1
2
3
4
5

Phẩm Mười Sáu: NGHIỆP BẠN

Giải thích:

Đã nói sự dạy bảo lớn lao của Như lai. Nay sẽ nói đến việc Bồ tát phát khởi các nghiệp lấy phương tiện làm bạn.

Kệ tụng:

Thí như đại địa chủng

Nhậm trì bốn thứ vật

Cũng vậy ba loại nghiệp

Thiết lập tất cả thiện.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị nghiệp phương tiện tập khởi của Bồ tát.

Thí như đại địa chủng, nhậm trì bốn thứ vật: Bốn vật là gì? Đó là: 1. Biển cả; 2. Núi non; 3. Cây cối; 4. Chúng sanh.

Như vậy ba loại nghiệp, thiết lập tất cả thiện: Bốn vật là biển cả, v.v… được thí dụ cho tất cả thiện pháp. Cũng vậy, ba nghiệp của Bồ tát có thể dồn chứa tất cả thiện pháp, đó là các ba-la-mật: thí, v.v…, và tất cả pháp bồ-đề phần.

Kệ tụng:

Làm được nghiệp khó làm

Ứng hình vô lượng kiếp

Tự tánh thân, khẩu, tâm

Cứu người không thoái chuyển.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị nghiệp phương tiện cứu người của Bồ tát.

Làm được nghiệp khó làm, ứng hình vô số kiếp: Thế nào là nghiệp khó làm? Chúng sanh muốn có được sự xuất ly của Tiểu thừa, Bồ tát đối với chúng sanh đó sanh nỗi đau cùng cực, muốn chúng sanh đó chuyển đổi cái tâm thừa khác, nên biến ra chủng loại thân hình, trong vô lượng thế giới, qua vô lượng kiếp số, nhận chịu lâu dài các cần khổ để làm những nghiệp khó làm.

Tự tánh thân, khẩu, tâm, cứu người không thoái chuyển: Bồ tát vì muốn cứu giúp chúng sanh mà nhận chịu lâu dài các cần khổ để làm những nghiệp khó làm ở khắp mọi nơi, nhưng tự tánh của ba nghiệp thì không khi nào lùi bước và khuất phục.

Kệ tụng:

Như người sợ bốn hại

Phòng xa vì bản thân

Bồ tát sợ hai thừa

Hộ nghiệp cũng như vậy.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị nghiệp phương tiện tự hộ của Bồ tát.

Như người sợ bốn hại, phòng xa vì bản thân: Bốn hại là gì? Đó là: 1. Vật chất độc hại; 2. Binh khí, gậy gộc; 3. Thức ăn hư xấu; 4. Kẻ thù oán. Sự phòng xa [bốn thứ hại như vậy] là để lợi ích bản thân.

Bồ tát sợ hai thừa, hộ nghiệp cũng như vậy: Bốn thứ hại trên được ví như các nghiệp phương tiện của người tu nhị thừa. Bồ tát sợ hãi điều đó nên tự phòng hộ chắc chắn, không cho sanh khởi cái tâm xu hướng nhị thừa. Vì sao? Vì Bồ tát lo điều đó làm đoạn đứt chủng tử Đại thừa, tức thiện căn Đại thừa chưa sanh khởi khiến không sanh khởi, thiện căn đã sanh khởi khiến bị tiêu diệt, và tạo thành chướng ngại đối với quả vị Phật-đà.

Kệ tụng:

Người làm, nghiệp, việc làm

Ba luân không phân biệt

Đến bờ biển tịnh nghiệp

Công đức không ngằn mé.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị nghiệp phương tiện thanh tịnh của Bồ tát.

Người làm, nghiệp, việc làm, ba luân không phân biệt: Ba luân là gì? Đó là: 1. Người làm; 2. Nghiệp; 3. Việc làm.

Không phân biệt, nghĩa là ba luân này không thể thủ đắc. Do không thủ đắc nên ba luân thanh tịnh. Ba luân thanh tịnh nên nghiệp thanh tịnh.

Đến bờ biển tịnh nghiệp, công đức không ngằn mé: Đến được bờ bến của nghiệp thanh tịnh thì công đức cũng vô biên, không cùng tận.

Phẩm Nghiệp Bạn trọn vẹn

Phẩm Mười Bảy: ĐỘ NHIẾP (Phần 1)

Giải thích:

Đã nói sự tập khởi nghiệp phương tiện của Bồ tát, nay sẽ nói sự dồn chứa các ba-la-mật. Ở đây, trước nói kệ ưu-đà-na:

Kệ tụng:

Số, tướng, thứ tự, danh

Tu tập, sai biệt, nhiếp

Trị chướng, đức, hỗ tương

Mười nghĩa của các độ.

Giải thích:

Ở đây, sáu ba-la-mật có mười nghĩa cần biết: 1. Số mục; 2. Sắc thái; 3. Thứ tự; 4. Danh từ; 5. Tu tập; 6. Sai biệt; 7. Nhiếp hạnh; 8. Trị chướng; 9. Công đức; 10. Hỗ tương.

Ở đây, có sáu kệ tụng nói lý do chế lập ba-la-mật chỉ có sáu số mục.

Kệ tụng:

Của cải, thân, quyến thuộc

Phát khởi, bốn độ thành

Định độ: hoặc không nhiễm

Tuệ độ: nghiệp không đảo.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị ba sự lợi mình, đó là lý do lập số mục ba-la-mật chỉ có sáu: 1. Tăng tiến; 2. Không nhiễm ô; 3. Không điên đảo.

Bốn ba-la-mật trước, theo thứ tự, có thể làm cho bốn sự tăng tiến:

1. Phương tiện sinh sống thành tựu, nhờ bố thí;

2. Bản thân thành tựu, nhờ trì giới;

3. Quyến thuộc thành tựu, nhờ nhẫn nhục, vì người tu hạnh nhẫn nhục được nhiều người yêu mến;

4. Phát khởi thành tựu, nhờ tinh tiến, vì tất cả sự nghiệp do tinh tiến mà thành tựu.

Thứ năm, thiền định ba-la-mật thì phiền não không làm nhiễm ô, vì năng lực thiền định chiết phục được phiền não.

Thứ sáu, Bát-nhã ba-la-mật thì nghiệp không làm điên đảo, vì như thật tri tất cả việc làm.

Kệ tụng:

Thí cho người, không não

Nhẫn não là lợi người

Có nhân tố, tâm trú

Giải thoát là lợi mình.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị sáu sự lợi mình và lợi người, đó là lý do lập số mục ba-la-mật chỉ có sáu.

Đầu tiên, vì nhiếp ba sự lợi người mà lập ba ba-la-mật trước để khởi chánh cần, theo thứ tự: 1. Bố thí cho người; 2. Không sanh phiền não; 3. Nhẫn chịu sự xúc não của người.

Sau đó, vì nhiếp ba sự lợi mình mà phải lập ba ba-la-mật sau để khởi chánh cần, theo thứ tự:

1. Có nhân tố, vì dựa vào tinh tiến [làm nhân tố tu tập];

2. Tâm an trú, vì tâm bất định làm cho an định;

3. Giải thoát, vì tâm đã an định đưa đến giải thoát.

Kệ tụng:

Không thiếu, không não hại

Nhẫn chịu não, không thoái

Quy hướng và khéo nói

Lợi người được thành tựu.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị sáu sự lợi người, đó là lý do lập số mục ba-la-mật chỉ có sáu.

Bồ tát khi tu hành sáu ba-la-mật, theo thứ tự, thí ba-la-mật là làm cho sự thọ dụng của người không thiếu thốn, giới ba-la-mật là không não hại người, nhẫn ba-la-mật là nhịn chịu người não hại, tiến ba-la-mật là tán trợ việc người làm không cho thoái lui, định ba-la-mật là dùng thần thông lực làm cho người quy hướng, Bát-nhã ba-la-mật là thuyết pháp khéo léo để đoạn trừ nghi ngờ của người. Bồ tát làm việc lợi người như vậy tức là lợi mình, vì làm cho người chính là làm cho mình, do nhân duyên này được đại bồ-đề.

Kệ tụng:

Không nhiễm và tôn kính

Không thoái có hai thứ

Cả hai không phân biệt

Đủ nhiếp nhân Đại thừa.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị bốn nhân tố Đại thừa, đó là lý do lập số mục ba-la-mật chỉ có sáu: 1. Không dính mắc; 2. Tôn kính; 3. Không thoái lui; 4. Không phân biệt.

Bồ tát khi tu hành bố thí thì không nhiễm đắm, không luyến thích tiền của; khi thọ trì giới thì sanh tâm tôn kính các học xứ; khi hành nhẫn nhục và tinh tiến thì có hai sự không thoái lui: không thoái lui vì nhẫn chịu được những đau khổ do chúng sanh và phi chúng sanh gây ra và không thoái lui vì tinh tiến trường kỳ tu tập thiện pháp; khi hành thiền định và trí tuệ thì đều có sự không phân biệt: không phân biệt vì tâm bình đẳng nhiếp lấy đối tượng của sự tu chỉ và tu quán.

Bốn nhân tố như vậy nhiếp hết tất cả nhân tố Đại thừa.

Kệ tụng:

Không đắm và không loạn

Không xả và tăng tiến

Tịnh hoặc và trí chướng

Con đường đều nhiếp hết.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị sáu con đường Đại thừa, đó là lý do lập số mục ba-la-mật chỉ có sáu.

Hỏi: Con đường là nghĩa gì?

Đáp: Có phương tiện là con đường.

Ở đây, con đường của bố thí ba-la-mật là đối với của cải thì không tham đắm, vì khi bố thí rời xa sự nhiễm đắm với trần cảnh.

Con đường của trì giới ba-la-mật là đối với các cảnh giới thì không có tán loạn: vì khi cầu thọ giới, tất cả tâm tán loạn được thu nhiếp cho an trú; và vị tỳ-kheo an trú trong sự phòng hộ [của giới] thì khi cầu cảnh giới, tất cả nghiệp tán loạn không thể lay chuyển.

Con đường của nhẫn nhục ba-la-mật là đối với các chúng sanh thì không buông bỏ, vì không chán nản trước những việc làm không lợi ích của chúng sanh.

Con đường của tinh tiến ba-la-mật là đối với sự tu tập các thiện pháp thì được tăng trưởng, vì tinh tiến phát khởi thì làm cho tăng thượng (thiện pháp).

Con đường của thiền định ba-la-mật là chuyển phiền não chướng thành thanh tịnh.

Con đường của trí tuệ ba-la-mật là chuyển trí tuệ chướng thành thanh tịnh.

Sáu con đường như vậy nhiếp hết thảy con đường Đại thừa.

Kệ tụng:

Nhiếp ba học tăng thượng

Nói độ có sáu thứ

Thí, giới, nhẫn: giới học

Định, tuệ: hai, tiến: ba.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị ba học tăng thượng, đó là lý do lập số mục ba-la-mật chỉ có sáu.

Ở đây, lập ba ba-la-mật đầu tiên là nhiếp vào giới học tăng thượng. Giới tăng thượng có hai thứ là tụ và quyến thuộc. Trì giới là tụ. Bố thí và nhẫn nhục là quyến thuộc. Vì sao? Bố thí là không hối tiếc của cải khi cầu thọ giới. Nhẫn nhục là không chống trả sự đánh mắng khi hộ trì giới.

Ở đây, lập hai ba-la-mật sau cùng, theo thứ tự, là nhiếp vào tâm học tăng thượng và tuệ học tăng thượng.

Ở đây, lập tinh tiến ba-la-mật thứ tư là nhiếp đủ ba học tăng thượng, vì mọi sự trong ba học đều lấy tinh tiến làm trợ bạn.

Đã nói số mục của ba-la-mật, kế nói sắc thái của ba-la-mật.

Kệ tụng:

Phân biệt thể sáu độ

Mỗi một có bốn tướng

Trị chướng, thích ứng trí

Mãn nguyện và thành sanh.

Giải thích:

Các Bồ tát tu các ba-la-mật, mỗi ba-la-mật đều có bốn sắc thái: 1. Đối trị chướng ngại; 2. Thích ứng trí vô phân biệt; 3. Mãn nguyện; 4. Thành thục chúng sanh.

Đối trị chướng ngại: Sáu hạnh: bố thí v.v…, theo thứ tự, đối trị tham lam, phá giới, sân hận, biếng nhác, loạn tâm, ngu si.

Thích ứng trí vô phân biệt: Tất cả ba-la-mật đồng hành với trí vô phân biệt do thông đạt pháp vô ngã.

Mãn nguyện: Bố thí là cung cấp tiền của cho người cầu xin, theo ý muốn của họ. Trì giới là giáo huấn sự hộ trì thân miệng ý cho người cầu giới, theo ý muốn của họ. Nhẫn nhục là ban sự hoan hỷ cho người hối lỗi. Tinh tiến là trợ giúp người tác nghiệp, theo ý muốn của họ. Thiền định là truyền trao giáo pháp cho người học định, theo ý muốn của họ. Trí tuệ là quyết đoán [nghĩa lý] cho người nghi ngờ, theo ý muốn của họ.

Thành thục chúng sanh: Trước lấy bố thí để nhiếp hóa chúng sanh, sau dùng giáo pháp ba thừa, theo căn cơ thích ứng mà thành thục họ. Cũng vậy, trước an lập chúng sanh vào trong giới v.v…, sau dùng giáo pháp ba thừa, theo căn cơ thích ứng mà thành thục họ.

Đã nói của ba-la-mật, kế nói thứ tự của sáu ba-la-mật.

Kệ tụng:

Trước sau và dưới trên

Thô tế thứ tự khởi

Như vậy nói sáu độ

Không loạn có ba nhân.

Giải thích:

Sáu ba-la-mật thứ tự có ba nhân duyên: 1. Trước sau; 2. Dưới trên; 3. Thô tế.

Trước sau: Dựa vào ba-la-mật trước mà ba-la-mật sau sanh khởi. Vì sao? Vì không luyến tiếc tài sản thì có thể thọ trì giới, hành trì giới thì có thể khởi nhẫn nhục, nhẫn nhục thì có thể khởi tinh tiến, tinh tiến thì có thể khởi thiền định, thiền định thì có thể biết các pháp đúng với chân thật.

Dưới trên: Ba-la-mật trước là dưới và ba-la-mật sau là trên. Dưới là bố thí, trên là trì giới, cho đến, dưới là thiền định, trên là trí tuệ.

Thô tế: Ba-la-mật trước là thô và ba-la-mật sau là tế. Thô là bố thí, tế là trì giới, cho đến, thô là thiền định, tế là trí tuệ. Vì sao thô dễ vào? Vì dễ thực hành. Vì sao tế khó vào? Vì khó thực hành.

Đã nói thứ tự của sáu ba-la-mật, kế giải thích danh từ của sáu ba-la-mật.

Kệ tụng:

Trừ nghèo, được mát mẻ

Phá sân, xây điều thiện

Tâm nhiếp, ngộ pháp chân

Là nói nghĩa sáu hạnh.

Giải thích:

Năng lực trừ bỏ sự nghèo cùng gọi là thí.

Năng lực làm cho mát mẻ gọi là trì giới, vì người cụ túc giới luật thì ở trong mọi trạng thái cảnh giới có thể hủy diệt phiền não thiêu đốt.

Năng lực phá bỏ sân hận gọi là nhẫn nhục, vì nhẫn nhục có năng lực phá hết sân hận.

Năng lực thiết lập thiện pháp gọi là tinh tiến, vì sự thiết lập thiện pháp đều nhờ sức tinh tiến.

Năng lực nắm giữ tâm ý gọi là thiền định, vì thiền định là thu nhiếp nắm giữ nội tâm.

Năng lực biết các pháp đúng với chân thật gọi là trí tuệ, vì trí tuệ là biết rõ đệ nhất nghĩa đế.

Đã giải thích danh từ của sáu ba-la-mật, kế nói sự tu tập sáu ba-la-mật.

Kệ tụng:

Vật, tư duy và tâm

Phương tiện và thế lực

Nên biết tu sáu hạnh

Nói có năm y chỉ.

Giải thích:

Các Bồ tát tu tập các ba-la-mật có năm thứ y chỉ: 1. Y chỉ vật; 2. Y chỉ tư duy; 3. Y chỉ tâm; 4. Y chỉ phương tiện; 5. Y chỉ thế lực.

Y chỉ vật để tu các ba-la-mật có bốn thứ:

1. Y chỉ nhân tố, là dựa vào lực của chủng tánh mà tu tập;

2. Y chỉ chánh báo, là dựa vào lực của tự thân thành tựu mà tu tập;

3. Y chỉ chí nguyện, là dựa vào lực của chí nguyện xa xưa mà tu tập;

4. Y chỉ tâm số, là dựa vào lực của trí tuệ mà tu tập.

Y chỉ tư duy để tu các ba-la-mật có bốn thứ:

1. Tư duy tin tưởng, là sanh tín tâm đối với những giáo pháp tương ứng với các ba-la-mật;

2. Tư duy mùi vị, là biết mùi vị công đức trong khi tu tập các ba-la-mật;

3. Tư duy tùy hỷ, là tất cả chúng sanh trong các thế giới hệ tu tập được nhiều ít ba-la-mật đều sanh tâm tùy hỷ;

4. Tư duy mong cầu, là khởi mong cầu rằng bản thân và chúng sanh ở đời vị lai tu tập được các ba-la-mật thù thắng.

Y chỉ tâm để tu các ba-la-mật có sáu thứ:

1. Tâm không biết chán;

2. Tâm rộng lớn;

3. Tâm hoan hỷ thù thắng;

4. Tâm lợi ích thù thắng;

5. Tâm không nhuốm bẩn;

6. Tâm thuần lành.

Thế nào là tu tập bố thí bằng sáu tâm?

Các vị Bồ tát đem mỗi một sát-na bỏ hết mọi thân mạng, đem bảy thứ quí báu chứa đầy trong hằng sa thế giới mà bố thí cho một chúng sanh, bố thí như vậy cho đến tận cùng chúng sanh giới, cho đến khi sở nguyện thành thục là Vô thượng bồ-đề, vậy mà các vị Bồ tát ấy vẫn bố thí với tâm không biết chán và biết đủ. Sắc thái tâm như vậy gọi là tâm tu bố thí không biết chán.

Chính với sắc thái tâm không biết chán như vậy, từ lúc bắt đầu, liên tục cho đến khi thành Phật, không có một khoảnh sát-na nào mà các vị Bồ tát có ngừng hay có giảm tu bố thí. Sắc thái tâm như vậy gọi là tâm tu bố thí rộng lớn.

Các vị Bồ tát đem bố thí ba-la-mật mà làm lợi ích chúng sanh, do việc làm như vậy mà sanh hoan hỷ một cách sâu xa, nỗi hoan hỷ của chúng sanh được bố thí cũng không sánh bằng. Sắc thái tâm như vậy gọi là tâm tu bố thí hoan hỷ thù thắng.

Các vị Bồ tát nhiếp hóa chúng sanh bằng bố thí, thấy họ thọ dụng vật thí là đã làm lợi ích lớn cho mình, không thấy mình làm lợi ích lớn cho họ. Vì sao? Vì sự nhiếp hóa chúng sanh bằng bố thí là nhân tố cho các vị Bồ tát thành tựu Vô thượng bồ-đề. Sắc thái tâm như vậy gọi là tâm tu bố thí lợi ích thù thắng.

Các vị Bồ tát tu thí rộng lớn như vậy mà không cầu báo ân cho đến không cầu quả báo. Sắc thái tâm như vậy gọi là tâm tu bố thí không nhuốm bẩn. Các vị Bồ tát tu bố thí rộng lớn như vậy thì tập hợp được phước đức và có được quả báo thù thắng, các vị ấy không lấy đó làm tự thọ dụng mà nguyện hiến cho tất cả chúng sanh, và cùng với chúng sanh xoay lại mà cầu Vô thượng bồ-đề. Sắc thái tâm như vậy gọi là tâm tu bố thí thuần lành.

Thế nào là tu giới v.v… bằng sáu thứ tâm?

Các vị Bồ tát có hằng sa thân mạng, mỗi một thân lại có hằng sa thọ mạng, trong mỗi một thọ mạng lúc nào cũng thiếu thốn mọi thứ để sống, trong sự thiếu thốn đó lại chịu cảnh lửa dữ đầy cả tam thiên đại thiên thế giới. Các vị Bồ tát ấy trải qua nhiều thân như vậy, nhiều thọ mạng như vậy, chịu lửa dữ như vậy mà vẫn thường xuyên khởi bốn oai nghi, trong mỗi sát-na chỉ tu tập một giới, tu tập như vậy cho đến hết các giới tụ v.v… cho đến hết các tuệ tụ, cho đến ngày chứng đắc Vô thượng bồ-đề, các vị Bồ tát tu tập giới v.v… không biết chán biết đủ. Sắc thái tâm như vậy gọi là tâm tu giới v.v… không biết chán.

Các vị Bồ tát từ lúc khởi đầu tu tập giới cho đến tu tập tuệ, cho đến ngày an tọa trên pháp tọa bồ-đề, vẫn thường xuyên tu tập giới v.v… không gián đoạn, không ngừng nghỉ. Sắc thái tâm như vậy gọi là tâm tu giới v.v… rộng lớn.

Các vị Bồ tát nhiếp hóa chúng sanh bằng trì giới v.v…đem lại lợi ích cho họ, do việc làm như vậy mà sanh hoan hỷ một cách sâu xa, nỗi hoan hỷ của chúng sanh được nhiếp hóa cũng không sánh bằng. Sắc thái tâm như vậy gọi là tâm tu giới v.v… hoan hỷ thù thắng.

Các vị Bồ tát nhiếp hóa chúng sanh bằng giới v.v…, thấy họ được lợi ích là đã làm lợi ích lớn cho mình, không thấy mình làm lợi ích lớn cho họ. Sắc thái tâm như vậy gọi là tâm tu giới v.v… lợi ích thù thắng.

Các vị Bồ tát tu giới v.v… rộng lớn như vậy mà không cầu báo ân cho đến không cầu quả báo. Sắc thái tâm như vậy gọi là tâm tu giới v.v… không nhuốm bẩn.

Các vị Bồ tát tu giới v.v… rộng lớn như vậy thì tập hợp được phước đức và có được quả báo thù thắng, các vị ấy không lấy đó làm tự thọ dụng mà nguyện hiến cho tất cả chúng sanh, và cùng với chúng sanh xoay lại mà cầu Vô thượng bồ-đề. Sắc thái tâm như vậy gọi là tâm tu giới v.v… thuần lành.

Y chỉ phương tiện để tu các ba-la-mật có ba thứ. Ba thứ, đó là ba luân thanh tịnh. Sự thanh tịnh này do trí vô phân biệt làm phương tiện. Dùng phương tiện này thì tất cả tác ý đều được thành tựu.

Y chỉ thế lực để tu các ba-la-mật có ba thứ: 1. Thế lực của thân; 2. Thế lực của hành động; 3. Thế lực của lời nói.

Thế lực của thân, là tự tánh thân và thọ dụng thân của Phật. Thế lực của hành động, là hóa thân của Phật, tức hóa thân trong mọi hình tướng mà thị hiện tất cả thiện hạnh vì tất cả chúng sanh. Thế lực của lời nói, là diễn nói sáu ba-la-mật không có trở ngại trong tất cả loại thời gian.

Phẩm Độ Nhiếp – hết phần 1

***

Phẩm Mười Bảy: ĐỘ NHIẾP (Phần 2)

Giải thích:

Đã nói sự tu tập sáu ba-la-mật, kế nói sự sai biệt của sáu ba-la-mật.

Sự sai biệt của sáu ba-la-mật có sáu nghĩa: 1. Tự tánh; 2. Nhân tố; 3. Thành quả; 4. Nghiệp dụng; 5. Tương ứng; 6. Phẩm loại.

Kệ tụng:

Thí người và cùng tư

Hai thành và hai nhiếp

Trú ở đủ không xan

Pháp, tài, vô úy ba.

Giải thích:

Kệ tụng này nói sáu nghĩa của bố thí ba-la-mật.

Thí người: Tự tánh của bố thí là đem tài vật của mình thí cho người nhận.

Cùng tư: Nhân tố của bố thí là thiện căn không tham cùng sanh với tư (tâm sở).

Hai thành: Thành quả của bố thí là thành tựu tiền tài và thành tựu bản thân. Thành tựu bản thân bao gồm năm sự là thọ mạng v.v…, như năm sự mà trong kinh có ghi: Người bố thí bữa ăn có được năm sự: 1. Thọ mạng; 2. Dung sắc; 3. An lạc; 4. Sức mạnh; 5. Biện tài.

Hai nhiếp: Nghiệp dụng của bố thí là đầy đủ hai nhiếp, lợi mình lợi người và đầy đủ đại bồ-đề.

Trú ở đủ không xan: Tương ứng của bố thí là trú ở đầy đủ trong tâm người không tham lận.

Pháp, tài, vô úy ba: Phẩm loại của bố thí, có ba phẩm loại: 1. Thí chánh pháp; 2. Thí tài sản; 3. Thí vô úy.

Sáu nghĩa như vậy, người trí nên biết để tu tập.

Kệ tụng:

Sáu chi, diệt hữu biên

Thiện đạo và chấp trì

Phước dồn chứa đầy đủ

Hai đắc là hai loại.

Giải thích:

Kệ tụng này nói sáu nghĩa của trì giới ba-la-mật.

Sáu chi: Tự tánh của trì giới, là trú đầy đủ tịnh giới, cho đến tiếp nhận và học tập đầy đủ các học xứ.

Diệt hữu biên: Nhân tố của trì giới, là vì cầu niết-bàn, vượt qua các hữu biên nên phải tiếp nhận và thực hành giới. Diệt nghĩa là niết-bàn.

Thiện đạo: Thành quả của trì giới, là nhân giới mà có được thiện đạo, không hối hận v.v… tuần tự cho đến tâm trú điều phục [trong chín thứ tâm trú].

Chấp trì: Nghiệp dụng của trì giới. Giới có ba khả năng: 1. Khả năng nắm giữ: trì giới có khả năng nắm giữ tất cả công đức như khả năng của đại địa; 2. Khả năng yên lặng: trì giới có khả năng ngưng dứt tất cả phiền não nóng bức; 3. Khả năng không sợ hãi: trì giới có khả năng ngăn ngừa tất cả nhân duyên sanh khởi các tội là sợ hãi, oán ghét v.v… do không sợ hãi nên không sanh khởi các tội.

Phước dồn chứa đầy đủ: Tương ứng của trì giới, là trong tất cả thời gian, ba nghiệp thân, khẩu, ý đều hành thiện hạnh.

Hai đắc là hai loại: Phẩm loại của trì giới. Hai đắc là thọ đắc và pháp đắc. Thọ đắc là sự phòng hộ của ba-la-đề-mộc-xoa. Pháp đắc là sự phòng hộ của thiền định và sự phòng hộ của vô lưu định.

Kệ tụng:

Không báo oán, nhẫn, trí

Đại bi, nương tựa pháp

Năm đức và hai lợi

Tối thắng, ba loại nhẫn.

Giải thích:

Kệ tụng này nói sáu nghĩa của nhẫn nhục ba-la-mật.

Không báo oán, nhẫn, trí: Tự tánh của nhẫn nhục. Ba tự tánh của nhẫn nhục là: 1. Không báo oán; 2. Nhẫn nại; 3. Trí.

Không báo oán là nhẫn chịu oán hại của người. Nhẫn nại là nhẫn chịu khổ sở. Trí là nhẫn quán các pháp.

Đại bi, nương tựa pháp: Nhân tố của nhẫn nhục, có hai: 1. Đại bi; 2. Nương tựa chánh pháp. Nương tựa chánh pháp là thọ giới và đa văn.

Năm đức: Thành quả của nhẫn nhục. Như trong kinh có nói: Nhẫn nhục được năm thành quả: 1. Giảm thiểu ganh ghét; 2. Không phá hỏng ý người; 3. Được an vui; 4. Đến lúc chết không hối hận; 5. Mất thân người được sanh cõi trời.

Hai lợi: Nghiệp dụng của nhẫn nhục. Ba loại nhẫn nhục có khả năng làm ra hai nghiệp dụng lợi mình và lợi người. Như một kệ tụng trong kinh có nói:

Vị ấy tìm hai nghĩa,

Lợi mình và lợi người,

Nếu biết người giận mình,

Làm cho người nguôi giận.

Đầy đủ tối thắng: Tương ứng của nhẫn nhục. Như trong kinh có nói: Nhẫn nhục là hạnh khó làm bậc nhất.

Ba loại nhẫn: Phẩm loại của nhẫn nhục. Ba loại nhẫn nhục là: 1. Nhẫn oán hại; 2. Nhẫn khổ sở; 3. Nhẫn quán pháp.

Kệ tụng:

Dũng mãnh thiện và chánh

Vì có tín, có dục

Niệm tăng và đối trị

Đủ đức, kia bảy loại.

Giải thích:

Kệ tụng này nói sáu nghĩa của tinh tiến ba-la-mật.

Dũng mãnh thiện và chánh: Tự tánh của tinh tiến. Dũng mãnh ngăn ngừa những nghiệp [bất thiện] còn sót lại gọi là thiện; dũng mãnh phá trừ ý tưởng giải thoát của ngoại đạo gọi là chánh.

Vì có tín, có dục: Nhân tố của tinh tiến. Do có tin tưởng và mong muốn mà tinh tiến sanh khởi.

Niệm tăng: Thành quả của tinh tiến. Các công đức của niệm, định v.v… là nhờ tinh tiến sanh khởi.

Đối trị: Nghiệp dụng của tinh tiến. Như trong kinh có ghi: Người khởi tinh tiến thì được trú an lạc, không tạp loạn bởi pháp ác bất thiện.

Đủ đức: Tương ứng của tinh tiến. Đầy đủ công đức của vô tham v.v…

Kia bảy loại: Phẩm loại của tinh tiến. Người kia tu tập tinh tiến có bảy loại: 1. Tinh tiến học giới; 2. Tinh tiến học định; 3. Tinh tiến học tuệ; 4. Tinh tiến tu thân; 5. Tinh tiến tu tâm; 6. Tinh tiến không gián đoạn; 7. Tinh tiến tôn trọng.

Kệ tụng:

Tâm trú và niệm tiến

Sanh pháp lạc, trú thông

Đứng đầu trong các pháp

Định có ba rồi ba.

Giải thích:

Kệ tụng này nói sáu nghĩa của thiền định ba-la-mật.

Tâm trú: Tự tánh của thiền định, vì là tâm trú tự nội.

Niệm tiến: Nhân tố của thiền định. Có niệm nên không quên cảnh duyên, nương tinh tiến mà thiền định sanh khởi.

Sanh pháp lạc: Thành quả của thiền định. Tách rời phương tiện làm cho thoái lui, rời xa quả báo không sai.

Trú thông: Nghiệp dụng của thiền định. Thông là năm thông. Trú là ba trú: Thánh trú, thiên trú và phạn trú. Thiền định có thể làm cho năm thông và ba trú đều được an trú tự tại.

Đứng đầu trong các pháp: Tương ứng của thiền định. Như trong kinh có nói: Tam-ma-đề đứng đầu trong các pháp.

Định có ba rồi ba: Phẩm loại của định. Định có hai loại, mỗi loại có ba phẩm: 1. Định có giác có quán, định không giác có quán và định không giác không quán; 2. Định câu hữu với hỷ, định câu hữu với lạc và định câu hữu với xả.

Kệ tụng:

Chọn đúng, định nắm giữ

Khéo thoát và mạng thuyết

Trên hết các pháp Phật

Tuệ cũng có ba loại.

Giải thích:

Kệ tụng này nói sáu nghĩa của trí tuệ ba-la-mật.

Chọn đúng: Tự tánh của trí tuệ, là rời xa nghiệp tà và nghiệp nhận thức thế gian, có sự lựa chọn chính xác pháp xuất thế gian.

Định nắm giữ: Nhân tố của trí tuệ, là vì định nắm giữ tuệ, nhờ đó biết các pháp đúng với chân thật.

Khéo thoát: Thành quả của trí tuệ, là được khéo giải thoát đối với các nhiễm ô. Vì sao? Vì có sự lựa chọn chính xác đối với pháp thế gian, pháp xuất thế gian và pháp đại xuất thế gian.

Mạng thuyết: Nghiệp dụng của trí tuệ, là tuệ mạng và thiện thuyết. Tuệ mạng là sự lựa chọn chính xác bằng cách lấy tuệ giác vô thượng làm mạng sống. Thiện thuyết là giảng nói chính xác chánh pháp.

Trên hết các pháp Phật: Tương ứng của trí tuệ. Như trong kinh có ghi: Bát-nhã là trên hết trong tất cả pháp của Phật.

Trí tuệ cũng có ba loại: Phẩm loại của trí tuệ. Người tu có ba phẩm loại trí tuệ để lựa chọn chính xác: trí tuệ thế gian, trí tuệ xuất thế gian và trí tuệ đại xuất thế gian.

Đã nói sự sai biệt của sáu ba-la-mật, kế nói nhiếp hạnh của sáu ba-la-mật.

Kệ tụng:

Tất cả pháp bạch tịnh

Tán động, định, cả hai

Sáu độ có ba cặp

Các loại đều nhiếp hết.

Giải thích:

Tất cả pháp bạch tịnh: Là bố thí v.v… các hành pháp. Nên biết các hành pháp ấy nhiếp chung có ba loại: 1. Tán động; 2. An định; 3. An định và tán động.

Tán động, là nói hai ba-la-mật trước, bố thí và trì giới, nhiếp vào tánh chất tán động.

An định, là nói hai ba-la-mật sau, thiền định và trí tuệ, nhiếp vào tánh chất an định.

Cả hai, là nói hai ba-la-mật giữa, nhẫn nhục và tinh tiến, nhiếp vào tánh chất an định và tán động.

Đã nói nhiếp hạnh của sáu ba-la-mật, kế nói trị chướng của sáu ba-la-mật.

Kệ tụng:

Thí rời bảy đắm trước

Nên nói bảy không đắm

Nên biết năm độ kia

Trị chướng đều có bảy.

Giải thích:

Thí rời bảy đắm trước, nên nói bảy không đắm: Sự đắm trước của bố thí có bảy thứ: 1. Đắm trước của cải; 2. Đắm trước trì hoãn; 3. Đắm trước thiên chấp; 4. Đắm trước trả ơn; 5. Đắm trước quả báo; 6. Đắm trước chướng ngại; 7. Đắm trước tán loạn.

Đắm trước chướng ngại: Bố thí để đối trị tham, nhưng vẫn còn chướng ngại vì tùy miên chưa đoạn trừ.

Đắm trước tán loạn: Tán loạn có hai thứ: 1. Tán loạn ý thấp, vì cầu tiểu thừa; 2. Tán loạn phân biệt, vì còn phân biệt ba luân.

Khi Bồ tát hành thí phải rời xa bảy đắm trước này, gọi là bảy không đắm trước. Nên biết, bảy trị chướng của năm ba-la-mật còn lại cũng như vậy. Nên biết, năm ba-la-mật: giới v.v…, mỗi ba-la-mật có bảy đắm trước; rời xa bảy đắm trước này, gọi là bảy không đắm trước.

Ở đây có sự sai khác, chuyển đổi bố thí ba-la-mật rời xa đắm trước của cải, thành năm ba-la-mật trì giới v.v… rời xa đắm trước thứ nhất (trong 7 thứ), đó là: trì giới rời xa đắm trước phá giới, nhẫn nhục rời xa đắm trước sân hận, tinh tiến rời xa đắm trước biếng nhác, thiền định rời xa đắm trước loạn tâm, trí tuệ rời xa đắm trước ngu si.

Trì giới v.v… rời xa đắm trước chướng ngại, vì chướng ngại của tùy miên đều được đoạn trừ. Trì giới v.v… rời xa đắm trước (tán loạn) phân biệt, vì mỗi ba-la-mật đều được ba luân không phân biệt.

Đã nói trị chướng của sáu ba-la-mật, kế nói công đức của sáu ba-la-mật. Ở đây, trước hết nói công đức lợi người.

Kệ tụng:

Hằng thời xả thân mạng

Rời cầu vì thương người

Nhân thí lập bồ-đề

Trí nhiếp thí vô tận.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị công đức lợi người của bố thí ba-la-mật.

Hằng thời xả thân mạng: Các Bồ tát ở trong tất cả thời thí xả thân mạng của mình cho tất cả người cầu xin.

Rời cầu vì thương người: Các Bồ tát không mong trả ơn và không cầu dị thục quả khả ái, vì lấy tâm đại bi làm nhân tố.

Nhân thí lập bồ-đề: Thí là nhân tố thiết lập tất cả chúng sanh đi vào ba thừa bồ-đề.

Trí nhiếp thí vô tận: Thí này nhiếp thuộc trí vô phân biệt, đưa đến niết-bàn vô trú; phước đức của bố thí thì vô tận, mang lại lợi ích vô cùng cho tất cả chúng sanh.

Kệ tụng:

Hằng thời siêng giữ giới

Rời giới và đường lành

Nhân giới lập bồ-đề

Trí nhiếp giới vô tận.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị công đức lợi người của trì giới ba-la-mật.

Hằng thời siêng giữ giới: Bồ tát có ba nhóm giới: 1. Giới luật nghi; 2. Giới nhiếp thiện pháp; 3. Giới nhiếp chúng sanh.

Giới luật nghi lấy sự ngăn cấm và phòng hộ làm thể. Giới nhiếp thiện pháp và giới nhiếp chúng sanh lấy sự nỗ lực và dũng mãnh làm thể. Các Bồ tát ở trong tất cả thời thường gìn giữ ba nhóm giới ấy.

Rời giới và đường lành: Không đắm trước thành quả của giới và không cầu dị thục quả khả ái.

Kệ tụng:

Hằng thời chịu người phá

Rời cầu, sợ, vô năng

Nhân nhẫn lập bồ-đề

Trí nhiếp nhẫn vô tận.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị công đức lợi người của nhẫn ba-la-mật.

Hằng thời chịu người phá: Các Bồ tát ở trong tất cả thời, nếu tất cả chúng sanh đem lại những sự phiền não cùng cực để phá hoại các Bồ tát, thì các Bồ tát đều có thể nhẫn chịu.

Rời cầu, sợ, vô năng: Các Bồ tát không cầu trả ơn và không cầu nẻo đường lành; nhẫn chịu không phải vì sợ hãi và không phải vì không có năng lực.

Kệ tụng:

Hằng thời nguyện siêng làm

Giết giặc vì vô thượng

Nhân tiến lập bồ-đề

Trí nhiếp tiến vô tận.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị công đức lợi người của tinh tiến ba-la-mật.

Hằng thời nguyện siêng làm: Các Bồ tát tu tinh tiến không ai sánh bằng qua hai tự tánh: 1. Thệ nguyện rộng lớn làm tự tánh; 2. Phương tiện siêng năng làm tự tánh.

Giết giặc vì vô thượng: Các Bồ tát tu tinh tiến chỉ vì giết giặc phiền não của mình và của người để được Vô thượng bồ-đề.

Kệ tụng:

Hằng thời tập các định

Bỏ thiền sanh chỗ thấp

Nhân định lập bồ-đề

Trí nhiếp định vô tận.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị công đức lợi người của thiền định ba-la-mật.

Hằng thời tập các định: Các Bồ tát nhiếp lấy vô biên tam-ma-đề để tu tập.

Bỏ thiền sanh chỗ thấp: Từ bỏ sự lạc trú của thiền định vô thượng để tùy ý thọ sanh chỗ thấp kém. Vì sao? Vì Bồ tát có tâm đại bi vậy.

Kệ tụng:

Thường biết chân, cảnh khác

Phật diệt còn không đắm

Nhân tuệ lập bồ-đề

Bi nhiếp tuệ vô tận.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị công đức lợi người của trí tuệ ba-la-mật.

Thường biết chân, cảnh khác: Biết chân, là biết sắc thái bình đẳng của đệ nhất nghĩa đế, vì có cái trí biết nhân vô ngã và pháp vô ngã. Cảnh khác, là biết vô biên cảnh giới, vì thông suốt những sai biệt về danh, tướng v.v… (của chúng sanh và thế giới chúng sanh).

Phật diệt còn không đắm: Phật diệt, là niết-bàn của Phật. Các Bồ tát tu bát-nhã còn không đắm trước niết-bàn của Phật huống là cầu thoát sanh tử.

Ở đây, năm ba-la-mật trước được trí vô phân biệt thống nhiếp, có được công đức vô tận đưa đến niết-bàn vô trú. Trí tuệ ba-la-mật được đại bi nhiếp thủ, có được công đức vô tận do thường không bỏ chúng sanh.

Sáu kệ tụng trên là nói riêng biệt công đức lợi người, tiếp dùng một kệ tụng nói tổng quát các nghĩa trước.

Kệ tụng:

Rộng lớn và không cầu

Tối thắng và vô tận

Nên biết mỗi một độ

Cùng có bốn công đức.

Giải thích:

Bốn công đức là: 1. Công đức rộng lớn; 2. Công đức không cầu; 3. Công đức tối thắng; 4. Công đức vô tận.

Trong sáu kệ tụng, câu tụng thứ nhất nói về công đức rộng lớn, vì làm lợi ích cho nhiều chúng sanh; câu tụng thứ hai nói về công đức không cầu; câu tụng thứ ba nói về công đức tối thắng; câu tụng thứ tư nói về công đức vô tận. Lại nữa, sáu ba-la-mật còn có công đức thanh tịnh.

Kệ tụng:

Được thấy và thỏa nguyện

Cầu được hợp ba vui

Bồ tát đổi niềm vui

Kia kém tâm đại bi.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị công đức thanh tịnh của bố thí ba-la-mật.

Người cầu xin với Bồ tát sanh khởi ba sự vui mừng: 1. Vui mừng khi được thấy; 2. Vui mừng khi được thỏa nguyện; 3. Vui mừng khi cầu được thấy, khi cầu được thỏa nguyện.

Nếu người cầu xin mà không thấy, không thỏa nguyện thì không sanh vui mừng. Trong tất cả thời, Bồ tát đối với người cầu xin muốn đổi ba sự vui mừng của người kia làm ba sự vui mừng của mình: 1. Vui mừng khi được thấy người kia; 2. Vui mừng khi làm thỏa ý nguyện của người kia; 3. Vui mừng khi làm cho người kia cầu được thấy, cầu được thỏa nguyện.

Ở đây nên biết, ba sự vui mừng của người cầu xin kia không sánh bằng ba sự vui mừng của Bồ tát. Vì sao? Vì Bồ tát đầy đủ tâm đại bi.

Kệ tụng:

Bản thân, của, quyến thuộc

Do bi thường vui thí

Ba ác hạnh rời xa

Nhân nào không răn giữ.

Giải thích:

Những kệ tụng sau đây hiển thị công đức thanh tịnh của trì giới ba-la-mật.

Kệ tụng này nói rời xa ba ác hành của thân. Vì có tâm đại bi, Bồ tát đối với thân mạng của mình, của cải của mình, quyến thuộc của mình thường hoan hỷ bố thí những gì tốt nhất cho người, cho nên đối với thân mạng của người, của cải của người, quyến thuộc của người thì càng phải rời xa ba ác hành của thân, không thể không răn giữ.

Kệ tụng:

Không màng và bình đẳng

Không sợ và thí khắp

Đại bi thì lẽ nào

Não người bằng vọng ngữ.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rời xa ác hành của nói dối.

Chúng sanh khởi lời nói dối do bốn nhân duyên: 1. Lợi mình, vì luyến tiếc thân mạng; 2. Lợi người, vì làm lợi cho người mình yêu mến; 3. Ghét sợ, vì sợ hãi phép nước; 4. Cầu của cải, vì có những nhu cầu.

Bồ tát không nói dối, bởi vì:

1. Không màng (đến thân mạng), vì không tham luyến thân mạng;

2. Bình đẳng, vì có tâm bình đẳng nên coi thân người như thân mình;

3. Không sợ hãi, vì rời xa năm sợ hãi;

4. Thí khắp, vì đem tất cả vật bố thí khắp cả.

Tâm bi mẫn của Bồ tát rất sâu xa, vì vậy không có lý do nào để sanh lời nói dối.

Kệ tụng:

Bình đẳng làm lợi ích

Đại bi sợ người khổ

Siêng thành thục chúng sanh

Rời ba lỗi ngữ nghiệp.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rời xa ba ác hành khác của miệng.

Bồ tát đối với tất cả chúng sanh thường làm lợi ích bình đẳng, lẽ nào muốn phá hoại quyến thuộc của người bằng lời nói hai lưỡi? Tâm đại bi của Bồ tát là thường muốn nhổ trừ khổ đau của tất cả chúng sanh, sanh lòng lo sợ khi thấy người khổ, lẽ nào muốn làm khổ người bằng lời nói thô ác? Bồ tát thường hành siêng năng chân chánh, thường muốn thành thục tất cả chúng sanh, lẽ nào muốn không thành thục người bằng lời nói thêu dệt? Tóm lại, Bồ tát có khả năng rời xa hẳn lầm lỗi của ba loại lời nói này.

Kệ tụng:

Thí khắp và đại bi

Khéo léo pháp duyên khởi

Lẽ nào không thể nhẫn

Ba phiền não ý địa.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rời xa ba ác hành của ý.

Bồ tát do thí khắp tất cả vật nên rời phiền não tham, do tâm đại bi nên rời phiền não sân, do khéo léo hiểu pháp duyên khởi nên rời phiền não tà kiến.

Trên đây là những sai biệt của sự đối trị phá giới, gọi là công đức thanh tịnh của giới Bồ tát.

Kệ tụng:

Người tổn thì tưởng ích

Khổ sở sanh tưởng vui

Bồ tát đã như vậy

Nhẫn ai, nhẫn việc gì.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị công đức thanh tịnh của nhẫn nhục ba-la-mật.

Người tổn thì tưởng ích: Bồ tát đối với việc không lợi ích do người mang đến cho mình thì nghĩ tưởng đó là mình được lợi ích nên cần phải nhẫn nhục. Vì sao? Vì thành tựu nhân tố nhẫn nhục.

Khổ sở sanh tưởng vui: Bồ tát trong khi nhận chịu khổ sở bèn sanh ý tưởng vui mừng. Vì sao? Vì thành tựu nhân tố lợi người.

Bồ tát đã không có lý do gì khởi tưởng không lợi ích, không có lý do gì khởi tưởng khổ sở, vậy thì khởi nhẫn với ai, khởi nhẫn việc gì?

Kệ tụng:

Bồ tát đoạn tưởng người

Yêu người hơn yêu mình

Vì người làm việc khó

Tinh tiến thì không khó.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị công đức thanh tịnh của tinh tiến ba-la-mật.

Bồ tát vì người làm những việc khó làm, nhưng nhờ tinh tiến nên không thấy khó. Vì sao? Vì Bồ tát dứt bỏ ý tưởng về người, và trong tất cả thời yêu người hơn yêu mình. Bồ tát vì người tu tinh tiến như vậy, sao lại có chuyện khó làm? Đây là công đức thanh tịnh của tinh tiến [ba-la-mật].

Kệ tụng:

Ít lạc, hai tự lạc

Chấp trước, thoái, tận, si

Là thiền ba hạng người

Thiền Bồ tát khác kia.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị công đức thanh tịnh của thiền định ba-la-mật.

Ít lạc, là thiền thế gian. Hai tự lạc, là thiền Thanh văn và thiền Duyên giác. Chấp trước, là thiền thế gian chấp trước kiến giải của mình, và thiền của nhị thừa chấp trước niết-bàn. Thoái, là đặc tánh của thiền thế gian. Tận, là đặc tánh của thiền Thanh văn và thiền Duyên giác, vì khi đến niết-bàn vô dư là tận cùng. Si, là thiền của ba hạng người trên có sự thích ứng với nhiễm ô do si và nhiễm ô không do si.

Thiền Bồ tát khác kia: Thiền của Bồ tát thì trái ngược với thiền của ba hạng người kia. Vì sao? Vì nhiều an lạc, là mình an lạc và người an lạc; vì không chấp trước, không thoái lui, không diệt tận và không si mê. Đây gọi là công đức thanh tịnh của thiền định [ba-la-mật].

Kệ tụng:

Tối xúc chạm, hai đèn

Trí của ba hạng người

Như ánh sáng mặt trời

Trí Bồ tát không sánh.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị công đức thanh tịnh của trí tuệ ba-la-mật.

Thí như trong bóng tối dùng tay xúc chạm đồ vật, trí của phàm phu cũng như vậy. Vì sao? Vì có được một ít cảnh, không nhận biết rõ ràng, trí không cố định lâu dài.

Thí như hai ngọn đèn chiếu sáng đồ vật trong phòng, trí Thanh văn và trí Duyên giác cũng như vậy. Vì sao? Vì có được một ít cảnh, từ từ nhận biết rõ ràng, trí chưa thanh tịnh cùng cực.

Thí như ánh sáng mặt trời chiếu soi vạn vật, trí Bồ tát cũng như vậy. Vì sao? Vì có được đầy khắp các cảnh, nhận biết rõ ràng, trí thanh tịnh cùng cực.

Các trí kia không thể so sánh với trí Bồ tát. Đây gọi là công đức thanh tịnh của trí tuệ [ba-la-mật].

Lại nữa, sáu ba-la-mật về sau có tám thứ công đức vô thượng.

Kệ tụng:

Y, loại, duyên, hồi hướng

Nhân, trí, điền, y chỉ

Tám tối thắng như vậy

Nghĩa vô thượng nên biết.

Giải thích:

Tám vô thượng là: 1. Chỗ dựa; 2. Phẩm loại; 3. Duyên tố; 4. Hồi hướng; 5. Nhân tố; 6. Trí tuệ; 7. Ruộng tốt; 8. Y chỉ.

Hỏi: Tám yếu tố này đối với sáu ba-la-mật vì sao gọi là vô thượng?

Đáp: Chỗ dựa thí: bố thí là chỗ dựa của Bồ tát.

Phẩm loại thí: bố thí có ba loại: 1. Thí tài sản, là sẵn sàng xả bỏ thân mạng mình; 2. Thí vô úy, là cứu tế nỗi sợ hãi của dòng sanh tử và đường dữ; 3. Thí chánh pháp, là nói pháp Đại thừa.

Duyên tố thí: lấy đại bi làm duyên tố sanh khởi bố thí.

Hồi hướng thí: bố thí vì cầu quả đại bồ-đề.

Nhân tố thí: lấy nghiệp huân tập chủng tử bố thí đời trước làm nhân tố.

Trí tuệ thí: dùng trí vô phân biệt quán sát ba luân, tức là không phân biệt người cho, người nhận và vật cho.

Ruộng tốt thí: bố thí là ruộng tốt cho năm hạng người: 1. Người cầu xin; 2. Người khổ sở; 3. Người không nương tựa; 4. Người làm ác; 5. Người đủ đức; và nên biết ở đây lấy người đủ đức thù thắng làm vô thượng.

Y chỉ thí: bố thí nhờ ba thứ y chỉ: 1. Y chỉ tín hướng; 2. Y chỉ tư duy; 3. Y chỉ tam-muội. Y chỉ tín hướng là như trong phần phân biệt tu tập [sáu ba-la-mật] đã nói về tư duy tin tưởng. Y chỉ tư duy là như trong phần phân biệt tu tập [sáu ba-la-mật] đã nói về tư duy mùi vị, tư duy tùy hỷ, tư duy mong cầu. Y chỉ tam-muội là dựa vào các định như kim cương tạng v.v…, như trong phần tu tập [sáu ba-la-mật] có nói y chỉ thế lực. Với những y chỉ vô thượng như vậy nên bố thí ba-la-mật gọi là vô thượng.

Như bố thí có tám vô thượng, năm ba-la-mật: trì giới, v.v… cũng có tám vô thượng. Ở đây, phẩm loại vô thượng của trì giới là giới Bồ tát; phẩm loại vô thượng của nhẫn nhục là người đi đến giết hại Bồ tát thì kém cỏi yếu hèn. Phẩm loại vô thượng của tinh tiến là tu tập các ba-la-mật thì những thứ bị đối trị của các ba-la-mật được đoạn trừ. Phẩm loại vô thượng của thiền định là các tam-ma-đề của Bồ tát. Phẩm loại vô thượng của trí tuệ là trí duyên cảnh như như. Ruộng tốt vô thượng của trì giới v.v… là pháp Đại thừa. Sáu vô thượng khác cũng tương tự như đã nói trong bố thí.

Lại nữa, bố thí và tinh tiến có những sai biệt về công đức không chung.

Kệ tụng:

Thí một khiến được vui

Nhiều kiếp tự chịu khổ

Còn xả cả yêu sâu

Thì được phước lợi lớn.

Giải thích:

Nếu các Bồ tát bố thí cho một chúng sanh để người ấy được vui mà bản thân phải chịu khổ nghèo túng trong nhiều kiếp thì các Bồ tát cũng vẫn bố thí, không bỏn xẻn, vì yêu sâu đậm. Yêu sâu đậm là mặt sai biệt của tâm bi. Huống nữa là các Bồ tát bố thí cho một chúng sanh để người ấy được vui mà bản thân được phước lợi lớn trong nhiều kiếp.

Kệ tụng:

Người xin tùy chỗ muốn

Bồ tát xả tất cả

Người xin vì bản thân

Lợi người trăm thứ thí.

Giải thích:

Nửa kệ tụng đầu là nói chung, nghĩa là theo sự mong cầu của người, Bồ tát thí xả tất cả. Nửa kệ tụng sau là giải thích, nghĩa là người xin vì lợi mình nên muốn được tất cả, Bồ tát vì lợi người nên trăm thứ thí xả tất cả.

Kệ tụng:

Xả thân còn không khổ

Huống chi xả của cải

Được hoan hỷ xuất thế

Khởi khổ là vô thượng.

Giải thích:

Việc Bồ tát xả bỏ thân mạng là phát xuất từ tâm nên không thấy có khổ. Cái tâm này hiển thị sự xuất thế gian của Bồ tát. Vì sao? Vì tâm hoan hỷ.

Hỏi: Tâm hoan hỷ này từ đâu mà được?

Đáp: Sanh khởi từ khổ, cho nên sanh khởi từ khổ là công đức vô thượng của Bồ tát, và do vậy Bồ tát ở trên hết trong những bậc xuất thế gian.

Kệ tụng:

Người xin được tất cả

Vui mà không vui lớn

Bồ tát xả tất cả

Vui lớn hơn vui kia.

Giải thích:

Người xin cần những gì thì Bồ tát đều cho cả, vì vậy người xin rất vui. Niềm vui này không phải là niềm vui lớn.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Vì Bồ tát thí xả tất cả, vui khi thấy người xin vui được của, do vậy niềm vui của Bồ tát lớn hơn niềm vui của người xin.

Kệ tụng:

Người xin được tất cả

Có của chẳng thấy giàu

Bồ tát xả tất cả

Không của mà giàu to.

Giải thích:

Kệ tụng này nói sự sai biệt về của cải vô tận của Bồ tát.

Kệ tụng:

Người xin được tất cả

Chẳng nghĩ lợi ích lớn

Bồ tát xả tất cả

Nghĩ tưởng lợi ích lớn.

Giải thích:

Kệ tụng này nói sự sai biệt về tâm đại bi của Bồ tát.

Kệ tụng:

Người xin lấy tự nhiên

Như hái trái bên đường

Bồ tát thí xả lớn

Người khác không làm được.

Giải thích:

Kệ tụng này nói sự sai biệt về sự không đắm trước của Bồ tát.

Hỏi: Đã nói những sai biệt về công đức không chung của bố thí rồi, vậy những sai biệt về công đức không chung của tinh tiến là gì?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Thắng, nhân, y, nghiệp, chủng

Đối trị có khác nhau

Như vậy sáu thứ nghĩa

Sai biệt của tinh tiến.

Giải thích:

Tinh tiến có sáu thứ sai biệt: 1. Sai biệt tối thắng; 2. Sai biệt nhân tố; 3. Sai biệt y chỉ; 4. Sai biệt nghiệp dụng; 5. Sai biệt chủng loại; 6. Sai biệt đối trị.

Kệ tụng này nêu ra chung, các kệ tụng khác giải thích riêng.

Kệ tụng:

Bạch pháp tiến trên hết

Tiến cũng là thắng nhân

Có được các thiện pháp

Tinh tiến làm y chỉ.

Giải thích:

Kệ tụng này nói về sai biệt tối thắng, sai biệt nhân tố và sai biệt y chỉ của tinh tiến.

Bạch pháp tiến trên hết: Đây nói sai biệt tối thắng, nghĩa là trong tất cả thiện pháp thì tinh tiến là tối thắng.

Tiến cũng là thắng nhân: Đây nói sai biệt nhân tố, nghĩa là tinh tiến là nhân tố vô thượng.

Có được các thiện pháp, tinh tiến làm y chỉ: Đây nói sai biệt y chỉ, nghĩa là do y chỉ tinh tiến mà được tất cả thiện pháp.

Kệ tụng:

Hiện lạc, pháp thế gian

Pháp xuất thế, của cải

Động tĩnh và giải thoát

Bồ-đề: bảy nghiệp dụng.

Giải thích:

Kệ tụng này nói về sai biệt nghiệp dụng của tinh tiến.

Sai biệt nghiệp dụng của tinh tiến có bảy thứ: 1. Được hiện pháp lạc trú; 2. Được pháp thế gian; 3. Được pháp xuất thế gian; 4. Được của cải; 5. Được tĩnh lặng trong tán động; tĩnh lặng trong tán động là do biết sự không toàn hảo của thế gian; 6. Được giải thoát: giải thoát là sự đoạn được thân kiến; 7. Được bồ-đề: bồ-đề là tuệ giác vô thượng.

Kệ tụng:

Tăng giảm và tăng thượng

Xả chướng và nhập chân

Chuyển y và đại lợi

Sáu chủng loại tinh tiến.

Giải thích:

Kệ tụng này nói về sai biệt chủng loại của tinh tiến.

Sai biệt chủng loại của tinh tiến có sáu thứ:

1. Tinh tiến tăng giảm, là tinh tiến bốn chánh cần, làm giảm hai ác pháp và làm tăng hai thiện pháp;

2. Tinh tiến tăng thượng, là tinh tiến năm căn, lấy pháp giải thoát làm nghĩa tăng thượng;

3. Tinh tiến xả chướng, là tinh tiến năm lực, làm cho những chướng ngại không thể cản trở;

4. Tinh tiến nhập chân, là tinh tiến bảy giác phần, làm nền tảng để thiết lập kiến đạo;

5. Tinh tiến chuyển y, là tinh tiến tám thánh đạo phần, làm nhân tố của tu đạo đưa đến quả chuyển y cứu cánh;

6. Tinh tiến đại lợi, là tinh tiến sáu ba-la-mật, làm nhân tố của sự lợi ích mình người.

Kệ tụng:

Chủng lại có năm khác

Hoằng thệ và phát hành

Không thấp và không động

Thứ năm là không chán.

Giải thích:

Năm tinh tiến khác:

1. Tinh tiến hoằng thệ, là tinh tiến muốn phát khởi tu hành;

2. Tinh tiến phát hành, là tinh tiến thị hiện phát hành các thiện pháp;

3. Tinh tiến không thấp, là tinh tiến có được quả lớn chứ không phải những quả thấp;

4. Tinh tiến không động, là những khổ sở như lạnh, nóng v.v… không làm tâm lay động;

5. Tinh tiến không chán, là không vì được kết quả chút ít mà cho là đủ.

Năm tinh tiến này, như tinh tiến hoằng thệ, tinh tiến hiện khởi, tinh tiến dũng mãnh, tinh tiến kiên cố, tinh tiến không bỏ Phật đạo đều có nói đến trong các Kinh điển. Đối với các thiện pháp, nên biết thứ tự tinh tiến như vậy.

Kệ tụng:

Ba loại thấp, vừa, cao

Là do nương ba thừa

Và hai giác thấp, cao

Lợi có hai nhỏ, lớn.

Giải thích:

Những loại tinh tiến ở trên là dựa vào sự sai biệt của người tu tập. Lại nói ba loại tinh tiến và hai loại tinh tiến.

Ba loại tinh tiến là dựa vào sự sai biệt của người tu tập trong ba thừa, theo thứ tự mà nói tinh tiến bậc thấp, tinh tiến bậc vừa và tinh tiến bậc cao.

Hỏi: Nguyên nhân gì lại có hai loại tinh tiến?

Đáp: Vì có tuệ giác bậc thấp và tuệ giác bậc cao. Tuệ giác bậc thấp là y cứ người tu tập nhị thừa; tuệ giác bậc cao là y cứ người tu tập Đại thừa; theo thứ tự mà nói tinh tiến lợi nhỏ và tinh tiến lợi lớn. Vì sao? Vì lợi nhỏ là lợi mình và lợi lớn là lợi người.

Kệ tụng:

Đắm tài, đắm phiền não

Đắm chán, đắm biết đủ

Bốn đắm không thoái lui

Đối trị chia bốn thứ.

Giải thích:

Kệ tụng này nói về sai biệt đối trị của tinh tiến.

Do đối trị bốn thứ đắm trước mà có bốn thứ không thoái lui, nên nói tinh tiến có bốn thứ sai biệt đối trị.

Hỏi: Sai biệt đối trị như thế nào?

Đáp: Các hạnh như bố thí v.v… do bốn thứ đắm trước làm chướng ngại nên không thực thi được các hạnh: 1. Đắm trước tiền của, là với tiền của thì cực kỳ keo lận; 2. Đắm trước phiền não, là với tiền của thì tâm khởi nhuốm bẩn; 3. Đắm trước chán nản, là với các hạnh bố thí v.v… thì có sự lùi bước và khuất phục; 4. Đắm trước biết đủ, là với bố thí chút ít v.v… mà đã vui mừng cho là đầy đủ. Người tu hạnh tinh tiến thì đối trị được bốn thứ đắm trước này, có được sự không thoái lui, nên nói tinh tiến có bốn thứ sai biệt đối trị.

Đã nói công đức của sáu ba-la-mật, kế nói sự hiển thị lẫn nhau của sáu ba-la-mật.

Kệ tụng:

Nhiếp nhau và sai biệt

Y pháp và làm nhân

Sáu độ dựa nhau thành

Tất cả loại phân biệt.

Giải thích:

Sáu ba-la-mật tác thành cho nhau, mỗi ba-la-mật có bốn nghĩa: 1. Nhiếp nhau; 2. Sai biệt; 3. Y pháp; 4. Làm nhân.

Nhiếp nhau: Thí vô úy nhiếp lấy hai ba-la-mật trì giới và nhẫn nhục, vì hai ba-la-mật này có thể cho sự không sợ hãi. Thí chánh pháp nhiếp lấy hai ba-la-mật thiền định và trí tuệ, vì hai ba-la-mật này có thể cho chánh pháp. Hai sự bố thí đều nhiếp lấy một ba-la-mật tinh tiến, vì một ba-la-mật này có thể thực thi hai sự bố thí.

Hỏi: Trì giới ba-la-mật nhiếp lấy ba-la-mật nào?

Đáp: Thực hành tất cả thiện pháp làm giới, vì vậy các ba-la-mật khác bố thí v.v… đều nhiếp trong trì giới ba-la-mật. Cũng vậy, suy ra tương tự các ba-la-mật khác như nhẫn nhục v.v… các ba-la-mật thống nhiếp lẫn nhau.

Sai biệt: Sáu ba-la-mật, bố thí v.v…, làm thành sáu sự bố thí, nghĩa là thí thí, thí giới, thí nhẫn, thí tiến, thí thiền và thí tuệ; cứ như thế tiếp tục thiết lập bố thí, trì giới v.v…

Y pháp: Tất cả kinh đều hiển thị các nghĩa của bố thí v.v…, và tất cả nghĩa của bố thí v.v… đều hiển thị trong các kinh. Nên biết, các kinh và các nghĩa của sáu ba-la-mật đều thống nhiếp lẫn nhau.

Làm nhân: Bố thí là nhân của trì giới v.v… Vì sao? Vì người không lưu luyến tiền của có thể thực hành trì giới v.v… Trì giới cũng là nhân của bố thí v.v… Vì sao? Vì vị tỳ-kheo tiếp nhận giới phòng hộ có thể xả bỏ tất cả vật sở hữu và sự hưởng thụ, và người trú trong giới có thể đầy đủ nhẫn nhục v.v… Lại nữa, tiếp nhận giới nhiếp thiện pháp là tu tập bố thí v.v… Cũng vậy, suy ra tương tự nhẫn nhục v.v… các ba-la-mật làm nhân cho nhau.

Như vậy, đã nói các nghĩa của sáu ba-la-mật, kế nói sự thực hành bốn nhiếp.

Kệ tụng:

Bố thí và ái ngữ

Lợi hành và đồng lợi

Thí bình đẳng, thuyết pháp

Kiến lập và tự hành.

Giải thích:

Bốn pháp nhiếp là: 1. Bố thí nhiếp; 2. Ái ngữ nhiếp; 3. Lợi hành nhiếp; 4. Đồng lợi nhiếp.

Thí bình đẳng, là bố thí nhiếp. Thuyết pháp, là ái ngữ nhiếp, là thuyết về pháp và nghĩa của sáu ba-la-mật. Kiến lập, là lợi hành nhiếp, là kiến lập chúng sanh vào trong sáu ba-la-mật. Tự hành, là đồng lợi nhiếp, là kiến lập cho người rồi tự mình cũng phải thực hành sáu ba-la-mật.

Hỏi: Vì sao nói đặc tánh của bốn pháp nhiếp?

Đáp: Bốn pháp nhiếp là các phương tiện nhiếp hóa chúng sanh.

Kệ tụng:

Nhiếp người bốn phương tiện

Tức là bốn tánh nhiếp:

Tùy nhiếp và nhiếp thủ

Chánh chuyển và tùy chuyển.

Giải thích:

Bố thí là phương tiện tùy nhiếp, do thí của cải mà theo đó người nhận được nhiếp phục.

Ái ngữ là phương tiện nhiếp thủ, do thí chánh pháp mà người vô tri và người nghi ngờ tiếp nhận được nghĩa lý.

Lợi hành là phương tiện chánh chuyển, do lợi hành mà các điều thiện chuyển hóa.

Đồng lợi là phương tiện tùy chuyển, do Bồ tát thực hành những gì mình nói ra, chúng sanh thấy biết điều đó, nếu trước chưa thực hành điều thiện thì noi theo Bồ tát mà thực hành điều thiện.

Hỏi: Nghiệp dụng của bốn pháp nhiếp là gì?

Kệ tụng:

Đồ đựng và tin tưởng

Thực hành và giải thoát

Thứ tự làm bốn việc

Nghiệp dụng của bốn nhiếp.

Giải thích:

Bố thí nhiếp làm cho người nhận trở thành đồ chứa đựng chánh pháp, do tùy thuận tiền của mà có thể kham nhận chánh pháp.

Ái ngữ nhiếp làm cho người nghe phát sanh tin tưởng chánh pháp, do nghĩa lý của chánh pháp đánh tan sự nghi ngờ của người nghe.

Lợi hành nhiếp làm cho người được lợi phát khởi tu tập chánh pháp, do nương tựa và thực hành đúng với chánh pháp.

Đồng lợi nhiếp làm cho người tu tập được giải thoát, do tu hành thanh tịnh và dài lâu mà được lợi ích. Đó là nghiệp dụng của bốn pháp nhiếp.

Hỏi: Đức Thế tôn có nói hai nhiếp, nghĩa đó thế nào?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Bốn tánh nói hai nhiếp

Tài nhiếp và pháp nhiếp

Tài một, pháp có ba

Thứ tự nhiếp bốn nhiếp.

Giải thích:

Đặc tánh của bốn pháp nhiếp này, ở chỗ khác Thế tôn nói là hai nhiếp, là tài nhiếp và pháp nhiếp, nghĩa là lấy hai nhiếp thu tóm bốn nhiếp. Tài nhiếp là pháp nhiếp thứ nhất, pháp nhiếp là ba pháp nhiếp ở sau.

Hỏi: Vì sao pháp nhiếp thu tóm ba nhiếp ở sau?

Đáp: Pháp có ba thứ: 1. Pháp sở duyên; 2. Pháp sở hành; 3. Pháp sở tịnh; theo thứ tự pháp nhiếp thu tóm ba nhiếp ở sau.

Kệ tụng:

Sai biệt thấp, vừa, cao

Chủng loại của bốn nhiếp

Thêm không và thêm có

Thuần có thành ba ích.

Giải thích:

Chủng loại sai biệt của bốn pháp nhiếp có ba: thấp, vừa và cao, là do các Bồ tát nhiếp hóa người tu sai biệt trong ba thừa. Do ba chủng loại sai biệt này, thứ tự có ba ích: 1. Thêm không ích; 2. Thêm có ích; 3. Thuần có ích.

Thêm không ích, là pháp nhiếp của Bồ tát ở Giải hành địa. Thêm có ích, là pháp nhiếp của Bồ tát ở Nhập đại địa. Thuần có ích, là pháp nhiếp của Bồ tát từ địa thứ tám trở lên, do các Bồ tát quyết định làm cho chúng sanh thành tựu.

Kệ tụng:

Bồ tát muốn nhiếp chúng

Dựa bốn phương tiện này

Lợi lớn và dễ thành

Được khen ba lợi ích.

Giải thích:

Nếu các Bồ tát muốn nhiếp hóa đồ chúng thì tất cả phải dựa vào bốn pháp nhiếp này làm phương tiện. Vì sao? Vì tất cả lợi lớn được thành tựu, vì đó là phương tiện dễ dàng mang lại an vui, vì được chư Phật khen ngợi.

Kệ tụng:

Bốn nhiếp ở ba đời

Thường nhiếp hóa chúng sanh

Đường thành tựu chúng sanh

Không gì ngoài bốn nhiếp.

Giải thích:

Bốn pháp nhiếp này ở trong ba đời: đã nhiếp hóa, sẽ nhiếp hóa và đang nhiếp hóa tất cả chúng sanh. Cho nên, bốn pháp nhiếp này là con đường thành thục chúng sanh, không có con đường nào khác, vì con đường khác không có những đặc tánh của bốn pháp nhiếp.

Đã nói riêng bốn pháp nhiếp của sáu ba-la-mật, tiếp theo dùng một kệ tụng để tổng kết các nghĩa trước.

Kệ tụng:

Không đắm và vắng lặng

Chịu đựng, ý chí mạnh

Không lay động, rời tướng

Bốn nhiếp nhiếp chúng sanh.

Giải thích:

Trong kệ tụng này, ba câu trước là tóm tắt nghĩa của sáu ba-la-mật, câu sau cùng là tóm tắt nghĩa của bốn pháp nhiếp.

Nghĩa của kệ tụng này như trước đã giải thích. Bồ tát lấy sáu hạnh ba-la-mật để thực hành bốn pháp nhiếp. Rõ ràng, sáu ba-la-mật thành tựu lợi mình và lợi người, bốn pháp nhiếp cũng thành tựu lợi mình và lợi người. Đó là lý do, theo thứ tự, trước nói sáu ba-la-mật, sau nói bốn pháp nhiếp.

Phẩm Độ Nhiếp trọn vẹn

***

Phẩm Mười Tám: CÚNG DƯỜNG

Giải thích:

Đã nói nghiệp dụng dồn chứa của các hạnh, nhưng chưa nói sự cúng dường Như lai. Nay sẽ nói đến sự cúng dường Như lai.

Kệ tụng:

Y, vật, duyên, hồi hướng

Nhân, trí, điền, y chỉ

Như vậy tám cúng dường

Cúng dường các Như lai.

Giải thích:

Sự cúng dường Như lai nói lược có tám thứ: 1. Cúng dường pháp y; 2. Cúng dường phẩm vật; 3. Cúng dường duyên khởi; 4. Cúng dường hồi hướng; 5. Cúng dường nhân tố; 6. Cúng dường trí tuệ; 7. Cúng dường ruộng tốt; 8. Cúng dường y chỉ.

Hỏi: Tám thứ cúng dường này có ý nghĩa như thế nào?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Hiện tiền, không hiện tiền

Y phục cùng ẩm thực

Khởi sâu tâm thiện tịnh

Làm đầy đủ hai khối

Thường nguyện sanh đời Phật

Ba luân không phân biệt

Thành thục các chúng sanh

Sau cùng mười một thứ.

Giải thích:

Hai kệ tụng tám câu này hiển thị tám ý nghĩa cúng dường ở trên.

Hiện tiền, không hiện tiền: Là cúng dường pháp y cho chư Phật hiện tại, quá khứ và tương lai.

Y phục cùng ẩm thực: Là cúng dường phẩm vật, là lấy đồ mặc, đồ ăn thức uống v.v… mà cúng dường.

Khởi sâu tâm thiện tịnh: Là cúng dường duyên khởi, là lấy tâm tịnh tín sâu xa mà cúng dường.

Làm đầy đủ hai khối: Là cúng dường hồi hướng, là làm đầy đủ hai khối phước trí mà cúng dường.

Thường nguyện sanh đời Phật: Là cúng dường nhân tố, do đời trước có nguyện: Nguyện sanh vào đời có Phật, khiến tôi có lợi ích, chẳng phải sự cúng dường hư luống.

Ba luân không phân biệt: Là cúng dường trí tuệ, là người cúng dường, người nhận cúng và vật cúng, ba sự ấy không thể thủ đắc.

Thành thục các chúng sanh: Là cúng dường ruộng tốt, chúng sanh là ruộng, Bồ tát dạy chúng sanh cúng dường để gieo trồng thiện căn.

Sau cùng mười một thứ: Là cúng dường y chỉ, y chỉ có mười một thứ:

1. Y chỉ vật, là y tài vật mà cúng dường;

2. Y chỉ tư duy, là y chỉ tư duy mùi vị, tư duy tùy hỷ và tư duy mong cầu;

3. Y chỉ tín, là tin Đại thừa mà phát bồ-đề tâm;

4. Y chỉ nguyện, là phát thệ nguyện rộng lớn;

5. Y chỉ bi, là tâm thương xót chúng sanh;

6. Y chỉ nhẫn, là làm được việc khó làm;

7. Y chỉ hạnh, là tu tập các ba-la-mật;

8. Y chỉ chánh niệm, là nghĩ nhớ chính xác chánh pháp (mà mình văn, tư, tu);

9. Y chỉ chánh kiến, là thấy biết sự thật;

10. Y chỉ giải thoát, là đoạn diệt phiền não và tánh thanh văn;

11. Y chỉ chân thật, là chứng đắc đại bồ-đề.

Hỏi: Các loại cúng dường sai biệt như thế nào?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Nhân quả và trong ngoài

Thô tế và lớn nhỏ

Xa gần những sai biệt

Là các loại cúng dường.

Giải thích:

Thế gian sai biệt nên chủng loại cúng dường cũng sai biệt.

Quá khứ làm nhân, hiện tại làm quả; hiện tại làm nhân, vị lai làm quả; quá khứ, hiện tại và vị lai làm nhân quả như vậy.

Trong, là mình cúng dường. Ngoài, là bảo người cúng dường. Thô, là cúng dường tài lợi. Tế, là cúng dường sự tùy thuận. Nhỏ, là cúng dường hạ liệt, vì có tâm lý cất cao. Lớn, là cúng dường tối thắng, vì không có tâm lý cất cao và không có tâm phân biệt ba luân.

Xa, là muốn lúc sau mới cúng dường, hoặc cách một đời mới cúng dường, hoặc phát nguyện muốn cúng dường ở đời vị lai. Gần, là muốn bây giờ cúng dường, hoặc cúng dường không gián đoạn, hoặc phát nguyện muốn cúng dường ở đời hiện tại.

Hỏi: Cúng dường Như lai những gì gọi là cúng dường tối thượng?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Cúng dường các Như lai

Tâm ý làm tối thượng

Tín, tâm, thông, phương tiện

Hòa hợp: năm tối thắng.

Giải thích:

Có năm thứ tâm ý cúng dường Như lai. Nên biết, cúng dường tâm ý là sự cúng dường tối thượng.

Những gì là năm? 1. Tịnh tín; 2. Thâm tâm; 3. Thần thông; 4. Phương tiện; 5. Hòa hợp.

Tịnh tín: Là trong pháp Đại thừa có nói sự cúng dường sanh khởi đức tin thanh tịnh.

Thâm tâm: Tâm này có chín thứ: 1. Tâm mùi vị; 2. Tâm tùy hỷ; 3. Tâm mong cầu; 4. Tâm không biết chán; 5. Tâm rộng lớn; 6. Tâm hoan hỷ thù thắng; 7. Tâm lợi ích thù thắng; 8. Tâm không nhuốm bẩn; 9. Tâm thuần lành. Chín thứ tâm này đã nói ở phần tu tập sáu ba-la-mật.

Thần thông: Là dựa vào các tam-ma-đề như hư không tạng tam-muội v.v…

Phương tiện: Là dùng trí vô phân biệt làm phương tiện nhiếp hóa.

Hòa hợp: Là tất cả các đại Bồ tát hòa hợp một quả vào tất cả quả.

Phẩm Cúng Dường trọn vẹn

Phẩm Mười Chín: THÂN CẬN

Giải thích:

Đã nói sự cúng dường Như lai, kế nói sự thân cận thiện tri thức.

Kệ tụng:

Như trước cúng dường Phật

Nói lược có tám thứ

Thân cận thiện tri thức

Nên biết cũng có tám.

Giải thích:

Sự thân cận thiện tri thức cũng có tám thứ thân cận: y, vật, duyên khởi, hồi hướng, nhân tố, trí, ruộng và y chỉ.

Hỏi: Tám nghĩa thân cận như thế nào?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Điều, tĩnh, trừ, đức tăng

Có dũng, hiểu A-hàm

Biết chân, khéo thuyết pháp

Bi sâu, rời thoái giảm.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị thân cận thứ nhất là thân cận y.

Nếu thiện tri thức nào có đủ mười công đức sau đây thì nên thân cận. Những gì là mười? 1. Điều phục; 2. Tịch tĩnh; 3. Hoặc đoạn trừ; 4. Đức tăng thêm; 5. Có dũng mãnh; 6. Hiểu rành kinh giáo; 7. Biết chân; 8. Thiện thuyết; 9. Tâm bi sâu; 10. Rời xa sự thoái lui.

Điều phục, là thích ứng với giới luật do các căn được điều phục.

Tịch tĩnh, là thích ứng với thiền định do nội tâm được thu nhiếp.

Hoặc đoạn trừ, là thích ứng với đức tin, chánh niệm và trí tuệ nên phiền não đoạn trừ.

Đức tăng thêm, là đầy đủ giới, định và tuệ, không có thiếu sót và giảm bớt.

Có dũng mãnh, là khi làm lợi ích cho người thì không biết mệt mỏi.

Hiểu rành kinh giáo, là có được sự học rộng nghe nhiều.

Biết chân, là hiểu rõ chân thật nghĩa.

Thiện thuyết, là nói pháp chính xác.

Tâm bi sâu, là tuyệt dứt mong cầu [quả báo khả ái].

Rời xa sự thoái lui, là ở trong mọi thời cung kính nói pháp.

Kệ tụng:

Kính dưỡng và cấp thị

Thân tâm cùng tương ứng

Nguyện vui và theo thời

Hạ tâm làm duyên khởi.

Giải thích:

Nửa trên kệ tụng hiển thị thân cận vật, nửa dưới kệ tụng hiển thị thân cận duyên khởi.

Thân cận vật có ba thứ: 1. Của cải, là cung kính cúng dường; 2. Thân mạng, là tùy thuận cung cấp và hầu hạ; 3. Tâm tánh, là khi cung cấp và hầu hạ thì thân tương ứng với tâm.

Thân cận duyên khởi cũng có ba thứ: 1. Vui vẻ tình nguyện; 2. Biết thời gian thích hợp; 3. Trừ tâm kiêu mạn.

Kệ tụng:

Vì rời các tham đắm

Vì cầu hạnh tùy thuận

Tùy thuận đúng dạy bảo

Làm cho người hoan hỷ.

Giải thích:

Nửa trên kệ tụng hiển thị thân cận hồi hướng, nửa dưới kệ tụng hiển thị thân cận nhân tố.

Thân cận hồi hướng là không vì tham đắm lợi dưỡng, chỉ vì tùy thuận tu hành.

Thân cận nhân tố là Bồ tát theo sự dạy bảo mà tùy thuận tu hành, lấy đó làm nhân tố để thân cận thiện tri thức. Vì sao? Bồ tát lấy sự tùy thuận này để cho bậc thiện tri thức tâm sanh hoan hỷ.

Kệ tụng:

Khéo hiểu biết ba thừa

Mỗi thừa khiến thành tựu

Thành thục sanh, tịnh độ

Vì pháp không vì của.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị ba thứ thân cận: trí, ruộng và y chỉ.

Khéo hiểu biết ba thừa, mỗi thừa khiến thành tựu: Hiển thị thân cận trí, vì khéo hiểu biết ba thừa là do trí.

Thành thục sanh, tịnh độ: Hiển thị thân cận ruộng. Ruộng có hai thứ: 1. Ruộng chúng sanh; 2. Ruộng cõi Phật.

Hỏi: Vì sao hai thứ này được gọi là ruộng?

Đáp: Từ giáo pháp được nghe mà kiến lập chúng sanh sống trong sự tương tục và tùy quốc độ Phật mình trú ở mà tu hành nhân tố thanh tịnh.

Vì pháp không vì của: Hiển thị thân cận y chỉ. Bồ tát chỉ lấy lợi ích của giáo pháp đầy đủ làm y chỉ, cho nên thân cận thiện tri thức, chứ không lấy lợi ích của tài sản đầy đủ làm y chỉ.

Hỏi: Sự thân cận thiện tri thức có bao nhiêu chủng loại sai biệt?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Nhân quả và tùy pháp

Trong ngoài và thô tế

Hơn kém và xa gần

Là chủng loại sai biệt.

Giải thích:

Sai biệt nhân quả: Thân cận thiện tri thức đời quá khứ làm nhân, thân cận thiện tri thức đời hiện tại làm quả, và thân cận thiện tri thức đời hiện tại làm nhân, thân cận thiện tri thức đời vị lai làm quả.

Sai biệt tùy pháp: Vị thiện tri thức lưu bố pháp môn, tùy theo pháp môn sai biệt mà có sự tu hành sai biệt.

Sai biệt trong ngoài: Chính mình thân cận thiện tri thức là trong, làm cho người khác thân cận thiện tri thức là ngoài.

Sai biệt thô tế: Chính mình nghe pháp từ vị thiện tri thức là thô, nội tâm tư duy pháp đã nghe là tế.

Sai biệt hơn kém: Thân cận thiện tri thức mà có tâm kiêu mạn là kém, thân cận thiện tri thức mà không có tâm kiêu mạn là hơn.

Sai biệt xa gần: Thân cận thiện tri thức ở cảnh giới hiện tại là gần, thân cận thiện tri thức ở cảnh giới sanh báo là xa. Lại nữa, thân cận thiện tri thức ở cảnh giới sanh báo là gần, thân cận thiện tri thức ở cảnh giới hậu báo là xa. Lại nữa, thân cận thiện tri thức đời này tiếp nối đời kia là gần, thân cận thiện tri thức mà gián đoạn một đời là xa. Lại nữa, phát nguyện thân cận thiện tri thức ngay trong đời hiện tại là gần, phát nguyện thân cận thiện tri thức ở trong đời vị lai là xa.

Hỏi: Thế nào là sự thân cận thiện tri thức được cho là tối thắng?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Thân cận thiện hữu thắng

Như trước năm tâm ý

Tín, tâm, thông, phương tiện

Hòa hợp, các sai biệt.

Giải thích:

Như trước đã nói, sự cúng dường chư Phật do năm tâm ý nên được cho là tối thắng, đó là tịnh tín, thâm tâm, thần thông, phương tiện và hòa hợp. Sự tối thắng trong việc thân cận thiện tri thức cũng có năm tâm ý như vậy.

Tịnh tín: Tịnh tín đối với thân cận xứ được nói trong kinh Đại thừa.

Thâm tâm: Tâm cũng có chín thứ, từ tâm mùi vị cho đến tâm thuần lành, tu hành thì lấy các tâm này làm thân cận.

Thần thông: Dựa vào các tam ma đề như hư không tạng tam-muội v.v…, lấy tam ma đề làm thân cận.

Phương tiện: Dùng trí vô phân biệt làm phương tiện nhiếp hóa.

Hòa hợp: Các đại Bồ tát lấy một quả hòa nhập tất cả quả.

Phẩm Thân Cận trọn vẹn

Phẩm Hai Mươi: PHẠN TRÚ

Giải thích:

Bồ tát tu tập bốn phạn trú như thế nào?

Kệ tụng:

Phạn trú có bốn thứ

Mỗi thứ bốn sắc thái:

Trị chướng và hợp trí

Chuyển cảnh và thành sanh.

Giải thích:

Phạn trú là bốn tâm vô lượng, tức từ, bi, hỷ và xả. Nên biết, bốn tâm vô lượng của Bồ tát, mỗi một tâm đều có bốn sắc thái:

1. Trị chướng: cái bị đối trị được hủy diệt [bởi cái đối trị];

2. Hợp trí: tối thắng là có được trí vô phân biệt để đối trị [cái bị đối trị];

3. Chuyển cảnh: chúng sanh duyên, pháp duyên và vô duyên;

4. Thành sanh: làm những nghiệp dụng thù thắng để thành tựu chúng sanh.

Hỏi: Những chúng sanh nào là chúng sanh duyên? Những pháp và vô duyên nào là pháp duyên và vô duyên?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Lạc, khổ, hỷ, phiền não

Như vậy chúng sanh duyên

Pháp duyên, nói pháp trú

Vô duyên, tức chân như.

Giải thích:

Chúng sanh duyên là bốn loại nhóm chúng sanh: 1. Nhóm chúng sanh cầu vui; 2. Nhóm chúng sanh có khổ; 3. Nhóm chúng sanh có hỷ; 4. Nhóm chúng sanh phiền não.

Từ là đối với nhóm chúng sanh cầu vui thì khởi hạnh cho vui. Bi là đối với nhóm chúng sanh có khổ thì khởi hạnh cứu khổ. Hỷ là đối với nhóm chúng sanh có hỷ thì khởi hạnh không xa lìa. Xả là đối với nhóm chúng sanh phiền não, mà phiền não ấy từ các cảm thọ sanh ra, thì khởi hạnh xa lìa. Đây gọi là chúng sanh duyên.

Pháp duyên nghĩa là nói bốn thứ pháp phạn trú. Đây gọi là pháp duyên.

Vô duyên nghĩa là nói tánh như hữu của các pháp, do có trí vô phân biệt. Đây gọi là vô duyên.

Kệ tụng:

Đạt tánh như các pháp

Nhẫn vị được thanh tịnh

Thu nhiếp nghiệp thân, miệng

Cũng hết các phiền não.

Giải thích:

Cần phải biết bốn thứ hạnh trên. Vô duyên từ, nghĩa là duyên với tánh như hữu của các pháp. Bồ tát ở địa thứ tám chứng vô sanh pháp nhẫn thì có được vô duyên từ, tất cả thiện căn cũng được viên mãn, thể hội chân như nơi sự thanh tịnh. Đạt vô duyên từ thì thu nhiếp được hai nghiệp sở y là thân và miệng, và cũng đoạn hết các phiền não. Như phiền não và sở duyên của nó, các phiền não được đoạn vì đoạn được sở duyên của nó, vì vậy trong khế kinh nói đến tự thể của ý.

Hỏi: Bốn phạn trú có những hạnh sai biệt gì?

Kệ tụng:

Có động và không động

Có ăn và không ăn

Nên biết bốn phạn trú

Như vậy hạnh sai biệt.

Giải thích:

Nên biết bốn phạn trú kia có bốn chủng hạnh sai biệt: 1. Động; 2. Không động; 3. Ăn; 4. Không ăn.

Động là thoái phần, vì có thể thoái lui. Không động là trú phần và thắng phần, vì không thể thoái lui. Ăn là tâm nhiễm ô, tham đắm mùi vị dục lạc, không có cái tâm lớn lao. Không ăn là tâm không nhiễm ô.

Những hạnh thoái lui, không thoái lui, nhiễm ô, không nhiễm ô là những sai biệt của bốn phạn trú. Các Bồ tát trú trong không động và không ăn, không trú trong động và ăn.

Hỏi: Những chủng loại sai biệt của phạn trú là gì?

Kệ tụng:

Sáu trước và hai trước

Địa thấp và tâm thấp

Tương tự vậy là thấp

Chuyển thấp để lên cao.

Giải thích:

Thấp cao sai biệt là do bốn phạn trú này lấy sáu phẩm trước của Bất định địa làm thấp, và ngay cả khi trú trong tất cả định địa thì hai phẩm trước của Bất định địa tự tánh vẫn là thấp. Những địa bậc thấp dù địa trước có siêu việt và tinh tế hơn địa sau vẫn gọi là thấp. Nói cách khác, những địa bậc thấp là từ Bồ tát ở địa thứ bảy trở xuống, cần tu quán thêm nữa hướng lên địa bậc cao.

Tâm chí hạ liệt cũng gọi là thấp, như các vị Thanh văn. Những vị tu tập có tâm chí tương tự như vậy cũng gọi là thấp. Vì sao? Vì các vị ấy chưa chứng đắc vô sanh pháp nhẫn của Bồ tát. Đã nói về thấp, nên biết chuyển đổi thấp thì thành cao.

Hỏi: Bốn Phạn trú này có thể có được bao nhiêu quả?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Quả báo sanh cõi Dục

Mãn tụ và thành sanh

Không rời và lìa chướng

Đầy đủ năm quả báo.

Giải thích:

Bồ tát trú ở các phạn trú, lấy đó làm nhân nên có được đầy đủ năm quả:

1. Thọ sanh làm chúng sanh trong cõi Dục, là quả quả báo;

2. Hai khối phước và trí viên mãn, là quả tăng thượng;

3. Thành thục chúng sanh, là quả trượng phu;

4. Tất cả chỗ sanh đều không rời phạn trú, là quả y;

5. Sanh ra nơi nào cũng lìa những chướng ngại cho các phạn trú, là quả tương ly.

Hỏi: Trong bốn phạn trú này có những sự gì là sắc thái của Bồ tát?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Dẫu gặp duyên chướng nặng

Cho đến tự phóng dật

Sắc thái của Bồ tát

Phạn tâm không thoái chuyển.

Giải thích:

Sắc thái của Bồ tát là phạn tâm không thể lay động, có thể thấy qua hai việc:

1. Giả sử Bồ tát gặp nhân duyên chướng nặng thì phạn tâm vẫn không thay đổi, đó là sắc thái của Bồ tát;

2. Giả sử Bồ tát tự mình phóng dật, nghĩa là khả năng đối trị ở thời gian [ngã chấp] không hiện tiền, cũng như ở vô lượng thời gian [ngã chấp] hiện tiền, thì phạn tâm vẫn không thay đổi, đó là sắc thái của Bồ tát.

Hỏi: Những chướng ngại của phạn trú là gì?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Bốn phạn có bốn chướng

Là sân, não, ưu, dục

Bồ tát đủ chướng này

Nhiều thứ tội lỗi khởi.

Giải thích:

Bốn phạn trú có đủ bốn chướng ngại cần phải đối trị, theo thứ tự là: 1. Giận dữ; 2. Bực tức; 3. Lo buồn; 4. Ham muốn.

Những chướng ngại như vậy đối với bốn phạn trú là không có thật thể. Nếu cho là có thật bốn chướng ngại này thì lại sanh ra nhiều thứ tội lỗi.

Hỏi: Thế nào là nhiều tội lỗi?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Các phiền não như vậy

Sanh khởi có ba hại

Hại mình và hại người

Hại cả Bồ tát giới.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị tội lỗi của ba cái hại: 1. Hại mình, là làm cho mình khổ sở; 2. Hại người, là làm cho người khổ sở; 3. Hại Bồ tát giới, là làm cho mình và người cùng khổ sở.

Kệ tụng:

Có hối và mất lợi

Mất hộ và thầy bỏ

Xử phạt và tiếng xấu

Như vậu sáu quở trách.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị sáu thứ quở trách khi mắc tội lỗi:

1. Tự trách mình, nên lòng lo buồn hối hận;

2. Người trách cứ, nên mình mất lợi dưỡng;

3. Chư thiên quở trách, nên mình mất sự ủng hộ;

4. Đại sư quở trách, nên đại sư rời bỏ mình;

5. Bậc phạn hạnh quở trách, là bậc phạn hạnh trí tuệ xử phạt mình đúng pháp;

6. Người trong mười phương quở trách, vì tiếng xấu của mình lan truyền.

Kệ tụng:

Thân sau đọa các nạn

Phạn trú nay thoái lui

Tâm số nên chịu khổ

Lại nữa sanh ba lỗi.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị ba thứ tội lỗi phải chịu ở đời sau:

1. Đọa vào các nạn, do đời này tạo nghiệp nhân ác nên đời sau chịu quả báo ác;

2. Thoái lui công hạnh, do công hạnh đã được lại thoái lui, và công hạnh chưa được càng khó được, đánh mất phạn trú ngay trong hiện tại và cả vị lai;

3. Đau khổ phát sanh, do sự vận hành của các tâm số pháp mà từ đó sanh ra các nỗi ưu khổ lớn.

Hỏi: Đã nói tội lỗi, vậy những gì là công đức?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Người khéo trú phạn trú

Rời xa các ác kia

Sanh tử không làm bẩn

Không bỏ cứu chúng sanh.

Giải thích:

Người trú phạn trú có được hai công đức:

1. Bỏ phiền não, những tội lỗi đã nói ở trước thảy đều rời xa;

2. Không bỏ chúng sanh, vì thành thục chúng sanh mà ở trong sanh tử nhưng không bị nhiễm ô.

Hỏi: Đã biết công đức, nhưng làm sao biết công đức này là tôn cao hết mức?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Như người có một con

Có đức nên rất thương

Bồ tát đối tất cả

Khởi phạn thắng hơn kia.

Giải thích:

Qua thí dụ người có một con cho thấy Bồ tát trú ở bốn thứ phạn trú là tôn cao hết mức.

Hỏi: Đại bi lấy những chúng sanh nào làm sở duyên?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Cháy hừng và oán thắng

Khổ bức và tối che

Trú hiểm và trói chặt

Ăn độc và lạc đường

Lại có trú phi đạo

Cùng những người cằn cỗi

Như vậy mười chúng sanh

Sở duyên tâm đại bi.

Giải thích:

Bồ tát với tâm đại bi nắm lấy mười loại chúng sanh làm cảnh giới của mình:

1. Chúng sanh cháy hừng, là chúng sanh đắm nhiễm dục lạc;

2. Chúng sanh oán thắng, là chúng sanh khi tu thiện bị ma quân làm chướng ngại;

3. Chúng sanh khổ bức, là chúng sanh ở tại ba đường khổ;

4. Chúng sanh tối che, là chúng sanh thường làm những việc bất thiện, do [si mê] không biết quả báo của nghiệp;

5. Chúng sanh trú hiểm, là chúng sanh không thích niết-bàn, do không đoạn tuyệt với đường hiểm sanh tử;

6. Chúng sanh trói chặt, là chúng sanh ngoại đạo tà kiến, do muốn hướng đến giải thoát nhưng bị trói chặt bằng sợi dây cứng chắc là các tà kiến;

7. Chúng sanh ăn độc, là chúng sanh ăn mùi vị thiền định. Giống như thức ăn ngon mà lẫn chất độc có thể hại người, thiện định cũng vậy, vì tham đắm thiện định mà bị thoái mất;

8. Chúng sanh lạc đường, là chúng sanh tăng thượng mạn, tuy ở trong đạo giải thoát chân thật mà có sự mê lầm;

9. Chúng sanh trú phi đạo, là chúng sanh bất định tánh thừa thấp, do có thoái lui;

10. Chúng sanh cằn cỗi, là các Bồ tát chưa có tròn đầy hai khối phước trí.

Mười loại chúng sanh như vậy là cảnh giới sở duyên tâm đại bi của Bồ tát.

Đã nói cảnh giới của tâm đại bi, kế nói sự đắc quả của tâm đại bi.

Kệ tụng:

Chướng đoạn, giác ngộ người

Cho vui, quả khả ái

Tự lưu: năm chỗ dựa

Người đi đến gần Phật.

Giải thích:

Chướng đoạn là quả tương ly, vì các chướng ngại được đoạn trừ. Giác ngộ người là quả tăng thượng, vì làm lợi ích cho chúng sanh. Cho vui là quả trượng phu, vì làm được pháp trượng phu. Quả khả ái là quả quả báo, vì có được quả báo ưa thích. Tự lưu là quả y, vì tiếp cận tâm bi thù thắng ở vị lai.

Như vậy, năm quả đều dựa vào tâm đại bi mà có được. Nên biết, Bồ tát tu tập như vậy thì khoảng cách đi đến quả Phật bồ-đề không còn bao xa.

Đã nói sự đắc quả của tâm đại bi, kế nói sự không trú ở của tâm đại bi.

Kệ tụng:

Khổ sanh tử làm thể

Lấy vô ngã làm tánh

Không chán nhờ đại bi

Không não nhờ thắng giác.

Giải thích:

Tất cả dòng sanh tử lấy khổ làm thể, lấy vô ngã làm tánh. Bồ tát từ nơi khổ mà thấu hiểu được như thật, nơi vô ngã mà được vô thượng giác.

Được sự thấu hiểu và giác ngộ như vậy rồi, nhờ tâm đại bi nên không chán lìa sanh tử, nhờ trí thắng giác nên không bị phiền não phá hại. Cho nên Bồ tát không trú niết-bàn, cũng không trú sanh tử.

Đã nói sự không trú ở của tâm đại bi, kế nói công đức của tâm đại bi.

Kệ tụng:

Khi thấy tự tánh khổ

Biết khổ sanh bi khổ

Biết phương tiện viễn ly

Hằng tu không biết chán.

Giải thích:

Khi Bồ tát quán sát sự khổ nơi thế gian, thấy được tự tánh của khổ thì sanh tâm bi cảm trước khổ đau, muốn dùng mọi phương tiện làm cho chúng sanh viễn ly khổ sở, cho đến thấu hiểu như thật. Bồ tát quán sát rồi, hằng tu tập như vậy không biết chán. Đó là công đức của tâm đại bi.

Đã nói công đức của tâm đại bi, kế nói sự sai biệt của tâm đại bi.

Kệ tụng:

Tự tánh và số trạch

Túc tập và chướng đoạn

Tâm bi của Bồ tát

Có bốn sai biệt này.

Giải thích:

Theo thứ tự, tâm đại bi có bốn sai biệt:

1. Tự tánh: sanh thành một cách tự nhiên;

2. Số trạch: thấy được công đức và lầm lỗi;

3. Túc tập: do tu tập từ nhiều đời trước;

4. Chướng đoạn: do ly dục, đoạn phiền não chướng cần đối trị mà được thanh tịnh.

Lại có sáu thứ sai biệt:

Kệ tụng:

Chẳng bình đẳng, chẳng thường

Chẳng sâu, chẳng tùy thuận

Chẳng đạo, chẳng bất đắc

Trái sáu thứ là bi.

Giải thích:

Sáu thứ sai biệt này đi ngược lại với tâm đại bi. Tâm đại bi có sáu thứ sai biệt: 1. Bình đẳng; 2. Thường hằng; 3. Cực sâu; 4. Tùy thuận; 5. Tịnh đạo; 6. Bất khả đắc.

Bình đẳng là biết các cảm thọ: lạc thọ v.v… của chúng sanh đều là khổ.

Thường hằng là đưa chúng sanh đến niết-bàn vô dư mà tâm đại bi vẫn không cùng tận.

Cực sâu là khi nhập vào các địa, các Bồ tát có sự bình đẳng mình người.

Tùy thuận là đối với tất cả nỗi khổ của chúng sanh thì cứu giúp bằng như lý hành.

Tịnh đạo là phiền não cần phải đối trị đã được đoạn trừ.

Bất khả đắc là khi Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn thì thấy các pháp là bất khả đắc.

Đã nói sự sai biệt của tâm đại bi, kế nói tâm đại bi [được cấu thành tương tự] như cái cây.

Kệ tụng:

Bi, nhẫn, tư, nguyện, sanh

Thành thục, lần lượt nói

Căn lớn đến quả lớn

Cây bi sáu sự thành.

Giải thích:

Nên biết cây đại bi lấy sáu sự để thành tựu: 1. Đại bi; 2. Nhẫn nhục; 3. Tư duy; 4. Thắng nguyện; 5. Thắng sanh; 6. Thành thục. Đây chính là sáu bộ phận của một cái cây: gốc, thân, cành, lá, hoa, trái.

Hỏi: Sự ấy [ý nghĩa] thế nào?

Đáp: Cây này lấy đại bi làm gốc, lấy sự nhẫn nhục làm thân, lấy sự tư duy về lợi ích cho chúng sanh làm cành, lấy sự nguyện sanh về cõi thù thắng làm lá, lấy sự vãng sanh cõi thù thắng làm hoa và lấy sự thành thục chúng sanh làm trái.

Hỏi: Vì sao sáu sự ấy được xếp trước sau như vậy?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Không bi thì không nhẫn

Như vậy sáu thứ tự

Thắng sanh nếu không được

Thành thục chúng sanh không.

Giải thích:

Nếu không có tâm đại bi thì không thể khởi nhẫn nhục khó làm trước cái khổ lớn [sanh tử].

Nếu không có sự nhẫn nhục khó làm trước cái khổ lớn [sanh tử] thì không thể khởi tư duy về lợi ích cho chúng sanh.

Nếu không có sự tư duy về lợi ích cho chúng sanh thì không thể khởi nguyện sanh về cõi thù thắng.

Nếu không có sự nguyện sanh về cõi thù thắng thì không thể thọ sanh cõi thù thắng.

Nếu không có sự thọ sanh cõi thù thắng thì không thể thành thục chúng sanh.

Hỏi: Trước sau tương tự như vậy, còn thành lập tương tự thì thế nào?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Gốc sanh do từ thấm

Thân mọc do vui lớn

Chánh niệm là cành vươn

Nguyện nối là lá lớn

Nội duyên thành là hoa

Ngoại duyên thành là trái

Nên biết gốc bi, thân …

Thứ tự như vậy thành.

Giải thích:

Sự thành lập tương tự ở đây là: Tâm bi nhờ tâm từ tưới tẩm làm cho tươi tốt, vì người có tâm từ khi thấy người khổ thì sanh tâm bi cảm trước nỗi khổ, cho nên lấy tâm bi làm gốc.

Nhẫn nhục nhờ niềm vui làm cho nảy nở, vì Bồ tát làm lợi người, cứu khổ nên sanh niềm vui, niềm vui sanh thì hạnh nhẫn nhục càng rộng lớn, cho nên lấy nhẫn làm thân.

Tư duy nhờ chánh niệm làm cho tăng tiến, vì sức nhẫn rộng lớn thì có thể khởi chánh niệm ở trong việc lợi người, cho nên lấy tư duy làm cành.

Thắng nguyện nhờ sự nối tiếp làm cho trưởng thành, vì cái trước diệt thì cái sau sanh, giống như lá già rụng thì lá non nhú, cho nên lấy thắng nguyện làm lá.

Thắng sanh lấy nội duyên thành làm chân thật, vì thân mình thành thục thì sự thọ sanh chẳng hư dối, cho nên lấy thắng sanh làm hoa.

Thành thục nhờ ngoại duyên thành làm chân thật, vì thân người thành thục thì sự lợi ích chẳng hư dối, cho nên lấy thành thục chúng sanh làm trái.

Nên biết sự thành lập tâm đại bi phải theo thứ tự như vậy.

Đã nói tâm đại bi [được cấu thành tương tự] như cái cây, kế ca ngợi công đức của tâm đại bi.

Kệ tụng:

Đại bi làm lợi ích

Ai với người không khởi

Với khổ thắng lạc sanh

Lạc sanh nhờ tâm bi.

Giải thích:

Nghĩa ở đây như kệ tụng đã nói.

Đã ca ngợi công đức của tâm đại bi, kế nói sự không ràng buộc của tâm đại bi.

Kệ tụng:

Bồ tát bi tự tại

Tịch tĩnh còn không trú

Đời vui và thân mạng

Ái ấy làm sao khởi.

Giải thích:

Tất cả người trong thế gian đều tham luyến cái vui thế tục và thân mạng của mình. Tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác tuy không tham luyến cái vui thế tục và thân mạng của mình nhưng còn khởi ý chấp trước niết-bàn. Bồ tát không như vậy, vì có tâm đại bi nên tự tại, đối với niết-bàn còn không trú ở huống là trú trong hai sự luyến ái kia?

Đã nói sự không ràng buộc của tâm đại bi, kế nói về sự tối thắng của đại bi ái.

Kệ tụng:

Tham ái chẳng không chướng

Thế bi cũng thế gian

Bồ tát bi ái khởi

Chướng tận, vượt thoát đời.

Giải thích:

Sự tối thắng của bi ái, tự có hai nghĩa: 1. Chướng tận; 2. Vượt thoát thế gian.

Bản thân của ái đồng đẳng với tham, tức tự thể của ái là chướng ngại. Bồ tát đi trong thế gian bằng tự thể của tâm bi tuy chẳng phải là chướng ngại nhưng vẫn nằm trong phạm trù thế gian. Khi nào tự thể tâm bi ái của Bồ tát không còn chướng ngại thì mới có thể vượt thoát thế gian, nên gọi là tối thắng.

Hỏi: Thế nào là chướng tận?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Có khổ và không trí

Biển lớn và tối tăm

Cứu khổ bằng phương tiện

Làm sao không chướng tận.

Giải thích:

Có khổ ví như biển lớn. Không trí ví như sự tối tăm. Tâm đại bi là phương tiện cứu khổ. Có tâm bi ái này thì chướng tận.

Hỏi: Làm sao vượt thoát thế gian?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

La-hán và Duyên giác

Không bi ái như vậy

Huống là người thế gian

Làm sao vượt thoát đời.

Giải thích:

A-la-hán, Bích-chi Phật còn không có tâm đại bi ái, huống là người thế gian sao có thể có được? Nếu không có tâm đại bi ái thì làm sao vượt thoát thế gian?

Đã nói sự tối thắng của đại bi ái, kế nói sự không chán của tâm đại bi.

Kệ tụng:

Có bi, các Bồ tát

Xả khổ nên khởi khổ

Người mới khởi khổ sợ

Khi chứng vui mừng sâu.

Giải thích:

Xả khổ: Bằng tâm đại bi, các Bồ tát muốn xả bỏ cái khổ của chúng sanh.

Nên khởi khổ: Vì xả bỏ cái khổ của chúng sanh mà Bồ tát (chấp nhận) sanh khởi cái khổ cho mình.

Người mới khởi khổ sợ: Người mới là chỉ cho Bồ tát ở địa vị tín hạnh. Các vị Bồ tát này ở trong sự khởi khổ mà sanh lòng sợ hãi, đó là do các vị ấy chưa thấy được mình người bình đẳng, chưa tiếp xúc được bản chất như thật của khổ đau.

Khi chứng vui mừng sâu: Khi chứng là nói Bồ tát ở địa vị tâm tịnh. Các vị Bồ tát này ở trong sự khởi khổ mà sanh lòng vui mừng, đó là do các vị ấy thấy được mình người bình đẳng, đã tiếp xúc được bản chất như thật của khổ đau.

Đã nói sự không chán của tâm đại bi, kế nói sự thù thắng của đại bi và khổ.

Kệ tụng:

Bi khổ rất hy hữu

Khổ thắng tất cả lạc

Càng vui vì bi sanh

Làm xong chẳng có gì.

Giải thích:

Bi khổ rất hy hữu: Từ cái khổ của chúng sanh mà sanh khởi tâm đại bi, từ tâm đại bi mà sanh khởi cái khổ cho mình. Như vậy, Bồ tát có tâm bi và có cái khổ cho mình, đó là một sự hy hữu. Vượt lên trên cái bi khổ ấy gọi là rất hy hữu.

Khổ thắng tất cả lạc: Cái bi khổ này thắng hơn tất cả dục lạc thế gian.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Càng vui vì bi sanh: Các Bồ tát lấy bi khổ làm niềm vui, vì cái khổ ấy từ tâm đại bi sanh ra.

Làm xong chẳng có gì: Đối với niềm vui từ việc làm [lợi sanh] hoàn tất, Bồ tát còn thấy là không, huống là những gì khác của thế gian mà Bồ tát lại thấy có hay sao?

Đã nói sự thù thắng của đại bi và khổ, kế nói sự thù thắng của đại bi và bố thí.

Kệ tụng:

Thí và bi cùng khởi

Làm cho Bồ tát vui

Lạc thọ trong ba cõi

So đây chẳng chút phần.

Giải thích:

Nếu sự bố thí và tâm đại bi cùng sanh thì có năng lực khởi thắng lạc của Bồ tát. Ở trong ba cõi có những lạc thọ được tạo tác, nếu đem so với thắng lạc được tạo tác từ tâm đại bi và sự bố thí thì những lạc thọ ấy không có được [dù chỉ] một phần tương tự.

Đã nói sự thù thắng của đại bi và bố thí, kế nói sự nhẫn khổ của tâm đại bi.

Kệ tụng:

Sanh tử tự tánh khổ

Không bỏ nhờ tâm bi

Khởi khổ vì lợi người

Sao bỏ không tu tập.

Giải thích:

Tất cả khổ đau đều nằm trong nỗi khổ sanh tử. Các Bồ tát không bỏ sanh tử là nhờ có tâm đại bi. Bồ tát lấy sự khởi khổ làm nhân tố của lợi người. Bồ tát không bỏ sanh tử tức là không từ bỏ tất cả khổ [cho riêng mình].

Đã nói sự nhẫn khổ của tâm đại bi, kế nói quả của đại bi và bố thí.

Kệ tụng:

Đại bi hằng tăng trưởng

Bi thí tài ba quả

Ái sanh và nhiếp sanh

Tư sanh gồm ba vui.

Giải thích:

Đại bi hằng tăng trưởng, bi thí tài ba quả: Tâm đại bi của Bồ tát có năng lực làm tăng trưởng ba thứ quả:

1. Tăng bi, do tu tập mà làm cho tự thể [đại bi] tăng trưởng;

2. Tăng thí, do tâm bi tự tại mà làm cho sự thí được tăng trưởng;

3. Tăng tài, do sự thí tự tại mà làm cho của cải được tăng trưởng.

Ái sanh và nhiếp sanh, tư sanh gồm ba vui: Từ ba quả này sanh ra ba niềm vui:

1. Từ tâm bi làm nhân sanh ra niềm vui thương yêu chúng sanh;

2. Từ thí làm nhân sanh ra niềm vui nhiếp hóa chúng sanh;

3. Từ của cải làm nhân sanh ra niềm vui giúp đỡ chúng sanh.

Đã nói quả tăng trưởng từ tâm đại bi, kế nói sự khuyến tiến của tâm đại bi.

Kệ tụng:

Bi trưởng và thí tăng

Thành thục sanh, lạc khởi

Dẫn đến và đưa đi

Đại bi khuyên như vậy.

Giải thích:

Tâm đại bi khuyến tiến Bồ tát thực hành sáu thứ công đức. Nghĩa lý của đại bi là: Bồ tát tu tập tâm đại bi thì tâm đại bi càng sanh trưởng. Bồ tát thí xả của cải thì sự bố thí càng thêm lên.

Bồ tát cần lấy sự bố thí để thành thục chúng sanh. Bồ tát cần lấy sự bố thí để sanh khởi an lạc cho mình. Sự bố thí của Bồ tát chiêu dẫn hai khối [phước trí] của đại bồ-đề [cho mình], ngoài ra hướng chúng sanh đi đến với mình. Sự bố thí của Bồ tát dẫn đưa hai khối [phước trí] của đại bồ-đề [cho chúng sanh], ngoài ra hướng chúng sanh đi đến đại bồ-đề.

Đã nói sự khuyến tiến của tâm đại bi, kế nói sự thù thắng của đại bi và lạc.

Kệ tụng:

Khổ là bi cảm khổ

Không thí làm sao vui

Lấy thí làm niềm vui

Cho vui cứu người khổ.

Giải thích:

Khổ là bi cảm khổ: Các Bồ tát sanh khởi bi cảm trước các khổ đau, gọi đó là nỗi khổ [của Bồ tát].

Không thí làm sao vui: Với tâm đại bi, các Bồ tát lấy khổ đau của người làm khổ đau của mình. Nếu Bồ tát không cho người niềm vui thì làm sao có được niềm vui cho mình? Để có được niềm vui cho mình, Bồ tát cho người niềm vui, cứu người nỗi khổ. Khi Bồ tát cho chúng sanh niềm vui, cứu chúng sanh nỗi khổ, tức là Bồ tát đang tạo tác sự an lạc [cho chính mình].

Đã nói sự thù thắng của đại bi và lạc, kế nói sự dạy bảo về tâm đại bi.

Kệ tụng:

Bi là dạy tự thí

Thí người chớ tự cầu

Quả thí xin không nhận

Có nguyện lại đem thí.

Giải thích:

Kệ tụng này dạy thực hành bố thí không mong cầu.

Bi là dạy tự thí, thí người chớ tự cầu: Nghĩa lý của đại bi là: Khi Bồ tát thực hành thí cho người thì chớ mong cầu niềm vui cho mình. Không có niềm vui của người thì cũng không có niềm vui của mình. Vì sao? Niềm vui không có riêng biệt.

Quả thí xin không nhận, có nguyện lại đem thí: Nếu có quả của thí thì Bồ tát xin không tiếp nhận; nếu có tiếp nhận quả của thí thì Bồ tát lại dùng đó để tiếp tục thí.

Kệ tụng:

Thí và thí quả thí

Thí khắp cho tất cả

Người vui nên mình vui

Cho người, mình không cần.

Giải thích:

Kệ tụng này dạy thực hành thí và thí quả của thí, nghĩa là thí và thí quả của thí mà mình có đuợc, thí khắp cho tất cả chúng sanh. Vì sao? Tâm bi là lấy niềm vui của người làm niềm vui của mình, cho nên Bồ tát được quả của thí đều nên thí cho tất cả chúng sanh.

Phải làm sự dạy bảo về tâm đại bi như vậy.

Kệ tụng:

Khinh của cải đem thí

Đến nhiều lại đến tốt

Không dùng mà tự đến

Dùng lại tiếp nối thí.

Giải thích:

Kệ tụng này dạy thực hành thí chán của cải. Nếu người chán của cải mà thực hành bố thí thì người ấy tuy không muốn của cải mà của cải tự đến. Đạo lý cực rộng, cực diệu như vậy là do có cái tâm rộng lớn. Nếu có được của cải như vậy thì dùng lại đem bố thí. Đó là của cải đến rồi lại đến. Bồ tát bố thí của cải rồi lại bố thí của cải. Vì sao? Bồ tát không mong cầu niềm vui cho mình, chỉ muốn bố thí, bố thí không cùng tận.

Kệ tụng:

Bi là đem đại bi

Thí hết, thí thường xuyên

Nên làm thí như vậy

Không nên cầu quả thí.

Giải thích:

Kệ tụng này dạy thực hành thí không có ngừng nghỉ, nên biết như vậy.

Kệ tụng:

Nếu tôi không vui thí

Thí quả, lúc không thí

Thí không một sát-na

Do không thí, không ái.

Giải thích:

Kệ tụng này dạy thực hành thí không có biết chán, nên biết như vậy.

Kệ tụng:

Không làm, không cho quả

Cho quả, cho sự làm

Là lỗi ông thấy ơn

Còn tôi không giống ông.

Giải thích:

Kệ tụng này dạy thực hành bố thí buông xả ban ơn.

Lời nói của Bồ tát về bố thí như sau: Nếu có người đi đến ông, ông mới cho quả, vậy là ông mắc cái lỗi mong đợi sự trả ơn. Tôi thì không như vậy, cho nên ông không giống tôi. Lại nữa, nếu có người đi đến ông, ông chỉ cho người này quả, vậy ông là người mong đợi trả ơn. Tôi thì không như vậy, đem quả của sự hành thí cho tất cả chúng sanh, cho nên ông không giống tôi.

Đã nói tâm đại bi và sự chỉ dạy bố thí, kế nói tâm đại bi và sự thực hành bố thí.

Kệ tụng:

Không chướng và tịnh cú

Lợi người và tự lượng

Không cầu, không vướng mắc

Bi là thí như vậy.

Giải thích:

Không chướng, là không chiếm đoạt tài vật của người mà làm việc thí.

Tịnh cú, là lấy tài vật đúng chánh pháp mà thực hành bố thí, nghĩa là không lấy các chất độc hại, khí giới chiến đấu, rượu v.v… mà bố thí.

Lợi người, là khi lấy sự bố thí để nhiếp hóa người thì mục tiêu phải là thiết lập thiện căn.

Tự lượng, là không cho quyến thuộc của mình phải thiếu thốn.

Không cầu, là ở trước chúng sanh mà không có lòng cầu xin hay không mở miệng cầu xin. Bồ tát thấy họ nghèo thiếu thì tự nhiên bố thí, và bố thí thì không có lựa chọn phước điền.

Không vướng mắc, là không cầu đền ơn và không lấy quả báo.

Kệ tụng:

Hết, rộng, thắng, thường, hỷ

Rời vướng mắc, thanh tịnh

Hồi hướng vào hai xứ

Bồ-đề và thiện căn.

Giải thích:

Hết, là bố thí cả nội tài và ngoại tài. Rộng, là bố thí nhiều tài vật. Thắng, là bố thí đồ quí tốt. Thường, là bố thí thường xuyên. Hỷ, là bố thí mà rời xa giận dữ, nghĩa là khi người cầu xin làm việc không lợi ích vẫn nhẫn chịu mà hoan hỷ bố thí. Rời vướng mắc, là không có tâm mong cầu, như không vướng mắc đã nói ở trên. Thanh tịnh, là bố thí đúng như chánh pháp, như [thí] tịnh cú đã nói ở trên. Hồi hướng bồ-đề, là hồi hướng Vô thượng bồ-đề. Hồi hướng thiện căn, là hồi hướng tùy thuận thiện căn khí.

Đã nói tâm đại bi và sự thực hành bố thí, kế nói tâm đại bi và sự thọ dụng sai biệt.

Kệ tụng:

Có của để tự dùng

Và dùng thí chúng sanh

Được hỷ, thí hỷ thắng

Ba lạc nuôi dưỡng tâm.

Giải thích:

Bồ tát sanh hỷ khi thọ dụng của cải của mình và chúng sanh sanh hỷ khi được Bồ tát lấy của cải bố thí cho. Sự hoan hỷ của bố thí so với hai hỷ ấy thì thắng hơn. Vì sao? Ba lạc nuôi dưỡng tâm. Ba lạc là: 1. Hoan hỷ vì bố thí; 2. Hoan hỷ vì nhiếp hóa chúng sanh; 3. Hoan hỷ vì đầy đủ bồ-đề tụ.

Đã nói tâm đại bi và sự thọ dụng sai biệt, kế nói tâm đại bi và sự tăng trưởng các ba-la-mật.

Kệ tụng:

Xan, ác, sân, phóng dật

Vướng duyên và vướng tà

Như vậy sáu ngăn che

Bi khiến sáu độ tăng.

Giải thích:

Xan, là không thể xả bỏ chút ít đồ vật. Ác, là phá hủy tịnh giới và não hại người khác. Sân, là đối với một chút không lợi ích [cho mình] cũng nổi cơn giận dữ. Phóng dật, là không siêng năng làm các thiện pháp. Vướng duyên, là vướng vào năm dục làm loạn tâm trí. Vướng tà, là vướng vào các ngoại đạo không có trí tuệ.

Như vậy là sáu điều ngăn che của chúng sanh. Với tâm đại bi, Bồ tát thương xót chúng sanh vì họ mà nói ra những lầm lỗi ấy, khiến cho sáu ba-la-mật [của Bồ tát] được tăng trưởng.

Đã nói tâm đại bi và sự tăng trưởng các ba-la-mật, kế nói tâm đại bi từ bốn duyên sanh khởi, cũng nên chỉ bày.

Kệ tụng:

Khổ, lạc, không khổ lạc

Sức nhân và thiện hữu

Tự thể nối tiếp chảy

Nghĩa bốn duyên đại bi.

Giải thích:

Khổ, lạc, không khổ lạc: Hiển thị duyên duyên và đủ (năng) duyên, vì ba thọ và ba khổ cùng sanh khởi tâm bi.

Hỏi: Xả thọ làm sao có khổ?

Đáp: Xả thọ là hành khổ.

Sức nhân: Hiển thị nhân duyên.

Thiện hữu: Hiển thị tăng thượng duyên.

Tự thể nối tiếp chảy: Hiển thị thứ đệ duyên.

Hỏi: Tâm đại bi sanh khởi như vậy rồi, làm sao tâm ấy được bình đẳng?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Hành tướng và tư duy

Tùy thuận và ly chướng

Bất đắc và thanh tịnh

Sáu nghĩa bình đẳng bi.

Giải thích:

Sự bình đẳng của tâm đại bi có sáu thứ:

1. Hành tướng bình đẳng: là chúng sanh trong các giai vị của ba thọ đều bình đẳng, biết [ba thọ] là khổ;

2. Tư duy bình đẳng: là thương xót bình đẳng;

3. Tùy thuận bình đẳng: là bình đẳng cứu giúp;

4. Ly chướng bình đẳng: là bình đẳng không bực tức;

5. Bất đắc bình đẳng: là mình, người và tâm đại bi, ba luân đều bình đẳng, vì bất khả đắc;

6. Thanh tịnh bình đẳng: là khi đạt đến vô sanh nhẫn ở địa thứ tám thì có được bình đẳng.

Hỏi: Như vậy đã nói riêng về tâm đại bi rồi, bốn phạn trú này phải tu tập thế nào để được vô thượng?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Phạn trú khiến vô thượng

Tự ý tu có năm

Tín, tâm, thông, phương tiện

Hòa hợp như trước nói.

Giải thích:

Phần cúng dường chư Phật và thân cận thiện hữu ở trước đều nói đến năm thứ tự ý tu tập khiến được vô thượng, bốn phạn trú ở đây cũng vậy.

Tịnh tín, là như ở trong kinh điển Đại thừa có nói, [ai ở trong] trú xứ của Phạn vương thì sanh tịnh tín.

Thâm tâm, là lấy chín thứ tâm để tu tập phạn trú.

Thần thông, là dựa vào hư không đẳng định mà tu tập.

Phương tiện, là dựa vào trí vô phân biệt để nhiếp hóa chúng sanh.

Hòa hợp, là lấy một quả nhập vào tất cả quả.

Phẩm Phạn Trú trọn vẹn

    Xem thêm:

  • Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội - Luận Tạng
  • Luận Tịnh Độ Thập Nghi - Luận Tạng
  • Thích Tịnh Độ Quần Nghi Luận - Luận Tạng
  • Luận Câu Xá – Phẩm 4: Phân Biệt Nghiệp - Luận Tạng
  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Ba Mươi Bài Luận Tụng Duy Thức - Luận Tạng
  • Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Trăm Pháp Minh Môn - Luận Tạng
  • Luận Hai Mươi Kệ Tụng Duy Thức - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Giảng Rộng Ý Nghĩa Năm Uẩn Theo Giáo Pháp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Câu Xá – Phẩm 3: Phân Biệt Thế Gian - Luận Tạng
  • Luận Nhập Đại Thừa - Luận Tạng
  • Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Luận Tạng
  • Đại Thừa Tuyệt Đối Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng