1
2
3
4
5

Phẩm Hai Mươi Mốt: GIÁC PHẦN (Phần 1)

Giải thích:

Các Bồ tát có đức tánh hổ thẹn, ở đây nên nói:

Kệ tụng:

Trị chướng và hợp trí

Duyên cảnh và thành sanh

Bồ tát có hổ thẹn

Như vậy bốn sai biệt.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị các Bồ tát có đức tánh hổ thẹn, gồm bốn sắc thái: 1. Tự tánh; 2. Cùng loại; 3. Cảnh giới; 4. Tác nghiệp.

Trị chướng, là rời xa sự không biết hổ thẹn. Đây là tự tánh của hổ thẹn.

Hợp trí, là cùng với trí vô phân biệt tương ứng. Trí này cùng loại với hổ thẹn.

Duyên cảnh, là Bồ tát lấy chúng sanh Tiểu thừa, vô chướng làm đối cảnh để tu tập hổ thẹn, tức là các vị Thanh văn, Duyên giác. Tiểu thừa là đối lại với Đại thừa. Vô chướng là đã phá phiền não chướng.

Thành sanh, là Bồ tát lấy đức tánh hổ thẹn làm sự nghiệp kiến lập chúng sanh.

Đây là bốn sắc thái tu tập hổ thẹn của Bồ tát.

Hỏi: Các Bồ tát có đức tánh hổ thẹn nhưng tu tập công hạnh nào để sanh khởi đức tánh ấy?

Kệ tụng:

Bồ tát tu sáu độ

Chướng tăng và trị giảm

Không siêng và siêng làm

Từ đây hổ thẹn sanh.

Giải thích:

Các Bồ tát đối với bốn sự mà từ đó phát sanh hổ thẹn cực trọng:

1. Khi tu tập các ba-la-mật mà các chướng ngại thêm lên thì phát sanh hổ thẹn cực trọng;

2. Khi tu tập các ba-la-mật mà các phương tiện đối trị các chướng ngại giảm sút thì phát sanh hổ thẹn cực trọng;

3. Khi tu tập các ba-la-mật mà có sự biếng nhác thì phát sanh hổ thẹn cực trọng;

4. Khi tu tập các ba-la-mật mà siêng năng thực hành các pháp tùy thuận phiền não, còn gọi là các căn thường phóng túng nên không thể chế ngự, thì phát sanh hổ thẹn cực trọng.

Hỏi: Bồ tát có đức tánh hổ thẹn, vậy đức tánh ấy có mấy thứ sai biệt?

Kệ tụng:

Sáu phẩm và hai phẩm

Bảy địa và hai thừa

Tương tự đây là thấp

Trái ngược thấp là cao.

Giải thích:

Sáu phẩm: Trong Bất định địa, sáu phẩm trước mà có đức tánh hổ thẹn là thấp.

Hai phẩm: Trong các định địa, hai phẩm trước mà có đức tánh hổ thẹn là thấp.

Bảy địa: Trong Bồ tát thập địa, bảy địa đầu mà có đức tánh hổ thẹn là thấp.

Hai thừa: Là chúng sanh tâm chí hạ liệt do có tâm tăng thượng mạn mà có đức tánh hổ thẹn là thấp.

Tương tự đây: Chỉ cho các Bồ tát chưa đắc vô sanh nhẫn, dù có đức tánh hổ thẹn vẫn gọi là thấp.

Trái ngược với các vị bậc thấp có đức tánh hổ thẹn là các vị bậc cao có đức tánh hổ thẹn.

Hỏi: Pháp gì chướng ngại đức tánh hổ thẹn, và chướng ngại ấy có bao nhiêu lầm lỗi?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Không thẹn: chưa đoạn hoặc

Ba hại, sáu quở trách

Đọa nạn, thoái, khổ: ba

Như vậy mười hai lỗi.

Giải thích:

Không hổ thẹn: Bồ tát có hổ thẹn là còn có chướng ngại. Còn có chướng ngại tức là phiền não chưa đoạn diệt. Phiền não chưa đoạn diệt thì trước hết sanh ra ba điều tai hại:

1. Hại mình, là tư duy không chính xác nên chính mình phiền não.

2. Hại người, là do sân và xả mà gây phiền não cho người.

Hỏi: Sân gây phiền não cho người là hợp lý, còn xả thì làm sao gây phiền não cho chúng sanh?

Đáp: Bồ tát thì cần phải hóa độ chúng sanh; buông bỏ, không hóa độ nữa là gây phiền não cho người.

3. Hại mình và hại người, là hủy hoại giới cấm nên gây phiền não cho mình và người.

Khởi ba điều hại như vậy thì đối với hiện pháp mắc phải sáu điều quở trách, đó là: nghi ngờ hối hận, đánh mất lợi ích, mất sự hộ trì [của thiện tri thức và chánh niệm], từ bỏ [tu tập], bị [đại chúng] trị phạt và mang tiếng xấu.

Theo thứ tự, sáu điều quở trách ấy là do chính mình nhắc trách hay do người khác trong mười phương quở trách. Sau đó lại có thêm ba thứ tội lỗi phát sanh:

1. Thoái đọa vào các nạn xứ;

2. Thoái mất các thiện pháp đã được và chưa được;

3. Từ đó chịu các khổ thọ lớn lao.

Như vậy, không có đức tánh hổ thẹn thì sanh ra mười hai thứ lầm lỗi.

Hỏi: Đã biết về chướng ngại và lầm lỗi rồi, còn công đức của đức tánh hổ thẹn là gì?

Kệ tụng:

Vậy thảy tất cả ác

Bồ tát có hổ thẹn

Nên biết diệt tất cả

Vì khởi đối trị ác.

Sanh trời người thông tuệ

Mau đầy nơi hai tụ

Thành sanh không thoái chuyển

Rời, không rời làm quả.

Giải thích:

Kệ tụng đầu hiển thị công đức của hổ thẹn là rời xa lầm lỗi. Bồ tát có đức tánh hổ thẹn thì sẽ không có bất cứ lầm lỗi nào đã nói ở trên.

Kệ tụng sau hiển thị công đức của hổ thẹn là dồn chứa thắng quả. Bồ tát có đức tánh hổ thẹn thì dồn chứa đầy đủ năm quả thù thắng:

1. Sanh trời người thông tuệ, là được quả quả báo, nghĩa là thọ sanh lên cõi trời và trong loài người thường được thông tuệ;

2. Mau đầy nơi hai tụ, là được quả tăng thượng, nghĩa là có được hai khối phước và trí của Vô thượng bồ-đề;

3. Thành sanh không thoái chuyển, là được quả trượng phu, nghĩa là thành tựu pháp trượng phu;

4. Rời, là được quả tương ly, nghĩa là rời xa những chướng ngại và lầm lỗi;

5. Không rời, là được quả y, nghĩa là sanh ra nơi nào cũng không rời phương tiện đối trị những chướng ngại và lầm lỗi.

Hỏi: Có những thí dụ về công dụng của đức tánh hổ thẹn?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Có áo thì có bẩn

Phàm phu không hổ thẹn

Áo trời nên không dơ

Bồ tát có hổ thẹn.

Bồ tát đủ hổ thẹn

Như hư không không dơ

Muốn hơn các Bồ tát

Lấy hổ thẹn trang nghiêm.

Như mẹ hiền thương con

Hổ thẹn giúp chúng sanh

Quán sanh và hóa sanh

Đều do hổ thẹn khởi.

Giải thích:

Ở đây, kệ tụng thứ nhất hiển thị sự hổ thẹn như y phục. Vì sao? Bồ tát có hổ thẹn thì phiền não, lầm lỗi không thể nhiễm ô.

Nửa đầu kệ tụng thứ hai hiển thị sự hổ thẹn như hư không. Vì sao? Bồ tát có hổ thẹn thì khi đụng tám pháp ở thế gian mà tâm không bị nhiễm ô.

Nửa sau kệ tụng thứ hai hiển thị sự hổ thẹn như sự trang nghiêm. Vì sao? Bồ tát có hổ thẹn thì có sự đoan chánh vượt thắng các Bồ tát khác.

Kệ tụng thứ ba hiển thị sự hổ thẹn như người mẹ hiền. Vì sao? Bồ tát có hổ thẹn thì cứu giúp chúng sanh trong đường sanh tử, thấy tất cả tội lỗi như thấy voi, ngựa, quân lính… Sự quán sát chúng sanh và sự hóa độ chúng sanh của Bồ tát đều do sự hổ thẹn này mà có ra.

Thí dụ y phục cho thấy sự hổ thẹn có năng lực đối trị sự trú ở của các phiền não.

Thí dụ hư không cho thấy sự hổ thẹn có năng lực đối trị sự dính mắc vào tám pháp ở thế gian.

Thí dụ sự trang nghiêm cho thấy sự hổ thẹn có khả năng tùy thuận và đồng hành.

Thí dụ người mẹ hiền cho thấy sự hổ thẹn có khả năng thành thục chúng sanh.

Hỏi: Bồ tát thực hành hổ thẹn thì có những sắc thái gì?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Không hứa nhận, không làm

Hứa nhận và có làm

Nên biết bốn thứ này

Sắc thái hành hổ thẹn.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị bốn sắc thái thực hành hổ thẹn: 1. Không hứa nhận; 2. Không làm; 3. Hứa nhận; 4. Có làm.

Vì sao? Bồ tát có hổ thẹn thì đối với tất cả điều ác và lầm lỗi sẽ có hai sắc thái đầu là không hứa nhận và không làm; đối với tất cả công đức sẽ có hai sắc thái sau là hứa nhận và có làm.

Hỏi: Làm thế nào để đức tánh hổ thẹn được vô thượng?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Dạy tu tánh hổ thẹn

Là khởi năm tự ý

Tín pháp, tất cả quả

Vô thượng như trước biết.

Giải thích:

Như trước biết, là theo kinh điển Đại thừa có nói, hổ thẹn là trú xứ sanh ra tịnh tín, lấy chín thứ thâm tâm để tu tập hổ thẹn, dựa vào hư không đẳng định mà tu tập hổ thẹn, dựa vào trí vô phân biệt để nhiếp hóa chúng sanh, lấy một quả nhập vào tất cả quả.

Đã nói đức tánh hổ thẹn của Bồ tát, kế nói đức tánh vô úy của Bồ tát.

Kệ tụng:

Vô úy của Bồ tát

Thể tướng và sai biệt

Kiên cố và thù thắng

Nay lần lượt giải thích.

Giải thích:

Sự vô úy của Bồ tát có bốn nghĩa cần giải thích: 1. Thể tướng; 2. Sai biệt; 3. Kiên cố; 4. Thù thắng.

Hỏi: Thế nào là thể tướng?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Tiến, định, tuệ, ba khởi

Tạo dũng, kiện, cần, mãnh

Đó là tướng vô úy

Và chỉ các tên gọi.

Giải thích:

Tinh tiến, thiền định và trí tuệ, ba pháp ba-la-mật này sanh khởi thì đó là thể tướng của vô úy.

Gan dạ (dũng), khỏe mạnh (kiện), siêng năng (cần) và mạnh mẽ (mãnh), bốn tánh chất này là các tên gọi khác của vô úy.

Hỏi: Ba pháp ba-la-mật này đối trị với hạnh nào trong vô úy?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Hết thảy các việc làm

Hạ, động, ngu tức sợ

Rời ba, ba quyết định

Là an trú vô úy.

Giải thích:

Bồ tát đối với mọi việc làm mà trong tâm có thấp kém, có xao động, có ngu tối thì sanh ra sợ hãi.

Vì sao? Tâm thấp kém là trong mọi việc làm không có siêng năng tu tập. Tâm xao động là trong mọi việc làm tâm không an trú. Tâm ngu tối là trong mọi việc làm không biết phương tiện (thiện xảo). Ba tâm này được đối trị, theo thứ tự, bằng tinh tiến, thiền định và trí tuệ. Như vậy, Bồ tát nếu quyết định có được tinh tiến, thiền định và trí tuệ thì gọi là Bồ tát không sợ hãi.

Hỏi: Bồ tát quyết định như thế nào?

Đáp: Sự đối trị của ba pháp ba-la-mật này nhậm vận hiện tiền, gọi là quyết định.

Hỏi: Đã nói thể tướng của vô úy, thế nào là sai biệt của vô úy?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Tự tánh và đại nguyện

Không bận tâm, không thoái

Nghe sâu, năng hóa độ

Đặt họ vào thân Phật.

Thực hành các khổ hạnh

Không bỏ đường sanh tử

Sanh tử không thể nhiễm

Đây là mười sai biệt.

Giải thích:

Hai kệ tụng này, theo thứ tự, nói về sự vô úy có mười loại sai biệt:

1. Tự tánh, là tánh thành tựu thì được vô úy;

2. Đại nguyện, là phát tâm bồ-đề thì được vô úy;

3. Không bận tâm, là không bận tâm đến thân mạng khi siêng năng làm việc lợi mình thì được vô úy;

4. Không thoái lui, là chấp nhận có điều trái nghịch khi siêng năng làm việc lợi người thì được vô úy;

5. Nghe sâu, là khi nghe được thật nghĩa thì được vô úy;

6. Khả năng hóa độ, là với chúng sanh khó độ Bồ tát dùng thần thông hóa độ thì được vô úy;

7. Đặt chúng sanh vào thân Phật, là kiến lập chúng sanh vào đại bồ-đề thì được vô úy;

8. Thực hành các khổ hạnh, là thực hành nhiều loại khổ hạnh khó làm thì được vô úy;

9. Không bỏ đường sanh tử, là cố ý thọ sanh [trong đường sanh tử] thì được vô úy;

10. Sanh tử không thể nhiễm ô, là sống trong nhiễm ô mà tâm không bị nhiễm ô thì được vô úy.

Hỏi: Đã nói sai biệt của vô úy, thế nào là kiên cố của vô úy?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Bạn ác và khổ cực

Nghe sâu, không thể thoái

Như gió cánh châu chấu

Không động biển, Tu-di.

Giải thích:

Sự vô úy của Bồ tát có ba duyên tố làm cho bất động: 1. Gặp bạn ác; 2. Mắc cái khổ cực trọng; 3. Nghe giáo pháp sâu xa.

Thí như con châu chấu rung cánh không thể làm biển động, núi lay; cũng vậy, ba duyên tố kia không thể làm xao động tâm Bồ tát. Đó là sự kiên cố của Bồ tát vô úy.

Hỏi: Đã nói kiên cố của vô úy, thế nào là thù thắng của vô úy?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Trong các thuyết vô úy

Vô úy Bồ tát cao:

Tướng, dị, kiên, thù thắng

Với đây không tương tự.

Giải thích:

Từ ba nghĩa thù thắng: thể tướng, sai biệt và kiên cố, sự vô úy của Bồ tát so với những lời giảng thuyết về vô úy [của Thanh văn, Duyên giác] là thù thắng hơn cả.

Đã nói sự vô úy của Bồ tát, kế nói sự không thoái lui của Bồ tát.

Kệ tụng:

Bất thoái của Bồ tát

Phẩm loại có ba sự

Là nghe, tiến và khổ

Tàm, dũng làm y chỉ.

Ưa thích đại bồ-đề

Là tự tánh bất thoái

Chưa thành, thành, cực thành

Sai biệt các địa rõ.

Giải thích:

Hai kệ tụng này hiển thị phẩm loại, y chỉ, tự tánh và sai biệt của sự không thoái lui.

Phẩm loại của sự không thoái lui có ba thứ: 1. Nghe pháp không biết chán nên không thoái lui; 2. Thường tinh tiến lớn lao nên không thoái lui; 3. Nhẫn chịu khổ não trong đường sanh tử nên không thoái lui.

Y chỉ có hai thứ: 1. Hổ thẹn (tàm); 2. Dũng mãnh (dũng). Người có hổ thẹn thì không thoái lui, vì thoái lui là đáng sỉ nhục. Người có dũng mãnh thì không thoái lui, vì thoái lui là không có sức mạnh.

Tự tánh là có ý lạc ưa thích đại bồ-đề. Có ý lạc ưa thích đại bồ-đề mà muốn trở lui gọi là thoái chuyển.

Sai biệt có ba thứ:

1. Chưa thành, là Bồ tát tín hành địa nên không thoái lui;

2. Hoàn thành, là Bồ tát ở địa đầu tiên đến Bồ tát ở địa thứ bảy nên không thoái lui;

3. Hoàn thành cùng cực, là Bồ tát từ địa thứ tám trở lên, nên không thoái lui.

Đã nói sự không thoái lui của Bồ tát, kế nói sự biết pháp của Bồ tát.

Kệ tụng:

Biết pháp, biết pháp nghiệp

Biết tướng, biết vô tận

Đắc quả và hai môn

Thành sanh và trú pháp.

Giải thích:

Biết pháp, là biết năm minh xứ: 1. Nội minh; 2. Nhân minh; 3. Thanh minh; 4. Y [phương] minh; 5. [Công] xảo minh. Biết năm minh luận này gọi là biết pháp.

Biết pháp nghiệp, là biết lợi mình và lợi người, lấy đây làm sự nghiệp.

Biết nội minh luận là bản thân tu tập Phật pháp và vì người giảng nói Phật pháp.

Biết nhân minh luận là trình bày nghĩa lý của mình và chiết phục nghĩa lý của người.

Biết thanh minh luận là bản thân thông thạo về ngôn ngữ, âm thanh để người tin tưởng, tiếp nhận.

Biết y minh luận là [có kiến thức về y lý, thuốc men] để chữa bịnh cho người.

Biết xảo minh luận là [biết biểu hiện, sáng tạo cái tốt và cái đẹp] để cho người hiểu.

Biết tướng, là biết năm minh luận này cần năm nhân tố để có được: 1. Từ nghe học mà có được; 2. Từ thọ trì mà có được; 3. Từ tập tụng mà có được; 4. Từ tư duy chính xác mà có được; 5. Từ thông đạt mà có được.

Đây gọi là Bồ tát biết sắc thái của năm minh luận. Bồ tát đối với mỗi minh luận, trước hết phải nghe học, nghe học rồi thọ trì, thọ trì rồi tập tụng, tập tụng rồi tư duy chính xác, tư duy chính xác rồi thông đạt. Thông đạt là biết, đây là công đức, đây là tội lỗi, đây là thiện ngữ, đây là ác ngữ.

Biết vô tận, là sự hiểu biết như vậy là vô tận, cho đến niết-bàn vô dư cũng là vô tận.

Đắc quả, là tự biết mình chứng đắc nhất thiết chủng trí.

Hai môn, là tam-muội môn và đà-la-ni môn. Ngoài sự biết năm minh luận, Bồ tát còn dùng tam-muội môn để thành thục chúng sanh, tùy căn cơ chúng sanh mà nhiếp hóa, dùng đà-la-ni môn để thành thục Phật pháp, theo pháp sở đắc đều có thể thọ trì.

Đã nói sự biết pháp của Bồ tát, kế nói sự biết thế gian của Bồ tát.

Kệ tụng:

Thân biết và miệng biết

Chân lý sự thật biết

Bồ tát biết thế gian

Tối thắng không ai bằng.

Giải thích:

Bồ tát có ba loại biết thế gian: 1. Biết thế gian qua thân; 2. Biết thế gian qua miệng; 3. Biết thế gian qua chân lý.

Hỏi: Thế nào là biết qua thân, thế nào là biết qua miệng?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Thân biết thì mặt tươi

Miệng biết thì nói trước

Vì thành tựu pháp khí

Chánh pháp tùy tu hành.

Giải thích:

Mặt tươi, là vui cười hoan hỷ, đó là biết thế gian qua thân.

Nói trước, là hỏi han khen ngợi, đó là biết thế gian qua miệng.

Hỏi: Biết như vậy để làm gì?

Đáp: Vì thành tựu pháp khí.

Hỏi: Thành tựu pháp khí để làm gì?

Đáp: Thành tựu pháp khí để thích ứng chánh pháp, theo đó tu hành.

Hỏi: Thế nào là biết thế gian qua sự thật?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Hai biết, biết thế sanh

Hai biết, biết thế diệt

Để dứt và để được

Sự thật biết siêng tu.

Giải thích:

Hai biết, biết thế sanh: Biết hai chân lý khổ, tập, tức biết thế gian thường sanh khởi, vì có sự sống còn và phương tiện cho sự sống còn.

Hai biết, biết thế diệt: Biết hai chân lý diệt, đạo, tức biết thế gian có thể diệt mất, vì có sự hủy diệt và phương tiện cho sự hủy diệt.

Hỏi: Biết thế gian qua chân lý để làm gì?

Đáp: Để dứt và để được, sự thật biết siêng tu. Dứt là dứt khổ đế và tập đế. Được là được diệt đế và đạo đế. Các Bồ tát vì dứt khổ đế và tập đế, vì được diệt đế và đạo đế nên tu quán bốn đế, tu trí đầy đủ.

Sự biết thế gian như vậy là biết nghiệp dụng của thế gian.

Đã nói sự biết thế gian của Bồ tát, kế nói sự tu tập bốn lượng của Bồ tát.

Kệ tụng:

Năng thuyên và nghĩa ý

Liễu nghĩa và vô ngôn

Nên biết bốn thứ này

Là hình thái bốn lượng.

Giải thích:

Năng thuyên, là mười hai bộ kinh được Như lai thuyết giảng. Kinh pháp này là lượng. Sự chỉ dạy của người khác không phải là lượng.

Nghĩa ý, là nghĩa ý ở trong văn từ. Nghĩa ý này là lượng. Văn từ không phải là lượng.

Liễu nghĩa, là nghĩa lý mà thế gian có thể tin nhận và được đức Phật ấn khả. Liễu nghĩa này là lượng. Bất liễu nghĩa không phải là lượng.

Vô ngôn, là trí sở chứng xuất thế gian. Trí này là lượng. Thức không phải là lượng.

Hỏi: Vì sao đức Thế tôn nói bốn lượng này?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Báng pháp và phi nghĩa

Tà tư duy, khả ngôn

Vì ngăn bốn sự này

Thứ tự nói bốn lượng.

Giải thích:

Nói giáo pháp là năng thuyên, là lượng để ngăn chận sự phỉ báng pháp, cho rằng sự chỉ dạy của người khác mới là lượng.

Nói nghĩa ý [là sở thuyên], là lượng để ngăn chận văn từ phi nghĩa lý.

Nói liễu nghĩa là lượng để ngăn chận tà tư duy, kiến giải điên đảo.

Nói trí là lượng để ngăn chận cái trí còn phân biệt danh ngôn.

Hỏi: Dựa vào bốn lượng này thì có công đức gì?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Tín tâm và nội tư

Chánh văn và chứng trí

Bồ tát không thể hoại

Công đức dựa vào lượng.

Giải thích:

Dựa vào lượng thứ nhất thì tín tâm không thể hoại. Dựa vào lượng thứ hai thì chánh tư duy không thể hoại. Dựa vào lượng thứ ba thì chánh văn không thể hoại. Dựa vào lượng thứ tư thì trí thế gian không thể hoại.

Đã nói Bồ tát tu tập bốn lượng, kế nói bốn vô ngại giải của Bồ tát.

Kệ tụng:

Với môn, tướng, ngôn, trí

Thông suốt không ai bằng

Đây chính là Bồ tát

Được bốn vô ngại giải.

Giải thích:

Thứ nhất là trí biết về danh môn, tức có thể biết trong nghĩa có bao nhiêu danh môn sai biệt. Thứ hai là trí biết về tướng trạng, tức biết nghĩa này thuộc về danh này. Thứ ba là trí biết về ngôn ngữ, tức biết ngôn ngữ âm thanh của các quốc độ khác nhau. Thứ tư là trí biết về trí tuệ, tức biết mình có khả năng thuyết pháp. Biết về bốn thứ như vậy gọi là Bồ tát được vô ngại giải.

Kệ tụng:

Năng thuyết và sở thuyết

Thuyết cụ gồm ba sự

Bốn, hai và hai thứ

Thứ tự nhân ba sự.

Giải thích:

Năng thuyết, sở thuyết và thuyết cụ, ba sự này, mỗi sự có các nhân duyên.

Năng thuyết có bốn nhân duyên: 1. Trí dạy bảo; 2. Trí thành thục; 3. Trí chứa đầy; 4. Trí làm giật tỉnh.

Sở thuyết có hai nhân duyên: 1. Pháp; 2. Nghĩa. Bốn trí ở trong sự biết pháp và sự biết nghĩa mà khởi tác dụng.

Thuyết cụ có hai nhân duyên: 1. Ngôn; 2. Trí. Do trí biết về ngôn ngữ và trí biết về trí tuệ mà thành tựu sự thuyết pháp.

Kệ tụng:

Nêu pháp, giải thích pháp

Khiến hiểu, tránh chướng nạn

Thiết lập bốn vô ngại

Nơi nghĩa này nên biết.

Giải thích:

Nêu ra pháp bằng danh môn. Giải thích pháp bằng sắc thái. Khiến hiểu pháp bằng ngôn ngữ. Tránh chướng nạn bằng trí tuệ. Nên biết, ở đây lấy pháp và nghĩa của sở thuyết, lấy ngôn và trí của thuyết cụ, theo thứ đệ, thiết lập bốn vô ngại giải.

Hỏi: Thế nào là vô ngại giải? Vô ngại giải có những nghiệp dụng gì?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Nội chứng và ngoại giác

Nên xưng vô ngại giải

Năng đoạn tất cả nghi

Đây chính là nghiệp dụng.

Giải thích:

Nửa đầu kệ tụng nói về danh xưng. Nửa sau kệ tụng nói về nghiệp dụng.

Danh xưng: Do các Bồ tát ban đầu dùng trí xuất thế gian để nội chứng tánh chất bình đẳng của các pháp đúng như kiến giải, về sau dùng trí hậu đắc thế để ngoại giác nghĩa lý pháp môn sai biệt của các pháp. Do đạo lý này mà gọi là vô ngại giải.

Nghiệp dụng: Từ những hiểu biết này, Bồ tát có thể đoạn trừ tất cả tràng lưới nghi ngờ của tất cả chúng sanh. Đây gọi là nghiệp dụng của vô ngại giải.

Đã nói bốn vô ngại giải của Bồ tát, kế nói hai khối công đức của Bồ tát.

Kệ tụng:

Phước trí là hai khối

Thắng báo, không nhuốm bẩn

Tất cả các Bồ tát

Thắng tướng đều như vậy.

Giải thích:

Phước trí là hai khối: Hai khối là khối phước đức và khối trí tuệ.

Thắng báo, không nhuốm bẩn: Các Bồ tát do khối phước đức làm nhân tố thành tựu quả báo [dị thục] thù thắng trong đường sanh tử, và do khối trí tuệ làm nhân tố không nhuốm bẩn trong thắng báo kia

Cho nên nói, sắc thái thù thắng của Bồ tát thì không ai sánh bằng.

Hỏi: Hai khối phước đức và trí tuệ nhiếp sáu ba-la-mật như thế nào?

[Đáp bắt đầu kệ rằng:]

Kệ tụng:

Hai độ đầu thuộc phước

Độ thứ sáu thuộc trí

Ba độ nhân hai khối

Năm độ thành khối trí.

Giải thích:

Hai độ đầu thuộc phước: Nên biết, bố thí và trì giới, hai ba-la-mật này là thể của khối phước đức.

Độ thứ sáu thuộc trí: Nên biết, trí tuệ ba-la-mật là thể của khối trí tuệ.

Ba độ nhân hai khối: Nên biết, nhẫn nhục, tinh tiến và thiền định, ba ba-la-mật này cùng hợp tác làm nhân cho hai khối phước đức và trí tuệ.

Năm độ thành khối trí: Đem năm ba-la-mật đã làm mà hồi hướng về tuệ giác bồ-đề; nói cách khác, tất cả các ba-la-mật đều là nhân tố thành tựu khối trí tuệ.

Hỏi: Danh xưng của hai khối là gì? Nghiệp dụng của hai khối là gì?

[Đáp bắt đầu kệ rằng:]

Kệ tụng:

Chánh tu và số tu

Tích thiện gọi là khối

Lợi mình và lợi người

Thành tựu gọi nghiệp dụng.

Giải thích:

Nửa đầu kệ tụng giải thích danh xưng, nửa sau kệ tụng trình bày nghiệp dụng.

Danh xưng là tam-bà-la, gọi là khối. Tam, là nghĩa chánh tu. Bà-la, là nghĩa số tu. Do chánh tu và số tu mà thiện pháp được tăng trưởng. Do dồn chứa, tích lũy thiện pháp được tăng trưởng mà gọi là khối.

Nghiệp dụng là hai khối phước đức và trí tuệ có tác dụng thành tựu sự lợi mình và lợi người.

Hỏi: Chủng loại sai biệt của hai khối là gì?

[Đáp bắt đầu kệ rằng:]

Kệ tụng:

Nhập địa, nhập vô tướng

Và nhập vô công dụng

Thọ chức cùng cứu cánh

Thứ tự nhân hai khối.

Giải thích:

Ở đây, chủng loại sai biệt [của hai khối] là:

1. Giai đoạn dồn chứa tư lương ở tín hành địa, là nhân tố để nhập địa.

2. Giai đoạn dồn chứa tư lương ở sáu địa trước, là nhân tố để nhập vô tướng [hành].

3. Vô tướng là giai đoạn dồn chứa tư lương sở nhiếp của địa thứ bảy, vì các hữu tướng không còn hiện khởi.

4. Giai đoạn dồn chứa tư lương ở địa thứ bảy, là nhân tố để nhập vô công dụng [hành].

5. Giai đoạn dồn chứa tư lương ở địa thứ tám và địa thứ chín, là nhân tố để nhập thọ chức.

6. Giai đoạn dồn chứa tư lương ở địa thứ mười, là nhân tố để nhập cứu cánh. Cứu cánh là sở nhiếp của Phật địa.

Đã nói hai khối công đức của Bồ tát, kế nói sự tu tập bốn niệm xứ của Bồ tát.

Kệ tụng:

Y chỉ và đối trị

Nhập đế và duyên duyên

Tác ý và chí đắc

Tùy thuận và tùy chuyển.

Giác cảnh và thọ sanh

Hạn cực và tối thượng

Trường thời và hậu chứng

Thắng tu mười bốn loại.

Giải thích:

Hai kệ tụng này nói rõ sự tu tập bốn niệm xứ của Bồ tát có mười bốn chủng loại tu tập thù thắng (thắng tu): 1. Thắng tu y chỉ; 2. Thắng tu đối trị; 3. Thắng tu nhập đế; 4. Thắng tu duyên duyên; 5. Thắng tu tác ý; 6. Thắng tu chí đắc; 7. Thắng tu tùy thuận; 8. Thắng tu tùy chuyển; 9. Thắng tu giác cảnh; 10. Thắng tu thọ sanh; 11. Thắng tu hạn cực; 12. Thắng tu tối thượng; 13. Thắng tu trường thời; 14. Thắng tu hậu chứng.

Thắng tu y chỉ là dựa vào kinh điển Đại thừa mà khởi cái tuệ văn, tư, tu, lấy tuệ làm tự thể [quán niệm].

Thắng tu đối trị là tu tập đối trị bốn điên đảo bằng ý tưởng về pháp rằng bất tịnh, khổ não, vô thường, vô ngã, vì đã thể nhập thân, thọ, tâm, pháp đều là bất tịnh, khổ não, vô thường, vô ngã.

Thắng tu nhập đế là theo thứ tự của bốn đế, lần lượt ngộ nhập khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế; như luận Trung biên phân biệt có nói, tự mình ngộ nhập, khiến người ngộ nhập [bốn đế].

Thắng tu duyên duyên là lấy thân, thọ, tâm, pháp của mình hoặc của tất cả chúng sanh làm cảnh giới sở duyên.

Thắng tu tác ý là thân, thọ, tâm, pháp thì bất khả đắc.

Thắng tu chí đắc là thân, thọ, tâm, pháp thì không ly, không hợp.

Thắng tu tùy thuận là khi có các chướng ngại cần đối trị thì có khả năng đối trị các chướng ngại ấy.

Thắng tu tùy chuyển là đối với pháp tu niệm xứ của phàm phu, nhị thừa thì nhiếp thọ và tùy chuyển họ bằng sự dạy bảo.

Thắng tu giác cảnh là biết thân tương tự như huyễn sắc, biết thọ như giấc mộng mà luôn nhận lầm [là thật], biết tâm như hư không mà tự tánh [của tâm] vốn tịnh, biết pháp như người khách được ví như trần lao phiền não, như hư không có đám mây khói bụi.

Thắng tu thọ sanh là cố ý thọ sanh, thành tựu thân tối thắng như chuyển luân vương v.v…, mà thân, thọ, tâm, pháp đều không bị nhuốm bẩn.

Thắng tu hạn cực là dù tu hạ phẩm niệm xứ cũng hơn hẳn người khác tu tối thượng phẩm niệm xứ vì Bồ tát có tự tánh lợi căn.

Thắng tu tối thượng là khả năng tu tập bốn niệm trú bằng biệt tướng và tổng tướng mà không tác ý dụng công.

Thắng tu trường thời là tu tập đến niết-bàn vô dư cũng không có cùng tận.

Thắng tu hậu chứng là giai đoạn trung gian từ thập địa đến Phật địa đều khả đắc.

Đã nói sự tu tập bốn niệm xứ của Bồ tát, kế nói sự tu tập bốn chánh cần của Bồ tát.

Kệ tụng:

Ba xả và nhập địa

Trú tịch, được thọ ký

Thành sanh và thọ chức

Tịnh độ và viên mãn.

Giải thích:

Vì đối trị những chướng ngại của bốn niệm xứ nên Bồ tát tu tập bốn chánh cần. Nếu nói rộng các đối trị này thì có mười thứ sai biệt, đó là mười pháp hạnh để đối trị chướng ngại. Mười pháp hạnh là:

1. Hạnh xả nhiễm trước, là thọ sanh thắng báo trong các hữu mà không nhiễm trước;

2. Hạnh xả chướng cái, là rời xa tất cả chướng cái;

3. Hạnh xả hạ liệt, là rời xa tác ý nhị thừa;

4. Hạnh nhập vào các địa, là nhập vào địa đầu tiên đến địa thứ sáu;

5. Hạnh an trú tịch tĩnh, là nhập vào địa thứ bảy;

6. Hạnh được thọ ký, là nhập vào địa thứ tám;

7. Hạnh thành thục chúng sanh, là nhập vào địa thứ chín;

8. Hạnh thọ chức, là nhập vào địa thứ mười;

9. Hạnh thanh tịnh quốc độ, là ba địa, thứ tám, thứ chín và thứ mười;

10. Hạnh viên mãn, là nhập vào Phật địa. Bồ tát vì đối trị những chướng ngại cho mười pháp hạnh này mà tu tập bốn chánh cần. Đây là nói rộng về mười thứ đối trị sai biệt.

Hỏi: Nghĩa lý tu tập của mười thứ sai biệt là gì?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Y chỉ vào dục tâm

Khởi cần, khởi tinh tiến

Nhiếp tâm và chánh trì

Mười trị tu như vậy.

Giải thích:

Nghĩa lý tu tập: Dựa vào dục tâm khởi cần, dựa vào cần khởi tinh tiến, nhiếp tâm và chánh trì, đó gọi là nghĩa lý tu tập. Trong nghĩa lý tu tập có sự tu tập bình đẳng, có sự tu tập hữu tướng, có sự tu tập tinh tiến.

Tu tập bình đẳng: Do chánh cần mà làm cho sự tu tập chỉ quán bình đẳng.

Tu tập hữu tướng: Là hợp tu ba tướng, tịnh chỉ, sách cử và xả.

Tu tập tinh tiến: Vì loại trừ (một cách chính xác và khéo léo) hai sự cản trở của chỉ và quán là hôn trầm và trạo cử nên khởi tinh tiến.

Hỏi: Vì sao khởi tinh tiến?

Đáp: Vì nhiếp tâm và chánh trì. Nhiếp tâm là tu tập chỉ (xa-ma-tha). Chánh trì là nắm giữ chính xác [và khéo léo] sao cho tâm an trú bình đẳng.

Lấy ba cách tu tập này mà tu tập mười pháp hạnh ở trước, gọi là Bồ tát tu tập chánh cần.

Đã nói sự tu tập bốn chánh cần của Bồ tát, kế nói sự tu tập bốn thần túc của Bồ tát.

Kệ tụng:

Phân biệt bốn thần túc

Lược giải bằng ba sự

Y chỉ và phương tiện

Cùng thành tựu nên biết.

Giải thích:

Ở đây lược lấy ba sự để phân biệt bốn thần túc: 1. Y chỉ; 2. Phương tiện; 3. Thành tựu.

Hỏi: Thế nào là y chỉ?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Y chỉ của thiền định

Sai biệt có bốn túc

Một dục, hai tinh tiến

Ba tâm, bốn tư duy.

Giải thích:

Nên biết, chỗ y chỉ của thiền định có bốn thần túc sai biệt.

Hỏi: Thế nào là phương tiện?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Khởi tác và tùy nhiếp

Trói buộc và đối trị

Theo nhau tám đoạn hạnh

Ba, một, hai, hai thành.

Giải thích:

Khởi tác và tùy nhiếp, trói buộc và đối trị: Phương tiện cũng có bốn thứ: 1. Phương tiện khởi tác; 2. Phương tiện tùy nhiếp; 3. Phương tiện trói buộc; 4. Phương tiện đối trị.

Hỏi: Bốn thứ phương tiện này, mỗi thứ lấy những hạnh gì để thành lập?

Đáp: Theo nhau tám đoạn hạnh; ba, một, hai, hai thành: Tám đoạn hạnh là: 1. Tín; 2. Dục; 3. Cần; 4. Khinh an; 5. Chánh niệm; 6. Chánh tri; 7. Tư; 8. Xả.

Ở đây, theo thứ tự là:

1. Lấy ba hạnh tín, dục và cần để thành lập phương tiện khởi tác: do tín khởi dục, do dục khởi cần, theo thứ tự như vậy;

2. Lấy một hạnh khinh an để thành lập phương tiện tùy nhiếp: do khinh an mà tâm được định;

3. Lấy hai hạnh chánh niệm và chánh tri để thành lập phương tiện trói buộc: do chánh niệm nên trú tâm ở trong định, không cho rời cảnh sở duyên, và do chánh tri nên khi tâm rời cảnh sở duyên, biết rõ tâm mà tùy nhiếp;

4. Lấy hai hạnh tư và xả để thành lập phương tiện đối trị: nhờ có tư mà đối trị được chướng ngại của hôn trầm, và nhờ có xả mà đối trị được chướng ngại của trạo cử; hai hạnh tư và xả có tác dụng đối trị phiền não.

Hỏi: Thế nào là thành tựu?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Năng kiến và năng thọ

Du hý và du nguyện

Tự tại và đắc pháp

Là sáu thứ thành tựu.

Giải thích:

Sáu thứ thành tựu là: 1. Thành tựu năng kiến; 2. Thành tựu năng thọ; 3. Thành tựu du hý; 4. Thành tựu du nguyện; 5. Thành tựu tự tại; 6. Thành tựu đắc pháp.

Thành tựu năng kiến là thành tựu năm nhãn: nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.

Thành tựu năng thọ là thành tựu sáu thông: Dựa vào năng lực giáo thọ này, theo thứ tự, thân thông là qua đến chỗ ở của người tiếp nhận sự dạy bảo; thiên nhĩ thông là nghe được lời thỉnh cầu mà đến thuyết pháp; tha tâm thông là biết người kia có hay không có các chướng ngại mà dạy cách đoạn trừ; túc trú thông là biết những hành nghiệp ở đời quá khứ, mượn sức mạnh [thần thông] làm cho người kia biết được đời trước mà sanh tin tưởng; thiên nhãn thông là nói cho người kia biết sau khi chết ở đây sẽ sanh vào chốn kia, khiến cho người kia chán ngán sanh tử; lậu tận thông là thuyết pháp sao cho người kia được giải thoát.

Thành tựu du hý là thành tựu nhiều chủng loại định dẫn ra thần thông biến hóa.

Thành tựu du nguyện (nguyện lực du hóa) là nhập nguyện lực [làm nhân] để đi lại các nguyện quả như là phóng ánh sáng, phát âm thanh v.v…, không thể kể hết, trong kinh Thập địa có nói rộng.

Thành tựu tự tại là thành tựu mười pháp tự tại, cũng trong kinh Thập địa có nói.

Thành tựu đắc pháp là thành tựu [bốn] vô sở úy và [mười tám] pháp bất cộng.

Đã nói sự tu tập bốn thần túc của Bồ tát, kế nói sự tu tập năm căn của Bồ tát.

Kệ tụng:

Giác, hạnh, văn, chỉ, quán

Sở duyên tín, các căn

Tăng thượng là nghĩa căn

Vì thành tựu lợi ích.

Giải thích:

Tín căn lấy bồ-đề làm sở duyên. Tiến căn lấy Bồ tát hạnh làm sở duyên. Niệm căn lấy sự nghe pháp Đại thừa làm sở duyên. Định căn lấy sự tu tập chỉ làm sở duyên. Tuệ căn lấy như thật trí làm sở duyên.

Hỏi: Thế nào là nghĩa của căn?

Đáp: Năm căn: tín, tiến, niệm, định và tuệ, đối với các sở duyên của chúng, có tác dụng tăng thượng và có khả năng thành tựu lợi ích, nên gọi là căn.

Đã nói sự tu tập năm căn của Bồ tát, kế nói sự tu tập năm lực của Bồ tát.

Kệ tụng:

Nên biết tín, các căn

Sắp nhập vào sơ địa

Chướng ngại năm căn ấy

Phá hủy gọi là lực.

Giải thích:

Ở đây, Bồ tát khi sắp bước vào địa đầu tiên, năm căn có năm chướng ngại là không tin, biếng nhác, thất niệm, loạn tâm và vô tri, thì sức mạnh làm suy yếu, phá hủy những chướng ngại ấy gọi là lực.

Đã nói sự tu tập năm lực của Bồ tát, kế nói sự tu tập bảy giác phần của Bồ tát.

Kệ tụng:

Bồ tát nhập sơ địa

Kiến lập nơi giác phần

Các pháp và chúng sanh

Ở đây được bình đẳng.

Giải thích:

Các Bồ tát khi nhập vào địa đầu tiên thì giác liễu các pháp nên kiến lập giác phần.

Hỏi: Giác là thế nào?

Đáp: Có được trí giác bình đẳng đối với tất cả pháp và thân của mình người, đó gọi là giác. Trí giác như vậy là trí giác về pháp vô ngã và nhân vô ngã.

Kệ tụng:

Thí như luân vương đi

Có bảy báu dẫn đầu

Bồ tát đến chánh giác

Bảy phần thường viên mãn.

Giải thích:

Kệ tụng này nói rõ bảy giác phần của Bồ tát cũng tương tự như bảy báu của Chuyển luân thánh vương.

Hỏi: Phần nào tương tự với báu nào?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Niệm hàng phục các cảnh

Trạch pháp phá phân biệt

Tiến dẫn vô dư giác

Sáng đem hỷ khắp thân.

Chướng hết vui khinh an

Tác dụng từ định sanh

Tùy thời mong muốn trú

Bỏ lấy đều do xả.

Giải thích:

Thứ nhất, niệm giác phần tương tự với bánh xe báu. Bánh xe báu có khả năng hàng phục quốc độ chưa chịu hàng phục. Niệm giác phần có năng lực chế ngự cảnh giới chưa được chế ngự.

Thứ hai, trạch pháp giác phần tương tự với voi báu. Voi báu có khả năng đạp đổ các nước thù địch. Trạch pháp giác phần có năng lực phá hủy phân biệt thắng oán.

Thứ ba, tinh tiến giác phần tương tự với ngựa báu. Ngựa báu có khả năng đi nhanh cùng khắp cõi đất bao la cho đến biên cương. Tinh tiến giác phần có năng lực đưa mau đến sự giác ngộ chân như cùng cực vi tế.

Thứ tư, hỷ giác phần tương tự với châu báu. Ánh sáng hạt châu soi đêm tối, đem lại hoan hỷ lớn lao cho Chuyển luân vương. Ánh sáng chánh pháp chiếu phá ngu tối, đem lại hoan hỷ tràn đầy nơi tâm.

Thứ năm, khinh an giác phần tương tự với nữ báu. Chuyển luân vương hưởng thọ khoái lạc khi được nữ báu chạm xúc. Tâm trí thoát phiền não chướng ngại nhờ vào khinh an dứt các ác hại.

Thứ sáu, định giác phần tương tự với tạng thần báu. Của cải của Chuyển luân vương đều từ vị thần ấy xuất ra. Tác dụng của trí tuệ đều từ định mà sanh ra.

Thứ bảy, xả giác phần tương tự với tướng quân báu. Tướng quân báu xem xét binh lính luyện tập bỏ yếu lấy mạnh, tùy thuận sở trú của Chuyển luân thánh vương mà giúp vua không biết mệt mỏi. Bồ tát tu hành bỏ ác lấy thiện, tùy thuận sở trú của vô phân biệt trí mà tu không dụng công.

Sự thành lập bảy giác phần tương tự như sự thành tựu bảy báu, nghĩa ấy như vậy.

Kệ tụng:

Y chỉ và tự tánh

Xuất ly và công đức

Thứ năm không nhiễm ô

Đây có ba giác phần.

Giải thích:

Bảy giác phần theo thứ tự: Niệm là phần y chỉ, vì tất cả bồ-đề phần dựa vào niệm mà thực hành. Trạch pháp là phần tự tánh, vì tất cả bồ-đề phần lấy trạch pháp làm tự thể. Tinh tiến là phần xuất ly, vì tinh tiến đưa Bồ tát đi đến cứu cánh. Hỷ là phần công đức, vì hỷ làm cho tâm an lạc tràn đầy. Khinh an, định và xả là phần không nhiễm ô, vì khinh an là nhân tố của không nhiễm ô, định là y chỉ của không nhiễm ô và xả là tự tánh của không nhiễm ô.

Đã nói sự tu tập bảy giác phần của Bồ tát, kế nói sự tu tập tám chánh đạo phần của Bồ tát.

Kệ tụng:

Một, chuyển như giác trước

Hai, lập phần cũng vậy

Kế ba, ba nghiệp tịnh

Sau ba, ba chướng đoạn.

Giải thích:

Một, chuyển như giác trước: Chánh đạo phần thứ nhất, trong bảy giác phần ở trước, Bồ tát giác ngộ như thật, sau đó tùy thuận chuyển y, gọi là chánh kiến.

Hai, lập phần cũng vậy: Chánh đạo phần thứ hai, trong bảy giác phần ở trước, Bồ tát thắng giải theo sở lập của mình, thâm nhập kinh Phật, theo sở lập của Phật, lấy đó làm sự phân biệt cho người, gọi là chánh tư duy.

Kế ba, ba nghiệp tịnh: Kế ba, là chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Ba nghiệp, là ngữ nghiệp, thân nghiệp và thân ngữ nghiệp. Theo thứ tự, lấy ba chánh này nhiếp hóa ba nghiệp kia.

Sau ba, ba chướng đoạn: Sau ba, là chánh cần, chánh niệm và chánh định. Ba chướng, là trí chướng, định chướng và tự tại chướng. Theo thứ tự, lấy ba chánh này đối trị ba chướng kia. Do tu tập chánh cần trong thời gian lâu xa mà không có thoái lui nên đoạn dứt được trí chướng. Do tu tập chánh niệm làm cho hôn trầm, trạo cử không có chỗ bám víu nên đoạn dứt được định chướng. Do tu tập chánh định mà thành tựu công đức thù thắng nên đoạn dứt được tự tại chướng.

Nên biết, sự kiến lập tám chánh đạo phần là như vậy.

Phẩm Giác phần – hết phần 1

***

Phẩm Hai Mươi Mốt: GIÁC PHẦN (Phần 2)

Giải thích:

Đã nói sự tu tập tám chánh đạo phần của Bồ tát, kế nói sự tu tập chỉ quán của Bồ tát.

Kệ tụng:

An tâm nơi chánh định

Đây gọi là tu chỉ

Chánh trú phân biệt pháp

Đây gọi là tu quán.

Giải thích:

An tâm nơi chánh định, đây gọi là tu chỉ: Tâm dựa vào chánh định mà không thấy tâm tướng, tâm chẳng phải không trú nơi chánh định mà thiết lập chỉ, đó gọi là sắc thái của chỉ.

Chánh trú phân biệt pháp, đây gọi là tu quán: Dựa vào sự an trú chính xác [và khéo léo nơi chánh định] để phân biệt thể tướng của các pháp, đó gọi là sắc thái của quán.

Hỏi: Tu tập như thế nào về chỉ và quán?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Muốn khắp các công đức

Thì phải tu chỉ quán

Một phần, chẳng một phần

Tu tập có đơn, song.

Giải thích:

Muốn khắp các công đức, thì phải tu chỉ quán: Nếu ai mong cầu khắp cả các công đức thì người ấy phải tu tập hai hạnh chỉ quán. Như trong kinh có nói: “Phật bảo các tỳ-kheo, nếu ai mong cầu [an lạc] thì làm sao đạt được? Các tỳ-kheo, ly dục, ly ác bất thiện pháp.” Cho đến nói rộng: “Các tỳ-kheo, có hai pháp cần phải tu tập, đó là chỉ và quán.”

Một phần, chẳng một phần: Một phần là hoặc tu chỉ, hoặc tu quán. Chẳng một phần là hợp tu cả chỉ và quán.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Tu tập có đơn, song: Đơn tu là tu một phần, hoặc tu chỉ, hoặc tu quán. Song tu là tu chẳng phải một phần, là hợp tu cả chỉ và quán.

Hỏi: Thế nào là chủng loại sai biệt và nghiệp dụng của hai hạnh này?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Năng thông và năng xuất

Vô tướng và vô vi

Tịnh độ và tịnh quả

Hai sau là nghiệp dụng.

Giải thích:

Nửa đầu kệ tụng nói rõ chủng loại sai biệt. Nửa sau kệ tụng nói rõ nghiệp dụng.

Chỉ quán ở tín hành địa được gọi là tu tập y chỉ. Bồ tát khi nhập vào đại địa thì có bốn chủng loại sai biệt:

1. Tu tập khả năng thông suốt, là nhập vào địa đầu tiên;

2. Tu tập khả năng dẫn ra, là nhập vào địa đầu tiên cho đến địa thứ sáu, Bồ tát trong sáu địa này có khả năng dẫn ra những phương tiện hữu tướng;

3. Tu tập vô tướng, là nhập vào địa thứ bảy;

4. Tu tập vô vi, là nhập vào ba địa sau cùng.

Những địa trước có tác ý tu tập dụng công nên gọi là hữu vi, còn ba địa sau cùng không có tác ý tu tập dụng công nên gọi là vô vi. Năm chủng loại này [thêm tu tập hữu vi] gọi là chủng loại sai biệt của chỉ quán.

Tịnh độ, là dựa vào ba địa sau cùng mà công hạnh tu tập làm sạch quốc độ. Tịnh quả, là công hạnh thực hiện chuyển y. Hai hạnh làm sạnh này là nghiệp dụng của chỉ quán.

Đã nói chỉ quán của Bồ tát, kế nói sự tu tập năm thứ phương tiện thiện xảo của Bồ tát.

Kệ tụng:

Tự thành thục, thành sanh

Mau đắc quả, tác nghiệp

Đường sanh tử không bỏ

Đây là năm thiện xảo.

Giải thích:

Năm thứ phương tiện thiện xảo là:

1. Tự thành thục Phật pháp, là lấy trí vô phân biệt làm phương tiện thiện xảo;

2. Thành thục chúng sanh, là lấy bốn pháp nhiếp làm phương tiện thiện xảo;

3. Mau đắc quả bồ-đề, là lấy sám hối [nghiệp chướng], tùy hỷ [công đức], thỉnh [Phật] chuyển pháp luân và sanh khởi thắng nguyện làm phương tiện thiện xảo;

4. Tác nghiệp thành tựu, là lấy hai môn làm phương tiện thiện xảo. Hai môn là đà-la-ni môn và tam-muội môn. Sử dụng hai môn này thì có khả năng thành tựu sự nghiệp lợi ích chúng sanh;

5. Đường sanh tử không xả bỏ, là lấy niết-bàn vô trú xứ làm phương tiện thiện xảo.

Hỏi: Thế nào là sai biệt của phương tiện thiện xảo?

Kệ tụng:

Thiện xảo không ai bằng

Sai biệt y các địa

Năng thành lợi mình người

Gọi đó là nghiệp dụng.

Giải thích:

Nửa đầu kệ tụng nói rõ sự sai biệt của phương tiện thiện xảo. Nửa sau kệ tụng nói rõ nghiệp dụng của phương tiện thiện xảo.

Năm phương tiện này nơi các Bồ tát là tối thượng, không ai sánh bằng. Vì sao? Vì phương tiện của Bồ tát tu tập trong các địa thì khác với phương tiện của Thanh văn, Duyên giác, nên gọi là sai biệt. Nghiệp dụng là khả năng thành tựu lợi ích cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh.

Đã nói phương tiện thiện xảo của Bồ tát, kế nói đà-la-ni của Bồ tát.

Kệ tụng:

Nghiệp báo và văn đắc

Tập định làm nhân tố

Y chỉ ba hạnh này

Tổng trì có ba thứ.

Giải thích:

Phẩm loại của đà-la-ni có ba thứ:

1. Đà-la-ni có được do nghiệp báo, tức có được do sức mạnh của nghiệp nhân ở đời trước;

2. Đà-la-ni có được do huân tập, tức có được do sức mạnh của sự nghe và nắm giữ chánh pháp ở đời này;

3. Đà-la-ni có được do tu chứng, tức có được do dựa vào sức mạnh của thiền định.

Hỏi: Thế nào là chủng loại sai biệt của đà-la-ni?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Hai nhỏ và một lớn

Lớn lại có ba thứ

Chưa nhập địa, sau cùng

Bất tịnh, thanh tịnh địa.

Giải thích:

Hai nhỏ và một lớn: Trong ba thứ phẩm loại đà-la-ni, hai thứ đà-la-ni có được do nghiệp báo và huân tập là loại nhỏ và đà-la-ni có được do tu chứng là loại lớn.

Ở trong loại lớn lại có ba thứ bậc là bậc nhu nhuyến, bậc vừa và bậc cao. Tất cả Bồ tát chưa nhập vào mười địa gọi bậc nhu nhuyến. Tất cả Bồ tát đã nhập vào bất tịnh địa, tức từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy, gọi là bậc vừa. Tất cả Bồ tát nhập vào thanh tịnh địa, tức ba địa sau cùng, gọi là bậc cao.

Hỏi: Thế nào là nghiệp dụng của đà-la-ni?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Nên biết các Bồ tát

Thường nương đà-la-ni

Nghe pháp và giữ pháp

Tác nghiệp đều như vậy.

Giải thích:

Ở đây nên biết, các Bồ tát y chỉ đà-la-ni để luôn khai thị diệu pháp và thường thọ trì diệu pháp, lấy sự y chỉ đà-la-ni làm sự nghiệp.

Đã nói đà-la-ni của Bồ tát, kế nói sự phát khởi các nguyện của Bồ tát.

Kệ tụng:

Tư, dục cùng làm thể

Riêng trí làm nhân kia

Các địa chính là địa

Hai quả cũng là quả.

Sai biệt có ba thứ

Đủ loại, lớn, thanh tịnh

Nghiệp nguyện có hai thứ

Lợi mình và lợi người.

Giải thích:

Hai kệ tụng này lấy sáu nghĩa để phân biệt các nguyện: 1. Tự tánh; 2. Nhân; 3. Địa; 4. Quả; 5. Sai biệt; 6. Nghiệp.

Tự tánh là tư tâm sở và dục tâm sở tương ứng nhau. Nhân tố là trí. Địa là các địa. Quả là hai quả: quả hiện tại và quả vị lai. Nhân tố của hai quả là các nguyện. Trong nguyện có yếu tố tâm ý được thỏa thích. Tâm ý thỏa thích là sự thành tựu của tâm sở dục. Bồ tát dùng nguyện lực để đi vào các nguyện quả, như là thân phóng ánh sáng, miệng phát âm thanh cho đến rộng thuyết diệu pháp.

Sai biệt của các nguyện có ba thứ:

1. Đủ loại, là Bồ tát ở tín hành địa phát nguyện như vầy, như kia, các mong muốn đều được;

2. Rộng lớn, là mười đại nguyện của Bồ tát nhập địa;

3. Thanh tịnh, là sự thanh tịnh của các địa ở sau triển chuyển hơn lên sự thanh tịnh của các địa ở trước, cho đến Phật địa thì sự thanh tịnh không có gì trên nữa.

Nghiệp dụng của các nguyện có hai thứ: 1. Thành tựu lợi mình; 2. Thành tựu lợi người.

Đã nói sự phát khởi các nguyện của Bồ tát, kế nói sự tu tập ba tam-muội của Bồ tát.

Kệ tụng:

Nên biết hai vô ngã

Sở y của hai ngã

Hai y thường vắng lặng

Sở hành cảnh ba định.

Giải thích:

Ba tam-muội có ba loại sở hành:

1. Quán nhân và pháp là hai vô ngã, đó là sở hành của không tam-muội;

2. Quán sở y của hai chấp nhân và pháp là sự chấp thủ năm uẩn, đó là sở hành của vô nguyện tam-muội;

3. Định này dựa vào sự vắng lặng hoàn toàn, đó là sở hành của vô tướng tam-muội.

Tánh sở thủ của ba loại sở hành này là ba loại cảnh giới; tánh năng thủ của ba loại sở hành này là ba loại tam-muội; gọi chung là ba tam-muội.

Hỏi: Thế nào là danh nghĩa của ba tam-muội?

Kệ tụng:

Không định vô phân biệt

Vô nguyện sanh chán bỏ

Vô tướng hằng an lạc

Chỗ dựa thường vắng lặng.

Giải thích:

Không định vô phân biệt: Nghĩa của vô phân biệt chính là nghĩa của không tam-muội, do không còn sự phân biệt hai ngã nhân và pháp.

Vô nguyện sanh chán bỏ: Nghĩa của chán bỏ chính là nghĩa của vô nguyện tam-muội, do chán bỏ chỗ dựa của hai ngã chấp.

Vô tướng hằng an lạc, chỗ dựa thường vắng lặng: Nghĩa của an lạc chính là nghĩa của vô tướng tam-muội, do thiền định có được an lạc mà chỗ dựa là sự vắng lặng hoàn toàn.

Hỏi: Ba tam-muội này sanh khởi bằng cách nào?

Kệ tụng:

Phải thấy và phải đoạn

Cho đến phải tu chứng

Thứ tự các không định

Tu tập có ba thứ.

Giải thích:

Phải thấy và phải đoạn, cho đến phải tu chứng: Phải thấy, là thấy hai vô ngã nhân và pháp. Phải đoạn, là đoạn chỗ dựa của hai ngã chấp. Phải tác chứng, là chứng đắc sự vắng lặng hoàn toàn.

Thứ tự các không định, tu tập có ba thứ: Ở đây, vì biết hai vô ngã nhân và pháp nên tu không tam-muội, vì đoạn chỗ dựa của hai ngã chấp nên tu vô nguyện tam-muội, vì chứng đắc sự vắng lặng hoàn toàn nên tu vô tướng tam-muội.

Đã nói sự tu tập ba tam-muội của Bồ tát, kế nói bốn pháp ưu-đà-na của Bồ tát.

Kệ tụng:

Ba tam-muội ở trên

Bốn ấn làm y chỉ

Bồ tát nói như vậy

Vì lợi ích chúng sanh.

Giải thích:

Bốn pháp ấn là:

1. Pháp ấn tất cả hành đều vô thường;

2. Pháp ấn tất cả hành đều khổ;

3. Pháp ấn tất cả pháp đều vô ngã;

4. Pháp ấn niết-bàn là tịch diệt.

Ở đây nên biết, pháp ấn vô thường và pháp ấn khổ làm y chỉ cho sự thành tựu vô nguyện tam-muội; pháp ấn vô ngã làm y chỉ cho sự thành tựu không tam-muội; pháp ấn tịch diệt làm y chỉ cho sự thành tựu vô tướng tam-muội. Bồ tát giảng nói bốn pháp ấn này, làm y chỉ cho ba tam-muội, đều vì lợi ích cho chúng sanh.

Hỏi: Thế nào là nghĩa của vô thường, cho đến nghĩa của tịch diệt?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Nghĩa vô, nghĩa phân biệt

Nghĩa phân biệt không chân

Dứt các nghĩa phân biệt

Gọi là nghĩa bốn ấn.

Giải thích:

Ở đây, các Bồ tát lấy nghĩa vô (không tồn tại) làm nghĩa vô thường, vì tướng phân biệt nên các pháp tuyệt đối không tồn tại; lấy nghĩa phân biệt làm nghĩa vô ngã, vì tướng phân biệt chỉ là cái ý thức phân biệt; hai nghĩa này là tướng phân biệt, vì đều không có tự thể.

Các Bồ tát lấy nghĩa phân biệt không chân làm nghĩa khổ, vì tâm và tâm pháp thuộc ba cõi là tự tánh của khổ; đây là tướng y tha. Dứt các nghĩa phân biệt chính là nghĩa tịch diệt; đây là tướng chân thật. Lại nữa nên biết, tướng y tha lấy tánh sát-na hoại diệt làm nghĩa vô thường.

Hỏi: Làm sao thành lập nghĩa sát-na hoại diệt?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Do khởi, từ nhân duyên

Trái ngược, không dừng trú

Vô thể, tánh xác quyết

Tùy chuyển và diệt tận

Biến dị, nhân và quả

Nắm giữ và tăng thượng

Tùy tịnh và tùy sanh

Nghĩa thành có mười lăm.

Giải thích:

Hai kệ tụng này lấy mười lăm nghĩa để thành lập nghĩa sát-na hoại diệt: 1. Do khởi; 2. Từ nhân; 3. Trái ngược; 4. Không trú; 5. Vô thể; 6. Tướng định; 7. Tùy chuyển; 8. Diệt tận; 9. Biến dị; 10. Nhân; 11. Quả; 12. Nắm giữ; 13. Tăng thượng; 14. Tùy tịnh; 15. Tùy sanh.

Do mười lăm nghĩa này mà nghĩa sát-na hoại diệt có thể thành lập.

Thứ nhất, do khởi: Các hành trôi chảy liên tục gọi là khởi. Nếu không có nghĩa sát-na hoại diệt mà có các hành trôi chảy liên tục là không đúng. Nếu ông cho rằng, vật có tạm thời dừng trú sau đó [sanh khởi], nghĩa là cái trước diệt, cái sau khởi mà gọi là liên tục, điều đó không đúng, phải gọi là không liên tục, bởi vì sự tạm dừng trú rồi sau đó sanh khởi là không có.

Thứ hai, từ nhân duyên: Mọi vật trước diệt, sau khởi đều phải nhờ nhân tố và duyên tố. Nếu một vật mà không có nhân duyên thì tức là không có tự thể. Nếu ông cho rằng, nhân đầu tiên của vật ấy có thể sanh nhiều quả ở hậu thời là không đúng. Nhân đầu tiên khởi tác dụng xong thì liền diệt mất, đâu thể làm nhân cho nhiều quả ở hậu thời. Nếu ông cho rằng, nhân đầu tiên đã khởi tác dụng thì không còn khởi tác dụng nữa thì kiến lập nhân này dùng để làm gì? Nếu ông cho rằng, nhân này đã khởi tác dụng nhưng chưa diệt, hậu thời mới diệt, vậy ở hậu thời cái gì là cái nhân bị diệt?

Thứ ba, trái ngược: Nếu ông cho rằng, nhân năng khởi [tác dụng] cũng là nhân bị diệt, điều đó cũng không đúng. Sanh khởi và hủy diệt là hai sự trái ngược nhau, vậy mà cùng chung một nhân thì thật vô lý. Thí như sáng và tối, lạnh và nóng thì không thể đứng chung với nhau, ở đây cũng vậy, nhân năng khởi thì không thể là nhân bị diệt. Nếu ông cho rằng, các hành sanh khởi rồi thì chẳng phải hủy diệt tức thời, điều này trái với giáo nghĩa A-hàm và trái với đạo lý. Trái với giáo nghĩa A-hàm là, đức Phật dạy các tỳ-kheo rằng các hành như huyễn hóa, là pháp hoại diệt, đó là pháp tạm thời, không có dừng trú trong từng sát-na. Trái với đạo lý là, những vị tu hành đối với sự sanh diệt của các hành thì tư duy về sát-na hoại diệt. Nếu các vị ấy không quán chiếu như vậy thì làm sao vào lúc lâm chung các vị ấy có thể thấy tướng của thân diệt mà không sanh tâm chán ghét [hay lưu luyến], có sự ly dục, được giải thoát? Nếu các vị ấy không quán chiếu như vậy thì các vị ấy cũng giống như các phàm phu khác.

Thứ tư, không dừng trú: Nếu ông cho rằng, các hành sanh khởi rồi thì có được sự dừng trú, như vậy hành ấy do chính nó dừng trú hay do cái khác mà được dừng trú? Nếu hành ấy do chính nó dừng trú thì sao không dừng trú mãi mãi? Nếu do cái khác mà được dừng trú thì sự dừng trú ấy là vô thể, sao có thể làm nhân được? Cả hai lý lẽ đều không đúng, cho nên nghĩa sát-na hoại diệt không thành lập.

Thứ năm, vô thể: Nếu ông cho rằng, không có nhân của dừng trú, nhưng nhân của hủy hoại thì chưa đến, cho nên các hành được dừng trú. Nhân của hủy hoại đến hậu thời mới diệt, chẳng phải như thí dụ lửa làm biến đổi cục sắt đen, điều đó không đúng, vì nhân của hủy hoại hoàn toàn không có hữu thể (tồn tại). Thí dụ lửa biến đổi cục sắt, tôi cho là vô lý. Cục sắt và lửa hợp lại thì màu đen [của cục sắt] tự diệt, màu đỏ [của cục sắt] tự khởi. Có thể làm cho màu đỏ khởi lên là công năng của lửa, thật sự không phải dùng lửa để biến đổi cục sắt đen. Lại nữa, như việc đun nước trong ấm cho đến khi cạn nước, nước không còn nữa không có nghĩa lửa hợp với nước mới làm cho nước thành vô thể.

Thứ sáu, tánh quyết định: Đức Phật nói đặc tính hữu vi của pháp hữu vi đều quyết định một đặc tính chung được gọi là vô thường. Ông cho rằng, các hành sanh khởi rồi thì không hủy diệt liền, nghĩa là pháp hữu vi có một khoảng thời gian ngắn không phải vô thường, như vậy ông rơi vào lỗi các hành không có đặc tính chung là vô thường.

Thứ bảy, tùy chuyển: Nếu ông nói sự vật trong mỗi sát-na sanh khởi làm mới, vậy thì làm thế nào nhận biết được cái cũ ở trong sự vật mới sanh? Nên nói rằng do sự tùy chuyển tương tự mà có được cái nhận biết như vậy. Thí như ngọn đèn đang cháy là do sanh khởi tương tự. Khởi lên nhận thức ngọn đèn cũ cũng tức là xác nhận có sự sai biệt với cái trước, cả hai không có tồn tại.

Thứ tám, diệt tận: Nếu ông hỏi, làm thế nào biết được vật sau chẳng phải vật trước? Nên nói, do diệt tận. Nếu các hành dừng trú, không hủy diệt, thì các hành ở sát-na sau với các hành ở sát-na trước đều dừng trú, nghĩa là các hành trước và sau không có sai biệt. Trên thật tế, các hành có sự sai biệt nên mới phân biệt được vật sau không phải là vật trước.

Thứ chín, biến dị: Nếu ông nói, vật mới sanh khởi không có biến dị tức thời là không đúng. Tự thể các pháp ở trong và ở ngoài qua biên tế thời gian trước, giữa và sau đều bất khả đắc. Vật mới sanh khởi thì biến dị tức thời, biến dị từ từ cho đến biến dị nhìn thấy rõ ràng. Thí như sữa lên men thành sữa chua, hiện tượng sánh sệt xuất hiện, nhưng sự biến thể của sữa rất tinh vi, khó mà biết được, tuy vậy qua tánh tùy chuyển tương tự mà biết sữa chua có ra từ sữa. Vậy, tánh biến dị thành tựu được nghĩa sát-na hoại diệt.

Thứ mười, nhân: Ông chấp nhận tâm là sát-na hoại diệt. Nhân sanh khởi tâm ấy là khi con mắt tiếp xúc với sắc trần, v.v… các hành như vậy. Quả ấy (tâm ấy) là sát-na hoại diệt nên nhân cũng là sát-na hoại diệt, vì không thể lấy nhân thường sanh khởi quả vô thường được.

Thứ mười một, quả: Con mắt, sắc trần v.v… các hành cũng là quả của tâm, cho nên để thành tựu nghĩa sát-na hoại diệt, không thể lấy nhân vô thường sanh khởi quả thường được.

Thứ mười hai, nắm giữ: Nếu ông nói, làm sao biết được con mắt, sắc trần v.v… các hành cũng là quả của tâm, thì phải nói rằng, do tâm nắm giữ mà [các hành] được tăng trưởng.

Thứ mười ba, tăng thượng: Lại như đức Phật nói: “Tâm dẫn thế gian đi, tâm đưa thế gian lại, do tâm tự tại mà thế gian tùy chuyển.”

Thức duyên danh sắc, luận cứ ở đây là vậy, cho nên nói các hành là quả của tâm.

Thứ mười bốn, tùy tịnh: Tịnh là tâm người tu tập thiền định. Với người tu tập thiền định, các hành tùy theo tâm tịnh mà chuyển. Như trong kinh có nói, tỳ-kheo tu tập thiền tứ, đầy đủ thần thông, tâm được tự tại; nếu muốn khiến cây [khô] thành vàng thì được tùy ý. Do đó mà biết các hành đều là quả của tâm.

Thứ mười lăm, tùy sanh: Chúng sanh tạo tội thì ngoại vật có được thảy đều xấu kém. Chúng sanh tạo phước thì ngoại vật có được thảy đều tốt đẹp. Do đó mà biết các hành đều là quả của tâm.

Nhân là sát-na [hoại diệt], quả không phải là sát-na [hoại diệt]; không có đạo lý đó, do nhân tự tại. Như vậy đã thành lập chung tất cả các hành thuộc nội pháp và ngoại pháp đều là sát-na [hoại diệt] rồi, kế thành lập riêng các hành thuộc nội pháp là sát-na [hoại diệt].

Kệ tụng:

Sơ khởi và tục khởi

Trưởng khởi và y khởi

Biến khởi và thục khởi

Liệt khởi và thắng khởi

Minh khởi, vô minh khởi

Cho đến dị xứ khởi

Chủng khởi, vô chủng khởi

Tượng khởi: mười bốn khởi.

Giải thích:

Hai kệ tụng này lấy mười bốn chủng loại hiện khởi để thành lập nghĩa sát-na [hoại diệt] của các hành thuộc nội pháp:

1. Hiện khởi đầu tiên, là sát-na đầu tiên tự thể sanh khởi;

2. Hiện khởi tương tục, là tự thể sanh khởi trong các sát-na khác, trừ sát-na đầu tiên;

3. Hiện khởi trưởng dưỡng, là tự thể được trưởng dưỡng từ thực phẩm, ngủ nghỉ, phạn hạnh, chánh thọ nên sanh khởi;

4. Hiện khởi y chỉ, là các thức của mắt v.v… y chỉ các căn của mắt v.v… mà sanh khởi;

5. Hiện khởi biến dị, là tâm thức nhiễm ô bởi tham, sân, v.v… làm cho sắc, thọ, v.v… biến khác;

6. Hiện khởi dị thục, là quá trình sanh khởi từ thành thai, đứa bé, đứa trẻ, thiếu niên, thanh niên, trung niên, đến người già;

7. Hiện khởi thấp kém, là sanh trong các đường dữ;

8. Hiện khởi tốt đẹp, là sanh trong các đường lành;

9. Hiện khởi sáng suốt, là sanh trong hai cõi trời sau cùng của dục giới và tất cả cõi trời của sắc giới và vô sắc giới;

10. Hiện khởi không sáng suốt, là sanh trong các xứ ngoài những minh xứ sở kể trên;

11. Hiện khởi xứ khác, là chết ở xứ này thì sanh ở xứ khác;

12. Hiện khởi chủng tử, là sanh khởi năm uẩn tối hậu, trừ bậc A-la-hán;

13. Hiện khởi không chủng tử, là cái sanh khởi ở sau không có tính chủng tử như cái sanh khởi ở trước, trừ năm uẩn tối hậu;

14. Hiện khởi ảnh tượng, là người nhập giải thoát thiền nhờ vào sức mạnh của định tự tại mà ảnh tượng của các hành sanh khởi.

Hỏi: Lại lấy nhân gì để thành lập mười bốn thứ sanh khởi này?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Tục dị và đoạn dị

Tùy trưởng và tùy y

Trú quá và khứ quá

Vô trú, không không chết

Và có tùy tâm tướng

Hành giả cần phải biết

Chín loại nhân như vậy

Thành mười bốn sanh khởi.

Giải thích:

Hai kệ tụng này lấy chín loại nhân để thành lập mười bốn thứ sanh khởi ở trên. Chín loại nhân là: 1. Tương tục khác; 2. Gián đoạn khác; 3. Tùy trưởng dưỡng; 4. Tùy y chỉ; 5. Dừng trú rồi; 6. Đi rồi; 7. Không dừng trú; 8. Có chết; 9. Tùy tâm tướng.

Thứ nhất, tương tục khác: Nhân này thành lập sự hiện khởi đầu tiên. Khi tự thể sanh khởi ở sát-na đầu tiên, tánh chất của nhân không có sai biệt, và ở hậu thời các hành tương tục sanh khởi cũng không có sai biệt, tánh chất của nhân cũng không có sai biệt. Khi nhân có sự sai biệt, thì nghĩa các sát-na sau của các hành được thành lập.

Thứ hai, gián đoạn khác: Nhân này thành lập sự hiện khởi tương tục. Trong từng sát-na không có sai biệt nhân, nên ở hậu thời sự gián đoạn không thể xảy ra. Khi sự gián đoạn có sai biệt, thì nghĩa sát-na của các hành thành lập.

Thứ ba, tùy trưởng dưỡng: Nhân này thành lập sự hiện khởi trưởng dưỡng. Tác dụng làm cho các hành tròn đầy gọi là trưởng dưỡng. Cho rằng không có sát-na [diệt] để có sự trưởng dưỡng các hành, tức nói các hành có sự dừng trú, điều đó không đúng. Nếu các hành có sự dừng trú thì các hành không thể tiến dần đến sự tròn đầy lớn lao, và không thể gọi là trưởng dưỡng.

Thứ tư, tùy y chỉ: Nhân này thành lập sự hiện khởi y chỉ. Cho rằng cái năng y không dừng trú nhưng cái sở y có dừng trú, điều đó không đúng. Như người đang cưỡi ngựa, nói người đi nhưng ngựa không đi thì thật vô lý. Như vậy, thức dựa vào căn, thức có sát-na [diệt] mà căn không có sát-na [diệt] là không đúng.

Thứ năm, dừng trú rồi: Nhân này thành lập sáu sự hiện khởi, đó là hiện khởi biến khác, hiện khởi dị thục, hiện khởi thấp kém, hiện khởi tốt đẹp, hiện khởi sáng suốt và hiện khởi không sáng suốt. Thành lập hiện khởi biến khác và hiện khởi dị thục: Cho rằng các hành sanh khởi đầu tiên rồi dừng trú không diệt là không đúng. Không có sự biến dị hiện khởi, thì tham, sân, v.v… làm cho sắc, thọ, v.v… biến khác là hoàn toàn không thể có, vì đầu tiên không có biến khác thì sau đó cũng không biến khác. Đầu tiên không có biến khác, sau đó có giai đoạn chín muồi, điều đó cũng không thể có, vì trước có biến khác thì sau mới chín muồi. Thành lập sát-na hiện khởi thấp kém và hiện khởi tốt đẹp: Cho rằng các hành có dừng trú nên có sự huân tập thiện, ác và thứ tự cho ra quả, điều đó không đúng. Các hành không dừng trú, thứ tự tương tục, mỗi nhân [thiện, ác] đều cho ra quả, nghĩa này là vậy. Thành lập sát-na hiện khởi sáng suốt và hiện khởi không sáng suốt: Cho rằng các hành có dừng trú nhưng hiện khởi sáng suốt lại không dừng trú, tức có ra (hữu) do tâm thức chuyển biến. Cũng vậy, không có hiện khởi không sáng suốt nếu ở hậu thời không có biến khác.

Thứ sáu, đi rồi: Nhân này thành lập hiện khởi xứ khác. Cho rằng các hành đến xứ khác được gọi là đi, điều đó không đúng.

Nay tôi hỏi ông, các hành đi là đã hiện khởi các hành đến xứ khác, hay là chưa hiện khởi các hành đến xứ khác?

Đã hiện khởi các hành đến xứ khác: xứ này đã hiện khởi, xứ khác chưa hiện khởi, nghĩa là các hành dừng trú, mà nói là đi, nghĩa này trái ngược.

Chưa hiện khởi các hành đến xứ khác: chưa hiện khởi tức là vốn chưa có đi, mà nói là đi, lời này vô nghĩa.

Lại nữa, cho rằng các hành ở xứ này vừa đi, vừa dừng trú, tức là năng tác và sở tác đều làm cho các hành đi, điều đó không đúng, vì dừng trú tức không đến được xứ khác.

Nếu các hành đến xứ khác mới có năng tác và sở tác, điều đó cũng không đúng, vì không thể rời sự đi mà có các hành đến xứ khác.

Nếu các hành dừng trú xứ này, các hành dừng trú xứ khác, rời ngoài các hành mà cầu năng tác thì tuyệt đối không thể được. Vậy là, các hành không khác mà vẫn tương tục có sự đi. Năng tác sự đi đã vô thể, tức nghĩa sát-na thành lập.

Ông nói nếu thật không có đi thì tại sao người đời thấy có đi? Phải nói rằng do tương tục không gián đoạn nên giả thuyết là đi, kỳ thật sự đi là vô thể.

Nếu ông hỏi có những nhân gì làm các hành tương tục đi, thì phải nói có vô lượng nhân duyên: Có tâm lực tự tại như uy nghi v.v… nên đi. Có nghiệp đời trước tự tại như trong thân trung ấm nên đi. Có sức tay tự tại như bắn tên, ném đá nên đi. Có y chỉ tự tại như ngồi xe, đi thuyền nên đi. Có sức tác động tự tại như gió thổi vật nên đi. Có tự thể tự tại như tánh gió đi ngang, tánh lửa đi lên, tánh nước đi xuống. Có sức phép thuật tự tại như thần chú, linh dược, đi trên không. Có đá từ trường tự tại có thể làm cho cục sắt dịch chuyển. Có sức thần tự tại như nương thần thông đi đến. Như vậy thảy, có vô lượng nhân duyên có thể làm cho các hành tương tục mà giả thuyết là đi. Nghĩa ấy nên biết.

Thứ bảy, không dừng trú: Nhân này thành lập hiện khởi chủng tử. Nếu các hành có dừng trú, vậy thì ở thời gian khác lại có hiện khởi chủng tử là không đúng, vì trong từng sát-na không có nhân nào khác. Nếu các hành không có dừng trú, thì ở hậu thời có sự hiện khởi chủng tử, nghĩa này đúng đắn.

Thứ tám, có chết: Nhân này thành lập hiện khởi không chủng tử. Cho rằng, không có sát-na [diệt] mà có chết, khi đó không có chủng tử hiện khởi là không đúng. Cho rằng, trước có chủng tử hiện khởi, ở hậu thời mạng chung, khi đó mới không có chủng tử hiện khởi, điều đó cũng không đúng. Do trong từng sát-na, nhân là vô thể, cho nên sát-na tử tâm không thể đắc thành.

Thứ chín, tùy tâm tướng: Nhân này thành lập hiện khởi ảnh tượng. Do tâm tự tại, trong từng sát-na những ảnh tượng kia hiện khởi. Nếu không sát-na mà có ảnh tượng hiện khởi thì thật vô lý.

Hỏi: Như vậy, đã thành lập riêng về sát-na của nội pháp hữu vi, còn có nhân gì có thể thành lập ngoại pháp là bốn đại và bốn đại chủng [sở] tạo sắc là sát-na?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Thấm ướt và khô cạn

Tánh động, tăng và giảm

Hai khởi và bốn biến

Sức củi và nhỏ dần

Cũng nói tùy tâm khởi

Cho đến nạn vấn thành

Tất cả các ngoại pháp

Đều là thể sát-na.

Giải thích:

Hai kệ tụng này lấy mười bốn nhân để thành lập ngoại pháp là sát-na.

Nước có hai nhân: 1. Thấm ướt; 2. Khô cạn.

Nếu không có sát-na, thì hiện tượng nước có lúc thấm ướt cho sự sanh trưởng hay có khi khô cạn không thể xảy ra. Có người hỏi thế này: Nếu không có sát-na thì nước do nhân gì mà thấm ướt và do nhân gì mà khô cạn? Câu hỏi đó không có câu trả lời. Hiện tại thấy nước có thấm ướt hay khô cạn, cho nên biết sát-na là nhân của nước thấm ướt hay khô cạn.

Gió có ba nhân: 1. Tánh động; 2. Tăng mạnh; 3. Giảm ngưng.

Nếu tánh của gió là dừng trú, tức là khi gió không động thì [rõ ràng] các hành là vô thể, và cũng vì dừng trú mà gió không có tăng mạnh, không có giảm ngưng.

Đất có sáu nhân, là hai hiện khởi và bốn biến khác.

Hai hiện khởi, là do có nước và có gió mà có được sự hiện khởi của đất. Ở chu kỳ sanh thành, đất là quả của nước và gió, cho nên biết đất cũng là sát-na.

Bốn biến khác, là do có bốn thứ làm cho đất biến khác:

1. Nghiệp lực tạo tác, là do nghiệp lực của chúng sanh có sai biệt;

2. Con người tạo tác, là như việc đào lấp [đất] v.v…;

3. Các đại tạo tác, là do lửa, nước và gió [hỗ trợ hình thành];

4. Thời tiết tạo tác, là do thời tiết chuyển đổi mà xuất hiện những hình thái khác nhau.

Nếu không có sát-na thì bốn biến khác không thể xảy ra, vì nhân là vô thể. Như vậy, đất có sáu nhân đều được biết là sát-na.

Sáu nhân của sắc, hương, vị và xúc cũng như vậy, đều là sát-na.

Lửa có một nhân, đó là sức củi. Lửa sanh khởi được là nhờ có củi. Sức củi làm cho lửa cháy mạnh. Đã cùng với lửa cháy nên củi cũng không thể dừng trú. Lửa đốt hết củi thì lửa cũng không dừng trú. Nếu lửa không do củi mà có thì ở hậu thời không có củi, lửa cũng phải còn mãi.

Theo nghĩa tương đồng với lửa mà âm thanh được nói ngay sau. Âm thanh có một nhân, đó là nhỏ dần. Thí như tiếng chuông, ở hậu thời tiếng chuông nhỏ dần. Nếu không có sát-na thì ở hậu thời không thể có âm thanh nhỏ yếu.

Pháp nhập sắc có một nhân, đó là tùy tâm khởi; như khi thọ giới, tùy tâm phát khởi là thượng, trung hay hạ. Nhân khởi tâm là sát-na nên quả của khởi tâm cũng là sát-na.

Như vậy là mười bốn nhân thành lập sát-na của ngoại pháp.

Tổng kết lại bằng nạn vấn. Tôi nay hỏi ông: Vì sao ông muốn cho rằng các hành là vô thường, nhưng không muốn cho rằng các hành là sát-na diệt?

Nếu ông nói rằng không thể biết được từng sát-na diệt [nơi các hành], điều đó không đúng. Thí như ngọn đèn, trong trường hợp ngọn đèn không di động, ta cũng không thể biết sát-na diệt của ngọn đèn. Vì sao ông không muốn cho rằng thể của ngọn đèn là không sát-na?

Nếu ông nói rằng thể của ngọn đèn là có sát-na [diệt] nhưng vi tế quá, không thể biết được, vậy thì các hành cũng như ngọn đèn, vì sao ông không muốn cho rằng các hành là có sát-na [diệt]?

Nếu ông nói rằng ngọn đèn và các hành thì không tương tự, điều đó không đúng.

Không tương tự có hai thứ: 1. Tự tánh không tương tự; 2. Thời phần không tương tự. Qua tự tánh không tương tự, thí dụ này được thành lập, vì lấy phi tự thể làm thí dụ; không phải như lấy cây đèn dụ cho cây đèn, lấy con bò dụ cho con bò, thì thí dụ này không thành. Qua thời phần không tương tự, thí dụ này cũng được thành lập, vì ngọn đèn và các hành đều tương tự trong nghĩa sát-na. Nếu không có nghĩa sát-na tương tự thì thí dụ này không thành.

Tôi lại hỏi ông, như có người cưỡi một cỗ xe, nếu cỗ xe dừng thì người ấy có đi không? Đáp, không. Như vậy, căn sở y thì trú, còn thức năng y thì đi là không hợp lý.

Nếu ông nói, vì sao hiện thấy ngọn đèn trong mỗi niệm diệt mà tim đèn vẫn trú như vậy? Phải nói rằng, ông thấy mà không thấy. Tim đèn tương tục trong từng sát-na có hoại, có khởi mà ông không biết đúng như thật.

Nếu ông nói các hành là sát-na như ngọn đèn, nhưng tại sao người đời không biết? Phải nói rằng, các hành là vật điên đảo mà tương tục tùy chuyển trong từng sát-na. Điều này khó có thể nhận ra nhưng thật sự là chúng riêng biệt sanh khởi.

Người đời đối với sự vật hiện tiền mà sanh cái biết điên đảo; nếu không phải vậy thì người đời đã không có sự điên đảo: các hành vô thường mà chấp là thường. Nếu tự thể của điên đảo là không nhiễm ô, cũng không tồn tại, thì từ chỗ nào mà có giải thoát? Từ nạn vấn như vậy mà thành lập các hành là sát-na.

Đã thành lập nghĩa của vô thường, kế thành lập nghĩa của vô ngã.

Hỏi: Có thể nói rằng con người là có hay không có?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Con người không thật có

Nói thật bất khả đắc

Điên đảo và nhiễm ô

Nhiễm nhân được thành lập.

Giải thích:

Con người không thật có: Có thể nói, con người là giả danh mà có, không phải thật thể mà có. Hiểu như vậy thì không rơi vào sự chấp một bên, tức rời xa có và không.

Hỏi: Con người là thật có nhưng vì sao phải hiểu là không tồn tại?

Đáp: Thật sự bất khả đắc, do con người không thể nơi sắc, thọ, v.v… mà thủ đắc là có thật, vì không phải [bậc] giác trí chứng [vô ngã].

Hỏi: Con người không phải giác trí không chứng, và đức Phật nói về ngã mà hiện tại khả đắc, vậy mà ngài nói bất khả đắc, điều đó không đúng.

Đáp: Ông nói khả đắc nhưng thật sự bất khả đắc, do vì nhận thức điên đảo. Đức Phật nói vô ngã, chúng sanh kế đạt ngã cho nên gọi là điên đảo.

Hỏi: Vì sao biết nhận thức là điên đảo?

Đáp: Do nhiễm ô. Thân kiến là nhiễm ô, nghĩa là chấp ngã và ngã sở. Không điên đảo tức không có nhiễm ô.

Hỏi: Vì sao biết ngã chấp là nhiễm ô?

Đáp: Do nhân của nhiễm ô. Do ngã chấp làm nhân nên tham, sân, v.v… được sanh khởi, vì vậy biết ngã chấp là nhiễm ô.

Hỏi: Như ngài có nhận rằng nơi năm uẩn là sắc, thọ, v.v… mà nói con người là giả có, vậy con người và năm uẩn là một hay là khác?

Kệ tụng:

Người giả và uẩn thật

Không thể nói một khác

Nếu nói một hay khác

Là có hai lỗi sanh.

Giải thích:

Người giả và uẩn thật thì không thể nói là một, không thể nói là khác. Nếu nói là một hay khác thì hai lỗi liền sanh. Hai lỗi là:

1. Nếu nói người và uẩn là một, thì uẩn chính là người, và người là thật;

2. Nếu nói người và uẩn là khác, thì uẩn tuy không phải là người, người cũng là thật. Cho nên nói, người là (giả) thi thiết (tên gọi) mà có, không thể nói là một hay khác. Như vậy, chỉ ký luận của Như lai thành tựu.

Kệ tụng:

Nếu chấp người là thật

Có thể nói một, khác

Không thể nói một, khác

Nói ra không đạo lý.

Giải thích:

Nếu ai đi ngược với lời dạy của bậc đại sư, chấp có người thật, thì có thể nói rằng người thật và uẩn vừa là một, vừa là khác. Nhưng nói như vậy là không có đạo lý. Nếu ông nói con người là bất khả thuyết, như lửa và củi không phải khác, cũng không phải không khác, điều đó không đúng.

Kệ tụng:

Tướng khác, cái thấy đời

Thánh thuyết cũng không đúng

Lửa củi không thể nói

Có hai có thể được.

Giải thích:

Tướng khác: Lửa là hỏa đại, củi là đại khác. Lửa và củi đều có sắc thái riêng biệt, cho nên lửa và củi khác nhau.

Cái thấy đời: Người đời lìa lửa mà thấy củi, củi ấy chỉ là một loại cây có thể đốt cháy; cũng vậy, lìa củi mà thấy lửa, lửa ấy bị gió thổi thì tắt; cho nên lửa và củi khác nhau.

Thánh thuyết cũng không đúng: Đức Phật Thế tôn không chỗ nào nói rằng không thể nói lửa và củi là một hay khác, cho nên ông chấp rằng không thể nói lửa và củi là một hay khác, nói như vậy là không có đạo lý. Nếu ông nói, không phải lìa củi mà thấy lửa, thì gió tức là củi, điều đó không đúng.

Có hai có thể được: Do lửa và gió là hai sắc thái riêng biệt. Lại nữa:

Kệ tụng:

Hai có nên thức khởi

Người duyên thì phi nghĩa

Tốt diệt và xấu sanh

Nói sanh càng phi lý.

Giải thích:

Nếu ai chấp con người là có thật, nghĩa là có sự thấy, nghe, cảm giác, nhận thức, ăn, tri giác, nói năng, như vậy là có các thức của mắt, tai, v.v… sanh khởi. Do lấy người làm duyên mà nói người là tác giả hay do lấy người là chủ mà nói người là tác giả?

Lấy người làm duyên: Hai có nên thức khởi, người duyên thì phi nghĩa: Trong lúc các thức sanh khởi, con người không có một chút năng lực để biết chúng.

Lấy người là chủ: Tốt diệt và xấu sanh, nói sanh càng phi lý: Nếu người là chủ, thì khi nhận thức khả ái đã sanh, muốn nhận thức ấy hoàn toàn không diệt, không muốn diệt mất, và khi nhận thức không khả ái chưa sanh, muốn nhận thức ấy hoàn toàn không sanh, không muốn sanh khởi. Vì lẽ đó, ông không nên chấp rằng con người là sự thấy cho đến sự nhận thức. Lại nữa:

Kệ tụng:

Ông chấp trong người thật

Nghiệp dụng gì thành lập

Không thật cưỡng cho thật

Trái ba bồ-đề Phật.

Giải thích:

Nếu con người là thật có thì ông lấy nghiệp dụng gì để thành lập? Hễ là thật có, ắt có tác dụng, như các tịnh sắc căn là mắt, tai, v.v… lấy tác dụng là thấy, nghe v.v… để có thể được thành lập. Con người không có tác dụng như các tịnh sắc căn để có thể được thành lập, vì vậy con người không phải thật có.

Lại nữa, ông đối với con người không thật mà cưỡng muốn cho là con người có thật, tức là làm trái với ba thứ bồ-đề của Như lai: 1. Bồ-đề sâu xa; 2. Bồ-đề không chung; 3. Bồ-đề xuất thế.

Nếu thấy con người là thật có, tức là không phải bồ-đề sâu xa, không phải bồ-đề không chung với ngoại đạo, không phải bồ-đề cho người thế gian không tu tập. Cho nên sự chấp này là đối tượng nắm bắt của người thế gian, là xứ sở dính mắc của ngoại đạo, là sự huân tập liên tục cho sanh tử.

Lại nữa, nếu con người là sự thấy cho đến sự nhận thức, thì các căn mắt, tai, v.v… có tác dụng, hay không có tác dụng? Nếu có tác dụng, thì các căn tự nhiên khởi hay do con người khởi? Có những nghi điểm nào?

Kệ tụng:

Tác dụng tự nhiên khởi

Là có ba lỗi sanh

Nếu lấy người làm duyên

Các căn đều vô dụng.

Giải thích:

Nếu nói tác dụng của các căn mắt, tai, v.v… tự nhiên khởi, thì con người đối với các căn mắt, tai v.v… không có tạo tác sự nghiệp, ở đây có ba lỗi sanh. Nếu nói lấy con người làm duyên để tác dụng được sanh khởi, thì các căn mắt, tai, v.v… hoàn toàn không có công dụng.

Hỏi: Ba lỗi của tác dụng do tự nhiên khởi là gì?

Kệ tụng:

Người không phải tác giả

Dụng không phải thường khởi

Khởi không phải một lúc

Tự khởi là không đúng.

Giải thích:

Nếu tác dụng của các căn mắt, tai v.v… tự nhiên khởi, không cần đợi con người tạo tác, thì con người không phải là tác giả, vì sao gọi con người thấy v.v… cho đến nhận thức? Đó là lỗi thứ nhất.

Nếu tác dụng của các căn mắt, tai v.v… tự nhiên khởi, thì các căn phải thường khởi, không phải có lúc khởi, có lúc không khởi. Đó là lỗi thứ hai.

Nếu tác dụng của các căn mắt, tai v.v… là thường khởi, thì các căn phải cùng khởi một lúc, vì sao các căn không cùng khởi được? Đó là lỗi thứ ba.

Qua những nghĩa này, nói các căn tự nhiên khởi là không đúng.

Hỏi: Lấy con người làm duyên thì có lỗi gì?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Người trú, dụng trước không

Người hoại thì người đoạn

Có tự thể thứ ba

Làm duyên, không nghĩa này.

Giải thích:

Nếu nói con người dừng trú và có tác dụng làm duyên, thì con người đã phải thường hiện hữu; vì sao tác dụng ở giai đoạn trước thì không có, ở giai đoạn sau thì có? Nghĩa này không đúng.

Nếu nói con người hủy hoại làm duyên, thì rơi vào nghĩa vô thường, vì con người đang hoại, nghĩa này cũng không đúng.

Nếu nói con người không dừng trú, cũng không hủy hoại, lấy tự thể thứ ba này làm duyên, thì không có nghĩa này.

Như vậy, không thể dựa vào đạo lý mà nói con người là thật. Lại nữa:

Kệ tụng:

Các pháp vô ngã ấn

Và nói chân thật không

Có ngã, có năm lỗi

Cho nên biết vô ngã.

Giải thích:

Trong kinh Pháp ấn, đức Phật dạy: “Tất cả pháp vô ngã.”

Trong kinh Chân thật không, đức Phật dạy: “Có nghiệp có báo mà không tác giả. Bỏ uẩn trước, khởi uẩn sau, khởi diệt tương tục, trừ pháp tục số.”

Trong kinh Tăng ngũ có nói: “Nếu chấp hữu ngã thì có năm lầm lỗi: 1. Rơi vào kiến xứ mà khởi ngã kiến, mạng giả kiến; 2. Giống với ngoại đạo; 3. Thực hành tà vạy; 4. Không muốn, không tin, không trú đối với nghĩa lý không; 5. Thánh pháp không được thanh tịnh.”

Như vậy, dựa vào những gì được nói trong các kinh A-hàm, sự thể có con người thật cũng bất khả đắc.

Hỏi: Nếu không có con người thật, vì sao trong kinh điển, đức Thế tôn ở nơi này, nơi kia, xác nhận có con người, như là bậc trí, kẻ mang gánh nặng, cũng như kiến lập các bậc tùy tín hành, v.v…?

Kệ tụng:

Do dựa pháp nhiễm tịnh

Vị, đoạn nói có khác

Hạnh khác, tương tục khác

Không thật giả nói người.

Giải thích:

Do dựa vào pháp nhiễm ô và pháp thanh tịnh mà có phần vị sai biệt và phần đoạn sai biệt, cho nên kiến lập con người giả có sai biệt. Nếu không có con người sai biệt thì không thể nói rằng có hành sai biệt và tương tục sai biệt. Như trong kinh Tri nói: “Thế nào là các pháp [sở tri]”, chỉ cho pháp nhiễm ô; “thế nào là trí ”, chỉ cho pháp thanh tịnh. Như trong kinh Gánh nặng nói: “Ai mang gánh nặng lên”, chỉ cho pháp nhiễm ô; “ai đặt gánh nặng xuống”, chỉ cho pháp thanh tịnh. Nếu không có hành sai biệt và tương tục sai biệt thì không thể nói, trong hai pháp này, ai là bậc trí, ai là kẻ mang gánh nặng. Các pháp bồ-đề phần là đa vị sai biệt, đó là phương tiện đạo, kiến đạo, tu đạo và cứu cánh đạo. Nếu không có hành sai biệt và tương tục sai biệt thì không thể nói, các pháp bồ-đề phần có các bậc tùy tín hành, v.v… sai biệt.

Do không có con người thật, theo tính ước lệ về các pháp sai biệt mà giả nói là có con người. Từ đạo lý này, nên biết, những gì nói về con người chỉ là con người giả. Nếu đức Phật không nói con người là người giả, mà nói con người là người thật, thì ý của Phật không có tác dụng, vì chúng sanh [sẽ chấp vào đó mà] sanh khởi ngã kiến.

Kệ tụng:

Không làm khởi ngã kiến

Vì kiến đã sanh khởi

Vô thỉ đã huân tập

Vô dụng nên giải thoát.

Giải thích:

Đức Phật không làm khởi ngã kiến của chúng sanh mà nói có con người thật, vì ngã kiến của chúng sanh đã sanh khởi từ trước. Đức Phật cũng không làm cho chúng sanh huân tập ngã kiến mà nói có con người thật, vì ngã kiến của chúng sanh đã huân tập từ trước. Các vị tu không dụng công thì tu tập bằng cách để cho diễn tiến tự nhiên [không cần tác ý] nên được giải thoát. Các vị chưa kiến đế thì vì còn có ngã kiến nên không giải thoát.

Không phải như thể của khổ, ở giai đoạn trước không thấy khổ, ở giai đoạn sau mới thấy khổ. Con người không phải vậy, không phải trước không thấy con người, sau mới thấy con người. Lại như thể của khổ, ở giai đoạn trước không thấy khổ, ở giai đoạn sau cũng không thấy khổ. Thể của người không giải thoát cũng vậy, giai đoạn trước thấy hữu ngã, giai đoạn sau cũng thấy hữu ngã, tức không được giải thoát. Nếu thật có ngã thì nhất định có ngã sở. Từ hai chấp đó mà khởi ngã ái và các phiền não khác, vậy là không được giải thoát. Do đó, không nên ước muốn có được con người thật, vì lầm lỗi từ ngã kiến v.v… thảy đều sanh khởi.

Như vậy, đã nói riêng về bồ-đề phần xong, kế tổng kết những nghĩa ở trước.

Kệ tụng:

Hổ thẹn các công đức

Bồ tát thường đầy đủ

Lợi mình đã không bỏ

Làm cho lợi người thành.

Giải thích:

Những nghĩa này ở trước đã trình bày, ở đây chỉ tóm lược.

Phẩm Giác Phần trọn vẹn

***

Phẩm Hai Mươi Hai: CÔNG ĐỨC

Giải thích:

Đã nói các giác phần của Bồ tát, kế nói các công đức của Bồ tát.

Kệ tụng:

Xả thân và thắng vị

Nhẫn thấp, siêng năng lâu

Không vị, không phân biệt

Sáu hạnh nói hy hữu.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị sự hy hữu của các hạnh.

Hạnh bố thí: Có thể thí xả thân mạng mình là hy hữu, các việc bố thí khác không phải hy hữu.

Hạnh trì giới: Có thể từ bỏ địa vị tôn quí mà mộ đạo xuất gia là hy hữu, các việc trì giới khác không phải hy hữu.

Hạnh nhẫn nhục: Có thể không đoái hoài đến thân mạng mà nhẫn chịu trước chúng sanh thấp kém là hy hữu, các sự nhẫn nhục khác không phải hy hữu.

Hạnh tinh tiến: Có thể ở trong thời gian lâu xa siêng năng tinh cần, cho đến tận cùng bờ mé của sanh tử vẫn không ngưng nghỉ là hy hữu, các sự tinh tiến khác không phải hy hữu.

Hạnh thiền định: Có thể ở trong cái vui thắng định mà không tham đắm thiền vị là hy hữu, vì tham đắm thì không chịu thọ sanh, các thiền định khác không phải hy hữu.

Hạnh trí tuệ: Có thể khởi trí vô phân biệt là hy hữu, các loại trí tuệ khác không phải hy hữu.

Các bậc Thanh văn phân biệt bốn đế mà sanh tâm chán lìa, các Bồ tát thì không như vậy. Đó gọi là sáu hạnh hy hữu.

Kệ tụng:

Sanh vào nhà Như lai

Được thọ ký, thọ chức

Cho đến được bồ-đề

Bốn quả nói hy hữu.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị sự hy hữu của các quả. Bồ tát có bốn loại quả:

1. Khi vào địa đầu tiên tức sanh vào nhà Như lai, là quả Tu-đà-hoàn;

2. Vào trong địa thứ tám mà được thọ ký, là quả Tư-đà-hàm;

3. Vào trong địa thứ mười mà được thọ chức, là quả A-na-hàm;

4. Phật địa là quả A-la-hán.

Ba quả đầu là quả của các vị tu học tiếp tục; quả thứ tư là quả của các vị tu học hoàn tất.

Đã nói những sự hy hữu của Bồ tát, kế nói những sự không phải hy hữu của Bồ tát.

Kệ tụng:

Ly dục, được tâm bi

Thắng tu và bình đẳng

Dựa đây tu các độ

Là hạnh phi hy hữu.

Giải thích:

Bồ tát đã được ly dục mà thực hành bố thí thì không phải là hy hữu, vì không đắm nhiễm tiền tài nên dễ xả bỏ tiền tài.

Bồ tát có được tâm đại bi mà trì giới, nhẫn nhục thì không phải là hy hữu.

Bồ tát đã được thắng tu, tức Bồ tát đã vào địa thứ tám, có được trí vô phân biệt không dụng công [về vô tướng] mà thực hành tinh tiến, thiền định và trí tuệ thì không phải là hy hữu.

Bồ tát có được tâm mình người bình đẳng mà thực hành tất cả các ba-la-mật cũng không phải là hy hữu, vì khi lợi người tức là lợi mình, và vì không có tâm lý lùi bước và khuất phục.

Đã nói những cái không phải hy hữu của Bồ tát, kế nói tâm bình đẳng của Bồ tát.

Kệ tụng:

Bồ tát thương chúng sanh

Không giống sanh năm ái

Bản thân và quyến thuộc

Con, bạn và người thân.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị Bồ tát có tâm bình đẳng đối với các chúng sanh. Chúng sanh có năm thứ ái tâm nên không có được tâm bình đẳng: 1. Yêu bản thân; 2. Yêu quyến thuộc; 3. Yêu con cái; 4. Yêu bạn bè; 5. Yêu người thân thiết.

Do năm thứ ái này mà chúng sanh không thể có được tâm bình đẳng, và cũng không phải tình thương rốt ráo, như con người ta có một lúc nào đó [vì ái mà] hành xử làm hại chính mình. Bồ tát thương chúng sanh bằng cái tâm bình đẳng, không ruồng bỏ chúng sanh, không thoái lui sanh tử.

Kệ tụng:

Không thiên lệch, không phạm

Nhẫn khắp, khởi thiện lợi

Thiền định, vô phân biệt

Sáu độ tâm bình đẳng.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị Bồ tát thực hành sáu ba-la-mật bằng tâm bình đẳng.

Không thiên lệch: Bố thí bằng tâm bình đẳng là đối với người cầu xin không rơi vào tâm thương ghét.

Không phạm: Trì giới bằng tâm bình đẳng là hành trì giới luật không thiếu sót, dẫu là giới điều nhỏ nhặt chi tiết.

Nhẫn khắp: Nhẫn nhục bằng tâm bình đẳng là đối với chúng sanh tôn quí hay thấp kém đều có thể nhẫn chịu khắp cả.

Khởi thiện lợi: Tinh tiến bằng tâm bình đẳng là siêng năng tu tập để khởi tất cả thiện căn và khởi tất cả lợi ích cho mình và người.

Thiền định: Học định bằng tâm bình đẳng là Bồ tát tu tập thiền định một cách tinh tiến cũng là để khởi các thiện căn và khởi các lợi ích.

Vô phân biệt: Tu tuệ bằng tâm bình đẳng là từ lúc mới phát tâm cho đến khi đạt địa vị cứu cánh, sự tu hành các độ của Bồ tát đều là ba luân thanh tịnh.

Đó là sự thực hành sáu ba-la-mật bằng tâm bình đẳng.

Đã nói tâm bình đẳng của Bồ tát, kế nói việc làm lợi ích chúng sanh của Bồ tát.

Kệ tụng:

Thành đồ đựng, thành cấm

Nhẫn ác và giúp thiện

Nhập pháp và đoạn nghi

Sáu hạnh sự lợi ích.

Giải thích:

Kệ tụng này hiển thị các Bồ tát lấy sáu ba-la-mật làm lợi ích cho chúng sanh.

Thành đồ đựng: Lấy sự lợi ích của thí làm cho chúng sanh thành tựu đồ đựng tu tập thiện pháp.

Thành cấm: Lấy sự lợi ích của giới làm cho chúng sanh biết giữ giới cấm tùy theo khả năng của họ.

Nhẫn ác: Lấy sự lợi ích của nhẫn làm cho chúng sanh tu tập khả năng tiếp nhận những việc trái nghịch.

Giúp thiện: Lấy sự lợi ích của tiến trợ giúp chúng sanh xây dựng nghiệp thiện.

Nhập pháp: Lấy sự lợi ích của định, tức bằng năng lực thần thông, làm cho chúng sanh quay lưng với tà hạnh mà đi vào chánh pháp.

Đoạn nghi: Lấy sự lợi ích của trí để đoạn trừ bao nhiêu lưới nghi của phàm, của thánh.

Đã nói sự lợi ích sáu ba-la-mật của Bồ tát, kế nói bảy lợi ích tương tự của Bồ tát: 1. Lợi ích tựa như người mẹ; 2. Lợi ích tựa như người cha; 3. Lợi ích tựa như thiện hữu; 4. Lợi ích tựa như bạn đồng hành; 5. Lợi ích tựa như người giúp việc khỏe mạnh; 6. Lợi ích tựa như vị a-xà-lê; 7. Lợi ích tựa như vị hòa thượng.

Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như người mẹ?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Tâm bình, sanh thánh địa

Trưởng thiện, phòng các ác

Giáo tập để đa văn

Năm nghiệp như mẹ hiền.

Giải thích:

Giống như người mẹ hiền làm năm nghiệp lợi ích cho các con: 1. Mang thai; 2. Sanh đẻ; 3. Nuôi nấng; 4. Ngăn hại; 5. Dạy dỗ.

Bồ tát cũng có năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh: 1. Tâm bình đẳng hướng về chúng sanh; 2. Đưa chúng sanh sanh vào thánh địa; 3. Giúp chúng sanh trưởng dưỡng thiện căn; 4. Giúp chúng sanh phòng hộ các ác hạnh [của ba nghiệp thân, miệng và ý]; 5. Giáo hóa chúng sanh tu tập đưa đến đa văn.

Đó là năm thứ tác nghiệp của Bồ tát tựa như người mẹ.

Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như người cha?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Khởi tín, học giới định

Giải thoát, khuyến thỉnh Phật

Ngăn chướng ngại về sau

Năm nghiệp như cha lành.

Giải thích:

Giống như người cha lành làm năm nghiệp lợi ích cho các con: 1. Gieo chủng tử; 2. Dạy công xảo; 3. Giúp con cái chọn bạn đời; 4. Giao phó bạn tốt; 5. Dứt nợ nần không để con cái gánh chịu.

Bồ tát cũng có năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh: 1. Làm sanh khởi đức tin cho chủng tử của Phật tính; 2. Giúp tu học giới tăng thượng và định tăng thượng, lấy giới định làm sự nghiệp; 3. Làm cho có được sự hỷ lạc của giải thoát, lấy giải thoát làm người phối ngẫu; 4. Làm cho biết khuyến thỉnh chư Phật, lấy chư vị Như lai làm thiện hữu; 5. Giúp ngăn chận các chướng ngại để chấm dứt nợ nần.

Đó là năm thứ tác nghiệp của Bồ tát tựa như người cha.

Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như thiện hữu?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Sâu kín và quở phạm

Khen giữ và dạy bảo

Khiến hiểu các ma sự

Năm nghiệp như thiện hữu.

Giải thích:

Giống như thiện hữu làm cho mình năm thứ nghiệp lợi ích: 1. Che chở bằng lời nói sâu sắc; 2. Giúp dứt việc làm ác; 3. Khen ngợi việc làm thiện; 4. Trợ giúp công việc làm; 5. Ngăn ngừa tập quen việc ác. Việc ác có bốn thứ: 1. Săn bắn; 2. Gian dâm; 3. Uống rượu; 4. Cờ bạc.

Bồ tát cũng có năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh: 1. Người không phải đồ đựng chánh pháp thì Bồ tát kín đáo nói pháp sâu xa; 2. Người phạm giới thì Bồ tát quở trách đúng pháp; 3. Người đầy đủ giới hạnh thì Bồ tát khéo léo khen ngợi; 4. Người đang tu tập thì Bồ tát dạy cách tu mau chóng chứng đắc; 5. Người hành động theo ma vương thì Bồ tát làm cho họ hiểu biết.

Đó là năm thứ tác nghiệp của Bồ tát tựa như thiện hữu.

Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như bạn đồng hành?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Cho vui và lợi ích

Luôn cho vui, lợi ích

Cho đến không chia ly

Năm nghiệp như đồng hành.

Giải thích:

Giống như người bạn đồng hành có trí làm cho mình năm thứ nghiệp lợi ích: 1. Cho sự an vui; 2. Cho sự lợi ích; 3. Luôn cho sự an vui; 4. Luôn cho sự lợi ích; 5. Không chia tay rời bỏ.

Bồ tát cũng có năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh: 1. Cho sự an vui không điên đảo: thành tựu thế gian gọi là lạc, do thành tựu thế gian mà có được cảm thọ dễ chịu; 2. Cho sự lợi ích không điên đảo: thành tựu xuất thế gọi là lợi, do thành tựu xuất thế mà đối trị được căn bịnh phiền não. Ba phần còn lại có thể tự hiểu.

Đó là năm thứ tác nghiệp của Bồ tát tựa như người bạn đồng hành.

Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như người giúp việc khỏe mạnh?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Thành sanh khai xuất yếu

Nhẫn, hại và hai thành

Bày ra phương tiện khéo

Năm nghiệp như kiện nô.

Giải thích:

Giống như người giúp việc khỏe mạnh vì người chủ mà làm năm thứ nghiệp lợi ích: 1. Hết lòng làm công việc; 2. Không có lừa dối; 3. Nhịn chịu sự đánh mắng; 4. Việc làm tươm tất, sạch đẹp; 5. Biết phương cách khéo léo.

Bồ tát cũng có năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh: 1. Thành thục chúng sanh; 2. Khai thị sự xuất yếu; 3. Nhẫn chịu các việc ác; 4. Cho thế gian sự an vui; 5. Cho xuất thế gian sự lợi ích.

Đó là năm thứ tác nghiệp của Bồ tát tựa như người giúp việc khỏe mạnh.

Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như vị a-xà-lê?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Truyền khắp, bày tốc yếu

Tươi cười và ái ngữ

Không mong người báo ơn

Năm nghiệp như xà-lê.

Giải thích:

Bậc đắc vô sanh nhẫn gọi là a-xà-lê. Giống như vị a-xà-lê làm năm nghiệp lợi ích cho đệ tử: 1. Dạy các pháp thức cho đệ tử; 2. Chỉ bày yếu chỉ tu tập mau tiến bộ; 3. Thân toát vẻ ung dung vui tươi; 4. Miệng nói lời từ bi hòa ái; 5. Tâm không mong cầu đệ tử báo ơn. Năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh của Bồ tát cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như vị hòa thượng?

[Đáp bằng kệ rằng:]

Kệ tụng:

Làm viên mãn, giải thoát

Đoạn chướng, cho đời vui

Và cho lợi xuất thế

Năm nghiệp như hòa thượng.

Giải thích:

Giống như vị hòa thượng làm năm nghiệp lợi ích cho đệ tử: 1. Độ cho xuất gia; 2. Cho phép đệ tử thọ giới; 3. Ngăn chận các lầm lỗi; 4. Nắm giữ bằng của cải; 5. Dạy bảo bằng giáo pháp.

Năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh của Bồ tát cũng như vậy: 1. Làm cho viên mãn hai khối phước đức và trí tuệ; 2. Làm cho có được giải thoát; 3. Làm cho đoạn trừ các chướng ngại; 4. Cho thế gian sự an vui; 5. Cho xuất thế gian sự lợi ích.

Đó là năm thứ tác nghiệp của Bồ tát tựa như vị Hòa thượng.

Đã nói bảy lợi ích tương tự của Bồ tát, kế nói sáu thứ báo ơn của chúng sanh.

Kệ tụng:

Không dính và không phạm

Biết tác ý, khéo hành

Như vậy tu sáu độ

Là báo ơn Bồ tát.

Giải thích:

Như Bồ tát làm lợi ích chúng sanh, chúng sanh báo ơn Bồ tát cũng vậy. Không đắm trước là báo ơn bằng bố thí. Không trái phạm là báo ơn bằng trì giới. Biết tác ý là báo ơn bằng tu nhẫn. Bồ tát ưa nhẫn nhịn người nên biết cách tác ý, tức là báo ơn. Khéo léo thực hành là báo ơn bằng ba ba-la-mật còn lại, tức lấy tinh tiến tu hành thiền định và trí tuệ để có được giải thoát. Ba ba-la-mật sau gọi chung là thiện hành.

Đã nói sáu thứ báo ơn của chúng sanh, kế nói năm thứ mong cầu của Bồ tát.

Kệ tụng:

Sáu tăng và sáu giảm

Thành sanh, tiến các địa

Đại giác: là năm xứ

Mong cầu có năm thứ.

Giải thích:

Các Bồ tát đối với năm xứ thường khởi mong cầu: 1. Mong cầu sáu ba-la-mật tăng trưởng; 2. Mong cầu sáu tế tổn giảm; 3. Mong cầu thành thục chúng sanh; 4. Mong cầu thắng tiến các địa; 5. Mong cầu Vô thượng bồ-đề.

Đó gọi là năm thứ mong cầu.

Đã nói năm thứ mong cầu của Bồ tát, kế nói bốn thứ quả bất không của Bồ tát.

Kệ tụng:

Đoạn bố và phát tâm

Trừ nghi và khởi hạnh

Bốn sự hóa chúng sanh

Hẳn mong quả bất không.

Giải thích:

Các Bồ tát có bốn nghiệp làm lợi ích chúng sanh với mong muốn đưa đến quả bất không:

1. Vì chúng sanh nói những pháp sâu xa, mong chúng sanh không còn có sự sợ hãi;

2. Làm cho chúng sanh phát tâm bồ-đề, mong chúng sanh đắc quả Phật đà;

3. Vì chúng sanh đoạn nghi ngờ, mong chúng sanh không khởi lên nghi ngờ nữa;

4. Vì chúng sanh nói sáu độ, mong chúng sanh có khả năng tu tập.

Đó gọi là bốn nghiệp đưa đến quả bất không.

Đã nói bốn thứ quả bất không của Bồ tát, kế nói sáu thứ chánh hạnh của Bồ tát.

Kệ tụng:

Rời cầu, rời hậu hữu

Khắp khởi các công đức

Tu thiền xả Vô sắc

Trí hợp phương tiện hạnh.

Giải thích:

Rời cầu: Chánh hạnh của bố thí, là không mong cầu báo đáp.

Rời hậu hữu: Chánh hạnh của trì giới và nhẫn nhục, là không cầu thọ hậu hữu.

Khắp khởi các công đức: Chánh hạnh của tinh tiến.

Tu thiền xả Vô sắc: Chánh hạnh của thiền định.

Trí hợp phương tiện hạnh: Chánh hạnh của trí tuệ. Ba luân thanh tịnh là trí tuệ. Hồi hướng bồ-đề là phương tiện. Như kinh Bảo tích nói: “Làm việc bố thí thì không mong cầu báo đáp…”, nói rộng như vậy.

Đã nói sáu thứ chánh hạnh của Bồ tát, kế nói phần tiến thoái của sáu ba-la-mật của Bồ tát.

Kệ tụng:

Tham tiền, hủy giới cấm

Ngã mạn, bỏ rơi thiện

Đắm thiền vị, phân biệt

Là thoái, ngược là tiến.

Giải thích:

Cái bị đối trị bởi sáu ba-la-mật là những nguyên nhân làm cho thoái lui. Trái với những cái bị đối trị kia là sự đối trị, và chính đó là những nguyên nhân làm cho [người tu tập] tiến lên.

Đã nói phần tiến thoái của sáu ba-la-mật của Bồ tát, kế nói công đức chân thật và tương tự của sáu ba-la-mật của Bồ tát.

Kệ tụng:

Hứa dối, tướng giả vờ

Vui gượng, siêng giả tạo

Thân tĩnh, miệng thiện thuyết

Tương tự, ngược là chân.

Giải thích:

Hứa dối: Bố thí tương tự, nghĩa là nói với người cầu xin rằng tha hồ lấy gì cũng được nhưng khi người ấy đến thì keo kiết [không muốn cho].

Tướng giả vờ: Trì giới tương tự, nghĩa là che đậy các điều ác bằng cách giả vờ dáng vẻ uy nghi tốt lành.

Vui gượng: Nhẫn nhục tương tự, nghĩa là nói lời ngon ngọt, giả bộ vui vẻ để chờ dịp hại người.

Siêng giả tạo: Tinh tiến tương tự, nghĩa là nói dối rằng mình cầu quả vị Phật đà, thật ra là có tâm mong cầu quả báo thế gian.

Thân tĩnh: Thiền định tương tự, nghĩa là thân đoan chính, miệng im lặng nhưng những ác giác đang nhiễu loạn trong tâm.

Miệng thiện thuyết: Trí tuệ tương tự, nghĩa là vì người mà thiện thuyết, nhưng chính bản thân không có thực hành.

Sáu thứ này là hạnh không chân thật. Trái ngược với hạnh không chân thật là hạnh chân thật.

Đã nói công đức chân thật và tương tự của sáu ba-la-mật của Bồ tát, kế nói Bồ tát vì chúng sanh đoạn trừ sáu tế.

Kệ tụng:

Trao người hạnh sáu độ

Trừ chướng ngại sáu tế

Bồ tát hóa chúng sanh

Mỗi địa đều như vậy.

Giải thích:

Chúng sanh có sáu tế có khả năng làm chướng ngại sáu ba-la-mật, đó là: tham lam, phá giới, giận dữ, biếng nhác, tán loạn và ngu si. Theo thứ tự đó, Bồ tát cung cấp cho chúng sanh những nhu cầu, làm cho chúng sanh thực hành bố thí, cho đến thực hành trí tuệ, khiến cho chúng sanh trừ được sáu chướng bằng cách dạy cho bố thí, cho đến dạy cho trí tuệ.

Đã nói Bồ tát vì chúng sanh đoạn trừ sáu tế, kế nói chư Phật thọ ký cho Bồ tát.

Kệ tụng:

Thọ ký có hai thứ

Người khác và thời khác

Chuyển ký và đại ký

Đây cũng có hai thứ.

Giải thích:

Thọ ký có hai thứ: 1. Người sai biệt; 2. Thời gian sai biệt.

Thọ ký người sai biệt có bốn thứ: 1. Thọ ký cho người chưa phát tâm; 2. Thọ ký cho người đã phát tâm; 3. Thọ ký cho người ở hiện tiền; 4. Thọ ký cho người không ở hiện tiền.

Thọ ký thời gian sai biệt có hai thứ: 1. Thọ ký thời gian có thể tính đếm; 2. Thọ ký thời gian không thể tính đếm.

Lại có hai thứ thọ ký: 1. Thọ ký không thoái chuyển; 2. Thọ ký đại bồ-đề.

Thọ ký không thoái chuyển là thọ ký cho một vị Bồ tát ở sau một đức Như lai như vậy hay ở vào thời tiết như vậy được thọ ký không thoái chuyển [đối với Vô thượng bồ-đề].

Hỏi: Thế nào là thọ ký đại bồ-đề?

Kệ tụng:

Bát địa được vô sanh

Đoạn mạn, đoạn công dụng

Chư Phật và Phật tử

Một thể đồng như thế.

Giải thích:

Thọ ký đại bồ-đề là Bồ tát ở địa thứ tám, khi chứng được vô sanh pháp nhẫn nên đoạn trừ được ngã mạn, tự nói ta sẽ làm Phật, từ bỏ tất cả phân biệt hữu tướng, hữu công dụng hành, nghĩa là được đồng một thể với tất cả chư Phật, Bồ tát.

Hỏi: Thế nào là đồng một thể?

Đáp: Không thấy chư Phật, các Bồ tát cùng với bản thân mình có gì sai biệt. Vì sao? Đồng một chân như vậy.

Kệ tụng:

Quốc độ và danh hiệu

Thời tiết và kiếp danh

Quyến thuộc cùng pháp trụ

Thọ ký có sáu thứ.

Giải thích:

Ở đây lại có sáu thứ thọ ký: 1. Nơi quốc độ như vậy; 2. Có danh hiệu như vậy; 3. Trải qua thời tiết như vậy; 4. Có kiếp danh như vậy; 5. Được quyến thuộc như vậy; 6. Thời kỳ chánh pháp trụ thế như vậy.

Đã nói sự thọ ký của chư Phật, kế nói sáu thứ quyết định của Bồ tát.

Kệ tụng:

Tiền tài thành, sanh thắng

Không thoái và tu tập

Định nghiệp, vô công dụng

Sáu sự quyết định thành.

Giải thích:

Do sáu độ tăng thượng mà Bồ tát có sáu thứ quyết định:

1. Quyết định thành tựu tiền tài, do thí có năng lực thành tựu tiền tài (địa vị) rộng lớn;

2. Quyết định sanh chỗ thù thắng, do giới có năng lực thủ đắc sự tùy ý thọ sanh;

3. Quyết định không thoái lui, do nhẫn các khổ mà thường được sự không thoái lui;

4. Quyết định tu tập, do tiến trong mọi thời gian nên tu tập được thiện pháp không có gián đoạn và ngừng nghỉ;

5. Quyết định nghiệp dụng của định, do thiền mà thành tựu sự nghiệp hóa độ chúng sanh, vĩnh viễn không thoái lui [trước những cái khổ sanh tử];

6. Quyết định vô công dụng, do trí mà được vô sanh nhẫn, được trí vô phân biệt, an trú một cách tự nhiên.

Đã nói sáu thứ quyết định của Bồ tát, kế nói sáu việc Bồ tát cần phải làm.

Kệ tụng:

Cúng dường và học giới

Tu bi, siêng làm thiện

Rời ồn náo, ưa pháp

Sáu việc cần phải làm.

Giải thích:

Các Bồ tát vì thành tựu sáu độ nên ở trong các địa quyết định phải làm sáu việc:

1. Cần phải cúng dường: Đây là thành tựu bố thí ba-la-mật. Nếu không cúng dường trong thời gian dài lâu thì bố thí ba-la-mật không được tròn đầy. Nghĩa của cúng dường thì ở phẩm Cúng dường đã nói.

2. Cần phải học giới: Đây là thành tựu trì giới ba-la-mật. Nếu không học giới trong thời gian dài lâu thì trì giới ba-la-mật không được tròn đầy.

3. Cần phải tu tập tâm bi: Đây là thành tựu nhẫn nhục ba-la-mật. Nếu không nhẫn các sự không lợi ích trong thời gian dài lâu thì nhẫn nhục ba-la-mật không được tròn đầy.

4. Cần phải siêng tu thiện pháp: Đây là thành tựu tinh tiến ba-la-mật. Nếu tâm phóng dật, không tu các thiện pháp thì tinh tiến ba-la-mật không được tròn đầy.

5. Rời xa sự ồn náo: Đây là thành tựu thiền định ba-la-mật. Nếu ở nơi tụ lạc, nơi có nhiều tranh cãi, nơi náo động nội tâm, thì thiền định ba-la-mật không được tròn đầy.

6. Cần phải ưa thích chánh pháp: Đây là thành tựu trí tuệ ba-la-mật. Nếu không trải khắp các quốc độ có Phật để nghe pháp không biết chán, như biển cả thu nhận nước các dòng sông mà không bao giờ đầy, thì trí tuệ ba-la-mật không được tròn đầy.

Đã nói sáu việc Bồ tát cần phải làm, kế nói sáu việc Bồ tát phải thường làm.

Kệ tụng:

Chán trần, tự cảnh tỉnh

Chịu khổ, tu thiện pháp

Không đắm, không phân biệt

Sáu hạnh phải thường khởi.

Giải thích:

Các Bồ tát vì thành tựu sáu ba-la-mật nên phải thường làm sáu việc:

1. Chán trần lao: Biết năm dục là tội lỗi, giống như phẩn uế, dù một chút xíu cũng là hôi thúi. Quả báo của bố thí dù được nhiều cũng là đau khổ, do đó Bồ tát rời xa sự đắm trước mà thực thi ba sự bố thí. Bồ tát thường tu việc này thì bố thí ba-la-mật tròn đầy.

2. Tự thức tỉnh: Ngày đêm sáu thời thường tự thức tỉnh, quán sát ba nghiệp đã làm, biết lỗi thì sửa đổi. Bồ tát thường tu việc này thì trì giới ba-la-mật tròn đầy.

3. Chịu đựng khổ: Chịu đựng các sự không lợi ích của chúng sanh, khi mình đi cầu pháp và các khổ lạnh, nóng v.v… Bồ tát thường tu việc này thì nhẫn nhục ba-la-mật tròn đầy.

4. Tu thiện pháp: Thiện pháp là sáu ba-la-mật. Ở trong các địa, Bồ tát thường tu việc này thì tinh tiến ba-la-mật được tròn đầy.

5. Không đắm mùi vị thiền: Không có tham đắm đối với thắng lạc ở trong thiền định, không thường nghĩ đến thọ sanh cõi Dục. Bồ tát thường tu việc này thì thiền định ba-la-mật tròn đầy.

6. Không phân biệt: Không khởi phân biệt đối với ba luân và trạng thái dị biệt. Bồ tát thường tu việc này thì trí tuệ ba-la-mật tròn đầy.

Đã nói sáu việc Bồ tát phải thường làm, kế nói thắng loại của sáu ba-la-mật của Bồ tát.

Kệ tụng:

Pháp thí và thánh giới

Vô sanh, khởi Đại thừa

Định bi, trí như thật

Sáu hạnh đây làm thắng.

Giải thích:

Bố thí có nhiều loại, nhưng Bồ tát lấy bố thí chánh pháp làm tối thượng.

Trì giới có nhiều loại, nhưng Bồ tát lấy tịnh giới vô lưu, giới mà các bậc thánh ưa thích, làm tối thượng.

Nhẫn nhục có nhiều loại, nhưng Bồ tát lấy vô sanh nhẫn ở địa thứ tám làm tối thượng.

Tinh tiến có nhiều loại, nhưng Bồ tát lấy sự sanh khởi tâm Đại thừa để độ thoát chúng sanh làm tối thượng.

Thiền định có nhiều loại, nhưng Bồ tát lấy đệ tứ thiền thuộc xuất thế gian hòa hợp với tâm đại bi làm tối thượng.

Trí tuệ có nhiều loại, nhưng Bồ tát lấy trí như thật thông đạt các pháp làm tối thượng.

Đã nói thắng loại của sáu ba-la-mật của Bồ tát, kế nói bốn thứ giả danh thiết lập.

Kệ tụng:

Lập pháp và lập đế

Lập lý và lập thừa

Năm, bảy, bốn, ba thứ

Kiến lập giả sai biệt.

Giải thích:

Có bốn thứ giả danh thiết lập: 1. Giả danh thiết lập giáo pháp; 2. Giả danh thiết lập bốn đế; 3. Giả danh thiết lập đạo lý; 4. Giả danh thiết lập ba thừa.

Hỏi: Mỗi giả danh thiết lập có bao nhiêu thứ?

Đáp: Giả danh thiết lập giáo pháp có năm thứ sai biệt. Giả danh thiết lập bốn đế có bảy thứ sai biệt. Giả danh thiết lập đạo lý có bốn thứ sai biệt. Giả danh thiết lập ba thừa có ba thứ sai biệt.

Năm thứ sai biệt của giả danh thiết lập giáo pháp là:

Kệ tụng:

Đó là năm minh xứ

Đều là chủng Đại thừa

Tu đa la, kỳ dạ

Chủng loại có sai biệt.

Giải thích:

Năm thứ của giả danh thiết lập giáo pháp là năm minh luận. Năm minh luận này là chủng loại sai biệt của Đại thừa như tu-đa-la, kỳ-dạ v.v… Năm minh xứ này đã nói trong phẩm Giác phần.

Bảy thứ sai biệt của giả danh thiết lập bốn đế là:

Kệ tụng:

Luân chuyển và không tướng

Duy thức và y chỉ

Tu hành và thanh tịnh

Chánh hạnh là bảy thứ.

Giải thích:

Bảy thứ sai biệt là bảy chân như: 1. Chân như nơi luân chuyển; 2. Chân như nơi không tướng; 3. Chân như nơi duy thức; 4. Chân như nơi y chỉ; 5. Chân như nơi tà hạnh; 6. Chân như nơi thanh tịnh; 7. Chân như nơi chánh hạnh.

Chân như nơi luân chuyển là đường sanh tử, tức là tâm và tâm pháp trong ba cõi. Tâm và tâm pháp ấy từ sự phân biệt mà sanh khởi. Sự phân biệt ấy từ nhân duyên mà sanh khởi, không phải từ Tự tại thiên sanh khởi, không phải từ các nguyên nhân khác sanh khởi, cũng không phải không có nguyên nhân sanh khởi. Cảnh giới của sự phân biệt vốn là tánh không, cho nên trong tất cả thời gian chỉ có hai tánh luân chuyển là tánh phân biệt và tánh y tha.

Chân như nơi không tướng là pháp vô ngã, nghĩa là tất cả các pháp đồng nhất với tánh không của chân như, lấy tánh không ấy làm thật tánh.

Chân như nơi duy thức là trí vô phân biệt.

Chân như nơi y chỉ là khổ đế. Khổ đế có hai thứ: 1. Khí thế gian; 2. Chúng sanh thế gian.

Chân như nơi tà hạnh là tập đế. Tập đế tức là ái.

Chân như nơi thanh tịnh là diệt đế. Diệt đế có hai thứ: 1. Thanh tịnh phiền não chướng; 2. Thanh tịnh trí chướng.

Chân như nơi chánh hạnh là đạo đế.

Bảy chân như này được gọi là giả danh thiết lập bốn đế. Ở đây nên biết, ba thứ chân như thuộc về hai tánh phân biệt và y tha là: (1) chân như nơi luân chuyển, (2) chân như nơi y chỉ và (3) chân như nơi tà hạnh; bốn thứ chân như thuộc về tánh chân thật là: (1) chân như nơi không tướng, (2) chân như nơi duy thức, (3) chân như nơi thanh tịnh và (4) chân như nơi chánh hạnh.

Những gì thuộc về hai tánh phân biệt và y tha là tục đế. Những gì thuộc về tánh chân thật là chân đế.

Bốn thứ sai biệt của giả danh thiết lập đạo lý là:

Kệ tụng:

Chánh tư, quả chánh kiến

Trạch pháp, các hiện lượng

Cũng nói bất tư nghị

Đạo lý có bốn thứ.

Giải thích:

Giả danh thiết lập đạo lý có bốn thứ: 1. Đạo lý tương đãi; 2. Đạo lý nhân quả; 3. Đạo lý thành tựu; 4. Đạo lý pháp nhiên.

Đạo lý tương đãi là chánh tư duy. Vì có chánh tư duy cho nên mới có chánh kiến xuất thế sanh khởi. Rời chánh tư duy thì không có phương tiện nào khác có thể sanh khởi chánh kiến.

Đạo lý nhân quả là chánh kiến và quả của chánh kiến.

Đạo lý thành tựu là lấy hiện lượng v.v… để giản trạch các pháp.

Đạo lý pháp nhiên là trú xứ không thể nghĩ bàn; pháp này thành tựu rồi gọi là chân như.

Hỏi: Vì sao chánh tư duy có thể sanh khởi chánh kiến?

[Đáp:] Chánh kiến thành tựu rồi thì không cần phải tư duy nữa.

[Hỏi:] Vì sao chánh kiến có năng lực đoạn trừ phiền não và đưa đến diệt độ?

[Đáp:] Đoạn trừ phiền não thành tựu rồi thì không cần phải tư duy nữa.

Các nghĩa lý như vậy đều là đạo lý pháp nhiên. Bốn thứ như vậy gọi là giả danh thiết lập đạo lý.

Ba thứ sai biệt của giả danh thiết lập ba thừa là:

Kệ tụng:

Tâm, thuyết, hành, tụ, quả

Năm có thấp, vừa, cao

Dựa đây ba phẩm khác

Thiết lập có ba thừa.

Giải thích:

Dựa vào năm nghĩa và ba phẩm để thiết lập ba thừa.

Năm nghĩa là: 1. Tâm; 2. Thuyết; 3. Hành; 4. Tụ; 5. Quả.

Ba phẩm là bậc thấp, bậc vừa và bậc cao.

Năm sự của hàng Thanh văn đều là bậc thấp. Tâm bậc thấp là tâm cầu giải thoát cho mình. Thuyết bậc thấp là thuyết giáo pháp lợi mình. Hành bậc thấp là thực hành hạnh lợi mình. Tụ bậc thấp là phước trí ít nhỏ do chỉ tu tập trong ba đời v.v… Quả bậc thấp là đắc quả Thanh văn.

Năm sự của hàng Duyên giác thuộc về bậc vừa.

Năm sự của hàng Bồ tát thuộc về bậc cao. Tâm bậc cao là nói bốn thứ tâm báo ơn, như kinh Kim cương Bát-nhã có nói đến. Thuyết bậc cao là đem cái tâm báo ơn mà làm sự thuyết pháp như vậy. Hành bậc cao là qua sự thuyết pháp ấy mà thực thi hạnh như vậy. Tụ bậc cao là với sự thực thi hạnh ấy mà có được khối phước trí viên mãn như vậy. Quả bậc cao là có khối phước trí viên mãn ấy thì đắc quả Vô thượng bồ-đề.

Lại nữa, Thanh văn thừa thì nghe pháp từ người khác, tư duy nội tâm, dùng trí phân biệt mà đắc quả. Duyên giác thừa thì không nghe pháp từ người khác, tư duy nội tâm, cũng dùng trí phân biệt mà đắc quả. Bồ tát thừa thì không nghe pháp từ người khác, dùng trí vô phân biệt mà đắc quả. Ba thứ này gọi là giả danh thiết lập ba thừa.

Đã nói bốn thứ giả danh thiết lập, kế nói bốn thứ suy tìm hiểu biết của Bồ tát.

Kệ tụng:

Danh, vật làm khách nhau

Hai tánh đều là giả

Hai biệt bất khả đắc

Đó là nghĩa bốn cầu.

Giải thích:

Các Bồ tát có bốn thứ suy tìm về các pháp: 1. Suy tìm danh; 2. Suy tìm vật; 3. Suy tìm tự tánh; 4. Suy tìm sai biệt.

Suy tìm danh là quán sát danh đối với vật chỉ là khách thể, gọi đó là suy tìm danh.

Suy tìm vật là quán sát vật đối với danh chỉ là khách thể, gọi đó là suy tìm vật.

Suy tìm tự tánh là quán sát tự tánh của danh và tự tánh của vật, biết chúng chỉ là giả thiết, gọi đó là suy tìm tự tánh.

Suy tìm sai biệt là quán sát sai biệt của danh và sai biệt của vật, biết chúng toàn là không thật nên không thể thủ đắc, gọi đó là suy tìm sai biệt.

Đã nói bốn thứ suy tìm hiểu biết, kế tiếp phân biệt bốn tri kiến như thật.

Kệ tụng:

Chân trí có bốn thứ

Danh, vật bất khả đắc

Hai lợi làm đại nghiệp

Thành tựu trong các địa.

Giải thích:

Các Bồ tát đối với các pháp có bốn tri kiến như thật: 1. Tri kiến như thật duyên danh; 2. Tri kiến như thật duyên vật; 3. Tri kiến như thật duyên tự tánh; 4. Tri kiến như thật duyên sai biệt.

Tri kiến như thật là biết [đúng như sự thật] về danh, vật, tự tánh và sai biệt đều không thể thủ đắc.

Hai lợi làm đại nghiệp, thành tựu trong các địa: Các Bồ tát ở trong các địa sanh khởi đại sự lợi mình, lợi người, gọi đó là nghiệp dụng của tri kiến như thật.

Kệ tụng:

Trú giữ và thọ dụng

Chủng tử hợp ba nhân

Y chỉ và tâm pháp

Chủng tử bị kia buộc.

Giải thích:

Ba nhân tố là: 1. Nhân tố trú giữ; 2. Nhân tố thọ dụng; 3. Nhân tố chủng tử.

Nhân tố trú giữ là khí thế giới. Nhân tố thọ dụng là [6 thức trước thọ dụng] cảnh giới ngũ dục. Nhân tố chủng tử là thức a-lại-da, do thức này làm nhân cho chủng tử của các pháp ở trong và ở ngoài.

Ba nhân tố này ví như sợi dây có năng tánh trói buộc.

Hỏi: Sợi dây này trói buộc cái gì?

Đáp: Y chỉ và tâm pháp, chủng tử bị kia buộc. Cái bị trói buộc có ba thứ: 1. Y chỉ; 2. Tâm pháp; 3. Chủng tử nơi thức a-lại-da.

Hỏi: Y chỉ là những gì?

Đáp: Là sáu căn: mắt, tai, v.v…

Hỏi: Chủng tử nơi thức a-lại-da là gì?

Đáp: Là chủng tử của các pháp ở trong và ở ngoài trong ba cõi. Trong ba cõi, chỉ có thức a-lại-da mới có khả năng trói buộc, không có ai khác hay bản thân có khả năng trói buộc. Đó là tri kiến như thật về sự trói buộc.

Kệ tụng:

Tướng yên ổn nơi tâm

Và an trú tự nhiên

Tất cả cùng quán sát

Đến được đại bồ-đề.

Giải thích:

Tướng yên ổn nơi tâm: Sắc thái yên ổn là phương tiện cho ba tuệ văn, tư, tu, nghĩa là làm sở duyên cho người khởi phân biệt, gọi là tướng yên ổn.

Và an trú tự nhiên: Sắc thái tự nhiên là tự tánh hiện tiền, không phải sự phân biệt, gọi là an trú tự nhiên.

Tất cả cùng quán sát: Thể của hai sắc thái kia, sở duyên và phi sở duyên, là vô phân biệt. Lấy hai sắc thái ấy làm phương tiện để đối trị các tướng. Nên quán sát hai sắc thái ấy theo thứ tự: trước quán sát sắc thái yên ổn, sau quán sát sắc thái an trú tự nhiên. Hai sắc thái này là thể của phi duyên. Chúng sanh khởi bốn điên đảo, tu tập theo hai sắc thái này mà chúng được diệt trừ.

Đến được đại bồ-đề: Người tu hành nếu chỉ quán sát nhân tướng thì chỉ đắc Thanh văn, Duyên giác bồ-đề; nếu quán sát tất cả pháp tướng thì đắc Vô thượng bồ-đề. Như vậy, tùy theo chỗ trói buộc khác nhau mà có sự giải thoát khác nhau. Đó là tri kiến như thật về sự giải thoát.

Hỏi: Sự giải thoát ở đây là do cái gì được nhận thức, là do cái gì được hủy diệt?

Kệ tụng:

Nếu trí duyên chân như

Rời xa hai chấp kia

Biết nhân khối huân tập

Tánh y tha liền mất.

Giải thích:

Nếu biết đủ ba tánh thì hủy diệt được tánh y tha.

Nếu trí duyên chân như: Là biết tánh chân thật.

Rời xa hai chấp kia: Là biết tánh phân biệt.

Biết nhân khối huân tập: Là biết tánh y tha.

Tánh y tha liền mất: Biết ba tánh tức là khối huân tập không còn. Khối huân tập là thức a-lại-da.

Hỏi: Tánh y tha mất thì có những công đức gì?

Kệ tụng:

Trí duyên chân như ấy

Quán sát không dị tướng

Hữu, phi hữu hiện thấy

Tưởng tác tự tại thành.

Giải thích:

Quán sát không dị tướng: Là cái thấy không sai biệt về biệt tướng và chân như; do đây mà nói nhị thừa và Bồ tát khác nhau.

Hàng nhị thừa thì thấy hữu tướng và vô tướng có sai biệt; thấy như vậy rồi nên xả hết các tướng, đối với cảnh giới vô tướng sanh khởi tác ý duyên [vào diệt], nhập vô tướng tam-muội.

Hàng Bồ tát thì không thấy như vậy, đối với cảnh giới ngoài chân như không thấy các tướng hiện hữu riêng biệt, đối với cảnh giới vô tướng cũng thấy vô tướng, do Bồ tát quán trí tu tập vô chủng chủng tướng.

Hữu, phi hữu hiện thấy: Cảnh giới chân như có danh ngôn và cảnh giới hữu tướng không có danh ngôn đều là sự hiện thấy các pháp.

Tưởng tác tự tại thành: Tác ý dẫn ra các sự thần thông mà tất cả sự đó thành tựu là do dứt sạch ức tưởng phân biệt.

Đây là sự lợi ích của tri kiến như thật.

Hỏi: Cái thấy của phàm phu và cái thấy của Bồ tát hiển thị thế nào?

Kệ tụng:

Che thật, thấy không thật

Nên biết là phàm phu

Thấy thật, che không thật

Như vậy gọi Bồ tát.

Giải thích:

Vô công dụng của phàm phu là không thấy chân như, không thấy sắc thái chân thật.

Vô công dụng của Bồ tát là thấy chân như, không thấy sắc thái không chân thật.

Hỏi: Đã biết sự sai biệt giữa phàm phu và Bồ tát, làm thế nào để chuyển y và được giải thoát?

Kệ tụng:

Nên biết không thấy, thấy

Cảnh không nghĩa, có nghĩa

Chuyển y và giải thoát

Là để được tự tại.

Giải thích:

Cảnh giới không có thắng nghĩa là các tướng. Không thấy, là không thấy thắng nghĩa.

Cảnh giới có thắng nghĩa là chân như. Thấy, là thấy thắng nghĩa. Như vậy gọi là chuyển y.

Thấy cảnh giới sở chấp [bởi tánh phân biệt] là không thật thể và thấy chân như là có thật thể. Như vậy gọi là giải thoát.

Vì sao gọi là giải thoát? Là để được tự tại. Tự tại nghĩa là theo ý mình chuyển hóa một cách tự nhiên, không làm gì cả đối với các cảnh giới. Như trong kinh có nói: “Nếu thấy có các tướng tức là bị trói buộc, bị trói buộc tức là không giải thoát.” Không làm gì cả đối với các cảnh giới tức là giải thoát.

Hỏi: Thế nào là tri kiến như thật về phương tiện sanh tịnh độ?

Kệ tụng:

Chúng sanh đồng một chủng

Địa cảnh đều thấy khắp

Là chướng ngại tịnh độ

Biết vậy cần phải xả.

Giải thích:

Chúng sanh đồng một chủng, địa cảnh đều thấy khắp: Khí thế giới là đại cảnh giới. Tất cả chúng sanh thấy cùng một chủng loại, đều nói đây là đại địa.

Là chướng ngại tịnh độ: Có cái thấy như vậy tức là làm chướng ngại cho phương tiện sanh tịnh độ.

Biết vậy cần phải xả: Bồ tát biết những ức tưởng này là chướng ngại, thì tinh cần xả bỏ những tưởng ấy, gọi đó là đối trị.

Đã nói bốn thứ tri kiến như thật của Bồ tát, kế nói năm sự vô lượng của Bồ tát.

Kệ tụng:

Nên giáo hóa, làm sạch

Nên chứng đắc, hoàn thành

Thuyết pháp, là năm sự

Vô lượng của Bồ tát.

Giải thích:

Năm sự vô lượng là:

1. Sự giáo hóa vô lượng, là nhiếp tất cả chúng sanh giới;

2. Sự làm sạch vô lượng, là nhiếp tất cả khí thế giới;

3. Sự chứng đắc vô lượng, là nhiếp tất cả pháp giới;

4. Sự hoàn thành vô lượng, là nhiếp tất cả chúng sanh có thể hóa độ;

5. Sự thuyết pháp vô lượng, là nhiếp mười hai bộ kinh, chính là phương tiện hóa đạo chúng sanh.

Đã nói năm sự vô lượng của Bồ tát, kế nói sự thuyết pháp của Bồ tát có tám quả.

Kệ tụng:

Phát tâm và đắc nhẫn

Tịnh nhãn và tận lậu

Pháp trụ, học và đoạn

Thọ dụng là tám quả.

Giải thích:

Bồ tát tinh cần thuyết pháp thì đưa đến tám quả [cho người nghe pháp]:

1. Người nghe pháp phát tâm bồ-đề;

2. Người nghe pháp đắc vô sanh nhẫn;

3. Người nghe pháp rời xa trần cấu, đối với các pháp được mắt pháp trong sáng, và ở đây được nhiếp vào thừa bậc thấp;

4. Người nghe pháp được các lậu diệt tận;

5. Làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài, vì nhờ sự thuyết pháp mà chánh pháp được triển chuyển thọ trì;

6. Người chưa học giáo nghĩa [Đại thừa] thì làm cho học được giáo nghĩa [Đại thừa];

7. Người chưa dứt hoài nghi [về Đại thừa] thì làm cho hết hoài nghi [về Đại thừa];

8. Người đã hết hoài nghi [về Đại thừa] thì làm cho thọ dụng mùi vị chánh pháp với sự vui mừng lớn lao, không có chướng ngại

Đã nói sự thuyết pháp của Bồ tát có tám quả, kế nói bảy nghĩa lớn lao của Đại thừa.

Kệ tụng:

Duyên, hành, trí, cần, xảo

Quả, sự đều đầy đủ

Theo bảy nghĩa lớn này

Thiết lập nơi Đại thừa.

Giải thích:

Có đầy đủ bảy nghĩa lớn lao sau đây thì gọi là Đại thừa:

1. Duyên tố lớn lao, vì lấy vô lượng giáo pháp rộng lớn sâu xa là các tu-đa-la v.v… làm duyên tố;

2. Tu hành lớn lao, vì thực hành sự lợi mình, lợi người một cách đầy đủ;

3. Trí tuệ lớn lao, vì cùng một lúc thông suốt nhân vô ngã và pháp vô ngã;

4. Tinh cần lớn lao, vì trải qua ba vô số kiếp tu hành không có ngừng nghỉ;

5. Thiện xảo lớn lao, vì không bỏ sanh tử mà không nhiễm sanh tử;

6. Thành quả lớn lao, vì có được mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng;

7. Hiện sự lớn lao, vì thị hiện đại bồ-đề và đại niết-bàn ở trong vô lượng quốc độ.

Đã nói bảy nghĩa lớn lao của Đại thừa, kế nói tám pháp tổng nhiếp Đại thừa.

Kệ tụng:

Tánh, tín, tâm, hành, nhập

Thành, tịnh, bồ-đề thắng

Như vậy tám chủng sự

Tổng nhiếp các Đại thừa.

Giải thích:

Ở đây lấy tám sự để tổng nhiếp tất cả pháp Đại thừa. Tám sự là:

1. Chủng tánh, như trong phẩm Chủng tánh [thứ tư] đã nói;

2. Đức tin chánh pháp, như trong phẩm Minh tín [thứ mười một] đã nói;

3. Phát tâm, như trong phẩm Phát tâm [thứ năm] đã nói;

4. Thực hành các hạnh, như trong phẩm Độ nhiếp [thứ mười bảy] đã nói;

5. Nhập đạo, như trong phẩm Giáo thọ [thứ mười lăm] đã nói;

6. Thành thục chúng sanh, là Bồ tát từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy;

7. Làm sạch thế giới của Phật, là Bồ tát bất thoái từ địa thứ tám trở lên;

8. Bồ-đề thù thắng, là Phật địa.

Bồ-đề có ba loại khác nhau, đó là Thanh văn bồ-đề, Duyên giác bồ-đề và Phật bồ-đề. Phật bồ-đề thì vĩ đại, nên nói là thù thắng. Ở Phật địa thì có sự thị hiện [viên mãn] đại bồ-đề và đại niết-bàn.

Đã nói tám pháp tổng nhiếp Đại thừa, kế nói năm hạng Bồ tát sai biệt.

Kệ tụng:

Tín hành và tịnh hành

Tướng hành, vô tướng hành

Cho đến vô tác hành

Sai biệt y các địa.

Giải thích:

Bồ tát có năm hạng sai biệt:

1. Hạng tín hành: là Bồ tát trước khi nhập các địa, ở vô số kiếp thứ nhất;

2. Hạng tịnh tâm hành: là Bồ tát nhập sơ địa;

3. Hạng hữu tướng hành: là Bồ tát ở địa thứ hai cho đến địa thứ sáu;

4. Hạng vô tướng hành: là Bồ tát ở địa thứ bảy;

5. Hạng vô tác hành: là Bồ tát ở ba địa sau cùng.

Đã nói năm hạng Bồ tát sai biệt, kế nói các sắc thái sai biệt của Bồ tát.

Kệ tụng:

Không đắm trước, thanh tịnh

Kềm chế giận, siêng đức

Không động và thấy thật

Có dục gọi Bồ tát.

Giải thích:

Kệ tụng này lấy cửa ngõ lợi mình để nói sắc thái Bồ tát.

Không đắm trước là có năng lực thực hành bố thí mà không đắm trước các dục. Thanh tịnh là có năng lực trì giới. Kềm chế giận dữ là có năng lực nhẫn nhục. Siêng năng tu đức là có năng lực tinh tiến. Không động là có năng lực tu tập thiền định. Thấy đúng chân thật là có năng lực tu tập trí tuệ. Có dục tâm là có năng lực phát khởi chí nguyện ưa thích đại bồ-đề.

Thực hành bảy cửa ngõ này gọi là sắc thái Bồ tát.

Kệ tụng:

Tùy nhiếp, không não hại

Chịu oán hại, dũng lực

Không phóng dật, đa văn

Lợi người gọi Bồ tát.

Giải thích:

Kệ tụng này lấy cửa ngõ lợi người để nói sắc thái Bồ tát.

Tùy nhiếp là bố thí, là thường lấy bốn pháp nhiếp để nhiếp hóa chúng sanh. Không não hại là trì giới, là mình tin tưởng nơi người, không có ý niệm não hại ai. Chịu oán hại là nhẫn nhục, là người đem đến những trái nghịch mà không ôm lòng oán thù. Dũng lực là tinh tiến, là ở trong cảnh khổ hóa độ chúng sanh mà không có tâm thoái lui khuất phục. Không phóng dật là thiền định, là không đắm mùi vị thiền, không màng đời sau thọ sanh vào nơi nào. Đa văn là trí tuệ, là có năng lực đoạn trừ tất cả hoài nghi của chúng sanh.

Tinh cần thực hành những sự lợi người như vậy là sắc thái của Bồ tát.

Kệ tụng:

Chán tiền của, bỏ dục

Quên oán, siêng làm lành

Khéo tướng, không ác kiến

Nội trú gọi Bồ tát.

Giải thích:

Kệ tụng này lấy cửa ngõ an trú công đức để nói sắc thái Bồ tát.

Chán tiền của, là an trú công đức của thí, vì biết tội lỗi của sự tham lam tiền của là sẽ rơi vào đường dữ hay đời sau nghèo túng.

Bỏ dục, là an trú công đức của giới, vì biết mê đắm năm dục thì không thể xuất gia, thọ trì tịnh giới.

Quên oán, là an trú công đức của nhẫn, là người đem lại tổn hại cho mình vẫn không sanh tâm oán thù; người oán thù thì [nghiệp xấu tạo ra còn mãi] như khắc vào tảng đá, sẽ rơi vào đường dữ; người không oán thù thì [nghiệp xấu tạo ra nhanh chóng tiêu trừ] như vẽ trên mặt nước, sẽ sanh vào nẻo lành.

Siêng làm lành, là an trú công đức của tiến, là vì lợi mình và lợi người mà thực hành sáu ba-la-mật.

Khéo tu hữu tướng, là an trú công đức của định, là có khả năng khéo léo phân biệt ba tướng: tịnh chỉ, sách cử và xả.

Không có ác kiến, là an trú công đức của tuệ, là không thủ đắc tất cả các tướng.

Nội trú, là an trú công đức của nguyện, là tự nội an trú bất động, như trong luận Đại thừa nói.

Kệ tụng:

Đủ bi, sanh hổ thẹn

Chịu khổ sở, xả lạc

Trì niệm, khéo tập định

Không xả gọi Bồ tát.

Giải thích:

Kệ tụng này lấy cửa ngõ không thoái lui để nói sắc thái Bồ tát.

Đầy đủ đại bi là bố thí không thoái lui, là thương xót cái khổ của người làm động lực cho sự thực hành bố thí.

Sanh khởi hổ thẹn là trì giới không thoái lui, là quán sát [nhân quả] đời này đời khác, quán sát về con người và các pháp để không tạo tác các lầm lỗi.

Chịu đựng khổ sở là nhẫn nhục không thoái lui, là gió mưa lạnh nóng v.v… và những trái nghịch, tổn hại do người khác đem lại, tất cả khổ sở ấy đều có thể nhận chịu.

Xả lạc là tinh tiến không thoái lui, là người có năng lực thực hành chánh cần, không đắm trong sự hỷ lạc của mình.

Trì niệm là thiền định không thoái lui, là người có năng lực khéo nhiếp tâm, do trước đã có niệm lực.

Khéo tập định là trí tuệ không thoái lui, là đầy đủ trí vô phân biệt.

Không xả bỏ là nguyện không thoái lui, là không xả bỏ Đại thừa.

Kệ tụng:

Trừ khổ, không gây khổ

Ôm khổ, không sợ khổ

Thoát khổ, không nhớ khổ

Muốn khổ gọi Bồ tát.

Giải thích:

Kệ tụng này lấy cửa ngõ lìa khổ để nói sắc thái Bồ tát.

Trừ khổ là bố thí, là thí cho người tài vật để trừ bỏ sự nghèo túng.

Không gây khổ là trì giới, là khi Bồ tát sống trong tịnh giới thì không gây khổ não cho người.

Ôm khổ là nhẫn nhục, là khi làm việc lợi mình lợi người thì cần có năng lực chấp nhận khổ đau.

Không sợ khổ là tinh tiến, là khi làm việc khó làm thường không thoái lui.

Thoát khổ là thiền định, là khi rời xa những ham muốn của cõi Dục thì giải thoát khổ khổ.

Không nhớ khổ là trí tuệ, là khi ba luân thanh tịnh thì không còn sanh khởi phân biệt.

Muốn khổ là nguyện, là vì hóa độ chúng sanh mà Bồ tát ưa thích trú trong sanh tử.

Kệ tụng:

Pháp ưa, pháp tự tánh

Pháp quở, pháp siêng năng

Pháp tự tại, pháp sáng

Pháp hướng gọi Bồ tát.

Giải thích:

Kệ tụng này lấy cửa ngõ pháp tu để nói sắc thái Bồ tát.

Pháp tu ưa thích là bố thí, là ưa thích tu tập các pháp môn như bố thí v.v…

Pháp tu tự tánh là trì giới, là lấy tự tánh giới mà hộ trì (thân tâm).

Pháp tu quở trách là nhẫn nhục, là pháp tu đối trị chê bai, oán ghét, giận dữ.

Pháp tu siêng năng là tinh tiến, là siêng năng thực hành giáo pháp Đại thừa.

Pháp tu tự tại là thiền định, là xuất nhập các thiền định một cách tự tại.

Pháp tu sáng tỏ là trí tuệ, là đầy đủ tuệ giác tuyệt bậc.

Pháp tu một hướng là nguyện, là một bề ưa thích đại bồ-đề.

Hỏi: Vì sao gọi là pháp tu?

Đáp: Vì tất cả các pháp ba-la-mật đều triển chuyển theo nhau [mà tu tập].

Kệ tụng:

Tài, chế, hộ, thiện, lạc

Pháp tánh và Đại thừa

Bảy thứ không phóng dật

Cho nên gọi Bồ tát.

Giải thích:

Kệ tụng này lấy cửa ngõ không phóng dật để nói sắc thái Bồ tát.

1. Không phóng dật tài sản: Đây là nói về bố thí; tiền của không thí thì không vững chắc, tiền của đã thí thì vững chắc;

2. Không phóng dật cấm chế: Đây là nói về trì giới; như Phật dạy, có điều cần phải làm thì làm, điều không nên làm thì không làm;

3. Không phóng dật hộ trì: Đây là nói về nhẫn nhục; hộ trì cái tâm của mình, cái tâm của người, không cho cả hai bị tổn hại;

4. Không phóng dật thiện pháp: Đây là nói về tinh tiến; thường khởi [bốn] chánh cần, tu hành sáu ba-la-mật;

5. Không phóng dật lạc thọ: Đây là nói về thiền định; khi tu các thiền định thì tâm có lạc thọ nhưng không tham đắm mùi vị của nó;

6. Không phóng dật pháp tánh: Đây là nói trí tuệ; là biết đúng như sự thật về pháp tánh chân như [đồng nhất];

7. Không phóng dật Đại thừa: Đây là nói về đại nguyện; ma vương có đến phá hoại người tu thì tâm bồ-đề cũng không thoái chuyển.

Kệ tụng:

Không toại ý, tội nhỏ

Chưa nhẫn, thoái, tán động

Thấy nhỏ hẹp, thừa khác

Bảy thẹn gọi Bồ tát.

Giải thích:

Kệ tụng này lấy cửa ngõ có hổ thẹn để nói sắc thái Bồ tát.

1. Hổ thẹn không toại ý: hổ thẹn vì còn tâm keo lẫn, tham lam;

2. Hổ thẹn tội nhỏ: hổ thẹn vì còn những tội lỗi nhỏ nhặt, thấy được mà lòng lo sợ;

3. Hổ thẹn chưa nhẫn: hổ thẹn vì chưa nhẫn chịu được;

4. Hổ thẹn thoái lui: hổ thẹn vì còn biếng nhác;

5. Hổ thẹn tán động: hổ thẹn vì thoái lui khi tu tập thiền định;

6. Hổ thẹn thấy nhỏ hẹp: hổ thẹn vì còn kiến chấp nhỏ hẹp nên chưa thông suốt pháp vô ngã;

7. Hổ thẹn thừa khác: hổ thẹn vì khởi tâm tiểu thừa, bỏ đại bồ-đề.

Kệ tụng:

Đời này, đời sau, xả

Khởi tinh cần, đắc thông

Bình đẳng thuyết, đại quả

Bảy nhiếp gọi Bồ tát.

Giải thích:

Kệ tụng này lấy cửa ngõ nhiếp hóa chúng sanh để nói sắc thái Bồ tát.

1. Nhiếp hóa đời này: là lấy bố thí để nhiếp hóa chúng sanh hiện tại;

2. Nhiếp hóa đời sau: là lấy trì giới để nhiếp hóa chúng sanh vị lai, vì có được chỗ sanh thù thắng mới đủ năng lực nhiếp hóa;

3. Nhiếp hóa buông xả: là lấy nhẫn nhục để nhiếp hóa chúng sanh bức não, vọng động;

4. Nhiếp hóa khởi tinh cần: là lấy tinh tiến để nhiếp hóa chúng sanh biếng nhác;

5. Nhiếp hóa đắc thần thông: là lấy thiền định để nhiếp hóa chúng sanh ở phương khác, qua lại mà giáo hóa;

6. Nhiếp hóa bình đẳng thuyết pháp: là lấy trí tuệ để nhiếp hóa chúng sanh bậc thấp, bậc vừa và bậc cao, bằng cái tâm bình đẳng mà thuyết [chân như] không có thêm lên hay bớt đi;

7. Nhiếp hóa đại quả: là lấy đại nguyện chứng đắc quả vị Phật đà để nhiếp hóa chúng sanh không bỏ sót [một loài nào].

Ý nghĩa của các kệ tụng trên là lấy những cửa ngõ khác nhau để nói về sáu ba-la-mật và đại nguyện. Đó là những sắc thái Bồ tát cần phải biết.

Đã nói các sắc thái sai biệt của Bồ tát, kế nói các danh sai biệt của Bồ tát.

Kệ tụng:

Nên biết các Bồ tát

Cũng gọi ma ha tát

Cũng gọi hữu tuệ giả

Cũng gọi thượng thành tựu

Cũng gọi hàng phục tử

Cũng gọi hàng phục trì

Cũng gọi năng hàng phục

Cũng gọi hàng phục nha

Cũng gọi là dũng mãnh

Cũng gọi là thượng thánh

Cũng gọi là đạo sư

Cũng gọi là đại danh xưng

Cũng gọi là hữu bi

Cũng gọi là đại phước đức

Cũng gọi tự tại hành

Cũng gọi chánh thuyết giả.

Giải thích:

Mười sáu tên gọi này đều dựa vào nghĩa mà lập ra. Tất cả Bồ tát có chung những tên gọi này. Nếu ai nghe những tên gọi này thì phải biết đó là bậc Bồ tát.

Đã nói các danh sai biệt của Bồ tát, kế nói các nghĩa sai biệt của Bồ tát.

Kệ tụng:

Thật giác, đại nghĩa giác

Nhất thiết giác, hằng giác

Và cùng phương tiện giác

Năm giác gọi Bồ tát.

Giải thích:

Do có năm tuệ giác mà gọi là Bồ tát:

1. Tuệ giác thật nghĩa: là giác ngộ nhân vô ngã và pháp vô ngã;

2. Tuệ giác đại nghĩa: là giác ngộ nghĩa lợi ích mình người;

3. Tuệ giác nhất thiết: là giác ngộ nghĩa nhất thiết chủng;

4. Tuệ giác hằng hữu: là tuy thị hiện niết-bàn nhưng tuệ giác thì vô tận;

5. Tuệ giác phương tiện: là hiểu rõ đối tượng, căn cơ mà làm các phương tiện.

Kệ tụng:

Tùy ngã và tiểu kiến

Cùng với các thức thân

Và bất chân phân biệt

Bốn giác gọi Bồ tát.

Giải thích:

Lại do có bốn tuệ giác mà gọi là Bồ tát:

1. Tuệ giác tùy ngã: là giác ngộ về tâm; tâm ấy là thức a-lại-da;

2. Tuệ giác tiểu kiến: là giác ngộ về ý; ý ấy là [hoạt động tư duy, đắn đo, ước lượng, phán đoán tương ưng với bốn hoặc là ngã si, ngã kiến, ngã mạn và ngã ái mà vin theo thức a-lại-da;

3. Tuệ giác thức thân: là giác ngộ về thức; thức ấy là các thức thân;

4. Tuệ giác bất chân phân biệt: là giác ngộ về bất chân phân biệt; bất chân phân biệt là ở trước tâm, ý và thức, tất cả Bồ tát chỉ có tuệ giác, đó gọi là bất chân phân biệt.

Kệ tụng:

Vô cảnh và chân nghĩa

Vĩnh vô và viên mãn

Cũng nói bất khả đắc

Năm giác gọi Bồ tát.

Giải thích:

Lại do có năm tuệ giác mà gọi là Bồ tát:

1. Tuệ giác vô cảnh: là giác ngộ tánh y tha;

2. Tuệ giác chân nghĩa: là giác ngộ tánh chân thật;

3. Tuệ giác vĩnh vô: là giác ngộ tánh phân biệt;

4. Tuệ giác viên mãn: là giác ngộ nhất thiết cảnh, nhất thiết chủng;

5. Tuệ giác bất khả đắc: là giác ngộ ba luân thanh tịnh; ba luân: một là tuệ giác thích ứng, là cảnh giới của Bồ tát; hai là tuệ giác y chỉ, là thân của Bồ tát; ba là tánh giác, là trí của Bồ tát; ba luân này không thể thủ đắc nên gọi là tuệ giác bất khả đắc.

Kệ tụng:

Thành tựu và xứ sở

Thai tạng, tùy thứ hiện

Và đã đoạn nghi sâu

Năm giác gọi Bồ tát.

Giải thích:

Lại do có năm tuệ giác mà gọi là Bồ tát:

1. Tuệ giác thành tựu: là thành tựu quả vị Phật đà;

2. Tuệ giác xứ sở: là trú cung trời Đâu-suất;

3. Tuệ giác thai tạng: là nhập thai mẹ;

4. Tuệ giác tùy thứ hiện: là xuất thai, thọ dục, xuất gia, tu hành và thành đạo;

5. Tuệ giác đoạn nghi sâu: là vì các chúng sanh mà chuyển đại pháp luân.

Kệ tụng:

Đắc, không đắc và trú

Với mình và với người

Có thuyết và không thuyết

Có mạn và mạn đoạn

Chưa thục, đã thành thục

Mười một thứ như vậy

Tất cả đều năng giác

Cho nên gọi Bồ tát.

Giải thích:

Lại do có mười một tuệ giác mà gọi là Bồ tát:

Đắc, không đắc và trú: Là tuệ giác về quá khứ, vị lai và hiện tại.

Với mình và với người: Là tuệ giác ở trong và tuệ giác ở ngoài.

Có thuyết và không thuyết: Là tuệ giác thô trọng và tuệ giác vi tế.

Có mạn và mạn đoạn: Là tuệ giác hạ liệt và tuệ giác thù thắng.

Chưa thục, đã thành thục: Là tuệ giác ở xa và tuệ giác ở gần [bồ-đề]; tuệ giác của bậc chưa thành thục nghĩa là vị ấy còn rất lâu xa mới đạt đến toàn giác; tuệ giác của bậc đã thành thục nghĩa là vị ấy đến rất gần sự toàn giác.

Phẩm Công Đức trọn vẹn

***

Phẩm Hai Mươi Ba: HÀNH TRÚ

Giải thích:

Đã nói công đức của Bồ tát, kế nói năm sắc thái Bồ tát.

Kệ tụng:

Nội tâm có lân mẫn

Ái ngữ và dũng kiện

Khai thủ và thích nghĩa

Năm sắc thái Bồ tát.

Giải thích:

Bồ tát có năm sắc thái: 1. Thương xót; 2. Lời nói từ ái; 3. Dũng mãnh; 4. Mở bàn tay; 5. Giải thích nghĩa lý.

Thương xót, là dùng tâm bồ-đề nhiếp hóa lợi ích chúng sanh.

Lời nói từ ái, là làm cho chúng sanh có chánh tín nơi Phật pháp.

Dũng mãnh, là không thoái lui, khuất phục trước những khổ hạnh khó làm.

Mở bàn tay, là lấy tiền của mà nhiếp hóa.

Giải thích nghĩa lý, là lấy giáo pháp mà nhiếp hóa.

Năm sắc thái này cần phải biết, sắc thái đầu là tâm, bốn sắc thái sau là hành.

Đã nói năm sắc thái Bồ tát, kế nói phần Bồ tát tại gia và Bồ tát xuất gia.

Kệ tụng:

Bồ tát tất cả thời

Hằng sống luân vương vị

Làm lợi ích chúng sanh

Phần tại gia như vậy.

Giải thích:

Bồ tát tại gia thường làm như vị luân vương, phụng hành giáo hóa mười điều thiện, rời xa mười điều ác, đó là làm lợi ích [cho chúng sinh].

Kệ tụng:

Thọ đắc và pháp đắc

Cùng với thị hiện thành

Ba thứ phần xuất gia

Ở trong tất cả địa.

Giải thích:

Bồ tát xuất gia có ba phần:

1. Phần thọ đắc, là từ người mà tiếp nhận sự phòng hộ;

2. Phần pháp đắc, là được sự phòng hộ vô lưu;

3. Phần thị hiện, là làm ra sự biến hóa.

Phần thọ đắc là Bồ tát ở tín giải hành địa; phần pháp đắc và phần thị hiện là Bồ tát đã nhập đại địa.

Kệ tụng:

Nên biết phần xuất gia

Đủ vô lượng công đức

So với phần tại gia

Tối thắng không đồng bậc.

Giải thích:

So sánh hai phần thì phần xuất gia hơn hẳn, do đầy đủ vô lượng công đức.

Đã nói phần Bồ tát tại gia và Bồ tát xuất gia, kế nói năm tâm cực đại của Bồ tát.

Kệ tụng:

Quả khả ái, thiện căn

Niết-bàn muốn có được

Chưa tịnh, tịnh, cực tịnh

Là ở trong các địa.

Giải thích:

Năm tâm cực đại là:

1. Tâm cực đại an vui;

2. Tâm cực đại lợi ích;

3. Tâm cực đại chưa thanh tịnh;ch

4. Tâm cực đại đã thanh tịnh;

5. Tâm cực đại cực thanh tịnh.

Quả khả ái là tâm cực đại an vui, nghĩa là làm cho các chúng sanh được quả khả ái ở đời sau.

Thiện căn là tâm cực đại lợi ích, nghĩa là làm cho các chúng sanh thực hành các điều thiện trong hiện tại và được niết-bàn.

Chưa tịnh là tâm cực đại chưa thanh tịnh, chỉ cho Bồ tát ở tín hành địa.

Tịnh là tâm cực đại đã thanh tịnh, chỉ cho Bồ tát từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy.

Cực tịnh là tâm cực đại cực thanh tịnh, chỉ cho Bồ tát ở ba địa sau cùng.

Đã nói năm tâm cực đại của Bồ tát, kế nói bốn thứ nhiếp thọ chúng sanh của Bồ tát.

Kệ tụng:

Dục lạc và bình đẳng

Tăng thượng và đồ chúng

Bốn tâm nơi các địa

Nhiếp thọ các chúng sanh.

Giải thích:

Bốn thứ nhiếp thọ chúng sanh là:

1. Nhiếp thọ bằng tâm dục lạc, là lấy tâm bồ-đề để nhiếp hóa;

2. Nhiếp thọ bằng tâm bình đẳng, là nhập địa đầu tiên, được tâm bình đẳng mình người để nhiếp hóa;

3. Nhiếp thọ bằng tâm tăng thượng, là ở cư chủ vị, lấy tự tại lực để nhiếp hóa;

4. Nhiếp thọ bằng tâm đồ chúng, là nhiếp hóa để thành đệ tử của mình.

Đã nói bốn thứ nhiếp thọ chúng sanh của Bồ tát, kế nói bốn thứ thọ sanh của Bồ tát.

Kệ tụng:

Nghiệp lực và nguyện lực

Định lực và thông lực

Nương bốn thứ lực này

Mà Bồ tát thọ sanh.

Giải thích:

Bốn thứ thọ sanh là: 1. Nghiệp lực thọ sanh; 2. Nguyện lực thọ sanh; 3. Định lực thọ sanh; 4. Thông lực thọ sanh.

Nghiệp lực thọ sanh là Bồ tát ở tín hành địa, có nghiệp lực tự tại, tùy ý chọn lựa xứ sở thọ sanh.

Nguyện lực thọ sanh là Bồ tát nhập đại địa, có nguyện lực tự tại, vì thành thục chúng sanh mà có thể thọ sanh loài súc sanh v.v…

Định lực thọ sanh là Bồ tát chứng đắc các định, có định lực tự tại, xả cảnh giới bậc cao thọ sanh cảnh giới bậc thấp.

Thông lực thọ sanh là Bồ tát chứng đắc thần thông, có thông lực tự tại, có thể thọ sanh ở cung trời Đâu-suất v.v… thị hiện các sắc tướng.

Đã nói bốn thứ thọ sanh của Bồ tát, kế nói mười một sắc thái an trú của Bồ tát.

Kệ tụng:

Chứng không, chứng nghiệp quả

Trú thiền, trú giác phần

Quán đế, quán duyên khởi

Vô tướng, vô công dụng

Hóa lực, tịnh hai môn

Cùng thanh tịnh bồ-đề

Với những gì được nói

Lập sắc thái các địa.

Giải thích:

Mười một sắc thái an trú tức là mười một địa, vì an trú còn được gọi là địa.

Chứng không, hiển thị sắc thái an trú đầu tiên, là phần nhiều an trú nhân vô ngã và pháp vô ngã.

Chứng nghiệp quả, hiển thị sắc thái an trú thứ hai, là chứng nghiệp và chứng quả bất hoại thì có năng lực phòng hộ tịnh giới.

Trú thiền, hiển thị sắc thái an trú thứ ba, là năng lực thọ sanh cõi Dục mà không thoái lui các thiền định.

Trú giác phần, hiển thị sắc thái an trú thứ tư, là năng lực đi vào sanh tử mà không xả giác phần.

Quán đế, hiển thị sắc thái an trú thứ năm, là lấy [vô lượng] ánh sáng trí giác mà giáo hóa chúng sanh, rằng chỉ có cái tâm bị phiền não [nhiễm ô] chứ không có tự ngã.

Quán duyên khởi, hiển thị sắc thái an trú thứ sáu, là năng lực không khởi nhiễm tâm mà vẫn y theo duyên khởi thọ sanh.

Vô tướng, hiển thị sắc thái an trú thứ bảy, là sự tu hành tuy có dụng công, nhưng trên hết thể nhập con đường duy nhất mà phần nhiều là an trú tu tập vô tướng.

Vô công dụng, hiển thị sắc thái an trú thứ tám, là tuy làm sạch thế giới của Phật mà không khởi lên tác ý, phần nhiều an trú tu tập vô công dụng.

Hóa lực, hiển thị sắc thái an trú thứ chín, là bốn biện tự tại vô ngại có năng lực thành thục tất cả chúng sanh.

Thanh tịnh hai môn, hiển thị sắc thái an trú thứ mười, là tam-muội môn và đà-la-ni môn thì cực kỳ thanh tịnh.

Thanh tịnh bồ-đề, hiển thị sắc thái an trú thứ mười một, là diệt trừ vĩnh viễn tất cả trí chướng.

Đã nói mười một sắc thái an trú của Bồ tát, kế nói dựa vào các địa mà thiết lập danh xưng của Bồ tát.

Kệ tụng:

Đầu ba, ba hành tịnh

Kế ba, ba mạn đoạn

Sau ba, giác, xả, hóa

Thứ mười có bốn tên.

Giải thích:

Ở trong mười địa thiết lập mười tên gọi Bồ tát.

Đầu ba, ba hành tịnh: Ở địa đầu tiên gọi là Bồ tát kiến tịnh, vì có được cái trí đối trị hai kiến chấp [sai lầm] về nhân và pháp. Ở địa thứ hai gọi là Bồ tát giới tịnh, vì mọi sự phạm giới dơ bẩn rất nhỏ vĩnh viễn không tồn tại. Ở địa thứ ba gọi là Bồ tát định tịnh, vì các thiền và tam-muội chứng đắc thì không thoái chuyển.

Kế ba, ba mạn đoạn: Ở địa thứ tư gọi là Bồ tát đoạn pháp môn dị mạn, vì phá hủy được sự sanh khởi mạn sai biệt đối với các kinh pháp. Ở địa thứ năm gọi là Bồ tát đoạn tương tục dị mạn, vì nhập mười tâm bình đẳng nên trong mọi sự tương tục đều thấy bình đẳng. Ở địa thứ sáu gọi là Bồ tát đoạn nhiễm tịnh dị mạn, vì đặc tánh chân như có hai mặt là bản tịnh và khách trần, cho nên ở mặt nhiễm ô, Bồ tát có thể an trú nơi pháp duyên khởi; ở mặt chân như, Bồ tát không khởi cái thấy sai biệt trắng đen.

Sau ba, giác, xả, hóa: Ở địa thứ bảy gọi là Bồ tát đắc giác, vì an trú trong năng lực vô tướng nên trong mỗi ý nghĩ có thể tu tập ba mươi bảy giác phần. Ở địa thứ tám gọi là Bồ tát hành xả, vì an trú vô công dụng đối với vô tướng; cũng gọi là Bồ tát làm sạch quốc độ, vì những diệu hạnh phương tiện [ở địa thứ bảy] thích hợp với Bồ tát bất thoái địa. Ở địa thứ chín gọi là Bồ tát giáo hóa chúng sanh, vì có năng lực thành thục tất cả chúng sanh. Ở địa thứ mười có bốn tên gọi Bồ tát: 1. Bồ tát đại thần thông, vì chứng đắc đại thần thông; 2. Bồ tát viên mãn pháp thân, vì đầy đủ tam-muội môn và đà-la-ni môn; 3. Bồ tát năng hóa hiện thân, vì trú ở cung trời đâu suất v.v…, thị hiện các sắc tướng và thân hình; 4. Bồ tát thọ chức, vì được thọ chức từ Phật.

Đã nói dựa vào các địa mà thiết lập danh xưng của Bồ tát, kế nói sự tu học và quả của sự tu học dựa theo các địa của Bồ tát.

Kệ tụng:

Tuần tự theo sáu trước

Thấy tánh tu ba học

Tuần tự theo bốn sau

Được quả có bốn thứ.

Giải thích:

Tuần tự theo sáu trước, thấy tánh tu ba học: Bồ tát ở địa đầu tiên thông đạt chân như; ở địa thứ hai tu học giới tăng thượng; ở địa thứ ba tu học tâm tăng thượng; ở địa thứ tư, địa thứ năm và địa thứ sáu tu học tuệ tăng thượng.

Tuệ có hai đối cảnh: 1. Sự thật của các pháp, là bốn đế khổ, tập, diệt, đạo; 2. Duyên khởi, là quán sát thuận nghịch mười hai nhân duyên. Hai cảnh này cũng có trong địa thứ hai và địa thứ ba, cho nên hai địa này cũng được xây dựng bởi tuệ tăng thượng.

Tuy nhiên, ở địa thứ tư là tuệ tăng thượng về ba mươi bảy bồ-đề phần pháp, ở địa thứ năm là tuệ tăng thượng về quán bốn đế, ở địa thứ sáu là tuệ tăng thượng về quán duyên khởi, vì vậy ba địa này được xây dựng trên nền tảng của tu học tuệ tăng thượng.

Tuần tự theo bốn sau, được quả có bốn thứ: Theo địa thứ bảy, Bồ tát được sự an trú hữu công dụng đối với vô tướng, là quả thứ nhất. Theo địa thứ tám, Bồ tát được sự an trú vô công dụng đối với vô tướng, là quả thứ hai. Theo địa thứ chín, Bồ tát được sự thành thục chúng sanh, là quả thứ ba. Theo địa thứ mười, Bồ tát được hai môn thành thục, là quả thứ tư.

Đã nói sự tu học và quả của sự tu học dựa theo các địa của Bồ tát, kế nói sự tu tập năm uẩn vô lưu dựa theo các địa của Bồ tát.

Kệ tụng:

Thấy tánh sạch ba thân

Cũng ở sáu địa trước

Địa khác sạch hai khác

Rời xa năm chướng vậy.

Giải thích:

Sự thấy tánh ở địa đầu tiên đã giải thích. Ở địa thứ hai, Bồ tát được giới thân thanh tịnh. Ở địa thứ ba, Bồ tát được định thân thanh tịnh. Ở địa thứ tư, địa thứ năm và địa thứ sáu, Bồ tát được tuệ thân thanh tịnh. Bốn địa còn lại và Phật địa, Bồ tát được giải thoát thân và giải thoát tri kiến thân thanh tịnh, do rời xa năm chướng ngại.

Năm chướng ngại là, ở địa thứ bảy lấy sự không biết chấp tướng làm chướng ngại; ở địa thứ tám lấy sự không biết công dụng làm chướng ngại; ở địa thứ chín lấy sự không biết không có năng lực giáo hóa chúng sanh làm chướng ngại; ở địa thứ mười lấy sự không biết chưa thanh tịnh hai môn làm chướng ngại; ở Phật địa lấy sự không biết sự trở ngại làm chướng ngại; sự trở ngại ấy là sự không biết cảnh giới trí tuệ của Thanh văn và Duyên giác có thể làm sự trở ngại; chư Phật biết tất cả cảnh giới không có trở ngại nên giải thoát chướng ngại này.

Đã nói sự tu tập năm uẩn vô lưu dựa theo các địa của Bồ tát, kế nói sự thành tựu và chưa thành tựu dựa theo các địa của Bồ tát.

Kệ tụng:

Chưa thành tựu, thành tựu

Thành có chưa thành, thành

Như thiết lập địa biết

Phân biệt, vô phân biệt.

Giải thích:

Chưa thành tựu, thành tựu: Bồ tát ở tín hành địa gọi là chưa thành tựu. Từ tín hành địa trở lên các địa gọi là thành tựu.

Thành có chưa thành, thành: Ở trong các địa được gọi là thành tựu lại có hai loại là chưa thành tựu và thành tựu. Bồ tát từ địa thứ bảy trở xuống gọi là chưa thành tựu, vì còn hữu công dụng hành; từ địa thứ tám trở lên gọi là thành tựu, vì được vô công dụng hành.

Hỏi: Trước có nói Bồ tát ở Hoan hỷ địa cũng được gọi là thành tựu, nghĩa ấy như thế nào?

Đáp: Như thiết lập địa biết, phân biệt, vô phân biệt: Đó là do trong sự thiết lập địa này, Bồ tát biết chỉ là sự phân biệt [ngã chấp và pháp chấp]; nơi sự phân biệt ấy cũng không có phân biệt, nghĩa là sở chấp và năng chấp đều không có tự thể. Căn cứ theo nghĩa ấy mà nói [Bồ tát ở Hoan hỷ địa] là thành tựu.

Kệ tụng:

Nên biết trong các địa

Tu tập và thành tựu

Hai đây không nghĩ bàn

Là cảnh giới chư Phật.

Giải thích:

Bồ tát ở trong mỗi địa đều có sự tu tập và sự thành tựu; nên biết sự tu tập và sự thành tựu ở mỗi địa đều không thể nghĩ bàn, vì các Bồ tát tự chứng tuệ giác tự nội, chính là sở tri của chư Phật, không phải cảnh giới của các bậc khác.

Đã nói sự thành tựu và chưa thành tựu dựa theo các địa của Bồ tát, kế nói mười sắc thái nhập địa của Bồ tát.

Kệ tụng:

Minh tín, không thấp kém

Không khiếp sợ, không đợi

Thông đạt và bình đẳng

Rời thiên lệch, dính mắc

Cùng với biết phương tiện

Đồ chúng từ Phật sanh

Như vậy mười sắc thái

Mỗi địa đều viên mãn.

Giải thích:

Bồ tát nhập địa ở mỗi địa đều có mười sắc thái. Những gì là mười? 1. Minh tín; 2. Không thấp kém; 3. Không khiếp sợ; 4. Không đợi; 5. Thông đạt; 6. Bình đẳng; 7. Rời thiên lệch; 8. Rời dính mắc; 9. Biết phương tiện; 10. Đồ chúng từ Phật sanh.

Minh tín là ở địa của mình thì có được sáng suốt, vì trừ được sự vô tri đối với các pháp; đối với địa khác thì có được đức tin, vì sanh ước nguyện ưa thích đối với các địa ở sau.

Không thấp kém là nghe được giáo pháp vi diệu sâu xa mà không kinh sợ.

Không khiếp sợ là thực hành rất dũng mãnh hạnh khó làm.

Không đợi là khởi sự tu hành địa của mình mà không đợi dạy bảo.

Thông đạt là có năng lực sanh khởi phương tiện của địa khác.

Bình đẳng là chúng sanh khắp cả cùng một tự tâm.

Rời thiên lệch là tai nghe khen chê mà tâm không có cất cao hay hạ thấp.

Rời dính mắc là được các địa vị như chuyển luân vương v.v… vẫn không lưu luyến và nhiễm ô.

Biết phương tiện là biết các pháp không thể thủ đắc làm phương tiện của Phật.

Đồ chúng từ Phật sanh là đồ chúng luôn được sanh ra từ chư Phật.

Mười sắc tướng này mỗi một địa đều có đủ.

Đã nói mười sắc thái nhập địa của Bồ tát, kế nói sắc thái của mười ba-la-mật ở các địa của Bồ tát.

Kệ tụng:

Có dục, không sáu chướng

Tiếp đến không loạn tuệ

Không nổi, không trở lui

Thờ thiện hữu, cúng dường

Hồi hướng, sanh thù thắng

Tu thiện, du hý thông

Tạng công đức như vậy

Phật tử mười sáu tướng.

Giải thích:

Các Bồ tát ở trong các địa có mười sáu sắc thái tu tập mười ba-la-mật. Những gì là mười sáu?

1. Có dục tâm, là ưa thích thực hành các độ;

2. Không keo lẫn, là rời xa chướng ngại của thí;

3. Không trái phạm, là rời xa chướng ngại của giới;

4. Không giận dữ, là rời xa chướng ngại của nhẫn;

5. Không biếng nhác, là rời xa chướng ngại của tiến;

6. Từ bi, là rời xa chướng ngại của định; từ bi có năng lực cho vui cứu khổ, là phương cách đối trị giận dữ và bực tức, từ bi do định mà có được;

7. Không ác tuệ, là rời xa chướng ngại của tuệ; ác tuệ có ba loại: phân biệt tự tánh, phân biệt tùy ức và phân biệt hiển thị, ba loại này có thể đoạn trừ;

8. Không loạn tuệ, là rời xa tâm hướng về thừa khác;

9. Không nổi trôi, là không bị ngũ dục của con người và thắng lạc của cõi trời làm cho tâm mình say đắm;

10. Không trở lui, là không bị cái khổ vì không thành tựu và cái khổ vì khó thực hành làm cho tâm mình thoái chuyển;

11. Thờ thiện hữu, là nương tựa sự thị hiện như bậc thiện tri thức của Phật để được nghe pháp Đại thừa;

12. Cúng dường, là cúng dường Tam bảo;

13. Hồi hướng, là phương tiện thiện xảo;

14. Sanh thù thắng, là hiển thị sắc thái của nguyện ba-la-mật, là rời xa tám nạn xứ, không rời xa chư Phật Bồ tát;

15. Tu thiện, là hiển thị sắc thái của lực ba-la-mật, là tu tập không ngừng nghỉ các thiện căn;

16. Thần thông du hý, là hiển thị sắc thái của trí ba-la-mật, là vận dụng vô ngại các đại thần thông và công đức [của trí tuệ].

Bồ tát có những sắc thái này thì thường làm bậc thượng thủ trong tất cả chúng. Đây gọi là mười sáu sắc thái của người con Phật.

Đã nói sắc thái của mười ba-la-mật ở các địa của Bồ tát, kế nói năm công đức ở mỗi ba-la-mật của Bồ tát.

Kệ tụng:

Mỗi địa khi thăng tiến

Mỗi độ có năm đức

Hai cùng hai và một

Tu tập chỉ và quán.

Giải thích:

Mỗi địa khi thăng tiến, mỗi độ có năm đức: Bồ tát ở mỗi một địa tu tập mỗi một độ, và trong mỗi một độ có đủ năm thứ công đức.

Những gì là năm? 1. Diệt tập khí; 2. Được khinh an; 3. Tròn sáng; 4. Tướng khởi; 5. Nhân tố rộng lớn.

Diệt tập khí là trong từng sát-na diệt trừ khối tập khí dựa vào.

Được khinh an là rời xa mọi thứ ấn tượng để an trú pháp lạc.

Tròn sáng là biết tất cả chủng, không có tác ý phần đoạn.

Tướng khởi là khi nhập đại địa thì vô phân biệt tướng sanh khởi.

Nhân tố rộng lớn là làm viên mãn và thanh tịnh tất cả sắc thái của pháp thân, là làm cho cả hai khối phước trí được tăng trưởng.

Hai cùng hai và một, tu tập chỉ và quán: Ở đây nên biết, hai công đức đầu là phần chỉ, hai công đức tiếp theo là phần quán, công đức thứ năm là gồm hai phần chỉ quán.

Đã nói năm công đức ở mỗi ba-la-mật của Bồ tát, kế giải thích danh xưng mười địa của Bồ tát.

Kệ tụng:

Thấy chân, thấy lợi vật

Xứ này được Hoan hỷ.

Xuất phạm, xuất dị tâm

Gọi là Ly cấu địa.

Sức cầu pháp, trì pháp

Phát ánh sáng gọi Minh.

Củi hoặc chướng, trí chướng

Thiêu đốt là Diệm tuệ.

Hai khó làm thoái lui

Thoái lui nên Nan thắng.

Quán không trú hai pháp

Hằng hiện gọi Hiện tiền.

Nhiều đường gần nhất thừa

Đi xa gọi Viễn hành.

Tưởng tướng, tưởng vô tướng

Không động, Bất động địa.

Bốn biện trí lực xảo

Thuyết thiện gọi Thiện tuệ.

Hai môn như mây giăng

Mưa pháp gọi Pháp vân.

Giải thích:

Thấy chân, thấy lợi vật, xứ này được Hoan hỷ: Bồ tát ở trong địa đầu tiên có hai cái thấy: một là thấy chân như, nghĩa là thấy sự lợi mình: thấy mình đi đến gần với bồ-đề, xưa chưa từng thấy, nay mới vừa thấy; hai là thấy lợi vật, nghĩa là thấy sự lợi người: trong từng sát-na có năng lực thành thục hàng trăm chúng sanh. Do hai cái thấy này, Bồ tát khởi lên sự hoan hỷ thù thắng, nên gọi là Hoan hỷ địa.

Xuất phạm, xuất dị tâm, gọi là Ly cấu địa: Bồ tát ở địa thứ hai ra khỏi được hai thứ dơ bẩn: một là ra khỏi sự phạm giới dơ bẩn, hai là ra khỏi sự khởi tâm dị thừa dơ bẩn. Do ra khỏi hai sự dơ bẩn này mà gọi là Ly cấu địa. Như kinh Thập địa nói: “Chúng con siêng năng tinh tiến để được tịnh giới, thành mãn sự thanh tịnh của nhất thiết chủng trí. ”

Sức cầu pháp, trì pháp, phát ánh sáng gọi Minh: Bồ tát ở trong địa thứ ba có được sức tự tại của tam-muội nên có thể cầu, có thể thừa tự, có thể gìn giữ vô lượng Phật pháp, được ánh sáng chánh pháp lớn lao, vì người mà làm chỗ dựa ánh sáng trí giác. Do có thể lấy chánh pháp soi sáng cho mình, soi sáng cho người nên gọi là Minh địa.

Củi hoặc chướng, trí chướng, thiêu đốt là Diệm tuệ: Bồ tát ở trong địa thứ tư lấy trí giác của pháp bồ-đề phần làm tự tánh của ngọn lửa, lấy hoặc chướng và trí chướng làm tự tánh của củi. Bồ tát ở địa này có thể khởi lên ngọn lửa trí giác đốt tiêu củi hai chướng nên gọi là Diệm tuệ địa.

Hai khó làm thoái lui, thoái lui nên Nan thắng: Bồ tát ở trong địa thứ năm có hai thứ khó: khó thứ nhất là siêng năng giáo hóa chúng sanh mà tâm không phiền não, khó thứ hai là chúng sanh không làm theo sự giáo hóa mà tâm không phiền não. Bồ tát ở địa này có thể thoái lui vì hai thứ khó, phải khó khăn lắm mới vượt thắng nên gọi là Nan thắng địa.

Quán không trú hai pháp, hằng hiện gọi Hiện tiền: Bồ tát ở trong địa thứ sáu dựa vào trí tuệ ba-la-mật mà có năng lực không trú hai pháp là sanh tử và niết-bàn. Tuệ quán như vậy hằng hiện ở trước mắt nên gọi là Hiện tiền địa.

Nhiều đường gần nhất thừa, đi xa gọi Viễn hành: Bồ tát ở trong địa thứ bảy thì đã tiếp cận với đạo nhất thừa, cho nên gọi là đi xa.

Hỏi: Cái gì là đi xa?

Đáp: Phương tiện [thiện xảo] cho sự cứu cánh tuy còn hữu công dụng nhưng vẫn có khả năng đưa Bồ tát đi xa. Do sự đi xa này mà gọi là Viễn hành địa.

Tưởng tướng, tưởng vô tướng, không động, Bất động địa: Bồ tát ở trong địa thứ tám đối với ấn tượng hữu tướng và ấn tượng hữu công dụng về vô tướng, cả hai ấn tượng này đều không thể dao động. Do không có sự dao động này nên gọi là Bất động địa.

Bốn biện trí lực xảo, thuyết thiện gọi Thiện tuệ: Bồ tát ở trong địa thứ chín được bốn vô ngại tuệ thuộc loại thù thắng nhất, nên ở trong khoảng một sát-na, hết thảy người trời có chủng loại khác nhau nơi ba ngàn thế giới, cùng hỏi những câu hỏi khác nhau bằng tiếng nói khác nhau và nghĩa lý khác nhau, vậy mà Bồ tát ở địa này có thể dùng một tiếng nói trả lời khắp cả những câu hỏi của mọi loài, đoạn trừ những hoài nghi. Do sự thuyết pháp một cách khéo léo như vậy nên gọi là Thiện tuệ địa.

Hai môn như mây giăng, mưa pháp gọi Pháp vân: Bồ tát ở trong địa thứ mười nhờ tam-muội môn và đà-la-ni môn mà nhiếp thọ tất cả nhân tố đa văn huân tập làm đầy khắp trong thức a-lại-da, giống như mây lớn giăng che khắp cả hư không. Bồ tát ở địa này có thể lấy đám mây đa văn huân tập, ở trong từng sát-na, ở mỗi một tướng hảo, ở mỗi một vẻ đẹp tùy hình, ở mỗi lỗ chân lông, đổ mưa xuống vô lượng vô biên cơn mưa giáo pháp, làm sung mãn tất cả chúng sanh có thể hóa độ. Do như đám mây đổ mưa giáo pháp nên gọi là Pháp vân địa.

Đã giải thích danh xưng riêng biệt rồi, thế nào gọi là trú, thế nào gọi là địa?

Kệ tụng:

Vì tập các thiện căn

Lạc trú nên nói trú

Số đếm, số, vô úy

Lại lấy địa làm tên.

Giải thích:

Vì tập các thiện căn, lạc trú nên nói trú: Các Bồ tát vì thành tựu mọi thứ thiện căn nên ở trong tất cả thời gian an trú ý lạc trong tất cả địa, vì vậy các địa còn được gọi là các trú.

Số đếm, số, vô úy, lại lấy địa làm tên: Bộ-di-da (步彌耶) gọi là địa. Bộ là nghĩa của số đếm. Di là nghĩa của số thật. Da là nghĩa không sợ hãi. Các Bồ tát muốn tiến lên địa ở trên thì ở trong mỗi một địa phải đoạn trừ số đếm chướng ngại, có được số đếm công đức, nên gọi là nghĩa của số đếm.

Địa lấy mười số làm lượng. Các Bồ tát ở trong tất cả địa đều biết phải đoạn trừ những chướng ngại như thế, biết phải có được những công đức như thế, biết những điều đó là không giả dối, nên gọi là nghĩa của số thật.

Các địa ở trên là trú xứ không sợ hãi. Các Bồ tát e sợ rằng nếu ở mãi trong địa của mình thì sẽ thoái mất những công đức lợi mình lợi người, nên mong muốn tiến lên các địa ở trên, gọi đó là nghĩa không sợ hãi.

Do ba nghĩa đây nên gọi là địa.

Đã nói danh xưng mười địa của Bồ tát, kế nói bốn sự thủ đắc các địa sai biệt của Bồ tát.

Kệ tụng:

Tin hiểu và chánh hành

Thông đạt và thành mãn

Nên biết các Bồ tát

Đắc địa có bốn sự.

Giải thích:

Bốn sự thủ đắc các địa là: 1. Thủ đắc nhờ tin hiểu; 2. Thủ đắc nhờ chánh hành; 3. Thủ đắc nhờ thông đạt; 4. Thủ đắc nhờ thành mãn.

Thủ đắc nhờ tin hiểu, là lấy sự tin hiểu (sâu xa) để thủ đắc các địa, như nói đến trong tín địa. Thủ đắc nhờ chánh hành, là lấy chánh hành để thủ đắc các địa.

Các Bồ tát đối với pháp Đại thừa có mười chánh hành: 1. Sao chép; 2. Hiến cúng; 3. Chuyền cho; 4. Nghe nhận; 5. Dở đọc; 6. Chỉ dạy; 7. Phúng tụng; 8. Giảng nói; 9. Suy nghĩ; 10. Tu tập.

Mười chánh hành này có năng lực sanh ra khối công đức vô lượng. Mười chánh hành này thủ đắc các địa nên gọi là thủ đắc nhờ chánh hành.

Thủ đắc nhờ thông đạt, là thông đạt đệ nhất nghĩa đế, cho đến Bồ tát ở địa thứ bảy được gọi là thông đạt.

Thủ đắc nhờ thành mãn, là Bồ tát từ địa thứ tám đến Phật địa được gọi là thủ đắc nhờ thành mãn.

Đã nói bốn sự thủ đắc các địa sai biệt của Bồ tát, kế nói bốn sự tu hành sai biệt của Bồ tát.

Kệ tụng:

Các độ, các giác phần

Các thần thông, nhiếp sanh

Vì Đại thừa, tiểu thừa

Cùng thể nhập, thành thục.

Giải thích:

Nói tổng quát, tất cả hành Bồ tát không ra ngoài bốn sự: 1. Hành ba-la-mật; 2. Hành bồ-đề phần pháp; 3. Hành thần thông; 4. Hành nhiếp hóa chúng sanh.

Hành ba-la-mật là nói về chúng sanh cầu Đại thừa. Hành bồ-đề phần pháp là nói về chúng sanh cầu Tiểu thừa. Hành thần thông là làm cho hai loại chúng sanh thể nhập được Phật pháp. Hành nhiếp hóa chúng sanh là làm cho hai loại chúng sanh thành thục Phật pháp.

Phẩm Hành Trú trọn vẹn

Phẩm Hai Mươi Bốn: KÍNH PHẬT

Giải thích:

Đã nói hành trú của Bồ tát, kế nói công đức lễ Phật.

Kệ tụng:

Tâm hòa đồng, xa lìa

Tâm không mất, lợi ích

Thương xót các chúng sanh

Cứu đời, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai, đấng công đức vô lượng.

Tâm hòa đồng, là tâm từ, vì muốn mang lại niềm vui.

Tâm xa lìa, là tâm bi, vì muốn lấy đi nỗi khổ.

Tâm không mất, là tâm hỷ, vì muốn chúng sanh luôn được hoan hỷ.

Tâm lợi ích, là tâm xả, vì muốn chúng sanh không bị nhiễm ô.

Kệ tụng:

Giải thoát hết thảy chướng

Thắng hơn các thế gian

Cùng khắp tất cả xứ

Tâm thoát, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của ba xứ.

Giải thoát hết thảy chướng: Tán dương sự thù thắng của giải thoát, là được giải thoát vì không còn tất cả hoặc chướng và tất cả trí chướng.

Thắng hơn các thế gian: Tán dương sự thù thắng của chế ngự thể nhập, là tâm tự tại với cảnh sở duyên, tùy ý chuyển hóa.

Cùng khắp tất cả xứ: Tán dương sự thù thắng của biến xứ thể nhập, là trí cùng khắp trong tất cả cảnh.

Ba nghĩa này nói về tâm được giải thoát đối với ba xứ, nên tán dương là đấng tâm giải thoát.

Kệ tụng:

Ngăn chận phiền não khởi

Diệt tổn hại mê hoặc

Thương chúng sanh ô nhiễm

Đấng bi, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của vô tránh (không tranh cãi).

Ngăn chận phiền não khởi: Tất cả chúng sanh sanh khởi phiền não, mọi việc làm của Như lai đều làm cho chúng sanh không sanh khởi phiền não.

Diệt tổn hại mê hoặc: Tất cả mê hoặc nếu đã sanh khởi thì Như lai cũng có thể giúp cho chúng sanh sanh khởi phương tiện đối trị. Bậc khác có đức tánh không tranh cãi thì đó là duyên tố làm cho người khác không sanh khởi mê hoặc, chứ không thể làm cho người khác sanh khởi đối trị. Sự vô tránh của Như lai không phải như vậy, chẳng những làm cho chúng sanh không khởi mê hoặc mà còn khiến cho chúng sanh sanh khởi sự đối trị mê hoặc, cho nên gọi là vô tránh thù thắng.

Thương chúng sanh ô nhiễm, Đấng bi, con đảnh lễ: Tam-muội vô tránh của Như lai thì nghiêng về sự sanh khởi lòng thương xót đối với tất cả chúng sanh còn có ô nhiễm, cho nên đối với chúng sanh, Như lai được gọi là đấng đại bi.

Kệ tụng:

Không dụng công, không vướng

Không ngại, hằng tịch tĩnh

Giải đáp tất cả nghi

Thắng trí, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của nguyện trí.

Nguyện trí của Như lai có năm sự thù thắng: 1. Không còn khởi dụng công; 2. Không vướng mắc ở đối cảnh; 3. Không bị ngăn ngại ở trong tâm; 4. Thường xuyên tịch tĩnh; 5. Giải đáp các hoài nghi. Do có năm nghĩa này nên gọi là thù thắng.

Nguyện trí của bậc khác là: 1. Không phải không dụng công, vì còn khởi tác ý; 2. Không phải không vướng mắc, vì có định lực giả tạm; 3. Không phải không ngăn ngại, vì sự thấy biết đôi phần ít ỏi; 4. Không phải thường xuyên tịch tĩnh, vì không phải là định thường tịch; 5. Không giải đáp các hoài nghi, vì có chỗ không biết tới.

Kệ tụng:

Sở y và năng y

Ngôn từ và trí tuệ

Sự thuyết tuệ vô ngại

Khéo thuyết, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của bốn trí vô ngại.

Sự được thuyết có hai thứ: 1. Sở y, là giáo pháp; 2. Năng y, là nghĩa lý.

Công cụ thuyết pháp có hai thứ: 1. Ngôn từ thông suốt; 2. Trí tuệ khéo léo.

Như lai đối với sự được thuyết và công cụ thuyết pháp đều sử dụng tuệ giác vô ngại, cho nên gọi là thù thắng.

Sự thuyết, là hiển thị nghiệp dụng vô ngại. Khéo thuyết, là vận dụng phương tiện để khai mở, chỉ bày.

Kệ tụng:

Qua lại và nghe biết

Biết tâm hành, đến, đi

Khiến người được xuất ly

Giáo hóa, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của sáu thần thông.

Qua lại, là như ý thông, là năng lực qua lại mọi xứ sở.

Nghe biết, là thiên nhĩ thông, là năng lực nghe biết mọi ngôn âm.

Biết tâm hành, là tha tâm thông, là năng lực biết rõ tâm hành sai biệt của người.

Biết từ đâu đến, là túc trú thông, là năng lực biết rõ đời trước người kia từ nhân nào đến.

Biết đi về đâu, là sanh tử thông, là biết rõ người kia đời nay từ nhân nào đi.

Khiến người được xuất ly, là lậu tận thông, là đúng với chân thật vì người thuyết pháp.

Kệ tụng:

Chúng sanh nhìn thấy Ngài

Biết chắc là trượng phu

Tâm tịnh tín sâu xa

Phương tiện, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của tướng hảo.

Tất cả chúng sanh một lần được nhìn thấy Ngài thì biết chắc Như lai là bậc đại trượng phu, và khởi lên sự tin tưởng trong sáng và sâu xa nơi Như lai, vì Ngài dùng tướng hảo làm phương tiện.

Kệ tụng:

Giữ bỏ trú, biến hóa

Định, trí được tự tại

Như vậy bốn thanh tịnh

Thế tôn, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của bốn tướng thanh tịnh. Đó là: 1. Thân thanh tịnh; 2. Duyên thanh tịnh; 3. Tâm thanh tịnh; 4. Trí thanh tịnh.

Giữ bỏ trú, hiển thị thân thanh tịnh, là năng lực giữ, bỏ hay trú ở sự sống lâu của thân mạng một cách tự tại.

Biến hóa, hiển thị duyên thanh tịnh, là năng lực chuyển đổi và biến hóa các cảnh giới một cách tự tại.

Định, hiển thị tâm thanh tịnh, là năng lực xuất nhập các định một cách tự tại.

Trí, hiển thị trí thanh tịnh, là năng lực biết các cảnh giới vô ngại một cách tự tại.

Kệ tụng:

Phương tiện và qui y

Thanh tịnh và xuất ly

Đây phá bốn lừa dối

Hàng ma, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của mười lực.

Ma vương dựa vào bốn sự để phá hoại chúng sanh. Bốn sự là gì?

1. Dựa vào phương tiện để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói thọ dụng năm trần thì được sanh đường lành, không đọa đường dữ;

2. Dựa vào quy y để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói chúa trời Tự tại v.v… là nơi chốn quy y, quy y nơi khác là sai lầm;

3. Dựa vào thanh tịnh để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói chỉ có các định của thế gian mới là thanh tịnh, các định khác không phải thanh tịnh;

4. Dựa vào xuất ly để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói chỉ có đạo quả của tiểu thừa mới có thể xuất ly, chẳng phải Đại thừa có được.

Phật vì phá bốn sự của ma vương mà hiển thị mười lực:

1. Phật dùng trí lực thị xứ phi xứ để phá sự thứ nhất của ma vương, do phương tiện thiện lành có thể được sanh cõi trời, không phải phương tiện xấu ác làm được;

2. Phật dùng trí lực tam thế nghiệp báo để phá sự thứ hai của ma vương, do nghiệp lực của mình khiến được sanh cõi trời, không phải dựa vào năng lực của chúa trời Tự tại v.v…;

3. Phật dùng trí lực thiền định giải thoát để phá sự thứ ba của ma vương, do biết hết các thiền định, giải thoát tam-muội và tam-ma-bạt-đề;

4. Phật dùng bảy trí lực khác mà phá sự thứ tư của ma vương, do rời bỏ căn tánh thấp kém v.v… để đứng yên nơi căn tánh cao tột.

Kệ tụng:

Trí đức và đoạn đức

Xuất ly và chướng ngại

Thuyết pháp lợi mình người

Dẹp tà, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của bốn vô úy.

Trí đức là nói về nhất thiết trí vô úy.

Đoạn đức là nói về lậu tận vô úy.

Xuất ly là nói về thuyết tận khổ đạo vô úy.

Chướng ngại là nói về thuyết chướng đạo vô úy.

Ở đây, trí đức và đoạn đức là nói về công đức lợi mình, xuất ly và chướng ngại là nói về công đức lợi người.

Các ngoại đạo nạn vấn rằng: Sa-môn Cù-đàm (1) chẳng có đủ nhất thiết trí, (2) chẳng diệt hết tất cả lậu, (3) thuyết đạo [xuất thế] mà không thể hết khổ, (4) thuyết chướng pháp mà không thật có trở ngại đạo.

Như lai đối với bốn nạn vấn này đều có thể bác bỏ, cho nên gọi là vô úy.

Kệ tụng:

Trong chúng nói trị phạt

Không giữ gìn cái gì

Rời hai bẩn, chánh trú

Nhiếp chúng, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của ba bất hộ.

Trong chúng nói trị phạt, không giữ gìn cái gì: Nếu Phật còn có cái gì để giữ gìn thì ở trong đại chúng Phật không thể nói ra sự trị phạt tới cùng.

Rời hai bẩn, chánh trú: Rời bỏ hai sự dơ bẩn là không có vui mừng và buồn ghét. Chánh trú là không quên mất chánh niệm. Do hai thứ công đức này mà gọi là thù thắng, có năng lực nhiếp hóa tất cả đồ chúng. Đây chính là nghiệp dụng của Phật.

Kệ tụng:

Đi đứng ở mọi nơi

Toàn là nhất thiết trí

Đoạn tất cả tập khí

Thật nghĩa, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của đoạn trừ tập khí.

Như lai trong mọi lúc, ở mọi nơi, đi đứng nằm ngồi toàn là sự dụng thể hiện uy nghi của nhất thiết trí, vì Như lai đã đoạn trừ tất cả phiền não và cả tập khí.

Nếu không có nhất thiết trí thì phiền não tuy hết nhưng tập khí chưa hết. Khi đi đứng mà gặp phải xe ngựa chạy nhanh rồi bị tổn hại là vì không có uy nghi của nhất thiết trí. Như lai không mắc phải việc này vì thật sự có nhất thiết trí.

Kệ tụng:

Việc lợi ích chúng sanh

Đúng lúc không lỡ thời

Việc làm thường không sót

Không quên, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của sự không lãng quên.

Trong sự lợi ích yên vui cho chúng sanh, việc Như lai làm thường xuyên đúng lúc và không bỏ lỡ cơ hội; đây là nghiệp dụng của pháp không lãng quên. Trong mọi thời gian, việc Như lai làm đều không có hư dối; đây là tự tánh của pháp không lãng quên.

Kệ tụng:

Ngày đêm sáu thời quán

Tất cả cõi chúng sanh

Đầy đủ tâm đại bi

Ý lợi, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của đại bi.

Bằng tâm đại bi, Như lai ngày đêm sáu thời quán sát chúng sanh, ai thoái, ai tiến: người chưa khởi thiện căn, Ngài làm cho người ấy khởi thiện căn; người đã khởi thiện căn, Ngài làm cho người ấy tăng tiến thiện căn.

Tuy một ngày đêm có sáu thời mà thật ra Ngài thường chuyển pháp luân trong mọi thời gian, vì Ngài có đầy đủ tâm đại bi; đây chính là nghiệp dụng của tâm đại bi.

Như lai thường khởi tâm ý lợi lạc cho tất cả chúng sanh; đây là tự tánh của tâm đại bi.

Kệ tụng:

Do hành và do chứng

Do trí và do nghiệp

Hơn tất cả nhị thừa

Cao tột, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của mười tám pháp bất cộng.

Như lai có mười tám pháp bất cộng: 1. Thân không lầm lỗi; 2. Miệng không lầm lỗi; 3. Ý không lầm lỗi; 4. Không có ý tưởng riêng khác; 5. Không lúc nào tâm không trú định; 6. Không có sự không biết mà đã xả; 7. Nguyện dục không giảm; 8. Tinh tiến không giảm; 9. Niệm không giảm; 10. Tuệ không giảm; 11. Giải thoát không giảm; 12. Giải thoát tri kiến không giảm; 13. Trí biết đời quá khứ không vướng mắc, không chướng ngại; 14. Trí biết đời vị lai không vướng mắc, không chướng ngại; 15. Trí biết đời hiện tại không vướng mắc, không chướng ngại; 16. Thân nghiệp hành động theo trí tuệ; 17. Khẩu nghiệp hành động theo trí tuệ; 18. Ý nghiệp hành động theo trí tuệ.

Mười tám pháp ấy chia ra bốn loại: hành, gồm sáu bất cộng đầu tiên; chứng, gồm sáu bất cộng kế tiếp; trí, gồm ba bất cộng tiếp theo; nghiệp, gồm ba bất cộng cuối cùng.

Tất cả Thanh văn, Duyên giác đối với hết thảy chúng sanh khác là bậc cao. Như lai do có bốn sự bất cộng, so với bậc cao ấy là bậc cao hơn, nên được gọi là đấng cao tột.

Kệ tụng:

Ba thân đại bồ-đề

Đắc nhất thiết chủng trí

Chúng sanh mọi nơi nghi

Trừ diệt, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của nhất thiết chủng trí.

Ba thân là: 1. Tự tánh thân; 2. Thọ dụng thân; 3. Hóa thân. Đây là nói tự tánh của nhất thiết chủng trí.

Hỏi: Trí này biết tất cả chủng loại trong tất cả cảnh là thế nào?

Đáp: Tất cả chúng sanh ở khắp mọi nơi sanh nghi hoặc, trí này có thể đoạn diệt những nghi hoặc ấy. Đây là nghiệp dụng của nhất thiết chủng trí.

Kệ tụng:

Không dính mắc, không lỗi

Không dơ bẩn, không ngưng

Không động, không hý luận

Thanh tịnh, con đảnh lễ.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của sáu độ viên mãn.

Không dính mắc, là không bị dính mắc tiền của.

Không lỗi, là ba nghiệp thân miệng ý vĩnh viễn không vẩn đục.

Không dơ bẩn, là các khổ của pháp thế gian không làm nhuốm bẩn tâm.

Không ngưng, là có chút sở đắc không chịu ngưng nghỉ, trú ở.

Không động, là tâm hằng tịch tĩnh, không có tán loạn.

Không hý luận, là đối với tất cả pháp mà khởi phân biệt đều không phải chỗ sở hành.

Như lai viên mãn sáu ba-la-mật nên hoàn toàn rời sáu chướng, được gọi là đấng thanh tịnh.

Kệ tụng:

Thành tựu đệ nhất nghĩa

Xuất ly tất cả địa

Đến vị trí cực tôn

Giải thoát các chúng sanh.

Công đức vô tận đẳng

Hiện đời đều đầy đủ

Thế gian thấy, chúng thấy

Trời người đều không thấy.

Giải thích:

Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của pháp thân Phật.

Ở đây lược nói pháp thân Phật có sáu đức:

1. Thể;

2. Nhân;

3. Quả;

4. Nghiệp;

5. Tương ứng;

6. Sai biệt.

Do sáu đức này biểu hiện mà biết đó chính là Phật, nên gọi là pháp thân Phật.

Thành tựu đệ nhất nghĩa: Đây là thể của pháp thân, do viên thành đệ nhất nghĩa, chứng đắc chân như thanh tịnh tột cùng.

Xuất ly tất cả địa: Đây là nhân của pháp thân, do tu tập tất cả địa vị Bồ tát mà xuất ly.

Đến vị trí cực tôn: Đây là quả của pháp thân, do đạt đến vị trí trên hết tất cả chúng sanh.

Giải thoát các chúng sanh: Đây là nghiệp của pháp thân, do có năng lực làm cho chúng sanh được giải thoát.

Công đức vô tận đẳng, hiện đời đều đầy đủ: Đây là tương ứng của pháp thân, do thích ứng với các đức vừa vô tận vừa vô đẳng.

Thế gian thấy, chúng thấy, trời người đều không thấy: Đây là sai biệt của pháp thân. Thế gian thấy, là mọi loài trong các thế giới đều thấy hóa thân. Chúng thấy, là chúng Bồ tát trong đại hội của Phật thấy được thọ dụng thân. Không thấy, là nhân loại, chư thiên v.v… trong mọi thời gian đều không thể thấy được tự tánh thân. Đây là sự sai biệt của ba thân.

Phẩm Kính Phật trọn vẹn

Luận Đại thừa trang nghiêm kinh được thuyết trọn vẹn trong thời gian cực kỳ thanh tịnh.

    Xem thêm:

  • Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội - Luận Tạng
  • Luận Tịnh Độ Thập Nghi - Luận Tạng
  • Thích Tịnh Độ Quần Nghi Luận - Luận Tạng
  • Luận Câu Xá – Phẩm 4: Phân Biệt Nghiệp - Luận Tạng
  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Ba Mươi Bài Luận Tụng Duy Thức - Luận Tạng
  • Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Trăm Pháp Minh Môn - Luận Tạng
  • Luận Hai Mươi Kệ Tụng Duy Thức - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Giảng Rộng Ý Nghĩa Năm Uẩn Theo Giáo Pháp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Câu Xá – Phẩm 3: Phân Biệt Thế Gian - Luận Tạng
  • Luận Nhập Đại Thừa - Luận Tạng
  • Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Luận Tạng
  • Đại Thừa Tuyệt Đối Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng