 1.tự tính biến kế, 2.sai biệt biến kế, 3.hữu giác biến kế, 4.vô giác biến kế. Hữu giác là giỏi về danh ngôn. Bất giác là không thông thạo danh ngôn. Do đó biến kế lại có 5 thứ : Một là y danh biến kế nghĩa tự tính. Nghĩa là tên gọi như vậy thì có nghĩa như vậy. Hai là y nghĩa biến kế danh tự tính. Nghĩa là theo nghĩa như vậy thì có tên như vậy. Ba là y danh biến kế danh tự tính. Nghĩa là y theo tên mà biến kế tất cả các tên chưa rõ nghĩa. Bốn là y nghĩa biến kế nghĩa tự tính. Nghĩa là kế đạc tất cả các nghĩa mà chưa biết tên. Năm là y theo 2 biến kế và 2 tự tính. Nghĩa là kế đạc khắp cả tên như vậy, nghĩa như vậy và thể tính như vậy.
Lại nữa gồm thâu tất cả phân biệt thì đại lược có 10 thứ. Một là phân biệt căn bản, tức là thức A-lại-da. Hai là phân biệt về duyên tướng, tức sắc thức v.v… Ba là phân biệt về hiển tướng, tức nhãn thức v.v…và thức sở y. Bốn là phân biệt về sự biến đổi của duyên tướng, tức như biến đổi thành già, biến đổi cảm thụ vui v.v…, biến đổi vì tham v.v…, biến đổi khó chịu vì thời tiết thay đổi, biến đổi các nẻo đường chúng sinh như Nại-lạc-ca v.v…và biến đổi các cõi như cõi Dục v.v… Năm là phân biệt về biến đổi của hiển tướng, tức biến đổi của các biến đổi nói trên. Sáu là phân biệt do từ người khác đưa đến, tức phân biệt khi nghe phi pháp và nghe chính pháp. Bảy là phân biệt không đúng lý, tức như phân biệt của ngoại đạo nghe các pháp không đúng chính pháp. Tám là phân biệt đúng lý, tức phân biệt các loại chính pháp khi nghe chính pháp. Chín là phân biệt chấp trước, tức phân biệt thuộc loại tác ý không đúng, như tương ưng 62 kiến chấp lấy Tát-ca-da kiến làm gốc. Mười là phân biệt tán động, tức 10 thứ phân biệt của Bồ-tát. Đó là : 1.tán động không có tướng, 2.tán động có tướng, 3.tán động tăng ích, 4.tán động tổn giảm, 5.tán động một tính, 6.tán động khác tính, 7.tán động tự tính, 8.tán động sai biệt, 9.tán động lấy nghĩa theo tên, 10.tán động lấy tên theo nghĩa. Để đối trị 10 thứ tán động này, trong tất cả Bát-nhã Ba-la-mật-đa nói trí vô phân biệt. Như vậy phải biết sở trị năng trị đều gồm thâu đầy đủ nghĩa của Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Nếu do tự tướng sai biệt mà tự tính của y tha khởi có 3 tự tính thì tại sao 3 tự tính không thành ra không khác nhau ?
Vì nếu do tự tướng sai biệt mà thành y tha khởi thì không do đó mà thành biến kế sở chấp và viên thành thật. Nếu do tự tướng sai biệt mà y tha khởi thành biến kế sở chấp thì không do đó mà thành y tha khởi và viên thành thật. Nếu do tự tướng sai biệt mà y tha khởi thành viên thành thật thì không do đó mà thành y tha khởi và biến kế sở chấp.
Lại nữa làm sao biết được, như tự tính y tha khởi, tự tính biến kế sở chấp hiển hiện nhưng không xứng thể ?
Vì trước khi có cái tên thì cái biết không có, nói xứng thể là mâu thuẫn. Do tên có nhiều, nhiều mâu thuẫn với thể. Cho nên do tên không quyết định mà mâu thuẫn với tạp thể. Ở đây có 2 bài tụng như sau :
Trước tên , không trí giác,
Tên nhiều không nhất định.
Thành xứng thể, nhiều thể,
Tạp thể mâu thuẫn nhau.
Pháp không mà như có,
Không nhiễm mà có tịnh.
Nên biết như ảo thuật,
Cũng tựa như hư không.
Lại nữa vì sao như chỗ hiển hiện là không thật có, mà tự tính y tha khởi không phải tất cả , tất cả đều không có. Nếu tự tính y tha khởi là không, thì tự tính viên thành thật cũng không. Nếu tự tính y tha khởi là không , thì tất cả đều không. Nếu tự tính y tha khởi và viên thành thật là không, thì sẽ thành cái lỗi là không có nhiễm tịnh. Nhưng tạp nhiễm và thanh tịnh đã là hiện có, cho nên không nên nói tất cả đều không. Ở đây có bài tụng như sau :
Nếu không y tha khởi,
Viên thành thật cũng không.
Nhất thiết chủng nếu không,
Mãi mãi không nhiễm tịnh.
Chư Phật Thế Tôn nói giáo nghĩa Phương Quảng trong Đại thừa. Giáo nghĩa ấy nói như sau :
Nên biết tự tính của biến kế sở chấp như thế nào ?
Nên biết vì tự tướng sai biệt nên nói là không thật có.
Nên biết tự tính của y tha khởi như thế nào ?
Nên biết nó như ảo thuật, như sóng nắng, như chiêm bao, như ảnh tượng, như bóng sáng, như tiếng vang trong hang, như trăng dưới nước, như biến hóa.
Nên biết tự tính của viên thành thật như thế nào ?
Nên biết nói rõ 4 pháp thanh tịnh. Những gì là 4 pháp thanh tịnh ? Một là tự tính thanh tịnh, tức thắng nghĩa của pháp giới chân như, chân không, và thật tế không có tướng. Hai là lìa cấu uế thanh tịnh, tức lìa tất cả các chướng nhơ bẩn. Ba là được thanh tịnh đạo, tức các pháp Bồ-đề phần, Ba-la-mật-đa v.v…Bốn là sinh cảnh thanh tịnh, tức các giáo pháp Đại thừa vi diệu, duyên từ giáo pháp thanh tịnh này nên chẳng phải là tự tính biến kế sở chấp, là tính đẳng lưu của pháp giới rất thanh tịnh nên chẳng phải là tự tính y tha khởi. Như vậy 4 pháp này gồm thâu tất cả các pháp thanh tịnh. Ở đây có 2 bài tụng như sau :
Như huyễn, là nói sinh,
Nói không, là biến kế,
Nói 4 thứ thanh tịnh,
Là nói viên thành thật.
Tự tính và ly cấu,
Thanh tịnh đạo sở duyên,
Tất cả pháp thanh tịnh,
Đều gồm trong 4 tướng.
Lại nữa vì lý do gì kinh nói tự tính y tha khởi ví như ảo hóa v.v… ?
Vì để trừ mối nghi ngờ hư vọng đối với tự tính y tha khởi.
Những mối nghi ngờ ấy như thế nào ?
Là những nghi ngờ hư vọng đối với tự tính y tha khởi, do đó nghi ngờ như sau :
Vì sao không thật có, mà thành cảnh giới của hiện hành được ?
Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như ảo hóa.
Vì sao không thật có, mà có tâm tâm sở pháp chuyển biến ?
Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như sóng nắng.
Vì sao không thật có, mà có các thụ dụng sai biệt đáng ưa , không đáng ưa ?
Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như chiêm bao.
Vì sao không thật có, mà lại sinh các quả báo đáng ưa không đáng ưa của các nghiệp tịnh và bất tịnh khác nhau ?
Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như ảnh tượng.
Vì sao không thật có, mà có các thức chuyển biến ?
Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như bóng sáng.
Vì sao không thật có, mà có những phát ngôn vô nghĩa ?
Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như tiếng vang trong hang.
Vì sao không thật có, mà thật có các cảnh Tam-ma-địa chuyển hiện ?
Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như trăng trong nước.
Vì sao không thật có, mà các Bồ-tát dùng tâm không điên đảo, thụ sinh để làm việc lợi lạc hữu tình ?
Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như biến hóa.
Thế Tôn dựa vào mật ý gì, trong Kinh Phạm Vấn nói : Như Lai không sinh tử, không Niết-bàn ?
Mật ý của Như Lai là nói trong tự tính của y tha khởi, biến kế sở chấp và viên thành thật, sinh tử và Niết-bàn không sai biệt. Bởi vì sao ? Vì chính nơi tự tính y tha khởi, do biến kế sở chấp phân thành sinh tử, do viên thành thật phân thành Niết-bàn.
Trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma, Bạc-già-phạm nói có 3 thứ pháp : một là tạp nhiễm, hai là thanh tịnh và ba là hai phần ấy.
Thế Tôn dựa vào mật ý gì đã nói như vậy ?
Tức là trong tự tính của y tha khởi thì tự tính của biến kế sở chấp là phần tạp nhiễm, tự tính của viên thành thật là phần thanh tịnh. Tức y tha khởi là 2 phần ấy. Dựa vào mật ý ấy Thế Tôn đã nói như vậy.
Lấy thí dụ gì để làm rõ nghĩa này ?
Làm rõ nghĩa này bằng thí dụ đất có chứa vàng. Ví như trong thế gian có 3 thứ có thể được trong đất có vàng : một là cõi địa giới, hai là đất, ba là vàng. Trong cõi địa giới, đất không phải thật có mà có thể có được, vàng là thật có mà không thể có được, khi dùng lửa nung luyện, tướng đất không hiện mà tướng vàng hiện ra. Vì vậy cõi địa giới là 2 phần kia. Thức cũng như vậy, khi lửa trí vô phân biệt chưa nung luyện thì trong thức này hiển hiện những hư vọng của tự tính biến kế sở chấp, còn cái chân thật của tự tính viên thành thật không hiện ra. Nếu thức này khi được lửa trí vô phân biệt nung luyện thì cái chân thật của tự tính viên thành trong thức này hiển hiện, còn những hư vọng của tự tính biến kế sở chấp không hiện ra. Vì vậy cái thức hư vọng phân biệt này, tự tính y tha khởi có 2 phần ấy, như vàng và đất ở trong cõi địa giới.
Thế Tôn có chỗ nói các pháp là thường, có chỗ nói các pháp là vô thường, có chỗ nói tất cả pháp là chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Dựa vào mật ý gì mà Thế Tôn nói như vậy ?
Nghĩa là nơi tự tính y tha khởi, do tính viên thành thật phân ra thành thường, do tính biến kế sở chấp phân ra vô thường, và do 2 phần ấy mà thành phi thường phi vô thường. Dựa vào mật ý này, Thế Tôn đã nói như vậy. Như thường vô thường và không hai thì như vậy khổ, vui và không hai, tịnh bất tịnh và không hai, không bất không và không hai, ngã vô ngã và không hai, tịch tĩnh không tịch tĩnh và không hai, có tự tính không tự tính và không hai, sinh không sinh và không hai, diệt bất diệt và không hai, bản lai tịch tĩnh chẳng phải bản lại tịch tĩnh và không hai, tự tính Niết-bàn chẳng phải tự tính Niết-bàn và không hai, sinh tử Niết-bàn và không hai cũng vậy. Những sai biệt như vậy toàn là mật ngữ của chư Phật, phải do 3 tự tính mà quyết định mới hợp lý, như trên nói thường vô thường v.v…Ở đây có một số bài tụng như sau :
Các pháp không thật có,
Nhưng có nhiều biểu hiện.
Phi pháp phi phi pháp,
Nên nói nghĩa không hai.
Y một phần khai hiển,
Thì hữu hoặc phi hữu.
Y hai phần mà nói,
Phi hữu, phi phi hữu.
Như hiển hiện phi hữu,
Cho nên nói là không.
Do hiển hiện như vậy,
Cho nên nói là có.
Tự nhiên tự thể không,
Tự tính không kiên trụ.
Như chấp thủ không có,
Cho là không tự tính.
Do không tự tính nên
Là y chỉ sau đây.
Vốn lặng không sinh diệt,
Tự tính Bát-niết-bàn.
Lại có 4 thứ ý thú và 4 thứ bí mật, tất cả lời Phật nói phải quyết định tùy trường hợp.
Bốn ý thú là : Một là ý thú bình đẳng. Nghĩa là như nói ta xưa kia khi ấy từng ở nơi ấy là bậc chính đẳng giác tên là Thắng Quán. Hai là ý thú khác thời. Nghĩa là như nói : Ai niệm danh hiệu đức Đa Bảo Như Lai tức đã được quyết định vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Lại như nói : Do chỉ cần phát nguyện, liền được vãng sinh thế giới Cực Lạc. Ba là ý thú khác nghĩa. Nghĩa là như nói : Nếu đã được gặp và phụng sự chư Phật nhiều như số cát sông Hằng thì mới có thể hiểu nghĩa pháp Đại thừa. Bốn là ý thú tùy ý lạc của chúng sinh. Nghĩa là vì một chúng sinh mà trước khen ngợi sự bố thí sau lại chê. Đối với bố thí như vậy thì đối với việc trì giới và một phần tu pháp cũng như vậy. Đó gọi là 4 thứ ý thú.
Bốn bí mật là : Một là bí mật về sự khiến dẫn nhập. Nghĩa là trong Thanh Văn thừa hoặc trong Đại thừa, dựa vào lý thế tục đế nói có tự tính sai biệt của chúng sinh và các pháp. Hai là bí mật về tướng. Nghĩa là ở nơi đó nói tướng của các pháp làm rõ 3 tự tính. Ba là bí mật đối trị. Nghĩa là ở nơi đó nói 8 vạn 4 ngàn hành tướng đối trị. Bốn là bí mật chuyển biến. Nghĩa là ở nơi đó dùng lời, dùng chữ có nghĩa đặc biệt để hiển thị ý nghĩa đặc biệt. Như có bài tụng như sau :
Biết không vững là vững,
Trụ giữa nơi điên đảo.
Phiến não quấy cùng cực,
Được Bồ-đề cao tột.
Nếu có người muốn giải thích pháp Đại thừa thì đại khái nên giải thích theo 3 tướng : Một là theo thuyết duyên khởi. Hai là nói về tướng của các pháp do từ duyên sinh. Ba là nói theo ngữ nghĩa.
Trong đây, nói duyên khởi là như nói :
Các pháp huân tập sinh,
Cái này từ cái kia.
Dị thục và chuyển thức,
Cùng nhau làm duyên sinh.
Lại nữa pháp tướng của chuyển thức kia có tướng có kiến thức làm tự tính. Chuyển thức kia lấy chỗ sở y làm tướng, lấy biến kế sở chấp làm tướng, lấy pháp tính làm tướng. Do đó hiển thị tướng của 3 tự tính, như nói :
Từ có tướng có kiến,
Nên biết 3 tướng kia.
Lại nữa nên giải thích 3 tướng kia như thế nào ?
Nghĩa là trong tướng y tha khởi, tướng biến kế sở chấp thì không, tướng viên thành thật thì có. Do 2 thứ không có với có này mà không được và được, chưa thấy và thấy, với chân như là đồng thời. Nghĩa là nơi y tha khởi, trong tự tính không có biến kế sở chấp mà có viên thành thật nên khi chuyển theo nhiễm tịnh thì nếu được kia thì không được đây, nếu được đây thì không được kia. Như nói :
Y tha : không biến kế,
Mà thành thật thì có.
Cho nên được, không được,
Trong đó hai bình đẳng.
Nói về ngữ nghĩa, tức là trước nói câu đầu, sau dùng những câu khác phân biệt làm rõ. Hoặc do đức, hoặc do nghĩa.
Do đức, tức là nói công đức của Phật là tuệ giác cực kỳ thanh tịnh, hiện hành bất nhị, hướng đến pháp vô tướng, trụ vào địa vị Phật, đạt tới tính bình đẳng của tất cả chư Phật, đến chỗ không còn chướng ngại, giáo pháp thi hành không trở ngại, không thể lay chuyển, chỗ an lập không thể nghĩ bàn, dạo khắp 3 đời pháp tính bình đẳng, thân lưu bố khắp tất cả thế giới, trí thông suốt tất cả pháp, thành tựu đại giác trong tất cả hạnh, trí không nghi hoặc đối với các pháp, không thể phân biệt các hiện thân, trí tuệ mà tất cả Bồ-tát mong cầu, được trụ bờ kia tối thắng của chư Phật không hai, được giải thoát của Như Lai không xen tạp, diệu trí cứu cánh chứng địa vị không trung tâm không ngoại biên, Phật địa bình đẳng pháp giới cao tột, tính như hư không cùng tột đời vị lai. Phải biết câu tuệ giác cực kỳ thanh tịnh này được các câu khác tiếp theo phân biệt làm rõ. Nói như vậy mới gọi là khéo nói pháp.
Tuệ giác cực kỳ thanh tịnh là tuệ giác cực kỳ thanh tịnh của Phật Thế Tôn. Phải biết đó là gồm thâu 21 công đức của Phật. Tức là công đức hoàn toàn không chướng ngại đối với các pháp sở tri. Công đức nhập vào chân như có không không hai tối thắng thanh tịnh. Công đức trụ nơi Phật sự vô công dụng không ngừng nghỉ. Công đức trụ trong pháp thân, ý lạc tác nghiệp không sai biệt. Công đức đối trị, tu tất cả chướng. Công đức hàng phục tất cả ngoại đạo. Công đức an lập chính pháp. Công đức thụ ký. Công đức thị hiện thụ dụng thân và biến hóa thân trong tất cả thế giới. Công đức dứt trừ nghi. Công đức khiến nhập vào các hạnh. Công đức sinh diệu trí đối với các pháp đương lai. Công đức thị hiện đúng như sự thắng giải. Công đức gia hành làm sở y cho sự điều phục vô số chúng sinh. Công đức trọn vẹn đầy đủ pháp thân bình đẳng Ba-la-mật-đa. Công đức tùy theo sự thắng giải thị hiện cõi Phật sai biệt. Công đức về phương xứ không phân chia giới hạn của 3 thứ Phật thân. Công đức thường hiện an lạc lợi ích cho tất cả hữu tình đến tận cùng biên giới của sinh tử. Công đức vô tận.
Lại nữa do nghĩa xứ, như nói : Nếu các Bồ-tát thành tựu 32 pháp mới gọi là Bồ-tát. Tức là đối với tất cả hữu tình khởi ý lạc tăng thượng làm lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh như : Khiến nhập trí nhất thiết trí. Tự biết mình nay không cần cái giả trí. Xô dẹp tâm ngã mạn. Ý lạc vững vàng. Không phải giả thương xót. Bình đẳng không thân sơ. Hằng làm người bạn tốt cho đến cuối cùng được Niết-bàn. Nói cân nhắc đúng mức. Tươi cười trước khi nói. Đại bi vô hạn. Việc phải chịu, không khiếp nhược thoái lui. Không có ý chán nản mỏi mệt. Nghe nghĩa lý không chán. Cảm thấy sâu sắc tội mình đã làm. Người khác tạo tội thì dạy bảo mà không giận. Hằng tu trị tâm Bồ-đề trong tất cả mọi oai nghi. Làm việc bố thí không mong cầu quả báo. Thụ trì giới luật không hướng về các nẻo sinh tử. Thực hành nhẫn nhục đối với chúng sinh không giận không ngại. Siêng năng tinh tiến vì muốn gồm thâu tất cả thiện pháp. Tu tĩnh lự xả bỏ cõi Vô sắc. Phương tiện tương ưng tu tập Bát-nhã. Lấy 4 nhiếp pháp gồm thâu các phương tiện. Đối với người giữ giới phá giới đều là bạn lành không đem tâm phân biệt. Đem tâm ân cần quý trọng mà nghe chính pháp. Với tâm trân trọng, ở nơi tịch tĩnh. Không thích các việc tạp nhạp ở đời. Không bao giờ ưa chuộng các thừa giáo thấp kém. Thấy công đức sâu xa trong Đại thừa. Xa lìa bạn ác. Gần gũi bạn lành. Hằng tu tập 4 phạm trụ. Thường vận dụng tự tại 5 thần thông. Hướng đến nương tựa trí tuệ. Không bỏ các chúng sinh dù ở trong chính hạnh hay không ở trong chính hạnh. Nói lời quyết định. Trọng chân lý sự thật. Thường lấy tâm Đại Bồ-đề làm đầu. Như vậy phải biết các câu này đều là các chi tiết của câu đầu tiên. Tức là câu ý lạc tăng thượng làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, câu này có 16 nghiệp khác nhau. Đó là : 1.nghiệp tuần tự gia hành, 2.nghiệp không điên đảo, 3.nghiệp gia hành tự nhiên, không đợi người mời thỉnh, 4.nghiệp không động, không hư hoại, 5. nghiệp không cầu không nhiễm, nên biết nghiệp này có 3 câu khác nhau, tức là vì không bị nhiễm ràng buộc nên đối với có ơn không có ơn không ưa không ghét, vì đời đời thường tùy chuyển, 6.tương xứng nghiệp thân nghiệp miệng, nên biết câu này có 2 câu khác nhau, 7.nghiệp bình đẳng đối với vui và khổ, 8.nghiệp không thấp kém, 9.nghiệp không thoái chuyển, 10.nghiệp thâu giữ phương tiện, 11.nghiệp chán ghét bị đối trị, nên biết đây có 2 câu khác nhau, 12.nghiệp tác ý không gián đoạn, 13.nghiệp tu hành thắng tiến, nên biết đây có 7 câu khác nhau, tức chính gia hành của 6 Ba-la-mật-đa và chính gia hành của 4 nhiếp sự, 14.nghiệp gia hành trọn vẹn đầy đủ, nên biết đây có 6 câu khác nhau, tức gần gũi thiện sĩ, nghe chính pháp, ở nơi thanh vắng, xa lìa các suy nghĩ xấu ác, công đức tác ý, nên biết câu này lại có 2 câu khác nhau, tức công đức trợ bạn, nên biết đây lại có 2 câu khác nhau, 15.nghiệp đầy đủ trọn vẹn, nên biết đây có 3 câu khác nhau, tức là thanh tịnh vô lượng, được uy lực lớn, công đức chứng đắc, 16.nghiệp an lập cho người, nên biết đây có 4 câu khác nhau, tức công đức điều khiển chúng, dạy dỗ răn dạy quyết định không nghi ngờ, hợp nhất tài và pháp, không tâm tạp nhiễm. Phải biết các câu ấy đều là chi tiết của câu đầu tiên. Như nói :
Do câu nói đầu tiên,
Có các câu về đức.
Do câu nói đầu tiên,
Có các câu về nghĩa.
Phần thứ tư : Ngộ nhập tướng sở tri
Như vậy là đã nói về tướng sở tri, còn ngộ nhập tướng sở tri thì như thế nào ?
Phải thấy rằng sở y của đa văn huân tập không thuộc về thức A-lại-da mà như là thức A-lại-da huân tập thành chủng tử. Cái đa văn huân tập đó thuộc về tác ý đúng lý, từ pháp tương tự, nghĩa tương tự mà sinh ra có sở thủ tương tự. Có ý kiến nói :
Ở đây ai là người có thể ngộ nhập tướng sở tri ?
Là Bồ-tát có sự huân tập đa văn liên tục pháp nghĩa Đại thừa, đã được gặp và phụng sự vô lượng chư Phật xuất hiện ở thế gian, đã được hoàn toàn quyết định thắng giải, đã khéo tích chứa các thiện căn, khéo cụ bị hành trang phúc đức và trí tuệ.
Từ đâu có thể ngộ nhập ?
Tức là từ nơi cái thấy tương tự pháp, tương tự nghĩa của pháp tướng Đại thừa sinh khởi thắng giải hành, trải qua trong các giai đoạn kiến đạo, tu đạo, cứu cánh đạo, tất cả các pháp chỉ có tính duy thức, tùy theo chỗ nghe mà hiểu rõ vượt trội, thông thấu đúng như lý, đối trị tất cả chướng và lìa tất cả chướng.
Do cái gì có thể ngộ nhập ?
Do sức thiện căn trụ vững duy trì, nghĩa là 3 thứ tướng mài luyện tâm, đoạn dứt 4 xứ, duyên cảnh của pháp và nghĩa, thường xuyên gia hành tu chỉ quán một cách cẩn trọng không buông lung phóng túng.
Trong vô lượng thế giới có vô lượng vô số nhân loại hữu tình mỗi sát-na mỗi sát-na chứng giác ngộ vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Đó là sự mài luyện tâm thứ nhất. Do niềm vui này mà có thể hành thí v.v…các Ba-la-mật-đa. Ta đã được niềm vui này ta sẽ dụng công tu tập bố thí v.v…thêm chút nữa sẽ được viên mãn các Ba-la-mật-đa. Đó là sự mài luyện tâm thứ hai. Nếu có người thành tựu các thiện còn chướng ngại, khi mạng chung được viên mãn thụ sinh vào tất cả các tự thể nào yêu thích, vậy ta có cái thiện vi diệu, cái thiện không chướng ngại, bấy giờ sao lại không thể được viên mãn tất cả ! Đó là sự mài luyện tâm thứ ba. Ở đây có bài tụng như sau :
Hữu tình trong loài người,
Xứ sở nhiều vô lượng.
Mỗi niệm chứng đẳng giác,
Vậy không nên thoái lui.
Ai tâm tinh, ý lạc,
Có thể tu lục độ.
Thù thắng này đã được,
Cũng tu lục độ được.
Người thiện khi lâm chung,
Mãn nguyện theo ý mình.
Vĩnh đoạn, được thắng thiện
Viên mãn, sao lại không ?
Do dứt trừ tác ý, lìa các tác ý của Thanh Văn Độc Giác, do lìa bỏ cái nghi của các nghi ngờ đối với Đại thừa, do vĩnh viễn đoạn trừ cái nghi của tà trí, do được nghe và tư duy trong chính pháp lìa chấp ngã và ngã sở mà đoạn trừ pháp chấp, do hiện tiền trụ trong sự an lập tất cả tướng nên đoan trừ phân biệt, không còn tác ý không còn phân biệt. Ở đây có bài tụng như sau :
Hiện tiền trụ tự nhiên,
An lập tất cả tướng.
Người trí không phân biệt,
Được tối thượng Bồ-đề.
Do cái gì và làm thế nào được ngộ nhập ?
Do chủng loại được đa văn huân tập, nhiếp thuộc trong tác ý như lý mà hiển hiện tương tự pháp, tương tự nghĩa.
Do 4 tầm tư, tức là do danh, nghĩa, tự tính, sai biệt mà giả lập ra tầm tư. Và do 4 như thật biến trí, tức là do danh, nghĩa, tự tính, sai biệt mà giả lập ra như thật biến trí. Như vậy cả 4 tầm tư và 4 như thật biến trí đều không thể được. Bởi chư Bồ-tát vì muốn ngộ nhập duy thức nên siêng tu gia hành như thật như vậy, tức với cái ý thức tương tự văn tương tự nghĩa mà suy tìm văn, cái tên chỉ là ý thức, dựa vào đó mà suy tìm cái nghĩa của văn, danh cũng chỉ là ý thức, suy tìm danh, nghĩa, tự tính, sai biệt chỉ là sự giả lập. Khi nào sự chứng đắc chỉ có ý thức thì khi ấy sự chứng biết như danh, nghĩa, tự tính, sai biệt đều là giả lập. Vì thật tướng không có tự tính sai biệt, nên đều không thể được. Do 4 tầm tư và do 4 thứ như thật biến trí, đối với ý thức tương tự văn, tương tự nghĩa này mà có thể ngộ nhập lý duy thức.
Trong sự ngộ nhập lý duy thức này là ngộ nhập cái gì, ngộ nhập như thế nào ?
Ngộ nhập duy thức là ngộ nhập 2 tính tướng và kiến và nhiều thứ tính như danh, nghĩa, tự tính của danh, sai biệt của danh, tự tính của nghĩa, sai biệt của nghĩa, 6 thứ nghĩa như vậy đều không, cho nên cái tính của sở thủ năng thủ chỉ có hiện tiền. Một khi hiện lên thì như các nghĩa tướng tương tự mà sinh khởi. Như trong tối sợi dây hiển hiện tựa con rắn. Ví như trên sợi dây, con rắn là chẳng thật có. Vì nó là không, cho nên nếu đã biết rõ nó là không rồi, thì tuy cái biết nó là con rắn diệt mất, nhưng cái biết là sợi dây vẫn còn. Nếu phân tích một cách vi tế cái hư vọng này, thì cái tướng của sợi dây kia cũng chỉ là giả hợp của sắc hương vị xúc, do đó cái biết là sợi dây cũng diệt mất. Như vậy cái ý thức về 6 nghĩa tướng như tương tự văn, tương tự nghĩa, khi dẹp trừ 6 nghĩa tướng phi thật, thì cái tính biết duy thức cũng sẽ loại bỏ như cái biết về con rắn. Cái biết này do từ tính biết của tự tính viên thành thật.
Như vậy Bồ-tát ngộ nhập cái ý thức nghĩa tướng tương tự nên ngộ nhập tính biến kế sở chấp, ngộ nhập duy thức nên ngộ nhập tính y tha khởi. Còn tính viên thành thật thì ngộ nhập như thế nào ?
Nếu đã diệt trừ cái ý thức chỉ còn cái ý tưởng duy thức do các chủng loại nghe pháp huân tập, bấy giờ Bồ-tát đã loại trừ nghĩa tướng, các nghĩa tương tự không sinh được, cho nên cái tương tự duy thức cũng không sinh được. Do nhân duyên này Bồ-tát trụ nơi vô phân biệt danh của tất cả nghĩa, được trụ nơi hiện thấy tương ưng trong pháp giới. Bấy giờ Bồ-tát được bình đẳng, bình đẳng sở duyên với năng duyên, trí vô phân biệt đã sinh khởi, do đó gọi là Bồ-tát đã ngộ nhập tính viên thành thật. Ở đây có bài tụng như sau :
Pháp Bổ-đặc-già-la,
Và pháp nghĩa rộng hẹp,
Bất tịnh, tịnh, cứu cánh,
Tên, hành tướng, sai khác.
Như vậy là Bồ-tát ngộ nhập duy thức, tức ngộ nhập tướng sở tri, ngộ nhập tướng sở tri là nhập vào Cực hỷ địa, thông đạt pháp giới, sinh vào nhà Như Lai, được tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh, được tâm bình đẳng với tất cả Bồ-tát, được tâm bình đẳng với tất cả chư Phật. Đó gọi là Bồ-tát kiến đạo
Lại nữa vì nghĩa gì mà ngộ nhập duy thức ?
Do cái trí chỉ quán xuất thế duyên tổng pháp, do đó sau được cái trí của các tướng thức để đoạn trừ và đem chủng tử các tướng của thức A-lại-da làm tăng trưởng các chủng tử có khả năng chạm đến pháp thân, để chuyển đổi sở y, vì muốn chứng đắc tất cả Phật pháp, vì muốn chứng đắc trí nhất thiết trí, nhập vào duy thức tính. Lại nữa, cái trí hậu đắc đối với tất cả các tướng hiểu biết phân biệt phát sinh trong thức A-lại-da đều thấy như ảo hóa mà không bị chuyển đảo. Cho nên Bồ-tát ví như nhà ảo thuật, không bao giờ điên đảo đối với các tướng ảo hóa cũng như khi nói về nhân quả.
Khi ngộ nhập tính duy thức thì có 4 thứ Tam-ma-địa làm chỗ dựa cho 4 thứ thuận quyết trạch phần.
Làm sao biết ?
Do 4 tầm tư trong hạ phẩm vô nghĩa nhẫn có minh đắc Tam-ma-địa là chỗ dựa của noãn thuận quyết trạch phần. Trong thượng phẩm vô nghĩa nhẫn có minh tăng Tam-ma-địa là chỗ dựa của đỉnh thuận quyết trạch phần. Lại do 4 thứ như thật biến trí đã nhập duy thức, trong vô nghĩa đã được quyết định, có nhập một phần chân nghĩa Tam-ma-địa là chỗ dựa của đế thuận nhẫn. Từ đó không gián đoạn dẹp bỏ ý tưởng duy thức, được Tam-ma-địa không gián đoạn là chỗ dựa của pháp Thế đệ nhất. Phải biết các Tam-ma-địa này đang ở bên cạnh hiện quán.
Như vậy là Bồ-tát đã bước vào các địa, đã được kiến đạo, đã ngộ nhập duy thức. Vậy đối với tu đạo phải tu hành như thế nào ?
Như giáo pháp 10 địa đã được Phật nói, an lập hiện diện trong tất cả các kinh, do duyên tổng pháp xuất thế, sau được cái trí chỉ quán, nên trải qua vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp số tu tập nên được chuyển y. Vì muốn chứng đắc 3 thứ Phật thân nên siêng năng tu hành.
Hiện quán của Thanh Văn với hiện quán của Bồ-tát có gì sai khác ?
Phải biết do 11 thứ sai biệt mà hiện quán của Bồ-tát khác với hiện quán của Thanh Văn. Một là do sở duyên khác nhau, vì lấy pháp Đại thừa làm sở duyên. Hai là do nuôi dưỡng bảo trì khác nhau, vì lấy 2 thứ tư lương là đại phúc đức và đại trí tuệ mà nuôi dưỡng bảo trì. Ba là do sự thông suốt khác nhau, vì có thể thông suốt nhân vô ngã và pháp vô ngã. Bốn là do Niết-bàn khác nhau, vì nhiếp thụ vô trụ Đại Niết-bàn. Năm là do địa vị khác nhau, vì thoát ly bằng 10 địa. Sáu và bảy là do thanh tịnh khác nhau, vì đoạn phiền não tập khí làm cõi Phật thanh tịnh. Tám là do tâm tự tha bình đẳng khác nhau, vì không ngừng nghỉ gia hành để thành thục chúng sinh. Chín là do nơi sinh khác nhau, vì sinh vào nhà Như Lai. Mười là do thụ sinh khác nhau, vì thường sinh ở những nơi có đại tập hội của chư Phật. Mười một là do quả khác nhau, vì 10 lực, 4 không sợ hãi, 18 pháp không chung, vô lượng công đức đều được kết quả viên mãn. Ở đây có 2 bài tụng như sau :
Danh, nghĩa, khách của nhau,
Phải tầm tư tính ấy.
Phải suy xét cả hai,
Duy lượng và duy giả.
Thật trí quán vô nghĩa,
Chỉ có 3 phân biệt.
Kia không, nên đây không,
Tức ngộ nhập 3 tính.
Lại có 2 bài tụng như được nói trong Phân Biệt Du-già Luận như sau :
Bồ-tát ở trong định,
Quán ảnh chỉ là tâm.
Nghĩa tướng đã diệt trừ,
Quán sát chỉ tự tưởng.
Như vậy trụ nội tâm,
Biết sở thủ phi hữu,
Tiếp năng thủ cũng không,
Sau xúc không không thể được.
Lại nữa có 5 bài tụng về hiện quán như được nói trong Đại Thừa Kinh Trang Nghiêm Luận như sau :
Phúc đức trí tuệ hai tư trang,
Bồ-tát chuẩn bị rất sẵn sàng.
Đối pháp tư duy khéo quyết định,
Thì rõ nghĩa thú chỉ danh ngôn.
Nếu biết các nghĩa là danh ngôn,
Thì trụ tựa nghĩa trong duy thức.
Mới hay hiện chứng chân pháp giới,
Cho nên hai tướng đều trừ diệt.
Biết thể lìa tâm là không có,
Do đây liền biết tâm phi hữu.
Người trí biết rõ hai đều không,
Trụ ở hai không : chân pháp giới.
Tuệ giác không phân biệt trí lực,
Bình đẳng biến khắp thường thuận hành.
Diệt khối tội lỗi rất um tùm,
Như phương thuốc hay tiêu bệnh độc.
Phật nói diệu pháp khéo thành lập,
An lập tuệ giác trong pháp giới.
Hiểu rõ ý thú là phân biệt,
Dũng mãnh mau về bờ biển đức.
Phần thứ năm : Ngộ nhập nhân quả
Như vậy là đã nói về sự ngộ nhập tướng sở tri, vậy làm sao có thể thấy sự ngộ nhập nhân quả ?
Do 6 thứ Ba-la-mật-đa là thí, giới, nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát-nhã.
Vì sao do 6 Ba-la-mật-đa được ngộ nhập duy thức ? Và vì sao 6 Ba-la-mật-đa thành tựu kết quả của sự ngộ nhập ấy ?
Nghĩa là Bồ-tát này không tham đắm tiền của địa vị, không phạm tịnh giới, cái khổ không làm dao động, tu hành không biếng trễ, trong các nhân tán động như vậy, khi không hiện hành thì tâm chuyên vào một cảnh là có thể quyết trạch các pháp đúng như lý được ngộ nhập duy thức. Bồ-tát dựa vào 6 Ba-la-mật-đa, ngộ nhập duy thức rồi, chứng được 6 thứ ý lạc thanh tịnh tăng thượng trong Ba-la-mật-đa, cho nên dẫu rời 6 thứ Ba-la-mật-đa hiện khởi gia hành, nhưng do hiểu rõ giáo pháp của Phật và do tâm quý trọng, tùy hỷ, ưa thích, thường xuyên tu tập không gián đoạn các phương tiện tương ưng, mà 6 thứ Ba-la-mật-đa mau chóng được viên mãn. Ở đây có 3 bài tụng như sau :
Đã viên mãn bạch pháp,
Và được nhẫn sắc bén.
Bồ-tát nơi Đại thừa,
Giáo pháp sâu rộng lớn.
Giác ngộ chỉ phân biệt,
Được trí vô phân biệt,
Mong cầu thắng giải tịnh,
Nên ý lạc thanh tịnh.
Ở trong dòng pháp này,
Trước sau thấy chư Phật.
Đã biết gần Bồ-đề,
Chứng đắc thật không khó.
Do 3 bài tụng này tổng quát làm rõ cái ý lạc thanh tịnh tăng thượng. Có 7 thứ tướng : Đó là tư lương, kham nhẫn, sở duyên, tác ý, tự thể, tùy tướng, thắng lợi, đúng như thứ tự các câu kệ tụng biểu thị.
Vì nhân duyên gì mà Ba-la-mật-đa chỉ có 6 thứ ?
Vì thành lập các đối trị để đối trị các hoặc chướng, vì làm chỗ dựa để chứng đắc pháp của chư Phật, vì tùy thuận thành thục các hữu tình, vì muốn đối trị cái nguyên nhân không phát tâm nên lập thí Ba-la-mật-đa và giới Ba-la-mật-đa, nguyên nhân không phát tâm là do tham đắm tiền của địa vị và nhà cửa vợ con, vì muốn đối trị cái nguyên nhân đã phát tâm mà lại thoái lui, nên lập nhẫn Ba-la-mật-đa và tiến Ba-la-mật-đa, nguyên nhân của thoái lui là vì chúng sinh ở trong sinh tử vi phạm mà sinh các khổ và mệt mói vì thời gian dài gia hành tu tập thiện pháp, vì muốn đối trị cái nguyên nhân tuy đã phát tâm và không thoái lui nhưng thất bại hỏng mất, nên lập định Ba-la-mật-đa và tuệ Ba-la-mật-đa, nguyên nhân của thất bại hỏng mất là do các tán động và tà trí. Như vậy là thành lập các pháp đối trị để đối trị các hoặc chướng cho nên chỉ lập 6 pháp. Lại nữa 4 Ba-la-mật-đa trước là nhân không tán động. Một Ba-la-mật-đa kế tiếp là thành tựu sự không tán động. Sự không tán động này làm chỗ dựa nên hiểu biết bình đẳng như thật chân nghĩa của các pháp mới có thể chứng đắc tất cả Phật pháp. Như vậy vì là chỗ dựa để chứng đắc pháp của chư Phật nên chỉ lập 6 pháp. Do thí Ba-la-mật-đa mà có thể tiếp nhận chúng sinh, do giới Ba-la-mật-đa mà không làm hại chúng sinh, do nhẫn Ba-la-mật-đa mà khi bị hại có thể chịu đựng được, do tinh tiến Ba-la-mật-đa mà có thể trợ giúp những việc đáng làm. Do đó bao gồm các nhân duyên lợi ích khiến chúng sinh thành thục những gì có thể kham nhiệm. Từ đó về sau người tâm chưa định thì làm cho tâm định, người tâm đã định thì khiến được giải thoát. Khi khai ngộ thì họ được thành thục. Cứ như vậy mà tùy thuận thành thục tất cả chúng sinh, nên chỉ lập 6 pháp.
Làm sao thấy tướng của 6 pháp này ?
Vì có 6 thứ vượt trội hơn hết. Một là do chỗ dựa vượt trội, vì tâm Bồ-đề là chỗ dựa. Hai là do sự vượt trội, vì hiện hành đầy đủ. Ba là do xứ vượt trội, vì dựa vào sự an vui lợi ích cho tất cả chúng sinh. Bốn là do phương tiện khéo léo vượt trội, vì do trí vô phân biệt nhiếp thụ. Năm là do hồi hướng vượt trội, vì hồi hướng vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Sáu là do thanh tịnh vượt trội, vì phiền não chướng và sở tri chướng không còn khởi lên.
Thí là Ba-la-mật-đa hay Ba-la-mật-đa là thí ?
Có cái thí chẳng phải Ba-la-mật-đa, nên lập 4 câu. Nếu như thí là như vậy, thì các Ba-la-mật-đa khác cũng làm 4 câu như vậy.
Vì lý do gì 6 thứ Ba-la-mật-đa được lập theo thứ tự như vậy ?
Vì Ba-la-mật-đa trước tùy thuận sinh Ba-la-mật-đa sau.
Lại nữa làm sao thấy sự giải thích danh nghĩa các Ba-la-mật-đa ?
Đối với Thanh Văn Độc Giác trên thế gian thì thiện căn bố thí v.v…là vượt trội hơn hết có thể đến bờ kia. Cho nên gọi chung là Ba-la-mật-đa. Lại có thể phá vỡ sự keo kiệt bần cùng và có thể dẫn phát tài lộc địa vị và các phúc đức rộng lớn, nên gọi là thí. Lại có thể đoạn diệt giới ác cõi ác và có thể hướng đến đẳng trì cõi thiện, nên gọi là giới. Lại có thể diệt hết giận dữ oán thù, và có thể mình và người sống trong an ổn, nên gọi là nhẫn. Lại có thể xa lìa mọi sự biếng nhác, các pháp ác và bất thiện, có thể sinh xuất vô lượng thiện pháp và khiến tăng trưởng, nên gọi là tinh tiến. Lại có thể tiêu trừ các tán động, và dẫn đến an trụ nội tâm, nên gọi là tĩnh lự. Lại có thể trừ bỏ mọi kiến chấp, tà trí ác tuệ và có thể phân biệt phẩm loại các pháp biết được như thật, nên gọi là tuệ.
Nên biết phải tu tập các pháp Ba-la-mật-đa như thế nào ?
Nên biết đại khái 5 việc : Một là hiện khởi tu gia hành. Hai là tu thắng giải. Ba là tu tác ý. Bốn là tu phương tiện khéo léo. Năm là tu hoàn thành công việc. Trong đây 4 pháp tu như trước đã nói. Còn tu hoàn thành công việc nghĩa là chư Như Lai vận dụng Phật sự một cách tự nhiên tự tại không ngừng nghỉ, viên mãn các Ba-la-mật-đa rồi lại tu tập 6 pháp đến bờ kia. Lại nữa tu tác ý, nghĩa là tu 6 thứ ý lạc bao gồm các tác ý mến trọng, tùy hỷ, vui vẻ như một là ý lạc rộng lớn, hai là ý lạc dài lâu, ba là ý lạc hoan hỷ, bốn là ý lạc chịu ơn, năm là ý lạc chí lớn, sáu là ý lạc thuần thiện.
Nếu các Bồ-tát trải qua vô số đại kiếp cho đến hiện chứng vô thượng chính đẳng Bồ-đề, trong thời gian ấy mỗi một sát-na giả sử xả bỏ thân mạng, cho đến 7 báu chứa đầy trong thế giới như cát sông Hằng đem phụng sự cúng dường Như Lai cho đến khi an tọa trên tòa Bồ-đề, mà ý lạc về sự bố thí của Bồ-tát ấy còn chưa chán đủ; lại cũng trong thời gian ấy, mỗi mỗi sát-na giả sử lửa đốt cháy 3 ngàn đại thiên thế giới, trong 4 oai nghi thường thiếu tất cả mọi phương tiện sống mà tâm vẫn thường giữ giới, nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát-nhã, cho đến khi an tọa trên tòa Bồ-đề, vậy mà ý lạc của Bồ-tát ấy về giới, nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát-nhã vẫn không chán đủ. Đó gọi là ý lạc rộng lớn của Bồ-tát. Lại nữa các Bồ-tát ở trong cái ý lạc không chán đủ, cho đến khi an tọa tòa Bồ-đề, thường không gián đoạn hay ngừng nghỉ, gọi là ý lạc dài lâu của Bồ-tát. Lại các Bồ-tát dùng 6 Ba-la-mật-đa làm lợi ích chúng sinh, do làm việc lợi ích mà tâm sinh hoan hỷ còn hơn nỗi vui mừng của chúng sinh được lợi ích, gọi là ý lạc hoan hỷ của Bồ-tát. Lại các Bồ-tát dùng 6 Ba-la-mật-đa làm lợi ích chúng sinh, thấy họ có ơn đức lớn đối với mình chứ không thấy mình có ơn đối với họ, đó là ý lạc chịu ơn của Bồ-tát. Lại nữa các Bồ-tát dùng 6 pháp đến bờ kia, nhóm họp các thiện căn, thâm tâm đem hiến cho tất cả chúng sinh khiến được quả báo khả ái thù thắng, gọi là ý lạc chí lớn của Bồ-tát. Lại các Bồ-tát lại dùng 6 pháp Ba-la-mật-đa nhóm họp các thiện căn cùng các chúng sinh trở về cầu vô thượng chính đẳng Bồ-đề, gọi là ý lạc thuần thiện của Bồ-tát. Như vậy Bồ-tát tu 6 thứ ý lạc này bao gồm tác ý ái trọng. Lại các Bồ-tát đối với 6 thứ ý lạc của các Bồ-tát khác tu tập tương ưng vô lượng thiện căn, thâm tâm tùy hỷ, như vậy là Bồ-tát tu 6 thứ ý lạc này bao gồm ý tác tùy hỷ. Lại các Bồ-tát thâm tâm hân hoan vui thích 6 thứ ý lạc của tất cả chúng sinh bao gồm tu 6 thứ đến bờ kia, cũng nguyện tự mình cùng tu tập 6 thứ đến bờ kia thường xuyên không rời bỏ, cho đến khi an tọa tòa Bồ-đề, như vậy là Bồ-tát tu 6 thứ ý lạc bao gồm tác ý hân lạc. Nếu có người nghe Bồ-tát tu 6 thứ ý lạc này bao gồm tác ý, chỉ cần khởi một niệm tín tâm sẽ được phát sinh vô lượng phúc, nghiệp chướng ác cũng sẽ tiêu diệt, huống chi là Bồ-tát.
Làm sao thấy được sự sai biệt của các Ba-la-mật-đa này ?
Nên biết mỗi Ba-la-mật-đa đều có 3 phẩm. Ba phẩm của thí là : 1.pháp thí, 2.tài thí, 3.vô úy thí. Ba phẩm của giới là : 1.giới về luật và oai nghi, 2.giới gồm thâu các thiện pháp, 3.giới làm lợi ích hữu tình. Ba phẩm của nhẫn là : 1.nhẫn chịu oán hại, 2.nhẫn an tâm thụ khổ, 3.nhẫn nại quan sát các pháp. Ba phẩm của tinh tiến là : 1.tinh tiến như người mặc áo giáp ra trận, 2.tinh tiến gia công tu hành, 3.tinh tiến không run sợ, không chao đảo thoái lui, không vui mừng thỏa mãn. Ba phẩm của tĩnh lự là : 1.tĩnh lự an trụ, 2.tĩnh lự dẫn phát, 3.tĩnh lự hoàn thành công việc. Ba phẩm của tuệ là : 1.tuệ gia hành vô phân biệt, 2.tuệ vô phân biệt, 3.tuệ vô phân biệt hậu đắc.
Làm sao thấy được sự nhiếp thuộc lẫn nhau ?
Do 6 pháp này có thể gồm thâu tất cả thiện pháp vì tướng của chúng, vì sự tùy thuận của chúng, vì tính đẳng lưu của chúng.
Làm sao thấy được các tạp nhiễm là những thứ bị 6 pháp này đối trị ?
Đó là tướng, là nhân, là quả của chúng.
Làm sao thấy được lợi ích thù thắng của 6 Ba-la-mật-đa đạt được ?
Nghĩa là các Bồ-tát khi đang lưu chuyển trong sinh tử thì sinh trong nhà giàu sang, tộc họ lớn, nhiều bà con bạn bè, thành tựu sự nghiệp lớn, không bị tai hại quấy nhiễu, nhẹ đường trần tục, biết nhiều kiến thức giỏi kỹ năng, sống tốt không tội lỗi, cho đến khi an tọa tòa Bồ-đề thường có thể hiện làm các việc lợi ích chúng sinh, đó là lợi ích thù thắng.
Làm sao thấy được sự quyết định lựa chọn đối với 6 thứ Ba-la-mật-đa ?
Thế Tôn đối với tất cả 6 thứ Ba-la-mật-đa này, có nơi lấy thí mà nói, có nơi lấy giới mà nói, có nơi lấy nhẫn nói, có nơi lấy cần nói, có nơi lấy định nói, có nơi lấy tuệ nói.
Nói như vậy là có ý gì ?
Vì ý nghĩa, là trong khi gia hành tu tất cả Ba-la-mật-đa, thì đều được tất cả Ba-la-mật-đa hỗ trợ cho thành tựu. Ở đây có bài tụng như sau :
Số, tướng và thứ lớp,
Tên, tu tập, sai biệt.
Nhiếp, trị và công đức,
Hỗ trợ nhau thành tựu.