1
2
3
4
5

Phẩm Mười Một: MINH TÍN

Giải thích:

Đã nói sự tùy thuận Vô thượng bồ-đề. Bồ-đề, chỗ gọi là đức tin. Nay tôi xin nói về sắc thái của đức tin ấy.

Kệ tụng:

Đã sanh và chưa sanh

Chánh thọ và tự thọ

Tha lực và tự lực

Có mê và không mê

Hiện tiền, không hiện tiền

Nghe pháp và cầu nghĩa

Quán sát, thảy mười ba

Phân biệt sắc thái tín.

Giải thích:

Sắc thái sai biệt của đức tin có mười ba thứ:

1. Đức tin đã phát sanh: là đức tin đã phát sanh trong quá khứ hay hiện tại;

2. Đức tin chưa phát sanh: là đức tin chưa phát sanh ở tương lai;

3. Đức tin chánh thọ: là đức tin bên trong;

4. Đức tin tự thọ: là đức tin bên ngoài;

5. Đức tin vào tha lực: là đức tin thô sơ, phát sanh nhờ sức của thiện hữu;

6. Đức tin vào tự lực: là đức tin tinh tế, phát sanh nhờ sức của bản thân;

7. Đức tin có mê lầm: là tin vào điều ác xấu, do tâm điên đảo;

8. Đức tin không có mê lầm: là tin vào điều thiện lành, do tâm không điên đảo;

9. Đức tin hiện tiền: là đức tin vào những gì ở gần, vì không có chướng ngại;

10. Đức tin không hiện tiền: là đức tin vào những gì ở xa, vì có chướng ngại;

11. Đức tin nghe pháp: là đức tin từ sự lắng nghe, do nghe pháp mà có được;

12. Đức tin cầu nghĩa: là đức tin từ sự tư duy, do tư duy nghĩa lý mà có được;

13. Đức tin quán sát: là đức tin từ sự tu tập, do tu tập quán chiếu mà có được.

Đã nói các sắc thái sai biệt của đức tin, kế nói chủng loại sai biệt của đức tin.

Kệ tụng:

Khả đoạt, gián, vô gián

Có nhiều và có ít

Có che, không che giấu

Tương ưng, không tương ưng

Có tích tụ, không tụ

Cực nhập và viễn nhập

Mười ba nghĩa như vậy

Phân biệt chủng loại tín.

Giải thích:

Chủng loại sai biệt của đức tin cũng có mười ba thứ:

1. Đức tin có thể chiếm đoạt: là đức tin hạ phẩm;

2. Đức tin có gián đoạn: là đức tin trung phẩm;

3. Đức tin không có gián đoạn: là đức tin thượng phẩm;

4. Đức tin số nhiều: là đức tin Đại thừa;

5. Đức tin số ít: là đức tin tiểu thừa;

6. Đức tin có che giấu: là đức tin có chướng ngại, do không thể vượt lên;

7. Đức tin không che giấu: là đức tin không chướng ngại, do có thể vượt lên;

8. Đức tin tương ưng: là đức tin của sự tu tập thuần thục, do hạnh tu thường xuyên và hạnh tu cung kính;

9. Đức tin không tương ưng: là đức tin của sự tu tập chưa thuần thục, do rời xa hạnh tu thường xuyên và hạnh tu cung kính;

10. Đức tin có dồn chứa: là đức tin có kết quả, do có khả năng đắc đại bồ-đề;

11. Đức tin không có dồn chứa: là đức tin không có kết quả, do không có khả năng đắc đại bồ-đề;

12. Đức tin đi vào cực hỷ: là đức tin của hữu công dụng hành, tức từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy;

13. Đức tin đi vào viễn hành: là đức tin của tuệ giác cực kỳ trong sạch, tức từ địa thứ tám đến địa vị Phật.

Đã nói chủng loại của đức tin, kế nói chướng ngại của đức tin.

Kệ tụng:

Quên nhiều và biếng nhác

Hành mê và bạn ác

Thiện yếu, nghĩ sai lầm

Phóng dật và nghe ít

Ưa nghe, ưa tư duy

Nhân định tăng thượng mạn

Nên biết lỗi như vậy

Chướng ngại nơi đức tin.

Giải thích:

Chướng ngại có nghĩa là trái ngược. Quên nhiều, là chướng ngại cho đức tin đã phát sanh. Biếng nhác, là chướng ngại cho đức tin chưa phát sanh. Tu hành mê lầm, là chướng ngại cho đức tin chánh thọ và tự thọ, vì trước [và trong] khi tu tập chấp trước sở thọ và năng thọ. Bạn ác, là chướng ngại đức tin vào tha lực, vì dùng pháp điên đảo khiến người tiếp nhận. Điều thiện yếu ớt, là chướng ngại đức tin vào tự lực. Nghĩ tưởng sai lầm, là chướng ngại cho đức tin không có mê lầm. Phóng dật, là chướng ngại cho đức tin hiện tiền. Nghe ít, là chướng ngại cho đức tin nghe pháp, vì không lắng nghe giáo pháp liễu nghĩa. Thỏa thích nghe pháp, là chướng ngại cho đức tin cầu nghĩa, vì thiếu sự tư duy. Thỏa thích tư duy và tự mãn tu định là những chướng ngại cho đức tin quán sát, vì tư duy mà thiếu sự tu tập và vì tu định mà không có sự quán sát tinh tế.

Hỏi: Chướng nạn nào ngăn trở chủng loại của đức tin?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Không tu tập, không chán,

Có chán, có che giấu

Không tương ưng, không tụ

Nên biết chướng tín chủng.

Giải thích:

Không tu tập, là chướng ngại cho đức tin có thể chiếm đoạt và đức tin lắng nghe.

Không chán, là chướng ngại cho đức tin Tiểu thừa, vì không chán sự sanh tử.

Có chán, là chướng ngại cho đức tin Đại thừa, vì chán sự sanh tử.

Có che giấu, là chướng ngại cho đức tin không che giấu.

Không tương ưng, là chướng ngại cho đức tin tương ưng.

Không dồn chứa, là chướng ngại cho đức tin có dồn chứa.

Đã hiển thị chướng nạn của đức tin, kế ca ngợi công đức của đức tin.

Kệ tụng:

Tín có phước đức lớn

Không hối, hỷ lạc lớn

Không hủy hoại, kiên cố

Tiến địa vị, đắc pháp

Lợi mình và lợi người

Dẫn ra các thần thông

Đem các công đức này

Ca ngợi lợi ích tín.

Giải thích:

Phước đức lớn, là ca ngợi đức tin hiện tại. Không hối tiếc, là ca ngợi đức tin quá khứ, vì hiện tại không thay đổi việc đời trước. Hỷ lạc lớn, là ca ngợi đức tin chánh thọ và đức tin tự thọ, vì tương ưng với thiền định. Không hủy hoại, là ca ngợi đức tin vào tha lực, vì chánh đạo không bị hủy hoại. Kiên cố, là ca ngợi đức tin vào tự lực, vì không thoái lui, không từ bỏ. Thăng tiến địa vị, là ca ngợi đức tin không có mê lầm, đức tin hiện tiền, đức tin nghe pháp, đức tin cầu nghĩa và đức tin quán sát. Đắc pháp, là ca ngợi đức tin không có gián đoạn. Lợi mình, là ca ngợi đức tin số ít [hay Tiểu thừa]. Lợi người, là đức tin số nhiều [hay Đại thừa]. Dẫn ra các thần thông, là ca ngợi đức tin của các tự phần, đó là đức tin không che giấu, đức tin tương ưng, đức tin có dồn chứa, đức tin đi vào cực hỷ và đức tin đi vào viễn hành.

Kệ tụng:

Chó, rùa, làm thuê, vua

Thí dụ cho bốn tín

Tập dục, tập các định

Lợi mình, lợi tha nhân.

Giải thích:

Thí như con chó đói đi tìm cầu thức ăn không biết chán, đức tin của những người tập nhiễm năm thứ dục lạc cũng giống vậy, trong mọi thời gian họ có đủ thứ niềm tin.

Thí như con rùa mù ở trong nước rút sáu chi vào trong mai, đức tin của những người tu tập các định ngoại đạo cũng giống vậy, họ chỉ biết tu tập các thiền định thế gian.

Thí như người làm thuê sợ người chủ, đức tin của những người siêng năng làm việc lợi mình cũng giống như vậy, họ sợ sanh tử mà siêng năng tu các phương tiện.

Thí như một đại vương tự tại ban ra chiếu sắc, đức tin của những người làm việc lợi người cũng giống vậy, họ gia tăng sự giáo hóa không có ngừng nghỉ.

Người tu Bồ tát đạo phải hiểu biết các loại đức tin và phân biệt rộng ra cho người khác cùng hiểu, làm như vậy là khuyến khích các chúng sanh phát sanh đức tin Đại thừa.

Đã ca ngợi công đức của đức tin, kế nói sự ngăn ngừa tâm ý thấp kém.

Kệ tụng:

Thân người và phương xứ

Thời gian, đều vô hạn

Ba nhân đắc bồ-đề

Chớ khởi tâm hạ liệt.

Giải thích:

Thân người và phương xứ, thời gian đều vô hạn: Đắc Vô thượng bồ-đề có ba nhân tố vô hạn:

1. Thân người vô hạn: Do chúng sanh trong nhân đạo thì vô hạn;

2. Phương xứ vô hạn: Do thế giới trong mười phương thì vô hạn;

3. Thời gian vô hạn: Do từng sát-na tiếp nối cùng tận vị lai biên tế thì vô hạn.

Ba nhân đắc bồ-đề, chớ khởi tâm hạ liệt: Do ba nhân tố này vô hạn cho nên Bồ tát đối với Vô thượng bồ-đề không nên khởi tâm ý thấp kém, thoái lui, khuất phục.

Đã nói sự ngăn ngừa tâm ý thấp kém, kế hiển thị sự thù thắng của phước đức.

Kệ tụng:

Được phước do bố thí

Chẳng do tự thọ dụng

Dựa người nói Đại thừa

Không dựa mình nghĩa pháp.

Giải thích:

Được phước do bố thí, chẳng do tự thọ dụng: Thí như việc đem thức ăn bố thí cho người thì được phước lớn vì làm việc lợi người; chẳng phải tự thọ dụng mà được phước lớn vì chỉ làm lợi cho mình.

Hỏi: Bồ tát làm gì để được phước?

Đáp: Dựa người nói Đại thừa, không dựa mình nghĩa pháp.

Chư Bồ tát như vậy dựa vào sự lợi người mà nói kinh Đại thừa để được phước đức lớn; chẳng dựa vào sự lợi mình mà nói kinh Tiểu thừa để được phước đức lớn.

Đã nói sự thù thắng của phước đức, kế nói sự đắc quả.

Kệ tụng:

Đại pháp khởi đại tín

Quả đại tín có ba

Tín tăng, phước đức tăng

Được thể công đức Phật.

Giải thích:

Đại pháp khởi đại tín, quả đại tín có ba: Người có trí đối với thánh pháp Đại thừa sanh khởi đức tin Đại thừa. Do đức tin Đại thừa này mà có được ba loại quả.

Hỏi: Các quả đó là gì?

Đáp: Tín tăng, phước đức tăng, được thể công đức Phật.

Ở đây nói rõ, một là được quả đại tín, vì đức tin tăng trưởng; hai là được quả đại phước, vì phước đức tăng trưởng; ba là được quả đại bồ-đề, vì được công đức vô đẳng và thể Phật vĩ đại.

Phẩm Mười Hai: PHẨM MINH TÍN TRỌN VẸN

THUẬT CẦU (Phần 1)

Giải thích:

Như vậy đã nói chủng loại đức tin, kế nói đem đức tin để cầu các pháp.

Kệ tụng:

Nhiếp ba tạng hoặc hai

Thành ba, có chín nhân

Nhờ huân, giác, tịch, thông

Giải thoát sự sanh tử.

Giải thích:

Nhiếp ba tạng hoặc hai: Ba tạng, là tu-đa-la tạng, tỳ-ni tạng và A-tỳ-đàm tạng. Hoặc hai, là trong ba tạng chia ra hai thừa thấp cao sai biệt, chỗ gọi là Thanh văn tạng và Bồ tát tạng.

Hỏi: Ba tạng và hai thừa ấy, vì sao gọi là tạng?

Đáp: Vì nhiếp thủ, tức nhiếp thủ tất cả nghĩa của các pháp sở tri.

Hỏi: Vì sao thành ba?

Đáp: Thành ba, có chín nhân.

1. Thiết lập tu-đa-la là để đối trị nghi hoặc, thí dụ như có người khởi lên hoài nghi mọi chỗ về nghĩa của các pháp, thì tu-đa-la làm cho người ấy có sự xác định [sự hiểu biết của họ] về các pháp.

2. Thiết lập tỳ-ni là để đối trị sự thọ dụng hai bên: lìa bên này là chạy theo dục lạc mà thọ dụng quá đáng cái có, và lìa bên kia là ép xác khổ hạnh mà thọ dụng quá đáng cái không.

3. Thiết lập A-tỳ-đàm là để đối trị những kiến thủ nơi tự tâm; A-tỳ-đàm có thể chỉ ra những quan điểm không điên đảo về pháp tướng.

4. Lại nữa, thiết lập tu-đa-la là để thuyết minh về ba học.

5. Thiết lập tỳ-ni là để thành tựu giới học và tâm học, nghĩa là do trì giới mà được tâm không hối hận, do được tâm không hối hận mà theo thứ lớp có được định.

6. Thiết lập A-tỳ-đàm là để thành tựu tuệ học, nghĩa là trí tuệ có khả năng quyết trạch nghĩa không đảo ngược.

7. Lại nữa, thiết lập tu-đa-la là để giảng thuyết chính xác về pháp và nghĩa.

8. Thiết lập tỳ-ni là để thành tựu pháp và nghĩa, qua sự tinh cần [tu tập] phương tiện để diệt trừ phiền não.

9. Thiết lập A-tỳ-đàm là để thông đạt pháp và nghĩa, qua việc sử dụng A-tỳ-đàm như phương tiện để giản trạch các pháp.

Do chín nhân tố trên đây mà thiết lập ba tạng.

Hỏi: Trên đây là nói về cái dụng riêng [của ba tạng], còn cái dụng chung thì thế nào?

Đáp: Do huân, giác, tịch, thông, giải thoát sự sanh tử. Ở đây nói rõ sự giải thoát sanh tử là cái dụng chung của ba tạng. Nhờ nghe pháp mà có sự huân tập nơi tâm, nhờ tư duy pháp mà có sự giác ngộ, nhờ tu chỉ mà có sự tịch tĩnh, nhờ chứng quán mà có sự thông đạt. Do có được bốn nghĩa huân, giác, tịch và thông mà vĩnh viễn giải thoát mọi sự trong sanh tử.

Kệ tụng:

Kinh, luật, A-tỳ-đàm

Mỗi thứ có bốn nghĩa

Tinh thông thành chủng trí

Một kệ được lậu tận.

Giải thích:

Lược nói mỗi tạng trong ba tạng đều có bốn nghĩa. Nếu hàng Bồ tát có khả năng hiểu rõ nghĩa lý của ba tạng thì thành tựu được nhất thiết chủng trí. Nếu hàng Thanh văn có khả năng hiểu rõ một bài kệ thì các lậu hoặc vĩnh viễn đoạn trừ.

Hỏi: Thế nào là mỗi tạng đều có bốn nghĩa?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Do y và do tướng

Do pháp và do nghĩa

Như vậy bốn loại nghĩa

Nói đó nghĩa Tu đa.

Giải thích:

Tu-đa-la có bốn nghĩa: 1. Y; 2. Tướng; 3. Pháp; 4. Nghĩa.

Y là xứ, nhân và dụng, tức là tùy theo quốc độ nào, tùy theo chư Phật nào và tùy theo chúng sanh nào. Như lai dựa vào ba yếu tố này mà thuyết Tu-đa-la.

Tướng là sắc thái thế tục đế và sắc thái đệ nhất nghĩa đế.

Pháp là giáo pháp về [năm] uẩn, [mười tám] giới, [mười hai] nhập, [mười hai] duyên sanh, [bốn] đế, [bốn] thực v.v…

Nghĩa là giải thích nguyên nhân.

Kệ tụng:

Do đối và do số

Do phục và do giải

Như vậy bốn loại nghĩa

Nói đó nghĩA-tỳ-đàm.

Giải thích:

A-tỳ-đàm có bốn nghĩa: 1. Đối; 2. Số; 3. Phục; 4. Giải.

Đối là pháp hướng niết-bàn, là giảng thuyết về [bốn] đế, [ba mươi bảy] bồ-đề phần, [ba] giải thoát môn v.v…

Số là pháp tương tục, là giảng thuyết về mỗi một pháp như là sắc, không phải sắc, có thể thấy, không thể thấy v.v… có vô lượng sai biệt.

Phục là pháp thắng thượng, là giảng thuyết pháp nghĩa một cách xác quyết làm cho đối phương phải thoái lui trong một cuộc tranh luận.

Giải là pháp thích nghĩa, là A-tỳ-đàm diễn giải nghĩa lý trong tu-đa-la sao cho dễ hiểu.

Kệ tụng:

Do tội, khởi, tịnh, xuất

Do nhân, chế, giải, phán

Bốn nghĩa thêm bốn nghĩa

Nói đó nghĩa tỳ-ni.

Giải thích:

Tỳ-ni có hai loại bốn nghĩa.

Bốn nghĩa đầu tiên là: 1. Tội; 2. Khởi; 3. Tịnh; 4. Xuất.

Tội là tự tánh của tội, nghĩa là năm tụ tội.

Khởi là duyên khởi của tội, có bốn duyên: 1. Không biết; 2. Phóng dật; 3. Phiền não nhanh nhạy; 4. Tâm không cung kính [đối với các học xứ].

Tịnh là sự hoàn tịnh của tội, hoàn tịnh do thiện tâm chứ không do trị phạt.

Xuất là sự xuất ly của tội, có bảy loại: 1. Hối lỗi, là ngăn chận không cho tiếp tục nữa; 2. Tùy thuận lời dạy, là theo pháp yết ma mà trị phạt làm dữ học [tỳ-kheo]; 3. Khai hứa, là trước hết ngăn cấm [bằng các học xứ], sau đó mở ra [bằng đạo lý riêng]; 4. Cánh xả, là tăng-già hòa hợp cho phép giải tội của người đang học pháp, đây là trường hợp người mới vi phạm lần đầu thì được trở lại thanh tịnh; 5. Chuyển y, là trường hợp tỳ-kheo, tỳ-kheo ni chuyển đổi nam nữ căn bị trục xuất mà không cùng tội; 6. Thật quán, là thắng quán pháp trong ưu-đà-na; 7. Tánh đắc, là khi kiến đế thì những tội vi tế không có thật thể, là do chứng pháp không, đắc pháp nhĩ.

Lại có bốn nghĩa khác là: 1. Nhân; 2. Chế; 3. Giải; 4. Phán.

Nhân là người phạm tội.

Chế là do có người phạm tội mà vị đại sư nhóm họp chúng để nói lỗi lầm của người kia và chế lập những học xứ.

Giải là phân biệt rộng ra những học xứ đã chế lập.

Phán là phán quyết thế nào là đắc tội, thế nào là không đắc tội, như thế mà thọ trì.

Đã nói sự cầu pháp, kế nói sự cầu duyên.

Kệ tụng:

Phật thuyết pháp sở duyên

Trong, ngoài và trong ngoài

Được hai, nghĩa vô nhị

Hai cũng bất khả đắc.

Giải thích:

Phật thuyết pháp sở duyên, trong, ngoài và cả hai: Đức phật thuyết rằng tất cả pháp sở duyên có ba loại: 1. Sở duyên trong; 2. Sở duyên ngoài; 3. Sở duyên trong ngoài.

Tự tánh năng thủ về thân thọ tâm pháp gọi là sở duyên trong; tự tánh sở thủ về thân, thọ, tâm, pháp gọi là sở duyên ngoài, và hợp cả hai tự tánh năng thủ và sở thủ gọi là sở duyên trong ngoài.

Được hai, nghĩa vô nhị, hai cũng bất khả đắc: Đối với hai sở duyên trong và ngoài này, (tu quán) theo thứ đệ của chúng mà được nghĩa vô nhị.

Hỏi: Làm sao có được?

Đáp: Không quán riêng nghĩa sở thủ và nghĩa năng thủ, hay không quán riêng nghĩa năng thủ và nghĩa sở thủ, mà hợp hai pháp quán làm một, thì ngay nơi hai sở duyên trong và ngoài mà đắc chân như. Như vậy, hai sở duyên ấy không có hai nghĩa, tức là nói hai duyên này cũng không thể thủ đắc.

Hỏi: Đã nói sự được duyên, vậy làm sao để được trí?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Ba duyên được ba trí

Tịnh trì ý ngôn cảnh

Liễu biệt nghĩa quang rồi

An tâm chỉ có danh.

Giải thích:

Ba sở duyên, như trước đã nói, là cảnh trong, cảnh ngoài và cảnh trong ngoài. Ba trí là văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ. Do dựa vào ba duyên mà có được ba tuệ.

Hỏi: Làm sao có được?

Đáp: Đối với ba sở duyên mà tịnh trì ý ngôn cảnh thì có được văn tuệ. Ý ngôn là [ý thức] phân biệt. Tịnh là niềm tin xác quyết ấn tượng trong định. Trì là phân biệt chủng loại của ý ngôn. Do tịnh trì ý ngôn cảnh mà có được văn tuệ. Đối với ba sở duyên mà đã liễu biệt nghĩa quang thì có được tư tuệ, tức là biết nghĩa quang không khác ý ngôn, do đây có được tư tuệ.

Đối với ba sở duyên mà an trú tâm mình chỉ có danh thì có được tu tuệ, nghĩa là biết nghĩa quang cũng chỉ là danh, do đây có được tu tuệ.

Như trước đã nói hai sở duyên không thể thủ đắc, vì vậy phải biết ba sở duyên này làm chỗ dựa của ba tuệ văn, tư, tu.

Đã nói sự cầu sở duyên, kế nói sự cầu tác ý.

Kệ tụng:

Tối sơ gồm chủng tánh

Sở tác và y chỉ

Tín an và dục sanh

Y định và y trí

Biệt duyên, chủng chủng duyên

Thông đạt và tu chủng

Tự tánh và công lực

Lãnh thọ và phương tiện

Tự tại, tiểu và đại

Như vậy có mười tám

Nhiếp hết các tác ý

Hành giả phải siêng tu.

Giải thích:

Mười tám loại tác ý là: 1. Tác ý chủng tánh; 2. Tác ý sở tác; 3. Tác ý y chỉ; 4. Tác ý tín an; 5. Tác ý dục sanh; 6. Tác ý y định; 7. Tác ý y trí; 8. Tác ý biệt duyên; 9. Tác ý chủng chủng duyên; 10. Tác ý thông đạt; 11. Tác ý tu chủng; 12. Tác ý tự tánh; 13. Tác ý công lực; 14. Tác ý lãnh thọ; 15. Tác ý phương tiện; 16. Tác ý tự tại; 17. Tác ý tiểu; 18. Tác ý đại.

Tác ý chủng tánh là do chủng tánh ba thừa Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát xác định.

Tác ý sở tác là do viên mãn hai khối phước đức và trí tuệ.

Tác ý y chỉ là sự sai biệt giữa người tại gia bị dồn ép và người xuất gia không bị dồn ép.

Tác ý tín an là niệm Phật tương ưng.

Tác ý dục sanh là tùy thời niệm Phật mà tín tâm tương ưng.

Tác ý y định là có giác, quán v.v… ba tam-muội tương ưng.

Tác ý y trí là từ phương tiện mà văn tư tu lần lượt sanh khởi.

Tác ý biệt duyên, ở đây có năm duyên: 1. Tác ý tiếp nhận tu-đa-la; 2. Tác ý nắm giữ ưu-đà-na; 3. Tác ý đọc tụng già-đà; 4. Tác ý suy tư a-ba-đà-na; 5. Tác ý thuyết giảng (bốn thể văn trên).

Tác ý chủng chủng duyên, ở đây có bảy duyên: danh duyên, cú duyên, tự duyên, nhân vô ngã duyên, pháp vô ngã duyên, sắc duyên và vô sắc duyên; trong đó sắc duyên là thân duyên, vô sắc duyên là thọ tâm pháp duyên.

Tác ý thông đạt, ở đây có bốn loại: 1. Thông đạt vật, là biết bản chất của khổ; 2. Thông đạt nghĩa, là biết nghĩa lý của khổ, vô thường, không và vô ngã; 3. Thông đạt quả, là biết sự giải thoát; 4. Thông đạt giác, là biết trí đưa đến giải thoát.

Tác ý tu chủng, ở đây có bốn chủng tu và ba mươi bảy chủng tu.

Bốn chủng tu là: 1. Chủng tu nhân vô ngã; 2. Chủng tu pháp vô ngã; 3. Chủng tu kiến; 4. Chủng tu trí.

Ba mươi bảy chủng tu [được phân thành 7 nhóm dưới đây] là:

1. Bốn chủng tu: bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã, gọi là chủng tu bốn niệm xứ;

2. Bốn chủng tu: thủ đắc, tích tập, đoạn trừ, đối trị, gọi là chủng tu bốn chánh cần;

3. Vì đối trị bốn chướng là tri túc, loạn nghi, trạo động, trầm một mà tu tập bốn chủng tu: dục, tiến, niệm, tuệ, gọi là chủng tu bốn thần túc;

4. Trú tâm là vì thành tựu pháp xuất thế gian mà tu năm chủng tu: phát khởi đức tin, tinh cần, không quên [chánh niệm], tâm trú, giản trạch, gọi là chủng tu năm căn;

5. Năm căn chủng tu như vậy có sức mạnh đối trị năm chướng, gọi là chủng tu năm lực;

6. Đối với bồ-đề tu tập bảy chủng tu là chánh ức, giản trạch, dũng mãnh, khánh duyệt, điều nhu, tâm trú, bình đẳng, gọi là chủng tu bảy giác phần;

7. Có tám chủng tu là: (1) Có sự quyết định (chứng ngộ pháp giới), (2) Thành tựu tịnh trì địa nghiệp, (3) Tư duy phân biệt , (4) Năng lực nhiếp trì ba giới mà bậc Thánh tiếp nhận, (5) Tinh cần tu tập là điều kiện để đắc đạo, (6) Không quên sắc thái của pháp giới , (7) Tâm trú vô tưởng , (8) Hoàn thành chuyển y , gọi là chủng tu tám đạo phần.

[Cả thảy 7 nhóm trên là 37 chủng tu.]

Tác ý tự tánh, ở đây có hai loại: 1. Xa-ma-tha; 2. Tỳ-bát-xá-na. Hai loại này được gọi là tự tánh của đạo lý [Du-già].

Tác ý công lực, có hai loại: 1. Nhổ trừ sự huân tập; 2. Nhổ trừ tướng phần và kiến phần.

Tác ý lãnh thọ, là chư Phật dạy bảo bao nhiêu chánh pháp lưu xuất, Bồ tát đều thọ trì.

Tác ý phương tiện, là phương tiện cho sở hành xứ trong định, có năm:

1. Phương tiện hiểu danh số: Thông đạt về danh, cú, tự và số;

2. Phương tiện hiểu khái niệm, có hai loại: một là, khái niệm có phần lượng, nghĩa là các chữ; hai là, khái niệm không có phần lượng, nghĩa là danh thân, cú thân và văn thân;

3. Phương tiện hiểu phân biệt: Phân biệt có hai loại: một là, dựa vào danh để phân biệt nghĩa; hai là, dựa vào nghĩa để phân biệt danh, và cái chẳng thể phân biệt là chữ cái;

4. Phương tiện hiểu tuần tự: Là trước tiên nắm bắt cái danh, sau đó chuyển qua nắm bắt cái nghĩa;

5. Phương tiện hiểu thông đạt: Thông đạt có mười một loại: 1. Thông đạt khách trần [phiền não]; 2. Thông đạt cảnh quang; 3. Thông đạt nghĩa bất khả đắc; 4. Thông đạt bất khả đắc cũng bất khả đắc; 5. Thông đạt pháp giới; 6. Thông đạt nhân vô ngã; 7. Thông đạt pháp vô ngã; 8. Thông đạt tâm thấp kém; 9. Thông đạt tâm cao lớn; 10. Thông đạt pháp sở đắc; 11. Thông đạt pháp sở lập.

Tác ý tự tại, tự tại có ba loại: 1. Cực thanh tịnh [hiển lộ] vì hết hoặc chướng; 2. Cực thanh tịnh [hiển lộ] vì hết hoặc chướng và trí chướng; 3. [Thích ứng với] công đức cực thanh tịnh [của pháp thân].

Tác ý tiểu, là cực thanh tịnh [hiển lộ] vì hết hoặc chướng.

Tác ý đại, là cực thanh tịnh [hiển lộ] vì hết hai chướng hoặc, trí và [thích ứng với] công đức cực thanh tịnh [của pháp thân].

Đã nói sự cầu tác ý, kế nói sự cầu nghĩa chân thật.

Kệ tụng:

Lìa hai, mê y tha

Không thuyết, không hý luận

Ba nên và hai tịnh

Hai tịnh, ba thí hiển.

Giải thích:

Lìa hai, mê y tha, không thuyết, không hý luận: Ở đây nên biết, ba tánh đều là chân thật. Lìa hai, là chân thật của tánh phân biệt, do năng thủ và sở thủ hoàn toàn không có. Mê y tha, là chân thật của tánh y tha, vì từ tánh y tha khởi ra các phân biệt. Không thuyết, không hý luận: là chân thật của tánh chân thật, do tự tánh [chân thật] thì không có hý luận, không thể nói bàn.

Ba nên và hai tịnh, hai tịnh, ba thí hiển: Ba nên là chân thật của tánh phân biệt nên nhận biết, chân thật của tánh y tha nên đoạn trừ, chân thật của tánh chân thật nên làm cho thanh tịnh. Hai tịnh là: 1. Tự tánh thanh tịnh, là thanh tịnh vốn có; 2. Vô cấu thanh tịnh, là [tự tánh] thanh tịnh đã lìa bỏ khách trần [phiền não]. Hai thanh tịnh này có ba thí dụ biểu hiện, đó là hư không, vàng ròng và nước sạch. Cả ba thí dụ này đều dụ cho hai mặt: một là tự tánh thanh tịnh, do hư không, vàng ròng và nước sạch chính là tự tánh thanh tịnh; hai là vô cấu thanh tịnh, do hư không, vàng ròng và nước sạch phải lìa bỏ khách trần mới thanh tịnh.

Kệ tụng:

Pháp giới và thế gian

Chưa từng có chút khác

Do chúng sanh lẫy lừng

Dính không mà bỏ có.

Giải thích:

Pháp giới cùng thế gian, chưa từng có chút khác: Pháp giới và thế gian chẳng có một chút sai biệt. Vì sao? Vì pháp tánh và các pháp không có sai biệt.

Do chúng sanh lẫy lừng, dính không mà bỏ có: Do chúng sanh ngu si lẫy lừng [phiền não], đối với pháp thế gian không thật, là pháp không nên dính mắc mà lại dính mắc; đối với pháp chân như có thật, là pháp không nên xả bỏ mà lại xả bỏ.

Đã nói sự cầu chân thật, kế nói thí dụ của sự cầu chân thật.

Kệ tụng:

Như kia khởi huyễn sư

Nói phân biệt hư vọng

Như kia các huyễn sự

Nói hai thứ mê lầm.

Giải thích:

Như kia khởi huyễn sư, nói phân biệt hư vọng: Thí như vị huyễn sư dựa vào sức chú thuật biến gỗ thành đá v.v… làm ra nhân tố mê lầm; cũng vậy tánh y tha bị phân biệt hư vọng [thống thuộc] nên sanh khởi các loại phân biệt, làm ra nhân tố điên đảo.

Như kia các huyễn sự, nên nói hai thứ mê: Thí như huyễn tượng: vàng v.v… các loại tướng mạo hiển lộ; cũng vậy tánh y tha là đối tượng được biết bởi tánh phân biệt, nghĩa là hai thứ mê lầm, năng thủ và sở thủ, lúc nào cũng hiển lộ.

Kệ tụng:

Như kia không thật thể

Được vào đệ nhất nghĩa

Như kia cũng khả đắc

Thông đạt thế đế thật.

Giải thích:

Như kia không thật thể, được vào đệ nhất nghĩa: Như kia, là huyễn sư và huyễn sự không có thật thể. Đây là dụ cho tánh y tha và tánh phân biệt không có thật thể. Do đạo lý này mà thông đạt đệ nhất nghĩa đế.

Như kia cũng khả đắc, thông đạt thế đế thật: Khả đắc, là sự thể của huyễn sư và huyễn sự có thể thủ đắc. Đây là dụ cho sự phân biệt hư vọng. Do đạo lý này mà thông đạt sự thật của thế đế.

Kệ tụng:

Sự kia không thật thể

Thì đắc cảnh chân thật

Do chuyển y như vậy

Thì đắc nghĩa chân thật.

Giải thích:

Sự kia không thật thể, thì đắc cảnh chân thật: Nếu người hiểu được huyễn sự kia là biểu hiện không thật thì hiểu được cảnh chân thật là gỗ [chứ không phải vàng].

Do chuyển y như vậy, thì đắc nghĩa chân thật: Nếu hàng Bồ tát hiểu được hai thứ mê lầm là không thật thể, thì khi đắc chuyển y, liền hiểu được nghĩa của tánh chân thật.

Kệ tụng:

Nhân mê lầm không thể

Không mê, đi tự tại

Nhân điên đảo không thể

Không đảo, chuyển tự tại.

Giải thích:

Nhân mê lầm không thể, không mê, đi tự tại: Trong thế gian, gỗ, đá v.v… tuy là không có thật thể nhưng lại là nhân tố mê lầm. Nếu người không có mê lầm thì đi tự tại, không dựa vào cái khác.

Nhân điên đảo không thể, không đảo, chuyển tự tại: Như vậy, khi tánh y tha chưa chuyển, tuy là không có thật thể nhưng lại là nhân tố điên đảo. Có được địa vị chuyển y là do không có nhân tố điên đảo. Thánh nhân có được tự tại là do dựa vào hành tự tại.

Kệ tụng:

Sự này xứ kia có

Kia có, thể cũng không

Hữu thể, vô đều có

Cho nên nói là huyễn.

Giải thích:

Sự này xứ kia có, kia có, thể cũng không: Ở đây biểu thị cho huyễn sự là có mà chẳng có. Vì sao? Cái có là sự huyễn tượng, do vì xứ kia hiển lộ. Cái chẳng có là nói thật thể của huyễn sự thì không thể thủ đắc.

Hữu thể, vô đều có, cho nên nói là huyễn: Như vậy hữu thể cùng vô thể không hai (mà có). Do nghĩa này mà nói các pháp là huyễn.

Kệ tụng:

Vô thể phi vô thể

Phi vô thể tức thể

Vô thể, thể không hai

Cho nên nói là huyễn.

Giải thích:

Vô thể phi vô thể, phi vô thể tức thể: Ở đây biểu thị cho huyễn sự là chẳng có mà có. Vì sao? Chẳng có, là huyễn sự thì vô thể, do không có thật thể. Mà có, là huyễn sự chẳng phải vô thể, do có ảnh tượng hiển lộ.

Vô thể, thể không hai, cho nên nói là huyễn: Như vậy vô thể cùng hữu thể không hai. Do nghĩa này mà nói các pháp là huyễn.

Kệ tụng:

Nói có hai ánh sáng

Mà không hai thể sáng

Nên nói sắc, thanh, hương

Hữu thể tức vô thể.

Giải thích:

Nói có hai ánh sáng, mà không hai thể sáng: Ở đây biểu thị cho sự phân biệt hư vọng, có mà chẳng có. Vì sao? Có, là do có hai thứ ánh sáng hiển lộ. Chẳng có, là thật thể của hai thứ ánh sáng thì không thể thủ đắc.

Nên nói sắc, thanh, hương, hữu thể tức vô thể: Do nghĩa lý này mà nói, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là hữu thể, nhưng cũng tức là vô thể.

Kệ tụng:

Vô thể phi vô thể

Phi vô thể tức thể

Nên nói sắc, thanh, hương

Vô thể, thể không hai.

Giải thích:

Vô thể phi vô thể, phi vô thể tức thể: Ở đây biểu thị cho sự phân biệt hư vọng, chẳng có mà có. Vì sao? Chẳng có, là hai thứ ánh sáng thì vô thể, do không có thật thể. Mà có, là hai thứ ánh sáng chẳng phải vô thể, do có ánh sáng hiển lộ.

Nên nói sắc, thanh, hương, vô thể, thể không hai: Do nghĩa lý này mà nói, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì vô thể và hữu thể không có hai.

Hỏi: Hữu thể và vô thể không phải định thuyết về một phạm trù, làm sao nói hữu thể và vô thể không có sai biệt?

Kệ tụng:

Ngăn xác lập hữu biên

Ngăn chê bai vô biên

Thoái đại, hướng tiểu diệt

Ngăn hữu vô cũng vậy.

Giải thích:

Sự ngăn chận theo thứ tự như sau: 1. Ngăn chận hữu biên; 2. Ngăn chận vô biên; 3. Ngăn chận thú hướng tịch diệt của Tiểu thừa. Vì vậy, hữu thể và vô thể không phải là định thuyết về một phạm trù.

Hỏi: Làm thế nào ngăn chận hữu biên?

Đáp: Ngăn xác lập hữu biên: Ở đây nói rõ, do đối với vô thể biết là vô thể, nên không cần xác lập hữu thể.

Hỏi: Làm thế nào ngăn chận vô biên?

Đáp: Ngăn chê bai vô biên: Ở đây nói rõ, do đối với hữu thể biết là thế đế, nên không cần chê bai vô thể.

Hỏi: Làm thế nào ngăn chận thú hướng tịch diệt của Tiểu thừa?

Đáp: Thoái đại, hướng tiểu diệt, ngăn hữu vô cũng vậy: Ở đây nói rõ, do hữu thể và vô thể không có sai biệt, nên không chán hữu thể mà nhập niết-bàn của Tiểu thừa.

Kệ tụng:

Sắc thức, nhân của mê

Thức thức, thể của mê

Nhân sắc thức vô thể

Thể thức thức cũng vô.

Giải thích:

Sắc thức, nhân của mê, [nhãn] thức thức, thể của mê: Cảnh sở mê gọi là sắc thức, thể năng mê gọi là phi sắc thức.

Nhân sắc thức vô thể, thể thức thức cũng vô: sắc thức là vô thể, nên phi sắc thức cũng vô thể. Vì sao? Do nhân là vô thể nên quả của nó cũng vô thể.

Kệ tụng:

Huyễn tượng, thủ đắc huyễn

Vì mê nói có hai

Như vậy hai vô thể

Mà có hai khả đắc.

Giải thích:

Huyễn tượng, thủ đắc huyễn, vì mê nói có hai: Người mê đối với huyễn tượng và sự thủ đắc huyễn tượng, vì mê mà nói có hai sự là năng thủ và sở thủ.

Như vậy hai vô thể, mà có hai khả đắc: Hai sự năng thủ và sở thủ tuy nói là vô thể, nhưng cả hai vẫn có thể thủ đắc, do sự mê hiển lộ vậy.

Hỏi: Thí dụ này để sáng tỏ điều gì?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Xương cốt, thủ đắc cốt

Do quán nói có hai

Không hai mà nói hai

Khả đắc cũng như vậy.

Giải thích:

Xương cốt, thủ đắc cốt, do quán nói có hai: Người tu quán về xương cốt thì có sự thủ đắc về xương cốt; do quán chiếu mà nói có hai sự là năng quán và sở quán.

Không hai mà nói hai, khả đắc cũng như vậy: Hai sự năng quán và sở quán tuy nói là vô thể, nhưng cả hai vẫn có thể thủ đắc, do sự quán hiển lộ vậy.

Hỏi: Quán như vậy rồi, pháp nào là pháp sở trị và pháp nào là pháp năng trị?

Kệ tụng:

Nên biết thể sở trị

Gọi đó pháp mê tướng

Như thị thể: vô thể

Có, chẳng có như huyễn.

Giải thích:

Nên biết thể sở trị, gọi đó pháp mê tướng: Ở đây nên biết, thể của sở trị tức là pháp mê tướng. Pháp mê tướng là như thị (tướng), như thị thể.

Như thị thể: vô thể; có, chẳng có như huyễn: Như thị thể mà nói là có, tức có do phân biệt hư vọng. Như thị thể mà nói là chẳng có, là do hai thể năng thủ và sở thủ cùng với vô thể không có sai biệt. Như vậy, hữu thể cũng như huyễn, vô thể cũng như huyễn, nói lên rằng pháp mê tướng là như huyễn.

Kệ tụng:

Nên biết thể năng trị

Các pháp như niệm xứ

Như thị thể: vô tướng

Như huyễn cũng như vậy.

Giải thích:

Nên biết thể năng trị, các pháp như niệm xứ: Ở đây nên biết, thể của năng trị chính là các pháp. Các pháp là những pháp của Phật thuyết như bốn niệm xứ v.v… các pháp ấy là như thị, như thị thể.

Như thị thể: vô tướng, như huyễn cũng như vậy: Thể của các pháp ấy cũng như huyễn. Vì sao? Theo chỗ chấp thủ của phàm phu thì các pháp là như thị, như thị hữu thể. Theo chỗ giảng thuyết của chư Phật thì các pháp là như thị, như thị vô thể. Như thị thể là vô tướng, nên đức Phật Thế tôn thị hiện nhập thai, xuất sanh, du thành, xuất gia, thành chánh giác. Vô tướng như vậy mà hào quang hiển lộ, cho nên nói là như huyễn.

Hỏi: Nếu cho các pháp đều là như huyễn, thì lấy nghĩa lý gì mà một mặt nói năng trị, một mặt nói sở trị?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Như vị huyễn vương mạnh

Khiến huyễn vương khác lui

Như vậy thanh tịnh pháp

Khiến nhiễm pháp tiêu diệt.

Giải thích:

Thí như huyễn vương mạnh, khiến huyễn vương khác lui: Tịnh pháp năng trị, ví như vị huyễn vương dũng mãnh, có khả năng đối trị nhiễm pháp mà có được sự tăng thượng. Nhiễm pháp sở trị, ví như các huyễn vương khác, tùy theo cảnh giới mà có được sự tăng thượng.

Như vậy thanh tịnh pháp, khiến nhiễm pháp tiêu diệt: Như vị huyễn vương dũng mãnh có thể ra lệnh cho huyễn vương khác thoái lui; Bồ tát cũng vậy, biết các pháp như huyễn, có thể lấy tịnh pháp đối trị nhiễm pháp, cho nên không phóng dật.

Hỏi: Đức Thế tôn ở mọi nơi đều nói rằng các pháp là như huyễn ảo, chiêm bao, sóng nắng, ảnh tượng, bóng sáng, tiếng dội, bóng trăng trong nước, biến hóa. Tám thí dụ như vậy, mỗi thí dụ hiển thị điều gì?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Như huyễn đến như hóa

Tuần tự dụ các hành

Hai sáu, hai, hai sáu

Một, một, một, có ba.

Giải thích:

Như huyễn đến như hóa, tuần tự dụ các hành: Huyễn ảo dụ cho sáu nhập ở trong, vì không có cái thể của ngã v.v… chỉ có ánh sáng hiển lộ. Chiêm bao dụ cho sáu nhập ở ngoài, vì không có cái thể của sáu trần được hưởng chịu. Sóng nắng dụ cho hai pháp là tâm và tâm số, vì sanh khởi mê lầm. Ảnh tượng dụ cho sáu nhập ở trong, vì chính là ấn tượng của nghiệp đời trước. Bóng sáng dụ cho sáu nhập ở ngoài, vì chính là ảnh tượng của sáu nhập ở trong và nó làm cho sáu nhập ở trong sanh khởi thêm lên. Tiếng dội dụ cho pháp được thuyết ra, vì pháp như là tiếng dội. Bóng trăng trong nước dụ cho sự dựa vào định, pháp; định giống như nước, pháp giống như trăng, vì tâm tĩnh lặng nên pháp hiển lộ. Biến hóa dụ cho Bồ tát [đem tâm trí không thác loạn] cố ý thọ sanh [trong sanh tử], vì không nhiễm ô bởi tất cả việc tạo tác.

Hai sáu, hai, hai sáu; một, một, một, có ba: Hai sáu [trước], là sáu nhập ở trong và sáu nhập ở ngoài, chỉ cho hai thí dụ huyễn ảo và chiêm bao. Hai, là tâm và tâm số, chỉ cho thí dụ sóng nắng. Hai sáu [sau], là sáu nhập ở trong và sáu nhập ở ngoài, chỉ cho hai thí dụ ảnh tượng và bóng sáng. Một, một, một: là thuyết pháp, tam-muội và thọ sanh, chỉ cho ba thí dụ tiếng dội, bóng trăng trong nước và biến hóa.

Đã nói nghĩa của tánh chân thật, kế cầu trí năng tri.

Kệ tụng:

Bất chân và tự chân

Chân và tự bất chân

Như vậy bốn chủng trí

Năng tri tất cả cảnh.

Giải thích:

Bất chân và tự chân, chân và tự bất chân: Bất chân, là trí phân biệt không chân thật, do không tùy thuận trí xuất thế mà sanh phân biệt. Tự chân, là trí phân biệt chẳng phải chân thật, chẳng phải không chân thật, tức từ lúc bắt đầu tu tập cho đến phần thông đạt của Cực hỷ địa, do tùy thuận trí xuất thế. Chân, là trí vô phân biệt xuất thế, do chứng đắc chân như. Tự bất chân, là trí chẳng phải phân biệt, chẳng phải không phân biệt, tức trí hậu đắc xuất thế.

Như vậy bốn chủng trí, năng tri tất cả cảnh: Do bốn trí này mà biết đầy đủ tất cả cảnh giới.

Đã nói sự cầu trí năng tri, kế nói sự cầu nhiễm ô và thanh tịnh.

Kệ tụng:

Tự giới và hai quang

Si cùng phiền não khởi

Như vậy các phân biệt

Hai thật nên viễn ly.

Giải thích:

Tự giới và hai quang, si cùng phiền não khởi: Tự giới, là chủng tử nơi thức a-lại-da. Hai quang, là năng thủ quang và sở thủ quang. Sự phân biệt năng thủ và sở thủ như vậy được sanh khởi là do có mặt vô minh và các phiền não khác.

Như vậy các phân biệt, hai thật nên viễn ly: Hai thật, là năng thủ thật và sở thủ thật. Phải cầu viễn ly sự nhiễm ô của hai thật pháp như vậy.

Kệ tụng:

Được ba duyên kia rồi

Tự giới, xứ nên học

Như vậy hai quang diệt

Giống thuộc da, uốn tên.

Giải thích:

Được ba duyên kia rồi, tự giới, xứ nên học: Ba duyên, là sở duyên trong, sở duyên ngoài và sở duyên trong ngoài, như trước đã nói. Tự giới, là các phân biệt, nên hiểu như vậy. Xứ, là danh xứ, chính danh xứ này mà an trú tâm. Nên học, là hai con đường tu tập chỉ và quán.

Như vậy hai quang diệt, giống thuộc da, uốn tên: Sự phân biệt hai quang (năng thủ và sở thủ) bị tiêu diệt. Thí như tấm da mềm được thuộc chín làm cho mềm mại hơn, cũng thí như điều chỉnh mũi tên cong vẹo làm cho ngay thẳng, sự chuyển y cũng như vậy. Chỉ và quán, mỗi một pháp đều phải tu tập để được tâm giải thoát và tuệ giải thoát, thì hai quang (năng thủ và sở thủ) không còn sanh khởi. Sự thanh tịnh như vậy phải mong cầu cho đến đạt được.

Phẩm Thuật Cầu – hết phần 1

***

Phẩm Mười Hai

THUẬT CẦU (Phần 2)

Giải thích:

Đã nói sự cầu nhiễm tịnh, kế nói sự cầu duy thức.

Kệ tụng:

Năng thủ và sở thủ

Cả hai chỉ tâm quang

Tham quang và tín quang

Hai quang không hai pháp.

Giải thích:

Năng thủ và sở thủ, cả hai chỉ tâm quang: Người cầu duy thức nên biết, năng thủ và sở thủ, cả hai chỉ là tâm quang.

Tham quang và tín quang, hai quang không hai pháp: Các phiền não quang như tham v.v… và các thiện pháp quang như tín v.v… , hai tâm quang như vậy không phải là hai pháp nhiễm tịnh. Vì sao? Chẳng rời tâm quang riêng có nhiễm pháp là tham v.v… hay tịnh pháp là tín v.v… Cho nên nói hai quang không phải hai tướng.

Kệ tụng:

Các thứ tâm quang khởi

Như vậy các tâm tướng

Vì quang thể phi thể

Không thủ đắc pháp thật.

Giải thích:

Các thứ tâm quang khởi, như vậy các tâm tướng: Các thứ tâm quang là nói sự tướng của các tâm số, dị thời sanh khởi, như tham quang, sân quang, v.v…, hoặc đồng thời sanh khởi, như tín quang, tiến quang v.v…

Vì quang thể phi thể, không thủ đắc pháp thật: Như vậy, tâm số nhiễm ô và tâm số thanh tịnh đều có quang tướng nhưng không có quang thể, vì vậy đức Thế tôn không dạy rằng những tâm số kia là những pháp chân thật.

Đã nói sự cầu duy thức, kế nói sự cầu các tướng.

Kệ tụng:

Sở tướng và năng tướng

Như vậy tướng sai biệt

Vì nhiếp lợi chúng sanh

Chư Phật khai thị hiện.

Giải thích:

Tướng có hai loại: 1. Sở tướng; 2. Năng tướng. Kệ tụng này nêu chung, các kệ tụng sau giải thích riêng biệt.

Kệ tụng:

Là cộng, tâm và kiến

Là vị và bất chuyển

Lược nói năm sở tướng

Rộng nói nhiều vô lượng.

Giải thích:

Là cộng, tâm và kiến, là vị và bất chuyển: Sở tướng có năm: 1. Sắc pháp; 2. Tâm pháp; 3. Tâm số pháp; 4. Bất tương ưng pháp; 5. Vô vi pháp . Cộng, là sắc pháp; tâm, là tâm pháp; kiến, là tâm số pháp; vị, là bất tương ưng pháp; bất chuyển, là hư không v.v… tức vô vi pháp.

Lược nói năm sở tướng, rộng nói nhiều vô lượng: Tâm thức thường khởi năm sở tướng như vậy. Năm sở tướng này là Thế tôn nói lược, nếu nói rộng ra thì có vô lượng sai biệt.

Đã nói các tướng của sở tướng, kế nói các tướng của năng tướng.

Kệ tụng:

Ý ngôn và tập quang

Danh, nghĩa cùng nhau khởi

Vì phi chân phân biệt

Gọi đó tướng phân biệt.

Giải thích:

Năng tướng, nói lược có ba loại: tướng phân biệt, tướng y tha và tướng chân thật. Kệ tụng này hiển thị tướng phân biệt.

Tướng phân biệt có ba loại: 1. Tướng phân biệt có giác; 2. Tướng phân biệt không giác; 3. Tướng phân biệt sắc thái nhân tố.

Ý ngôn: Là tưởng về nghĩa. Nghĩa, là đối cảnh của tưởng; tưởng chỉ cho tâm số tưởng. Do tưởng về nghĩa mà ý ngôn có thể khởi phân biệt như thế này, thế kia; đây là tướng phân biệt có giác.

Tập quang: Tập là chủng tử của ý ngôn; quang là từ chủng tử của ý ngôn trực tiếp sanh khởi nghĩa quang, nhưng ý ngôn chưa thể khởi phân biệt như thế này, thế kia; đây là tướng phân biệt không giác.

Danh, nghĩa cùng nhau khởi: Là dựa vào danh khởi nghĩa quang, dựa vào nghĩa khởi danh quang. Cảnh giới ấy không phải chân thật, chỉ là sự phân biệt thế gian, hoặc qua danh, hoặc qua nghĩa. Đây là tướng phân biệt sắc thái nhân tố.

Ba chủng loại của tướng phân biệt này đều là sự phân biệt hư vọng, nên gọi là tướng phân biệt.

Kệ tụng:

Sở thủ và năng thủ

Hai tướng mỗi ba quang

Vì phân biệt không chân

Gọi đó tướng y tha.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị tướng y tha. Bản thân tướng y tha có cả tướng sở thủ và tướng năng thủ. Tướng sở thủ có ba thứ hiển lộ là cú quang, nghĩa quang và thân quang. Tướng năng thủ có ba thứ hiển lộ là ý quang, thọ quang và phân biệt quang. Ý là thức nhiễm ô trong tất cả thời gian; thọ là năm thức thân; phân biệt là ý thức. Ba quang của tướng sở thủ và ba quang của tướng năng thủ, các quang như vậy đều là sự phân biệt không thật, nên gọi là tướng y tha.

Kệ tụng:

Vô thể, thể, không hai

Phi tịch tĩnh, tịch tĩnh

Là tánh vô phân biệt

Gọi đó tướng chân thật.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị tướng chân thật. Chân thật, nghĩa là chân như. Tướng chân thật có ba loại: 1. Tánh đặc hữu; 2. Tánh nhiễm tịnh; 3. Tánh vô phân biệt.

Vô thể, thể, không hai: Là tánh đặc hữu của chân thật. Vô thể, là vì tất cả pháp chỉ là phân biệt. Thể, là vì lấy vô thể làm thể. Không hai, là vì thể và vô thể không có sai biệt.

Phi tịch tĩnh, tịch tĩnh: Là tánh nhiễm tịnh của chân thật. Phi tịch tĩnh, là vì còn khách trần phiền não. Tịch tĩnh, là vì tự tánh thanh tịnh.

Là tánh vô phân biệt: Là tánh vô phân biệt của chân thật. Đó là cảnh giới không hiện hành phân biệt, vì không còn hý luận.

Đã nói ba loại năng tướng, lại có kệ rằng:

Kệ tụng:

Nên biết năm học cảnh:

Chánh pháp, chánh ức niệm

Tâm giới, hữu phi hữu

Thứ năm là chuyển y.

Giải thích:

Năng tướng kia lại có năm thứ đối cảnh tu học: 1. Năng trì; 2. Sở trì; 3. Kính tượng; 4. Minh ngộ; 5. Chuyển y.

Năng trì, là chánh pháp của Phật thuyết, vì chánh pháp nuôi giữ sự năng duyên của hiện quán. Sở trì, là nghĩ nhớ chánh pháp, tức lấy chánh pháp làm đối tượng nắm giữ. Kính tượng, là tâm giới, có được bằng thiền định, nghĩa là, như trước đã nói, an trú tâm nơi pháp giới thì thấy các pháp toàn là danh ngôn; định tâm dụ cho tấm kính, pháp giới dụ cho ảnh tượng. Minh ngộ, là tuệ giác xuất thế gian, rằng các pháp có thì như thật thấy có, các pháp chẳng có thì như thật thấy chẳng có; thấy có là thấy các pháp vô ngã, thấy chẳng có là thấy rõ ràng các pháp toàn là năng thủ và sở thủ. Tức là chuyển y.

Kệ tụng:

Thánh tánh chứng bình đẳng

Sự giải thoát cũng một

Thắng thì có năm nghĩa

Không giảm cũng không tăng.

Giải thích:

Thánh tánh chứng bình đẳng, sự giải thoát cũng một: Thánh tánh, là pháp giới vô lậu. Chứng bình đẳng, là chư thánh đồng chứng đắc pháp giới vô lậu. Sự giải thoát cũng một: Thánh tánh của chư Phật cùng thánh tánh của hàng Thanh văn, Duyên giác thì bình đẳng, do sự giải thoát thì đồng nhất.

Thắng thì có năm nghĩa, không giảm cũng không tăng: Tuy rằng thánh tánh thì bình đẳng nhưng chư Phật thì tối thắng, tự có năm nghĩa:

1. Thanh tịnh thắng, do dứt sạch tập khí phiền não;

2. Phổ biến thắng, do quốc độ đều thông suốt và thanh tịnh;

3. Thân thắng, do thân ấy là pháp thân;

4. Thọ dụng thắng, do chuyển pháp luân và thọ dụng không ngừng nghỉ;

5. Nghiệp thắng, do trú cung trời Đâu-suất, hiện các hóa sự làm lợi ích chúng sanh.

Không giảm, là khi phần nhiễm ô giảm, [pháp giới vô lậu cũng không giảm]. Không tăng, là khi phần thanh tịnh tăng, [pháp giới vô lậu cũng không tăng].

Trên đây là hành tướng của năm thứ tu học của Du-già địa, mà sự giải thoát của sự tu học ấy y cứ pháp sở tướng và ba loại pháp năng tướng.

Đã nói các tướng của sở tướng và năng tướng, kế nói sự cầu giải thoát.

Kệ tụng:

Như vậy chủng tử chuyển

Cú, nghĩa, thân quang chuyển

Gọi là vô lậu giới

Ba thừa đồng sở y.

Giải thích:

Như vậy chủng tử chuyển: Là thức a-lại-da chuyển.

Cú, nghĩa, thân quang chuyển: Là các thức khác chuyển.

Gọi là vô lậu giới: Là sự giải thoát.

Ba thừa đồng sở y: Là Thanh văn, Duyên giác và Phật đồng một y chỉ.

Kệ tụng:

Ý, thọ, phân biệt chuyển

Được bốn thứ tự tại

Tuần tự vô phân biệt

Quốc độ, trí và nghiệp.

Giải thích:

Ý, thọ, phân biệt chuyển, được bốn thứ tự tại: Ý, thọ và phân biệt, ba quang như vậy, khi chuyển y liền được bốn thứ tự tại.

Hỏi: Những gì là bốn?

Đáp: Tuần tự vô phân biệt, quốc độ, trí và nghiệp: Một là được vô phân biệt tự tại; hai là được quốc độ tự tại; ba là được trí tự tại; bốn là được nghiệp tự tại.

Kệ tụng:

Nên biết ba địa sau

Có bốn thứ tự tại

Bất động địa có hai

Hai địa kia có một.

Giải thích:

Nên biết ba địa sau, có bốn thứ tự tại: Bốn thứ tự tại được thành tựu ở Bất động địa, thiện tuệ địa và pháp vân địa.

Bất động địa có hai, hai địa kia có một: Bất động địa có hai thứ tự tại: một là, vô phân biệt tự tại, vì được trí vô phân biệt không dụng công [về vô tướng]; hai là, quốc độ tự tại, vì quốc độ thanh tịnh. Thiện tuệ địa có được trí tự tại, vì được bốn biện thiện xảo loại thù thắng nhất. Pháp vân địa có được nghiệp tự tại, vì các nghiệp thần thông không có chướng ngại.

Kệ tụng:

Ba cõi hai vô ngã

Liễu nhập chân duy thức

Cũng không duy thức quang

Đắc ly gọi giải thoát.

Giải thích:

Lại có biệt giải thoát môn.

Ba cõi hai vô ngã, liễu nhập chân duy thức: Do biết hai vô ngã chỉ là phương tiện nên ở trong ba cõi, Bồ tát phân biệt nhân và pháp đều không hữu thể, cho nên là vô ngã. Biết như vậy rồi, cũng không phải một mặt cho rằng toàn không hữu thể, bởi lẽ thủ đắc tánh duy thức chân thật của tất cả các pháp.

Cũng không duy thức quang, đắc ly gọi giải thoát: Bồ tát bấy giờ an trú tâm nơi duy thức; thức quang cũng không liền được giải thoát. Vì sao? Do nhân và pháp đều không thể thủ đắc mà rời xa hữu sở đắc.

Kệ tụng:

Năng trì, sở trì, tụ

Vì quán chỉ có danh

Quán danh không thấy danh

Không danh được giải thoát.

Giải thích:

Lại có biệt giải thoát môn.

Năng trì, sở trì, tụ: Năng trì, là chánh pháp được lắng nghe. Sở trì, là nghĩ nhớ chánh pháp. Tụ, là phước đức và trí tuệ viên mãn. Do trước có sức mạnh của tích tụ [phước đức và trí tuệ] mà có sự sở trì.

Vì quán chỉ có danh: Chỉ có danh, là chỉ có ngôn thuyết, không có nghĩa. Lại nữa, chỉ có danh, nghĩa là chỉ là ý thức. Lại nữa, chỉ có danh, nghĩa là bốn ấm chẳng phải sắc.

Quán danh không thấy danh, không danh được giải thoát: Lại nữa, quán cái danh làm đối tượng được quán cũng không thấy danh, vì nghĩa [dựa vào danh] là không thật thể, cũng không thấy thức, cũng không thấy bốn ấm chẳng phải sắc. Danh như vậy là không thể thủ đắc, rời xa hữu sở đắc, nên gọi là giải thoát.

Kệ tụng:

Ngã kiến huân tập tâm

Lưu chuyển ở các thú

An tâm trú ở trong

Ngược dòng nói giải thoát.

Giải thích:

Lại có biệt giải thoát môn.

Ngã kiến huân tập tâm, lưu chuyển ở các thú: Có hai loại ngã kiến như tro ướt [nhuộm vải] nên nói là huân tập. Do sự huân tập này làm nhân mà có sự lưu chuyển sanh tử.

An tâm trú ở trong, ngược dòng nói giải thoát: Nếu biết cảnh sở duyên không thể thủ đắc thì đặt tâm ở trong, thu nhiếp không cho loạn động, tức trở ngược sự lưu chuyển kia, gọi đó là giải thoát.

Đã nói sự cầu giải thoát, kế nói sự cầu vô tự thể.

Kệ tụng:

Tự không và thể không

Và thể không trú ở

Như chấp trước vô thể

Pháp thành không tự thể.

Giải thích:

Tự không và thể không, và thể chẳng trú ở: Tự không [có], là các pháp tự nhiên không, vì không thể sanh khởi từ chính nó. Không thể sanh khởi từ chính nó là vì các pháp phụ thuộc nhân duyên. Thể không [có], là các pháp đã diệt mất thì không thể sanh khởi trở lại [như trước]. Và thể không trú ở, là hiện tại các pháp trong từng sát-na không có trú ở. Ba đặc tính không tự thể này cùng khắp tất cả các pháp hữu vi, nghĩa này nên biết.

Như chấp trước vô thể, pháp thành không tự thể: Như đối tượng được chấp trước thật sự không có tự thể, vì tự thể là vô thể; giống như hàng phàm phu đối với tự thể mà chấp trước là thường, lạc, ngã, tịnh. Như vậy, đối tượng mà tướng phân biệt [chấp vào] cũng là vô thể, cho nên nói tất cả các pháp thành mà không tự thể.

Kệ tụng:

Không tự thể nên thành

Trước y chỉ cho sau

Không sanh lại không diệt

Bản tịnh, tánh niết-bàn.

Giải thích:

Không tự thể nên thành, trước y chỉ cho sau: Vì cái trước là vô tánh nên tuần tự thành lập cái sau là không sanh v.v…

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Không sanh lại không diệt, Bản tịnh, tánh niết-bàn: Các pháp là vô tánh thì không sanh; không sanh thì không diệt; không diệt thì bản lai vắng lặng; bản lai vắng lặng thì tự tánh niết-bàn. Như vậy cái trước tuần tự làm y chỉ cho cái sau mà nghĩa đây được thành.

Đã nói sự cầu vô tự tánh, kế nói sự cầu vô sanh nhẫn.

Kệ tụng:

Bản lai và chân thật

Dị tướng và tự tướng

Tự nhiên và vô dị

Nhiễm ô, sai biệt: tám.

Giải thích:

Có tám pháp không sanh khởi gọi là vô sanh pháp nhẫn:

1. Bản lai không sanh khởi, vì sanh tử chẳng có nguồn gốc sanh khởi;

2. Chân thật không sanh khởi, là pháp không có trước sau sai biệt, vì pháp sanh khởi trước là vô thể;

3. Dị tướng không sanh khởi, vì không phải chủng xứ cũ sanh khởi trở lại;

4. Tự tướng không sanh khởi, vì tánh phân biệt hoàn toàn không sanh khởi;

5. Tự nhiên không sanh khởi, vì tự tánh của tánh y tha không sanh khởi;

6. Vô dị không sanh khởi, vì tánh chân thật không có dị thể sanh khởi;

7. Nhiễm ô không sanh khởi, vì khi được lậu tận trí thì nhiễm ô, các kiến chấp không sanh khởi nữa;

8. Sai biệt không sanh khởi, vì pháp thân chư Phật không có sự sai biệt sanh khởi. Tám pháp không sanh khởi này gọi là vô sanh pháp nhẫn.

Đã nói sự cầu vô sanh nhẫn, kế nói sự cầu nhất thừa.

Kệ tụng:

Pháp, vô ngã, giải thoát

Đều đồng nhất, tánh biệt

Hai tác ý, biến hóa

Cứu cánh, nói nhất thừa.

Giải thích:

Trong đây có tám ý thú để Phật nói nhất thừa:

1. Đồng pháp tánh, là các bậc Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát không có riêng biệt pháp tánh, vì tất cả cùng chung một hướng đi tới nên nói nhất thừa;

2. Đồng vô ngã thể, là các bậc Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát đều đồng nhất ở trong thể tánh vô ngã, vì có chung thú hướng ấy nên nói nhất thừa;

3. Đồng giải thoát, là các bậc Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát cùng diệt hoặc chướng, vì có sự xuất ly đồng nhất nên nói nhất thừa;

4. Tánh biệt, là vì dẫn dắt những người tam thừa bất định tánh đi vào Đại thừa nên nói nhất thừa;

5. Chư Phật có cùng tác ý với mình, là chư Phật có được tác ý như thế này: Những gì ta đã đạt được, thì tất cả chúng sanh cũng sẽ đạt được như ta, vì tác ý này nên nói nhất thừa;

6. Thanh văn có được tác ý làm Phật, là thuở xa xưa chư vị Thanh văn thực hành đại bồ-đề, khi nhân duyên hội tụ chư vị đã có quyết định phẩm tánh làm Phật; ngày nay, khi được Phật gia hộ, nên chư vị có sự nhiếp thọ thù thắng, tác ý tự biết mình sẽ làm Phật; vì chư vị trước sau tương tục không có khác biệt nên nói nhất thừa;

7. Biến hóa, là đức Phật vì giáo hóa hàng Thanh văn mà thị hiện nhập niết-bàn; như đức Phật tự nói, Ta ở trong vô lượng vô số kiếp, vì hàng Thanh văn thừa mà thị hiện niết-bàn, vì ngoài phương tiện này không có phương tiện nào khác để giáo hóa hạng người căn tánh thấp nhỏ đưa vào Đại thừa; lý thật chỉ có một nên nói nhất thừa;

8. Cứu cánh, là đạt đến thể tánh của Phật thì không còn chỗ nào để đi nữa nên nói nhất thừa.

Như vậy, bàng bạc trong kinh điển đều có tám ý thú mà Phật nói nhất thừa, nhưng cũng không phải không có ba thừa.

Hỏi: Như vậy còn có nghĩa nào nữa gom lại những ý thú kia mà nói nhất thừa?

Kệ tụng:

Dẫn tiếp các Thanh văn

Nhiếp trú các Bồ tát

Với hai bất định này

Chư Phật nói nhất thừa.

Giải thích:

Những ý thú kia có hai nghĩa:

1. Dẫn tiếp các Thanh văn;

2. Nhiếp trú các Bồ tát.

Nếu có các vị Thanh văn không quyết định đối với thừa tánh của mình, Phật vì dẫn tiếp các vị này đi vào Đại thừa mà nói nhất thừa.

Nếu có các vị Bồ tát không quyết định đối với thừa tánh của mình, Phật vì nhiếp trú các vị này không thoái lui Đại thừa mà nói nhất thừa.

Kệ tụng:

Thanh văn hai bất định

Thấy nghĩa, không thấy nghĩa

Thấy nghĩa: chưa đoạn ái

Đoạn ái đều nhuyến căn.

Giải thích:

Tánh bất định của hàng Thanh văn lại có hai loại:

1. Thấy nghĩa thừa, là vị đã được kiến đế, phát tâm Đại thừa;

2. Không thấy nghĩa thừa, là vị chưa được kiến đế nhưng lại phát tâm Đại thừa.

Thấy nghĩa [thừa] lại có hai loại:

1. Đoạn ái, là vị đã rời xa tham dục của cõi dục;

2. Chưa đoạn ái, là vị chưa rời xa tham dục của cõi dục.

Trong hai vị thấy nghĩa [thừa] này, nên biết cả hai đều đầy đủ phẩm tánh nhu nhuyến, nhưng vẫn là căn tánh chậm lụt [so với hàng Bồ Tát].

Kệ tụng:

Hai vị được thánh đạo

Hồi hướng về các hữu

Hồi hướng bất tư nghị

Nên hai sanh tương ứng.

Giải thích:

Như vậy hai vị thấy nghĩa, được thánh đạo, có thể đem thánh đạo hồi hướng cho các [chúng sinh trong 25 cảnh giới hiện] hữu. Sự hồi hướng như vậy gọi là sự sanh bất tư nghị, vì đem thánh đạo hồi hướng về sự thọ sanh. Hai vị này cùng với hai sự thọ sanh tương ứng.

Hỏi: Thế nào là hai sự thọ sanh?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Nguyện lực và hóa lực

Tùy ý muốn thọ sanh

Nguyện lực chưa đoạn ái

Hóa trú A-na-hàm.

Giải thích:

Hai sự thọ sanh:

1. Nguyện sanh tự tại;

2. Hóa sanh tự tại.

Vị chưa rời xa tham dục thì nguyện sanh tự tại. Vị chứng quả A-na-hàm thì hóa sanh tự tại.

Hỏi: Thế nào là phẩm tánh nhu nhuyến của hai vị này?

Kệ tụng:

Cả hai vui niết-bàn

Tự chán các tâm số

Cả hai nói độn đạo

Lâu xa đắc bồ-đề.

Giải thích:

Hai vị này trước tiên có tâm ưa thích vắng lặng, nên thường khởi tâm nhàm chán bản thân [và sanh tử], vì vậy con đường của hai vị ấy được gọi là con đường chậm lụt, do không thể mau đắc Vô thượng bồ-đề.

Kệ tụng:

Vị việc làm chưa xong

Sanh thế giới không Phật

Tu thiền để biến hóa

Dần đắc đại bồ-đề.

Giải thích:

Vị [Thanh văn mà] việc làm chưa xong: Là vị đã kiến đế nhưng chưa đoạn ái, chưa đắc quả A-la-hán. Vị này thọ sanh ở thế giới không có Phật, sanh rồi tự mình nỗ lực tu tập các thiền định để được thân biến hóa. Vị này dựa vào thân biến hóa dần dần chứng đắc Vô thượng bồ-đề.

Ở đây có ba giai vị, như Phật dạy trong kinh Thắng man, đó là Thanh văn, tiếp theo làm Duyên giác, sau được làm Phật.

Cũng như trong kinh Đại thí có nói:

1. Đầu tiên là địa vị kiến đế;

2. Sanh vào thời kỳ không có Phật, tự nỗ lực tu thiền, sau khi xả bỏ sanh thân mà thọ hóa thân;

3. Sẽ chứng đắc Vô thượng bồ-đề.

Đã nói sự cầu nhất thừa, kế nói sự cầu minh xứ.

Kệ tụng:

Bồ tát tập năm minh

Toàn vì cầu chủng trí

Giải, phục, tín, trị, nhiếp

Là năm, năm riêng cầu.

Giải thích:

Bồ tát tập năm minh, toàn vì cầu chủng trí: Minh xứ có năm: 1. Nội minh; 2. Nhân minh; 3. Thanh minh; 4. Y minh; 5. Xảo minh. Bồ tát học năm minh này với ý chung là cầu nhất thiết chủng trí. Bồ tát không nỗ lực tu tập năm minh thì không được nhất thiết chủng trí.

Hỏi: Ý riêng là gì?

Đáp: Hiểu biết, hàng phục, đức tin, chữa trị, nhiếp hóa là năm. Năm ý riêng cầu được học tập theo thứ tự như sau: 1. Nội minh là môn học gặt hái cho sự hiểu biết của mình; 2. Nhân minh là môn học để hàng phục sự chấp trước của ngoại đạo; 3. Thanh minh là môn học làm cho người khác có đức tin; 4. Y minh là môn học về phương cách chữa trị [bệnh tật]; 5. Xảo minh là [phương tiện] nhiếp hóa tất cả chúng sanh.

Đã nói sự cầu minh xứ, kế nói sự cầu nuôi lớn thiện căn, nghĩa là tác ý đầy đủ về các ba-la-mật. Sự tác ý này có bốn mươi bốn thứ, đầu tiên là tác ý biết nhân tố cho đến sau cùng là tác ý biết mình hơn. Nay xin nói rõ những tác ý này.

Kệ tụng:

Biết nhân, nhớ nghĩ y

Chung quả và tin hiểu

Bốn ý theo thứ tự

Tu tập các thiện căn.

Giải thích:

Kệ tụng này nói đến bốn thứ tác ý [đầu tiên]: 1. Tác ý biết nhân tố; 2. Tác ý nhớ nghĩ y chỉ; 3. Tác ý kết quả chung gồm; 4. Tác ý tin hiểu.

Bồ tát an trú chủng tánh thì trước hết khởi lên ý niệm: Nay tôi tự thấy tánh chất của các ba-la-mật, biết chúng có thể tăng trưởng, đó là tác ý biết nhân tố.

Tiếp theo khởi lên ý niệm: Nay tôi đã phát đại tâm thì các ba-la-mật nhất định sẽ được viên mãn. Vì sao? Vì lấy đại tâm làm nơi y chỉ, đó là tác ý nhớ nghĩ y chỉ.

Tiếp theo khởi lên ý niệm: Tôi đã phát tâm vì lợi mình, lợi người bằng sự nỗ lực tu tập các ba-la-mật, nếu kết quả của sự tu tập ấy chung gồm sự lợi mình và lợi người thì tôi nguyện tiếp nhận, nếu kết quả không chung gồm sự lợi người thì tôi nguyện không tiếp nhận; gọi đó là tác ý kết quả chung gồm.

Tiếp theo khởi lên ý niệm: Nay tôi nỗ lực thực hành sự lợi mình, lợi người là vì thích ứng phương tiện để thông đạt niết-bàn chân thật, nghĩa là ba luân không nhiễm ô, như chư Phật quá khứ từng hiểu, chư Phật vị lai sẽ hiểu, chư Phật hiện trú đang hiểu, tôi đều chánh tín, đó là tác ý tin hiểu.

Nên biết các tác ý ở sau cũng có thứ tự như vậy.

Kệ tụng:

Được hỷ có bốn thứ

Hai ác không thể thoái

Nên biết ý tùy tu

Đây lại có bốn thứ.

Giải thích:

Kệ tụng này có ba thứ tác ý [tiếp theo 4 tác ý trước]: 5. Tác ý có được hoan hỷ; 6. Tác ý không thoái lui; 7. Tác ý tùy thuận tu tập.

Tiếp theo [bốn tác ý trước], Bồ tát lại khởi lên ý niệm: Nay tôi tin hiểu các ba-la-mật nên có được bốn thứ hoan hỷ: hoan hỷ vì chướng ngại đoạn diệt, hoan hỷ vì phước trí viên mãn, hoan hỷ vì nhiếp lấy lợi mình, lợi người và hoan hỷ vì được hai quả y, báo, đó là tác ý có được hoan hỷ.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi vì thành tựu lợi mình, lợi người, vì thành tựu các pháp của Phật mà tu hành các ba-la-mật, trong khi tu tập dù gặp người ác đem những việc trái nghịch, ác độc để bức não tôi, nhưng tôi không bao giờ khởi tâm thoái lui, đó là tác ý không thoái lui.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi vì đắc Vô thượng bồ-đề, đối với các ba-la-mật phải khởi bốn thứ tùy thuận tu tập: phải sám hối các chướng ngại cho sáu ba-la-mật, phải tùy hỷ các hạnh của sáu ba-la-mật, phải khuyến thỉnh các pháp nghĩa của sáu ba-la-mật và phải đem sáu ba-la-mật hồi hướng Vô thượng bồ-đề, đó là tác ý tùy thuận tu tập.

Kệ tụng:

Tịnh tín và lãnh thọ

Nhạo thuyết và bị giáp

Khởi nguyện và mong cầu

Phương tiện, gồm bảy thứ.

Giải thích:

Kệ tụng này có bảy thứ tác ý [tiếp theo nữa]: 8. Tác ý tin tưởng trong sáng; 9. Tác ý lãnh hội tiếp nhận; 10. Tác ý trình bày vui vẻ; 11. Tác ý trang bị áo giáp; 12. Tác ý sanh khởi chí nguyện; 13. Tác ý mong cầu; 14. Tác ý phương tiện.

Bồ tát lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với pháp nghĩa của các ba-la-mật mà khởi sức mạnh giữ vững đức tin sâu xa, đó là tác ý tin tưởng trong sáng.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với pháp nghĩa của các ba-la-mật một lòng mong cầu, không có tâm chê bai, đó là tác ý lãnh hội tiếp nhận.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đem pháp nghĩa của các ba-la-mật mà khai thị cho người khác, đó là tác ý trình bày vui vẻ.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi muốn làm cho các ba-la-mật được đầy đủ mà phát khởi sự dũng mãnh lớn lao, đó là tác y trang bị áo giáp.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi vì làm đầy đủ các ba-la-mật thì nguyện xin gặp được các duyên tố hỗ trợ sự làm đầy đủ, đó là tác ý sanh khởi chí nguyện.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi mong cầu nhân tố thành tựu Vô thượng bồ-đề là các ba-la-mật, đó là tác ý mong cầu.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi tư duy về phương tiện hỗ trợ cho tác dụng của các ba-la-mật, đó là tác ý phương tiện.

Ở đây, tác ý trang bị áo giáp, tác ý sanh khởi chí nguyện và tác ý mong cầu sẽ được phân biệt trong phần dạy bảo.

Kệ tụng:

Dũng mãnh và thương xót

Như vậy hai tác ý

Nên biết hai sai biệt

Mỗi một có bốn thứ.

Giải thích:

Kệ tụng này có hai thứ tác ý [tiếp theo]: 15. Tác ý dũng mãnh; 16. Tác ý thương xót. Hai tác ý này, mỗi tác ý có bốn thứ sai biệt.

Bồ tát tư duy về phương tiện rồi, lại khởi lên ý niệm: Nay tôi nên khởi lên bốn thứ dũng mãnh, đó là vững chắc, thành thục, cúng dường và thân cận.

Vững chắc là tu tập sáu lần của sáu ba-la-mật, nghĩa là sáu thí cho đến sáu tuệ; sáu thí là thí thí cho đến thí tuệ; giới, nhẫn, tiến, định, tuệ cũng như vậy.

Thành thục là đem các ba-la-mật làm phương tiện nhiếp vật để thành thục chúng sanh.

Cúng dường là lấy thí làm sự cúng dường lợi ích, lấy giới, nhẫn, tiến, định và tuệ làm sự cúng dường tu hành.

Thân cận là dạy bảo chính xác các ba-la-mật cho người thân cận mình.

Đó là tác ý dũng mãnh.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi nên khởi bốn tâm vô lượng: khi các ba-la-mật hiện hữu [nơi mình] thì nên khởi tâm từ; khi keo lẫn v.v… hiện hữu thì nên khởi tâm bi; khi các ba-la-mật hiện hữu nơi người khác thì khởi tâm hỷ; khi người khác có đức tin với các ba-la-mật thì nên khởi tâm vô nhiễm. Đó là tác ý thương xót.

Kệ tụng:

Hổ thẹn và vui thích

Với tâm không khuất phục

Tu trị và xưng thuyết

Đây lại có năm thứ.

Giải thích:

Kệ tụng này có 5 thứ tác ý [tiếp theo]: 17. Tác ý có hổ thẹn; 18. Tác ý có vui thích; 19. Tác ý không khuất phục; 20. Tác ý tu tập đối trị; 21. Tác ý khen ngợi thuyết nghĩa.

Tiếp theo, Bồ tát khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với các ba-la-mật mà biếng nhác không làm, hay làm một cách sai lầm, thì phải khởi lòng hổ thẹn sâu xa, rằng với sự biếng nhác v.v… thì phải chuyển đổi, còn với thí v.v… thì không chuyển đổi, đó là tác ý có hổ thẹn.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với cảnh giới sở duyên các ba-la-mật phải giữ tâm không tán loạn, đó là tác ý có vui thích.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi mà thoái lui [sự tu tập] các ba-la-mật bằng những phương tiện [khéo léo] thì là tôi đang tạo tác ý tưởng oan gia, đó là tác ý không khuất phục.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với các ba-la-mật mà có sự thích ứng với các luận thuyết bằng sự khéo léo tu tập đối trị, đó là tác ý tu tập đối trị.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi vì người đời nhận hiểu và còn phải tùy theo căn tánh của họ mà khen ngợi pháp nghĩa của các ba-la-mật, đó là tác ý khen ngợi thuyết nghĩa.

Kệ tụng:

Y độ đắc bồ-đề

Chẳng theo Tự tại thiên

Tội lỗi và công đức

Cả hai cũng phải biết.

Giải thích:

Kệ tụng này có 2 tác ý [tiếp theo]: 22. Tác ý dựa vào các ba-la-mật; 23. Tác ý phải biết.

Bồ tát tác ý khen ngợi pháp nghĩa rồi, lại khởi lên ý niệm: Nay tôi dựa vào các ba-la-mật để chứng đắc đại bồ-đề, chẳng phải dựa vào chúa trời Tự tại v.v… , gọi đó là tác ý dựa vào các ba-la-mật.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi phải biết những lầm lỗi ác hại làm chướng ngại các ba-la-mật và phải biết những công đức của các ba-la-mật, gọi đó là tác ý phải biết.

Kệ tụng:

Vui dồn chứa, thấy nghĩa

Ưa cầu, cầu bốn thứ:

Bình đẳng, vô phân biệt

Hiện trì và đương duyên.

Giải thích:

Kệ tụng này có 3 thứ tác ý [tiếp theo]: 24. Tác ý vui mừng dồn chứa; 25. Tác ý thấy nghĩa; 26. Tác ý ưa thích sự cầu.

Bồ tát tác ý phải biết rồi, lại khởi lên ý niệm: Tôi nên vui mừng dồn chứa hai khối phước trí, đó là tác ý vui mừng dồn chứa.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi thấy tự tánh của các ba-la-mật có lợi ích là năng lực chứng đắc Vô thượng bồ-đề, đó là tác ý thấy nghĩa.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi thấy sự lợi ích của các ba-la-mật thì phải khởi lên bốn sự cầu: 1. Cầu bình đẳng, là cầu chỉ quán song tu; 2. Cầu vô phân biệt, là cầu ba luân thanh tịnh; 3. Cầu hiện trì, là cầu hiện tại nhiếp trì các độ thì có khả năng thành tựu pháp nghĩa của các độ; 4. Cầu đương duyên, là cầu vị lai sẽ thành tựu duyên tố hỗ trợ cho các độ. Đó là tác ý ưa thích sự cầu.

Kệ tụng:

Bảy kiến phi hữu thủ

Bốn loại tưởng hy hữu

Trái lại phi hy hữu

Tưởng này cũng có bốn.

Giải thích:

Kệ tụng này có 3 thứ tác ý [tiếp theo]: 27. Tác ý thấy phi hữu thủ; 28. Tác ý tưởng hy hữu; 29. Tác ý tưởng chẳng phải hy hữu.

Bồ tát ưa thích sự cầu rồi, tiếp theo khởi lên ý niệm: Có bảy loại phi hữu thủ, nay tôi phải thấy: 1. Phi hữu thủ chẳng phải có là có; 2. Phi hữu thủ tội lỗi là không có tội lỗi; 3. Phi hữu thủ công đức là không có công đức; 4. Phi hữu thủ chẳng phải thường là thường; 5. Phi hữu thủ chẳng phải vui là vui; 6. Phi hữu thủ không có ngã là ngã; 7. Phi hữu thủ tịch diệt là không có tịch diệt. Đức Như Lai vì đối trị bảy loại phi hữu thủ này mà lần lượt giảng nói về ba loại tam-muội và bốn pháp ưu đà na, đó là tác ý thấy phi hữu thủ.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với các ba-la-mật phải khởi bốn thứ tưởng hy hữu: 1. Tưởng lớn; 2. Tưởng rộng; 3. Tưởng không cầu báo ân; 4. Tưởng không mong quả báo, đó là tác ý tưởng hy hữu.

Lại khởi lên ý niệm: Trái với những tưởng hy hữu, nay tôi đối với các ba-la-mật cũng có bốn loại tưởng chẳng phải hy hữu, đó là do sự rộng lớn của các ba-la-mật mà có thể chứng đắc Vô thượng bồ-đề, có thể trú tâm bình đẳng đối với mình người, có thể không cầu tất cả thế gian cúng dường, có thể không cầu có hơn thân thể tốt đẹp và tài sản đầy đủ của thế gian, đó là tác ý tưởng chẳng phải hy hữu.

Kệ tụng:

Ly đọa chúng sanh biên

Đại nghĩa và chuyển thí

Cứu cánh và vô gián

Như vậy có năm thứ.

Giải thích:

Kệ tụng này có 5 thứ tác ý [tiếp theo]: 30. Tác ý ly biên; 31. Tác ý đại nghĩa; 32. Tác ý chuyển thí; 33. Tác ý cứu cánh; 34. Tác ý vô gián.

Bồ tát lại khởi lên ý niệm: Nay tôi phải tu tập các ba-la-mật để chuyển hóa biên tế của tất cả chúng sanh, đó là tác ý ly biên.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi phải đem các ba-la-mật làm lợi ích rộng lớn cho tất cả chúng sanh, đó là tác ý đại nghĩa.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi có bao nhiêu công đức từ sự tu tập các ba-la-mật thì nguyện thí khắp tất cả chúng sanh, đó là tác ý chuyển thí.

Lại khởi lên ý niệm: Nguyện tất cả chúng sanh nào có được các ba-la-mật thì được ba chỗ cứu cánh: Bồ tát địa cứu cánh, Như lai địa cứu cánh và lợi ích chúng sanh cứu cánh; đó là tác ý cứu cánh.

Lại khởi lên ý niệm: Tôi phải tu tập các ba-la-mật trong tất cả thời gian không cách hở, không ngừng nghỉ, đó là tác ý vô gián.

Kệ tụng:

Phương tiện hằng tùy nhiếp

Tâm trú không điên đảo

Thoái lui thì không vui

Tiến lên sanh hoan hỷ.

Giải thích:

Kệ tụng này có 3 thứ tác ý [tiếp theo]: 35. Tác ý tùy nhiếp; 36. Tác ý không vui; 37. Tác ý hoan hỷ.

Bồ tát lại khởi lên ý niệm: Nay tôi phải an trú tâm không điên đảo đối với pháp sở chứng của Phật, phải thường tùy thuận nhiếp thọ các ba-la-mật trong mọi thời gian, đó là tác ý tùy nhiếp.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với người thoái lui và khuất phục trước các ba-la-mật thì sanh lòng không vui, đó là tác ý không vui.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với người tiến tới và thêm lên trong các ba-la-mật thì sanh lòng vui mừng, đó là tác ý hoan hỷ.

Kệ tụng:

Tương tự, không muốn tu

Chân thật, muốn tu tập

Không theo và muốn được

Muốn được có hai thứ.

Giải thích:

Kệ tụng này có 4 thứ tác ý [tiếp theo]: 38. Tác ý không muốn tu tập; 39. Tác ý muốn tu tập; 40. Tác ý không theo; 41. Tác ý muốn được.

Bồ tát lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với các ba-la-mật tương tự thì không nên tu tập, đó là tác ý không muốn tu tập.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với các ba-la-mật chân thật thì phải nỗ lực tu tập, đó là tác ý muốn tu tập.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với các chướng ngại cho các ba-la-mật thì tác ý phải đoạn trừ, đó là tác ý không theo.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi muốn được thọ ký vị của các ba-la-mật và muốn được quyết định [hành] địa của các ba-la-mật, đó là tác ý muốn được.

Kệ tụng:

Định tác vị lai hạnh

Thường quán tha hạnh đầy

Tin hiểu mình thứ nhất

Vì biết thể vô thượng.

Giải thích:

Kệ tụng này có ba thứ tác ý [cuối cùng]: 42. Tác ý định làm; 43. Tác ý quán người; 44. Tác ý mình hơn.

Bồ tát lại khởi lên ý niệm: Tôi nhìn thấy các nẻo luân hồi, muốn đem phương tiện của tuệ giác để hóa độ, vì vậy ở đời vị lai tôi quyết định sẽ thực hành tất cả ba-la-mật, đó là tác ý quyết định làm.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi nên quán sát mười phương các đại Bồ tát khi được đầy đủ các ba mật, nguyện tôi cũng được đầy đủ như vậy, đó là tác ý quán người.

Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi tự tín về sự thực hành các ba-la-mật mà đó là bậc nhất trong các sự thực hành. Vì sao? Vì tôi quán sát thể tánh của các ba-la-mật thì không có gì hơn được, đó là tác ý mình hơn.

[Đến đây đã trình bày theo thứ tự đủ 44 tác ý.]

Kệ tụng:

Lấy các tác ý này

Tu tập trong các độ

Bồ tát tất cả thời

Thiện căn được viên mãn.

Giải thích:

Nên biết, kệ tụng này tổng kết các nghĩa [của 44] tác ý ở trên.

Đã nói sự cầu trưởng dưỡng thiện căn, kế nói những sai biệt của sự cầu pháp.

Kệ tụng:

Cầu pháp gồm tăng trưởng

Thượng ý và rộng lớn

Có chướng và không chướng

Và có các thần thông

Không thân và có thân

Được thân và đầy thân

Nhiều mạn và ít mạn

Và cả không mạn nữa.

Giải thích:

Sự cầu pháp có mười ba thứ sai biệt:

1. Cầu tăng trưởng, là nhờ sự nghe chánh pháp mà tăng trưởng đức tin;

2. Cầu thượng ý, là ở bên Phật tiếp nhận dòng chảy chánh pháp;

3. Cầu rộng lớn, là đắc thần thông của Bồ tát để từ xa nghe đủ giáo pháp của chư Phật;

4. Cầu có chướng, là người mới tăng trưởng đức tin;

5. Cầu không chướng, là người cầu thượng ý;

6. Cầu thần thông, là người cầu rộng lớn;

7. Cầu không thân, là văn tuệ và tư tuệ không có pháp thân;

8. Cầu có thân, là tu tuệ có đa văn huân tập chủng tử thân;

9. Cầu được thân, là từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy;

10. Cầu mãn thân, là địa thứ tám, địa thứ chín và địa thứ mười;

11. Cầu nhiều mạn, là giai đoạn tín hạnh;

12. Cầu ít mạn, là từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy;

13. Cầu không mạn, là địa thứ tám, địa thứ chín và địa thứ mười.

Đã nói những sai biệt của sự cầu pháp, kế nói những nhân duyên của sự cầu pháp.

Kệ tụng:

Vì sắc, vì phi sắc

Vì thông, vì chánh pháp

Tướng tốt và bịnh hết

Nhân tự tại, vô tận.

Giải thích:

Sự cầu pháp có bốn nhân duyên: 1. Vì sắc; 2. Vì phi sắc; 3. Vì thần thông; 4. Vì chánh pháp.

Vì sắc là nhân tố của tướng tốt. Vì phi sắc là nhân tố diệt bịnh phiền não. Vì thần thông là nhân tố của tự tại. Vì chánh pháp là nhân tố của vô tận.

Như kinh Phạn thiên vương vấn có ghi: Bồ tát cầu pháp đầy đủ bốn tưởng:

1. Tưởng như diệu bảo, vì nghĩa khó có được;

2. Tưởng như lương dược, vì nghĩa trừ bịnh;

3. Tưởng như tài vật, vì nghĩa không buông bỏ;

4. Tưởng như niết-bàn, vì nghĩa khổ diệt.

Do pháp là nhân tố của tướng tốt trang nghiêm nên tưởng như diệu bảo. Do pháp là nhân tố diệt bịnh phiền não nên tưởng như lương dược. Do pháp là nhân tố của thần thông tự tại nên tưởng như tài vật. Do pháp là nhân tố của chánh pháp vô tận nên tưởng như niết-bàn.

Đã nói những nhân duyên của sự cầu pháp, kế nói sự phân biệt của sự cầu viễn ly.

Kệ tụng:

Vô thể, thể, tăng, giảm

Nhất, dị, tự, biệt tướng

Như danh, như nghĩa vậy

Phân biệt có mười thứ.

Giải thích:

Có mười thứ phân biệt: 1. Phân biệt vô thể; 2. Phân biệt hữu thể; 3. Phân biệt tăng ích; 4. Phân biệt tổn giảm; 5. Phân biệt nhất tướng; 6. Phân biệt dị tướng; 7. Phân biệt tự tướng; 8. Phân biệt biệt tướng; 9. Phân biệt khởi nghĩa theo danh; 10. Phân biệt khởi danh theo nghĩa.

Trong kinh Bát-nhã ba-la-mật có ghi, vì muốn các Bồ tát viễn ly mười thứ phân biệt này mà nói mười thứ đối trị: (1) vì đối trị phân biệt vô thể, kinh nói, có Bồ tát …, Bồ tát …; (2) vì đối trị phân biệt hữu thể, kinh nói, không thấy có Bồ tát v.v…; (3) vì đối trị phân biệt tăng ích, kinh nói, này Xá Lợi Phất, tự tánh của sắc là không; (4) vì đối trị phân biệt tổn giảm, kinh nói, chẳng phải sắc diệt mới gọi là không; (5) vì đối trị phân biệt nhất tướng, kinh nói, nếu sắc là không thì [sắc ấy] là phi sắc; (6) vì đối trị phân biệt dị tướng, kinh nói, không chẳng khác sắc, sắc chẳng khác không, không tức là sắc; (7) vì đối trị phân biệt tự tướng, kinh nói, sắc ấy chỉ là danh; (8) vì đối trị phân biệt biệt tướng, kinh nói, sắc ấy không sanh, không diệt, chẳng phải nhiễm, chẳng phải tịnh v.v…; (9) vì đối trị phân biệt khởi nghĩa theo danh, kinh nói, danh ấy làm khách nên nghĩa không nên dính theo danh; (10) vì đối trị phân biệt khởi danh theo nghĩa, kinh nói, tất cả danh đều không thể thấy, vì không thể thấy nên danh không nên dính theo nghĩa.

Đã nói sự phân biệt của sự cầu viễn ly, kế nói sự cầu pháp lớn lao.

Kệ tụng:

Bồ tát thắng dũng mãnh

Hai cầu được chân thật

Tùy thuận các thế gian

Công đức như biển đầy.

Giải thích:

Sự cầu pháp có ba thứ lớn lao:

1. Phương tiện lớn lao, do tinh tiến tột bậc cầu thế đế và đệ nhất nghĩa đế một cách chân thật, không điên đảo;

2. Lợi người lớn lao, do làm việc thế gian, dựa vào đó hỗ trợ cho sự an trú đệ nhất nghĩa đế;

3. Lợi mình lớn lao, do tất cả công đức như biển cả tràn đầy.

Phẩm Thuật Cầu trọn vẹn

***

Phẩm Mười Ba: HOẰNG PHÁP

Giải thích:

Đã nói sự cầu pháp, kế nên lấy giáo pháp vì người diễn thuyết.

Kệ tụng:

Khó được lại không bền

Thương khổ thường hỷ thí

Huống đem pháp lợi đời

Tăng trưởng cũng vô tận.

Giải thích:

Kệ tụng này, trước là ngăn chận sự bủn xỉn giáo pháp.

Khó được lại không bền: Là thân thể, sanh mạng và tài sản.

Thương khổ thường hỷ thí: Nhờ lòng từ bi Bồ tát có thể trong tất cả thời xả bỏ ba thứ pháp không bền chắc để bố thí cho chúng sanh đang chịu khổ ách.

Huống đem pháp lợi đời, tăng trưởng cũng vô tận: Huống chi pháp lớn mà Bồ tát chẳng khó có được mà sanh lòng bủn xỉn, cho nên Bồ tát cần phải đem pháp lớn ấy làm lợi ích rộng rãi cho thế gian. Vì sao? Vì pháp được tăng trưởng thì cũng vô tận.

Đã nói sự ngăn chận bủn xỉn giáo pháp, kế nói sự lợi ích.

Kệ tụng:

Tự chứng không thể nói

Dẫn vật nói pháp tánh

Pháp thân, tịch diệt miệng

Dòng bi như trăn hút.

Giải thích:

Tự chứng không thể nói, dẫn vật nói pháp tánh: Đức Thế tôn không nói pháp tự sở chứng vì pháp ấy không thể nói, nhưng vì dẫn tiếp chúng sanh nên Ngài khéo dùng phương tiện mà nói về pháp tánh.

Hỏi: Thế nào là phương tiện?

Đáp: Pháp thân, tịch diệt miệng, dòng bi như trăn hút: Chư Phật lấy pháp tánh làm thân, lấy tịch diệt làm miệng, đó là do rời hai chướng mà được sự thanh tịnh cực rộng. Chư Phật đem tâm đại từ bi lưu xuất tràng lưới giáo pháp để dẫn tiếp chúng sanh. Thí như con trăn lớn há miệng, nhả nước dãi để hấp dẫn các con vật; cũng vậy, qua thân, miệng và tâm bi, chư Phật đồng dẫn tiếp chúng sanh. Tâm đại bi vô tận là do chư Phật đạt đến cứu cánh.

Kệ tụng:

Do kia tu đắc quả

Tu thuyết chẳng vô nghĩa

Chỉ nghe và không nghe

Tu thuyết thì vô lý.

Giải thích:

Do kia tu đắc quả, tu thuyết chẳng vô nghĩa: Chư Phật dùng phương tiện nói pháp tự sở chứng để dẫn tiếp thế gian và người năng hành tu sức tự tại mà đắc quả, nên nói sự tu của người năng hành và pháp Phật thuyết đưa đến chứng đắc thì chẳng phải vô nghĩa.

Chỉ nghe và không nghe, tu thuyết thì vô lý: Nếu chỉ nghe pháp mà được thấy chân nghĩa, thì sự tu của người năng hành trở nên không lợi ích. Nếu không nghe pháp mà được vào sự tu, thì sự thuyết pháp của Phật trở nên không lợi ích.

Đã nói sự lợi ích của thuyết pháp, kế nói sự sai biệt của thuyết pháp.

Kệ tụng:

A-hàm thuyết, chứng thuyết

Là khẩu lực, thông lực

Thông lực là tướng tốt

Sắc khác và hư không.

Giải thích:

Chư Bồ tát thuyết pháp có hai thứ sai biệt:

1. A-hàm thuyết, là dùng khẩu lực mà thuyết pháp;

2. Chứng thuyết, là dùng thần thông lực mà thuyết pháp.

Thuyết pháp bằng thần thông lực lại có nhiều loại: thuyết pháp bằng tướng tốt, thuyết pháp bằng cây rừng, thuyết pháp bằng âm nhạc, thuyết pháp bằng không trung.

Đã nói sự sai biệt của thuyết pháp, kế nói sự thuyết pháp thành tựu.

Kệ tụng:

Vô úy và đoạn nghi

Khiến tin và hiển thật

Như đây các Bồ tát

Thuyết thành tựu nên biết.

Giải thích:

Các Bồ tát thuyết pháp thành tựu có bốn nghĩa: 1. Không sợ hãi; 2. Đoạn trừ nghi ngờ; 3. Làm cho tin tưởng; 4. Hiển thị lẽ thật.

Như kinh Phạn thiên vương vấn có ghi: Bồ tát đầy đủ bốn pháp thì có năng lực mở ra pháp thí rộng lớn. Những gì là bốn? Một là nắm giữ diệu pháp; hai là tự làm trí tuệ trong sáng; ba là làm thiện nghiệp của bậc trượng phu; bốn là hiển thị pháp nhiễm tịnh.

Ở đây, một là nghe nhiều nên không sợ hãi; hai là trí tuệ lớn nên có năng lực đoạn trừ nghi ngờ; ba là không chạy theo danh lợi nên làm cho người tin tưởng tiếp nhận; bốn là nhờ thông đạt thế đế và đệ nhất nghĩa đế nên có thể hiển thị hai thứ chân thật là nhiễm tướng chân thật và tịnh tướng chân thật.

Kệ tụng:

Lời đẹp, rời say đắm

Không thoái, không không hết

Chủng loại và tương ứng

Khiến hiểu, chẳng cầu lợi

Và còn khắp dạy bảo

Là thuyết pháp thành tựu.

Giải thích:

Lời đẹp, là khi bị người giận dữ chưởi bới vẫn không lấy điều ác đáp trả. Rời say đắm: Say đắm có hai thứ: 1. Người khen ngợi thì say đắm; 2. Mình thành tựu thì tự say đắm, tức là gia thế, hình sắc, của cải v.v… thành tựu thì sanh tâm yêu thích; rời, là nơi tâm không còn hai thứ say đắm.

Không thoái, là do không có biếng nhác. Không không hết, là rời sự bủn xỉn pháp, làm tất cả sự thuyết pháp. Chủng loại, là không thuyết pháp trùng lập. Tương ứng, là không trái với hiện lượng và tỷ lượng. Khiến hiểu, là nói chữ câu dễ hiểu. Chẳng cầu lợi, là không vì của cải, lợi lộc mà làm cho người tin tưởng. Khắp dạy bảo, là dạy khắp ba thừa.

Đã nói thuyết pháp thành tựu, kế nói ngôn ngữ thuyết pháp thành tựu.

Kệ tụng:

Không nhỏ và điều hòa

Khéo léo và sáng tỏ

Ứng cơ và lìa cầu

Phần lượng và vô tận.

Giải thích:

Không nhỏ, là tiếng vang khắp đại chúng. Điều hòa, là tiếng vui tai vừa ý. Khéo léo, là khai thị chữ câu rõ ràng. Sáng tỏ, là ngôn ngữ sao cho dễ hiểu. Ứng cơ, là tùy nghi thuyết pháp. Lìa cầu, là không cầu danh lợi mà thuyết pháp. Phần lượng, là thuyết pháp mà thích nghe không chán. Vô tận, là thuyết pháp không có cùng tận.

Đã nói ngôn ngữ thuyết pháp thành tựu, kế nói ngôn từ thuyết pháp thành tựu.

Kệ tụng:

Nêu danh và thích nghĩa

Tùy thừa và mềm dịu

Dễ hiểu và ứng cơ

Xuất ly, tùy thuận vậy.

Giải thích:

Nêu danh, là tương ứng các chữ câu mà chẳng trái với chứng nghiệm. Thích nghĩa, là giải thích, luận bàn các chữ câu mà không trái đạo lý. Tùy thừa, là dùng các chữ câu không trái với giáo pháp ba thừa. Mềm dịu, là vượt qua khó khăn về [phát âm] các chữ câu để không sai với âm thanh. Dễ hiểu, là tập hợp các chữ câu sao cho dễ hiểu được nghĩa. Ứng cơ, là chọn lựa các chữ câu thích ứng các căn cơ. Xuất ly, là không dừng lại ở các chữ câu mà [mục đích] hướng đến niết-bàn. Tùy thuận, là chánh hạnh ở các chữ câu phải tùy thuận tám chi phần thánh đạo.

Kệ tụng:

Bồ tát thành tựu chữ

Như nghĩa trên nên biết

Thanh có sáu mươi loại

Chính nói việc Như lai.

Giải thích:

Như lai có sáu mươi loại âm thanh không thể nghĩ bàn. Như trong kinh Phật bí mật có nói: Này Tịch tĩnh tuệ, Như lai có đầy đủ sáu mươi loại thanh ngữ, đó là các tiếng thấm đẫm, dịu dàng, vừa ý, đáng mến, trong sáng v.v… Nói rộng như sau:

1. Tiếng thấm đẫm có thể nắm giữ thiện căn của chúng sanh.

2. Tiếng dịu dàng làm cho người hiện tiền nghe pháp được cảm xúc an lạc.

3. Tiếng vừa ý là do dùng nghĩa tốt đẹp.

4. Tiếng ưa thích là do dùng chữ tốt đẹp.

5. Tiếng trong sáng là do trí hậu đắc xuất thế vô thượng.

6. Tiếng không vẩn đục là do không thích ứng các tập khí phiền não.

7. Tiếng sang sảng rõ ràng là do dùng chữ câu dễ hiểu.

8. Tiếng sức mạnh điều thiện là do công đức đầy đủ, phá hủy tà kiến xấu ác của ngoại đạo.

9. Tiếng thích nghe là tiếng làm cho chúng sanh tin tưởng tùy thuận mà xuất ly.

10. Tiếng không dứt là tiếng mà tất cả ngoại đạo không thể làm đứt đoạn.

11. Tiếng điều phục là tiếng có thể đối trị được những phiền não như tham v.v…

12. Tiếng không chê trách là tiếng làm phương tiện an vui chế giới.

13. Tiếng không thô rít là tiếng làm cho người phạm giới được xuất ly chính xác.

14. Tiếng khéo vỗ về là tiếng giáo hóa dạy bảo.

15. Tiếng vui tai là tiếng đối trị tâm tán loạn.

16. Tiếng thân khinh an là tiếng có khả năng dẫn vào chỉ.

17. Tiếng tâm thấu rõ là tiếng có khả năng dẫn vào quán.

18. Tiếng tâm hoan hỷ là tiếng khéo đoạn trừ nghi ngờ.

19. Tiếng hỷ lạc sanh là tiếng quyết định nhổ trừ tà kiến.

20. Tiếng không nóng bức là tiếng làm tin tưởng, tiếp nhận [giáo pháp] không hối hận.

21. Tiếng khả năng nắm giữ trí tuệ là tiếng thành tựu nhân tố đa văn mà trí dựa vào.

22. Tiếng khả năng nắm giữ hiểu biết là tiếng thành tựu nhân tố tư duy mà trí dựa vào.

23. Tiếng không che giấu là tiếng giảng thuyết mà không bỏn xẻn pháp.

24. Tiếng đáng yêu là tiếng làm cho được kết quả lợi mình.

25. Tiếng khát ngưỡng là tiếng làm cho người đã đắc quả có thêm nguyện lực và an lạc sâu xa.

26. Tiếng răn dạy là nói chính xác giáo pháp không thể nghĩ bàn.

27. Tiếng khiến hiểu là nói chính xác giáo pháp có thể nghĩ bàn.

28. Tiếng tương ứng là nói không trái với chứng nghiệm.

29. Tiếng có ích là tiếng chỉ dẫn cho người cần được dạy.

30. Tiếng rời lỗi trùng lặp là tiếng thuyết pháp không có hư dối.

31. Tiếng sư tử hống là tiếng làm cho ngoại đạo sợ hãi.

32. Tiếng voi chúa là tiếng chấn động lớn lao.

33. Tiếng sấm chớp là tiếng vang vọng sâu xa.

34. Tiếng rồng ngâm là tiếng làm cho tin tưởng, tiếp nhận.

35. Tiếng khẩn-na-la là âm nhạc tuyệt mỹ.

36. Tiếng ca-lăng-tần-già là âm điệu véo von, trong trẻo, hài hòa.

37. Tiếng Phạn thiên là tiếng vang đi rất xa.

38. Tiếng chim cộng mạng là tiếng ban đầu nghe được an lành, tất cả việc đều thành tựu.

39. Tiếng Thiên vương là tiếng làm cho không dám làm lỗi.

40. Tiếng trống trời là tiếng phá ma quân.

41. Tiếng rời ngã mạn là tiếng làm cho tâm lý không cất cao trước khen chê.

42. Tiếng đi vào tất cả là tiếng đi vào tất cả loại âm thanh của Tỳ-già-la luận.

43. Tiếng rời bất chánh là tiếng làm cho ghi nhớ không quên.

44. Tiếng thích ứng thời gian là tiếng khởi sự giáo hóa trong tất cả thời gian.

45. Tiếng không hổ thẹn là tiếng không dựa vào sự lợi dưỡng.

46. Tiếng không sợ hãi là tiếng xuất ly sự hổ thẹn.

47. Tiếng hoan hỷ là tiếng làm cho nghe hoài không chán.

48. Tiếng tùy thuận xả bỏ là tiếng đi vào tất cả minh xứ thiện xảo.

49. Tiếng bạn lành là tiếng làm lợi lạc và thành tựu tất cả chúng sanh.

50. Tiếng thường chảy là tiếng liên tục không đứt đoạn.

51. Tiếng nghiêm sức là tiếng làm ra các thứ hiển hiện.

52. Tiếng đầy đủ là thuyết pháp bằng một ngôn ngữ mà có ra vô lượng ngôn ngữ.

53. Tiếng hoan hỷ mọi căn cơ chúng sanh là dùng một lời nói mà hiển hiện vô lượng nghĩa.

54. Tiếng không chê bai là tiếng làm cho chúng sanh tín thuận theo nghĩa được thiết lập.

55. Tiếng không thêm bớt là thuyết pháp với thời lượng thích hợp.

56. Tiếng không gấp vội là thuyết pháp không lướt nhanh.

57. Tiếng khắp tất cả là tiếng làm cho đồ chúng xa gần đều nương tựa.

58. Tiếng nhất thiết chủng thành tựu là nói pháp nghĩa thế gian bằng thí dụ để tin hiểu.

Đã nói ngôn từ thành tựu, kế nói sự thuyết pháp lớn lao.

Kệ tụng:

Khai diễn và thi thiết

Thiết lập và nêu chung

Nói riêng và đoạn nghi

Lược, rộng đều tin hiểu.

Giải thích:

Khai diễn, là ngôn thuyết. Thi thiết, là các chữ câu. Thiết lập, là khéo tương ứng. Dùng các phương tiện như vậy mà phân biệt khai thị, bằng cách lần lượt nêu chung, nói riêng và đoạn nghi, để nghĩa lý thu hẹp gần lại cho dễ hiểu, làm cho người nghe tin nhận đối với giáo pháp được thuyết mà có được sự xác quyết. Lược, là nói một lần, vì người lợi căn hiểu mau chóng. Rộng, là nói nhiều lần, vì người độn căn hiểu chậm chạp.

Kệ tụng:

Người thuyết, pháp được thuyết

Người nghe, ba luân tịnh

Lại rời tám loại lỗi

Người thuyết tịnh phải biết.

Giải thích:

Người thuyết, pháp được thuyết, người nghe, ba luân tịnh: Thế nào là ba luân? 1. Người thuyết, là chư Phật, Bồ tát; 2. Pháp được thuyết, là tổng thuyết các loại danh từ, chữ câu v.v…; 3. Người nghe nhận, là như trước nói, người nghe hiểu bằng nói lược và người nghe hiểu bằng nói rộng.

Lại rời tám lầm lỗi, người thuyết tịnh nên biết: Người thuyết mà thanh tịnh thì phải biết rời xa tám lầm lỗi.

Hỏi: Tám lầm lỗi là gì?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Biếng nhác và không hiểu

Khước thỉnh, không khai nghĩa

Cho đến không đoạn nghi

Đoạn nghi không vững vàng

Chán thoái, có bủn xỉn

Như vậy tám lầm lỗi

Chư Phật không việc ấy

Nên thành vô thượng thuyết.

Giải thích:

Tám thứ lỗi là: 1. Biếng nhác; 2. Không hiểu nghĩa; 3. Khước từ lời thỉnh cầu; 4. Không khai mở nghĩa; 5. Không đoạn nghi; 6. Đoạn nghi mà không xác quyết; 7. Tâm có chán nản, thoái lui và không nói được trong mọi thời gian; 8. Có bủn xỉn nên không tận tình khai thị.

Tất cả chư Phật đều rời xa tám lầm lỗi như vậy, do đó chư Phật thành tựu sự thuyết pháp không ai hơn được.

Đã nói sự thuyết pháp lớn lao, kế nói nghĩa thành tựu của thuyết pháp.

Kệ tụng:

Pháp đây tùy thời thiện

Sanh nhân tín, hỷ, giác

Nghĩa chánh và ngữ xảo

Năng khai bốn phạn hạnh.

Giải thích:

Pháp đây tùy thời thiện, sanh nhân tín, hỷ, giác: Tùy thời thiện, là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Giáo pháp được trình bày theo thứ tự như vậy, qua đó văn là nhân tố của tín giải, tư là nhân tố của hoan hỷ và tu là nhân tố của giác ngộ. Nhân tố của giác ngộ là phải định tâm quán sát đạo lý của giáo pháp và chứng đắc trí như thật.

Nghĩa chánh và ngữ xảo, hay khai bốn phạn hạnh: Nghĩa chánh, là thiện nghĩa tương ứng với thế tục đế và diệu nghĩa tương ứng với đệ nhất nghĩa đế. Ngữ xảo, là dễ nhận và dễ hiểu, bởi văn rõ ràng thì nghĩa hiện bày. Do nghĩa chánh và ngữ xảo mà có khả năng khai thị bốn loại phạn hạnh.

Hỏi: Bốn loại phạn hạnh là gì?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Không cùng người tương ứng

Đoạn đủ hoặc ba cõi

Tự tánh và vô cấu

Là bốn loại phạn hạnh.

Giải thích:

Bốn phạn hạnh là: 1. Riêng một; 2. Đầy đủ; 3. Thuần khiết; 4. Trong sáng.

Không cùng người tương ứng, là nghĩa riêng một, vì hạnh này không cùng chung hạnh của ngoại đạo.

Đoạn đủ hoặc ba cõi, là nghĩa đầy đủ, vì hạnh này đoạn đủ phiền não của ba cõi.

Tự tánh, là nghĩa thuần khiết, vì hạnh này là tự tánh vô lậu nên bản lai thanh tịnh.

Vô cấu, là nghĩa trong sạch, vì hạnh này là ở nơi chủng loại thân mà đoạn tận các lậu hoặc thì được vô cấu thanh tịnh.

Đã nói nghĩa thành tựu của thuyết pháp, kế nói phần mục của thuyết pháp.

Kệ tụng:

Đó là phần dẫn vào

Phần tướng, phần đối trị

Cho đến phần bí mật

Đó là bốn phần mục.

Giải thích:

Chư Phật thuyết pháp không rời bốn phần mục: 1. Phần dẫn vào; 2. Phần tướng; 3. Phần đối trị; 4. Phần bí mật.

Hỏi: Bốn phần mục này y cứ vào nghĩa nào?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Thanh văn và tự tánh

Đoạn lỗi và lời sâu

Tuần tự y bốn nghĩa

Phần mục có bốn thứ.

Giải thích:

Phần dẫn vào là phải biết dạy bảo hàng Thanh văn đi vào trong pháp nghĩa mà có được sự không sợ hãi, như nói sắc (pháp) v.v… là (tất cả) có.

Phần tướng là phải biết về ba tự tánh: tánh phân biệt là vô thể, tánh y tha là vô khởi, tánh chân thật là tự tánh thanh tịnh, như nói tất cả pháp (tức là ba tự tánh).

Phần đối trị là phải biết dựa vào sự đoạn các lầm lỗi để đối trị tám thứ chướng ngại, như trong kinh điển Đại thừa nói, thọ trì hai bài kệ mà có được công đức như thế, đó đều là vì đối trị mà nói. Phần đối trị này về sau sẽ giải thích thêm.

Phần bí mật là phải biết dựa vào các lời nói sâu xa, rồi xoay chuyển lời nói ấy mới hiểu được nghĩa, như một bài kệ trong kinh điển Đại thừa sau đây:

Không kiên biết kiên cố

Khéo sống trong đảo ngược

Phiền não quấy cùng cực

Mau đắc đại bồ-đề.

Không kiên biết kiên cố: Không kiên là chúng sanh mà tâm tánh của họ không có tán loạn. Tâm không tán loạn này làm nên cái biết về kiên cố. Cái biết ấy là tối thắng, có khả năng chứng đắc bồ-đề. Người tán loạn thì tâm rong ruổi, ngoan cố, chấp trước, không thể đi đến bồ-đề. Đây là nghĩa của câu thứ nhất.

Khéo sống trong đảo ngược: Đảo ngược là sự chấp trước vào thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu người sống trong đảo ngược mà có thể hiểu vô thường, bất lạc, vô ngã, bất tịnh thì người ấy khéo trú ở, không thoái lui, tức có thể mau chứng đắc bồ-đề, không như vậy thì không thể đi đến bồ-đề. Đây là nghĩa của câu thứ hai.

Phiền não quấy cùng cực: Trong thời gian dài cần tu khổ hạnh khó làm, do mỏi mệt cùng cực mới có thể chứng đắc bồ-đề, không như vậy thì không thể đi đến bồ-đề. Đây là nghĩa của câu thứ ba.

Đã nói phần mục của thuyết pháp, kế nói ý thú của thuyết pháp.

Kệ tụng:

Bình đẳng và khác nghĩa

Khác thời và khác muốn

Dựa bốn ý thú này

Chư Phật thuyết, nên biết.

Giải thích:

Chư Phật thuyết pháp không rời bốn ý thú: 1. Ý thú bình đẳng; 2. Ý thú khác nghĩa; 3. Ý thú khác thời; 4. Ý thú khác muốn.

Ý thú bình đẳng: Như Phật nói, xưa kia đức Phật Tỳ-bà-thi chính là thân Như lai, vì pháp thân không có sai biệt. Thuyết như vậy gọi là ý thú bình đẳng.

Ý thú khác nghĩa: Như Phật nói, tất cả các pháp vô tự tánh, vì các pháp vốn không sanh. Thuyết như vậy gọi là ý thú khác nghĩa.

Ý thú khác thời: Như Phật nói, những ai phát nguyện thấy đức Phật A-di-đà thì tất cả đều được vãng sanh; đây là do khác thời được sanh nên nói như vậy. Thuyết như vậy gọi là ý thú khác thời.

Ý thú khác muốn: Người kia có thiện căn như thế, Như lai khi thì khen ngợi, khi thì chê trách, do vì người kia có được thiện căn nhỏ bèn cho là đủ. Thuyết như vậy gọi là ý thú khác muốn.

Đã nói ý thú của thuyết pháp, kế nói thọ trì công đức Đại thừa.

Kệ tụng:

Khinh Phật và khinh pháp

Biếng nhác, ít biết đủ

Tham hạnh và mạn hạnh

Hối hạnh cùng bất định

Như vậy tám thứ chướng

Đại thừa nói đối trị

Các chướng như vậy đoạn

Người ấy vào chánh pháp.

Giải thích:

Hai kệ tụng này hiển bày công đức đoạn chướng của Đại thừa. Chướng ngại có tám thứ: 1. Chướng khinh Phật; 2. Chướng khinh pháp; 3. Chướng biếng nhác; 4. Chướng ít biết đủ; 5. Chướng tham hạnh; 6. Chướng mạn hạnh; 7. Chướng hối hạnh; 8. Chướng bất định.

Vì đối trị chướng khinh Phật, kinh điển Đại thừa nói, xưa kia đức Phật Tỳ-bà-thi chính là thân Như lai.

Vì đối trị chướng khinh pháp, kinh điển Đại thừa nói, nếu gặp gỡ (và phụng sự) vô lượng hằng hà sa chư Phật thì đối với sự tu hành Đại thừa mới lý giải được.

Vì đối trị chướng biếng nhác, kinh điển Đại thừa nói, nếu có chúng sanh phát nguyện sanh quốc độ An Lạc thì tất cả sẽ được vãng sanh, hoặc xưng niệm danh hiệu đức Phật Vô Cấu Nguyệt Quang thì quyết định sẽ được làm Phật.

Vì đối trị chướng ít biết đủ, kinh điển Đại thừa nói, có chỗ Phật khen ngợi hạnh bố thí v.v…, có chỗ Phật chê trách hạnh bố thí v.v…

Vì đối trị chướng tham hạnh, kinh điển Đại thừa nói, quốc độ của chư Phật có những việc cực kỳ diệu lạc.

Vì đối trị chướng mạn hạnh, kinh điển Đại thừa nói, hoặc có Phật độ tối thắng thành tựu.

Vì đối trị chướng hối hạnh, kinh điển Đại thừa nói, hoặc có chúng sanh đối với chư Phật, Bồ tát làm ra những việc không lợi ích vẫn được sanh đường lành.

Vì đối trị chướng bất định, kinh điển Đại thừa nói, chư Phật thọ ký hàng Thanh văn sẽ được làm Phật và thuyết nhất thừa.

Đây gọi là thọ trì Đại thừa được rời tám chướng.

Kệ tụng:

Biết văn và hiểu nghĩa

Hai kệ siêng thọ trì

Công đức kể có mười

Gọi là bậc thắng tuệ.

Thiện chủng được tròn đầy

Khi chết hoan hỷ thắng

Thọ sanh tùy chỗ muốn

Niệm sanh trí cũng thành.

Đời đời thường gặp Phật

Nghe pháp được tín tuệ

Rời xa cả hai chướng

Mau thành đạo Vô thượng.

Giải thích:

Ba đoạn kệ tụng này hiển thị công đức tích tập từ sự thọ trì kinh điển Đại thừa.

Công đức đó có mười thứ:

1. Thành tựu tất cả chủng tử thiện căn, viên mãn y chỉ;

2. Đến lúc mạng chung có sự vui mừng vô thượng;

3. Tùy nguyện thọ sanh trong tất cả nơi chốn;

4. Ở tất cả chỗ thọ sanh đều có được tự tánh niệm sanh trí;

5. Sanh ra nơi nào cũng được gặp Phật;

6. Thường ở bên Phật nghe pháp Đại thừa;

7. Thành tựu tăng thượng tín căn;

8. Thành tựu tăng thượng tuệ căn;

9. Rời xa được hoặc chướng và trí chướng;

10. Mau được thành tựu Vô thượng bồ-đề.

Nếu người nào đối với tất cả kinh điển Đại thừa mà có thể biết văn, hiểu nghĩa, cho đến chánh tinh tiến thọ trì [dù chỉ] một câu kệ thì được mười thứ công đức như vậy. Trong đó nên biết, ở đời hiện tại được hai thứ công đức đầu tiên, ở đời vị lai được tám công đức còn lại, từ từ thêm lên thù thắng.

Đã nói công đức thọ trì pháp, kế nói công đức thuyết pháp.

Kệ tụng:

Tuệ thiện và không thoái

Đại bi, danh tiếng xa

Phương tiện thuyết các pháp

Mặt trời chiếu thế gian.

Giải thích:

Nếu chư Bồ tát đầy đủ năm nhân tố được gọi là khéo thuyết pháp:

1. Thuyết không đảo ngược, vì có tuệ thiện;

2. Thuyết trong mọi thời gian, vì được sự không thoái lui;

3. Thuyết lìa mọi mong cầu, vì có lòng đại bi;

4. Thuyết dẫn vào đức tin, vì có danh tiếng đồn xa;

5. Thuyết theo căn cơ, vì có phương tiện khéo léo.

Do năm nhân tố này mà vị Bồ tát có thể khéo thuyết pháp dẫn dắt chúng sanh, nhiều đời được cung kính, và vị Bồ tát đó được ví như mặt trời chiếu sáng thế gian.

Phẩm Hoằng Pháp trọn vẹn

Phẩm Mười Bốn: TÙY TU

Giải thích:

Đã nói sự hoằng pháp của Bồ tát, kế nói sự tùy pháp tu hành của Bồ tát.

Ở đây, sự tùy pháp tu hành gồm có: biết nghĩa, biết pháp, tùy pháp, đồng đắc và tùy hạnh. Sau đây sẽ lần lượt trình bày.

Kệ tụng:

Với hai, biết vô ngã

Với ba, lìa tà chánh

Bồ tát hiểu như vậy

Gọi là bậc biết nghĩa.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rõ về sự biết nghĩa của Bồ tát.

Với hai, biết vô ngã: Đối với hai thứ nhân và pháp mà biết vô ngã, vì biết năng thủ và sở thủ không có hữu thể.

Với ba, lìa tà chánh: Ba, là ba thứ tam-muội: không, vô tướng và vô nguyện. Do không tam-muội mà biết không có hữu thể, vì hiểu là tánh phân biệt. Do vô tướng tam-muội và vô nguyện tam-muội mà biết không có tự thể, vì hiểu là tánh y tha và tánh chân thật. Lìa tà chánh, là ba tam-muội này sanh ra trí xuất thế nên không tà, sanh ra trí thế gian nên không chánh .

Bồ tát hiểu như vậy, gọi là bậc biết nghĩa: Vị Bồ tát nếu biết hai thứ nhân và pháp đều vô ngã, biết ba thứ tam-muội, lìa tà lìa chánh, thì được gọi là bậc biết nghĩa.

Kệ tụng:

Biết nghĩa như thế rồi

Biết pháp cũng như bè

Nghe pháp không nên vui

Xả pháp gọi biết pháp.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rõ về sự biết pháp của Bồ tát.

Bậc Bồ tát sơ học đã biết nghĩa rồi, tiếp theo nên biết pháp, nghĩa là khả năng biết các kinh pháp qua các thể loại như tu-đa-la v.v… đều được ví như chiếc bè, không nên chỉ nghe pháp mà sanh vui mừng. Vì sao? Vì giáo pháp chỉ như một chiếc bè cần phải lìa bỏ, đó gọi là biết pháp.

Kệ tụng:

Phàm phu có hai trí

Thông đạt hai vô ngã

Vì thành hai trí ấy

Như thuyết tùy pháp hành.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rõ về sự tùy pháp của Bồ tát.

Phàm phu có hai trí: Là trí biết nghĩa và trí biết pháp.

Thông đạt hai vô ngã: Hai trí này cũng có khả năng thông đạt hai thứ vô ngã là nhân và pháp.

Vì thành hai trí ấy, như thuyết tùy pháp hành: Bồ tát thành tựu hai thứ trí ấy thì cần phải tùy thuận tu hành như pháp được thuyết, đó gọi là tùy pháp.

Kệ tụng:

Khi thành tựu trí ấy

Xuất thế gian vô thượng

Phàm phu, trú sơ địa

Sở đắc đều đồng đắc.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rõ về sự đồng đắc của Bồ tát.

Khi thành tựu trí ấy, xuất thế gian vô thượng: Là nói thể của trí ấy là tối thắng.

Phàm phu, trú sơ địa, sở đắc đều đồng đắc: Sơ địa là Hoan hỷ địa. Tất cả Bồ tát trú Hoan hỷ địa đã được công đức và người mới nhập địa (chưa có công đức) đều đồng sở đắc.

Kệ tụng:

Kiến đạo đã diệt hoặc

Phải biết tất cả tận

Theo sau tu địa khác

Là vì đoạn trí chướng.

Phải biết trong các địa

Vô phân biệt, kiến lập

Tuần tự vô gián khởi

Như vậy nói tùy hành.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rõ về sự tùy hành của Bồ tát.

Ở kiến đạo vị, Bồ tát đã diệt hết phiền não, tức khi nhập vào sơ địa thì tất cả phiền não đều diệt tận, cho nên việc tu tập các địa sau chỉ là để đoạn trí chướng. Do vậy, ở trong mỗi một địa đều có hai trí là trí vô phân biệt và trí địa kiến lập. Bồ tát ở chánh quán, trong từng sát-na, thủ đắc pháp (tướng) như vậy mà không có phân biệt, đó gọi là trí vô phân biệt. Bồ tát sau khi xuất quán, phân biệt phần số như thế này, thế này của pháp sở đắc trong khi tu quán, đó gọi là trí địa kiến lập. Hai trí này không đồng thời sanh khởi, nhưng hỗ tương không cho các pháp khác xen khởi (giữa hai trí), thường xuyên tu tập không có cách hở, đó gọi là sự tùy hành của Bồ tát.

Bồ tát có thể tùy hành như vậy thì có được bốn cỗ xe không phóng dật:

1. Cỗ xe quốc độ thù thắng;

2. Cỗ xe bậc thiện nhân;

3. Cỗ xe tự chánh;

4. Cỗ xe phước đức đời trước.

Bốn cỗ xe như vậy, nay sẽ tuần tự nói.

Kệ tụng:

Dễ cầu, bảo hộ tốt

Đất lành và bạn lành

Vắng lặng: quốc độ thắng

Bồ tát sẽ vãng sanh.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rõ cỗ xe quốc độ thù thắng.

Quốc độ thù thắng có năm duyên:

1. Dễ cầu, là bốn sự cung cấp cho thân không khó được;

2. Bảo hộ tốt, là vị quốc vương thực thi luật pháp nên người ác, kẻ trộm cướp không có đất sống;

3. Đất lành, là xứ sở điều hòa, không có dịch bệnh;

4. Bạn lành, là bạn bè cùng giữ giới luật, cùng chung hiểu biết;

5. Vắng lặng, là ban ngày không ồn ào, ban đêm rất yên lặng.

Kệ tụng:

Đa văn và kiến đế

Khéo thuyết và thương xót

Không thoái: bậc trượng phu

Bồ tát thắng y chỉ.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rõ cỗ xe bậc thiện nhân.

Bậc thiện nhân cũng có đủ năm duyên:

1. Đa văn, là thành tựu A-hàm;

2. Kiến đế, là chứng đắc Thánh quả;

3. Khéo thuyết, là khả năng phân biệt pháp;

4. Thương xót, là không tham lợi dưỡng;

5. Không thoái, là không biết mệt mỏi.

Kệ tụng:

Duyên tốt, khéo dồn chứa

Khéo tu và khéo thuyết

Kéo xuất, năm thứ này

Gọi là tự chánh thắng.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rõ cỗ xe tự chánh.

Tự chánh cũng có năm duyên:

1. Duyên tốt, là lấy diệu pháp làm duyên tố;

2. Khéo dồn chứa, là cụ bị đầy đủ hai khối phước trí;

3. Khéo tu, là biết khi nào tu chỉ quán về các pháp tướng;

4. Khéo thuyết, là thuyết pháp mà không cầu lợi dưỡng;

5. Khéo xuất, là có được pháp nào ở trên đều tu tập một cách cung kính.

Kệ tụng:

Vui thích và không khó

Không bịnh và tịch tĩnh

Quán sát, năm thứ này

Đời trước trồng thiện căn.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rõ cỗ xe phước đức đời trước.

Phước đức đời trước cũng có năm duyên:

1. Vui thích;

2. Không khó;

3. Không bịnh;

4. Tam-muội;

5. Trí tuệ.

Duyên thứ nhất do sống trong quốc độ thù thắng làm nhân tố. Duyên thứ hai do gặp gỡ bậc thiện nhân làm nhân tố. Ba duyên sau do tự chánh thành tựu làm nhân tố.

Đã nói bốn cỗ xe không phóng dật, kế nói phiền não xuất ly phiền não.

Kệ tụng:

Rời xa nơi pháp giới

Không riêng có pháp tham

Cho nên chư Phật nói

Tham sanh ra tham khác.

Giải thích:

Như đức Phật đã nói, Ta không nói có pháp nào khác với tham mà có thể xuất ly tham, cũng vậy đối với sân, si… Do rời xa pháp giới thì không có cái thể nào khác. Vì vậy, pháp tánh của tham v.v… có được cái danh là tham v.v… Điều này cho thấy, pháp tánh của tham v.v… có thể xuất ly tham v.v… Nghĩa này là chỉ thú của kinh.

Kệ tụng:

Do lìa ngoài pháp tánh

Không riêng có các pháp

Cho nên nói thế này:

Phiền não tức bồ-đề.

Giải thích:

Như trong kinh có nói, vô minh cùng với bồ-đề là đồng nhất. Đây chính là pháp tánh của vô minh thiết lập cái danh bồ-đề. Nghĩa này là chỉ thú của kinh.

Kệ tụng:

Nơi tham khởi chánh tư

Nơi tham được giải thoát

Nói tham xuất ly tham

Sân, si xuất cũng vậy.

Giải thích:

Nếu một người đối với tham khởi chánh tư duy quán sát, biết như vậy rồi, thì đối với tham liền được giải thoát, cho nên nói đem tham xuất ly nơi tham. Xuất ly sân, si cũng lại như vậy.

Đã nói phiền não xuất ly phiền não, kế nói viễn ly tâm nhị thừa.

Kệ tụng:

Bồ tát ở địa ngục

Vì người không từ khổ

Xả hữu, phát tiểu tâm

Khổ đây rất dữ dội.

Giải thích:

Bồ tát bằng tâm từ bi vì các chúng sanh mà đi vào địa ngục lớn, không chối từ cái khổ lớn. Nếu có công đức diệt ba hữu, khởi tâm tiểu thừa, thì Bồ tát cho đây là khổ, là chướng ngại rất sâu nặng.

Hỏi: Nghĩa này như thế nào?

Kệ tụng:

Tuy thường ở địa ngục

Không chướng đại bồ-đề

Nếu khởi tâm lợi mình

Là chướng đại bồ-đề.

Giải thích:

Bồ tát tuy vì chúng sanh đi vào địa ngục trong thời gian dài cũng không lấy làm khổ. Vì sao? Vì việc đó không làm chướng ngại đối với bồ-đề rộng lớn thanh tịnh.

Nếu Bồ tát khởi tâm đối với thừa khác, trú niết-bàn an lạc, thì đó mới là cái khổ lớn. Vì sao? Vì Bồ tát đối với Đại thừa mà lạc trú thì đã là chướng ngại [huống chi khởi tâm lợi mình].

Kệ tụng này hiển thị nghĩa của kệ tụng trước.

Đã nói sự ngăn chận tâm nhị thừa, kế nói sự ngăn chận tâm sợ hãi.

Kệ tụng:

Vô thể và khả đắc

Sự này giống như huyễn

Tánh tịnh và vô cấu

Sự này thì như không.

Giải thích:

Vô thể và khả đắc, sự này giống như huyễn: Tất cả các pháp không có tự tánh nên nói là vô thể, nhưng lại thấy có tướng mạo hiển hiện nên nói là khả đắc. Các hàng phàm phu đối với hai sự thể như vậy thêm sanh sợ hãi. Không nên có sự sợ hãi như vậy. Vì sao? Vì các pháp tương tự như huyễn ảo. Thí như huyễn ảo v.v… không thật có hữu thể nhưng vẫn hiển hiện có thể thấy được. Sự vô thể và sự khả đắc của các pháp cũng giống như vậy. Do vậy, đối với hai sự thể này không nên sợ hãi.

Tánh tịnh và vô cấu, sự này thì như không: Pháp giới xưa nay thanh tịnh nên nói là tánh tịnh; thời gian sau rời xa trần cấu được thanh tịnh nên nói là vô cấu. Các hàng phàm phu đối với hai sự thể như vậy thêm sanh sợ hãi. Không nên có sự sợ hãi như vậy. Vì sao? Vì các pháp tương tự như hư không. Thí như hư không, tánh chất của nó vốn là thanh tịnh, thời gian sau, cũng nói, rời xa trần cấu được thanh tịnh. Sự tánh tịnh và sự vô cấu của pháp giới cũng giống như vậy. Do vậy, đối với hai sự thể này không nên sợ hãi.

Lại nữa, tương tự cũng có thí dụ tranh vẽ, có thể ngăn chận hai sự sợ hãi vô thể và khả đắc.

Kệ tụng:

Thí như người họa sĩ

Vẽ bằng rồi lồi lõm

Như thế vọng phân biệt

Vì không thấy năng sở.

Giải thích:

Thí như người họa sĩ khéo tay có thể vẽ đồng bằng, vách núi, chỗ này chỗ kia lồi lõm, thật ra không có chỗ cao chỗ thấp mà thấy [như thật] có chỗ cao chỗ thấp. Sự phân biệt không chân thật cũng lại như vậy, đối với pháp giới bình đẳng, nơi không có hai tướng, mà thường thấy có hai tướng năng và sở, cho nên không nên sợ hãi.

Nơi đây, tương tự cũng có thí dụ nước trong, có thể ngăn chận hai sự sợ hãi tánh tịnh và vô cấu.

Kệ tụng:

Như nước trong bị đục

Bẩn trừ trở lại trong

Tự tâm tịnh cũng vậy

Chỉ rời xa khách trần.

Giải thích:

Thí như nước trong do cáu bẩn trở nên đục, thời gian sau nước trong lại là do trừ sạch cáu bẩn; sự trong sạch không phải từ ngoài đến, bởi lẽ bản chất của nước là trong sạch. Tâm phương tiện được thanh tịnh cũng lại như vậy. Tâm tánh bản tịnh, khách trần làm tâm tánh nhiễm ô, thời gian sau tâm tánh trở lại thanh tịnh là do trừ khách trần vậy. Tâm tịnh không phải từ ngoài đến, bởi lẽ bản tánh của tâm là thanh tịnh, cho nên không nên sợ hãi.

Kệ tụng:

Đã nói tâm tánh tịnh

Bị khách trần nhiễm ô

Không lìa tâm chân như

Riêng có tâm tánh tịnh.

Giải thích:

Thí như tánh chất của nước vốn là trong nhưng bị cáu bẩn bên ngoài làm cho nước đục. Cũng vậy, tâm tánh bản tịnh, khách trần làm tâm tánh nhiễm ô. Nghĩa này thành lập.

Do nghĩa này mà nói, chẳng lìa tâm là chân như mà riêng có cái tâm nào khác, nghĩa là qua sắc thái y tha mà nói tự tánh thanh tịnh. Nơi đây nên biết, nói về tâm hay chân như thì đều gọi là Tâm. Nói cách khác, Tâm ấy là tự tánh thanh tịnh, Tâm ấy tức là a-ma-la thức.

Đã nói sự ngăn chận sợ hãi, kế nói tội lỗi của tham.

Kệ tụng:

Bồ tát nhớ chúng sanh

Thương đến tận xương tủy

Thường luôn muốn lợi ích

Giống như đứa con một.

Giải thích:

Các Bồ tát thương chúng sanh, điều này gọi là tham. Ngoài ra như kệ tụng nói:

Kệ tụng:

Ý muốn lợi chúng sanh

Khởi tham không có tội

Sân trái với lợi sanh

Thường muốn tổn hại người.

Giải thích:

Nếu nói Bồ tát vì thương chúng sanh mà khởi tham là có tội, thì nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì sự tham này là nhân tố thúc đẩy Bồ tát thường làm lợi ích chúng sanh.

Kệ tụng:

Bồ câu với con mình

Che chở rất thương yêu

Người có tâm từ bi

Thương chúng sanh như vậy.

Giải thích:

Thí như chim bồ câu rất tham lam, thương nhớ những chim con, nhờ vậy chúng được tăng thượng. Cũng vậy, Bồ tát nhiều từ bi ái hộ chúng sanh, làm cho chúng sanh tăng thượng.

Kệ tụng:

Tâm từ trái tâm sân

Dứt khổ trái làm khổ

Làm lợi trái không lợi

Không sợ trái tâm sợ.

Giải thích:

Bồ tát đối với chúng sanh do có tâm từ nên trái ngược với tâm sân; do có tâm muốn dứt khổ nên trái ngược với tâm làm khổ; do có tâm muốn làm lợi ích nên trái ngược với tâm không muốn làm lợi ích; do có tâm không sợ hãi nên trái ngược với tâm gieo sự sợ hãi. Do đó, Bồ tát khởi tâm tham như vậy mà không gọi là có tội.

Đã nói sự ngăn chận tội lỗi của tham, kế nói sự tu hành sai biệt.

Kệ tụng:

Khéo hành trong sanh tử

Như bịnh uống thuốc đắng

Khéo hành trong chúng sanh

Thầy thuốc gần người bịnh

Khéo hành nơi tự tâm

Điều phục người làm dở

Khéo hành trong dục trần

Thương gia khéo mua bán

Khéo hành nơi ba nghiệp

Như người khéo giặt áo

Khéo hành không phiền người

Như cha yêu thương con

Khéo hành trong tu tập

Như dùi lửa không ngưng

Khéo hành trong tam-muội

Tài sản đưa người tin

Khéo hành trong Bát-nhã

Như huyễn sư biết huyễn

Đó là các Bồ tát

Khéo hành các cảnh giới.

Giải thích:

Các Bồ tát tu hành có chín thứ sai biệt:

1. Khéo hành trong sanh tử: Thí như người bị bịnh đã lâu phải uống thuốc đắng chát, chỉ vì khỏi bịnh mà không sanh tham nhiễm. Bồ tát cũng vậy, gần gũi sanh tử chỉ vì nghĩ nhớ, khuyến khích, tán thưởng chúng sanh mà không bị nhuốm bẩn.

2. Khéo hành trong chúng sanh: Thí như vị lương y gần gũi người bịnh. Bồ tát cũng vậy, với tâm từ bi không bỏ chúng sanh bịnh khổ phiền não.

3. Khéo hành nơi tự tâm: Thí như người chủ có trí có thể khéo điều phục người làm công chưa thành thạo. Bồ tát cũng vậy, có thể khéo điều phục tâm chưa điều phục.

4. Khéo hành trong dục trần: Thí như người thương gia khéo léo trong mua bán. Bồ tát cũng vậy, tu tập đối với các độ: bố thí v.v… thì tăng trưởng của cải [chánh pháp].

5. Khéo hành nơi ba nghiệp: Thí như người thợ giặt chuyên nghiệp có thể tẩy trừ các vết dơ bẩn. Bồ tát cũng vậy, tu tập gìn giữ ba nghiệp làm cho thanh tịnh.

6. Khéo hành không phiền não chúng sanh: Thí như người cha hiền yêu thương con nhỏ, dù con có dơ bẩn cũng không ghê tởm. Bồ tát cũng vậy, chúng sanh gây tổn thương cũng không hề buồn giận.

7. Khéo hành trong tu tập: Thí như dùi cây lấy lửa, chưa thấy lửa không ngừng tay. Bồ tát cũng vậy, tu tập thiện pháp bằng tâm không ngưng nghỉ.

8. Khéo hành trong tam-muội: Thí như đưa tiền của cho người đáng tin cậy gìn giữ thì ngày càng sanh lợi. Bồ tát cũng vậy, tu tập các định không có tán loạn, không ưa đắm thì công đức tăng trưởng.

9. Khéo hành trong Bát-nhã: Thí như huyễn sư biết các trò huyễn ảo là không thật. Bồ tát cũng vậy, đối với pháp sở quán có thu hoạch nhưng không thác loạn.

Đây gọi là sự tu hành sai biệt của Bồ tát.

Đã nói sự tu hành sai biệt, kế nói ba luân thanh tịnh.

Kệ tụng:

Siêng năng tinh tiến lớn

Thành thục hai thanh tịnh

Tịnh giác vô phân biệt

Dần dần được bồ-đề.

Giải thích:

Siêng năng tinh tiến lớn, thành thục hai thanh tịnh: Bồ tát đem sức tinh tiến lớn siêng năng thực hành hai lợi mình người, qua đó chúng sanh và mình đều được thành thục, gọi đó là thanh tịnh.

Tịnh giác vô phân biệt, dần dần được bồ-đề: Tịnh giác là trí pháp vô ngã; trí này không có sự phân biệt ba luân: người tu tập, đối cảnh tu tập và chánh trú tu tập, nên được thanh tịnh. Do sự thanh tịnh này dần dần được thành tựu Vô thượng bồ-đề.

Phẩm Tùy Tu trọn vẹn

***

Phẩm Mười Lăm: GIÁO THỌ

Giải thích:

Đã nói sự tùy thuận tu tập của Bồ tát, kế nói sự dạy bảo của Như lai.

Kệ tụng:

Hành hết một tăng-kỳ

Nuôi lớn thêm đức tin

Tùy tín dồn chứa thiện

Cũng đủ như biển đầy.

Giải thích:

Hành hết một tăng kỳ, nuôi lớn thêm đức tin: Các Bồ tát tu hành hết một a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ nuôi lớn đức tin mới đi đến thượng phẩm.

Hỏi: Chỉ có đức tin tăng trưởng?

Đáp: Tùy tín dồn chứa thiện, cũng đủ như biển đầy: Khi đức tin tăng trưởng thì các thiện pháp cũng theo đức tin ấy mà chứa nhóm đầy đủ, như nước biển lớn trong suốt đầy tràn.

Kệ tụng:

Dồn chứa phước đức rồi

Phật tử ban đầu tịnh

Cực trí và nhuyến tâm

Siêng tu các chánh hạnh.

Giải thích:

Dồn chứa phước đức rồi: Là sự chứa nhóm thiện pháp như trước đã nói.

Phật tử ban đầu tịnh: Là giữ gìn sự thanh tịnh và khởi kiến giải chính xác đối với Đại thừa, nên không tiếp nhận nghĩa lý điên đảo.

Cực trí, là có được sự đa văn [giáo pháp Đại thừa].

Nhuyến tâm, là rời các chướng ngại.

Siêng tu các chánh hạnh: Là có khả năng gánh vác.

Kệ tụng:

Về sau nhờ chư Phật

Dòng pháp được dạy bảo

Tăng ích trí tịch tĩnh

Tiến đến thừa rộng lớn.

Giải thích:

Về sau nhờ chư Phật, dòng pháp được dạy bảo: Các Bồ tát từ đây về sau nhờ chư Phật Như lai lấy giáo pháp tu-đa-la v.v… vì họ giảng thuyết, như vì họ nói kinh Thập địa.

Tăng ích trí tịch tĩnh, tiến đến thừa rộng lớn: Các Bồ tát được chư Phật dạy bảo thì tăng ích trí xa-ma-tha, có thể tiến tu đối với Đại thừa rộng lớn.

Các Bồ tát được dạy bảo như vậy rồi, kế khởi sáu thứ tâm.

Kệ tụng:

Tưởng tên và hiểu câu

Suy nghĩa, nghĩa thật biết

Pháp chung và nghĩa cầu

Sáu tâm lần lượt khởi.

Giải thích:

Sáu tâm là: 1. Tâm căn bản; 2. Tâm tùy hành; 3. Tâm quán sát; 4. Tâm thật giải; 5. Tâm tổng tụ; 6. Tâm mong cầu.

Tưởng tên, là nói tâm căn bản: đầu tiên, đối với giáo pháp như tu-đa-la v.v… quán sát không có hai nghĩa, chỉ có liên tưởng về tập hợp của những cái tên.

Hiểu câu, là nói tâm tùy hành: sau đó, dõi theo các câu mà có sự xét đoán những sai biệt và thứ tự.

Suy nghĩa, là nói tâm quán sát: tiếp theo, tư duy chính xác về nghĩa bên trong của câu.

Nghĩa thật biết, là nói tâm thật giải: biết như thật về nghĩa đã được tư duy.

Pháp chung, là nói tâm tổng tụ: tập hợp các giáo pháp trên mà quán sát theo tổng tướng.

Nghĩa cầu, là nói tâm mong cầu: đối với nghĩa thú của giáo pháp thì mong cầu chứng đắc thật ý.

Như vậy khởi sáu thứ tâm rồi, kế khởi mười một thứ tác ý.

Kệ tụng:

Có cầu và có quán

Một vị, tuệ giác chỉ

Tuệ giác quán, hai cùng

Bật hôn trầm, đè trạo

Chánh trú và vô gián

Trong đó có tôn trọng

Đặt tâm tất cả duyên

Tác ý có mười một.

Giải thích:

Mười một thứ tác ý là:

1. Tác ý có giác có quán;

2. Tác ý không giác có quán;

3. Tác ý không giác không quán;

4. Tác ý xa-ma-tha;

5. Tác ý tỳ-bát-xá-na;

6. Tác ý hai tương ưng;

7. Tác ý khởi tướng;

8. Tác ý nhiếp tướng;

9. Tác ý xả tướng;

10. Tác ý hằng tu;

11. Tác ý cung kính.

Có cầu, là tác ý có giác có quán: tác ý này lấy ý ngôn tương tục để quán sát các pháp.

Có quán, là tác ý không giác có quán: tác ý này tuy đã rời nơi giác nhưng vẫn còn ý ngôn tương tục để quán sát các pháp.

Một mùi vị, là tác ý không giác không quán: tác ý này đã rời khỏi ý ngôn nhưng vẫn còn sự tương tục quán sát các pháp.

Tuệ giác chỉ, là tác ý xa-ma-tha: tác ý này chỉ duyên với cái tên của các pháp.

Tuệ giác quán, là tác ý tỳ-bát-xá-na: tác ý này chỉ duyên với cái nghĩa của các pháp.

Hai cùng, là tác ý hai tương ưng: tác ý này trong một lúc có thể duyên cả tên và nghĩa.

Bật hôn trầm, là tác ý khởi tướng: tác ý này là khi duyên với tên mà tâm hôn trầm thì nó có thể thúc giục tâm khởi động.

Đè trạo [cử], là tác ý nhiếp tướng: tác ý này là khi duyên với nghĩa mà tâm xao động thì nó có thể nắm giữ [không cho tâm xao động].

Chánh trú, là tác ý xả tướng: tác ý này là khi tâm ở trạng thái bình đẳng thì nó làm cho tâm an trú nơi hành xả.

Vô gián, là tác ý hằng tu: tác ý này có thể dựa vào chánh trú mà tu tập không có ngưng nghỉ, cách hở.

Tôn trọng, là tác ý cung kính: tác ý này là trong khi tu tập thì tôn trọng tên và nghĩa [của các pháp].

Như vậy, khởi mười một thứ tác ý rồi, kế lại nên tu tập chín thứ tâm trú.

Kệ tụng:

Buộc duyên và mau nhiếp

Trong thâu tóm, trú lạc

Điều phục chán, dứt loạn

Hoặc khởi diệt cũng vậy

Tâm sở tác tự lưu

Bấy giờ được vô tác

Bồ tát nên tu tập

Chín tâm trú như vậy.

Giải thích:

Chín thứ tâm trú là: 1. Tâm trú yên lặng; 2. Tâm trú nắm giữ; 3. Tâm trú biết rõ; 4. Tâm trú chuyển lạc; 5. Tâm trú điều phục; 6. Tâm trú ngưng dứt; 7. Tâm trú diệt trừ; 8. Tâm trú tự tánh; 9. Tâm trú tổng trì.

Chín thứ tâm trú này là phương tiện dạy bảo cần nên biết.

Buộc duyên, là tâm trú yên lặng: tâm yên lặng nhưng không cho rời đối tượng của tâm duyên.

Mau nhiếp, là tâm trú nắm giữ: khi tâm đặt trên đối tượng mà có sự tán loạn thì mau chóng nắm giữ trở lại.

Trong thâu tóm, là tâm trú biết rõ: khi tâm đặt trên đối tượng mà có sự rong ruỗi ra bên ngoài thì liền biết rõ mà thâu tóm đưa vào trong.

Trú lạc, là tâm trú chuyển lạc: thấy công đức đi đến chánh định, [hoan hỷ nơi chánh định,] nên tâm chuyển trú lạc.

Điều phục chán nản, là tâm trú điều phục: khi tâm không có trú lạc thì cần phải chiết phục.

Dứt loạn, là tâm trú ngưng dứt: thấy lầm lỗi của sự tán loạn thì liền ngưng dứt.

Hoặc khởi diệt cũng vậy, là tâm trú diệt trừ: khi niệm tham ái, ưu não v.v… khởi lên thì liền diệt trừ [không cho tăng trưởng].

Tâm sở tác tự lưu [chuyển], là tâm trú tự tánh: [khi đã dứt các vọng niệm thì biết tâm tánh xưa nay vắng lặng] dòng tâm thức nhậm vận an trú tự tánh. Bấy giờ được vô tác, là tâm trú tổng trì: không do tác ý mà được tổng trì.

Tu tập như vậy được tâm trú rồi, kế cho tâm ấy được sự nhu nhuyến tối thượng.

Kệ tụng:

Hạ tu ỷ khiến tiến

Vì tiến tập bản định

Tịnh thiền làm thần thông

Sẽ thành thắng nhuyến tâm.

Giải thích:

Hạ tu ỷ [tức] khiến tiến, vì tiến tập bản định: Nên biết, khi Bồ tát được tâm trú là đã được cái định hạ phẩm làm cho thân khinh an và tâm khinh an. Vì tăng tiến sự khinh an này phải tu thêm thiền định căn bản.

Hỏi: Tu thêm thiền định căn bản để được công đức gì?

Đáp: Tịnh thiền làm thần thông, sẽ thành thắng nhuyến tâm: Các Bồ tát vì khởi các thần thông, vì muốn thành tựu tâm nhu nhuyến tối thắng nên tinh tiến tu tập thiền định căn bản.

Hỏi: Khởi các thần thông để muốn làm gì? Được tâm nhu nhuyến tối thắng để thành tựu việc gì?

Kệ tụng:

Khởi thông dạo các cõi

Phụng sự các Thế tôn

Được nhuyến tâm tối thượng

Để cúng dường chư Phật.

Giải thích:

Khởi thông dạo các cõi, phụng sự các Thế tôn: Các Bồ tát muốn đi đến vô lượng thế giới, muốn trải qua vô lượng kiếp số, muốn gặp gỡ vô lượng chư Phật, muốn phụng sự, cúng dường và nghe chánh pháp, vì những việc này mà khởi các thần thông.

Hỏi: Làm sao làm được những việc này?

Đáp: Được nhuyến tâm tối thượng, để cúng dường chư Phật: Các Bồ tát lấy sự cúng dường chư Phật làm nhân tố để thành tựu tâm nhu nhuyến tối thắng. Được tâm nhu nhuyến tối thắng rồi, các Bồ tát liền được chư Phật khen ngợi.

Kệ tụng:

Trước chưa nhập tịnh tâm

Được năm thứ khen ngợi

Khí thể thành thanh tịnh

Kham tiến thừa vô thượng.

Giải thích:

Trước chưa nhập tịnh tâm, được năm thứ khen ngợi: Trước khi đi vào địa vị tịnh tâm, các Bồ tát này đã được chư Như lai khen ngợi năm thứ công đức.

Hỏi: Sự khen ngợi này đối với các Bồ tát có lợi ích gì?

Đáp: Khí thể thành thanh tịnh, kham tiến thừa vô thượng: Các Bồ tát được chư Như lai khen ngợi rồi liền thành tựu khí thể thanh tịnh, có thể gánh vác, đi vào thừa tối thượng.

Hỏi: Chư Như lai khen ngợi các Bồ tát qua năm công đức gì?

Kệ tụng:

Niệm niệm tiêu các tập

Thân khinh an, tâm an

Tròn sáng và thấy tướng

Mãn tịnh các pháp thân.

Giải thích:

Năm thứ công đức là: 1. Tiêu dung tập khí; 2. Thân khinh an; 3. Tâm khinh an; 4. Tròn sáng; 5. Thấy tướng.

Tiêu dung tập khí, là trong mỗi ý nghĩ tiêu dung tất cả tập khí tích chứa.

Thân khinh an, là tu tập định làm cho khinh an khắp đầy thân.

Tâm khinh an, là tu tập định làm cho khinh an khắp đầy tâm.

Tròn sáng, là hiểu trọn vẹn nhất thiết chủng không, rời nhiễm trước.

Thấy tướng, là thấy vô phân biệt tướng, làm nhân tố thanh tịnh [cho những địa] về sau.

Mãn tịnh các pháp thân, là Bồ tát thường tu năm công đức như vậy để viên mãn và thanh tịnh tất cả sắc thái của pháp thân.

Hỏi: Khi nào viên mãn, khi nào thanh tịnh?

Đáp: Ở địa thứ mười thì viên mãn, ở Phật địa thì thanh tịnh. Ở đây nên biết, trong năm thứ công đức, ba công đức đầu thuộc phần chỉ, hai công đức sau thuộc phần quán. Đến được giai đoạn này, Bồ tát chứng đắc đầy đủ pháp thế gian.

Như vậy các Bồ tát được sự khen ngợi rồi, kế khởi thiện căn phần thông đạt.

Kệ tụng:

Bấy giờ Bồ tát này

Tuần tự được định tâm

Do chỉ thấy ý ngôn

Không thấy tất cả nghĩa.

Giải thích:

Bồ tát này đầu tiên được định tâm, loại bỏ ý ngôn, không thấy tất cả các nghĩa của tự tướng và tổng tướng, chỉ thấy ý ngôn. Cái thấy này là cái thấy của Bồ tát ở noãn vị. Địa vị này gọi là ánh sáng. Như trong kinh Sông tro, đức Phật nói về ánh sáng rằng, thấy một chút ánh sáng ẩn hiện là được pháp nhẫn.

Kệ tụng:

Vì tăng trưởng pháp minh

Phát tinh tiến kiên cố

Pháp minh tăng trưởng rồi

Thông đạt trú duy tâm.

Giải thích:

Ở đây, Bồ tát vì tăng trưởng pháp minh nên phát khởi sự tinh tiến kiên cố, trú nơi pháp minh ấy để thông đạt duy tâm. Sự thông đạt này gọi là Bồ tát an trú đảnh vị.

Kệ tụng:

Các nghĩa đều là quang

Bởi vì thấy duy tâm

Đoạn được sở chấp loạn

Đó là trú nơi nhẫn.

Giải thích:

Ở đây, Bồ tát thấy các nghĩa đều là tâm quang, chẳng phải ngoài tâm quang riêng có cái thấy khác. Bấy giờ Bồ tát diệt được sự thác loạn của sở chấp. Đây là cái thấy của Bồ tát ở nhẫn vị.

Kệ tụng:

Tuy đoạn sở chấp loạn

Nhưng vẫn còn năng chấp

Đoạn đây thì mau chứng

Cái định không cách hở.

Giải thích:

Ở đây, Bồ tát do đoạn được sự thác loạn của năng chấp nên mau chứng định không cách hở.

Hỏi: Vì nghĩa gì mà định này được gọi là không cách hở?

Đáp: Khi sự thác loạn của năng chấp đoạn diệt, bấy giờ Bồ tát nhập vào định không cách hở, cho nên có cái tên này. Sự nhập vào định không cách hở này chính là Bồ tát trú thế gian đệ nhất pháp vị.

Theo thứ tự của thuận quyết trạch phần, đã nói các giai vị là noãn, đảnh, nhẫn và thế gian đệ nhất pháp, kế nói sự sanh khởi của kiến đạo.

Kệ tụng:

Rời xa hai chấp kia

Xuất thế gian vô thượng

Vô phân biệt, ly cấu

Trí này, thời này được.

Giải thích:

Rời xa hai chấp kia: Là sở chấp và năng chấp không hòa hợp.

Xuất thế gian vô thượng: Là được thừa vô thượng.

Vô phân biệt, là sự phân biệt của hai chấp kia không còn.

Ly cấu, là những phiền não được đoạn trừ ở giai đoạn kiến đạo; bấy giờ, Bồ tát xa trần rời cấu, được pháp nhãn tịnh.

Kệ tụng:

Đây chính là chuyển y

Vì đã được sơ địa

Sau trải vô lượng kiếp

Y tịnh mới viên mãn.

Giải thích:

Đây chính là chuyển y, vì đã được sơ địa: Được ly cấu tức là vào địa vị chuyển y của Bồ tát. Vì sao? Được vào địa đầu tiên vậy.

Hỏi: Y tịnh là sao?

Đáp: Sau trải vô lượng kiếp, y tịnh mới viên mãn: Không phải ở địa đầu tiên mà có được sự thanh tịnh cùng cực, sau đó phải trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp thì sự chuyển y này mới được thanh tịnh viên mãn.

Kệ tụng:

Bấy giờ thông pháp giới

Tâm bình đẳng mình người

Bình đẳng có năm thứ

Năm không có sai biệt.

Giải thích:

Bấy giờ thông pháp giới, tâm bình đẳng mình người: Bồ tát ở địa đầu tiên có được sự thông đạt về pháp giới bình đẳng. Do sự thông đạt này, Bồ tát có thể quán thân người tức là thân mình, cũng được tâm bình đẳng.

Hỏi: Bấy giờ Bồ tát có được mấy thứ tâm bình đẳng?

Đáp: Bình đẳng có năm thứ, năm không có sai biệt: Những gì là năm?

1. Bình đẳng vô ngã: nơi sự tương tục của mình và người, không thấy có ngã, không có sai biệt;

2. Bình đẳng có khổ: nơi sự tương tục của mình và người đều có tự tánh khổ, không có sai biệt;

3. Bình đẳng việc làm: nơi sự tương tục của mình và người, muốn làm việc đoạn khổ, không có sai biệt;

4. Bình đẳng không cầu: nơi việc làm của mình và người, không cầu báo đáp, không có sai biệt;

5. Bình đẳng cùng được: như Bồ tát khác đã được như thế, tôi cũng sẽ được như thế, không có sai biệt.

Kệ tụng:

Các hành hư phân biệt

Tịnh trí biết không hai

Giải thoát kiến hoặc diệt

Như vậy nói kiến đạo.

Giải thích:

Các hành hư phân biệt, tịnh trí biết không hai: Ở đây, Bồ tát đối với các hành của ba cõi chỉ thấy là sự phân biệt không chân thật, do đó Bồ tát dùng trí cực tịnh thấu hiểu các hành không có hai.

Tịnh trí, là trí xuất thế gian, [không có phân biệt].

Không hai, là không có hai chấp. Thể tánh không hai của các hành chính là pháp giới.

Giải thoát kiến hoặc diệt, như vậy nói kiến đạo: Giải thoát kiến đạo là đã diệt trừ phiền não. [Ngộ nhập] pháp giới chính là giải thoát. Khi giải thoát mọi kiến hoặc, diệt trừ mọi phiền não thì gọi là vị Bồ tát bước vào địa vị kiến đạo.

Kệ tụng:

Vô thể, tương tự thể

Tự tánh thành ba không

Hiểu được ba không đây

Gọi đó là biết không.

Giải thích:

Ba không là:

1. Vô thể không, là tánh phân biệt, vì sắc thái của nó là không có thật thể;

2. Tương tự thể không, là tánh y tha, vì sắc thái của nó giống như sự vô thể của tánh phân biệt;

3. Tự tánh không, là tánh chân thật, vì lấy tự thể không làm tự tánh.

Kệ tụng này hiển thị sự chứng đắc không giải thoát môn của Bồ tát.

Kệ tụng:

Nên biết duyên vô tướng

Diệt hết các phân biệt

Ở đây duyên vô nguyện

Bất chân phân biệt hết.

Giải thích:

Hai câu kệ trước hiển thị sự chứng đắc vô tướng giải thoát môn. Hai câu kệ sau hiển thị sự chứng đắc vô nguyện giải thoát môn. Ở đây nên biết, Bồ tát đã chứng đắc đầy đủ ba giải thoát môn.

Kệ tụng:

Bấy giờ pháp sở đắc

Tất cả bồ-đề phần

Nên biết Bồ tát kia

Cùng được khi kiến đạo.

Giải thích:

Tất cả bồ-đề phần, là bốn niệm xứ v.v… Bồ tát kia khi được kiến đạo cũng được tất cả bồ-đề phần này.

Kệ tụng:

Hiểu đời chỉ các hành

Vô ngã chỉ khổ trước

Tự ngã không nghĩa diệt

Đại nghĩa dựa đại ngã.

Giải thích:

Hiểu đời chỉ các hành, vô ngã chỉ khổ trước: Bồ tát này thấu hiểu các pháp thế gian chỉ là các hành, thật sự không có ngã. Chúng sanh phân biệt, dính mắc các pháp nên chỉ có chuốc khổ.

Tự ngã không nghĩa diệt: Là thân kiến nhiễm ô đã diệt.

Đại nghĩa, là làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Đại ngã, là xem tất cả chúng sanh như bản thân mình; ở đây Bồ tát diệt được cái thấy tự ngã. Dựa vào cái thấy đại ngã mà làm việc lợi ích cho chúng sanh, gọi là đại nghĩa dựa đại ngã.

Kệ tụng:

Vô ngã và ngã kiến

Không khổ và cực khổ

Lợi người không cầu báo

Như làm lợi chính mình.

Giải thích:

Vô ngã, là không thấy có tự thân, không có cái thấy tự ngã, không có ý niệm làm lợi ích chúng sanh.

Ngã kiến, là thấy có tha thân, có cái thấy tự ngã, có ý niệm làm lợi ích chúng sanh.

Không khổ, là không có tự thân sanh khởi các khổ.

Cực khổ, là có tha thân sanh khởi các khổ.

Lợi người không cầu báo, là không có tâm mong cầu. Vì sao? Vì đó là lợi chính mình. Khi Bồ tát làm lợi cho chúng sanh tức là làm lợi cho chính mình, cho nên Bồ tát không mong cầu bên ngoài.

Kệ tụng:

Tâm tự thoát tối thượng

Buộc người thì chắc lâu

Biên tế khổ không cùng

Như vậy phải siêng làm.

Giải thích:

Tâm tự thoát, là Bồ tát dứt sạch kiến đạo sở đoạn phiền não của mình.

Tối thượng, là sự giải thoát này do thừa vô thượng mang lại.

Buộc người thì chắc lâu, là tất cả chúng sanh đều tương tục sanh khởi phiền não [nên bị trói buộc cứng chắc và dài lâu].

Biên tế khổ không cùng, là chúng sanh giới thì vô biên như hư không.

Như vậy phải siêng làm, là chúng sanh chịu các khổ như thế, Bồ tát phải giúp chúng sanh đoạn khổ, làm đến tận cùng, làm rồi lại làm, không chịu ngưng nghỉ.

Kệ tụng:

Mình khổ không nhận chịu

Huống chịu thay khổ người

Đời này đến cùng sanh

Ngược chúng là Bồ tát.

Giải thích:

Chúng sanh trong một đời sống có nhiều sự khổ, huống chi đến tận cùng bờ mé sanh tử có những sự khổ không thể nghĩ bàn, không thể nhận chịu.

Ngược với sự không nhận chịu khổ của chúng sanh, Bồ tát có thể vì chúng sanh mà chịu thay khổ não, nên nói ngược chúng là Bồ tát.

Kệ tụng:

Với người hành đẳng ái

Lợi người không thoái chuyển

Hy hữu, không hy hữu

Lợi người là lợi mình.

Giải thích:

Với người hành đẳng ái, lợi người không thoái chuyển: Bồ tát đối với tất cả chúng sanh thực hành tâm yêu thương bình đẳng, không có sai biệt. Hoặc cầu an vui lợi ích, hoặc hành an vui lợi ích, Bồ tát khi cầu và hành bằng cái tâm mang lại lợi ích, không có thoái chuyển.

Hy hữu, không hy hữu, lợi người là lợi mình: Sự không thoái chuyển cái tâm mang lại lợi ích của Bồ tát là cao tột trong mọi sự hy hữu ở thế gian. Tuy nhiên, sự hy hữu này cũng chẳng phải hy hữu. Vì sao? Vì khi Bồ tát làm cho người được lợi ích thì cũng chính là bản thân Bồ tát được lợi ích.

Kệ tụng:

Địa khác nói tu đạo

Hai trí siêng tu tập

Vô phân biệt, kiến lập

Tịnh pháp và chúng sanh.

Giải thích:

Địa khác, là chín địa về sau.

Hỏi: Ở các địa khác, Bồ tát tu tập gì?

Đáp: Hai trí siêng tu tập: Hai trí là: 1. Trí vô phân biệt; 2. Trí như sở kiến lập. Trí vô phân biệt là trí xuất thế. Trí như sở kiến lập là trí hậu đắc thế.

Hỏi: Hai trí này có công năng gì?

Đáp: Tịnh pháp và chúng sanh: Ở đây, trí vô phân biệt có công năng hoàn thành các pháp của Phật và trí như sở kiến lập có công năng thành thục chúng sanh.

Kệ tụng:

Tu vị hai tăng kỳ

Sau rốt được thọ chức

Nhập Kim cương định kia

Phá hết các phân biệt.

Giải thích:

Tu vị hai tăng kỳ, sau rốt được thọ chức: Hai tăng-kỳ là a-tăng-kỳ đại kiếp thứ hai và a-tăng-kỳ đại kiếp thứ ba. Sau rốt, là hoàn thành tu tập vị. Bồ tát ở tu tập vị mới được thọ chức.

Hỏi: Bồ tát thọ chức rồi còn phải làm gì?

Đáp: Nhập Kim cương định kia, phá hết các phân biệt.

Hỏi: Do nghĩa gì mà gọi là Kim cương định?

Đáp: Định này có thể phá hủy các phân biệt tùy miên, vì vậy gọi là Kim cương dụ định.

Kệ tụng:

Chuyển y cứu cánh tịnh

Thành tựu nhất thiết chủng

Trú đây làm các việc

Chỉ vì lợi chúng sanh.

Giải thích:

Chuyển y cứu cánh tịnh, là diệt trừ vĩnh viễn phiền não chướng và sở tri chướng [cùng cực vi tế].

Thành tựu nhất thiết chủng, là hoạch đắc nhất thiết chủng trí, do không còn trí nào hơn nữa.

Trú đây làm các việc, là trú ở địa vị [chuyển y] này cho đến cùng tận biên cương sanh tử của chúng sanh mà thị hiện thành đạo và thị hiện niết-bàn.

Hỏi: Các việc này để làm gì?

Đáp: Chỉ vì lợi chúng sanh: những việc làm đó chỉ có mục đích duy nhất là làm lợi ích yên vui cho tất cả chúng sanh.

Từ đây về sau nói rõ, do sự dạy bảo lớn lao mà được sự nghĩa lợi lớn lao.

Kệ tụng:

Đức Mâu Ni khó gặp

Gặp được biết nghĩa lớn

Nhờ nghe pháp vô đẳng

Tịnh tín nuôi dưỡng tâm.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rằng, Bồ tát do sự dạy bảo lớn lao mà thường được hiện tiền gặp Phật, thường được nghe chánh pháp không gì sánh bằng, thường khởi tịnh tín cực kỳ sâu xa khắp đầy nơi tâm. Đây là nói giai đoạn đầu tiên được nghĩa lợi lớn lao.

Kệ tụng:

Ở trong sự dạy bảo

Muốn an trú pháp môn

Như người vượt hiểm nạn

Phật khuyến khích cũng vậy.

Giải thích:

Ở trong sự dạy bảo, muốn an trú pháp môn: Các Bồ tát muốn an trú trong pháp môn thì thường thọ nhận sự dạy bảo của Như lai.

Như người vượt hiểm nạn, Phật khuyến khích cũng vậy: Thí như có người rơi vào hầm sâu, được người giúp túm tóc kéo lên bờ cao. Sự khuyến khích của Phật cũng vậy, nếu có Bồ tát ưa thích an trú hầm sâu tịch diệt, chư Phật Như lai tận lực đặt vị ấy lên bờ cao là quả vị Phật-đà. Đây là nói giai đoạn tiếp theo được nghĩa lợi lớn lao.

Kệ tụng:

Thế gian cực tịnh nhãn

Thắng giác vô phân biệt

Thí như mặt trời mọc

Trừ tối, sáng thế gian.

Giải thích:

Khi các Bồ tát thành Phật thì vĩnh viễn trừ sạch tất cả pháp thế gian, được tri kiến cực kỳ thanh tịnh. Bấy giờ Bồ tát được tuệ giác thù thắng, vô phân biệt. Thí như mặt trời lớn mọc lên, có thể trừ bóng tối, chiếu sáng thế gian. Đây là nói giai đoạn hoàn thành được nghĩa lợi lớn lao.

Đã nói rộng như vậy rồi, sau đây là kệ tụng tổng kết những nghĩa trước.

Kệ tụng:

Phật tử khéo tập đầy

Thành tựu định cực rộng

Thường nhận Phật giáo huấn

Biển công đức cùng cực.

Giải thích:

Kệ tụng này, nghĩa đã hiển thị trong văn.

Phẩm Giáo Thọ trọn vẹn

    Xem thêm:

  • Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội - Luận Tạng
  • Luận Tịnh Độ Thập Nghi - Luận Tạng
  • Thích Tịnh Độ Quần Nghi Luận - Luận Tạng
  • Luận Câu Xá – Phẩm 4: Phân Biệt Nghiệp - Luận Tạng
  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Ba Mươi Bài Luận Tụng Duy Thức - Luận Tạng
  • Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Trăm Pháp Minh Môn - Luận Tạng
  • Luận Hai Mươi Kệ Tụng Duy Thức - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Giảng Rộng Ý Nghĩa Năm Uẩn Theo Giáo Pháp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Câu Xá – Phẩm 3: Phân Biệt Thế Gian - Luận Tạng
  • Luận Nhập Đại Thừa - Luận Tạng
  • Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Luận Tạng
  • Đại Thừa Tuyệt Đối Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng