QUYỂN 2
PHÁP SƯ ĐẠO LÂM
Sư người Giang Lăng, Kinh châu, tên Phạn là Thi-la-bát-phả (Trung Quốc dịch Giới Quang). Năm hai mươi tuổi, sư lìa tục xuất gia. Khi tuổi ngoài ba mươi, sư tham vấn thiện hữu tri thức, tìm cầu chân lí. Nhờ nghiên cứu luật tạng mà giới châu trong sư sáng tỏ; bởi tu tập môn thiền nên nước định lắng trong. Bẩm tính sư thanh cao, nhã nhặn, ngay thẳng. Sư lại thường tắm giặt khe xanh để an chí, hay súc miệng suối biếc để dưỡng thần. Sư thường ngồi chẳng nằm, ăn ngày một bữa. Vì cảm thương Phật pháp truyền vào Trung Quốc đã nhiều năm mà cửa thiền hiếm người chứng nhập, luật điển còn nhiều thiếu sót, nên sư muốn lần theo dòng tìm đến tận nguồn, vượt đường xa vạn dặm sang đất Tây Thiên.
Sư giương thuyền ra biển nam, qua trụ đồng, rồi đến nước Lang-ca, qua Ha-lăng rồi sang Lõa quốc. Tại đây, sư được vua tiếp đãi rất nồng hậu và đã lưu lại vài năm. Sau đó, sư sang nước Đam-ma-lập-để thuộc Đông Ấn Độ, lưu lại ba năm học tiếng Phạn. Nơi đây, sư xả giới rồi thụ lại giới pháp, học Nhất thiết hữu bộ [1] Sư cho rằng chỉ học luật chưa đủ, phải trau dồi thêm định và tuệ. Sư còn dốc tâm nghiên cứu chú tạng [2].
Về sau, sư đến Trung Ấn Độ, đỉnh lễ thánh tích Bồ-đề đạo tràng và Kim Cang ngự toà, rồi sang chùa Na-lan-đà. Tại đây, sư dốc lòng nghiên cứu kinh luận Đại thừa, nghiền ngẫm luận Câu-xá trong khoảng vài năm. Sư còn đến chiêm bái, thành kính đỉnh lễ các thánh tích như đỉnh Thứu, Trượng lâm [3], Sơn Viên, Hộc thụ [4]. Sau đó, sư xuống Nam Ấn Độ tìm học giáo nghĩa cao sâu, sang nước La-đồ thuộc Tây Ấn Độ trụ lại một năm, lập linh đàn trùng tụng minh chú [5].
Minh chú, tiếng Phạn là Tì-đệ đà-la tất-đắc-gia. Tì-đệ dịch là minh chú, đà-la nghĩa là trì, tất-đắc-gia nghĩa là tạng, dịch đầy đủ là Trì minh chú tạng. Nghe truyền: Chú tạng này, bản Phạn có mười vạn bài tụng, Trung Quốc dịch thành ba trăm quyển, hiện nay đã thất lạc nhiều, còn lại rất ít. Sau khi Đức Phật nhập diệt, có ngài A-li-dã Na-già-hạt-thụ-na, tức bồ-tát Long Thụ, tinh thâm tông yếu này. Nan-đà, đệ tử ngài Long Thụ là người thông minh học rộng, cũng thấu đạt tông yếu này, đã ở Tây Ấn Độ mười hai năm, chuyên tâm trì chú, có cảm ứng. Mỗi khi đến giờ ăn, thức ăn từ không trung hiện xuống trước mặt ngài Nan-đà; khi tụng chú cầu bình Như ý, không lâu bình hiện đến. Do được kinh này trong bình, nên tôn giả vui mừng, không trì chú kết giữ, bình liền biến mất.
Pháp sư Nan-đà sợ minh chú bị thất lạc mất, bèn toát yếu lại còn mười hai nghìn bài tụng, hình thành tác phẩm y cứ của một tông. Thường trong một bài tụng, có văn trình bày ấn và chú. Tuy ngôn từ giống, nhưng nghĩa và dụng khác nhau, nếu chẳng được trực tiếp khẩu truyền thì không thể thật ngộ giải. Về sau, luận sư Trần-na đọc được tác phẩm tuyệt vời này, thể nhận được trí tuệ uyên thâm, thấu đạt, nên đã vỗ kinh khen rằng: “Nếu bậc hiền [6] này dốc chí vào Nhân minh, thì nay ta đâu có gì để thể hiện”. Thật là, bậc trí biết khả năng mình, kẻ ngu chẳng rõ sự cạn sâu của người.
Chú tạng này ở Trung Quốc chưa được lưu truyền. Sở dĩ sư Đạo Lâm chú tâm vào tạng kì diệu này, bởi vì trên đó có ghi: “Lên trời, cỡi rồng, sai khiến trăm thần, làm lợi chúng sinh, chỉ có chú này là hơn cả”.
Nghĩa Tịnh tôi lúc ở Na-lan-đà cũng nhiều lần nhập đàn tham cứu yếu chỉ này, nhưng không thành tựu, bèn dốc lòng đem những điều mắt thấy, tai nghe ghi chép đại khái lại như vậy.
Đạo Lâm từ Tây Ấn Độ đi lên phương bắc, đến nước Yết-thấp-di-la, vào nước Ô-trường-na tham vấn thiền lí, tìm cầu bát-nhã, rồi đến nước Ca-tất-thí đỉnh lễ xá-lợi xương đỉnh đầu của Phật. Từ đó về sau, chẳng rõ sư ở đâu.
Khi tôi quay về, đến nước Yết-đồ ở Nam Hải nghe người Hồ từ phương bắc đến kể: “Có hai vị tăng người Hồ gặp một sư Trung Quốc”. Nghe tả hình dạng thì đúng sư Đạo Lâm. Sư cùng với ngài Trí Hoằng định quay về cố hương, nhưng bị giặc cướp chặn đường, phải trở lên Bắc Ấn Độ. Lúc ấy, sư khoảng hơn năm mươi tuổi.
LUẬT SƯ ĐÀM QUANG
Sư người Giang Lăng, Kinh châu. Sau khi xuất gia, sư đã tìm lên kinh đô. Sư là đệ tử của luật sư Thành, luận biện lưu loát, văn chương có thần, thông suốt cả nội điển lẫn ngoại điển, giới hạnh thanh khiết. Về sau sư đi về hướng nam, vượt Minh Bột [7] sang đỉnh lễ các thánh tích ở Tây Ấn Độ, lại đến nước Ha-lợi-kê-la [8] thuộc phía đông của Đông Ấn Độ. Sư còn khoẻ mạnh, nhưng đến nay vẫn bặt tin, không rõ sư ở đâu, có lẽ đã viên tịch trên đường đi
Lại nghe vị tăng nước Ha-lợi-kê-la kể: “Có vị tăng nhà Đường, tuổi ngoài năm mươi, được vua kính trọng cho cai quản một ngôi chùa. Do sư đem theo nhiều kinh tượng, đi đường lao nhọc nên đã nhuốm bệnh rồi viên tịch, được chôn cất tại nước này”.
SƯ HUỆ MẠNG
Sư người Giang Lăng, Kinh châu, giới hạnh thanh sạch, lòng dạ ngay thẳng, thông suốt cả nội điển lẫn ngoại điển, ý chí cao vời, thoát tục. Do đặt trọn tâm nơi Tường hà [9], để hết lòng ở Trúc uyển, nên sư đã theo thuyền lớn đến nước Chiêm-ba, trên đường gặp sóng to gió lớn, chịu bao phen gian khổ mới tới chỗ trụ đồng Mã Viện, nhưng rồi sư đành dừng lại, quay về.
LUẬT SƯ HUYỀN QUÌ
Sư họ Hồ, người Giang Ninh, Nhuận châu, thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc, thông văn giỏi võ, chuộng nhân quí nghĩa, cháu con nhiều đời kính pháp trọng tăng, tiếng thơm truyền khắp.
Sư xuất gia từ thuở nhỏ, lớn lên có đức độ. Đến khi thụ giới cụ túc, sư đã trác tuyệt hơn người. Sư chuyên tu thiền định, thông suốt các bộ luật, giới hạnh cao vời, nghe các kinh Đại thừa, đạt rốt ráo nghĩa ẩn sâu, văn chương thông bác, giỏi chữ lệ chữ thảo, thật là hiếm có trong giới xuất tục.
Sư không có vật dụng gì ngoài ba y, khi đắp mặc luôn để lộ tay, chéo y vắt vai. Khi vào chù, sư đi chân trần, ra đường mới mang giày, giả sử có người thấy cười chê, sư vẫn không thay đổi. Sư thường ngồi, chẳng bao giờ nằm trên giường yên giấc, luôn hành Đầu-đà [10] khất thực, chẳng hề bước qua quán rượu ồn náo. Người hiền thiện đều thích dép cỏ rơm, nhưng sư biết rõ mang giày da thú cũng đâu có lỗi! Xét rằng giày dép là giúp không lộ bàn chân trần bước đi trên mặt đất. Đó là phép tắc vậy. Tốt lành thay! Người này tâm đã thầm hợp với lí, lìa ác theo thiện. Nhưng tự thẹn mình còn nổi trôi theo dòng tục, như một khi tỉnh ngộ, há dám cùng người say mãi ở chốn tối tăm!
Mới đến Đan Dương, có người vừa gặp sư liền kết thành bạn tốt; đến Nam Thượng, anh em lưu luyến cảm thương; nơi Tam Kinh, bạn bè chia tay không nỡ. Nhưng thương thay! Chí nguyện không thành. Bởi tâm ấp ủ nguyện hoằng truyền chính pháp, nên chí tiết cao vời, nhưng mới tới Quảng châu, sư đã bị nhiễm phong hàn. Vì bệnh tật ngăn trở, sư đành ôm hận quay về cố hương. Năm ấy, sư khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi.
Về sau, sư Tăng Triết đến Tây Vực kể: “Sư Quì viên tịch mà chí nguyện chưa thỏa”. Thật bất hạnh thay! Con đường vinh quang thật lắm gian nan, nghiệm lại thật không sai. Mong đem đại pháp về hoằng truyền, mà chỉ có nỗi ngóng trông mờ mịt; muốn mang di giáo về xiển dương, mà chỉ chôn lòng nơi biên cảnh.
Than ôi! Bậc đức dày đã ra đi, ai là người nối chí? Bất hạnh mạng ngắn ngủi. Ô hô! Thương thay! Đắp non cao chín nhận, sắp thành lại dở dang, tài hoa mà phận bạc. Thật cảm thương! Để hiểu thì rất dễ, làm được mới khó thay! Khi tuổi sư còn thơ ấu, nghiệp đức đã vẹn tròn, nuôi chí truyền đuốc sáng, nhưng tật bệnh lại trở ngăn. Cảm thương chí lớn, xót người ra đi, khí tiết truyền lưu mãi, rực rỡ tận nghìn sau.
Sư Quì, lời lìa Quảng phủ, hồn vọng Quế lâm. Thương người khuất bóng, đề thơ tặng rằng:
Chuyên tâm nơi cửa Phật
Lòng mong đến Tây Thiên
Tật bệnh làm ngăn ngại
U hoài mãi tình riêng.
Lá rời cành khó hợp
Tình lìa chẳng thể cầm
Ngày nào quay trở lại
Tận mặt, diễn pháp âm.
Niên hiệu Hàm Hanh [11] thứ nhất, khi ấy Nghĩa Tịnh tôi đang tham học ở Tây kinh [12], đã cùng với pháp sư Xử Nhất người Tinh Xuyên, luận sư Hoằng Húy người Lai châu, cùng vài ba sư khác đồng hướng lòng về đỉnh Thứu, đặt tâm nơi cội giác [13]. Nhưng vì pháp sư Xử Nhất còn mẹ già nên đành trở về Tinh Xuyên. Khi đến Giang Ninh, sư Húy gặp sư Huyền Chiêm, nên để tâm nơi An Dưỡng [14]. Sư Huyền Quì mới đến Quảng phủ thì lâm bệnh nặng phải quay về, chỉ còn tiểu tăng Thiện Hạnh, người Tấn châu cùng tôi tiếp tục lên đường. Ở Thần Châu, bạn bè cũ đôi ngả đã phân li; đến Ấn Độ, tri kỉ mới mịt mờ chưa gặp. Lúc này, trong lòng bồi hồi, buồn bã làm bài thơ tứ tuyệt để bày tỏ nỗi lòng:
Tôi qua bao dặm đường
Trăm mối sầu vấn vương
Sao để sáu tấc bóng
Độc bước Ngũ Thiên phương.
Lại tự đề một bài thơ để giải sầu:
Ba quân nhất Thượng tướng
Kẻ sĩ chí kiên cường
Nếu như sợ mạng yểu
Đâu trọn được niềm vương.
Vào niên hiệu Hàm Hanh thứ ba, tôi nhập hạ tại Dương phủ. Đầu thu, tình cờ gặp sứ quân [15] Phùng Hiếu Thuyên, người Cung châu, tôi bèn theo ông ta đến Quảng phủ, rồi hẹn với chủ thuyền người Ba-tư cùng đi phương nam. Lại được lệnh của Sứ quân trở qua Cương châu. Bấy giờ, em trai của sứ quân Hiếu Thuyên là sứ quân Hiếu Đản, sứ quân Hiếu Chẩn, cùng quận quân [16] họ Ninh, quận quân họ Bành với quyến thuộc tận tâm cúng dường. Ai ai cũng đều dâng tài vật tốt và thực phẩm ngon, mong rằng tôi không thiếu thốn khi vượt biển mênh mông, không cực khổ trên đường đi hiểm trở. Dốc lòng chu cấp như thân thuộc, thuận tâm cứu giúp của Cấp Cô [17], cùng làm chỗ nương, đồng duyên nơi thánh cảnh. Sở dĩ Tịnh tôi thành tựu những việc tốt đẹp ấy, là nhờ vào công sức của nhà họ Phùng.
Tăng tục ở Lĩnh Nam lòng nghẹn ngào với kẻ ở người đi, bậc tài hoa đất Bắc tâm ôm mối sầu sống mà cách biệt. Đến tháng mười một, tôi từ Phiên Ngung sang Dực Chẩn, hướng đến Lộc Uyển mà ngóng trông, nhìn về Kê sơn mà thở dài. Bấy giờ, gió bấc bắt đầu thổi mạnh, chúng tôi vững đôi chèo hướng phương nam xa lạ. Tiết đông mới bắt đầu, cả đoàn căng buồm rời phương bắc quê hương. Cắt dọc biển khơi, làm dậy sóng như non chắn ngang biển lớn; xẻ thông đại hải, khiến sóng cuộn như mây cao ngút trời. Do đó, không đầy hai tuần [18], chúng tôi đã tới được nước Phật-thệ, dừng lại nơi đây sáu tháng, học thêm Thanh minh. Về sau, vua nước này cấp phương tiện đưa chúng tôi qua nước Mạt-la-thâu. Chúng tôi dừng nơi đây hai tháng, rồi chuyển hướng đi sang nước Yết-đồ.
Đến tháng mười hai, đoàn lại giương buồm vua tặng đi dần sang Đông Ấn Độ. Từ nước Yết-đồ đi về phương bắc hơn mười ngày, thì vào nước của người lõa thể. Nhìn về bờ đông khoảng một, hai dặm thấy toàn rừng dừa cau sum sê, tươi tốt. Người dân thấy thuyền lớn cập bến, tranh nhau chèo hàng trăm thuyền nhỏ chở đầy dừa, chuối, vật dụng bằng mây trúc đến muốn trao đổi. Người ở đây thích nhất là thanh sắt lớn bằng hai ngón tay, mỗi thanh có thể đổi được năm hoặc mười trái dừa. Đàn ông xứ này đều khỏa thân, đàn bà dùng lá cây kết lại để che thân. Có lần, các thương nhân đùa trao cho quần áo, họ khoác tay không nhận. Nghe truyền rằng, nước này ở biên giới tây nam của Thục Xuyên. Ở xứ này ngũ cốc không nhiều, thức ăn chính của họ là dừa và củ mài, không có mỏ sắt, vàng bạc cũng rất hiếm, vì thế sắt là kim loại quí nhất. Người dân ở đây diện mạo không đen, vóc người trung bình. Họ đan giỏ mây tròn rất khéo, xứ khác không thể bì kịp. Nếu thuyền buôn đến mà không trao đổi hàng hóa với họ, sẽ bị bắn tên độc. Người nào một khi trúng tên, ắt không cứu được.
Ở đây khoảng nửa tháng, đoàn lại đi về hướng tây bắc, đến nước Đam-ma-lập-để, thuộc phía nam của Đông Ấn Độ, cách Mạc-ha Bồ-đề và Na-lan-đà hơn sáu mươi trạm đường. Tại đây, tôi gặp sư Đại Thừa Đăng và lưu lại một năm học tiếng Phạn cùng Thanh luận. Sau đó, tôi cùng sư Đăng theo đoàn buôn vài trăm người theo hướng tây đến Ấn Độ. Chỉ còn cách Mạc-ha Bồ-đề khoảng mười ngày đường, nhưng đoàn phải vượt qua nhiều đầm lầy, núi cao gian nan hiểm trở; cũng nhờ đông người nên không cảm thấy lẻ loi.
Lúc ấy, tôi lại nhiễm thời bệnh [19], người mệt mỏi, yếu sức nên không thể theo kịp đoàn buôn, tuy gắng hết sức nhưng chỉ đi được năm dặm mà phải dừng nghỉ nhiều lần. Khi ấy, nhân gặp khoảng hai mươi vị tăng chùa Na-lan-đà, sư Đăng đã cùng họ đi trước, còn lại mình tôi đơn độc vượt đường hiểm trở. Trời xế chiều, bọn sơn tặc xuất hiện, giương cung quát bảo tôi đến gặp, rồi lăng nhục, đoạt lấy hết quần áo của tôi, ngay cả dây lưng cũng không chừa. Bấy giờ, tôi đinh ninh sẽ mất mạng, chẳng thể thỏa nguyện đỉnh lễ các thánh tích, chẳng những chết không toàn thây, mà còn không thể đạt được bản nguyện. Không ngờ, cuối cùng bọn chúng lại tha cho đi.
Người nước này lại phao tin: Nếu gặp người da trắng, họ sẽ giết để tế trời. Nghĩ đến điều này, tôi càng thêm lo lắng, bèn xuống hố lấy bùn bôi khắp thân, kết lá cây che thân, chống gậy đi chầm chậm. Trời tối dần mà vẫn còn cách thôn xóm khá xa. Đến canh hai tôi mới đuổi kịp mọi người. Nghe sư Đăng đứng ngoài thôn gọi lớn, tôi rảo bước tới. Sư trao cho một bộ áo quần, tôi xuống ao tắm rửa rồi cùng vào thôn.
Đi thêm vài ngày đường, chúng tôi đến được chùa Na-lan-đà, trước lễ tháp Căn Bản, kế lên núi Kì-xà-quật chiêm bái nơi thờ y của Đức Phật, sau qua chùa Đại Giác đỉnh lễ tôn tượng. Tôi lại đem vải lụa trước đây được tăng tục ở Sơn Đông tặng, may thành ca-sa bằng lượng Như Lai chế, đích thân khoác lên cúng dường tôn tượng. Luật sư Huyền ở Bộc châu gửi hàng vạn la-cái dâng lên cúng dường, thiền sư An Đạo ở Tào châu nhờ đỉnh lễ cội bồ-đề, tôi đều thực hiện xong. Lúc ấy, năm vóc sát đất, chí thành đỉnh lễ, trước vì bốn ân ở quê nhà, sau vì cả pháp giới chúng sinh, tôi nguyện hội đầu Long Hoa [20] diện kiến đức Từ Thị, khế hợp chân tông [21], được vô sinh trí [22]. Tiếp đó, tôi đỉnh lễ khắp các thánh tích, đi qua trượng thất của cư sĩ Duy-ma [23] mà đến Câu-thi, nơi nào cũng chí thành. Đến Lộc viên [24], lại trèo lên đỉnh Thứu. Tôi lưu lại chùa Na-lan-đà mười năm để nghiên cứu kinh điển, sau mới quay trở lại nước Đam-ma-lập-để. Giữa đường, gặp giặc cướp dữ, nhưng tôi may mắn thoát họa đao kiếm, giữ được tính mạng trong gang tấc. Từ đây, tôi giương buồm qua nước Yết-đồ [25], thỉnh về hơn năm trăm nghìn bài tụng trong ba tạng kinh điển chữ Phạn, dịch ra tiếng Trung Quốc thành cả nghìn quyển. Bấy giờ, tôi tạm trú tại nước Phật-thệ.
Chú thích:
[1] Nam Kinh: đô thị lớn ở hạ lưu dòng Trường Giang, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc.
[2] Hiển Khánh 顯慶: niên hiệu vua Đường Cao Tông (656 – 2/661)
[3] Cây Vô Ưu 無憂樹 (S: Aśoka): Đức Phật đản sinh dưới gốc cây này tại vườn Lâm-tì-ni.
[4] Cao Xương 高昌: một nước cổ ở Tây Tạng, nằm trong khu vực Karakhoja phía đông nam huyện Thổ-lỗ-phồn, tỉnh Tân Cương ngày nay.
[5] Lạc Dương 洛陽: cố đô của Trung Quốc, nằm phía nam sông Hoàng Hà, tỉnh Hồ Nam.
[6] Ô-trường-na 烏長那 (Cg: Ô-trượng-na): nước nằm phía bắc nước Kiều-đà-la (S: Gandhara) thuộc Bắc Ấn Độ thời xưa.
[7] Ba bản Tống, Nguyên, Minh dịch là Huệ Thân.
[8] Mân Việt 閩越: tên đất thời xưa, nay thuộc tỉnh Phúc Kiến, cũng là tên chỉ tỉnh Phúc Kiến.
[9] Ca-tất-thí 迦畢試: một nước ở phía tây bắc Ấn Độ cổ đại.
[10] Thục Xuyên 蜀川: vùng đất cách chùa Chi-na hơn năm trăm trạm dịch. Một trạm khoảng 1 du-thiện-na, tương đương 40 dặm (1 dặm = 360 bước).
[11] Thời điểm thuật lại chuyện này.
[12] Nguyên bản: “dư phương đổ” 餘方堵. Đổ: đơn vị đo lường thời xưa. 1đổ = 5 trượng. (1 trượng = 10 thước Trung Quốc, 1 thước Trung Quốc khoảng 0,33m) 1 trượng = 3,3m. Vậy 1 đổ = 16.5m
[13] Thiệm-bộ 贍部 (Cg: Diêm-phù-đề): cõi chúng ta đang sinh sống.
[14] Trượng 丈: đơn vị đo lường. 1 trượng = 10 thước Trung Quốc, 1 thước Trung Quốc khoảng 0,33m, tính ra 1 trượng khoảng 3,3m.
[15] Bộ 步: đơn vị đo lường. 5 thước Trung Quốc = 1 bộ.
[16] Tốt-đổ-ba 窣賭波: xưa dịch gọn “tháp” là chưa chính xác. Tháp thờ xá-lợi gọi là tốt-đổ-ba, không thờ xá-lợi gọi là chế-để.
[17] Chế-để 制底: xưa phiên âm chi-đề là sai.
[18] Tá sử 佐史: chỉ chung cho Thư tá và Tào sử, làm việc trong công đường của quan địa phương thời Hán.
[19] Kì-hoàn 祇洹: tức Kì viên, một thánh địa của Phật giáo, vị trí ở phía nam thành Xá-vệ, nước Kiều-tát-la, thuộc Trung Ấn Độ.
SƯ THIỆN HẠNH
Sư người Tấn châu, là đệ tử của Nghĩa Tịnh tôi. Thuở nhỏ, sư từ giã quê nhà, đến Đông Sơn học đạo. Lớn lên, sư tu tập luật nghi, để tâm nghiên cứu minh chú. Tính tình sư nhu hoà, cẩn trọng, cần kiệm, chất phác, chỉ một lòng nghĩ đến việc làm lợi ích chúng sinh. Sư cùng tôi đến nước Thất-lợi-phật-thệ, có ý muốn sang Ấn Độ, nhưng bị bệnh nặng đành phải quay thuyền trở về. Lúc ấy, sư khoảng bốn mươi tuổi.
SƯ LINH VẬN
Sư người Tương Dương, tên Phạn là Bát-nhã-đề-bà. Tính tình sư ngay thẳng, chí muốn xuất gia, luôn để chí nơi việc lợi sinh. Vì muốn chiêm bái các thánh tích, sư cùng sư Tăng Triết vượt biển nam sang Ấn Độ. Sư rất giỏi tiếng Phạn, đi đến đâu cũng đều được quốc vương nước ấy lễ kính. Sư đến chùa Na-lan-đà, vẽ hình cây bồ-đề và chân dung đức Từ Thị, không thua gì một họa sĩ giỏi. Sau đó, sư mang các thứ trở về nước, xiển dương Phật pháp, phiên dịch kinh điển. Sư quả là người có khả năng lợi lạc quần sinh.
THIỀN SƯ TĂNG TRIẾT
Sư người Lễ châu, từ nhỏ tính tình đã thuần hậu, chí tiết cao xa; sớm gởi thân cửa Phật. Khả năng lĩnh ngộ của sư thật kì diệu, trọn vẹn như nước từ bình này rót sang bình kia; tài luận biện sắc bén, thật là người có thể gánh vác trọng trách vẻ vang, lên toà cao tuyên dương diệu pháp!
Sư hiểu sâu luật tạng, thông đạt pháp thiền, nắm vững nội dung hai bộ Trung luận và Bách luận, thấu đạt chỗ then chốt của hai thuyết Trang Lưu. Vì ngưỡng mộ thánh tích, sư lên thuyền sang Tây Vực, đến Tây Ấn Độ tùy duyên giáo hoá. Sư đỉnh lễ khắp các thánh tích rồi trở qua nước Tam-ma-đát-trá [1], thuộc Đông Ấn Độ. Vua nước này tên Yết-la-xã-bạt-trá, là một Phật tử thuần thành, hết lòng kính tin Tam bảo, xưa nay khó ai bì. Hàng ngày, vua tạo mười vạn tượng Phật Thích-ca bằng gỗ dâu, tụng mười vạn bài kinh Bát-nhã, dâng cúng mười vạn đóa hoa tươi. Phẩm vật dâng cúng chất cao bằng người. Khi xa giá, vua bài trí xe tượng Quan Âm dẫn đầu, đến cờ phướn rợp trời, trống nhạc tấu vang, kế là tượng Phật, tăng ni, cuối cùng mới đến đoàn của vua cùng tùy tùng.
Trong thành, có khoảng bốn nghìn tăng ni, đều nhận sự cúng dường của vua. Mỗi sáng sớm, vua sai sứ giả vào chùa, đến trước tăng phòng chắp tay thưa:
– Đại vương kính hỏi thăm các pháp sư đêm qua có được an ổn chăng?
Tăng đáp:
– Cầu mong đại vương không bệnh tật, sống lâu, đất nước thịnh vượng, thái bình.
Sứ giả trở về tâu lại. Sau đó, vua mới luận bàn việc nước.
Lâu ngày, danh tiếng về đức độ của vua vang xa, khiến những bậc thông minh đức độ, trí rộng tài cao, thông hiểu mười tám bộ phái Tiểu thừa, thấu đạt ngũ minh ở khắp Ngũ Thiên đều tụ hội về. Sư Tăng Triết ở tại Vương tự trong thành này, được vua rất trọng đãi.
Sư dốc lòng tham học kinh Phạn, ngày càng làu thông. Lúc tôi đến đây, không gặp sư, được nghe đến nay sư vẫn còn sống, tuổi khoảng bốn mươi. Huyền Du, đệ tử của sư, người nước Cao Li, theo thầy qua nước Sư Tử, xuất gia và ở lại nơi này.
LUẬT SƯ TRÍ HOẰNG
Sư người Lạc Dương, cháu của Vương Huyền Sách, là sứ giả sang Ấn Độ trước đây. Tuổi mới hai mươi mà sư đã muốn an nhàn, xem thường phú quí, lòng thích ẩn cư. Do đó, sư tìm lên núi Thiếu Lâm sống đời đạm bạc. Sư thích tụng kinh điển, rất giỏi văn chương.
Về sau, sư tỉnh ngộ sự ồn náo chốn chợ đời, chuộng cảnh thanh tịnh nơi cửa Phật, nên rời Bát Thủy đến Tam Ngô, lìa tục xuất gia, lễ thiền sư Tha làm thầy, thụ lãnh giáo pháp. Chưa được bao năm, sư phảng phất thấy được đạo. Một thời gian sau, sư đến chỗ thiền sư Nhẫn ở Kì châu, tiếp tục tu tập thiền định. Tuy cội thiền đã trồng, nhưng cành lá chưa vươn cao, sư bèn vượt sông Tương [2] sang núi Hoành [3], vào rừng quế gởi chí, ẩn suối vắng lắng tâm. Một năm sau, sư đến y chỉ thiền sư Trượng Tịch.
Ngắm sông núi xinh đẹp, nhìn rừng rậm lặng yên, sư đề thơ ca ngợi cảnh rừng núi thâm u, làm phú bày tỏ chí nguyện viễn du. Về sau, sư đến tham học với các bậc đạo cao ở Tam Ngô, sáng tỏ mối đạo. Sư lại tham vấn thiện hữu tri thức khắp nơi, thấm sâu diệu lí. Đó là do thiện căn đã gieo trồng từ quá khứ, chứ chẳng phải từ người cho.
Khởi hành từ Trung phủ, sư muốn sang Ấn Độ đỉnh lễ thánh tích, may gặp được thiền sư Vô Hành đồng chí hướng. Đến Hợp Phố [4], hai sư giương buồm ra biển cả, gặp gió ngược, thuyền lênh đênh trên biển, đành đổi hướng đến Giao châu, lưu lại một mùa hạ. Cuối đông, hai sư đến vùng bờ biển, theo thuyền đi về hướng nam, qua nước Thất-lợi-phật-thệ. Hành trình sư trải qua, được trình bày rõ trong truyện Thiền sư Vô Hành.
Đến chùa Đại Giác, sư trụ lại hai năm, chí thành đỉnh lễ tôn tượng Phật Thích-ca, phúng tụng kinh Phạn. Trải qua một thời gian, sư đã giỏi Thanh luận, lại thông Phạm thư, thấu luật nghi, hiểu Đối phá. Không những sư giỏi Câu-xá mà còn thông Nhân minh. Tại chùa Na-lan-đà, sư nghiên cứu Đại thừa. Ở đạo tràng Tín Giả, sư chuyên tâm nơi Tiểu thừa. Sư cùng các bậc danh đức chỉnh sửa luật nghi, chí thành khẩn thiết chẳng dám xao lãng. Sư đến dự nghe luật sư Đức Quang giảng giải kinh luật, nghe đến đâu biên dịch đến đó, rất công phu. Sư khéo giữ gìn giới luật, không mảy may thiếu sót; thường ngồi không nằm, sống biết đủ, thanh bạch, kính trên nhường dưới, đạo tâm ngày càng kiên cố.
Với lòng chí thành, sư đến chiêm bái các thánh tích như thành Vương Xá, đỉnh Thứu, Tiên uyển [5], Kì viên, Thiên giai, Am viên [6], Sơn huyệt. Mỗi khi có y bát dư, sư đều nghĩ đến việc cúng dường cho người khác. Đến chùa Na-lan-đà thì thiết trai cúng dường, ở thành Vương Xá cúng vào thường trụ. Ở Trung Ấn Độ gần tám năm, sư đến nước Yết-thấp-di-la thuộc Bắc Ấn Độ và có ý định trở về Trung Quốc. Nghe nói sư kết bạn với sư Đạo Lâm, không biết hiện nay ở đâu. Sư đạt rất nhiều thành tựu trong sự nghiệp phiên dịch.
THIỀN SƯ VÔ HÀNH
Sư người Giang Lăng, Kinh châu, tên Phạn là Bát-nhã-đề-bà (Trung Quốc dịch Huệ Thiên). Bẩm tính sư trầm tĩnh, ôn hoà, khí chất thanh cao, văn nhã, lòng đầy nhân đức, chí muốn ẩn cư chốn núi rừng. Thuở nhỏ sư đã đặt chân đến Thạch Cừ, lớn lên dốc lòng nơi Kim Mã [7]. Sư thấu suốt bách thị [8], thông đạt tam kinh [9], nổi tiếng khắp châu huyện, xuất sắc nơi quê nhà. Lúc bấy giờ, danh tiếng của sư đã vang dội, văn chương tợ ráng chiều rực rỡ, sáng chói cả vùng Tam giang [10]; ý thơ như dòng suối trào, tràn khắp vùng Thất trạch [11]. Nhưng do nhân lành đời trước, cảm thành quả hiện tiền, sư kính mộ cửa pháp, trộm nhìn vườn huyền. Sư may mắn gặp năm người hướng dẫn, được vào ở nơi đạo tràng Đẳng Giới. Không bao lâu, sư đã thấm nhuần đạo lí, đậm tình pháp lữ.
Về sau, sư lễ pháp sư Huệ Anh, đệ tử ưu tú của ngài Cát Tạng, chùa Đại Phước Điền làm thầy. Có thể nói, bậc thạc đức nối nhau xuất hiện, chắc chắn đời không thiếu người hiền.
Thế là, sư hướng tâm về Bát-nhã, đặt chí nơi cửa thiền, xa lìa trần tục, dạo chốn núi sông. Sư thường mượn những nơi luận bàn về Nho Lão mà xiển dương giáo lí vi diệu; tuy là hàng hậu sinh, nhưng vượt hơn các bậc tiền bối. Khi thụ giới cụ túc, cùng đàn với hơn hai mươi người, sư tụng giới thông thuộc, trong hai giờ là xong, được mọi người tôn xưng là thượng thủ, khó ai hơn được.
Sau đó, sư vào ẩn cư nơi núi sâu, tụng kinh Pháp hoa, không đầy một tháng đã xong bảy quyển, và than rằng: “Tuy nói tìm nơm, ý muốn được cá; tìm cầu nơi lời, vốn mong đạt lí, nên tham học với những bậc thầy nổi tiếng để sáng tâm trí, mở cửa định, đoạn trừ phiền não”. Do đó, sư đến Cửu Giang rồi qua Tam Việt [12], tìm lên Hoành nhạc [13], dừng ở Kim Lăng [14]. Sư lại gởi lòng ở Tung Hoa [15], tụng tập nơi Thiếu Thất [16], rồi rửa chân nơi Bát thủy, giặt áo ở Tam xuyên [17]. Như thế, chí sư luôn tìm thiện tri thức, hoặc vì tu định, sư lên phương bắc, tìm cầu tinh hoa nơi thiền sư Trí Giả [18], hoặc vì học tạng luật, sư trở về đông, tham cứu điểm tinh túy nơi luật sư Đạo Tuyên [19].
Vì muốn nghe kinh luận mới cũ, học phép tắc xưa nay mà sư phải vượt qua biết bao cảnh mênh mông sóng nước trải dài, sừng sững núi cao chót vót. Sư kết bạn đường với ngài Trí Hoằng, gặp gió đông cùng căng buồm ra khơi. Một tháng sau, sư đến nước Thất-lợi-phật-thệ, được nhà vua tiếp đãi đặc biệt nồng hậu, trải kim hoa [20], rải kim túc [21], cúng dường tứ sự [22], năm lần triệu kiến để bảy tỏ tấm lòng. Được biết hai sư từ Đại Đường đến, vua càng thêm kính trọng. Sau đó, hai sư đi thuyền vua tặng, trải qua mười lăm ngày đến nước Mạt-la-du [23], thêm mười lăm ngày, đến nước Yết-đồ. Cuối đông, sư cho thuyền đi về hướng tây, mất ba mươi ngày thì đến Na-già-bát-đản-na, lênh đênh thêm hai ngày thì đến nước Sư Tử. Sau khi đỉnh lễ xá-lợi răng Phật, hai sư lại giương buồm theo hướng đông bắc, mất một tháng thì tới nước Ha-lợi-kê-la. Nước này nằm về phía đông của Đông Ấn Độ, cách chùa Na-lan-đà một trăm trạm đường. Lưu lại đây một năm, cả hai lại đi dần sang Đông Ấn Độ. Sau khi dừng lại nghỉ ngơi, hai sư tiếp tục đến chùa Đại Giác. Tại đây, hai sư được vua nước này sắp đặt cử làm chủ chùa. Rất khó được thường trụ một ngôi chùa ở Ấn Độ, vì trách nhiệm và quyền lợi đồng như mọi người; nếu là khách, chỉ được thụ thực mà thôi.
Về sau, sư đến chùa Na-lan-đà, tham học Du-già, nghiên cứu Trung quán, nghiền ngẫm Câu-xá, tìm hiểu giới luật, rồi lại đến chùa Đê-la-đồ, cách đó hai trạm đường. Chùa này có bậc pháp tượng [24] rất giỏi Nhân minh. Sư còn nghiên cứu những trước tác của ngài Trần-na [25], ngài Pháp Xứng [26], dần nhập vào huyền quan [27], khai mở được u kiện [28].
Suốt đời sư chuyên khất thực, sống thiểu dục tri túc, tâm tính thoát tục . Lúc rảnh rỗi, sư dịch kinh A-cấp-ma [29], thuật lại việc Như Lai niết-bàn, tóm lại thành ba quyển, gởi về Trung Quốc. Kinh này rút ra từ trong luật tạng của phái Nhứt Thiết Hữu Bộ, không giống với kinh ngài Hội Ninh đã dịch.
Ban đầu, sư bảo muốn ở lại Ấn Độ, nhưng sau lại nói có ý quay về Trung Quốc, nên từ Bắc Ấn Độ trở về quê hương. Khi ấy, Nghĩa Tịnh tôi đang ở Na-lan-đà, có đến tiễn biệt. Đưa sư qua sáu trạm đường về hướng đông, lòng ôm nỗi sầu li biệt, nhưng vẫn mong có ngày gặp lại, rồi gạt lệ chia tay. Năm ấy, sư năm mươi sáu tuổi.
Sư bẩm tính chí thành, cung kính. Mỗi khi lá bồ-đề bắt đầu xanh, sư khẩn thiết tắm cây nơi Long trì; khi vườn Trúc trở màu vàng, sư chí thành hái hoa nơi đỉnh Thứu[30].
Có một lần, cùng sư lên Linh Thứu, đỉnh lễ thánh tích xong, trông xa về quê nhà, trong lòng cảm thương, Tịnh tôi làm thơ bày tỏ nỗi lòng:
Đứng trên đỉnh núi cao
Ngắm nhìn Vương thành cổ
Vạn năm hồ[31] vẫn sạch
Nghìn năm vườn[32] vẫn xanh
Phảng phất con đường cũ
Quảng Hiếp núi hoang tàn.
Đài tiên bảy báu mờ dấu cũ
Hoa trời bốn sắc bặt tiếng mưa.
Tiếng mưa hoa đã xa
Hận mình sao sinh muộn!
Cảm thương mê mờ nơi nhà lửa[33]
Lại than bảo sở mất lối về
Chân bước lên Bình Giao
Rong chơi trên Thất Hải[34]
Ba cõi loạn động dìm tà mê
Chúng sinh mịt mờ quên thầy giỏi
Chỉ bậc Năng Nhân riêng giác ngộ.
Rũ trần lặng sóng mở đường huyền.
Vừa gặp đói khổ, mạng lìa thân
Lại vì cứu người, ban tất cả (thí)
Giữ phao[35] trọn vẹn, sáng giới châu[36] (giới)
Mặc giáp hộ tâm, áo nhẫn bền (nhẫn).
Tam kì[37] tinh tiến vượt Nhị thừa
Nhón chân chẳng nhọc, vượt chín kiếp[38] (cần)
Nước định lắng trong, sạch kết xưa (định)
Gươm tuệ sắc bén chém mầm mê (tuệ).
Trải qua nhiều kiếp dụng công phu
Sáu độ[39] độ sinh trong mọi lúc
Chúng sinh qui hướng, công đức thành.
Kim hà[40] thị tịch, về thường trụ.
Kê sơn tạm nói, công đã tròn
Đệ tử ngày xưa truyền di giáo
Bí điển Long cung cất biển sâu
Chân ngôn Thạch thất[41] thỉnh non cao.
Giáo truyền đến ngày nay
Người người kế lưu danh.
Sa mạc, Tuyết sơn, lầm đường sớm
Biển lớn, non Hồng lạc bến đêm.
Dấn vào muôn đường chết
Tìm ra một nẻo sống.
Đầu châm[42], ngẫu huyệt hai dụ khác
Trói ngựa, treo xe há lên đường.
Không bỏ vui đời nay
Chẳng mong vinh đời sau
Thệ xả thân mạng cầu thắng nghĩa
Mong được thành tựu nguyện truyền đăng.
Thôi chớ tỏ bi thương
Mong sớm trọn hành trình.
Nhìn về đông, Nữ loan[43] lưu hai tích
Dong về tây, Lộc uyển dứt tam luân[44]
Hướng sang bắc, Vương Xá, hồ còn đấy
Ngoảnh qua nam, Tôn lĩnh động chưa dời.
Năm đỉnh đẹp
Trăm hồ xanh
Rực rỡ hoa tươi soi khắp chốn
Xanh tốt cội đạo thắm ngày xuân.
Leo lên đỉnh núi cao
Đến tận vườn Kì-đà
Thấy tảng đá Như Lai giặt y
Nhìn dấu tích Thiên Thụ[45] lăn đá.
Dừng nơi Linh trấn bặt nghĩ suy
Hoa vàng tung rải kính tôn dung
Biến thành lọng thơm bay sau điện
Lại nhiễu quanh nơi Phật kinh hành
Mắt nhìn, tâm tưởng thầm hợp đạo
Đem chút phúc này nhuần bến giác
Nơi hội Long Hoa bỏ cấu trần.
Tại thành Vương Xá, Tây Trúc, nhớ lại chuyện xưa, Tịnh tôi cảm tác bài thơ:
Phương xa sầu cố quốc
Lòng ngập nỗi nhớ quê.
Đỉnh Thứu gió lạnh thổi lùa qua
Long hà[46] nước xiết cuồn cuộn chảy.
Sáng nghe lòng vui, ngày qua ngày
Bất giác tuổi già, năm lại năm.
Kì sơn đã đến
Bổn nguyện thật khó, cũng trọn thành
Thỉnh được chân kinh về cố quận.
Chú thích:
[1] Nước Tam-ma-đát-trá 三摩呾吒國 (S: Samatgta): thuộc Đông Ấn Độ, rộng hơn ba nghìn dặm, nằm gần biển, đất đai ẩm thấp. Người nước này thân hình thấp, nước da đen; tính khí chính trực, dũng cảm.
[2] Sông Tương 湘川 (Cg: Tương giang): tên một sông lớn ở Trung Quốc, bắt nguồn từ tỉnh Quảng Tây, chảy qua tỉnh Hồ Nam.
[3] Núi Hoành 衡嶺: xưa gọi là Nam nhạc, một trong năm núi lớn ở Trung Quốc, nằm phía nam tỉnh Hồ Nam.
[4] Hợp Phố 合浦: một quận xưa của Trung Quốc, nay thuộc Quảng Tây.
[5] Tiên uyển 僊宛 (Gđ: Tiên nhân Lộc dã uyển; Cg: Lộc lâm): vườn Nai, thuộc nước Ba-la-nại, Trung Ấn Độ, nơi Đức Phật thuyết pháp tứ đế độ năm anh em Kiều-trần-như ngay sau khi thành đạo. Nơi đây là chỗ cư ngụ của các tiên nhân, nên có tên Tiên uyển.
[6] Am viên 菴園 (Gđ: Am-la thụ viên): vườn xoài, do vương phi của vua Tần-bà-sa-la, nước Ma-kiệt-đà hiến cúng Phật.
[7] Thạch Cừ, Kim Mã 石渠, 金馬: những nơi này lưu chứa kinh sách thánh hiền. Ở đây chỉ việc sư học tập về thế học.
[8] Bách thị 百氏: chỉ những nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc lúc bấy giờ.
[9] Tam kinh 三經: ba bộ kinh sách của Nho gia: kinh Dịch, kinh Thi, Xuân Thu.
[10] Tam giang 三江: từ thời xưa gọi chung cho những vùng có nhiều đường thủy.
[11] Thất trạch 七澤: bảy ao hồ. Tương truyền, thời xưa nước Sở có bảy vùng có ao hồ; về sau, dùng chỉ chung cho các ao hồ ở nước Sở. Ở đây, ý chỉ khắp nơi.
[12] Tam Việt 三越: chỉ Ngô Việt, Mân Việt và Nam Việt. Nay có lẽ thuộc vùng duyên hải phía đông nam Trung Quốc
[13] Hoành nhạc 衡嶽; Cg: Hoành lĩnh.
[14] Kim Lăng 金陵: tức Nhuận châu, nay thuộc huyện Trấn Giang, tỉnh Giang Tô.
[15] Tung Hoa 嵩華: gọi chung Tung sơn và Hoa Sơn.
[16] Thiếu Thất 少室: ngọn núi phía bắc huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, thuộc dãy Tung Sơn. Vào thời Bắc Nguỵ, Hiếu Văn Đế cho xây chùa Thiếu Lâm trên núi này.
[17] Tam xuyên 三川: ba con sông. Về Tam xuyên, các thuyết không đồng nhất với nhau; đời Tây Chu, chỉ cho Kinh thủy, Lạc thủy, Vị thủy; đời Đông Chu, chỉ cho Hoàng hà, Vị thủy, Y thủy.
[18] Trí Giả智者 (358-597): đức hiệu của đại sư Trí Khải, cao tăng Trung Quốc, sống vào đời Tùy. Vì là người khai sáng tông Thiên Thai, nên còn được gọi là Thiên Thai Trí Khải đại sư.
[19] Đạo Tuyên道宣 (596-667) (Cg: Đạo Tuyên luật sư): cao tăng Trung Quốc, sống vào đời Đường, người Ngô Hưng, Chiết Giang, Sơ Tổ của Nam Sơn Luật tông.
[20] Kim hoa 金華 (Gđ: kim-ba-la hoa): hoa sen màu vàng óng ánh như vàng ròng.
[21] Kim túc 金粟: lúa màu vàng óng ánh như vàng ròng.
[22] Tứ sự 四事: bốn việc: 1. Mặc; 2. Uống ăn; 3. Ngủ nghỉ; 4. Bệnh tật. Cúng dường tứ sự, tức cung cấp các nhu cầu cần thiết cho bốn việc này. Như đối với việc mặc thì cúng dường y phục, đối với việc ăn uống thì cúng thức ăn thức uống, đối với bệnh tật thì cúng dường thuốc men, đối với việc ngủ nghĩ thì cúng dường mền chiếu, phòng xá …
[23] Mạt-la-du 末羅瑜: tên một nước cổ thuộc vùng Nam Hải, nay thuộc bán đảo Mã-lai.
[24] Pháp tượng 法匠: bậc đạo cao đức trọng, thông hiểu kinh điển.
[25] Trần-na 陳那 (S: Dignàga): cao tăng Ấn Độ, sống vào khoảng thế kỉ V, VI. Ngài người nước Hương Chí, thuộc Nam Ấn Độ, dòng dõi Ba-la-môn; thông tuệ, có tài biện luận, chiết phục ngoại đạo, xiển dương giáo pháp, chuyên giảng các bộ luận nổi tiếng như Nhân minh, Câu-xá, Duy thức…
[26] Pháp Xứng 法稱 (S: Dharmakirti): đệ tử ngài Trần-na, dòng dõi Bà-la-môn, người Trimalaya, Ấn Độ. Ngài là một học giả nổi tiếng về Nhân minh học ở thế kỉ V, VI và là một luận sư lỗi lạc của phái Du-già.
[27] Huyền quan 玄關: chỗ vi diệu, sâu mầu của đạo.
[28] U kiện 幽鍵: then chốt sâu kín.
[29] A-cấp-ma 阿笈摩 (S: Āgama; Cg: A-hàm): chỉ những giáo thuyết được truyền thừa hoặc các thánh điển do gom tập các giáo thuyết ấy tạo thành sau khi Phật nhập diệt.
[30] Đây là hai lễ hội lớn vào mùa xuân ở vùng này. Khắp nơi xa gần, đạo tục đều tham dự lễ hội tắm cây bồ-đề. Vào thời gian này, trên đỉnh Thứu nở rộ nhựng bông hoa lớn bẳng bàn tay, rực rỡ sắc vàng kim, mọi người hái dâng lên cúng dường Phật. Hoa nở khắp núi rừng, người ở đây gọi là hoa xuân nữ.
[31] Chỉ hồ Mộc Chân.
[32] Chỉ vườn Trúc.
[33] Nhà lửa 火宅 (S: adīptāgāra): dụ cho ba cõi nhiều bức bách mà chúng sinh đang sống.
[34] Thất hải 七海: theo Phật giáo, có bảy lớp núi vàng bao quanh núi Tu-di, ở khoảng giữa các lớp núi ấy là tám biển lớn. Ngoài một lớp biển nước mặn thì bảy lớp biển còn lại đều chứa đầy nước tám công đức, gọi chung là Thất hải.
[35] Giữ phao 持囊: giới luật ví như phao nổi, đưa người qua biển lớn. Người muốn vượt biển sinh tử, phải giữ gìn cẩn thận phao giới luật.
[36] Giới châu 戒珠: giới luật thanh tịnh như viên minh châu trong sáng không tì vết, có thể trang nghiêm thân
[37] Tam kì 三祇 (Gđ: tam a-tăng-kì kiếp): chỉ thời gian tu hành rất lâu dài của bồ-tát để được thành Phật.
[38] Luận Câu xá chép: Vào thời quá khứ, có Đức Phật ra đời hiệu là Phất-sa. Ngài có hai vị đệ tử: Di-lặc, thích tu hạnh tự độ và Thích-ca, thích tu hạnh lợi tha. Đức Phật quán sát, thấy ngài Di-lặc sẽ thành Phật trước ngài Thích-ca chín kiếp, nhưng những chúng sinh có duyên với ngài Thích-ca, căn cơ đã thành thục hơn. Vì lợi ích độ sinh, Phật Phất-sa đã vào hang núi, phóng ánh sáng rực rỡ, khác lạ, khiến ngài Thích-ca vừa trông thấy liền khởi tâm ưa thích, bèn tiến vào hang. Trông thấy ánh sáng rực rỡ, ngài Thích-ca vui mừng, đứng kiễng một chân, đọc kệ tán thán Phật, suốt bảy ngày bảy đêm không gián đoạn, quên cả việc hạ chân xuống. Do sức tinh tấn này, Ngài đã thành Phật trước bồ-tát Di-lặc chín kiếp.
[38] Sáu độ 六度: sáu ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ.
[39] Kim Hà 金河: chỉ thành Câu-thi-na, nơi Đức Phật nhập diệt.
[40] Thạch thất 石室: chỉ nước Kiền-đà-la, thuộc Bắc Ấn Độ. Tương truyền, thuở quá khứ, khi còn hành hạnh bồ-tát, Đức Phật Thích-ca từng bố thí đầu cho người tại nước này.
[41] Đầu châm 投針 (Gđ: Đề-bà đầu châm): bồ-tát Đề-bà từ nước Sư Tử đến xin tranh luận với bồ-tát Long Thụ. Long Thụ từng nghe tiếng Đề-bà, bèn sai đệ tử bưng một bát nước đầy ra. Đề-bà nhìn bát nước, rồi lẳng lặng thả vào đó một cây kim. Khi người đệ tử mang bát nước vào trình, Long Thụ trông thấy liền khen: “Đây là bậc trí giả. Nước đầy trong bát ví với trí tuệ lớn lao của ta, vậy mà ông ta thả được chiếc kim vào đến tận đáy, quả là con người phi thường!”, bèn cho mời Đề-bà vào.
[42] Nữ loan 女巒: tên núi (chưa xác định ở nơi nào).
[43] Tam luân 三輪: ba đặc tính lưu chuyển ở thế gian, gồm: vô thường, bất tịnh, khổ.
[44] Thiên Thụ 天授: tức Đề-bà-đạt-đa.
[45] Long hà龍河(sông Rồng): tên gọi khác của sông Ni-liên-thiền. Vì sông này có rồng ở nên có tên như vậy.
THIỀN SƯ PHÁP CHẤN
Sư người Kinh châu, đức độ cao vời, chuyên tu phúc lành, rửa chân sóng thiền, đặt tâm biển giới. Sư được pháp lữ kính nể, xem như bậc thầy. Sư thường ở ẩn chốn núi sông, chuyên tâm đọc tụng kinh luật.
Về sau, vì muốn đỉnh lễ thánh tích nên sư có ý muốn sang Tây Thiên. Do đó, sư kết bạn đường với thiền sư Thừa Ngộ đồng hương và luật sư Thừa Như người Lương châu, cả hai đều là những vị thông đạt nội, ngoại điển, trí tuệ cao xa.
Cả ba vị rời Tam Giang, giương buồm tiến về phía trước, vượt sóng đến vùng Bắc Ha-lăng, đi qua nhiều đảo, tới được nước Yết-đồ. Không lâu sau, sư Pháp Chấn nhuốm bệnh rồi tịch; hưởng dương khoảng ba lăm, ba sáu tuổi. Do một người đã mất, hai sư còn lại thoái tâm, bèn quay thuyền về hướng đông, đến nước Giao Chỉ, rồi sang Chiêm-ba[1]. Có người từ Chiêm-ba đến kể rằng: “Sư Thừa Ngộ viên tịch tại nước này. Còn lại Thừa Như, sư bảo sẽ trở về cố hương”, nhưng không thuật chi tiết.
Tuy chí nguyện không thành, nhưng hạnh tốt đã đơm bông. Nhưng sao cả ba mà không một ai thành tựu!
SƯ ĐẠI TÂN
Sư người Lễ châu[2]; thuở nhỏ đã thấm nhuần đạo pháp; lớn lên tính tình thuần hậu, sống hạnh thiểu dục tri túc, chỉ khất thực nuôi thân.
Mong muốn đỉnh lễ thánh tích, ước nguyện đến được Vương thành, sư thường than rằng: “Đấng cha lành Thích-ca đã không được gặp, nay ta phải quyết diện kiến đức Từ Thị ở cung trời Đâu-suất. Nếu chẳng chiêm ngưỡng được cội bồ-đề, chưa đặt chân đến thắng tích sông Hằng, há ta có thể nhiếp tâm trước lục cảnh[3], chuyên lòng mà tu tập ư!”.
Vào niên hiệu Vĩnh Thuần[4] thứ hai, sư đến Nam Hải. Ban đầu, sư kết bạn đường với rất nhiều người, nhưng cuối cùng chỉ còn lại một mình, mang theo kinh tượng, đi cùng sứ giả nhà Đường. Thuyền đi hơn một tháng, đến nước Thi-lợi-phật-thệ[5] và dừng lại đây nhiều năm. Sư giỏi tiếng Côn Luân, thông đạt kinh Phạn, lại có giới hạnh thanh sạch, nên được cho thụ giới cụ túc.
Tịnh tôi gặp sư tại nước này, yêu cầu sư trở về Đại Đường, cầu thỉnh ân vua lập chùa ở Tây Thiên. Do thấy được lợi ích to lớn, nên không quản hiểm nguy, ngày mười lăm tháng năm, niên hiệu Thiên Thụ[6] thứ hai, sư theo thuyền vượt biển trở lại Trường An.
Hiện nay, sư đang giúp tôi dịch Tạp kinh luận, mười quyển; biên soạn Nam Hải kí qui nội truyện, bốn quyển; Tây Vực cầu pháp cao tăng truyện, hai quyển.
Khen rằng:
Giỏi thay tuổi nhỏ!
Một lòng mộ pháp.
Ở Đông Hạ lòng chí thành
Đến Tây Thiên chuyên tham học.
Trở lại đất Thần Châu
Vì chúng sinh lưu dấu.
Hoằng pháp truyền thập pháp[7]
Lưu mãi đến nghìn thu.
LUẬT SƯ TRINH CỐ
Sư họ Mạnh, người Vinh châu, đất Trịnh[8], tên Phạn là Bà-la-cấp-đa. Từ thuở ấu thơ, sư đã sớm đặt chí nơi cửa từ, để tâm nơi vườn tuệ. Tuổi vừa mười bốn đã gặp cảnh gian truân, nhận rõ cảnh phù du của cuộc đời, nhận chân sự cao thượng của Phật pháp, sư bèn phát tâm đến đạo tràng của pháp sư Viễn, chùa Đẳng Từ, vùng Phiếm Thủy[9]; hầu thầy cầu pháp, chuyên tâm nơi kinh giáo, đọc tụng các kinh điển Đại thừa. Sau vài năm, sư lại du hóa các nơi.
Về sau, sư đến các chùa ở vùng Lâm Lự, Tương châu(相州)[10] tìm thầy học đạo. Muốn chuyên tâm tu tập, nhưng tự nghĩ chưa thông giáo pháp, chưa thể phân biệt rõ thật hư, nên sư đến Đông Ngụy[11] tham học luận Duy Thức[12]; rồi lại đến chỗ thiền sư Đại Du, đất An châu học tập Phương đẳng[13]. Mới chỉ vài tuần, sư đã thấy được diệu tướng. Sư lại đến các chùa vùng Kinh châu, tham cầu thiện tri thức, mong học được những điều chưa từng nghe, rồi lại đến thụ học Di-đà thắng hạnh với thiền sư Thiện Đạo ở Tương châu((襄州).
Lúc ấy, sư mong bỏ cõi Ta-bà cấu uế, muốn đến nước An Dưỡng thanh tịnh, nhưng lại nghĩ: “Nếu chỉ tự độ thì tổn hoại hạnh bồ-tát. Tất cả các pháp đều do thức biến hiện, đâu chẳng phải là Tịnh độ”. Sư bèn đến chỗ thiền sư Trừng, chùa Khôi Giác, Hiện Sơn[14], ban đầu thụ học giáo pháp Tiểu thừa, sau dần thông cả Đại thừa. Thiền sư nghiên cứu sâu luật điển, đảm đương ngũ đức[15] của Thế Tôn đã ủy thác; thâm nhập kinh luận, nhận lĩnh tứ y[16] thời mạt pháp[17] mà giữ gìn; nước định lắng sâu, đạt bát giải[18] mà truyền tông; non tuệ cao vời, thực hành lục độ mà phân phái; ngũ trần[19] chẳng ô nhiễm, cửu não[20] chẳng kinh tâm; ngoài vượt tứ lưu[21], trong lắng tam định[22]. Tăng tục kính trọng, suy tôn thiền sư làm thầy. Được vua ban chiếu vời vào kinh thành, trụ tại Đông tự ở nước Ngụy, sư đứng đầu các vị đa văn. Khi ấy, sư mới ngoài hai mươi tuổi, nương thiền sư Trừng cầu thụ giới cụ túc. Chỉ mới một năm, sư đã thâu tóm cương yếu của luật tạng. Sau đó, sư đến chỗ thiền sư Tú ở An châu, lưu lại ba năm, chuyên tâm đọc văn sao của luật sư Đạo Tuyên[23]. Có thể nói, sư thưa hỏi thì cùng tột như Ưu-ba-li[24], thấu rõ toàn bộ văn nghĩa ngũ thiên[25]; lĩnh thụ thì trọn vẹn như tín nữ Tì-xá[26], thông hiểu then chốt của thất tụ[27]. Luật ghi: “Tỳ-kheo năm tuổi hạ mới được du phương học đạo”, sư chưa đủ mà đã sớm khế lí; “mười năm mới được lìa y chỉ”, sư chưa trọn mà đã hội đạo.
Luật sư Tú là đệ tử xuất sắc của luật sư Hưng ở quận Thục. Sau khi thụ giới cụ túc, sư đến Thục quận, học luật với hòa thượng Tú bốn năm, sau lại nương luật sư Đạo Tuyên ở Trường An để học luật. Đặt bát sữa tâm, như ngỗng chúa uống vào biết rõ dở ngon; dốc bình nước trí, như Trời Hoan Hỉ[28] khéo gìn trước sau. Suốt mười sáu năm miệt mài không lìa trượng thất, sư nghiên cứu tận tường các bộ luật, tham khảo nhiều nhà, cuối cùng đã lấy sớ giải của luật sư Thủ làm tông bổn. Về sau, sư rời Tam dương đến Bát thủy, rồi qua Hoàng châu hoằng hóa, báo ân nơi quê cha đất tổ; đến An châu xiển dương luật giáo. Các quan lại trong vùng đều vâng theo ý đạo, đúng như trong luật ghi: “Nơi nào có luật sư, nơi đó như có Ta không khác”.
Sư trụ tại chùa Thập Lực, hơn bảy mươi tuổi mới viên tịch.
Sư giới hạnh thanh sạch, trí tuệ cao siêu. Ôi! Đời có người này làm rường cột thì mặt trời Phật pháp được truyền nối không dứt.
Thật là, châu sông Hán, ngọc núi Kinh[29], tuy sông núi có khác, nhưng châu ngọc đều đẹp như nhau. Cành quế nhành lan tuy khác mùa, nhưng hương tỏa ra đều thơm nức.
Đã thông luật điển, lại giỏi kinh luận, sư từng tụng kinh Pháp hoa, kinh Duy-ma cả nghìn biến, tâm tâm luôn đọc, niệm niệm thường trì, ba nghiệp chuyên nhất, bốn nghi[30] thường gìn.
Sư trở lại chỗ hòa thượng Thiện Đạo ở Tương châu, nghe lại Tô-đát-la[31], tham học Đối pháp tạng, tinh thông chỗ sâu mầu, như nhặt được châu trong chéo áo, biết rõ hóa thành[32] chỉ là nơi tạm nghỉ, bảo chử[33] mới là chốn nương về. Sau, sư rời Tương châu quay về Lô sơn, nương bậc cao đức mà làm sạch bụi trần, dừng tại chùa Đông Lâm[34] để nhàn chí.
Sư có ý đến nước Sư Tử đỉnh lễ xá-lợi răng Phật, chiêm bái các thánh tích. Vào niên hiệu Thùy Củng, sư sang Quế Lâm, vân du khắp nơi, tùy duyên giáo hóa; dần dần đến trụ tại Giáp cốc vùng Thanh Viễn, những người cùng chí hướng đồng tìm đến.
Về sau, sư đến Quảng phủ ở Phiên Ngung, pháp đồ thỉnh dạy luật điển. Thời Đại Đường, vua đặt lệ tam sư[35], hầu mong ánh mặt trời Phật mãi sáng soi, con thuyền pháp luôn vững tiến; mà oai nghi tức là giới luật. Vì thế, sư được đại chúng thỉnh giảng luật điển tại đạo tràng Tam Tạng. Trải qua chín hạ, hoàn tất bảy thiên, sư nhiệt tâm dạy bảo đệ tử gia xuất và giáo hóa người đời. Bấy giờ, xà-lê[36] Cung ở chùa Chế Chỉ[37] mỗi khi đăng tòa, đều tự xiển dương giới luật, có thể nói khéo chỉ dạy cho người, cứu độ quên cả mệt nhọc. Xà-lê là người đồng chân[38] xuất gia, đạo cao đức trọng, tuổi ngoài bảy mươi, kính giữ giới luật. Người có phúc mới có thể gặp được bậc thượng trí này. Thật là, ao thiền mênh mông chảy vào biển pháp mà cuộn sóng, non tưởng[39] vòi vọi dẫn lên đỉnh tuệ mà vút cao.
Xà-lê thông suốt gốc huyễn, hiểu thấu nguồn tâm; tuy rõ “thể” các pháp là không, nhưng “dụng” lợi lạc quần sinh vẫn khắp, tạo phúc hữu vi, làm phương tiện cho đạo vô thượng. Xà-lê lại thường sao chép kinh tạng, lo liệu việc ăn mặc của tăng chúng; thật cũng là thiện tri thức của mọi người, tùy duyên cảm hóa quần sinh. Xà-lê luôn khuyến khích mọi người siêng học luật điển.
Sư đã gặp được pháp lữ, luận đàm về giới luật, rồi quay trở về Giáp cốc, mong gởi thân nơi non vắng, lại được trọn chí ẩn tu. Sư được tự chủ Khiêm xem sư như khách quí. Tự chủ đạo vượt mọi người, lòng nhân từ độ lượng, tiếp chúng bốn phương, tháng năm chẳng mỏi mệt; hạ mình tôn người, lời lẽ khiêm cung.
Sư có ý dừng tâm chốn sơn môn, lại nuôi chí xây đường hành lang lớn thông đến chính đạo, tạo bậc thềm giải thoát để sửa nền tà; đào ao xẻ núi, mong dẫn dòng bát giải trong mát; khai mở đàn giới, muốn xiển dương giới luật thanh qui. Sư định xây một thiền phòng nhỏ phía sau giới đàn, lập đạo tràng Phương đẳng tu Pháp hoa tam-muội; nghi thức bố-tát y theo cương điều. Việc tuy chưa thành nhưng lòng đã quyết. Sư thường than rằng: “Trước chưa gặp đức Thích-ca, sau chưa thấy đức Từ Thị, thời mạt pháp này phải khởi hạnh[40] thế nào đây?”. Sư mãi phân vân giữa lí có-không, đắn đo trước pháp môn của các bậc thầy.
Nghĩa Tịnh tôi từ cửa biển ở Phật-thệ, đem theo thư làm tin, đi nhờ thuyền về Quảng châu, tìm giấy mực để chép kinh Phạn, và chi phí vận chuyển.
Bấy giờ, trời thuận gió, các thương nhân liền giương buồm ra khơi. Buồm căng gió đẩy thuyền đi nhanh, dầu muốn dừng cũng không thể. Thế mới biết, sức nghiệp dẫn dắt, người chẳng định được.
Đến ngày hai mươi tháng bảy, niên hiệu Vĩnh Xương thứ nhất[41], thuyền về tới Quảng phủ, tôi gặp lại bạn bè tăng tục xưa.
Tôi than với chúng tăng tại chùa Chế Chỉ rằng: “Bổn nguyện sang Tây Vực là mong chính pháp được lưu truyền đến quê nhà, nay quay về Hải Nam[42], mà kinh điển vẫn chưa đủ, tôi có mang về hơn năm mươi vạn bài tụng trong ba tạng, nhưng đều để tại nước Phật-thệ, cần phải đem về. Nay tuổi đã ngoài năm mươi, tôi lại phải một phen vượt biển, vì thời gian trôi nhanh, thân mạng khó giữ, nếu vô thường chợt đến, biết giao phó cho ai? Kinh điển là yếu môn của Phật pháp, ai có thể theo tôi mang về, vừa phiên dịch, vừa lĩnh thụ yếu chỉ? Tôi rất cần những người như vậy”
Đại chúng đều thưa: “Cách đây không xa, có sư Trinh Cố; từ lâu đã nghiên cứu luật tạng, sớm chứa lòng chí thành. Nếu được người này, đó sẽ là bạn đường tốt của ngài”. Vừa nghe qua, dường như hợp ý nguyện, tôi bèn thảo một lá thư gởi lên núi, lược nói hành trình sẽ đi. Xem qua, sư liền có ý đồng hành. Ví như, bắn một mũi tên vào Liêu Thành, hạ được hùng tâm của ba quân tướng sĩ[43]; cầu một bài kệ ngắn nơi Tuyết sơn, khơi mở chí lớn của bậc Đại sĩ[44]; thế là, sư bằng lòng rời suối vắng, vui vẻ bỏ rừng sâu, phấn chấn đến Thạch Môn, quyết chí vào Chế Chỉ. Mới gặp nhau, cả hai đã cảm thấy như thân thiết từ lâu; vừa chào hỏi, lòng đây kia tựa hợp tự bao giờ. Tuy trước nay chưa được gặp, mà cả hai như đã ngầm khế hợp từ lâu, cùng luận việc thâu đêm. Sư bảo: “Đạo muốn hội hợp, không cần dẫn tiến mà vẫn thân gần; thời sắp đến, dẫu ngăn cản cũng chẳng thể được, chỉ xin được cùng góp sức hoằng dương tam tạng, phụ thắp sáng nghìn ngọn đèn vậy!”.
Thế là, sư quay về núi Giáp, từ biệt tự chủ Liêm. Vị tự chủ vì thuận thời cơ mà đồng ý, không lưu giữ. Nghe sư thuật lại chí nguyện, mọi người đều tùy hỉ trợ giúp. Họ tự nghĩ không thể có được tâm nguyện độ sinh như sư, bèn gom góp hành lí cúng dường; tăng tục ở Quảng phủ cũng tặng nhiều tư lương.
Ngày một tháng mười một năm ấy, rời Phiên Ngung, cả hai theo thuyền buôn đến Chiêm-ba, tiến thẳng sang Phật-thệ. Sư làm thềm thang cho quần sinh, làm chiếc thuyền trong biển dục, lòng vui giữ mãi bản hoài, quyết không nửa chừng bỏ dở. Năm ấy sư khoảng bốn mươi tuổi.
Khen rằng:
(Giai đoạn một)
Bậc trí tu hành
Đã sẵn túc nhân
Tuổi thơ tâm sáng
Chỉ phúc là thân.
Tâm cầu thắng kỉ
Ý sáng lòng nhân
Chẳng ham danh lợi
Quí trọng người hiền.
(Giai đoạn hai)
Thụ trì diệu điển
Tuệ vững, ý bền
Tâm thuần, lòng thiện
Lỗi nhỏ cũng e.
Xuất tục bản hoài
Chẳng màng phú quí.
Khi ở, không khiếm khuyết
Như trâu li mến tiếc đuôi.
Lúc đi, không hoang phí
Như ong không làm tổn sắc hương.
(Giai đoạn ba)
Đơn thân từ giã Huỳnh Trạch[45]
Lẻ bóng tìm đến Hán Âm[46]
Tham cầu bậc trí
Nghiên tầm luật nghi
Đã rõ cương lĩnh
Lại đạt ý huyền.
Đặt lòng nơi Giác thụ
Chống gậy đến Quế lâm
(Giai đoạn bốn)
Dưỡng tâm tại núi Giáp
Giáo hóa ở Quảng châu
Không bao lâu!
Tìm bản xưa nơi Đông Hạ
Thỉnh kinh mới về Hải Nam.
Muốn tuyên dương giáo pháp chưa tuyên
Mong truyền lưu kinh điển chưa truyền
Vui mừng, bậc chí lớn
Vì mọi người xả thân.
(Giai đoạn năm)
Làm bạn tốt của ta
Cùng hướng đến Kim châu[47].
Phạm hạnh thật vững chắc
Nhờ sức của bạn lành
Dùng xe thuyền cứu giúp
Tình đệ huynh tựa nương.
Ví được hợp chí nguyện truyền đăng
Chẳng thẹn trăm năm sống trên đời.
(Giai đoạn sáu)
Đến Phật-thệ, đúng nguyện xưa
Nghe được pháp chưa từng nghe
Thấy được điều chưa từng thấy.
Kinh vừa dịch, tâm liền lĩnh hội
Tra cứu kĩ những chỗ thông, tắc
Thấy được điều mới lạ.
Khéo rõ được những điểm mở, ngăn
Nên biết rộng hiểu nhiều.
Buổi sáng tâm vui nghe đạo
Thường cung kính siêng năng.
Chẳng lo buổi chiều mạng hết
Ngại chúng nhiều, việc bận.
Thích vắng lặng mà lợi sinh.
Nhen một ngọn lửa bừng
Thắp nghìn đèn sáng mãi.
Chú thích:
[1] Chiêm-ba 瞻波 ( Cg: Lâm-ấp 林邑, Chiêm-thành): một nước cổ ở vùng Nam Hải, nằm về phía nam của Giao Chỉ.
[2] Lễ châu 澧州: nay thuộc tỉnh Hồ Nam.
[3] Lục cảnh 六境: sáu cảnh trần, gồm: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
[4] Vĩnh Thuần 永淳: niên hiệu Đường Cao Tông (2/682-11/683).
[5] Thi-lợi-phật-thệ 尸利佛逝: tên khác của nước Thất-lợi-phật-thệ.
[6] Thiên Thụ 天授: niên hiệu Vũ Hậu đời Đường (9/690-3/692).
[7] Thập pháp 十法: mười pháp. Theo kinh Đại thừa Thập pháp, nếu bồ-tát thành tựu 10 pháp này thì liền trụ Đại thừa: 1. Thành tựu chính tín; 2. Thành tựu hạnh; 3. Thành tựu tính; 4. Nhạo bồ-đề tâm; 5. Nhạo pháp; 6. Nhạo quán chính pháp; 7. Hành ư chính pháp cập thuận pháp; 8. Viễn li mạn, ngã mạn đẳng sự; 9. Thiện hảo thông đạt chư vi mật ngữ; 10. Bất nhạo thanh văn cập duyên giác. Ở đây chỉ cho Phật pháp.
[8] Nay thuộc tỉnh Hà Nam.
[9] Phiếm Thủy 氾水: nay thuộc huyện Trung Mâu, tỉnh Hà Nam.
[10] Tương châu 相州: nay thuộc tỉnh Hà Bắc.
[11] Đông Ngụy 東魏: nay thuộc tỉnh Hà Bắc.
[12] Duy thức 唯識: 10 quyển, do 10 đại luận sư soạn, ngài Huyền Trang dịch, được xếp vào Đại chính tạng, tập 31.
[13] Phương đẳng 方等: theo tông Thiên Thai, “phương” là phương chính, “đẳng” là bình đẳng. Theo nghĩa này, phương đẳng là tên chung của hết thảy kinh điển Đại thừa.
[14] Hiện sơn 峴山 (Cg: Hiện Thủ sơn峴首山): núi nằm phía nam huyện Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc.
[15] Ngũ đức 五德: năm đức của giới sư: 1. Trì giới; 2. Đủ mười tuổi hạ; 3. Hiểu luật tạng; 4. Thông thiền định; 5. Trí tuệ thấu hiểu lí huyền diệu.
[16] Tứ y 四依 (Cg: tứ y pháp): bốn hành pháp làm chỗ y chỉ của bậc thượng căn lợi khí, là duyên để nhập đạo:
1. Mặc y phấn tảo.
2. Thường đi khất thực.
3. Ngồi dưới gốc cây.
4. Dùng hủ lạn dược (các dược liệu người ta bỏ đi không dùng đến).
[17] Mạt pháp 末法: thời đại Phật pháp suy đồi, người học Phật pháp thì nhiều, nhưng không có người chứng ngộ.
[18] Bát giải 八解 (Cg: bát giải thoát): tám loại thiền định giúp chúng sinh xả li phiền não trong ba cõi:
1. Trong có tưởng về sắc dục, quán các sắc để giải thoát
2. Trong không có tưởng về sắc dục, ngoài quán sắc giải thoát
3. Thân thanh tịnh, an trụ đầy đủ giải thoát
4. Vượt các sắc tưởng diệt hữu đối tưởng, không suy nghĩ mọi cái tưởng, nhập vào Không vô biên xứ, an trụ đầy đủ giải thoát.
5. Vượt tất cả Không vô biên xứ, nhập Thức vô biên xứ, an trụ đầy đủ giải thoát
6. Vượt qua tất cả Thức vô biên xứ, nhập vào Vô sở hữu xứ, an trụ đầy đủ giải thoát
7. Vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ đầy đủ giải thoát
8. Vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào tưởng thụ diệt, thân tác chứng trọn vẹn, an trụ tròn đầy giải thoát.
[19] Ngũ trần 五塵: năm cảnh, gồm: 1.Sắc,; 2. Thanh; 3. Hương; 4. Vị; 5. Xúc. Do năm cảnh này làm nhiễm ô chân tính, nên gọi là trần.
[20] Cửu não九惱 (Cg: cửu nạn, cửu tội báo): chín tai nạn mà Đức Phật dù đã thành đạo vẫn phải trả quả báo do nhân ác đã tạo nhiều đời trước:
1. Sáu năm khổ hạnh
2. Bị vu báng đã giết nàng Tôn-đà-lợi
3. Bị cọc đâm chân khi đi khất thực
4. Bị bà-la-môn A-kì-đạt-đa cho ăn lúa ngựa
5. Bị nhức đầu dữ dội
6. Có lần vào thôn xóm khất thực, không được ai cúng dường
7. Bị nàng Chiên-già độn bụng vu oan, phỉ báng
8. Bị giá lạnh suốt tám ngày.
9. Bị Đề-bà-đạt-đa xô đá, làm ngón chân cái chảy ít máu.
[21] Tứ lưu 四流: : bốn pháp khiến các loài hữu tình trôi lăn trong ba cõi, gồm:
1.Kiến lưu: kiến hoặc trong ba cõi.
2.Dục lưu: tất cả các phiền não trong cõi Dục.
3.Hữu lưu: tất cả phiền não của cõi Sắc và Vô sắc.
4.Vô minh lưu: vô minh trong ba cõi.
[22] Tam định 三定: ba thứ định, gồm: 1. Hữu tầm hữu tứ; 2. Vô tầm duy tứ; 3. Vô tầm vô tứ.
[23] Luật sư Đạo Tuyên 宣律師: cao tăng Trung Quốc, sống vào đời Đường, họ Tiền, người Ngô Hưng, tỉnh Chiết Giang, sơ tổ của Nam Sơn Luật tông. Sư có các tác phẩm văn sao như: Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao (12 quyển), Thập tì-ni nghĩa sao (6 quyển), Tì-kheo-ni nghĩa sao (6 quyển).
[24] Ưu-ba-li優波離 (S: Upāli): một trong mười đệ tử lớn của Phật, là vị trì luật đệ nhất.
[25] Ngũ thiên五篇 (Cg: ngũ phạm tụ): năm khoa mục lớn của giới luật, gồm: 1. Ba-la-di; 2. Tăng tàn; 3. Ba-dật-đề; 4. Ba-la-đề-đề-xá-ni; 5. Đột-kiết-la, bao gồm hai trăm năm mươi giới của tì-kheo và ba trăm bốn mươi tám giới của tì-kheo-ni.
[26] Tì-xá 毘舍 (Cg: Lộc Tử Mẫu): vị ưu-bà-di đắc Sơ quả, sống vào thời Đức Phật còn tại thế, con gái của trưởng giả nước Ương-già, là người cúng dường tài vật để xây dựng giảng đường Đông Viên Lộc Mẫu dâng cúng Phật cùng các đệ tử.
[27] Thất tụ 七聚 (Cg: thất phạm tụ): bảy nhóm tội, tức đem tướng phần của phạm tội chia làm bảy nhóm, gồm: 1. Ba-la-di; 2. Tăng-già-bà-thi-sa; 3. Thâu-lan-giá; 4. Ba-dật-đề; 5. Ba-la-đề-đề-xá-ni; 6. Đột-kiết-la; 7. Ác thuyết.
[28] Trời Hoan Hỉ歡喜天 (S: Nandikeśvara): vị thần có sức chướng ngại và phá trừ chướng ngại.
[29] Châu sông Hán, ngọc núi Kinh (Hán châu Kinh ngọc 漢珠荊玉): chỉ châu Tùy Hầu đời Hán và ngọc Hòa Thị nước Triệu, là hai viên ngọc được xem là vật vô giá trong thiên hạ.
[30] Bốn nghi (tứ nghi 四儀): bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi.
[31] Tô-đát-la蘇怛羅 (S: sūtra; Hd: khế kinh): từ gọi chung kinh điển.
[32] Hóa thành 化城: thành do biến hóa mà có, một trong bảy dụ của kinh Pháp hoa, dụ cho niết-bàn của hàng Nhị thừa.
[33] Bảo chử 寶渚: cồn bãi quí báu, dụ cho Niết-bàn cứu cánh; đồng với từ “bảo sở” trong kinh Pháp hoa.
[34] Chùa Đông Lâm (Đông Lâm tự東林): nay thuộc Lô sơn, tỉnh Giang Tây.
[35] Tam sư 三師: khi thụ giới cụ túc, phải thỉnh tam sư chứng minh, tức là giới hòa thượng, yết-ma hòa thượng và giáo thụ hòa thượng.
[36] Xà-lê 闍梨 (Gđ: A-xà-lê; Hd: quĩ phạm sư): bậc thầy dạy dỗ tăng chúng, bậc mô phạm để tăng chúng noi theo.
[37] Chùa Chế Chỉ 制旨寺: ở Quảng Châu, do sa-môn người Kế-tân xây dựng vào năm 362.
[38] Đồng chân 童真: tuổi ấu niên.
[39] Non tưởng 想嶺: chỉ đỉnh cao của sự quán tưởng.
[40] Khởi hạnh 起行: những hạnh được phát khởi bằng ba nghiệp thân, miệng, ý.
[41] Vĩnh Xương thứ nhất (Vĩnh Xương nguyên niên 永昌元年): niên hiệu triều Vũ Hậu (689).
[42] Hải Nam 海南: một hòn đảo lớn nằm phía nam Trung Hoa, thuộc địa phận tỉnh Quảng Đông.
[43] Tích “Liêu Thành nhất tiễn”: Thời Chiến Quốc, nước Tề bị nước Yên đánh, chiếm hơn bảy mươi thành.Tướng Tề muốn đánh chiếm lại Liêu Thành (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), nhưng kéo dài một năm vẫn không hạ được. Về sau, Lỗ Trọng Liêm, người nước Tề, đã viết một phong thư buộc vào đuôi tên, bắn vào thành, khuyên tướng Yên lui binh. Tướng nước Yên xem thư, vui vẻ rút binh. Nước Tề được giải vây.
[44] Theo kinh Niết-bàn, Tuyết Sơn Đại sĩ (tiền thân Đức Phật Thích-ca), vì tha thiết cầu nửa bài kệ sau (Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc.), đã đồng ý cho La-sát (hóa thân của trời Đế Thích) ăn thịt mình để đổi nghe nốt bài kệ.
[45] Huỳnh Trạch滎澤: tên một hồ lớn, thuộc địa phận tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.
[46] Hán Âm 漢陰: tên một huyện, thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc.
[47] Kim châu 金洲: một nước cổ, nay thuộc huyện An Khang, tỉnh Thiểm Tây.