1
2
3

QUYỂN HẠ

Phần thứ sáu : Tu tập sai biệt

Như vậy là đã nói về ngộ nhập nhân quả, vậy là sao thấy sự tu tập sai biệt ?

Thấy được qua 10 địa của Bồ-tát. Những gì là 10 ? Một là cực hỷ địa, hai là ly cấu địa, ba là phát quang địa, bốn là diệm tuệ địa, năm là cực nan thắng địa, sáu là hiện tiền địa, bảy là viễn hành địa, tám là bất động địa, chín là thiện tuệ địa, mười là pháp vân địa.

Làm sao có thể thấy 10 thứ bậc được an lập như vậy ?

Vì muốn đối trị 10 thứ vô minh là những chướng ngại bị đối trị. Bởi vì sao ? Bởi vì nơi 10 tướng của pháp giới sở tri có 10 vô minh chướng ngại bị đối trị.

Những gì là 10 tướng của pháp giới sở tri ?

Trong địa thứ nhất là biến hành, trong địa thứ hai là tối thắng, trong địa thứ ba là thắng lưu, trong địa thứ tư là không nhiếp thụ, trong địa thứ năm là liên tục không sai biệt, trong địa thứ sáu là thanh tịnh không tạp nhiễm, trong địa thứ bảy là các pháp không sai biệt, trong địa thứ tám là không thêm không bớt, tướng tự tại y chỉ, cõi tự tại y chỉ, trong địa thứ chín là trí tự tại y chỉ, trong địa thứ mười là nghiệp tự tại y chỉ, Đà-la-ni môn, Tam-ma-địa môn tự tại y chỉ. Ở đây có 3 bài tụng như sau :

Biến hành và tối thắng,

Cùng với nghĩa thắng lưu,

Như vậy không nhiếp thụ,

Liên tục không sai biệt,

Thanh tịnh không tạpnhiễm,

Các pháp không sai biệt,

Không tăng cũng không giảm,

Bốn tự tại y chỉ,

Trong pháp giới có mười,

Không nhiễm ô vô minh,

Đối trị các chướng ngại,

Nên an lập mười địa.

Lại nữa phải biết rằng 10 vô minh như vậy, đối với Thanh Văn v.v…thì không phải nhiễm ô, nhưng đối với Bồ-tát là nhiễm ô.

Lại nữa, vì sao địa thứ nhất gọi là cực hỷ ?

Vì ở địa này lần đầu tiên được cái năng lực thù thắng có thể làm thành mọi sự nghĩa lợi cho mình và người.

Vì sao địa thứ hai gọi là ly cấu ?

Vì ở địa này hết sức xa lìa cáu bẩn của sự phạm giới.

Vì sao địa thứ ba gọi là phát quang ?

Vì địa này là chỗ dựa của đẳng trì và đẳng chí không thoái chuyển, là chỗ dựa của chính pháp đại quang minh.

Vì sao địa thứ tư gọi là diệm tuệ ?

Vì ở đây các pháp Bồ-đề phần đốt cháy tiêu tất cả chướng ngại.

Vì sao địa thứ năm gọi là cực nan thắng ?

Vì trí chân đế với trí thế gian mâu thuẫn nhau mà hợp hai thứ khó hợp làm cho tương ưng là rất khó.

Vì sao địa thứ sáu gọi là hiện tiền ?

Vì ở đây cái trí duyên khởi làm chỗ dựa, có thể khiến Bát-nhã Ba-la-mật-đa hiện ra trước mắt.

Vì sao địa thứ bảy gọi là viễn hành ?

Vì ở đây là đã đến giới hạn cuối cùng của công dụng hành.

Vì sao địa thứ tám gọi là bất động ?

Vì ở đây tất cả các tướng có dụng công đều không còn hoạt động.

Vì sao địa thứ chín gọi là thiện tuệ ?

Vì ở đây được trí vô ngại thù thắng nhất.

Vì sao địa thứ mười gọi là pháp vân ?

Vì ở đây được cái trí tổng duyên tất cả pháp, hàm chứa tất cả Đà-la-ni môn, Tam-ma-địa môn, ví như đám mây lớn che được chướng ngại rộng lớn như hư không, lại có thể viên mãn pháp thân.

Làm sao thấy được sự chứng đắc các địa này ?

Thấy được do 4 thứ tướng. Một là được thắng giải. Nghĩa là được tin hiểu sâu sắc đối với các địa. Hai là được chính hạnh. Nghĩa là được 10 thứ chính pháp hạnh tương ưng với các địa. Ba là được thông suốt. Nghĩa là khi ở địa thứ nhất thông suốt pháp giới là có thể thông suốt cùng khắp các địa. Bốn là được thành tựu viên mãn. Nghĩa là tu các địa đến chỗ rốt ráo.

Làm sao thấy được sự tu tập các địa này ?

Nghĩa là các Bồ-tát trong mỗi địa tu Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na do 5 tướng tu tập.

Những gì là 5 ?

Là tu tổng tập, tu vô tướng, tu không dụng công, tu mạnh mẽ, tu không vui mừng cho là đủ. Năm sự tu tập này làm cho các Bồ-tát thành tựu 5 quả. Đó là trong mỗi niệm tiêu tan chỗ dựa của tất cả pháp thô nặng, lìa các thứ tướng, được cái vui như ở trong vườn chính pháp, có thể hiểu biết đúng đắn ánh sáng của chính pháp lớn lao, biến khắp vô lượng không giới hạn, hiện hành vô tướng, thuận thanh tịnh phần không còn phân biệt, vì để viên mãn thành tựu pháp thân có thể nhiếp thụ đúng đắn các nhân thù thắng sau này.

Để tăng thêm sức vượt trội nên nói trong 10 địa tu riêng 10 thứ Ba-la-mật-đa. Ở 6 địa trước tu 6 thứ Ba-la-mật-đa như trước đã nói. Trong 4 địa sau tu 4 thứ là : Một là phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa, nghĩa là lấy các thiện căn tập họp được của 6 Ba-la-mật-đa trước, hồi hướng cầu vô thượng Bồ-đề cùng tất cả chúng sinh. Hai là nguyện Ba-la-mật-đa, nghĩa là phát các thứ đại nguyện vi diệu dẫn đến các duyên thù thắng cho các Ba-la-mật-đa về sau. Ba là lực Ba-la-mật-đa, nghĩa là do 2 sức là sức tư duy chọn lựa và sức tu tập, khiến cho 6 thứ Ba-la-mật-đa trước hiện hành không gián đoạn. Bốn là trí Ba-la-mật-đa, nghĩa là do 6 Ba-la-mật-đa trước thành lập diệu trí, thụ dụng pháp lạc thành thục chúng sinh.

Lại nữa phải biết 4 thứ Ba-la-mật-đa này gồm vô phân biệt trí và hậu đắc trí. Lại trong tất cả các địa không địa nào là không tu tập tất cả Ba-la-mật-đa. Pháp môn như vậy được thâu nhiếp trong kho tàng Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, trải qua bao nhiêu thời gian tu hành mới có thể viên mãn các địa ?

Có 5 loại hữu tình. Trải qua 3 vô số đại kiếp gọi là thắng giải hành Bổ-đặc-già-la. Trải vô số đại kiếp đầu tiên tu hành viên mãn là thanh tịnh tăng thượng ý lạc hành Bổ-đặc-già-la và hữu tướng hành, và vô tướng hành Bổ-đặc-già-la. Ở 6 địa trước và địa thứ 7 trải vô số đại kiếp thứ hai tu hành viên mãn tức vô công dụng hành Bổ-đặc-già-la. Từ đây trở lên đến địa thứ 10, trải vô số đại kiếp thứ ba tu hành viên mãn. Ở đây có bài tụng như sau :

Sức thanh tịnh, tăng thượng,

Tâm kiên cố, thăng tiến,

Là Bồ-tát sơ tu,

Vô số 3 đại kiếp.

Phần thứ bảy : Tăng thượng giới học

Như vậy là đã nói về tu nhân quả sai biệt. Vậy làm sao thấy được sự thù thắng của giới tăng thượng ?

Có thể thấy như trong Bồ-tát Địa Chính Thụ Bồ-tát Luật Nghi có nói.

Lại nữa có thể biết đại lược 4 thứ thù thắng sau đây nên gọi là thù thắng : một là thù thắng về chỗ khác nhau, hai là thù thắng về chỗ học có chung và không chung, ba là thù thắng về tính rộng lớn, bốn là thù thắng về tính sâu xa.

Thù thắng về chỗ khác nhau nghĩa là giới Bồ-tát có 3 phẩm khác nhau : 1.giới luật nghi, 2.giới gồm thâu thiện pháp, 3.giới làm lợi ích hữu tình.

Trong đây nên biết giới luật nghi có nghĩa là 2 giới, giới gồm thâu thiện pháp có nghĩa là tu tập tất cả Phật pháp, giới làm lợi ích hữu tình có nghĩa là làm thành thục tất cả hữu tình.

Thù thắng về chỗ học có chung và không chung nghĩa là các Bồ-tát tất cả tính tội đều không hiện hành nên chung với Thanh Văn, còn tương tự giá tội thì có trường hợp hiện hành nên không chung với Thanh Văn. Vì vậy đối với học xứ giá tội này, có trường hợp là Thanh Văn thì phạm nhưng Bồ-tát thì không phạm, có trường hợp là Bồ-tát thì phạm mà Thanh Văn thì không phạm. Giới của Bồ-tát là gồm cả thân miệng ý, còn Thanh Văn chỉ có 2 giới thân và miệng. Vì vậy với Bồ-tát thì có ý nghĩ xấu cũng đã phạm rồi, đó là điểm khác với Thanh Văn. Nói tóm lại, vì tất cả lợi ích hữu tình thì nghiệp thân miệng ý đều vô tội, Bồ-tát đều phải học, tu và thực hành tất cả. Đó là thù thắng về chỗ học có chung và không chung.

Thù thắng về tính rộng lớn do có 4 thứ gọi là rộng lớn : Một là rộng lớn do chỗ học có đủ loại và vô lượng. Hai là rộng lớn do tiếp thụ vô lượng phúc đức. Ba là rộng lớn do tiếp thụ ý lạc làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh. Bốn là rộng lớn do kiến lập vô thượng chính đẳng Bồ-đề.

Thù thắng về tính sâu xa nghĩa là các Bồ-tát do phương tiện khéo léo, làm việc sát sinh v.v… 10 thứ tác nghiệp mà không có tội lại sinh vô lượng phúc, mau chứng vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Các Bồ-tát lại còn hiện hành biến hóa thân miệng 2 nghiệp, nên biết đó cũng là Thi-la sâu xa. Do nhân duyên này mà có khi Bồ-tát hoặc làm quốc vương hiện làm các việc bức hại hữu tình để đặt chúng vào trong pháp Tì-nại-da, hoặc hiện làm các việc bản sinh, hiện làm các việc bức bách các hữu tình mà thực sự là để hóa độ các hữu tình khác, trước hết khiến thâm tâm chúng được tín tâm thanh tịnh sau rồi thành thục. Đó gọi là thù thắng về tính sâu xa của Bồ-tát tu học giới luật. Do sơ lược nói 4 thứ thù thắng này nên biết Thi-la luật nghi của Bồ-tát là thù thắng bậc nhất.

Như vậy nên biết rằng học xứ Bồ-tát còn rất nhiều sai khác, như được nói trong Kinh Phương Quảng Tì-nại-da Cù-sa.

Phần thứ tám : Tăng thượng tâm học

Như vậy là đã nói về sự thù thắng của giới tăng thượng, vậy làm sao thấy sự thù thắng của tâm tăng thượng ?

Đại khái có 6 thứ sai biệt cần phải biết : một là do sở duyên sai biệt, hai là do chủng loại sai biệt, ba là do đối trị sai biệt, bốn là do năng lực sai biệt, năm là do dẫn phát sai biệt, sáu là do tác nghiệp sai biệt.

Sở duyên sai biệt là lấy pháp Đại thừa làm đối tượng sở duyên. Chủng loại sai biệt là Đại thừa quang minh, Tập phúc định vương, Hiền thủ, Kiện hành v.v.. vô lượng các chủng loại Tam-ma-địa. Đối trị sai biệt là cái trí duyên cái tướng chung của các pháp như cách dùng cây nêm để tháo một cây nêm. Đó là đạo lý khiển trừ tất cả các chướng thô nặng trong thức A-lại-da. Năng lực sai biệt là an trụ trong cái vui tĩnh lự, tùy ý thụ sinh. Dẫn phát sai biệt là có thể dẫn phát thần thông vô ngại trong tất cả thế giới. Tác nghiệp sai biệt là có thể làm chấn động khắp cả , hiển thị các chuyển biến đi lại co duỗi, tất cả sắc tượng đều nhập trong thân, ở trong đồng loại hoặc hiện hoặc ẩn, việc làm tự tại, chế ngự các thần thông của người khác, làm cho người được tài hùng biện, phóng ánh sáng lớn. Dẫn phát các thần thông lớn như vậy nên có thể dẫn phát thực hiện các việc khó làm. Có 10 việc khó làm. Mười việc khó làm là : Một, tự thệ là khó làm, vì thệ nguyện thụ vô thượng Bồ-đề. Hai, không thoái lui là khó làm, vì các khổ sinh tử không thể làm thoái lui. Ba, không bỏ là khó làm, vì chúng sinh tuy làm tà hạnh cũng không bỏ. Bốn là những điều khó làm trước mắt, vì với những kẻ oán thù vẫn phải làm điều lợi ích cho họ. Năm, không nhiễm là khó làm, vì sống trong thế gian không bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Sáu, thắng giải là khó làm, vì đối với Đại thừa tuy chưa thể liễu đạt nhưng phải sinh tin hiểu giáo pháp rộng lớn sâu xa. Bảy, thông suốt là khó làm, vì có thể thông suốt nhân vô ngã pháp vô ngã. Tám, tùy giác khó làm, vì đối với các ngôn từ bí mật rất sâu của chư Như Lai nói có thể tùy theo đó mà hiểu. Chín, không lìa không nhiễm là khó làm, vì không bỏ sinh tử mà không nhiễm. Mười, gia hành khó làm, vì có thể tu giải thoát tất cả chướng ngại như chư Phật, cho đến tận cùng sinh tử, không dụng công mà vẫn thường xuyên làm việc nghĩa lợi cho tất cả hữu tình. Lại nữa, trong tùy giác khó làm là Phật có những ngôn từ bí mật, các Bồ-tát có thể tùy theo đó hiểu. Như kinh có nói :

Thế nào là Bồ-tát có thể hành bố thí ?

Là nếu Bồ-tát không có chút gì để bố thí, mà rộng làm việc bố thí trong 10 phương vô lượng thế giới.

Thế nào là Bồ-tát vui làm việc bố thí ?

Là nếu các Bồ-tát đối với tất cả việc bố thí đều không ưa muốn.

Thế nào là Bồ-tát tin hiểu sâu xa trong việc bố thí ?

Là nếu các Bồ-tát không tin Như Lai mà hành bố thí.

Thế nào là Bồ-tát khích lệ việc bố thí ?

Là nếu các Bồ-tát không tự khích lệ trong việc bố thí.

Thế nào là Bồ-tát đam mê sự bố thí ?

Là nếu Bồ-tát không tạm thời có chút bố thí.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí rộng lớn ?

Là nếu Bồ-tát trong sự bố thí lìa tưởng Ta-lạc.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí thanh tịnh ?

Là nếu Bồ-tát xan lẫn Ốt-ba-đà.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí cứu cánh ?

Là nếu Bồ-tát không trụ cứu cánh.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí tự tại ?

Là nếu Bồ-tát không tự tại trong sự bố thí.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí vô tận ?

Là nếu Bồ-tát không trụ vô tận. Như trong bố thí, nên biết giới cho đến sau cùng là tuệ tùy sự thích hợp cũng như vậy.

Thế nào là có thể sát sinh ?

Là nếu đoạn dứt sự sinh tử lưu chuyển của chúng sinh.

Thế nào là không cho mà lấy ?

Là nếu các hữu tình không cho mà tự nhiên lấy.

Thế nào là dục tà hạnh ?

Là nếu đối với các dục hiểu rõ là tà, mà tu chính hạnh.

Thế nào là có thể vọng ngữ ?

Là nếu ở trong vọng có thể nói được là vọng.

Thế nào là Bối-thú-ni ?

Là nếu có thể thường trụ không tịch tối thắng.

Thế nào là Ba-lỗ-sư ?

Là nếu biết khéo an trụ bờ kia.

Thế nào là nói thêu dệt ?

Là nếu nói pháp đúng phẩm loại sai biệt.

Thế nào là có thể tham dục ?

Là nếu luôn luôn muốn mình chứng được vô thượng tĩnh lự.

Thế nào là có thể giận dữ ?

Là nếu trong tâm ghét và làm hại tất cả phiền não, một cách đúng đắn.

Thế nào là có thể tà kiến ?

Là nếu tà tính ở khắp tất cả mọi nơi đều thấy đúng như thật.

Pháp của Phật rất sâu. Thế nào là pháp của Phật rất sâu ?

Ở đây nên giải thích như sau :

Pháp thường trụ là pháp của chư Phật, vì pháp thân là thường trụ. Pháp đoạn diệt là pháp của chư Phật,vì vĩnh viễn đoạn diệt các chướng. Pháp sinh khởi là pháp của chư Phật, vì biến hóa thân hiện các sinh khởi. Pháp có sở đắc là pháp của chư Phật, vì là pháp có thể đối trị được các hành nghiệp của 8 vạn 4 ngàn chúng sinh. Pháp có tham là pháp của chư Phật, vì tự thệ nguyện tiếp thụ chúng sinh có tham làm tự thể của mình. Pháp có giận dữ là pháp của chư Phật, pháp có si là pháp của chư Phật, pháp dị sinh là pháp của chư Phật, cũng nên biết như vậy. Pháp không nhiễm ô là pháp của chư Phật, vì viên mãn thành tựu chân như, tất cả chướng cáu bẩn không thể làm nhiễm ô. Cho nên vì thế mà nói pháp Phật là rất sâu. Lại nữa còn có thể dẫn phát sự tu hành đến bờ kia, thành thục chúng sinh, thanh tịnh cõi Phật. Vì vậy nên biết các pháp của Phật là các tác nghiệp sai biệt đẳng trì của Bồ-tát.

Phần thứ chín : Tăng thượng tuệ học

Như vậy là đã nói về sự thù thắng của tăng thượng tâm học. Vậy làm thế nào thấy được sự thù thắng của tăng thượng tuệ học ?

Đó là trí vô phân biệt như tự tính, sở y, nhân duyên, sở duyên, hành tướng, nhiệm trì, trợ bạn, dị thục, đẳng lưu, xuất ly, đến cứu cánh, được thắng lợi sau khi gia hành vô phân biệt, sai biệt, thí dụ, tác sự vô công dụng, , thậm thâm. Nên biết rằng trí vô phân biệt được gọi là sự thù thắng của tuệ tăng thượng.

Trong đây tự tính của trí vô phân biệt lìa 5 tướng : một là lìa sự không tác ý, hai là lìa lỗi có tầm có tứ, ba là lìa tưởng thụ diệt, tịch tĩnh, bốn là lìa sắc tự tính, năm là lìa các phân biệt đối với nghĩa của chân như. Phải biết rằng lìa 5 tướng này gọi là trí vô phân biệt.

Đối với sự thành lập các tướng của trí vô phân biệt như đã nói. Ở đây còn có nhiều tụng như sau :

Tự tính các Bồ-tát,

Xa lìa 5 thứ tướng,

Là trí vô phân biệt,

Không chấp trước chân như.

Sở y các Bồ-tát,

Chẳng tâm mà là tâm,

Là trí vô phân biệt,

Chủng loại bất tư nghị.

Nhân duyên các Bồ-tát,

Do đa văn huân tập,

Là trí vô phân biệt,

Và tác ý đúng lý.

Sở duyên các Bồ-tát,

Là pháp tính ly ngôn,

Là trí vô phân biệt,

Tức chân như vô ngã.

Hành tướng các Bồ-tát,

Lại ở trong sở duyên,

Là trí vô phân biệt,

Sở tri kia vô tướng.

Tự tính nghĩa tương ưng,

Chỉ là sở phân biệt,

Các chữ tương ưng nhau,

Là nghĩa của tương ưng.

Chẳng lìa năng thuyên kia,

Mà sở duyên trí chuyển,

Chẳng phải thuyên không đồng,

Tất cả là ly ngôn.

Nhiệm trì các Bồ-tát,

Là trí vô phân biệt,

Các hạnh đạt được sau,

Mau chóng được tăng trưởng.

Trợ bạn các Bồ-tát,

Nói có 2 nẻo đường,

Là trí vô phân biệt,

Năm tính đến bờ kia.

Dị thục các Bồ-tát,

Ở trong 2 Phật hội,

Là trí vô phân biệt,

Do gia hành chứng đắc.

Đẳng lưu các Bồ-tát,

Trong các đời về sau,

Là trí vô phân biệt,

Tự thể thắng hơn lên.

Xuất ly của Bồ-tát,

Được thành tựu tương ưng,

Là trí vô phân biệt,

Nên biết trong 10 địa.

Cứu cánh các Bồ-tát,

Được thanh tịnh 3 thân,

Là trí vô phân biệt,

Được tự tại cao tột.

Như hư không không nhiễm,

Là trí vô phân biệt,

Các ác nghiệp cực nặng,

Chỉ nhờ tin và hiểu.

Như hư không không nhiễm,

Là trí vô phân biệt,

Giải thoát tất cả chướng,

Được thành tựu tương ưng.

Như hư không không nhiễm,

Là trí vô phân biệt,

Thường ở trong thế gian,

Không bị thế gian nhiễm.

Như người câm muốn biết,

Đúng như người câm biết,

Như người không câm biết,

Ba trí ví như vây.

Như người ngu muốn biết,

Đúng như người ngu biết,

Như người không ngu biết,

Ba trí ví như vậy.

Như 5 thức muốn biết,

Đúng như 5 thức biết,

Và như Mạt-na biết,

Ba trí ví như vậy.

Như người chưa hiểu luận,

Muốn hiểu được nghĩa luận,

Lần lượt ví 3 trí,

Như Gia hành vân vân.

Như lúc người nhắm mắt,

Là trí vô phân biệt,

Lúc người ấy mở mắt,

Là trí của hậu đắc.

Phải biết như hư không,

Là trí vô phân biệt,

Trong đó hiện sắc tượng,

Trí hậu đắc cũng vậy.

Như Mạt-ni, nhạc trời,

Vô tư mà thành sự,

Rất nhiều Phật sự thành,

Cũng thường từ vô tư.

Chẳng đây cũng chẳng đâu,

Chẳng phải trí mà trí,

Với cảnh nào có khác,

Trí thành vô phân biệt.

Phải biết tất cả pháp,

Bản tính vô phân biệt,

Vì sở phân biệt không,

Trí vô phân biệt không.

Ở đây gia hành của trí vô phân biệt có 3 thứ là nhân duyên, dẫn phát và thường tập, nên sinh sai biệt.

Căn bản của trí vô phân biệt cũng có 3 thứ là mừng đủ, không điên đảo và không hý luận, nên vô phân biệt sai biệt.

Hậu đắc của trí vô phân biệt có 5 thứ là thông đạt, tùy niệm, an lập, hòa hợp, như ý, vì tư duy lựa chọn mà sai biệt.

Lại có nhiều bài tụng nói sự thành lập trí vô phân biệt như sau :

Quỷ, bàng sinh, người, trời,

Mỗi loại tùy thích ứng,

Đồng cảnh do tâm khác,

Nên nghĩa không chân thật.

Cảnh quá khứ, vị lai,

Chiêm bao, hai ảnh tượng,

Tuy sở duyên chẳng thật,

Mà cảnh tướng hiện tiền.

Nếu nghĩa thành nghĩa tính,

Không trí vô phân biệt.

Trí này nếu không có,

Chứng Phật quả vô lý.

Bồ-tát được tự tại,

Là do sức thắng giải.

Như muốn được thứ gì,

Được định thì được cả.

Người thành tựu giản trạch,

Có trí mà được định.

Tư duy tất cả pháp,

Như nghĩa đều hiển hiện.

Trí vô phân biệt hiện,

Các nghĩa đều không hiện.

Nên biết không có nghĩa,

Thì thức cũng là không.

Bát-nhã Ba-la-mật-đa với trí vô phân biệt không sai khác gì nhau. Như nói : Bồ-tát an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nơi phi xứ tương ưng, có thể tu tập viên mãn các Ba-la-mật-đa khác. Thế nào là phi xứ tương ưng mà tu tập viên mãn ?

Nghĩa là do xa lìa 5 chỗ : Một là xa lìa chỗ chấp ngã của ngoại đạo. Hai là xa lìa chỗ phân biệt của Bồ-tát chưa thấy chân như. Ba là xa lìa 2 cực đoan của sinh tử Niết-bàn. Bốn là xa lìa chỗ sinh tâm vui mừng cho rằng chỉ đoạn trừ chướng phiền não là đủ. Năm là xa lìa chỗ cảnh giới vô dư y Niết-bàn, an trụ ở đó mà không đoái tưởng lợi ích chúng sinh.

Trí Thanh Văn v.v… với trí Bồ-tát có gì khác nhau ?

Do tương ưng 5 thứ mà biết có khác nhau. Một là khác vì không phân biệt. Nghĩa là vì không phân biệt các pháp 5 uẩn. Hai là không phải sai khác một phần nhỏ. Nghĩa là thông đạt chân như, nhập vào tất cả cảnh giới sở tri, khắp vì độ thoát hữu tình, đó chẳng phải là chuyện nhỏ. Ba là khác nhau vì vô trụ. Nghĩa là lấy vô trụ xứ Niết-bàn làm trụ xứ. Bốn là khác nhau về tính rốt ráo. Nghĩa là trong Niết-bàn vô dư y không đoạn diệt tận. Năm là khác nhau về vô thượng. Nghĩa là cái trí vô phân biệt của Đại thừa này không còn thừa giáo nào hơn. Ở đây có bài tụng như sau :

Các đại bi làm thể,

Do 5 tướng thắng trí,

Khắp thế, xuất thế gian,

Đây là cao xa nhất.

Nếu các Bồ-tát thành tựu Thi-la tăng thượng, Chất-đa tăng thượng, Bát-nhã tăng thượng thì công đức viên mãn, tiền của địa vị được đại tự tại, vì sao hiện thấy có những người thiếu thốn tiền của địa vị ?

Vì thấy người ấy có nghiệp chướng nặng đối với tiền của địa vị. Vì thấy nếu cho người ấy tiền của địa vị, sẽ trở ngại cho sự phát sinh thiện pháp. Vì thấy người ấy nếu thiếu thốn của cải địa vị, sẽ chán bỏ hiện hữu. Vì thấy nếu cho người ấy tiền của địa vị, tức sẽ góp phần tạo nhân các pháp bất thiện. Vì thấy nếu cho người ấy tiền của địa vị, tức sẽ tạo nhân cho vô lượng chúng sinh bị tổn hại. Vì thế mà hiện thấy có người thiếu thốn tiền của địa vị. Ở đây có bài tụng như sau :

Thấy nghiệp chướng hiện tiền,

Vì tích tập tổn hại,

Nên thấy có hữu tình,

Không được Bồ-tát thí.

Phần thứ mười : Quả đoạn

Như vậy là đã nói về sự thù thắng của tuệ tăng thượng, vậy làm thế nào thấy sự thù thắng của quả đoạn ?

Đoạn nghĩa là Niết-bàn vô trụ của Bồ-tát, vì xả bỏ tạp nhiễm mà không xả bỏ sinh tử. Chuyển y 2 chỗ y chỉ làm tướng. Trong đó sinh tử là phần tạp nhiễm của tính y tha khởi, Niết-bàn là phần thanh tịnh của tính y tha khởi. Hai chỗ y chỉ là 2 phần của tính y tha khởi. Chuyển y là tính y tha khởi, khi khởi đối trị thì chuyển bỏ phần tạp nhiễm được phần thanh tịnh.

Lại nữa sự chuyển y này đại lược có 6 thứ. Một là chuyển bớt sức lực thêm khả năng. Nghĩa là do sức thắng giải trụ trong đa văn huân tập và do có sự biết hổ thẹn nên khiến một phần ít các phiền não không hiện hành. Hai là chuyển sự thông đạt. Nghĩa là các Bồ-tát đã nhập đại địa, cho đến địa thứ 6, hiện tiền trụ trước mắt là chân thật thì hiển hiện, phi chân thật thì không hiển hiện. Ba là chuyển sự tu tập. Nghĩa là cho đến địa thứ 10 vì còn chướng ngại, tất cả tướng không hiển hiện, chỉ chân thật hiển hiện. Bốn là chuyển quả viên mãn. Nghĩa là vĩnh viễn không còn chướng ngại, tất cả tướng không hiển hiện, chỉ hiển hiện chân thật thanh tịnh cùng tột, được tự tại đối với tất cả tướng. Năm là chuyển sự thấp kém. Nghĩa là Thanh Văn v.v… chỉ có thể thông đạt tính nhân không vô ngã, một bề quay lưng xả bỏ sinh tử. Sáu là chuyển một cách rộng lớn. Nghĩa là các Bồ-tát gồm thông đạt pháp không vô ngã, nên ngay nơi sinh tử mà thấy là thanh tịnh vắng lặng, tuy đoạn trừ tạp nhiễm mà không bỏ sinh tử.

Các Bồ-tát trụ ở địa vị thấp kém, đối với sự chuyển y có lỗi gì ?

Có lỗi là không đoái tưởng đến sự lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh, trái với tất cả các pháp Bồ-tát, chỉ giải thoát bản thân đồng với các thừa thấp kém.

Nếu các Bồ-tát trụ ở địa vị chuyển đổi rộng lớn thì có công đức gì ?

Ở trong pháp sinh tử lấy sự tự chuyển y làm chỗ dựa nên được tự tại. Thị hiện thân chúng sinh trong tất cả mọi nẻo luận hồi, nếu sinh vào hàng chúng sinh tối thắng và trong 3 thừa thì có thể dùng các phương tiện khéo léo điều phục an lập giáo hóa chúng sinh. Đó là công đức. Ở đây có các bài tụng như sau :

Phàm phu chân thật che,

Chỉ hiển lộ hư vọng.

Các Bồ-tát xả vọng,

Chỉ hiển lộ chân thật.

Phải biết hiển, không hiển,

Chân nghĩa, phi chân nghĩa.

Chuyển y tức giải thoát,

Tùy ý được tự tại.

Nơi sinh tử Niết-bàn,

Nếu khởi trí bình đẳng,

Bấy giờ do chứng đắc,

Sinh tử tức Niết-bàn.

Do đó với sinh tử,

Chẳng bỏ, chẳng chẳng bỏ.

Cũng giống như Niết-bàn,

Chứng đắc, chẳng chứng đắc.

Phần thứ mười một : Quả trí

Như vậy là đã nói về sự thù thắng của quả đoạn, vậy làm thế nào thấy sự thù thắng của quả trí ?

Nên biết do 3 thứ Phật thân mà biết sự thù thắng của quả trí : một là do tự tính thân, hai là do thụ dụng thân, ba là do biến hóa thân.

Trong đây tự tính thân là pháp thân Như Lai, chuyển đổi chỗ y chỉ tự tại đối với tất cả pháp.Thụ dụng thân là y vào pháp thân hiển hiện các chúng hội chư Phật trong các cõi Phật thanh tịnh, thụ dụng pháp lạc của Đại thừa. Biến hóa thân là cũng y vào pháp thân từ cung trời Đổ-sử-đa ẩn mình, thị hiện thụ sinh, thụ dục lạc,, vượt thành xuất gia, đến nơi ngoại đạo tu các khổ hạnh, chứng Đại Bồ-đề, chuyển Đại pháp luân, nhập Đại Niết-bàn. Ở đây có một bài tụng như sau :

Tướng, chứng đắc, tự tại,

Y chỉ và nhiếp trì,

Sai biệt, đức, thậm thâm,

Niệm, nghiệp rõ chư Phật.

Pháp thân chư Phật lấy gì làm tướng ?

Nên biết pháp thân chư Phật lược nói có 5 tướng.

Một là tướng chuyển y. Nghĩa là chuyển diệt tất cả chướng của phần tạp nhiễm trong tính y tha khởi, chuyển được giải thoát tất cả chứng, tự tại đối với pháp, chuyển hiện phần thanh tịnh trong tính y tha khởi.

Hai là tướng do bạch pháp thành tựu. Nghĩa là viên mãn 6 Ba-la-mật-đa , được 10 tự tại. Trong đây thọ mạng tự tại, tâm tự tại, phương tiện sinh hoạt tự tại là do viên mãn thí Ba-la-mật-đa. Nghiệp tự tại, sinh tự tại là do viên mãn giới Ba-la-mật-đa. Nghiệp tự tại và sinh tự tại là do viên mãn giới Ba-la-mật-đa. Thắng giải tự tại là do viên mãn nhẫn Ba-la-mật-đa. Nguyện tự tại là do viên mãn tinh tiến Ba-la-mật-đa. Thần lực tự tại gồm 5 thần thông là do viên mãn tĩnh lự Ba-la-mật-đa. Trí tự tại và pháp tự tại là do viên mãn Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Ba là tướng không hai. Nghĩa là không có 2 tướng có và không. Do tất cả pháp là vô sở hữu mà tướng hiển lộ của không, là thật có cho nên tướng hữu vi vô vi là không hai. Do nghiệp phiền não chẳng phải sở vi mà tự tại thị hiện là tướng hữu vi. Khác tính một tính là tướng không hai. Do chỗ sở y của tất cả chư Phật là không sai biệt cho nên vô lượng liên tục hiện thành đẳng giác. Ở đây có 2 bài tụng như sau :

Vì không có ngã chấp,

Không chỗ nương riêng biệt.

Nhưng tùy thân chứng đắc,

Nên thiết lập có khác.

Chủng tính khác , không rỗng,

Vì viên mãn không đầu,

Vô cấu không riêng khác,

Nên chẳng một, chẳng nhiều.

Bốn là tướng thường trụ. Nghĩa là vì tướng chân như thanh tịnh nên do bản nguyện dẫn xuất làm các việc phải làm, không có thời kỳ thôi nghỉ.

Năm là tướng không thể nghĩ bàn. Nghĩa là chân như thanh tịnh chứng đắc từ bên trong, không có ví dụ nào trong thế gian có thể ví dụ được, không phải chỗ mà sự suy tư tìm kiếm có thể đến được.

Lại nữa pháp thân như thế đầu tiên làm sao chứng đắc ?

Nghĩa là duyên cái tổng tướng của pháp Đại thừa, trí vô phân biệt và trí hậu đắc khéo tu tập 5 tướng, khéo tập họp tư lương nơi tất cả các địa, Kim cương dụ định phá diệt các chướng vi tế khó phá, định này liên tục không gián đoạn, lìa tất cả chướng nên chứng đắc chuyển y.

Lại nữa, pháp thân do bao nhiêu thứ tự tại mà được tự tại ?

Đại lược do 5 thứ. Một là tự tại của cõi Phật, tự thân, tướng tốt, âm thanh vô biên, vô kiến đỉnh tướng, do chuyển y của sắc uẩn. Hai là tự tại về an vui rộng lớn, không tội lỗi, do chuyển y của thụ uẩn. Ba là tự tại về biện luận giảng nói tất cả danh, cú, văn thân, do chuyển y của tưởng uẩn. Bốn là tự tại hóa hiện, biến đổi, dẫn dắt đại chúng tiếp thụ bạch pháp, do chuyển y hành uẩn. Năm là tự tại bởi đại viên kính trí, bình đẳng tính trí, diệu quan sát trí, thành sở tác trí, do chuyển y thức uẩn.

Lại nữa, pháp thân có mấy trụ xứ ?

Nên biết đại lược có 3 chỗ y chỉ. Một là chỗ trụ xứ y chỉ của chư Phật. Ở đây có 2 bài tụng như sau :

Chư Phật chứng được 5 tính hỷ,

Đều do đẳng chứng tự giới tính.

Không hỷ đều do không chứng đây,

Nên người cầu hỷ phải đẳng chứng.

Một do năng lực, hai sự thành,

Pháp vị nghĩa đức đều viên mãn.

Được hỷ tối thắng không tội lỗi,

Là chư Phật thấy thường vô tận.

Hai là chỗ y chỉ của các thụ dụng thân, chỉ để thành thục cho các Bồ-tát. Ba là chỗ y chỉ của các biến hóa thân, phần nhiều để thành thục cho các Thanh Văn v.v…

Nên biết pháp thân do bao nhiêu Phật pháp nhiếp trì ?

Đại lược do 6 thứ : Một là do thanh tịnh. Nghĩa là chuyển thức A-lại-da được pháp thân. Hai là do dị thục. Nghĩa là chuyển sắc căn được trí dị thục. Ba là do an trụ. Nghĩa là chuyển các dục hành v.v…được trụ vô lượng trí. Bốn là do tự tại. Nghĩa là chuyển sự tự tại các nghiệp nhiếp thụ được sự tự tại của trí thần thông vô ngại trong tất cả thế giới. Năm là do ngôn ngữ. Nghĩa là chuyển ngôn ngữ hý luận của tất cả thấy nghe hay biết được sự tự tại của trí biện luận giảng thuyết, khiến tất cả chúng sinh sinh tâm hoan hỷ. Sáu là do cứu tế. Nghĩa là chuyển sự cứu vớt tất cả tai họa lỗi lầm được cái trí cứu vớt tất cả tai họa lỗi lầm cho tất cả chúng sinh. Nên biết pháp thân do 6 thứ Phật pháp nói trên gồm thâu.

Pháp thân chư Phật nên nói là có khác nhau , hay nên nói là không khác ?

Vì y chỉ, vì ý lạc, vì nghiệp dụng không khác nên nói là không khác. Nhưng vô lượng thân chúng sinh hiện thành đẳng chính giác nên nói là có khác. Nói pháp thân Phật như vậy thì thụ dụng thân cũng vậy. Vì ý lạc và nghiệp dụng không khác nên phải nói là không khác. Nhưng không do chỗ y chỉ không sai biệt mà do vô lượng y chỉ sai biệt chuyển. Phải biết biến hóa thân nên nói như thụ dụng thân.

Pháp thân tương ưng với bao nhiêu đức ?

Tương ưng với 4 vô lượng rất thanh tịnh, giải thoát, thắng xứ, biến xứ, vô tránh, nguyện trí, 4 vô ngại giải, 6 thần thông, 32 tướng Đại sĩ, 80 vẻ đẹp, 4 tất cả tướng thanh tịnh, 10 lực, 4 vô úy, 3 bất hộ, 3 niệm trụ, nhổ trừ tập khí, pháp không quên mất, đại bi, 18 pháp không chung và tất cả tướng diệu trí v.v…Ở đây có nhiều bài tụng như sau :

Kính lễ đấng xót thương,

Khởi 4 thứ ý lạc :

Hòa, viễn ly, không bỏ,

Lợi lạc chúng hữu tình.

Kính lễ đấng Mâu-ni,

Giải thoát tất cả chướng,

Hơn tất cả thế gian.

Trí châu biến các pháp,

Tâm giải thoát cứu cánh.

Kính lễ đấng yêu thương,

Trừ diệt cho chúng sinh,

Tất cả hoặc phiền não,

Sạch không còn nhiễm ô.

Kính lễ đấng thuyết giáo,

Không công dụng, không chấp,

Thường vắng lặng, không ngại,

Giải thích các nạn vấn.

Kính lễ đấng thường nói,

Về sở y, năng y,

Sở thuyết lời và trí,

Năng thuyết tuệ vô ngại.

Kính lễ đấng thường dạy,

Vì chúng hữu tình kia,

Hiện tại biết ngôn hành,

Khứ lai và xuất ly.

Kính lễ đấng đạo sư,

Được chúng sinh tôn quý,

Biết là bậc Thiện sĩ,

Thấy được liền tin sâu.

Kính lễ đấng chứng đắc,

Nhiếp thụ trụ trì, xả,

Hiện hóa và biến đổi,

Trí đẳng trì tự tại.

Kính lễ đấng hàng ma,

Bọn lừa dối chúng sinh.

Phương tiện, quy y, tịnh,

Và Đại thừa xuất ly.

Kính lễ trừ ngoại đạo,

Nói trí đức đoạn đức,

Xuất ly và chướng ngại,

Vì đối trị tự tha.

Kính lễ đấng thuyết phục,

Đại chúng lìa tạp nhiễm,

Không gìn giữ cái gì,

Và cũng không quên mất.

Kính lễ đấng thật nghĩa,

Trong tất cả cử động,

Trong tất cả mọi lúc,

Trí giác đều viên minh.

Kính lễ đấng không quên,

Làm lợi ích chúng sinh,

Việc làm không bỏ lỡ,

Và cũng không trống rỗng.

Kính lễ ý lợi lạc,

Tâm đại bi tương ưng,

Ngày đêm thường 6 thời,

Quán sát khắp thế gian.

Kính lễ đấng tối thắng,

Do hành và do chứng,

Do trí và do nghiệp,

Hơn tất cả 2 thừa.

Kính lễ đấng năng đoạn,

Nghi hoặc cho mọi người,

Do chứng đắc 3 thân,

Đủ tướng Đại Bồ-đề.

Pháp thân chư Phật tương ưng với các công đức như vậy, lại còn tương ưng với các công đức khác như tự tính, nhân quả, nghiệp và chuyển y. Do đó phải biết pháp thân chư Phật công đức vô thượng. Ở đây có 2 bài tụng như sau :

Phật thành thật thắng nghĩa,

Tất cả địa xuất sinh.

Trên tất cả chúng sinh,

Giải thoát các hữu tình.

Đức vô tận, vô đẳng,

Tương ưng hiện thế gian,

Và chúng hội thấy được,

Người trời không thể thấy.

Lại nữa pháp thân chư Phật rất sâu xa, cực kỳ sâu xa. Làm sao thấy được sự sâu xa ấy ? Ở đây có các bài tụng như sau :

Phật không sinh mà sinh,

Cũng không trụ mà trụ.

Việc làm không dụng công,

Thụ thực : pháp thứ tư.

Không khác, khác vô lượng,

Vô số cũng là một.

Nghiệp rất chắc, không chắc,

Chư Phật đủ ba thân.

Hiện đẳng giác phi hữu,

Giác viên mãn phi vô.

Mỗi một niệm vô lượng,

Hiển hiện có không có.

Không nhiễm, không lìa nhiễm,

Do dục được xuất ly.

Biết dục là không dục,

Ngộ nhập dục pháp tính.

Chư Phật vượt năm uẩn,

Mà an trụ trong uẩn.

Uẩn chẳng một chẳng khác,

Không xả mà tịch diệt.

Chư Phật sự tướng hòa,

Như nước trong biển lớn.

Ta đã đang sẽ làm,

Không nghĩ là lợi tha.

Có tội thì không thấy,

Như bình vỡ không trăng.

Phổ biến khắp thế gian,

Pháp sáng như mặt trời.

Hoặc hiện Đẳng chính giác,

Hoặc như lửa Niết-bàn.

Đây chưa từng chẳng có,

Vì Phật thân thường trú.

Như Lai đối việc ác,

Trong cõi người, nẻo ác,

Các pháp phi phạm hạnh,

Trụ tự thể tối thắng.

Phật hiện hành khắp nơi,

Cũng không đến nơi nào.

Trong tất cả hiện thân,

Chẳng phải tướng sáu căn.

Các hoặc đã dẹp hết,

Như bị các chú độc.

Từ hoặc đến hết hoặc,

Phật chứng nhất thiết trí.

Phiền não thành giác phần,

Sinh tử là Niết-bàn.

Đủ các phương tiện lớn,

Chư Phật bất tư nghị.

Nên biết như đã nói, có 12 thứ rất sâu xa tức là sự sâu xa về sinh trụ, nghiệp trụ, về an lập số nghiệp, về đẳng giác, về ly dục, về đoạn uẩn, về thành thục, về hiển hiện, về thị hiện đẳng giác Niết-bàn, về trụ, về hiển thị tự thể, về đoạn phiền não, về bất khả tư nghị.

Nếu các Bồ-tát nghĩ nhớ pháp thân Phật thì có bao nhiêu sự tu niệm nghĩ nhớ ?

Lược nói sự nghĩ nhớ pháp thân Phật có 7 điều phải nghĩ nhớ. Một là phải nghĩ nhớ rằng chư Phật hoàn toàn tự tại đối với tất cả các pháp, vì được thần thông vô ngại trong tất cả thế giới. Ở đây có bài tụng như sau :

Khắp các cõi hữu tình,

Đủ chướng mà thiếu nhân,

Hai thứ quyết định chuyển,

Chư Phật không tự tại.

Hai là phải nghĩ nhớ rằng thân Như Lai thường trú, vì chân thân không gián đoạn giải thoát cấu uế. Ba là phải nghĩ nhớ rằng Như lai là tối thắng, không tội lỗi, vì đều đã lìa khỏi mọi trói buộc của tất cả chướng phiền não và sở tri. Bốn là phải nghĩ nhớ rằng Như Lai không dụng công, vì không có dụng công mà làm tất cả Phật sự không thôi nghỉ. Năm là phải nghĩ nhớ rằng Như Lai thụ dụng rất phong phú an lạc, vì cõi Phật thanh tịnh phong phú an lạc. Sáu là phải nghĩ nhớ rằng Như Lai lìa các nhiễm ô, vì sinh trong thế gian không bị các pháp thế gian ô nhiễm. Bảy là phải nghĩ nhớ rằng Như Lai có thể hoàn thành việc lớn, vì thị hiện chứng đẳng chính giác, Niết-bàn v.v…tất cả chúng sinh chưa thành thục thì khiến thành thục, đã thành thục thì khiến được giải thoát. Ở đây có 2 bài tụng như sau :

Viên mãn thuộc tự tâm,

Thanh tịnh và thường trú,

Không dụng công mà thí

Pháp lạc cho hữu tình.

Trải khắp không dừng trụ,

Bình đẳng lợi nhiều đời,

Người trí nên nghĩ nhớ,

Pháp thân Phật như vậy.

Lại nữa, tướng cõi Phật thanh tịnh của chư Phật như thế nào ?

Nên biết như Phẩm tựa của Bồ-tát Tạng Bách Thiên Khế Kinh có nói như sau :

Phật Thế Tôn ở cung điện 7 báu trang nghiêm rực rỡ sáng chói khắp nơi, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô biên thế giới , vô lượng cõi trang sức vi diệu, chu vi rộng lớn không ước lượng đến đâu là biên giới, vượt quá ba cõi nơi được tạo thành bởi thiện căn xuất thế gian, thanh tịnh tự tại cùng cực của duy thức làm tướng. Đó là nơi Như Lai đặt làm trụ xứ cho chúng Đại Bồ-tát vân tập. Là nơi có vô lượng rồng trời, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-đồ, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, người, phi nhân v.v…tùy tùng, hành trì hỷ lạc đại pháp vị. Là nơi tạo tất cả nghĩa lợi cho chúng sinh, nơi dẹp trừ tất cả phiền não tai ương, nơi trang nghiêm xa lìa các ma, nơi sở y trang nghiêm của Như Lai, nơi lấy đại niệm tuệ hạnh làm đường đi, lấy đại chỉ quán làm thừa giáo, lấy đại không, vô tướng, vô nguyện, giải thoát làm cửa vào, nơi được trang nghiêm bằng vô lượng công đức nhóm hợp, nơi do Đại Bảo Hoa vương thiết lập. Trong cung điện lớn Thế Tôn thị hiện cõi Phật thanh tịnh, hiển sắc viên mãn, hình sắc viên mãn, phân lượng viên mãn, phương hướng viên mãn, nhân viên mãn, quả viên mãn, chủ viên mãn, phụ tá viên mãn, quyến thuộc viên mãn, trụ trì viên mãn, sự nghiệp viên mãn, nhiếp ích viên mãn, vô úy viên mãn, trụ xứ viên mãn, đường sá viên mãn, phương tiện di chuyển viên mãn, cửa vào viên mãn, y cứ gìn giữ viên mãn.

Lại nữa sự thụ dụng cõi Phật thanh tịnh như thế, hoàn toàn thanh tịnh vi diệu, hoàn toàn an vui, hoàn toàn không tội lỗi, hoàn toàn tự tại.

Lại nữa nên biết pháp giới chư Phật như vậy, trong mọi thời thường làm 5 sự nghiệp :

Một là cứu vớt tất cả tai họa cho chúng sinh làm sự nghiệp. Chỉ trông thấy được là có thể cứu các tai họa như đui, điếc, điên dại v.v…

Hai là cứu vớt đường dữ làm sự nghiệp. Cứu vớt các hữu tình ra khỏi chỗ hung dữ đưa đến nơi an lành.

Ba là cứu vớt những hành vi phi phương tiện làm sự nghiệp. Khiến các ngoại đạo bỏ phương tiện phi pháp, cầu hạnh giải thoát, đặt họ vào trong thánh giáo của Như Lai.

Bốn cứu vớt các Tát-ca-da làm sự nghiệp. Trao cho phương tiện đạo siêu thoát ba cõi.

Năm là cứu vớt bằng thừa giáo làm sự nghiệp. Nghĩa là như Bồ-tát có ý muốn nghiêng về một thừa khác, hay Thanh Văn chưa quyết định chủng tính, thì an lập họ vào con đường tu hạnh Đại thừa. Phải biết đối với 5 sự nghiệp này, nghiệp dụng của chư Phật đều bình đẳng. Ở đây có bài tụng như sau :

Nhân, y, sự, tính, hành,

Khác nhau nên nghiệp khác.

Thế gian thì có khác,

Chư Phật thì bình đẳng.

Nếu công đức này viên mãn tương ưng, pháp thân chư Phật không chung với Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa, vậy vì ý gì Phật nói Nhất thừa ? Ở đây có 2 bài tụng như sau :

Để dẫn dắt một loại,

Và giữ gìn số khác,

Do chủng tính bất định,

Nên Phật nói Nhất thừa.

Pháp, vô ngã, giải thoát,

Đồng đẳng, tính không đồng,

Đắc, 2 ý lạc hóa,

Cứu cánh nói Nhất thừa.

Như vậy chư Phật đồng một pháp thân, vì sao có nhiều Phật ? Ở đây có bài tụng như sau :

Một cõi không 2 Phật,

Đồng thời nhiều chứng thành.

Lần lượt chuyển, phi lý,

Nên thành có nhiều Phật.

Làm sao biết trong pháp thân Phật chẳng phải rốt ráo nhập Niết-bàn, cũng chẳng phải rốt ráo chẳng nhập Niết-bàn ? Ở đây có bài tụng như sau :

Tất cả chướng thoát hết,

Việc làm không kết thúc,

Rốt ráo nhập Niết-bàn.

Rốt ráo chẳng Niết-bàn.

Vì sao thụ dụng thân chẳng phải tự tính thân ?

Vì có 6 nguyên nhân : 1. Do sắc thân có thể trông thấy. 2. Do có thể thấy trong vô lượng Phật chúng hội khác nhau. 3. Do tùy thắng giải mà tự tính bất định có thể thấy. 4. Do riêng biệt có thể thấy, tự tính biến động có thể thấy. 5. Trong các đại tập hội gồm Bồ-tát, Thanh Văn, chư thiên v.v..nhiều tướng khác nhau họp lại, nên có thể thấy. 6. Do sự chuyển y phi lý của thức A-lê-da với các chuyển thức nên có thể thấy. Thụ dụng thân của Phật mà thành tự tính thân là không đúng lý.

Vì nguyên nhân nào biến hóa thân không là tự tính thân ?

Vì 8 nguyên nhân : Chư Bồ-tát từ xa xưa đã được định không thoái chuyển nên thụ sinh nơi trời Đổ-sử-đa và sinh trong cõi người thì không đúng lý. Lại các Bồ-tát từ xa xưa hằng nhớ đời trước, vậy văn chương tính toán kỹ nghệ v.v…cũng như hưởng thụ trần dục mà Bồ-tát không biết là không đúng lý. Lại các Bồ-tát từ xa xưa đã biết các giáo pháp đâu là ác thuyết đâu là thiện thuyết, vậy mà còn đến theo học ngoại đạo là không đúng lý. Các Bồ-tát từ xa xưa đến nay đã thông suốt chính lý Thánh đạo ba thừa mà tu tà khổ hạnh là không đúng lý. Các Bồ-tát bỏ trăm câu-chi các Thiệm-bộ châu , mà chỉ ở một chỗ thành Đẳng chính giác, chuyển chính pháp luân là không hợp lý. Nếu tách rời phương tiện thị hiện thành chính giác, chỉ dùng hóa thân làm Phật sự ở phương khác, vậy thì nên thành chính giác trên trời Đổ-sử-đa, sao lại không ? Nếu không như vậy thì tại sao Phật không đồng thời xuất hiện bình đẳng trong tất cả Thiệm-bộ châu ?

Nếu không xuất hiện thì không có giáo không có lý. Tuy có nhiều hóa thân mà không trái với câu nói không có 2 Như Lai cùng xuất hiện trong một thế giới. Như 2 Chuyển luân vương không cùng xuất hiện, bởi 4 châu là một thế giới. Ở đây có bài kệ nói như sau :

Phật vi tế hóa thân,

Đa nhập thai cùng lúc.

Thị hiện Nhất thiết chủng,

Thành đạo, chuyển pháp luân.

Vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình mà phát nguyện tu hành, chứng Đại Bồ-đề rồi rốt ráo Niết-bàn là không đúng lý, vì có lỗi không thành hạnh nguyện.

Thụ dụng thân và biến hóa thân của Phật đã là vô thường thì vì sao kinh nói thân Như Lai là thường ?

Vì chỗ sở y của 2 thân này là pháp thân, mà pháp thân là thường. Lại nữa đẳng lưu thân và biến hóa thân vì thường thụ dụng không ngưng nghỉ nên thường thường hóa hiện không vĩnh viễn tuyệt dứt, như thường thụ an lạc, như thường thí thực. Phải biết thân Như Lai là thường, cũng nghĩa như vậy.

Do 6 nguyên nhân mà hóa thân chư Phật Thế Tôn không rốt ráo vĩnh trụ : 1. Vì việc làm đã hoàn tất, bởi đã thành thục giải thoát chúng sinh. 2. Vì muốn xả bỏ không ưa Niết-bàn muốn cầu thân Như Lai thường trú. 3. Vì muốn người trừ bỏ tâm khinh mạn đối với chư Phật, khiến ngộ chính pháp sâu xa. 4. Vì khiến đối với Phật sinh tâm khát ngưỡng sâu xa, nếu thường thấy sẽ sinh chán. 5. Khiến tự thân siêng năng tinh tiến, biết người nói chính pháp là rất khó gặp. 6. Vì muốn các hữu tình mau chóng thành thục, khiến tự tinh tiến không bỏ gánh nặng. Ở đây có 2 bài tụng như sau :

Do việc làm đã xong,

Bỏ không ưa Niết-bàn,

Bỏ khinh chê chư Phật,

Sinh khát ngưỡng sâu xa.

Trong tự mình tinh tiến,

Vì mau chóng thành thục,

Nên chư Phật hóa thân,

Không vĩnh viễn thường trú.

Pháp thân chư Phật từ vô thủy đến nay không khác biệt, không số lượng, không nên vì được mà có dụng công. Ở đây có bài tụng như sau :

Phật có vô biệt, vô lượng nhân,

Hữu tình nếu bỏ siêng công dụng,

Chứng đắc, mãi mãi chẳng thành nhân,

Đoạn nhân như vậy không đúng lý.

Đây là Phẩm Nhiếp Đại Thừa, trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma, tôi A-tăng-già sơ lược giải thích xong.

    Xem thêm:

  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Tập Chư Pháp Bảo Tối Thượng Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Nhập Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Tập Bồ Tát Học - Luận Tạng
  • Thắng Pháp Tập Yếu Luận tập 2 - Luận Tạng
  • Thắng Pháp Tập Yếu Luận tập 1 - Luận Tạng
  • Luận Tập Đại Thừa Tướng - Luận Tạng
  • Luận Tịnh Độ Thập Nghi - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Trăm Pháp Minh Môn - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Thanh Từ - Luận Tạng
  • Ba Mươi Bài Luận Tụng Duy Thức - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đề Bà Bồ Tát Giải Thích Với Ngoại Đạo Tiểu Thừa Về Niết Bàn Theo Kinh Lăng Già - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Duy Thức - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Viên Lý - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 5 - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 4 - Luận Tạng