Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 21 Đến Phẩm 30

Tùy Xà Na Quật Đa dịch

Bản Việt dịch của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

***

Phẩm 21: BỎ VƯƠNG CUNG XUẤT GIA

Thuở ấy Thái tử ở trong cung, ban đêm ngủ có một quan phụ trách việc bảo vệ cung điện bảo các lính tuần canh:

-Này các ngươi, khi tuần hành canh giữ, mỗi người phải nói câu “Kim-tỳ-la” (nhà Tùy dịch là đáng sợ), hoặc nói câu “Mục-đế-la” (nhà Tùy dịch là thoát ra), hoặc nói câu “Ương-già-na” (nhà Tùy dịch là bên trong ra), các ngươi phải luôn luôn có mặt ở đây.

Đám người tuân hành trả lời:

-Dạ vâng, chúng tôi luôn ở nơi đây.

Quan đại thần lại nói:

-Tất cả các người cần phải canh giữ cẩn thận! Tất cả các người cần phải canh giữ cẩn thận! Từ đêm nay trở về sau, các người canh gác, hoặc ở trên đất liền, hoặc ở dưới nước, hoặc ở trên cây, hoặc ở trong hang, hoặc ở bên hóc núi, hoặc ở bên phòng nhà, hết thảy đều mỏi mệt nên thích ngủ nghỉ. Này các ngươi, đêm nay canh giữ phải cầm khí giới cùng nhau giữ các cửa ngõ trong cung điện, cần phải ra sức ân cần canh gác tất cả mọi người đều phải chia nhau canh gác không được ngủ nghỉ. Vì cớ gì Đại vương ra lệnh nghiêm ngặt như vậy? Vì Đại vương sợ Thái tử bỏ hoàng cung này mà đi xuất gia. Vì theo lời dự đoán của quốc sư A-tư-đà, nếu giữ được Thái tử ở trong cung, thì chắc chắn Thái tử sẽ làm Chuyển luân thánh vương thống trị bốn châu thiên hạ.

Đại thần nói như vậy rồi, qua phần đầu hôm, đến phần nửa đêm người điểm canh lớn tiếng hô lên: “Đại thánh chúng ta tôn vinh muôn thuở! Nguyện Đại thánh chúng ta an ổn sống lâu muôn đời.”

Phần đầu hôm qua rồi, bước sang phần nửa đêm, đồng hồ báo chưa được nửa đêm, có chư Thiên cõi trời Tịnh cư giáng xuống thành Ca-tỳ-la, lúc ấy dân chúng trong thành đều mê man chìm lặng trong giấc ngủ, trên từ Đại vương Tịnh Phạn, các cận thần tả hữu, dưới cho đến tên lính canh chuồng ngựa Thái tử cùng các hạ thần, thể nữ, hết thảy đều mê man mỏi mệt ngủ say.

Trong Thiên chúng có một Thiên tử tên là Pháp Hạnh đến nội cung dùng sức thần thông khiến cho đồ phục sức trên thân các thể nữ xệch xạc không ngay thẳng; hoặc có nàng áo trịch xuống khỏi vai mà không sửa lại, hoặc có nàng chống tay vào cằm vào má mà ngủ, hoặc có nàng buông đàn không hầu rồi tựa lên đó mà ngủ, hoặc có nàng hai tay ôm lấy chiếc trống mà ngủ, hoặc có nàng ở bên trong nắm song cửa sổ để lộ bán thân mà ngủ, có những nàng hai tay ôm choàng nhau mà ngủ, hoặc có nàng mắt không khép kín, để lộ hai tròng mắt như nhìn sững mà ngủ, hoặc có nàng nằm lăn lộn trên chuỗi anh lạc mà ngủ, hoặc có những cung nữ hình dung đoan chánh, từ xưa đến nay đầy đủ lễ phép, biết xấu hổ, tất cả các hạnh đều được vẹn toàn, nay vì do ngủ say nên đến nỗi hạ phong ra tiếng, tiểu dầm hơi thối nồng nặc mà không hay biết; hoặc có nàng chuỗi anh lạc tuột khỏi thân, hoặc có nàng buông vãi các tràng hoa, hoặc tháo bỏ y phục, trợn mắt mà ngủ giống như tử thi không khác, người ngoài nhìn vào không ngờ là người sống, hoặc có nàng nằm ngửa, sải tay chân, miệng há to mà ngủ; hoặc có nàng nằm loạn không biết đầu đuôi, nằm lộn ngược bên cạnh người khác mà ngủ; hoặc có nàng hai tay lòn dưới bắp vế ôm chặt mà ngủ; hoặc có nàng thân rung động như người say rượu tựa vào vách mà ngủ; hoặc có nàng gục đầu mũi dãi lòng thòng mà ngủ; hoặc có nàng ngồi xổm co cổ mà ngủ; hoặc có nàng khuôn mặt nhợt nhạt tái mét trông rất xấu xí mà ngủ; hoặc có nàng cổ mang trống cơm dây lòn qua nách mà ngủ; hoặc có nàng dùng đàn không hầu gác trên cổ mà ngủ; hoặc có nàng gục đầu, mớ mà ngủ; hoặc có nàng phóng đồ bất tịnh đại tiện mà ngủ; hoặc có nàng nằm úp mặt như tử thi ở giữa gò mả mà ngủ.

Bấy giờ Thái tử bỗng nhiên thức dạy, qua ánh sáng cực kỳ sáng chói của các cây nến hay bó đuốc to bằng nắm tay hay cánh tay lớn thắp khắp mọi nơi trong cung. Ngài thấy các thể nữ nằm ngủ như vậy, có nàng cầm các nhạc cụ như: chập chõa, sênh, đàn sắc, đàn cầm, kèn, ổng tiêu, đàn tỳ bà, ống địch, tù và… có nàng há miệng nước miếng đóng thành bọt trắng, hoặc có nàng nước mũi dãi nhiễu dòng. Thái tử thấy những cảnh tượng như vậy đâm ra suy nghĩ: Hình dung phụ nữ chỉ như thế thôi, thể hiện những cảnh bất tịnh tồi tệ, có gì đáng cho ta tham ái, phấn son tô điểm bên ngoài cùng các đồ nữ trang: chuỗi anh lạc, y phục, tràng hoa, vòng xuyến trang điểm giả tạo ngoài thân. Đối với người ngu si không biết thì bị nó lừa gạt, thấy nữ sắc vọng sinh tâm ái dục. Đối với người có trí tuệ chánh niệm quán sát thân thể phụ nữ, thể tánh của nó là như vậy, hoàn toàn không có chủ tể giống như giấc mộng, như trò huyễn thuật. Lẽ ra đối với nữ sắc không có người sinh tâm phóng dật, nhưng vì do tâm niệm vô minh trói buộc nên mới đắm nhiễm. Rồi nói kệ:

Thế gian bất tịnh nhiều mê hoặc,

Không gì vượt hơn người phụ nữ,

Y phục nữ trang cùng điểm tô,

Người ngu thấy vậy sinh tham dục,

Kẻ trí quan sát như thế này,

Như huyễn như mộng không chân thật,

Gấp bỏ vô minh chớ buông lung,

Quyết được công đức thân giải thoát.

Lúc ấy, Thái tử lại chuyên tâm tư duy như thế này: “Ôi thôi thế gian đại hoạn! Ôi thôi thế gian đáng sợ, có gì đáng tham!” Thái tử đem lòng từ bi thương xót chúng sinh, rồi cất to tiếng khóc: Thế gian này ràng buộc, người ngu si giống như súc vật bị kẻ đồ tể giết hại sinh mạng; thế gian này bất tịnh, người ngu si không biết đem tâm vui thích, ví như chiếc bình đẹp vẽ vời bên ngoài mà bên trong chứa đầy phẩn tiểu; thế gian này giả tạm, người ngu si lặn hụp chìm đắm trong đó, như con voi già lun trong vũng bùn lầy; thế gian này ổ uế hôi thối, người ngu cho là ngon ngọt thơm tho, giống như con lợn nằm trong chuồng phân; thế gian này dối gạt, người ngu si không biết vội sinh tham đắm, như chó gặm đầu xương trắng; thế gian này tổn hại, người ngu si không biết chen nhau cạnh tranh, giống như con thiêu thân chen nhau nhào vào ngọn đèn đuốc; thế gian này độc hại, người ngu si không biết tham đắm vui thích, giống như cá trạnh nuốt lưỡi câu; thế gian này như hoa úa vàng, người ngu si không biết ưa thích thân cận, giống như loài hoa sông nơi ẩm ướt mà lại lìa khỏi nước rồi lại gặp sức nóng thiêu đốt của mặt trời; thế gian này mong manh, người ngu si không biết đi lại trên đó, giống như trâu già lún trong bùn sâu; thế gian này như đỉnh núi cao, người ngu si không biết sẽ rơi vào vực thẩm, giống như người mù từ đỉnh núi cao rơi xuống vực sâu; thế gian này tuần hoàn, người ngu si không biết lưu chuyển trong sinh tử, giông như bàn tay của người thợ gốm; thế gian này triền miên, người ngu si không biết bị nó ràng buộc, giống như chó bị xiềng xích không được tự do; thế gian này không tươi mát, người ngu si không biết bị lửa thiêu đốt, giống như cỏ mùa hạ bị sức nóng oi bức đốt khô; thế gian này suy thoái, người ngu si không biết một ngày nào đó sẽ bị tiêu diệt, giống như mặt trăng khuyết dần dần không còn; thế gian này không lợi ích, người ngu si không biết quả báo thiện căn hết rồi, như người thua cờ bạc tiền của chuyển về người khác.

Thái tử quán sát thân các thể nữ như vậy rồi lại tư duy: “Ta nay thấy rõ ràng như vậy, cần phải sinh tâm hoan hỷ dũng mãnh, siêng năng tinh tấn, tăng trưởng phước đức, phát thệ nguyện rộng lớn cứu giúp thế gian. Đối với kẻ không ai cứu giúp, ta làm người bảo vệ giúp đỡ; đối với người không ai nuôi dưỡng, ta làm người đỡ đầu; đối với những chúng sinh không nhà cửa, ta làm nhà cửa phòng xá cho họ. Ngày nay những bổn phận này đã hiện rõ trước mắt ta, với ý chí này thì chẳng bao lâu ta sẽ thành chánh quả. Vì cớ sao? Vì những thể nữ không biết xấu hổ đang ngủ say này.”

Lúc ấy vào khoảng nửa đêm, Thiên tử Tác Bình thấy Thái tử đã thức dậy, chậm rãi bước đến thưa Thái tử:

-Tâu Thái tử, thuở xưa ngài đã thành tựu đầy đủ các việc chân thật. Lại nữa, Thái tử lúc ở tại nhân gian phát tâm thế này: “Ta nguyện bỏ thân này sinh vào cung trời Đâu-suất, thưa Thái tử, nguyện ấy đã trải qua rồi. Lại nữa, khi Thái tử ở cung trời Đâu-suất, nguyện sinh xuống trần gian thọ sinh trong thai Thánh mẫu, nguyện ấy nay đã mãn. Khi ở trong thai ngài nguyện sớm xuất sinh, nguyện ấy cũng hoàn tất. Sinh rồi đồng tử khôn lớn trong cung tự do dạo chơi thọ hưởng dục lạc, nguyện ấy cũng đã thành tựu qua rồi. Khi tuổi đến hai mươi muốn siêng năng tập học kỹ nghệ, nguyện đó cũng viên mãn. Khi tuổi tráng niên muốn thọ thú vui dục lạc thế gian, nguyện đó đang thực hiện. Xin Thái tử chớ nên mải mê, ngày nay chư Thiên, nhân loại, cầu mong Thái tử xuất gia tu học Thánh đạo.

Thái tử nghe Thiên tử Tác Bình nói như vậy, liền mang đôi giày da làm bằng các loại ngọc quý, giá đáng tám ngàn ức cân vàng, xỏ vào chân rồi đứng dậy xoay nhìn chỗ ngồi của mình cùng với chiếc bảo sàng, lớn tiếng nói thế này:

-Đây là chỗ thân tối hậu của ta nằm thọ ngũ dục, từ nay mãi về sau sẽ không thọ ngũ dục nữa.

Lúc ấy, tay trái Thái tử vén tấm trướng lưới làm bằng các loại quý giá từ trong cung bước ra, chậm rãi cất bước. Ở trong nội điện vừa đi được một khoảng ngắn, ngài đứng chắp tay hướng về phương Đông, chú tâm niệm danh hiệu chư Phật rồi ngước đầu nhìn các vì sao trên hư không.

Bốn vị Đại thiên vương Hộ thế và trời Đế Thích biết giờ xuất gia của Thái tử sắp đến, nên từ cõi nước của mình sắm đầy đủ phẩm vật đến cúng dường.

Thiên vương Đề-đầu-lại-tra, lãnh chúa các bộ Càn-thát-bà cùng với tất cả quyến thuộc trăm ngàn vạn chúng, thứ tự trước sau đồng trỗi nhạc từ phương Đông kéo đến, đi quanh thành Ca-tỳ-la ba vòng trên hư không, rồi hạ xuống đất đứng sang một bên, hướng về Thái tử cung kính chắp tay cúi đầu.

Thiên vương Tỳ-lưu-lặc-xoa lãnh chúa các bộ Cưu-bàn-trà cùng với tất cả quyến thuộc trăm ngàn vạn chúng, thứ tự trước sau, tay bưng bảo bình đựng đầy nước hương thơm tuyệt diệu từ phương Nam kéo đến, đi quanh thành Ca-tỳ-la ba vòng trên hư không rồi hạ xuống đất đứng một bên, hướng về phía Thái tử cung kính chắp tay cúi đầu.

Thiên vương Tỳ-lưu-bác-xoa, lãnh chúa chúng long vương cùng với tất cả quyến thuộc trăm ngàn vạn chúng, thứ tự trước sau, tay cầm các thứ chuỗi chân châu tuyệt hảo, lại hiện ra các tảng mây bằng hương thơm, tảng mây bằng hoa cho đến tảng mây bằng ngọc quý, lại thổi làn gió thơm êm dịu, từ phía Tây kéo đến đi quanh thành Ca-tỳ-la ba vòng trên hư không, rồi hạ xuống đất đứng sang một bên, hướng về phía Thái tử, cung kính chắp tay cúi đầu.

Thiên vương Tỳ-sa-môn, lãnh chúa các bộ Dạ-xoa cùng với tất cả quyến thuộc trăm ngàn vạn chúng, thứ tự trước sau tay cầm hỏa châu hay đèn đuốc, hoặc cầm đuốc lớn cháy sáng rực rỡ, hoặc có Thiên chúng thân mặc áo giáp, tay cầm cung tên, giáo mác, dao gậy…từ phương Bắc kéo đến, đi quanh thành Ca-tỳ-la ba vòng trên hư không rồi hạ xuống đất đứng sang một bên, hướng về Thái tử cung kính chắp tay cúi đầu.

Thiên chúa Thích Đề-hoàn Nhân cùng với tất cả quyến thuộc chư Thiên trăm ngàn vạn chúng, theo thứ lớp trước sau đem theo tràng hoa, dầu phấn hương thơm, lại có chư Thiên cầm tràng phan bảo cái, hoặc có chư Thiên cầm chuỗi anh lạc tuyệt đẹp, từ cõi trời Đao-lợi kéo đến đi quanh thành Ca-tỳ-la ba vòng trên hư không rồi hạ xuống đất đứng một bên hướng về Thái tử cung kính chắp tay cúi đầu.

Thái tử xem khắp các phương rồi ngước lên quan sát các vì sao trên hư không và thấy bốn vị Đại thiên vương Hộ thế dùng các chuỗi anh lạc thật đẹp trang điểm trên thân, đầu đội Thiên quan tuần tự thứ lớp bước đi chậm rãi, cùng với các bộ chúng: Càn-thát-bà, Cưu-bàn- trà, Dạ-xoa và chúng Long vương. Mỗi bộ chúng gồm có trăm ngàn quyến thuộc vây quanh tả hữu, mỗi bộ chúng từ các phương: Đông, Nam, Tây, Bắc đến đứng theo phương của mình. Lại thấy có chúa trời Thích Đề-hoàn Nhân thống lãnh trăm ngàn quyến thuộc chư Thiên, thứ tự trước sau tụ tập che kín chung quanh, lại thấy sao Quỷ đã cùng với tháng tốt phù hợp.

Lúc ấy chư Thiên đều xướng to tiếng:

-Đại thánh Thái tử, nay đã nhằm ngày sao Quỷ, nay đã đến lúc, muốn cầu pháp tối thắng không nên ở nơi trần gian. Bậc vua tối thượng trong loài người, mau lên, giờ đã đến, xa lìa thế tục mà xuất gia.

Như vậy, tất cả chư Thiên hộ vệ hai bên đều xướng lên lời tán thán mau xuất gia, chớ nên ở thế gian.

Thái tử nhìn hư không suy nghĩ thế này: “Trong đêm nay thanh vắng, nhằm vào ngày sao Quỷ, từ dưới đất cho đến hư không chư Thiên đều hộ vệ, ngay lúc này ta quyết định không còn do dự, nên phải xuất gia.” Trong tâm Thái tử suy nghĩ như vậy rồi, liền kêu Xa-nặc con của tỳ nữ sinh cùng một ngày với Thái tử bảo:

-Này Xa-nặc, ngươi mau đến đây, chớ trái lệnh ta, ngươi nên mau thắng yên cương con ngựa Kiền-trắc đồng sinh một ngày với ta, dẫn đến trước đây cho ta, đừng để một người quyến thuộc họ Thích nào trong gia tộc ta nghe tiếng ngựa kêu.

Xa-nặc đứng bên Thái tử nghe lời sai bảo, rồi ngửa mặt nhìn lên bầu trời, nghĩ rằng bây giờ mới nửa đêm, tâm liền sinh nghi, cả người rùng mình, toàn thân lông tóc dựng ngược, lo sợ chẳng an, rồi tâu Thái tử:

-Tâu Thái tử, tại sao nửa đêm ngài sai tôi thắng yên ngựa con ngựa chúa Kiền-trắc làm gì? Hoặc có sự khủng bố gì chăng? Hoặc có việc cấp tốc gì chăng? Hoặc có kẻ thù địch chăng? Hoặc trong thành hay ngoài thành có việc lành dữ gì chăng?

Thái tử bảo Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, ta nay vội vã vì bị các khổ bức xúc như giặc thù khủng bố, ngươi sao biết được. Chỉ mau mau thắng yên cương con ngựa Kiền-trắc đồng sinh một ngày với ta, kịp thời đem đến đây.

Bấy giờ, Xa-nặc nghe Thái tử nói như vậy, trong tâm lo nghĩ: “Hiện giờ Thánh tử quyết định xuất gia không chịu ở nhà.” Nghĩ như vậy rồi, Xa-nặc cố ý cao giọng lớn tiếng thưa Thái tử với dụng ý để các thể nữ hay thức dậy, Xa-nặc thưa:

-Bạch Đại thánh Thái tử, Ngài luôn luôn biết việc làm đúng thời điểm, thời giờ thường thích hợp với mỗi việc, sao giờ này mà thái tử sai dắt ngựa? Nếu Thái tử muốn đi đến lâm viên dạo chơi thưởng ngoạn nơi chỗ tuyệt đẹp ấy thì đây chẳng phải lúc, sao lại dùng ngựa làm gì? Thưa Thánh tử, hiện giờ không có giặc thù, lại không có người phản nghịch làm loạn, bốn phương yên tịnh không có kẻ nhiễu nhương ly loạn, tất cả kẻ giữ biên cương không ai trốn thoát, oai đức của Thánh tử bao trùm khắp cõi đại địa, có một không hai, tại sao trong lúc nửa đêm, ngài lại cần dùng con ngựa chúa Kiền-trắc làm gì? Ngày nay Thái tử ở nơi cung điện này cùng các thể nữ sum vầy thọ hưởng khoái lạc, giống như đức chúa trời vui chơi trong vườn Hoan hỷ, khác nào như Thích Đề-hoàn Nhân cùng các ngọc nữ chư Thiên vây chung quanh. Thái tử ngày nay cũng vậy, ở trong cung điện, ngồi trên giường ngọc dùng đến ngựa làm gì? Xin Thánh tử yên tâm ở trong cung thưởng thức lời ca tiếng nhạc của trăm ngàn thể nữ.

Xa-nặc miệng thì nói những lời như vậy, tay thì nắm kéo tóc, chân thì đá vào thân thể nữ, khiến cho họ thức dậy, nhưng các thể nữ vì bị sức thần thông của chư Thiên nên không hay biết gì cả.

Lúc ấy thái tử tâm sinh lo lắng, sợ mọi người hay biết, nên dùng kệ nói nhỏ với Xa-nặc:

Xa-nặc đồng sinh ngươi phải biết

Ta xem cung nữ như mồ hoang

Giống tợ ruồi lằn nơi hố xí

Như cùng La-sát sống với nhau

Loạn xạ ngủ vùi đủ các hướng

Lại giống bọt nước khi thọ thai.

Xa-nặc ta thấy khổ ngũ dục

Tâm ta không muốn ở hoàng cung

Dạo chơi các phương ta chán nản

Vì thấy già, bệnh và tử thi

Xa-nặc mau đem ngựa Kiền-trắc

Ta nay quyết chí đi xuất gia.

Xa-nặc nghe lời phán quyết của Thái tử, giống như mãnh thú bị tên độc, hết sức khổ não to tiếng khóc bạch Thái tử:

-Ngày nay Ngài nỡ nào xa lìa tôn thân hay sao?

Thái tử đáp:

-Này kẻ hiền Xa-nặc, Ta nay muốn cầu quả tối thắng, thà xả bỏ tôn thân gia tộc, chớ để đến đời vị lai Ta cùng quyến thuộc bỏ mạng trong miệng của quỷ vô thường hay sao?

Rồi thái tử vì Xa-nặc nói kệ:

Ta nay vì cầu quả Niết-bàn

Rời xa thân tộc đi xuất gia

Vị lai tử thần cướp mạng sống

Mạng khi vào miệng quỷ không tha.

Xa-nặc nghe thái tử nói như vậy, lại ân cần thưa hỏi:

-Bạch Đại thánh thái tử, tất cả thế gian đều nói: “Thái tử nhất định làm Đại Chuyển luân vương”, tại sao Thái tử lại xa lánh?

Thái tử lại cắt ngang lời nói Xa-nặc:

-Ôi! Này Xa-nặc, ngươi không nên nói lời như vậy, trong đời quá khứ Ta đã từng ở nơi cung trời Đâu-suất tốt đẹp hơn cung điện trần gian này. Ta đã từng làm Thiên vương thống lãnh ba mươi ba tầng trời, lúc ấy Ta vẫn không thích thọ hưởng cảnh vui nơi ấy. Vì sao? Vì Ta thấy cảnh khổ sinh già bệnh chết, huống lại ngày nay ở nơi cõi nhân gian này. Ở cảnh giới nhân loại này, tuy thời gian thì ngắn mà sự đau khổ ô trược thì nhiều, ở vương vị cai trị thế gian, tuy tạm thời được tự do mà không thoát khỏi cảnh khủng bố của sinh, già, bệnh, chết. Hễ ai sống trong thế gian này đều bị sự thống trị của quỷ vô thường, nên các vị vua không thể tự do an lạc.

Xa-nặc lại thưa:

-Bạch Đại thánh Thái tử, tuy Thái tử không cần vương vị thế gian, nhưng đối với Đại vương Tịnh Phạn nay tuổi đã già, còn Thái tử đang độ thanh xuân, chớ nên để Đại vương khổ não.

Thái tử đáp:

-Này kẻ hiền Xa-nặc, Ta nay ở bên Đại vương sinh tâm ái kính. Như Đại vương yêu quý Ta, Ta cũng yêu quý Đại vương gấp bội lần. Đại vương có điều đặc biệt yêu mến thân tộc, Ta cũng không muốn xa cách thân tộc, Ta đối với thân quyến lại không có tâm tưởng gì khác, nhưng chỉ vì Ta kinh hãi lo sợ ở trong các cõi chịu cảnh khổ sinh tử, ngày nay muốn tìm đường giải thoát, nên nay Ta tạm xa lánh tình thân ân trọng đối với thân tộc để rồi đời vị lai thương mến cứu hộ quyến thuộc, lại trong đời vị lai khỏi bị xa lìa.

Xa-nặc bạch Thái tử:

-Tâm Thái tử đã quyết định rồi sao? cần kíp phải xuất gia hay sao?

Thái tử đáp:

-Này kẻ hiền Xa-nặc, Ta đã quyết định.

Xa-nặc lại hỏi:

-Bạch Thái tử vì cớ gì?

Thái tử đáp:

-Ta thấy cái khổ vô thường ở thế gian, ý Ta muốn chuyên tâm cầu tìm cảnh giới tốt đẹp hơn.

Xa-nặc lại thưa hỏi:

-Bạch Thái tử, vì nhân duyên gì Ngài tìm cảnh giới tốt đẹp?

Thái tử đáp:

-Giả sử trong thế gian này không có sinh già bệnh chết, không có cảnh yêu mến nhau mà bị xa lìa, không có cảnh ghét nhau mà phải gặp nhau, Ta được vương vị thọ hưởng các phước đức mà không bị cảnh vô thường, hoàn toàn là cảnh chân thật, bất cứ ai sinh trong loài người đều không bị cảnh ô trược. Nếu được như vậy, Ta có thể ở lại nơi đây an tâm hưởng lạc. Này kẻ hiền Xa-nặc, ngươi không nên trái ý Ta, Ta ra lệnh cho ngươi mau mau thắng yên cương con ngựa chúa Kiền-trắc đồng sinh một ngày với Ta.

Xa-nặc bạch:

-Y như lời Thái tử dạy không dám trái ý.

Xa-nặc nghe những lời quyết định của Thái tử, nên cũng biết được thâm tâm của Thái tử, tuy biết sắc lệnh nghiêm cấm của Đại vương Tịnh Phạn, nhưng nhờ thần lực chư Thiên gia hộ, nên Xa-nặc phát tâm hoan hỷ đi dắt con ngựa Kiền-trắc đem đến cho Thái tử. Nên có kệ:

Xa-nặc vì thần lực chư Thiên

Lệnh cấm Đại vương đành phải phạm

Cũng vì Bồ-tát bổn nguyện thành

Phát tâm dắt ngựa thắng yên cương.

Lúc ấy Xa-nặc tiến đến chuồng ngựa, đứng trước máng cỏ chụp lấy con ngựa Kiền-trắc, dùng vàng ròng làm dây cương với bảy thứ ngọc quý trang điểm, xuyên qua miệng ngựa dẫn ra khỏi chuồng, buộc riêng vào một trụ cọc, lấy bàn chải chải nhẹ trên lưng, rồi phủ lên mình bằng một lớp lụa mềm mại, tiếp theo đặt trên lưng một chiếc yên với hai bàn đạp đều làm bằng vàng, được đính vào bằng bảy thứ ngọc quý và cuối cùng phủ lên trên một màn lưới vàng. Ngựa được khớp yên cương, bàn đạp dây đai đều được chỉnh tề, liền dắt đến trước mặt Thái tử. Lúc ấy ngựa Kiền-trắc cùng sinh một ngày với Thái tử, từ xa trông thấy thân hình tráng kiện của Thái tử, hết sức vui sướng cất tiếng hí to, tiếng hí của ngựa chúa Kiền-trắc đáng ra nghe to đến nửa do-tuần, nhưng nhờ thần lực của trời Thủ đà hội và chư Thiên khiến tiếng ngựa tan biến trong những đám mây, vì sợ người ta nghe được làm cản trở việc xuất gia của Thái tử.

Bấy giờ Thái tử vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân liền lấy bàn tay phải mềm mại như màn lưới, với những ngón tay thon thon như những cánh sen, với màu đỏ hồng như tử kim, vuốt ve từ bờm đến lưng ngựa và ngài nói:

-Này ngựa Kiền-trắc, ngươi đồng sinh một ngày với Ta, Ta nay muốn cầu giáo pháp cam lộ, ngươi phải nỗ lực đưa ta đi một cách an toàn tốt đẹp, đừng để người trong hoàng thành hay được cản trở. Này ngựa Kiền-trắc, ngươi trong khi chiến đấu còn hết sức mình liều chết để thắng đối phương, huống ngày nay đi với Ta, ngươi phải hết sức khéo léo phò tá, để Ta đi tìm cái vui xuất thế gian. Vì cái vui thế gian chỉ là cái vui trong chốc lát, chẳng bao lâu nó trở về hoại diệt, cái vui lúc bấy giờ trở thành đại khổ não. Ta vì pháp mà ra sức, việc này rất gian nan. Ta nay vì tất cả chúng sinh thế gian mà xuất gia tu hành chánh đạo để tìm phương pháp giải thoát, ngươi khéo nỗ lực ra sức dũng mãnh phi đi thật nhanh. Ta nay xuất gia vì đem lại lợi ích to lớn cho tất cả chúng sinh thế gian trong đó có loài các ngươi.

Thái tử đứng trên đất, chánh niệm phát đại thệ nguyện: “Đây là lần cuối cùng ở tại gia Ta cỡi ngựa, từ nay trở đi không còn ngồi trên lưng ngựa như ngày hôm nay.” Phát nguyện rồi, liền nắm dây cương nhảy lên mình ngựa Kiền-trắc, ngài ngồi trên yên lại nói với ngựa Kiền-trắc một lần nữa: “Này ngựa Kiền-trắc, ngươi nỗ lực chở Ta, đây là lần chở cuối cùng, Ta nay vì làm điều lợi ích cho chư Thiên dân chúng thế gian, nên phát tâm xuất gia.”

Khi Thái tử ngồi trên lưng ngựa chúa Kiền-trắc thì cũng có tất cả chúng A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, La-sát, chư Thiên cõi Địa cư, chư Thiên cõi Thủ đà hội, chư Thiên cõi A-ca-nị- tra… đồng đi theo ngựa Kiền-trắc. Lúc ấy chư Thiên tay cầm lọng trắng, chung quanh lọng và cán lọng được dùng các ngọc quý trang điểm, phủ trên lọng bằng một mành lưới bảy báu, trân châu… ở giữa các mắt mành lưới đều treo các chuông rung làm bằng vàng, chư Thiên đồng cầm che trên mình Thái tử.

Thái tử cỡi ngựa Kiền-trắc lần lần hướng ra cửa thành, tiếng động chân ngựa vang xa một câu-lô-xa, chư Thiên cõi Thủ đà hội dùng thần lực không cho tiếng động vang xa, sợ xảy ra sự chướng ngại cản trở việc xuất gia của Thái tử.

Khi Thái tử xuất gia, trong hư không có một Dạ-xoa tên là Bát Túc cùng với quyến thuộc, mỗi người đều dùng tay đỡ lấy bốn chân ngựa, từ từ đi một cách an ổn.

Thái tử lúc sắp cất bước ra khỏi cung có một Thiên tử xướng lên: “Nguyện vị Đại thuyền trưởng, có đại pháp tốt đẹp, nay muốn cứu vớt vô lượng chúng sinh đang chìm đắm trong biển phiền não.” Chư Thiên lại xướng lên: “Nguyện Đại Thánh Thế Tôn không chướng ngại, nay muốn xuất gia vượt qua biển sinh tử.”

Thái tử bảo Xa-nặc:

-Này kẻ hiền Xa-nặc, ngươi nay nên đi trước chỉ đường cho ta ra khỏi nội cung.

Khi muốn ra khỏi thành phải tháo chốt mở các cửa, mà tiếng động mở cửa vang xa đến một câu-lô-xa. Khi ấy có hàng Phi nhân đến tháo chốt mở cửa, còn trời Thủ đà hội dùng thần lực làm tan biến tiếng động, khiến không cho người nghe, vì sợ rằng có sự cản ngăn trong khi Thái tử xuất gia.

Xa-nặc bạch Thái tử:

-Thưa Thái tử cửa cung đã mở rồi.

Thái tử hỏi:

-Cửa cung đã mở rồi sao? Tâm Ta quyết định xuất gia, với sở nguyện cầu lợi ích cho chúng sinh thành tựu không còn gì phải nghi ngờ.

Xa-nặc bạch:

-Tâu Đại thánh Thái tử, rất đặc biệt ít có thay, vì cửa cung này trước khi mở nó phải cần nhiều sức mạnh mới mở được, nay đây Thái tử vừa đến nơi thì cửa liền mở. Đại thánh Thái tử đến gần bên cửa cũng như luồng gió mạnh thổi tan đám mây giạt qua hai bên.

Khi Thái tử từ trong cửa cung bước ra ngoài, rồi nói lời thề này: “Đây là lần cuối cùng Ta ra khỏi cửa cung này, từ nay trở đi không ra khỏi cửa cung này nữa.”

Thái tử ra khỏi cung đi chậm rãi đến cửa Tỳ-da-ra, bên cạnh cửa có một tướng Dạ-xoa tên là Thiện Nhập cùng với năm trăm quyến thuộc Dạ-xoa, đồng thấy Thái tử đi bộ chậm rãi tiến đến, chúng nói với nhau: “Hiện giờ trong lúc nửa đêm không phải giờ mở cửa, mà nay Đại thánh Thái tử Tất-đạt-đa đi đến dưới cửa, ta nay đây sẽ vì Thái tử chăng?” Khi ấy chúng Dạ-xoa đồng nói: “Chúng ta sẽ vì Thái tử mở cửa, tùy ý Thái tử ra đi, vì ra khỏi nơi đây, Ngài sẽ được thành tựu như ý, chứng được đạo quả cam lộ rồi, Ngài sẽ vì chư Thiên, nhân loại thế gian đem lại nhiều điều lợi ích lớn.” Dạ-xoa Thiện Nhập vội vàng mở toang cửa Tỳ-da-ra. Cửa này trong khi mở hay đóng, liếng động thấu đến nửa do-tuần, lúc ấy trời Tịnh cư dùng thần thông làm lan biến tiếng động, không để cho người ta nghe, vì sợ làm ngăn cản sự xuất gia của Thái tử.

Thái tử ra đi từ cửa Tỳ-da-ra của thành Ca-tỳ-la, khi vừa ra khỏi thấy quân tướng canh gác cửa này, hoặc có người nắm lấy chốt cửa ngủ say không biết Thái tử ra lúc nào, hoặc có người bị thần lực của quỷ Dạ-xoa làm mê muội, hoặc có người bị sức thần thông của chư Thiên làm hôn ám, hoặc có người tuy hết sức cẩn thận có tài canh gác nhưng tất cả đều ngủ vùi không hay Thái tử ra đi.

Lúc ấy Ma vương Ba-tuần ở cõi Dục thấy Thái tử ra đi xuất gia, vì muốn khủng bố Thái tử dùng sức thần thông hóa hiện đám mây lớn, rồi từ đó phát ra tiếng sấm vang rền, hay những tiếng sét đánh điếc tai. Hoặc hiện các dòng sông lớn, cuốn trôi những tảng đá nổi lên lặn xuống cuồn cuộn trôi đi. Hoặc ở trước Thái tử hiện những ngọn núi to cao vút, hoặc hiện những gộp núi sâu thẳm, hoặc hiện những đám lửa cháy lan tràn ngùn ngụt.

Cùng lúc ấy chư Thiên cõi trời Tịnh cư ẩn thân trong những đám mây lớn dùng sức thần thông khiến cho các thứ tiếng sấm sét, dòng sông cuốn đá, núi cao to lớn, gộp núi sâu thẳm, lửa cháy dữ dội đều không hiện ra được, rồi nắm lấy Ma vương Ba-tuần ném cách ra ngoài vô lượng trăm ngàn do-tuần, không để làm ngăn trở việc xuất gia của Thái tử.

Khi Thái tử ra ngoài cửa thành Ca-tỳ-la, cất giọng như sư tử gầm nói như thế này: ‘Ta nay thà gieo mình xuống gộp đá mà chết, thà uống các thứ độc dược mà chết, thà nhịn ăn uống mà đành bỏ mạng. Nếu bổn nguyện cứu thoát chúng sinh trong biển sinh tử không thành tựu, Ta thề trọn đời không trở lại thành Ca-tỳ-la này.”

Chư Thiên nghe lời thề của Thái tử như tiếng sư tử gầm, tất cả đều vui mừng.

Thuở ấy, khi Thái tử cất tiếng nói như sư tử gầm, tất cả quỷ thần bảo vệ thành Ca-tỳ-la, hoặc có quỷ thần giữ cửa, hoặc có quỷ thần bảo vệ tường thành, hoặc có quỷ thần bảo vệ vọng gác đều lớn tiếng xướng lên: “Đúng như vậy! Đúng như vậy! Lời nguyện của Ngài như tiếng sư tử gầm không có sợ sệt, nguyện Ngài sẽ thành tựu viên mãn.” Các quỷ thần vì trong lòng hớn hở, giơ cao hai tay, miệng ca ngợi Thái tử: “Bậc Đại dũng mãnh ra khỏi thành Ca-tỳ-la rồi quay lại nhìn.”

Thái tử nghe tiếng tán thán của quỷ thần trong tâm không còn sợ sệt, hết sức vui mừng, toàn thân lông tóc dựng ngược, nói lời thề: “Ngày nay Ta nguyện trọn đời không trở lại trong thành này nữa, nếu Ta chưa chứng pháp cam lộ mà chư Thánh hằng ca ngợi. Khi đoạn được dòng phiền não sinh tử, chứng được đạo quả Niết-bàn, sau đó Ta mới trở lại thành này.”

Khi Thái tử đứng ở ngoài thành nói lời thề quyết liệt: “Chừng nào Ta chứng được đạo chân như Bồ-đề, rồi sau đó mới trở lại vào thành giáo hóa.” Tiếng nói như sư tử gầm. Chỗ đất Thái tử đứng nói lời này, về sau người ta xây một bảo tháp đặt tên là: ‘Tháp tiếng nói Thái tử như sư tử gầm.”

Lúc ấy nơi đây có một đại thọ Ni-câu-đà, vị thần cây này dùng kệ nói với Thái tử:

Như có người chặt bỏ cây này

Cốt yêu cần phải đào tận gốc

Như chặt đồ vật phải đứt hai

Vượt dòng phải đến bên bờ kia

Một lời nói ra không thể dối

Đã sinh oán giận, nào lại vui.

Thái tử dùng kệ trả lời Thọ thần:

Tuyết sơn có thể còn di chuyển

Nước trong đại hải có thể khô

Tinh tú có thể rơi xuống đất

Lời Ta nói ra không đổi thay.

Lúc ấy chư Thiên trời Tịnh cư lại nói kệ:

Cõi này, nay hiện phương thần dược

Chữa bệnh chúng sinh độc phiền não

Những ai bị nhằm tên ái bắn

Nay người khéo tay đều nhổ khỏi.

Cõi này nay hiện đại lương y.

Chữa lành chúng sinh tất cả bệnh

Như người khổ sở già bệnh chết

Ra toa trị liệu thảy đều lành.

Cõi này nay hiện đèn trí tuệ

Chiếu phá vô minh si điên đảo

Những kẻ mù lòa trong đêm tối

Đều được thấy rõ ánh quang minh.

Cõi này nay hiện mặt trời lớn

Ánh sáng chiếu khắp cả thế gian

Vì mắt trí tuệ sáng tròn đầy

Chiếu khắp mười phương các thế giới.

Cõi này nay hiện Đại thuyền trưởng

Hiện sẽ chuyên chở các chúng sinh

Thuyền buồm trí tuệ đầy phương tiện

Cứu vớt nhân thiên vô lượng ức.

Cõi này nay hiện đại thương chủ

Muốn dạy thương nhân qua sa mạc

Vô lượng chúng sinh đang mê hoặc

Hướng đạo dạy đi con đường chánh.

Cõi này nay hiện Đấng Đại Vương

Vua pháp thế gian người tối thượng

Ngọn cờ đại pháp được nêu cao

Để rõ pháp tà và pháp chánh

Cõi này nay hiện Đại Đạo Sư

Hàng phục tất cả các chúng sinh

Nhân thiên những ai chưa điều phục

Tất cả rồi đây sẽ phục tùng.

Cõi này nay hiện Đấng Đại Vương

Vua pháp xuất thế người tối thượng

Sẽ chuyển vi diệu đại pháp luân

Xô dẹp tất cả các ngoại đạo

Cõi này nay hiện Đấng Đại Giác

Giác ngộ thế gian người chưa giác

Những ai trói buộc bởi phiền não

Mở trói tất cả được tự do.

Cõi này nay hiện cờ Đế Thích

Sẽ tuôn vô biên trận mưa pháp

Đầy đủ mười lực không ai bằng

Có tài hàng phục các ngoại đạo

Cỡi đại bạch tượng xuống trần gian

Qua cõi vô minh xa thăm thẳm

Cầm chày Kim cang trí tuệ bén

Dẹp tan ngoại đạo các tà ma.

Cõi này nay hiện Đại Phạm vương

Thương xót thế gian khắp mọi loài

Đem lại lợi ích chúng ngu si

Đánh trống thổi loa tuyên đại pháp.

Cõi này nay hiện Đại long vương

Tuôn xuống thế gian trận mưa pháp

Chúng sinh ba cõi nhuần lợi ích

Bệnh tà nhiệt não thảy đều trừ.

Chư Thiên cõi Tịnh cư nói kệ xong, miệng liền xưng niệm: “Nam-mô Tôn giả Đại Trượng Phu Thân”, lễ bái rồi đi theo hầu Thái tử. Lúc ấy chư Thiên trời Tịnh cư tùy theo quả báo tiền nghiệp được thân hành vi diệu, oai đức dũng mãnh, chí lực tinh tấn, những gì khó làm đã vượt qua rồi, giờ đây vì Thái tử thân phóng quang minh dẹp tan bóng tối, soi đường cho Thái tử đi, giống như vầng mặt trời từ trong đám mây dày dặt tỏa ánh sáng chói lọi. Đúng như vậy! Từ thân chư Thiên Tịnh cư phóng hào quang sáng tỏ soi đường Thái tử đi cũng lại như vậy.

Chư Thiên cõi Dục đều hóa thân đồng tử đẹp đẽ dễ thương, đi phía trước hướng đạo cho Thái tử đi trên con đường bằng phẳng.

Vua trời Đại phạm cùng quyến thuộc Phạm thiên vây quanh đồng đi bên phải Thái tử.

Vua trời Đao-lợi cùng quyến thuộc Đế Thích cõi trời Ba mươi ba vây quanh, đồng đi bên trái Thái tử.

Bốn Đại thiên vương, thân đeo chuỗi anh lạc tuyệt vời, đầu đội thiên quan tua tủa những chuỗi anh lạc.

Cùng vô lượng trăm ngàn vạn chúng Càn-thát-bà, Cưu-bàn- trà, Long vương, Dạ-xoa… thân mặc áo giáp kiên cố, tay cầm đủ thứ binh khí: cung tên, kiếm bén, gươm, gậy sắt, mâu, giáo, chĩa ba, câu, mác, thiết bài, thiết luân đi phía trước mở đường cho Thái tử và họ thúc Thái tử: “Đi theo con đường này, nhanh lên không được nghỉ.”

Lại trên hư không có vô lượng vô biên trăm ngàn các chúng chư Thiên, vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân, khổng thể kềm chế, đem các loài hoa mọc dưới nước hay trên đất liền rải trên mình Thái tử và các loại bột hương như: chiên-đàn, trầm thủy, đa-già-la, ngoài ra còn có các thứ hương khác như: hương bột, hương xông, hương thoa… mỗi chư Thiên cầm trên tay đi theo rải trên mình Thái tử để cúng dường.

Nói về trong cung, khi các thể nữ thức dậy hoảng hốt kêu lên: “Thái tử đâu? Thái tử đâu?” Nàng Da-du-đà-la chỉ thấy mình nằm trơ trọi trên giường, không thấy Thái tử đâu cả, liền la lên: “Ôi thôi! Ngày nay chúng ta bị Thái tử đánh lừa”, liền lớn tiếng kêu gào, thân nhào xuống đất, hốt lấy bụi chà lên đầu, đưa hai tay bức lấy đầu tóc, bứt lấy các chuỗi anh lạc trên thân ném xuống đất, hai tay cào xé y phục, thân hình và tứ chi đều bị xây xát, cất tiếng khóc thốt ra những lời chua xót đau thương, thân tâm nàng thống thiết bức xúc khổ não vô cùng.

Khi ấy người canh giữ bảo vệ thể nữ nội cung của Thái tử, chạy đến tâu báo Đại vương Tịnh Phạn:

-Xin Đại vương biết cho, đêm hôm nay khi hạ thần thức dậy không thấy Thái tử đâu.

Người canh chuồng ngựa thấy mất ngựa Kiền-trắc, cũng vội vã đến tâu Đại vương Tịnh Phạn:

-Xin Đại vương biết cho, đêm nay trên chuồng ngựa cũng không còn thấy con ngựa Kiền-trắc.

Đại vương Tịnh Phạn nghe những lời tâu như vậy, cất tiếng la to xướng lên thế này: “Ôi thôi! Ôi thôi! Con yêu dấu ta ơi!” Nói như vậy rồi nhào xuống đất chết giấc. Quan đại phu lấy nước lạnh chiên-đàn rưới trên mình nhà vua, trong chóc lát Đại vương tỉnh lại, tinh thần trở lại trạng thái bình thường, rồi sau đó gọi tướng bảo vệ hoàng thành đến ra sắc lệnh:

-Các khanh cấp tốc chuẩn bị bốn binh chủng, mặc áo giáp… đi tìm Thái tử gấp.

Vị tướng quân phòng vệ nghe sắc lệnh khẩn trương từ nội cung ban ra, vội vã đi truyền lệnh khắp tất cá các tướng lãnh chiến đấu:

-Này các tướng sĩ, các ngươi phải biết Đại vương Tịnh Phạn ban sắc lệnh thế này: “Bá quan đại thần bất cứ ở chỗ nào, hễ ai thọ hưởng lương thực bổng lộc của ta, tất cả đều mau mau nhóm họp, phân chia đi theo các ngả đường tìm Thái tử. Nếu ai gặp được Thái tử ở đâu, khéo đem lời phủ dụ, đừng để Thái tử ở trong rừng núi hang đá, nên rước trở về hoàng cung.”

Các quần thần bá quan văn võ ở trong thành Ca-tỳ-la đều nghe tướng quân phòng vệ rung chuông truyền cáo: “Tất cả quần thần, những ai hưởng bổng lộc của Đại vương Tịnh Phạn, tất cả đều ra khỏi thành Ca-tỳ-la đi tìm Thái tử, nếu ai thấy Thái tử ở đâu nên đem lời phủ dụ khuyên Thái tử trở về hoàng cung.”

Bấy giờ, tất cả quần thần bá quan, hoàng tộc và dân chúng nội thành Ca-tỳ-la, người hưởng bổng lộc hay không hưởng bổng lộc đều từ thành tỏa ra đi tìm Thái tử.

Quan đại thần, tuyên các sắc lệnh nhà vua xong rồi, dần dần đến nhà vị đại thần trông coi chuồng ngựa Thái tử, nói với vị ấy:

-Đại vương Tịnh Phạn ra lệnh cấp tốc ra ngoài thành đi tìm Thái tử.

Đại thần trông ngựa nói:

-Ta giữ chỗ ở của Thái tử không được đi đâu.

Quan giữ thành lặp lại lời nói thế này:

-Đại vương Tịnh Phạn ra sắc lệnh nghiêm khắc, tất cả những ai hầu hạ hai bên Thái tử đều bị giam cầm.

Đại thần trông ngựa đáp:

-Thưa nhân giả, nếu muốn giam cầm tôi, trước tiên ngài cùng tất cả vợ con, anh em, chú bác, cô dì thân quyến của ngài đều phải bị giam cầm.

Khi ấy tất cả dân chúng trong thành đều ra khỏi thành đi tìm Thái tử, nhưng Thái tử được sức thần thông của chư Thiên ngăn che nên người đi tìm không thấy được Thái tử.

***

Phẩm 22: XUỐNG TÓC NHUỘM Y

Khi Thái tử ra khỏi cửa thành Ca-tỳ-la, ngài bảo Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, ngươi nay nên đi trước Ta, đi thẳng đến thôn La­ma.

Xa-nặc bạch Thái tử:

-Dạ vâng, hạ thần y theo lời Thái tử chỉ dạy chẳng dám làm sai.

Xa-nặc dẫn đường đi trước hướng về phía thôn La-ma, ngựa Kiền-trắc bốn chân nhẹ nhàng phi như gió, khởi hành từ khi nửa đêm đến khi sao mai mọc vượt qua dặm đường mười hai do-tuần (Sư Ma-ha Tăng-kỳ nói: Ngựa khởi hành lúc nửa đến khi sao mai mọc đi được mười hai do-tuần. Hoặc các Sư khác thì nói: Ngựa khởi hành lúc nửa đêm đến khi sao mai mọc đi được một trăm do-tuần) đến một làng tên là Di-ni-ca, khi mặt trời mọc đi đến chỗ ở của Tiên nhân Bạt-già-bà. Khi đến đây Thái tử lại hỏi Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, đây là chỗ nào?

Xa-nặc đáp:

-Thưa Thái tử, chỗ này còn cách thôn La-ma chẳng bao xa.

Thái tử thấy rừng cây sầm uất mà lại là chỗ ở của Tiên nhân đời trước, nơi đây thấy nhiều cầm thú, hồ ao, khe suối, sống ngòi…Thái tử biết ý Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc muốn dừng nghỉ nơi đây trong chốc lát nên Thái tử bảo:

-Này người hiền Xa-nặc, nếu thấy đúng lúc thì nên dừng nghỉ nơi đây.

Người ngựa dừng lại, Thái tử từ trên lưng ngựa Kiền-trắc nhảy xuống phát lời đại thệ nguyện: “Nay đây là nơi cuối cùng Ta ngồi trên lưng ngựa bước xuống! Nay đây là nơi cuối cùng Ta từ trên lưng ngựa bước xuống.” Thái tử bước xuống ngựa rồi, dùng lời nói tình cảm an ủi Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, ở thế gian có nhiều hạng bề tôi, hoặc có kẻ trong tâm hiếu thuận với kẻ bề trên mà không có năng lực, hoặc lại có kẻ có năng lực mà không có tâm hiếu thuận, hoặc lại có kẻ tâm không hiếu thuận và cũng không có năng lực, lại có kẻ bề tôi tâm hiếu thuận và đầy năng lực. Này kẻ hiền Xa-nặc, như ngươi ngày nay thật là hy hữu ít có ở đời, ngươi đem tâm tốt cung kính hiếu thuận ta mà lại đầy năng lực. Này Xa-nặc, ta nay đối với người cũng hết sức hoan hỷ, do vậy mà ông đem tâm rất hiếu thuận hết sức kính ái Ta. Ông nay ái kính phụng sự Ta như vậy mà không đem tâm cầu lợi. Phàm thường tình ở thế gian, người cung phụng kẻ phú quý là vì mang tâm tham đắm mới phụng sự kẻ khác, mà nay ông phụng sự Ta lại không có tâm như vậy. Ở đời lại có người khi thấy người phú quý mà phụng sự vì sinh tâm mong cầu vạt chất, còn thấy kẻ nghèo hèn thì sinh tâm xa lánh. Ông nay thì không có tâm niệm như vậy.

Rồi Thái tử nói kệ:

Nuôi con để nối nghiệp

Thờ cha đền dưỡng dục

Vì lợi, canh tác ruộng

Đều do cầu quả báo.

Xa-nặc nghe kệ rồi liền thưa hỏi Thái tử:

-Bạch Đại thánh Thái tử, phàm kẻ nô bộc thấy chủ nhân muốn phát tâm làm một việc gì, đều không được thưa hỏi lý do, nhưng nạy kẻ bề tôi này thấy Thái tử đến trong núi này, do vậy, xin mạo muội hỏi Thái tử, vì lý do gì Thái tử phát tâm vào sống nơi đây như vậy?

Thái tử đáp:

-Này kẻ hiền Xa-nặc, Ta nay hỏi ông, ngày nay ông lại cần gì phải biết việc ấy?

Xa-nặc lại đáp:

-Thưa Đại thánh Thái tử, tôi thuộc dòng hạ tiện, nhưng so với Thái tử thì đồng sinh một ngày, mà tôi lại làm người hầu hạ trung thành không bao giờ làm trái ý Thái tử.

Thái tử lại bảo Xa-nặc:

-Này kẻ hiền Xa-nặc, Ta nay nhờ ông một việc, ông có thể làm được không?

Xa-nặc đáp:

-Bạch Đại thánh Thái tử, tôi là nô bộc của Thái tử, gần gũi phụng sự Thái tử, nào đâu dám không làm.

Thái tử lai nói:

-Này kẻ hiền Xa-nặc, Ta nay bỏ ngôi Thánh vương, không phải vì sợ sệt một việc gì khác, chỉ cầu mong sự giải thoát, xa lìa sự trói buộc trong vòng sinh tử. Này Xa-nặc, Ta nay không nhận lấy vương vị như vậy mà tâm Ta được vui vẻ. Này Xa-nặc, tất cả vương vị đều bị sự khủng bố ác liệt, điều này trong tâm Ta thấy rõ ràng như vậy. Này Xa-nặc, Ta thấy việc xuất gia có những lợi ích không bị cái móc sinh tử lôi kéo, cho nên Ta cắt bỏ tất cả những gì ở đời mà đến ở trong núi này vì Ta nay muốn cầu giải thoát sinh tử. Này kẻ hiền Xa-nặc, ngươi nay nên đem con ngựa Kiền-trắc trở về cung, Ta nay xuất gia, tâm ý đã dứt khoát.

Rồi Thái tử nói kệ:

Lại chẳng cần phải nói dông dài

Ngươi biết ý ta mến tâm ngươi

Cắt ái từ thân nên vào núi

Kiền-trắc và ngươi gấp trở về.

Xa-nặc thưa Thái tử:

-Thưa Đại thánh Thái tử, phàm người xuất gia hiện có bốn việc, rồi sau đó mới xuất gia. Bốn việc đó là: Hoặc là thân đến tuổi già, hoặc thân mang bệnh, hoặc sống cô đơn, hoặc không có tài sản. Mà nay Thái tử đối trong bốn việc này không có một. Lại khi Thái tử sơ sinh, tất cả các thầy Bà-la-môn có trí tuệ thông minh, họ đọc nhiều kinh sách Thánh nhân, uyên thâm các luận, có tài xem tướng. Lúc ấy các tướng sư tiên đoán: Đồng tử có tướng tốt như thế này nhất định sẽ làm Chuyển luân thánh vương, thống lãnh bốn châu thiên hạ, làm vị đại địa chủ đầy đủ bảy báu. Bảy báu đó là xe báu, ngọc báu, voi báu, ngựa báu, ngọc nữ, quan báu chủ kho tàng và quan báu coi binh lính. Vua Chuyển luân sinh một ngàn thánh tử đều dũng kiện có tài đánh dẹp giặc thù, thông lãnh cõi đại địa và bốn biển, đem chánh pháp cai trị dân chúng, hàng phục giặc thù.

Thưa Thánh tử, khi được xe báu bằng vàng, chiếc xe này do chư Thiên làm ra không phải con người chế tạo, cân đối đẹp đẽ ai cũng ưa thích. Ở trong hư không bảo luân chạy phía trước, thánh vương nương nơi hư không bay theo sau, tất cả quyến thuộc đoanh vây hai bên tả hữu đồng bay đi trong hư không. Lúc ấy Thái tử đang ở địa vị thánh vương hưởng đại phước đức. Thái tử dùng báo ngọc ma-ni Minh nguyệt trong đêm tối chiếu sáng bảy do-tuần, chung quanh cõi đại địa này đều được sáng tỏ. Lúc đó Thái tử ở địa vị Chuyển luân thánh vương thọ hưởng vô lượng diệu lạc.

Thưa Đại Thánh Thái tử, nếu khi nhà vua muốn cỡi bạch tượng, thì bảy chi của nó đều phục sát đất, đại bạch tượng sáu ngà này được trang bị các vật như: yên, bàn đạp, dây cương… đều toàn bằng vàng. Màu sắc óng ả ẩn hiện, phía trên mình được dùng chuỗi anh lạc trang trí, rồi lại phủ lên trên bằng một mành lưới vàng. Đại bạch tượng đầy đủ thần thông phi hành tự tại, Thánh vương cỡi lên rồi cũng có thể đi khắp cõi đại địa này. Lúc ấy Thái tử ở ngôi Chuyển luân thánh vương thọ hưởng đầy đủ khoái lạc.

Lại nữa nếu Thánh tử ở đời vị lai muốn cỡi ngựa chúa, ngựa chúa này toàn thể một màu xanh biếc, sắc lông đầu đen như quạ, bờm và lông đuôi thật dài, được trang bị các vật như: yên, cương, bàn đạp, dây đai, đều bằng vàng ròng. Lại dùng chuỗi anh lạc và mành lưới bằng vàng ròng phủ phía trên lưng ngựa. Ngựa chúa này có sức thần thông vô ngại, có tài phi hành khắp cõi hư không, khi muốn đi Thánh tử cỡi ngựa này đi khắp cõi đại địa. Khi ấy Thái tử ở ngôi Chuyển luân thánh vương thọ hưởng đầy đủ các thứ khoái lạc. Lại nữa, Thánh tử ở đời vị lai khi được ngọc nữ, dung nhan các nùng rất khả ái, mặt mày xinh đẹp, đi đứng dáng điệu thùy mị tuyệt vời, giống như ngọc nữ chư Thiên, tự nhiên xuất hiện. Khi ấy Thái tử mặc tình thọ hưởng đủ thứ ngũ dục. Địa vị Chuyển luân thánh vương thật rất hạnh phúc… Lại nữa, Thánh tử nếu ở đời vị lai được chủ kho tàng quý báu, quan chủ kho tàng này chứng được Thiên nhãn, thường đem các kho tàng vàng bạc và tất cả vật quý báu… từ dưới đất xuất hiện dâng hiến cho Thánh vương, lúc ấy Thái tử thọ hưởng đủ thứ vui dục lạc. Lại nữa, Thánh tử nếu ở đời vị lai được chủ binh báu, ông quan chủ binh này túc trí đa mưu thông minh lanh lợi, am tường binh pháp, có tài thông lãnh bốn binh chủng, trong thời gian khoảnh khắc biết được tâm niệm của Thánh vương, liền ra lệnh quân lính mặc áo giáp, trang bị vũ khí đầy đủ không có thiếu sót, các bộ phận binh chủng đều cung ứng kịp thời bên Thánh vương, tùy ý sử dụng. Khi ấy Thái tử ở ngôi Chuyển luân thánh vương thọ hưởng khoái lạc rất mực đầy đủ.

Lại nữa Thánh tử, nếu ở đời vị lai, đầy đủ bảy thứ báu này, thuở ấy cõi đại địa, bốn biển lớn, tất cả rừng núi sông ngòi ở nơi thế gian này, không có một nơi nào là không thuộc quyền sở hữu của Thánh tử, tất cả giặc thù đều quy phục. Khi hàng phục rồi, không còn một nơi nào đáng lo sợ nghi ngờ bất an, tất cả dân chúng đều được giàu có, không có một nơi nguy nan nào mà không hàng phục, nhà vua không dùng khí giới: dao, gậy, giáo, mác… y như giáo pháp mà thực thi, y như chánh pháp cai trị thiên hạ, lúc ấy Thái tử ở địa vị Thánh vương thọ hưởng khoái lạc không cùng tận.

Thái tử nghe những lời Xa-nặc nói như vậy, liền hỏi Xa-nặc:

-Này kẻ hiền Xa-nặc, các tướng sư Bà-la-môn đó chỉ đoán Ta như vậy hay lại còn có tiên đoán những gì khác nữa không?

Xa-nặc đáp:

-Các tướng sư còn tiên đoán những việc khác nữa.

Thái tử hỏi:

-Những lời tiên đoán khác như thế nào?

Xa-nặc đáp:

-Thưa Thánh tử, các tướng sư còn tiên đoán, đồng tử này nếu bỏ vương vị, xuất gia nhất định sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi chứng quả Bồ-đề rồi, ngài sẽ chuyển Pháp luân vi diệu vô thượng.

Thái tử bảo Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, ngươi nên cẩn thận chớ vọng ngữ, ngươi cần phải nói lời chân thật. Ngay thuở ấy Tiên nhân A-tư-đà chỉ tiên đoán: Đồng tử này nhất định sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chỉ tiên đoán Ta sẽ chuyển Pháp luân vô thượng.

Xa-nặc nghe lời nói này rồi, tâm sinh lo sợ, toàn thân run rẩy dựng chân lông, bạch Thái tử:

-Thưa Đại thánh Thái tử, Ngài có tài nhớ lời tiên đoán như vậy, tôi lén nghe hàng quyến thuộc họ Thích bảo rằng đừng để cho Thái tử nghe được lời tiên đoán ấy, vì sợ Thái tử phát tâm Bồ-đề.

Thái tử bảo Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, Ta thuở xưa từ cung trời Đâu-suất giáng sinh vào thai Thánh mẫu và tất cả những việc khi còn ở trong thai, tâm Ta vẫn còn nhớ rõ không quên, huống nữa là lời tiên đoán sau khi Ta sinh ra rồi mà quên, hoàn toàn không có lý đó.

Này Xa-nặc, chư Thiên còn nói với Ta thế này: “Nhân giả Thái tử, ngài sớm xuất gia, quyết định sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sau khi chứng quả Bồ-đề rồi sẽ quyết định chuyển pháp luân vô thượng diệu vị.”

Này Xa-nặc, do vậy Ta quyết định sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, quyết định sẽ chuyển Pháp luân vi diệu vô thượng.

Này Xa-nặc, Ta nay nói thật với ông, ta thà bị dao cắt thịt trên thân, thà ăn chất độc mà chết, thà nhảy vào hầm lửa lớn mà chết, thà gieo mình xuống vực thẳm mà chết, thà tự lấy dao cắt cổ mà chết. Nếu đời này Ta chưa chứng được pháp thoát ly sinh tử, thì Ta không bao giờ trở về hoàng cung. Vì sao? Vì tất cả pháp ngũ dục thế gian đều vô thường, chẳng bao lâu nó sẽ chấm dứt, đó là pháp hoại diệt.

Lúc bấy giờ tay trái Thái tử gỡ các viên ngọc ma-ni vô giá cõi trời nơi chiếc thiên quan đội trên đầu trao cho Xa-nặc và dặn:

-Này Xa-nặc, Ta nay trao cho ngươi ngọc ma-ni này, ngươi đem ngọc này về hoàng cung dâng lên Đại vương Tịnh Phạn thân phụ Ta, khi ngươi đến nơi lễ Đại vương vô lượng lạy, ngươi chắc hiểu ý Ta sắp dặn ngươi những gì, ngươi phải nghe lời Ta, ngươi nay đem ngọc này trở về, đến nơi phụ vương Ta tâu cho rõ ràng, khiến tất cả sầu khổ của Đại vương được tiêu trừ. Ngươi lại hết mình vì Ta tâu lên Đại vương như thế này: “Con nay không phải bị người đời khi dễ, mà bỗng nhiên xa lìa sự hầu hạ bên mình Đại vương, cũng chẳng phải có tâm sân hận, cũng chẳng phải đi tìm của cải, cũng chẳng phải do thiếu sự phong cấp bổng lộc, cũng chẳng phải muốn cầu sinh lên trời. Chỉ vì tất cả chúng sinh không ở trong con đường chân chánh, mà lại bị màn hắc ám vô minh làm mê hoặc, đi theo con đường tà vạy nên muốn làm ngọn đèn trí tuệ soi sáng ánh quang minh, muốn diệt trừ các pháp sinh tử, muốn đoạn các pháp hữu lậu vô thường vì thế mà xuất gia, xin Đại vương mở lòng đại từ đại bi thấy những nguyên nhân mà con muốn xuất gia là như vậy, phụ vương chẳng nên ưu sầu.”

Rồi Thái tử nói kệ:

Giả sử suốt đời chung ân ái

Có hội họp quyết phải xa lìa

Thấy cảnh vô thường trong nháy mắt

Do vậy con nay cầu giải thoát.

Thái tử đọc kệ rồi, nói tiếp:

-Ta nay vì muốn thoát khỏi cảnh ưu sầu khổ não cho nên xả tục xuất gia, do vậy ngươi phải trình bày lên Đại vương thân phụ Ta chẳng nên ưu sầu. Thế gian nếu có người lấy việc ưu sầu coi như sự-say đắm thú vui ngũ dục, thì những người như thế cần phải ưu sầu, vì sao? Ở đời phần nhiều cha mẹ sinh con như mong cầu tiền của, do đó mới nuôi dưỡng. Nhưng ở đời, người dửng giáo pháp báo hiếu cha mẹ thì khó có ai! Nếu ý phụ vương nghĩ: Ngày nay con ta xuất gia không đúng lúc. Cúi xin phụ vương không nên quan niệm như vậy, phàm cầu giáo pháp không quy định thời gian. Vì sao vậy? Vì người sống ở đời thọ mạng không đồng. Người trí biết vậy, nên xả tục xuất gia, cầu cảnh giới tối thắng. Ví như có người cùng với giặc thù tử thần sống chung một nhà mà tự khoe rằng ta sống lâu thì thật là vô lý.”

Này Xa-nặc, đây là lời nói quyết định phát xuất từ tâm Ta, ngươi về hoàng cung đến bên Đại vương Tịnh Phạn thân phụ Ta trình bày tất cả những lời nói này, khiến tâm Đại vương an ổn, khi ngươi trình bày phái hết sức khéo léo dùng đủ mọi cách an ủi phân giải đừng để Đại vương nhớ đến Ta.

Này Xa-nặc, tuy nhiên ta lại bảo ngươi: Nếu đến bên Đại vương Tịnh Phạn phụ thân ta, ngươi chỉ nói những việc trái nghịch sai lầm thiếu đạo đức của ta như: “Thái tử không biết ân nghĩa, không có tâm yêu mến… như vậy”, ông chớ nói những điều hiếu thuận của ta. Vì sao nói như vậy? Vì để Đại vương không còn tâm yêu mến ta nữa, tức xả bỏ tất cả nỗi nhớ nhung ưu sầu.

Xa-nặc nghe Thái tử nói những lời như vậy rồi, cả người đau khổ, nước mắt tuôn trào ràn rụa mặc mày, chắp tay hướng về Thái tử thưa:

-Bạch Đại thánh Thái tử, những lời ngài dạy vừa rồi đối với Đại vương và thân quyến của Thái tử sẽ sinh tâm hết sức ưu sầu. Ý tôi không vui, nỡ nào thấy cảnh tâm tình đoạn tuyệt, giống như voi già sa trong đầm bùn lầy không thể nào tự ra khỏi được. Nghe nói như vậy ai lại không rơi lệ. Xa-nặc lại đem tâm chân thành thưa với Thái tử:

-Những người khác nghe nói còn bùi ngùi cảm động, huống nữa Xa-nặc này, từ nhỏ đến giờ thường sống bên nhau, đồng sinh một ngày, cùng lớn lên với tâm ái kính, thương mến nhau không thôi.

Rồi Xa-nặc nói kệ:

Giả sử có gan đồng dạ sắt

Nghe lời thề biệt ly như vậy

Ai lại không chua xót đau lòng

Huống tôi yêu mến đồng ngày sinh.

Xa-nặc nói kệ rồi, lại bạch Thái tử:

-Tôi dắt ngựa chúa cho Thái tử cỡi là do sức thần thông của chư Thiên, khiến tâm tôi dắt ngựa đến, chẳng phải tự ý của tôi, tôi làm sao ngăn cản được sự xuất gia của Thái tử. Tôi là kẻ nô bộc đồng ngày sinh với Thái tử và con ngựa chúa này cũng vậy không khác, chưa từng xa Thái tử dù trong chốc lát, mà nay bảo tôi một mình trở về hoàng cung, nhất định không có việc như vậy. Thái tử chẳng cùng chúng tôi trở về hoàng cung, mà chỉ bảo tôi và ngựa Kiền-trắc trở về, lại còn bảo tôi đem những lời ái biệt ly buồn thảm này thưa với Đại vương thân phụ ngài. Ngày nay Thái tử không đoàn tụ gia đình mà trái lời phụ vương, tuổi đã về già, tự ý xuất gia, việc làm của Thái tử như vậy là phải hay trái? Lại không có một pháp tốt đẹp cao thượng nào có thể vượt hơn việc Thái tử hiếu thuận cha mẹ, là đấng đã sinh ra mình. Thái tử cũng không nên xa lìa di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề, người đã từng cho Thái tử bú mớm, người ta sẽ căn cứ vào đó mà luận, thì Thái tử trở thành kẻ vô ân bội nghĩa, không nhớ công ân dưỡng dục ban đầu. Còn nàng Da-du-đà-la chánh phi của Thái tử là người đàn bà trinh tiết đầy đủ đức hạnh, mà ngài không chung sống lại bỏ đi, tạo cảnh biệt ly. Tuy nhiên ngày nay Thái tử xa lìa tất cả thân tộc quyến thuộc dòng họ Thích, còn tôi đây là nô bộc đồng sinh một ngày với Thánh tử, ngài cũng không cho hầu hạ kề bên mà lại đuổi đi. Thưa Thái tử, hễ ngài đi đến đâu, kẻ nô bộc này nguyện theo hầu đến đó không bao giờ xa lìa. Bạch Đại thánh Thái tử, do đó, hôm nay trong tâm tôi, không nỡ đem lửa đỏ ưu sầu đốt lây tâm tình ân nghĩa, đơn thân độc mã trở về hoàng thành để Thái tử một mình ở lại nơi rừng hoang vắng vẻ này. Dầu cho tôi rời nơi đây, khi trở về hoàng thành, Thái tử có biết Đại vương Tịnh Phạn sẽ quở trách tôi điều gì chăng?

Lại nữa, Thái tử không về triều, khi tôi về một mình, Thái tử có biết có bao nhiêu bạn hữu tri thức và tất cả hoàng hậu, cung phi, thể nữ trong cung hỏi tôi điều gì chăng? Mà Thái tử còn sai tôi về triều nói những lời thế này: “Ngươi nay đem những lời xấu ác hủy nhục ta đến nói với hoàng tộc, khiến quyến thuộc đâm ra chê trách oán ghét Ta, mà không còn nhớ nghĩ đến Ta nữa.” Thưa Đại thánh Thái tử, kẻ nô bộc này sao dám vọng ngữ, nói lời hủy nhục Thánh tử như vậy, tâm tôi đâu không tự biết xấu hổ. Tâm ý và miệng lưỡi tôi, nếu vì Thánh tử nói lời xấu ác, dù tôi có vọng ngữ nói xấu Thánh tử, thì thử hỏi lúc đó ai tin lời nói của tôi. Thưa Thánh tử, chẳng khác nào có người nói xấu hủy nhục Nguyệt Thiên tử, nếu như có người nghe Thánh tử ngày nay tâm thường tu tập hạnh từ bi mà lại bảo tôi nói lời bất thiện, nghe những lời nói như vậy, họ có thể tin không? Thánh tử đã tu hạnh đại từ bi, thường đem lời ái ngữ an ủi chúng sinh, nay Thái tử rời bỏ hoàng tộc, việc này e chẳng lành. Do vậy, tốt hơn Thái tử nên hồi tâm trở về hoàng cung thọ hưởng cảnh an vui.

Lúc ấy Thái tử nghe những lời Ưu sầu khổ não của Xa-nặc nói như vậy, rồi lại bảo Xa-nặc:

-Ngươi nay cần phải bỏ tâm khổ não, chớ nên ưu sầu, vì sao? Tất cả chúng sinh có sinh tất phải có già, ắt phải biệt ly. Này Xa-nặc, tất cả chúng sinh đều có tâm phiền não ái nhiễm, vấn đề ở trong thai và vấn đề nuôi dưỡng cũng đều hư vọng có hợp ắt có biệt ly, những người ấy chẳng phải là Ta, Ta chẳng phải là những người ấy.

Rồi Thái tử nối kệ:

Ví như bầy chim nơi đại thọ

Đều từ bốn phương kéo về ngủ

Sáng dậy tung bay khắp mọi phương

Chúng sinh ly biệt có khác gì.

Cũng như giữa hạ mây mù phủ

Nổi lên mấy chốc rồi tan biến

Chúng sinh ly biệt có khác gì

Đoàn tụ một thời rồi ly tán.

Đồng nghiệp nên sinh đến chốn này

Nay đây mỗi người về bổn tánh

Chớ nói ta người có khác nhau

Đi, ở, đây, kia đều tình chấp.

Tất cả đến đi không nhất định

Tùy theo nghiệp lực của chúng sinh

Phân biệt mình, người do ý thức

Giống như cây cối, lá, cành, thân

Hình sắc mỗi loại đều khác biệt

Nguyên tắc xưa nay không thay đổi

Huống luật vô thường của chúng sinh.

Ví như cây cỏ sinh hoa quả

Đến lúc chín muồi thì rơi rụng

Mạng người dài ngắn cũng như vậy

Sống lâu, mạng yểu chết hoàn không.

Tất cả Tiên nhân đời quá khứ

Hằng dạy vô thường lý như vậy

Giả sử sống lâu tám vạn kiếp

Đến lúc vô thường bại hoại tới

Cái chết chắc chắn không nghi ngờ.

Như người các phương đều tự đến

Đồng muốn uống nước một dòng sông

Hoặc ở trên thuyền đến bờ kia

Khi cập bến rồi người mỗi nẻo

Cha mẹ sinh con cũng như vậy

Cùng các quyến thuộc và bằng hữu

Thuở nhỏ tuy đồng sống một nơi

Lớn lên mấy chốc đều xa cách.

Tuy đồng nghiệp quả sống một nhà

Thọ báo khổ vui chẳng giống nhau

Đến khi vô thường nó thôi thúc

Tất cả thân sơ đều vĩnh biệt.

Thái tử nói kệ này rồi, bảo Xa-nặc:

-Do đó, ngươi nay chớ nên đem tâm buồn rầu, quyết định phải trở về. Vì sao? Ngươi nay chỉ vì thương mến Ta không nỡ xa lìa, nên ngươi có thể về triều rồi trở lại tìm Ta. Nếu ngươi khi về đến thành Ca-tỳ-la, thấy hoàng tộc buồn rầu vì Ta, ngươi nên bảo họ: “Này các ngài quyến thuộc trong dòng họ Thích, đối với Thái tử nên cắt bỏ tâm thương nhớ. Vì sao? Vì tôi biết Thái tử có lời thề quả quyết.”

Khi ấy Thái tử trao bài kệ quả quyết cho Xa-nặc:

Giả sử ta nay thân máu thịt

Cùng với lóng, đốt, da, gân mạch

Nghiền nát tất cả không còn chi

Hoặc lại thân mạng không bảo tồn

Ta vẫn không rời trọng trách ấy

Vượt qua biến khổ đến tận nguồn

Nếu chưa giải thoát ta tu mãi

Điều này hiện thực ta mới về.

Xa-nặc nghe lời này rồi, liền đem thân quỳ rạp, tứ chi sát đất, hai tay ôm lấy hai bàn chân Thái tử mà nói:

-Lành thay Thái tử, tôi nay xin hoan hỷ, xin Ngài chớ nói lời thề đau khổ thông thiết như vậy. Thưa Đại thánh Thái tử, tôi có sức mạnh gì, có thần lực oai đức gì có thể khiến Thánh tử trở về nội cung? Nhưng một mình tôi từ đây trở về hoàng cung, chắc quyến thuộc của Thánh tử sẽ đánh đập tôi, hoặc Đại vương Tịnh Phạn, phụ vương của Thánh tử và Di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề chắc chắn sẽ hỏi tôi: “Ngươi nay đem ném đứa con có giọng nói Phạm thiên nơi xứ nào rồi về đây?”

Lúc ấy Thái tử bảo Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, ngươi chớ nói lời như vậy! Chớ nói lời như vậy! Cha mẹ và quyến thuộc của Ta thấy ngươi từ đây trở về một mình hoàn toàn không trách ngươi, vì sao Ta biết như vậy? Vì tất cả thân quyến ta đều thương mến ngươi.

Này Xa-nặc, đứng dậy nhanh lên! Đứng dậy nhanh lên! Những gì ngươi nói từ trước đến giờ, giống như thế này: “Ví như ở đời có người đem lời nói, ý kiến được người ta ưa thích đến nói với họ, thì người này sẽ được ban thưởng.” Ngươi nhất định mau mau trở về hoàng cung, phụ vương Ta thấy ngươi trở về một mình, tinh thần Ngài sẽ tỉnh táo. Nhưng phụ vương Ta thấy Ta bỏ triều đình, nghe nói Ta xuất gia, tâm ngài hết sức đau khổ, phụ vương và tất cả thân quyến của ta đều kêu gào, buồn rầu nghẹn ngào khóc ấm ức, tất cả dân chúng trong thành cũng vì Ta mà sinh khổ não. Tất cả mọi người đang đau khổ khi thấy ngươi trở về, tâm họ vui mừng không ít.

Xa-nặc từ dưới đất đứng dậy, chắp tay lệ nhỏ thành dòng, cất tiếng khóc vang bạch Thái tử:

-Do vậy mà nay tôi muốn đưa Thánh tử trở về hoàng cung, chớ để dòng họ Đại vương tuyệt tự.

Sau khi Xa-nặc từ dưới đất đứng dậy rồi, thì ngựa chúa Kiền-trắc quỳ hai gối trước, đưa lưỡi liếm hai bàn chân Thái tử, đôi mắt rưng rưng lệ trào.

Xa-nặc bạch Thái tử:

-Thưa Đại thánh Thái tử, con ngựa này tuy mang thân súc sinh, còn có lòng thương mến rơi lệ huống nữa là thân quyến của Thánh tử sẽ biết đau khổ dường nào! Cúi xin Thánh tử nhìn thẳng vào con ngựa chúa Kiền-trắc này, nay nó thấy Thái tử không về cung nên hai gối trước nó quỳ xuống, há miệng đưa lưỡi liếm bàn chân Thánh tử, do vì tâm buồn thương nên hai mắt lệ rơi.

Thái tử dùng bàn tay phải màu vàng với những ngón tay màn lưới, mặt trong có những đường chỉ hình bánh xe chữ vạn ngàn căm, đầy đủ công đức trang nghiêm, mềm mại như tàu là chuối non, vuốt ve trên đầu ngựa chúa Kiền-trắc và nói:

-Này Kiền-trắc, nay ngươi đã làm tròn bổn phận, đã gánh vác trách nhiệm nặng nề đưa Ta đến đây. Từ nay trở về sau ngươi trở về triều tự do sinh sống, nay là lần cuối cùng Ta cỡi trên lưng ngươi trải qua dặm đường dài, việc nhờ ngươi chở Ta nay đã hoàn tất. Này Kiền-trắc, ngươi chớ nên sầu não, chớ nên buồn khóc, việc làm của ngươi hôm nay sẽ giúp ngươi trong tương lai được quả báo lớn. Ta nay muốn cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sau khi chứng đạo quả rồi, sẽ đem pháp cam lộ phân phát cho ngươi.

Rồi Thái tử nói kệ:

Tay hữu Thái tử như màn lưới

Bánh xe chữ vạn hiện ngàn căm

Sắc vàng thanh tịnh tay mềm mại

Vuốt ve đầu chúa ngựa Kiền-trắc

Giống như hai người cùng nói chuyện:

Này ngựa Kiền-trắc đồng ngày sinh

Chớ quá buồn khóc sinh áo não

Bổn phận của ngươi nay đã mãn.

Nếu Ta chứng được pháp cam lộ

Công ngươi chuyên chở Ta thế ấy

Báo đáp ân ngươi hẳn không quên

Sẽ dạy cho ngươi pháp vi diệu.

Bấy giờ Xa-nặc bạch Thái tử:

-Thưa Đại thánh Thái tử, ngày nay ngài ở địa vị một Đại vương, có đầy đủ tất cả ngọc nữ quý báu hầu hạ nơi cung điện và nơi đây tuy đủ thú vui ngũ dục thật tuyệt vời, trong thế gian không ai sánh bằng. Thái tử đã đạt được, tại sao Ngài xả bỏ lạc thú tuyệt vời này, tâm Ngài ưa thích thứ gì mà ở nơi hoang vắng đầy trăm ngàn cầm thú, là nơi có nhiều giặc cướp khủng bố, đi đứng một mình, xa lìa các thứ an vui?

Thái tử bảo:

-Này kẻ hiền Xa-nặc, những điều ngươi nói lý tuy đúng như vậy. Ngươi nay phải lắng nghe Ta, Ta nay sẽ vì ngươi mà giải thích. Ngũ dục thế gian rốt cuộc vô thường, chẳng phải là pháp cứu cánh, không làm cho tâm an ổn, vừa được liền mất nhanh như dòng nước chảy chẳng tạm dừng, như sương trên cỏ chẳng bao lâu liền tan, như nắm tay không phỉnh con nít, như lõi cây chuối không có chân thật, như áng mây mùa thu hiện liền tan, như ánh điện chớp vừa lóe liền mất, như bọt nước nổi thường không được dừng yên, như sống nắng lừa kẻ khát nước.

Rồi Ngài nói kệ:

Các thú vui ngũ dục

Cũng như dao thái thịt

Như mật dính lưỡi dao

Như mượn của người khác

Như khóc người mới chết

Như mộng thấy khoái lạc

Thức rồi tìm không thấy.

Như róc thịt tội nhân

Như trái cây chín muồi

Mấy chốc sẽ rơi rụng

Như người ác đánh đập

Giết hại không từ tâm

Như cắt từng miếng thịt

Sẽ chịu nhiều đau khổ.

Như cầm cây đuốc lớn

Bất cẩn bị đốt thân

Sắc đẹp cõi nhân thiên

Trường cửu thọ ái rồi

Tâm không biết nhàm chán

Được rồi lại mong cầu.

Như người nống khát nước

Uống nhằm phải nước mặn

Cầu các thứ ngũ dục

Chẳng nhàm lìa cũng vậy.

Như vậy người trí tuệ

Muốn lìa các ngũ dục

Như tránh đầu rắn độc

Muốn cầu mạng trường thọ

Như xa lìa độc dược

Cũng như đống lửa lớn

Nếu có kẻ trí tuệ

Nên phải tránh xa nó.

Sinh tử trong các cõi

Tất cả không bền vững

Luôn chuyển biến không dừng

Thế pháp cũng như vậy

Thọ mạng không nhất định

Chắc chắn gặp tử thần

Suy nghĩ như vậy rồi

Chẳng trụ nơi thế gian.

Thái tử nói kệ rồi bảo Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, những thú vui ngũ dục có những tai họa như vậy. Này Xa-nặc, vương vị cũng vậy. Do những loạn động tai họa đau khổ như thế, Ta thấy các thứ đó đáng sợ nên quyết định sống nơi rừng núi hoang vu này, cùng ở chung với loài phi cầm tẩu thú, với những bọn giặc cướp khủng bố, đi đứng một mình xa lìa dục lạc, ý Ta thích sống nơi đây, điều này không phải sở nguyện của người. Này Xa-nặc, ngươi nghe Ta nói những lời như vậy rồi, chớ nên trái lại đại sự của ta. Này Xa-nặc, Ta ở trong pháp hạnh như vậy, sẽ khai mở con mắt pháp, ông nên tùy hỷ không được cản trở Ta.

Xa-nặc bạch Thái tử:

-Thưa Đại thánh Thái tử, nếu Ngài đã quyết tâm như vậy, tôi không dám trái lệnh của Thánh tử, sẽ y theo lời dạy của Ngài trở về triều đình.

Thái tử ca ngợi Xa-nặc:

-Hay thay, hay thay! Xa-nặc rất tốt. Ngươi nay thuận theo ý của Ta sẽ được nhiều lợi ích, ông làm được điều lành.

Lúc ấy Thái tử cởi tất cả chuỗi anh lạc trên thân, miệng nói lời thệ nguyện rộng lớn: “Hôm nay đây là đồ trang sức tại gia cuối cùng trên thân Ta. Hôm nay đây là đồ trang sức cuối cùng trên thân Ta.” Cởi ra cầm nơi tay trao cho Xa-nặc, trao rồi căn dặn:

-Này Xa-nặc, ngươi đem chuỗi anh lạc này về trao lại cho quyến thuộc của Ta.

Xa-nặc nhận lấy những chuỗi anh lạc rồi lại thưa Thái tử:

-Bạch Thánh tử, khi tôi trở về hoàng cung đem những chuỗi anh lạc này trao cho quyến thuộc của Ngài, nếu họ lại hỏi tôi: “Này Xa-nặc, hôm nay vì cớ gì ông đem Thái tử của chúng ta tống ra nước ngoài, rồi bỏ đó trở về một mình? Này Xa-nặc, Thái tử Tất-đạt-đa có nhắn chúng ta những lời gì không?” Quyến thuộc của Ngài nếu hỏi tôi những lời như vậy, thưa Thái tử tôi sẽ trả lời thế nào?

Thái tử lại nói:

-Này Xa-nặc, khi ngươi về đến hoàng cung nên thay ta đảnh lễ phụ vương Tịnh Phạn và di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề của Ta, ngươi chuyển lời hỏi thăm cửa Ta đến các vị kỳ đức trong hoàng tộc. Này Xa-nặc, ngươi nên thay Ta thưa với Phụ vương: “Ngày nay Thái tử hết sức biết ân Đại vương, nhưng Thái tử vì cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác do đó nên tạm biệt Đại vương.”

Ngươi lại đặc biệt thay Ta thưa cùng Quốc đại phu nhân di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề: “Quốc đại phu nhân không nên vì Thái tử mà quá sầu khổ, Thánh tử nhất định sẽ thành tựu điều lợi ích lớn, rồi sẽ trở về yết kiến lệnh bà, cùng nhau vui vẻ.”

Ngươi lại thay Ta vì tất cả thể nữ trong cung, tất cả đồng tử thiếu niên thân tộc và cùng tất cả quyến thuộc trong hoàng gia chuyển lời thế này: “Ngày nay Thái tử muốn phá màn vô minh hắc ám, sẽ chứng ánh sáng trí tuệ, sau khi Thái tử chứng được trí tuệ sáng suốt rồi, Ngài sẽ trở về thành Ca-tỳ-la.”

Khi ấy Thái tử ở bên Xa-nặc, xách vỏ đao làm bằng ngọc Ma-ni được cẩn bằng bảy báu, tay phải rút thanh đao ra khỏi vỏ, còn tay trái nắm lấy búi tóc xanh biếc màu hoa sen xanh, tay phải cầm thanh đao tự cắt lấy, tay tả cầm búi tóc ném lên hư không.

Trời Đế Thích thấy việc ít có, trong tâm hoan hỷ hớt lấy búi tóc không cho rơi xuống đất, dùng chiếc áo trời tuyệt đẹp đựng lấy búi tóc, rồi chư Thiên đem các thứ quý giá cõi trời cúng dường búi tóc này.

Cùng lúc ấy đại chúng chư Thiên cõi Tịnh cư ném một tràng hoa Tu-mạn-na cách Thái tử chẳng gần mà cũng chẳng xa, tràng hoa này rơi xuống đất thành một thợ cạo tóc, cầm dao cạo đứng cách Thái tử chẳng bao xa.

Thái tử thấy người thợ cạo này và hỏi:

-Này người thợ cạo, ông có thể cạo sạch tóc cho Ta hay không?

Người thợ cạo tóc đáp:

-Thưa Thái tử tôi có thể làm được việc này.

Thái tử nói:

-Nếu ông làm được như vậy, thì nay đúng lúc phải cạo.

Lúc đó vị Hóa nhân cạo tóc, tay cầm con dao bén cạo mớ tóc màu xanh biếc trên đảnh nhục kế, đang khi cạo tóc vua trời Đế Thích cho là việc hy hữu, bèn lấy chiếc Thiên y hứng lấy những sợi tóc vừa cạo không cho rơi xuống đất, thâu hết những sợi tóc vừa cạo ra rồi trở về cõi trời Đao-lợi làm lễ cúng dường. Từ đây chư Tiên nhân đặt thành ngày lễ cúng dường búi tóc Bồ-tát, lễ này đến ngày nay vẫn còn.

Thái tử cởi hết tất cả chuỗi anh lạc trên thân và chiếc thiên quan, cạo bỏ râu tóc rồi, Thái tử lại thấy tự thân còn mặc chiếc thiên y, lại nghĩ chiếc áo này không phải sắc phục của người xuất gia. Người xuất gia ở trong rừng núi, biết có ai có chiếc ca-sa hoại sắc đúng như pháp của người xuất gia cho Ta để Ta ở trong rừng núi mặc đúng như pháp.

Khi ấy chư Thiên Tịnh cư biết tâm niệm của Thái tử, liền hóa hiện làm người thợ săn mặc chiếc ca-sa hoại sắc, tay cầm cung tên lần lần hướng đến trước mặt Thái tử, cách chẳng bao xa bỗng nhiên dừng lại.

Thái tử thấy người thợ săn mặc chiếc ca-sa tay cầm cung tên, liền nói:

-Nhân giả ở núi rừng, người có thể cho Ta chiếc ca-sa của ngươi được không? Nếu người đồng ý Ta sẽ trả lại chiếc thiên y Ca- thi-ca của Ta cho người, chiếc áo này giá trị đến trăm ngàn ức lượng vàng, lại được xông các thứ danh hương chiên-đàn… Người dùng chiếc ca-sa này làm gì? Người có thể lấy chiếc áo Ca-thi-ca quý giá này.

Rồi Ngài nói kệ:

Chiếc áo giải thoát Thánh nhân này

Người cầm cung tên không nên mặc

Người nên hoan hỷ trao cho Ta

Đổi lấy Thiên y người chớ tiếc.

Người thợ săn thưa Bồ-tát:

-Hay thay Tôn giả, tôi nay cho Ngài chiếc áo này thật không lẫn tiếc.

Rồi hóa nhân trao cho Bồ-tát chiếc áo ca-sa và nhận chiếc Ca-thi-ca giá trị trăm ngàn lượng vàng lại được xông các loại hương chiên-đàn nơi Bồ-tát.

Bồ-tát tâm rất vui mừng nhận chiếc ca-sa thầm nghĩ mình hết sức may mắn, liền cởi chiếc áo Ca-thi-ca trên thân trao cho người thợ săn.

Vị hóa nhân do trời Tịnh cư hiện nhận lãnh chiếc áo Ca-thi-ca nơi Bồ-tát, rồi dùng thần thông từ dưới đất bay lên hư không, trong thời gian một niệm trở về cõi Phạm thiên. Vì muốn cúng dường chiếc ca-sa nhiệm mầu này, nên chư Thiên ở trước Bồ-tát thị hiện thần thông phi hành trong hư không. Bồ-tát thấy việc hết sức đặc biệt hy hữu như vậy, tâm rất hoan hỷ, nên đối với chiếc ca-sa hoại sắc lại càng sinh tâm cung kính quý trọng bội phần.

Bồ-tát đã cạo bỏ râu tóc, thân đắp chiếc ca-sa hoại sắc, hình dung hoàn toàn thay đổi, nghi dung nghiêm chỉnh, phát lời đại thệ nguyện: “Ta nay mới thật là chân xuất gia.” Rồi Bồ-tát bảo Xa-nặc trở về, Xa-nặc ra đi nước mắt tuôn trào ướt cả mặt mày. Sau khi Xa-nặc khuất bóng, chỉ còn lại một mình, Bồ-tát thân đắp ca-sa hoại sắc, ung dung tản bộ đến chỗ Tiên nhân Bạt-già-bà.

Xa-nặc cúi thân đảnh lễ dưới hai chân Bồ-tát, nhiễu quanh ba vòng rồi trở về hoàng cung. Xa-nặc đã thấy ý dứt khoát của Bồ-tát không chịu trở về triều đình, lại thêm thân đắp ca-sa, cạo bỏ râu tóc, đầu không đội thiên quan, thân không mặc thiên y quý giá Ca-thi-ca và không còn trang điểm bảo châu anh lạc. Tất cả những thứ như vậy đều không. Xa-nặc thấy như vậy hai tay bứt tóc, miệng than trời trách đất, kêu khóc thất thanh, té nhào xuống đất, hồn xiêu phách lạc, chết giấc hồi lâu rồi mới tỉnh, tỉnh rồi đứng dậy xem kỹ chỗ đất đứng, thấy Bồ-tát bỏ đi, lại càng cất tiếng khóc áo não, hai tay choàng lấy cổ ngựa Kiền-trắc, buồn rầu ấm ức nghẹn ngào than thở khóc vang giây lâu mới dứt. Rồi xét thấy tâm ý Bồ-tát dứt khoát không về, không còn hy vọng, nên lượm anh lạc và y phục, dắt ngựa chúa trở về hoàng thành. Thân Xa-nặc tuy trở về hoàng thành mà tâm người thật không xa lìa Thái tử, nên trên con đường trở về hoàng cung, hoặc có lúc suy nghĩ, hoặc có lúc cất tiếng khóc, hoặc có lúc ngất xỉu té nhào xuống đất, hoặc có lúc đứng yên không tiến bước, hoặc có lúc ngồi yên thương nhớ chẳng vui. Tâm Xa-nặc ôm lấy nỗi buồn áo não, lại thể hiện những trạng thái như vậy, lần hồi về đến thành Ca-tỳ-la.

Con ngựa chúa đi sau Xa-nặc thường ngoảnh đầu nhìn về hướng Bồ-tát cất tiếng hí như kêu Bồ-tát, nước mắt tuôn ướt cả mặt. Trước khi ngựa chúa này ra đi, đầy đủ khí lực vui đùa chạy nhảy, từ khi thấy Bồ-tát cạo bỏ râu tóc, xả tục xuất gia, tâm sinh ưu sầu khổ sở, luôn luôn buồn rầu áo não, thân hình gầy ốm, khí lực suy giảm, dầu cho bây giờ ngựa Kiền-trắc có dùng chuỗi anh lạc trang điểm cũng không thấy có oai thần thế lực, vì tâm buồn rầu xa cách Bồ-tát, thường ngoảnh đầu nhìn lại, đôi mắt lệ trào ướt cả mặt mày, cất tiếng buồn thảm hí vang trên đường, buồn đến nỗi không ăn cỏ uống nước, do đó nên thể lực suy dần, thân hình ốm yếu không thể đi nhanh được, đôi mắt lúc nào cũng đầy ngấn lệ. Khi Bồ-tát cỡi ngựa Kiền-trắc vượt thành đến xứ Di-ni-ca chỉ trong thời gian nửa đêm, còn nay do vì buồn khổ bức xúc, thân hình ốm yếu nên thời gian trở về mãn tám ngày mới đến thành Ca-tỳ-la.

Có kệ nói:

Bồ-tát ra đi chỉ nửa đêm

Xa-nặc biệt ly dẫn Kiền-trắc

Vì buồn bức xúc mất oai thần

Về đến hoàng cung mất tám ngày.

***

Phẩm 23: XA-NẶC VÀ NGỰA TRỞ VỀ CUNG

Xa-nặc dẫn ngựa Kiền-trắc từ biệt Thái tử trở về, khi đến thành Ca-tỳ-la, mới bước vào thành trông giống như đi trong căn nhà hoang vắng, bao nhiêu hoa viên, suối ao, khe rãnh, sông ngòi, vườn cầm thú… ở trong ngoài bốn mặt thành Ca-tỳ-la, vì Thái tử xả tục xuất gia nên ở đây mất hết sức sống, sông hồ khô cạn, cảnh vật điêu tàn.

Tất cả dân chúng lớn nhỏ trong thành Ca-tỳ-la, từ xa trông thấy Xa-nặc dắt ngựa Kiền-trắc trở về hoàng cung mà không thấy Thái tử đâu cả. Do không thấy Thái tử nên cùng nhau thứ lớp theo sau Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc đồng hỏi Xa-nặc:

-Thái tử Tất-đạt-đa nay ở đâu?

Lúc đó Xa-nặc nước mắt tuôn trào ướt cả mặt mày, nghẹn ngào không nói nên lời. Đám người thấy vậy kêu la buồn khóc cùng theo bên Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc tâm sinh nghi ngờ, vừa đi vừa hỏi:

-Vương tử ngày nay ở xứ nào? Nếu còn ở trong nước thì chúng ta rất vui mừng. Nay tại sao ông bỏ Thái tử về đây một mình?

Xa-nặc vừa đi vừa trả lời:

-Tôi thật không dám bỏ Thánh tử, mà Thánh tử lại trốn bỏ cung điện của mình, cởi bỏ sắc phục thánh triều, ra lệnh đuổi tôi và ngựa Kiền-trắc phải trở về, còn một mình ngài ở lại trong núi sông hạnh xuất gia.

Tất cả mọi người nghe nói như vậy, cho là việc hết sức đặc biệt ít có ở đời, họ cùng nhau ca ngợi việc làm chưa từng có. Mọi người đối diện nhau cùng nói: ‘Thái tử Tất-đạt-đa làm những việc khó làm.” Tất cả mọi người trong thành tuy miệng ca ngợi như vậy mà hai dòng nước mắt vẫn tuôn trào. Lại mỗi người tự trách thân mình: “Ôi! Ngày nay ta sao không thể cùng nhau theo Thái tử xuất gia, ta đến xem đấng thầy cõi trời người sinh hoạt đi đứng cách nào, ta nay thà đến đó, sống theo việc làm của ngài, chớ nên ở nơi đây một ngày xa cách Thái tử mà sống. Vì sao? Vì ngày nay thành này không có Thái tử nên không có oai thần và thế lực. Thành này do không có Thái tử, cho nên vắng lặng trống không so với cánh đồng hoang vu không khác. Chỗ ở rừng rú kia do có sức oai thần và thế lực của ngài, tuy là cảnh đầm ao núi rừng mà lại như xóm làng không khác.”

Có kệ nói:

Dân chúng trong thành nghe nói thế

Ca ngợi việc rất ít có thay

Thành này đã trở nên đồng vắng

Nơi có Thái tử như quốc thành.

Bấy giờ ngựa chúa Kiền-trắc hí vang, tất cả dân chúng ở tại nhà của mình nghe tiếng ngựa Kiền-trắc hí, tất cả dân chúng và bao nhiêu thể nữ ở trong hai cung đều suy nghĩ thế này: “Hẳn Thái tử trở về nội thành”, nên dân chúng và thể nữ, hoặc có người mở cửa sổ, hoặc có người vén rèm cửa lớn, tâm rất hồi hộp vui mừng, đưa mắt nhìn xa mong thấy được Thái tử. Dân chúng và thể nữ chỉ thấy ngựa chúa Kiền-trắc và Xa-nặc biệt ly Thái tử trở về một mình, thấy vậy mọi người đóng cửa vào trong phòng kêu khóc thảm thiết.

Thuở ấy Đại vương Tịnh Phạn vì thương nhớ Thái tử khổ não bức xúc thân tâm, suy nghĩ tìm cách nào để gặp được Thái tử, nên vào trai đường giữ giới thân tâm thanh tịnh tu hành khổ hạnh, ưu sầu khổ não, ngày đêm trong tâm cầu khẩn chư Thiên, chư Thần, tìm đủ phương tiện nhân duyên cầu mong gặp được Thái tử để khuây khỏa nỗi lòng.

Khi đó Xa-nặc khổ não ưu sầu buồn khóc lệ nhỏ như mưa, tay dắt ngựa Kiền-trắc, tay bưng mũ ngọc vô giá cùng các chuỗi anh lạc trang sức trên mình Thái tử bước vào trong cung Tịnh Phạn, giống như kẻ cận vệ Thái tử ở ngoài chiến trường về báo tin Thái tử bị sát hại. Xa-nặc đem chuỗi anh lạc trở về vương cung giống như vậy. Người nô bộc Xa-nặc ly biệt Thái tử, đem ngựa cùng y phục ngọc ngà quý giá về, nước mắt như mưa bước vào cung điện Đại vương cũng lại như vậy.

Khi Xa-nặc bước vào trong cung, con ngựa Kiền-trắc ở ngoài cửa cung bốn chân giậm trên đất miệng hí vang. Những người hầu hạ nơi nằm ngồi của Thái tử tưởng Thái tử trở về, nên muốn vào trong cung để chiêm ngưỡng Thái tử nhưng không thấy Thái tử đâu cả, buồn khóc nước mắt như suối, có kẻ ở chỗ đông người mà nói những điều khổ não.

Những loài chim ở trong cung của vua Tịnh Phạn như Khổng tước, Anh vũ, Sáo, Mạng mạng, Câu-sí-la… những chim này nghe tiếng hí của ngựa Kiền-trắc, cũng cho rằng Thái tử trở về hoàng cung, chúng rất vui mừng cất tiếng hót hòa dịu thánh thót.

Tất cả bầy ngựa của Đại vương ở trong chuồng, khi nghe tiếng hí của con Kiền-trắc vang lên như vậy, cũng cho rằng Thái tử trở về hoàng cung, tất cả đều vui mừng hí vang.

Thể nữ trong cung Đại vương nhiều đến trăm ngàn, như Ma-ha Ba-xà-ba-đề… Lại số thể nữ trong cung Thái tử lên đến sáu vạn người, như Đại phi Da-du-đà-la… họ đều nhớ nghĩ Thái tử hết sức ưu sầu, nước mắt ướt cả mặt mày, không còn nghĩ đến dung nhan, thân thể không tắm rửa dơ bẩn, không trang điểm y phục, cởi bỏ tất cả chuỗi anh lạc đẹp đẽ, buồn rầu áo não tâm trí chẳng an, hoặc có kẻ khóc người than, hoặc có người đang ngồi tưởng nhớ, bỗng nghe tiếng hí của con ngựa Kiền-trắc, cùng nhau nghĩ rằng: ‘Tiếng hí của ngựa Kiền-trắc to như vậy, quyết định Thái tử trở về, không còn nghi ngờ gì nữa.” Mọi người nghe tiếng ngựa Kiền-trắc, tâm rất hớn hở, do vì khát ngưỡng muốn trông thấy Thái tử nên Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Da-du-đà-la… số thể nữ nhiều đến trăm ngàn, đều từ nơi phòng mình hoặc ở trên lầu, hoặc trong cung điện, hoặc trong phòng, bỗng vội vã cùng nhau đứng dậy chạy đến nơi Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc, nhưng thể nữ chỉ từ xa trông thấy Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc ly biệt Thái tử trở về hoàng cung một mình. Thấy vậy, họ hai tay bứt lấy đầu cổ, miệng kêu khóc nước mắt đầy mặt, miệng ca ngợi những đức tính của Thái tử.

Có kệ nói:

Các hàng thể nữ tâm đau khổ

Khát ngưỡng trông mong Thái tử về

Bỗng chỉ thấy Xa-nặc, Kiền-trắc

Lệ nhỏ tràn đầy cất tiếng khóc

Không dùng anh lạc, y phục đẹp

Đầu tóc rối bù thân gầy ốm

Hai tay ôm đầu hết hy vọng

Kêu khóc không ngủ suốt canh thâu.

Bấy giờ Ma-ha Ba-xà-ba-đề và Cù-đà-di đồng thấy viên minh châu trong búi tóc Thái tử, tán lọng, thanh đao, ngọc ma-ni trang điểm, phất trần, các chuỗi anh lạc của Thái tử do Xa-nặc mang về và ngựa Kiền-trắc cùng đoàn người đi theo sau. Thấy vậy rồi hai tay họ tự đánh đập trên thân thể, tâm ưu sầu lo sợ, lại hỏi Xa-nặc:

-Đứa con yêu quý của ta nay ở nơi nào mà ông lại trở về một mình?

Xa-nặc đáp:

-Tâu Quốc đại Hoàng hậu, Thái tử Tất-đạt-đa vì cầu đạo Bồ-đề nên Ngài đã xả bỏ ngũ dục, vào trong núi cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa tư duy khổ hạnh.

Ma-ha Ba-xà-ba-đề nghe Xa-nặc nói như vậy, ví như trâu mẹ mất con, buồn khóc rơi lệ không thể kiềm chế được, tự đưa hai tay đánh đập trên người, tâm hết sức kinh sợ, miệng la lên: “Ôi thôi con ta ơi! Ôi thôi con ta ơi!” Nước mắt ràn rụa mặt mày, cả người run rẩy, bỗng nhiên bà ngã nhào lăn lộn trên đất chết giấc, giống như cá lìa khỏi nước dãy giụa đau khổ trên đất. Bà lại hỏi Xa-nặc:

-Ta nay tự xét, thân khẩu ý của ta không có điều gì sai lầm đối với ông, nhưng tại sao ông đem con ta bỏ nơi hoang vu giống như vất bỏ một khúc cây? Tại sao ông đem con ta bỏ trong rừng sống một mình đầy sự khủng bố của các loài độc xà ác thú. Ông bỏ về đây chẳng thương con ta.

Xa-nặc đáp:

-Tâu Quốc đại phu nhân, thân nô bộc này đâu dám xa lìa Thánh tử. Tâu phu nhân, ý Thánh tử xua đuổi con. Thái tử trao cho con con ngựa Kiền-trắc cùng chuỗi anh lạc rồi bảo con mau mau trở về hoàng cung, để đại phu nhân được an tâm khỏi sinh ưu sầu khổ não.

Lúc đó, các thể nữ trong cung đều khóc than: “Ôi thôi cha mẹ ơi!” Hoặc than: “ơi thôi anh em ơi!” Hoặc than: “Ôi thôi Đại vương ơi!” Hoặc than: “Phu quân ta ôi!.” Những lời chua xót ái luyến này bắt nguồn từ dục nhiễm bức xúc thân tâm. Hoặc có thể nữ liếc mắt khóc, hoặc có thể nữ nhìn nhau khóc, hoặc có thể nữ xoay lưng khóc, hoặc có thể nữ cất đầu khóc, hoặc có thể nữ đối diện nhau khóc, hoặc có thể nữ hai tay đập vào bụng mà khóc, hoặc có thể nữ đấm ngực mà khóc, hoặc có thể nữ khoanh tay mà khóc, hoặc có thể nữ đưa hai tay đập vào đầu mà khóc, hoặc có thể nữ lấy bụi đất bôi lên đầu mà khóc, hoặc có thể nữ xõa tóc che mặt mà khóc, hoặc có thể nữ bứt tóc cúi đầu mà khóc, hoặc có thể nữ giơ hai tay lên trời mà khóc, hoặc có thể nữ buồn rầu chạy loạn khắp đó đây, giống như nai rừng bị nhằm tên độc, hoặc có thể nữ lấy áo phủ cả mặt mà kêu khóc, hoặc có thể nữ cả người run rẩy, giống như gió thổi lay động tàu lá chuối, cúi đầu xuống hay ngẩng đầu lên mà khóc, hoặc có thể nữ ngã nhào trên đất chết giấc không hay biết, vừa mới tỉnh liền cất tiếng khóc, hoặc có thể nữ như cá lìa khỏi nước nằm trên đất đập dãy, hơi thở khò khè, mạng sống mong manh thiêm thiếp mà khóc, hoặc có thể nữ như cây trốc gốc ngã nhào, lăn trên đất mà khóc. Biết bao nhiêu khổ não bức xúc thân tâm thể nữ nên họ kêu khóc như vậy.

Lúc ấy Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc cùng với vô lượng trăm ngàn thể nữ òa khóc không còn được nghe gì khác. Ma-ha Ba-xà-ba-đề nước mắt tuôn tràn, chết giấc hồi lâu mới tỉnh, vừa tỉnh lại khóc cất tiếng kêu Thái tử:

-Ôi thôi con ta ơi! Ôi thôi con ta ơi! Thân con xưa nay vốn được các loại hương thơm xoa đánh vào mình và cùng các thứ tô điểm đẹp đẽ, có oai đức to lớn như vậy; làm sao hôm nay con có thể ở chỗ hoang vu trong hang núi chịu đựng sự khổ sở, bị các loài côn trùng độc hại như: ruồi, lằn, muỗi, kiến…cắn chích thân con? Ôi thôi con ta ơi! Khi ở hoàng cung thân con luôn mặc áo Ca-thi-ca được xông các hương thơm, làm sao ngày nay con có thể chịu đựng được chiếc áo thô kệch xù xì hôi hám? Ôi thôi con ta ơi! Khi con còn ở trong hoàng cung thường dùng các thức ăn cao lương mỹ vị, được chế tạo từ các thực phẩm trăm vị vi diệu thanh tịnh, miệng chưa từng biết nếm món ăn đạm bạc, ngày nay con làm sao ăn được các thứ cơm canh bánh bột khô khan nguội lạnh? Ôi thôi con ta ơi! Khi con còn ở trong hoàng cung nằm trên giường êm nệm ấm, hoặc lại phủ lên trên bằng chiếc thiên y với hai chiếc gối tựa lót hai bên nằm ngồi tùy ý, ngày nay làm sao con có thể nằm ngồi trên đất trống hay trong rừng gai nhọn như kim? Ôi thôi con ta ơi! Khi còn ở trong hoàng cung còn có tôi trai tớ gái, hoặc có người hầu hạ hai bên, họ luôn đem tâm cung phụng kính mến, hoặc có kẻ tựa thân, hoặc có kẻ quỳ gối, hoặc có người đứng yên luôn luôn hướng về Thái tử, họ đều cung phụng không thiếu sót, ngày nay làm sao có thể sống bên người đầy sân hận, hoặc bên kẻ bần cùng hoặc bên người tánh nóng như lửa đốt, họ đối với con không từ tâm, làm sao con có thể chấp nhận sống với những người có tánh khí như vậy? Ôi thôi con ta ơi! Khi con còn ở hoàng cung có lớp lớp thể nữ hình dung đoan chánh, diện mạo xinh đẹp như hoa vây quanh hầu hạ để tùy ý con thọ hưởng khoái lạc, ngày nay con làm sao sống một mình nơi cảnh núi non trùng điệp, giống như dã thu` bị khủng bô` mà tâm con vui thú cái gì? Ôi thôi con ta ơi! Ngón chân con thẳng dài mềm mại có màn lưới, ống chân con như giò nai chúa, lòng bàn chân mềm dịu như lá sen non, với hình hai bánh xe ngàn căm in đậm nét rõ ràng tuyệt đẹp, ngày nay với bàn chân như vậy, làm sao con có thể chân không đi trên đất gai góc sạn sỏi? Hay mùa đông băng giá, mùa hè nóng bức, làm sao con có thể đi lại trên bàn chân như thế?

Ma-ha Ba-xà-ba-đề vì Thái tử khóc kể vô số chuyện như vậy rồi, tâm vừa tỉnh lại bình thường, từ đất đứng dậy hỏi Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, việc ấy đã như vậy, Thái tử Tất-đạt-đa con ta trên đường đi có dặn ông điều gì không? Này Xa-nặc, tóc con ta ở đâu?

Xa-nặc đáp:

-Tâu Quốc đại phu nhân, Thánh tử Tất-đạt-đa có dặn con thế này: “Này Xa-nặc, khi ông về đến triều đình sẽ thay Ta ân cần lễ bái thăm hỏi di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề, sau khi lễ bái xong, ông phải thưa thế này: Kính thưa Đại mẫu, xin di mẫu chớ quá ưu sầu, chớ sinh tâm khổ não, chẳng nên nhớ nghĩ đến con, chẳng bao lâu con sẽ chứng được sở nguyện, rồi sẽ trở về phụng kiến di mẫu.” Thưa Đại phu nhân, tự tay Thánh tử rút lấy thanh đao, tay tả cầm búi tóc, tay phải cầm thanh đao cắt lấy, rồi ném lên hư không. Lúc đó chư Thiên hứng lấy đem về cung trời cúng dường.

Ma-ha Ba-xà-ba-đề nghe Xa-nặc tâu như vậy, lại than khóc về búi tóc Thái tử:

-Ôi thôi con ta ơi! Tóc con rất dài, búi tóc mềm mại hết sức đẹp đẽ, mỗi lỗ chân lông mọc lên một sợi tóc xoay về một chiều, không rối không rụng, rất thích hợp đội lấy thiên quan thọ ngôi Thánh vương, ngày nay tại sao con nhẫn tâm quăng bỏ nó đi? ôi thôi con ta ơi! Hai tay con rất dài, lúc đi chậm rãi oai hùng như sư tử chúa, hai mắt tròn xoe như mắt trâu chúa, vai ngực nở rộng, tiếng nói vang rền như tiếng trống tiếng sấm, con người như vậy làm sao xuất gia nơi núi rừng hoang vu? Nếu ngày nay Thái tử thực hiện hạnh xuất gia thì quốc gia này vô phước, như cõi đất sụp đổ không thể hiện trở lại. Ta mong rằng người có mọi đức tính, đầy đủ công đức, ra đời làm vua và cai trị muôn dân để đem lại an lạc cho dân chúng.

Liền nói kệ:

Nếu vậy cõi đất này hết phước

Lẽ ra chẳng hiện bậc tuệ thông

Đã hiện thân công đức như thế

Nên vì nhân loại làm Thánh vương.

Bấy giờ Da-du-đà-la lớn tiếng kêu khóc, hết sức giận dữ dùng đủ lời quở trách Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, người phụ nữ chúng ta đang tuổi niên thiếu, nửa đêm ngủ say không hay biết, ông nay đem Thánh phu là người mà ta yêu quý đến bỏ ở xứ nào? Cách đây xa gần? Đấng đại trượng phu hiền thánh của ta cùng ông và ngựa cả ba đồng ra đi một lượt, mà hiện giờ chỉ có ông trở về, không thấy Thánh phu yêu quý của ta đâu cả. Do vậy ngày nay thân tâm ta lo sợ run rẩy, ông chẳng phải là người hiền lương, chẳng đem lại lợi ích cho ta. Này Xa-nặc, ta nay nói thật cùng ông, giả sử có kẻ oan gia hết sức hung dữ làm điều tàn khốc cũng không bằng tổn hại do ông gây ra, nhưng đối với ta ngày nay, việc này hết sức độc ác. Này Xa-nặc, nếu ông là người mà ta nhờ vả, lẽ ra ông phải giúp đỡ ta, che chở ta. Tại sao ngày hôm nay ông thấy ta nửa đêm ngủ say, một mình ông lén dẫn Thánh tử ta đến bỏ xứ nào? Này Xa-nặc, ông nay đối với ta làm việc của kẻ đại oán thù, việc này ông đã hoàn tất, ngày nay ông cần gì phải buồn rầu than khóc, ông nên lau nước mắt, cần gì phải gượng ép thương nhớ lệ tuôn vô ích. Này Xa-nặc, ông tạo nghiệp bất thiện, ông nay đã làm xong cần gì phải buồn. Này Xa-nặc, vì ông là thiện hữu của Thánh phu ta, nên giờ cấm đoán ra vào nội cung, đối với ông không có ngăn cản, nên ngày nay ngược lại khiến Thánh phu ta, tùy theo ý ông mà đi. Này Xa-nặc, nuôi ông trong nhà làm gì? Nay ông làm xong việc bất thiện như vậy, lẽ ra ông phải vui mừng, ta biết ông ngày nay sẽ được quả lớn, được phước lợi to. Này Xa-nặc, phàm người thế gian thà cùng người trí làm kẻ oan gia, chẳng nên cùng người ngu kết bằng hữu, ông tuy là bằng hữu của chồng ta mà ông làm việc như vậy, như vậy là không chịu suy nghĩ là tại làm sao? Này Xa-nặc, ông nay đối với hoàng tộc ta đã làm những điều không lợi ích, lẽ ra ông nên sinh tâm rất vui sướng. Này Xa-nặc, cung điện này rất cao đẹp nguy nga, giống như những áng mây, lại dùng những chuỗi anh lạc trang hoàng, của cải sung mãn, nay những thứ đó đã vì ông mà trở thành vô nghĩa.

Da-du-đà-la liền đối với Xa-nặc mà nói kệ:

Thà gần kẻ oán có trí tuệ

Chớ nhận kẻ ngu làm bằng hữu

Do ông làm việc thiếu suy nghĩ

Hoàng tộc cùng ta khổ não nhiều.

Da-du-đà-la nói kệ rồi, lại bảo Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, nay đối với chồng ta, nếu đã như vậy, tâm ta sao khỏi ưu sầu. Ngày nay hàng thể nữ làn da trắng như tuyết, đôi môi đỏ tợ son, dung nhan tuyệt đẹp khả ái ít ai sánh bằng, họ cởi bỏ xiêm y lộng lẫy, thân không trang sức chuỗi anh lạc, lẽ ra họ cùng nhau thọ hưởng dục lạc, nào ngờ bỗng sớm trở thành góa phụ. Vì họ mất ngủ, đêm ngày lệ nhỏ thành dòng không ngớt, kêu khóc than thở không thôi.

Này Xa-nặc, con ngựa Kiền-trắc này oán ghét ta, trong đêm hôm đó tạo điều không lợi ích, thấy ta đêm đó ngủ say, nó chở người chồng yêu quý của ta vượt thành ra đi, ngựa này tạo nghiệp vô cùng bất thiện, cớ gì ngày nay trước mặt ta hí vang tỏ vẻ đau khổ? Tiếng hí của nó vang dội khắp thành của Đại vương, mà trước kia nó chở Thánh phu ta ra đi, con ngựa bất thiện này vì cớ gì nó im hơi ẩn nhẫn mà đi? Nếu khi ban đầu ra đi nó hí vang như ngày hôm nay, thì khi ấy mọi người đang ngủ nghe tiếng nó thức dậy, thì ngày hôm nay ta cũng không gặp cảnh đại khổ não này. Con ngựa bất thiện này, giả sử tên bắn thủng xuyên qua thân nó, hoặc dùng gậy đập chết nó, lẽ ra nó không nên đưa Thái tử ra khỏi thành hướng đến nơi sơn lâm mới phải. Đằng này con ngựa không vì hoàng gia ta làm điều lợi ích, chính vì nó sợ roi vọt nên đã chở Thánh chúa là người chồng trong lòng ta thường quý mến ra khỏi thành thẳng đến sơn lâm.

Ngày nay cung điện này của ta do vì không chủ, điện đường, phòng thất, thành lũy xóm làng, đường sá thôn ấp, cửa sổ lầu gác, cửa nẻo lan can, tiếng ngọc khua len ken, cung điện bán nguyệt đẹp đẽ tuyệt vời hết sức hoa lệ. Nay những thứ này hoàn toàn vô nghĩa cũng vì con ngựa Kiền-trắc độc ác này. Khuê phòng trong hoàng cung ta giống như đồng vắng, mở mắt lệ rơi không còn gì để ham muốn.

Da-du-đà-la buồn khóc nghẹn ngào khổ sở nói những lời thống thiết như vậy, rồi ngất xỉu bất tỉnh rất lâu. Xa-nặc nghe những lời quở trách của Da-du-đà-la như vậy, chắp tay cúi đầu khép nép lệ nhỏ khóc ròng, tâu Đại phi Da-du-đà-la của Thánh tử:

-Ngày nay Đại phi chẳng nên quở trách tôi, tôi không sai lầm, tôi và ngựa Kiền-trắc ngày nay thật không có tội lỗi. Thánh phu của đại phi đêm hôm đó khi bắt đầu ra đi, tôi can gián tạo đủ điều chướng ngại, lúc đó tôi to tiếng kêu các phi, dùng nhiều lời nói như thế này: “Các phi mau thức dậy! Các phi mau thức dậy! Đêm nay ái phu của các phi sắp dẫn tôi và ngựa Kiền-trắc ra đi.” Hôm đó tay tôi nắm đầu tóc mỗi cung phi đánh thức, cho hay việc như vậy, tôi nắm đầu tóc Đại phi, rồi nắm đầu tóc các cung phi khác…mỗi cung phi tôi đều gọi tên và nói việc Thái tử ra đi, nhưng bấy giờ các thể nữ ấy không thức dậy. Ngoài ra đối với bao nhiêu thể nữ khác nữa cũng đều như vậy.

Khi Thánh tử ra đi, con ngựa Kiền-trắc cũng tạo đủ điều ngăn cản, miệng nó hí to hơn ngàn tiếng, chân nó giậm xuống đất không chịu bước tới, lại nhe răng hàm dưới mũi thở phì, khi tiếng ngựa hí vang xa nửa do-tuần, tiếng giậm chân của nó vang động đến hơn một câu-lô-xa.

Tôi lúc đó la lên: “Ôi ái phu của các phi đêm nay ra đi.” Đại phi cùng bao nhiêu thể nữ khác tự không hay biết những tiếng kêu to như vậy. Đó là do thần lực của chư Thiên làm tan biến tiếng động khiến mọi người không nghe.

Đại phi phải biết, tôi và ngựa Kiền-trắc thật không dám đưa Thái tử ra đi. Như vậy Đại phi tự xét biết Thánh tử của Đại phi có nghe lời tôi hay không? Nếu Thái tử nghe lời cản ngăn của tôi, thì hoàn toàn không có việc này xảy ra.

Xa-nặc hướng về phía Da-du nói kệ:

Tôi không chịu nổi, nước mắt rơi

Chắp tay cúi đầu xin tự bạch

Đại phi chẳng nên quở Kiền-trắc

Kể cả cùng tôi chớ giận hờn.

Tâu Đại phi, tôi cũng biết trước đó Đại vương Tịnh Phạn ban sắc lệnh rất nghiêm khắc, tất cả những người hầu hạ Thái tử phải cẩn thận giữ gìn Thái tử. Tuy tôi có giáo lệnh như vậy, nhưng tôi không được tự do, vì bị thần lực chư Thiên làm mê hoặc tâm ý tôi, chẳng phải tôi muốn làm việc như vậy. Việc ra đi của Thái tử cũng được thần lực của chư Thiên kêu gọi nên mau xuất gia.

Lại nữa, lúc đó tùy tâm Thánh tử muốn mở cửa thành thì cửa tự mở. Từ trước các cửa thành đều có trên ngàn người giữ gìn tâm không lơ đễnh. Nhưng hôm đó Thánh tử bước qua các cửa cung họ đều ngủ say không biết, giống như mặt trời mới mọc, ánh sáng chiếu phá tất cả các bóng tối, lúc bấy giờ tôi biết đây là việc làm của chư Thiên.

Bạch Đại phi, Thánh tử ra khỏi thành, trên đường đi tôi chạy bộ trước phía, lúc ấy thân tôi không biết mỏi mệt.

Bạch Đại phi, con ngựa Kiền-trắc này trên đường đi bốn chân nó không giậm xuống đất, giống như có người khiêng nó mà đi, tiếng hí của nó nghe cũng không xa. Thưa Đại phi, trong tâm tôi lúc đó tự nghĩ cũng biết đó là việc làm của chư Thiên.

Thưa Đại phi, bấy giờ tôi thấy Thái tử muốn làm Sa-môn đúng như pháp, nên cắt bỏ bủi tóc ném lên hư không, chư Thiên chụp lấy không cho rơi xuống đất, rồi ngài cởi bỏ y phục vương triều trao cho người thợ săn đổi lấy chiếc ca-sa hoại sắc, lúc ấy tâm tôi nghĩ đây cũng là việc làm của chư Thiên.

Bạch Đại phi, vì những việc như vậy, xin Đại phi ngày nay đối với tôi đừng có tâm giận hờn. Vì sao? Vì việc ra đi của Thái tử không phải do tôi cũng không quan hệ gì đến con ngựa Kiền-trắc.

Bấy giờ Đại phi Da-du-đà-la nằm trên đất suy nghĩ giây lát rồi cất tiếng buồn khóc kêu la nói lên thế này:

-Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngày nay thiếp sống phải đạo hiếu thuận với chồng, không biết cớ gì Thái tử lại bỏ thiếp ra đi? Thái tử đến nơi núi rừng cầu pháp tu khổ hạnh, như vậy Thái tử sống không phải đạo, do vì không tùy thuận pháp hạnh. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài lẽ nào không nghe các vua đời trước khi muốn vào sơn lâm cầu pháp tu khổ hạnh, họ đều đem cả vợ con cùng đi, các vị vua đó không tổn hại thánh đạo, cũng được thành tựu. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Lẽ nào ngài không nghe có pháp thế này: Xưa có người đi tu vẫn cùng với vợ con cạo tóc xuất gia hành đạo, tinh cần khổ hạnh, đem theo cả ngựa tốt tế tự chư Thiên hoặc lập hội Vô giá, cả hai vợ chồng đều hưởng quả báo hết sức tốt đẹp, như ngài đã biết điều này có nói trong luận Vi-đà. Nhưng cớ gì ngày nay Thái tử riêng đối với thiếp sinh tâm bỏn sẻn không cho thiếp đồng tu khổ hạnh? Ôi Thái tử! Việc làm của Thái tử vô ích, uổng phí đời người. Nếu ở thế gian Thái tử đã cùng với vợ sinh tâm ân ái, tại sao ngày nay lại ruồng bỏ vợ hiền hay là muốn lên cõi trời Đao-lợi tham đắm ngọc nữ? Ngày nay theo ý thiếp thấy việc như thế này: Ngọc nữ chư Thiên kia có gì đáng tham? Hình dung của họ có gì xinh đẹp? Tình ái ngũ dục có gì đáng hoan lạc?

Nếu như Thái tử nói rằng không tham đắm khoái lạc chư Thiên thì tại sao lại bỏ công đức oai thần của một vương vị, xa lánh thiếp và hàng thể nữ nơi cung điện này.

Thái tử đã xả bỏ tất cả xuất gia vào nơi sơn lâm vắng để tu khổ hạnh. Còn thiếp ngày nay không cầu quả báo chư Thiên, cũng không muốn làm thân ngọc nữ, tâm thiếp biết thế này là đủ, thiếp có oai lực thế này, ở tại nhân gian không cầu sinh lên cõi trời, chỉ ở nơi đây tu hành khổ hạnh với sở nguyện: Nếu ở nhân gian hay sinh lên trời chỉ nguyện sống đúng như pháp hầu hạ kề bên Thái tử.

Nếu tâm Thái tử quyết định dứt khoát xa lìa hàng thể nữ chúng tôi mà vào trong rừng núi hoang vu, thì tâm nguyện luôn luôn được hầu hạ bên Thái tử của thiếp kiên cố không thay đổi, bền chắc như đá không khác.

Như thiếp ngày nay thật sự trở thành góa phụ, vì thấy phu chủ của mình bỏ triều đình xuất gia vào trong sơn lâm khiến cho thiếp nơi phòng trống cô đơn, làm sao lòng thiếp không tan nát cho được.

Rồi nàng nói kệ:

Tâm ta ngày nay tuy bền chắc

Cứng như sắt đá có khác gì

Chồng bỏ vào núi nội cung trống

Làm sao tâm ta chẳng nát tan.

Da-du-đà-la vì mất Thái tử nên khổ não bức xúc tinh thần hôn mê, bỗng nhiên té nhào xuống đất bất tỉnh giây lâu mới tỉnh dậy, hoặc có lúc kêu khóc buồn thám, hoặc có lúc đứng cúi đầu nín thinh suy nghĩ, hoặc có lúc kinh sợ cuồng loạn nói nhảm:

-Người chồng của ta nay đi phương nào? Thánh tử của ta dừng nghỉ ở đâu, khiến ta ngày nay cô độc ở trong cung một mình? Thái tử ruồng bỏ ta, phản bội ta mà đi. Từ ngày nay không có Thái tử ta không nằm giường cũ, không dùng nước nóng hương thơm tắm gội, lại trên thân cũng không trang điểm, không lau chùi, không tô son điểm phấn, lại cũng không mặc y phục nhiều màu sắc rực rỡ, từ ngày nay về sau ta không mang các chuỗi anh lạc, cũng không đeo các tràng hoa hay hương thơm, không ăn các thức ăn cao lương mỹ vị, cũng không uống các thứ nước ngon ngọt, tất cả các thứ rượu ta đều không uống. Xưa từng ăn các thức ăn ngon nay lại không ăn, trên đầu để tóc trần không cần trang điểm, ta tuy ở nhà mà tâm ta luôn luôn tưởng như đang ở trong rừng núi tu khổ hạnh, cho đến chẳng thấy đấng trượng phu tối thắng, ta thấy tất cả viên lâm sông hồ khe suối, nhà cửa cung điện đều đầy đất bụi, giống như cánh đồng hoang vắng, do vì không có Thánh tử nơi thành Ca-tỳ-la. Tất cả cung điện lầu gác đều thiếu vẻ tươi sáng trang nghiêm giống như bãi sa mạc, do vì mọi người ở đây trong tâm ưu sầu khổ não, nên không thể tự kiềm chế, mất chánh niệm, lại không còn biết xấu hổ.

Khi Da-du-đà-la lăn lộn trên đất nói nhảm như vậy, thì bao nhiêu thể nữ trong cung đều đồng thanh kêu khóc lớn tiếng, lệ nhỏ ướt cả mặt mày.

Kệ nói:

Khổ não như vậy bức xúc người

Da-du-đà-la cùng thể nữ

Nhìn nhau òa khóc lệ tuôn trào

Mưa rào giữa hạ nào có khác.

Xa-nặc thấy Da-du-đà-la than thở những lời khổ não như vậy, mới khuyên can:

-Đại phi chớ nên sinh tâm khổ não thống thiết như vậy, chớ quá buồn rầu khổ sở, cần phải nguôi đi chớ nên nhớ nghĩ Thánh tử nữa. Khi Thái tử ra đi, tuy Ngài ở trong nhân gian so với chư Thiên không khác, oai thần khí lực của Ngài nào khác chư Thiên. Khi Thái tử ra đi có chư Thiên vây quanh hộ vệ, bên hữu thì có Phạm thiên vương và quyến thuộc, bên tả thì có chúa trời Đế Thích và quyến thuộc cõi trời Đao-lợi, phía Đông thì có vua Càn-thát-bà Đề-đầu-lại-tra, phía Nam thì có vua Cưu-bàn-trà Tỳ-lâu-lặc-xoa, phía Tây thì có Tỳ-lâu-bác-xoa và các Long vương, phía Bắc thì có trời Tỳ-sa-môn thống lãnh các quỷ Dạ-xoa. Thân họ đều mặc áo giáp kim cang, tay cầm cung tên hay giáo mác vây quanh hộ vệ, đi phía trước dẫn đường hay đi phía sau hộ tống, hoặc ở hai bên tả hữu tùy tùng hộ vệ. Trên không trung luôn luôn có ngàn vạn chư Thiên ngọc nữ, họ đều vui mừng hớn hở khắp cả châu thân không thể kiềm chế được, đem các loại hoa rải trên mình Thánh tử không ngớt. Lúc đó Thánh tử thấy ngọc nữ chư Thiên tâm không vui, không thích, không thương, không giận, không lấy, không bỏ, tâm Thánh tử không tham đắm sự hầu hạ của ngọc nữ như vậy.

Tâu Quốc mẫu Đại phi, khi Thánh tử ra đi, chư Thiên hiện thần thông đem bao nhiêu việc cúng dường Thánh tử như vậy, ngày nay tôi khó có thể trình bày tường tận mọi sự việc.

Xa-nặc trình bày như vậy rồi, đệ nhị phi Thánh nữ Cù-đà-di giống như cành đại thọ gãy nhào, nàng nằm dài trên đất không thể đứng dậy nổi, Thánh nữ Cù-đà-di vì lửa ái thương nhớ Thánh tử thiêu đốt bứt xúc thân tâm, hết sức Ưu sầu buồn phiền khổ sở, thân nằm trên đất lăn lộn khóc than thốt lên thế này:

-Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Mặt Ngài đầy đặn như trăng rằm. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Thân Ngài đẹp đẽ không ai sánh bằng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài đầy đủ các tướng vô thượng tối thắng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Thân Ngài thanh tịnh thế gian không ai sánh bằng, các bộ phận trên cơ thể không tỳ vết, đẹp đẽ như tượng vàng. Ôi thôi phu chủ của ta ơi! Công đức của Ngài rất tối thắng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài có lòng đại từ bi được người trời cúng dường, ôi thôi phu chủ của ta ơi! Ngài dũng kiện có sức mạnh như thần Na-la-diên, không một kẻ thù nào địch lại, mà còn hàng phục được kẻ thù. Ôi thôi phu chủ của ta ơi! Giọng nói của Ngài như Phạm thiên, thánh thót như con chim Ca-lăng-tần-già. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Tiếng tốt của Ngài vang khắp mọi nơi. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài có trăm ngàn phước đức trang nghiêm, người trời trong thế gian không ai sánh bằng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Công đức của Ngài viên mãn, chư Tiên thấy Ngài đều sinh tâm hoan hỷ. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài như rừng trí tuệ, mọi người nghe danh Ngài thảy đều cúng dường. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Đối trong thế gian ngài có một thiệt căn tối thượng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Mắt Ngài sáng xanh như hoa sen xanh. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Môi miệng Ngài đỏ như trái tần bà. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Miệng Ngài có bốn mươi răng trắng sạch tinh khiết, như sữa, như lụa, như sương, như tuyết. Ôi thôi phu chủ của ta ơi! Mũi Ngài cao thẳng như ống vàng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Lông trắng ở giữa hai hàng lông mày của Ngài thanh tịnh mọc ngay chính giữa. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài có đôi vai rộng nở nang bằng phẳng, bụng dài thon, thắt lưng lõm như chiếc cung, tay chân mềm mại. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài có bắp vế, ống chân, bắp tay, cánh tay giống như vòi voi; bàn tay bàn chân bằng phẳng, móng đều đỏ hồng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Những chuỗi anh lạc của ngài, Đại vương Tịnh Phạn chọn ngày lành tháng tốt vào đêm sao tốt xuất hiện mới làm, khi ấy Đại vương rất hoan hỷ, tại sao ngài xa lánh nó? Thiếp nay cũng chẳng muốn thấy các chuỗi anh lạc này.

Lúc đó, Cù-đà-di do tâm khổ não khủng bố luôn luôn kinh hoàng giống như nai rừng bị thợ săn đuổi lạc vào hoa viên, tay họ cầm cung tên đuổi theo bắn thân nai, nó vô cùng khổ sở chạy khắp đó đây, quan sát bốn phương không có nơi che chở để được thoát nạn. Trong lúc này tâm Cù-đà-di cũng lại như vậy, hoặc ở trong cung nói nhảm, hoặc nơi điện đường tự tranh luận một mình, hay chạy khắp mọi nơi không tìm ra Thái tử, buồn khóc kêu gào nước mắt ướt cả mặt mày, không ai khuyên giải được, nàng khổ sở vô cùng. Rồi lại lớn tiếng xướng lên:

-Khi Thánh tử còn ở tại triều thì nơi đây đầy đủ mọi vật tốt đẹp nguy nga tráng lệ tràn đầy nhựa sống, có oai thần như trời Đế Thích ở cung trời Đao-lợi, ngày nay bỗng nhiên Thái tử vô cớ bỏ đi, nơi đây tất cả đều mất hết, thành này giống như rừng tử thi, giống như đầm vắng núi hoang hoặc như đồng nội. Khi còn Thái tử, ở nơi cung này, ta cùng Ngài thọ hưởng vô số dục lạc, tâm ta say đắm khoái lạc không biết nhàm chán, ngày nay không còn Thái tử, tâm ta không còn say đắm, ví như cá trạch rời nước nằm trên đất khô, không một chút vui trong giây lát huống nữa là sinh tâm khoái lạc. Ta nay cũng vậy, vì không có Thái tử tâm nào có vui. Giống như bướm không vui mùa xuân vì không có hoa, nên bướm chẳng màng đến hoa lâm hay không thích hoa lá. Ta nay cũng vậy, vì không có Thái tử nơi đây chẳng có gì vui thú!

Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Chỗ nằm ngồi trước kia của Ngài thường trổi âm nhạc hòa lẫn tiếng hát, vì tâm thể nữ trong cung vui thích đồng ca hát, nay cũng cung điện này đâu có khác, mà làm cho tâm ta bỗng nhiên không vui mà lại ưu sầu khổ não, huống nữa là có kỹ nhạc.

Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Thân Ngài mang các tràng hoa tuyệt đẹp, các chuỗi anh lạc trang sức trên thân, dầu thơm phấn thơm tùy thời cung cấp đầy đủ không thiếu sót, chính đương thời kỳ thọ hưởng khoái lạc, tâm rất hoan mê, không biết cớ gì tự nhiên bỏ đi. Ví như bầu trời bỗng kéo mây mù, nổi lên sấm chớp giáng trận mưa đá rồi liền tạnh. Thánh tử cũng vậy, sắp lên ngôi vua thọ hưởng khoái lạc, không có điều gì là không được toại ý, mà lại bỏ thánh vị ra đi.

Phải chăng ta thuở xưa tinh cần bố thí nhiều vật quý giá rồi sinh tâm hối tiếc, do tâm hối tiếc nên nay mắc phải quả báo này, tuy thọ quả báo vô cùng tối đẹp, bỗng nhiên lại mất, do vì nghiệp hối tiếc nên nay bỗng thành góa phụ. Ngày nay ta bạc phước nên mất vị phu chủ vô thượng tối thắng này.

Ôi cuộc tình ân ái hòa hợp chẳng bao lâu rồi liền ly biệt, giống như trò chơi nơi hý trường, chẳng được mấy chốc rồi lại giải tán. Cuộc tình của ta với Thánh tử cũng lại như vậy.

Lại nghe truyền thuyết, ngày xưa có một vị vua tu tiên, ngài tu hạnh tịch tĩnh điều phục các căn chứng được thiền định, ngài vào trong rừng núi giữ giới không sát sinh, thân chuyên khổ hạnh, uống diệu dược, ăn quả cây ngon ngọt, cùng đem theo vợ con ẩn thân trong rừng đồng tu phạm hạnh, nay đây Thái tử vì duyên gì, một mình vào nơi núi rừng hoang vắng siêng năng tinh tấn.

Rồi Cù-đà-di lại choàng lấy cổ ngựa Kiền-trắc lớn tiếng kêu khóc:

-Ôi thôi! Này ngựa Kiền-trắc, mi không có chút từ tâm, Thánh tử đồng sinh một ngày với mi nay ở xứ nào? Mi vì cớ gì nửa đêm đến chở Thánh tử ta ra đi mà không cho ta biết?

Rồi lại quở trách Xa-nặc:

-Ôi thôi! Này tên Xa-nặc, tâm ngươi rất độc ác, ta lỡ ngủ say tại sao ngươi không đánh thức để cho ta biết? Thái tử là người mà trong tâm ta hằng kính ái, ngày nay bỗng nhiên ra đi, mà lý do gì ngươi không kêu ta? Để cho ta từ nay suốt thời gian còn lại phải chịu cảnh sống cô đơn, đi đứng nằm ngồi một mình, thật là vô cùng khổ não. Ôi thôi! Này tên Xa-nặc, ngươi hãy nói cho ta biết khi Thánh tử ra đi bằng cách nào? Lại ai là người chỉ lối đi trong hoàng cung này? Khi ra khỏi thành ai là người hướng đạo và đi về phương nào? Rồi ngày nay Thánh tử ở đâu?

Sau khi thứ phi Cù-đà-di quở trách Xa-nặc như vậy rồi lại xuống giọng nói với chàng ta:

-Này người hiền Xa-nặc, tuy sự việc lỡ xảy ra như vậy rồi, ngươi đã hầu hạ Thái tử ra đi rồi lại trở về đây, ngươi nên biết rõ chỗ ở của Thái tử, ngươi nên hướng dẫn ta tới đó, để ta luôn luôn gần gũi bên Thái tử tu tập khổ hạnh, chuyên tâm cầu đạo, với hoài bảo cùng Thánh tử sinh lên Thiên giới.

Xa-nặc nghe đủ lời trách mắng đau khổ cùng giọng nói ngọt ngào của Cù-đà-di, hết sức buồn bã ưu sầu khổ não, bức xúc thân tâm đau khổ tăng lên gấp bội phần, nước mắt tuôn trào ướt cả mặt mày, nhưng gắng gượng tỏ vẻ bình tĩnh chậm rãi an ủi Cù-đà-di:

-Xin phu nhân lắng nghe, chẳng nên ưu sầu, lại chẳng nên khóc lóc như vậy, chẳng bao lâu chúng ta sẽ gặp Thánh tử. Vì sao? Vì khi Thánh tử bảo tôi trở về hoàng cung, Ngài có nói thế này: “Này Xa-nặc, khi ngươi trở về hoàng cung, thay Ta hỏi thăm tất cả quyến thuộc, các phi tần và cùng tất cả các đồng tử bằng hữu tri thức. Ta nay bảo ngươi trở về nội cung an ủi mọi người, thay Ta nói với họ: Ta nay đã dẹp trừ màn lưới tham sân si, chẳng bao lâu ta sẽ chứng trí tuệ Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi chứng đạo rồi Ta hứa sẽ trở về thành Ca-tỳ-la.” Tôi biết Thánh tử quyết định sẽ chứng được đại trí tuệ đáp ứng bản nguyện của Ngài, Ngài sẽ trở về không chút nghi ngờ, biết bậc tối thắng trong chúng sinh nhất định không có lời nói thiếu chân thật.

Thuở ấy Đại vương Tịnh Phạn khổ sở ở trong cung tế tự chư Thiên xong rồi, xa nghe trong cung điện của Thái tử có tiếng kêu khóc vang dội, Đại vương liền từ trong cung điện của mình bước ra, ngay khi ấy gặp Xa-nặc đem tán lọng, chuỗi anh lạc của Thái tử và dắt con ngựa Kiền-trắc đến, bày biện các vật và theo sự chỉ dạy của Thái tử, Xa-nặc ân cần thưa hỏi đảnh lễ đầu mặt sát chân Đại vương, nước mắt ràn rụa cả mặt mày, y theo lời Thái tử dạy nghẹn ngào tâu lên nhà vua.

Đại vương Tịnh Phạn thấy chuỗi ngọc anh lạc, tán lọng và ngựa Kiền-trắc của Thái tử, đồng thời nghe những lời từ hiếu ân cần thưa hỏi của Thái tử, bỗng nhiên lớn tiếng thất kinh kêu khóc:

-Ôi thôi đứa con yêu quý của ta ơi! Ai ngờ như thế này!

Khi ấy nhà vua Tịnh Phạn vì thương nhớ Thái tử ưu sầu bức xúc thân tâm, vật mình té nhào xuống đất mê man bất tỉnh.

Có kệ:

Vua nghe Bồ-tát thệ nguyện sâu

Lai thấy Xa-nặc, Kiền-trắc về

Bỗng nhiên té nhào tâm bất tỉnh

Như cờ Đế Thích gãy tự nhiên.

Bấy giờ, bao nhiêu quyến thuộc thân tộc ở trong cung Đại vương Tịnh Phạn thấy nhà vua té nhào xuống đất, họ đều sinh tâm ưu sầu khổ não không còn một chút gì vui thú, tự cất tiếng kêu khóc, thốt ra những lời buồn than áo não.

Tất cả dân chúng lớn nhỏ trong thành Ca-tỳ-la vì biệt ly Thái tử, nên họ cũng kêu oán khóc vang. Các hàng quyến thuộc tuần tự cùng nhau an ủi Đại vương Tịnh Phạn.

Đại vương thương nhớ Thái tử tâm ưu não không nguôi, các thân tộc, hoặc có người khuyên giải, hoặc có người đỡ Đại vương ngồi dậy, tuy nhà vua ngồi dậy nhưng chẳng được bao lâu rồi lại ngã lăn xuống đất mê man bất tỉnh, hoặc giả như có lúc nào tỉnh dậy thì kêu khóc nước mắt ướt cả mặt mày, rồi bảo Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, vì cớ gì ông không đưa Thái tử về cung?

Xa-nặc tâu:

-Thưa Đại vương, xin ngài biết cho, con cũng hết sức ân cần dùng mọi cách để thuyết phục Thánh tử trở về Hoàng cung, nhưng tâm Thánh tử không còn ưa thích tất cả các pháp thế tục trong cuộc đời này, Ngài bỏ tất cả không chút lưu luyến, Ngài lại nói với con thế này: “Ông chớ nên can gián Ta, Ta không cần tất cả các thứ ngũ dục, xa lìa thân tộc quốc thành, chỉ thích cảnh núi rừng khe suối vắng lặng.”

Đại vương Tịnh Phạn nghe Xa-nặc tâu như vậy và thấy đồ tư trang chuỗi anh lạc… của Thái tử nằm trên đất, ngài liền đảnh lễ các vật này, lệ nhỏ ướt cả mặt mày, lớn tiếng kêu khóc, rồi bảo Xa-nặc:

-Ta nay sức kiệt lại không còn ý khí, tay chân đều rã rời giống như cây khô trơ trụi, ngày nay ta xa cách Thái tử như cây không cành lá chỉ còn có thân cây. Đối với các nước bên ngoài, nay họ thấy vậy khinh khi, ta lại một mình không còn năng lực, như cây bị mưa đá, làm trò vui cho trẻ con.

Ôi thôi con ta ơi! Con là bậc Đại trượng phu tối thượng có hình dung khôi ngô khả ái không ai sánh bằng, là đồng tử dịu hiền lại trái tâm nguyện của ta, tại sao con xuất gia xa lìa ngũ dục, là đứa con tâm ta yêu mến mà lại bỏ ra đi!

Ôi thôi con ta ơi! Trên thân con có đủ các tướng, trong mỗi tướng đều đầy đủ trăm phước trang nghiêm.

Ôi thôi, con ta ơi! Khắp thân thể con đều đầy đủ các tướng tốt.

Ôi thôi, con ta ơi! Con chờ cho thể nữ ngủ say, con lén ra đi.

Ôi thôi, con ta ơi! Thuở xưa tại cung điện ta không có chút ưu sầu.

Ôi thôi, con ta ơi! Trong các nhà vua con là hơn hết.

Ôi thôi, con ta ơi! Từ trước đến nay con thường sinh trong dòng họ các nhà vua.

Ôi thôi, con ta ơi! Tại sao hôm nay con bỏ vương vị xuất gia?

Ôi thôi, con ta ơi! Con được nhiều người thích chiêm ngưỡng, hoặc kẻ nam người nữ, hoặc kẻ già người trẻ hay các bậc trượng phu, một khi mắt họ trông thấy con, là không một ai không hoan hỷ.

Ôi thôi, con ta ơi! Con là bậc tài giỏi đa trí.

Ôi thôi, con ta ơi! Nay con xả bỏ tất cả quyến thuộc, bốn châu thiên hạ và bảy báu mà xuất gia sống một mình.

Ôi thôi, con ta ơi! Nay con bỏ hoàng cung xuất gia ví như đại bạch tượng lay nhổ cổ thụ.

Ôi thôi, con ta ơi! Khi con ra khỏi hoàng cung trải qua bao nhiêu cửa thành, các cửa đều khó mở khó đóng, hơn nữa khi mở đóng tiếng động vang đi rất xa, tại sao hôm nay khiến ta không nghe? Ắt được chư Thiên cản ngăn tiếng động.

Ôi thôi, con ta ơi! Ngày nay nơi thành Ca-tỳ-la này, các hàng quyến thuộc dòng họ Thích mất hết hy vọng, do vì Thái tử Tất-đạt-đa xả tục xuất gia.

Ôi thôi, con ta ơi! Bao nhiêu quyến thuộc dòng họ Thích nơi thành Ca-tỳ-la có bao nhiêu tài sản vàng bạc ngọc ngà, kho lẩm lúa mạch, tiền bạc đồ vật… họ đều xả bỏ coi như đờm dãi, vì Thái tử bỏ đi xuất gia.

Ôi thôi, con ta ơi! Cha vì con xây dựng cung điện bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, tại sao ngày nay con bỏ cung điện ấy xuất gia ưa thích sống nơi vắng vẻ không người, vui cảnh sơn lâm chỉ đầy cầm thú.

Ôi thôi, con ta ơi! Thuở trước khi con chào đời, các Tiên nhân đoán hai việc, do vậy cha hết sức vui mừng tràn ngập châu thân không thể kiềm chế, nên lúc ấy bỗng nhiên đảnh lễ dưới chân hài nhi.

Ôi thôi, con ta ơi! Ngày nay con xuất gia, các vị thần hộ thành đều xa lánh nơi đây.

Ôi thôi, con ta ơi! Mặt con đầy đặn như trăng rằm. Răng con trắng sạch. Mắt con như mắt trâu chúa.

Ôi thôi, con ta ơi! Trước đây thường được nghe tiếng nói của con cha rất vui mừng, ngày nay nhớ tưởng lại càng sầu thảm.

Ôi thôi, con ta ơi! Ta thường dùng các loại hương chiên-đàn thơm hảo hạng như Đa-già-la, trầm thủy ngưu đầu để thoa trên thân con, dùng các chuỗi anh lạc trang sức trên thân con, dùng các loại hương xông để xông tấm thân mềm mại của con. Nay bỗng nhiên cha không thấy con.

Con ơi! Tâm cha ái luyến con thấm tận da, thịt, gân, mạch, xương, tủy vậy mà nay bỗng nhiên con xuất gia vào trong núi rừng!

Khi ấy, Đại vương Tịnh Phạn lại khấn vái:

-Ngày nay tôi đem tâm cầu nguyện tất cả chư vị Thần vương Hộ thế ủng hộ chúng sinh ở bốn phương, nay sẽ vì Thái tử xin quý ngài thường tạo những điều lợi ích giúp đỡ.

Ngày nay tôi đem tâm cầu nguyện chúa trời Đế Thích ngàn mắt trên Thiên giới, là vị vua trời, phu quân của Xá-chỉ, có thế lực lớn được thiên dân bao quanh hầu hạ, xin quý ngài giúp cho Thái tử.

-Lại mong các vị thần gió, thần nước, thần lửa, thần đất ở bốn phương chính và bốn phương phụ nơi thế gian, xin các ngài giúp đỡ cho Thái tử.

Các ngài là bậc Trượng phu vô thượng siêu việt làm sao vất bỏ bốn đại thiên hạ. Con ta xuất gia lập chí cầu quả Thánh vô thượng cực diệu. Ta mong cầu đại nguyện của con ta chóng thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, để ta sớm được chứng kiến.

Đại vương Tịnh Phạn nằm trên đất đem vô số lời quở trách con ngựa Kiền-trắc:

-Ngươi là con ngựa bất thiện, từ trước tới giờ ngươi đem lại cho ta nhiều điều an vui, nhưng nay vì lý do gì mà ngươi lại tạo những điều hết sức vô ích tổn hại đến dòng họ Thích của ta? Thái tử con ta thường yêu mến ngươi, đối với tâm ta cũng vậy, vì ngươi trước đây thường đem lại cho chúng ta những điều hoan hỷ, nhưng ngày nay ngươi làm những việc như vậy, là ngươi trở lại hủy diệt ngươi. Ngươi hãy đưa ta đến chỗ Thái tử đang ở, để ta cùng đứa con yêu dấu đồng tu khổ hạnh. Do vì ta ngày nay cách biệt Thái tử, thì thọ mạng ta chẳng bao lâu, đời sống ta chỉ trong chốc lát!

Rồi nhà vua nói kệ:

Ngựa Kiền-trắc, ngươi hãy mau lên

Đưa ta đi đến nơi Thái tử

Ta xa Thái tử mạng khó còn

Như người bệnh nặng không thuốc thang.

Nhà vua nói lời như vậy rồi, do lòng thương nhớ Thái tử nên đau khổ bức xúc, người nằm trên đất cất tiếng khóc vang khổ não vô cùng, hoặc vừa chồm dậy lại liền ngã xuống ấm ức nghẹn ngào.

Lúc ấy có một vị đại thần thông minh trí tuệ cùng các Quốc sư, Bà-la-môn, thấy vua Tịnh Phạn lăn lộn trên đất, nghiêng bên tả ngã bên hữu, thân tâm lúc nào cũng rất ưu sầu áo não, buồn thảm khổ sở bức xúc không thôi. Họ muốn hóa giải tâm trạng u sầu này, cố làm ra vẻ không chút buồn rầu, đồng bạch Đại vương:

-Tâu Đại vương, ngày nay ngài nên xả bỏ sự ưu sầu khổ não, phải có nghị lực kiên cường, tâm ý bình tĩnh, chẳng nên ngã nhào chết giấc, giống như kẻ tầm thường khóc kể nước mắt ròng rã. Vì sao Đại vương không nên làm như vậy?

Tâu Đại vương, như trong quá khứ có nhiều vị vua đã từ bỏ vương vị như ném tràng hoa héo, mà vào thâm sơn tu khổ hạnh. Lại nữa, tâu Đại vương, Thái tử Tất-đạt-đa đã kết thiện duyên trong quá khứ nên ngày nay tiếp tục tu khổ hạnh để đạt quả Bồ-đề.

Tâu Đại vương, ngày nay, ngài nên nhớ lại lời Tiên nhân A-tư-đà năm trước. Tiên nhân thuở ấy tâu Đại vương: “Đồng tử này không thể lấy phước báo nhân thiên ràng buộc được và cũng không thể lấy ngôi Chuyển luân thánh vương mua chuộc người, hầu để mong người tham đắm dục lạc thế gian”.

Tâu Đại vương, ngày nay, nếu ngài quyết định kêu gọi Thái tử trở về, Đại vương chỉ ban sắc lệnh cho chúng tôi ra đi, Thái tử sẽ vâng theo vương lệnh, hoàn toàn không dám chống trái.

Đại vương liền bảo:

-Nếu hai khanh thấy như vậy là hợp lý, thì mau đến đó khuyên Thái tử trở về, còn nếu không được như vậy, thì thân mạng trẫm ngày nay thật bất an! Vì các khổ sở bức xúc.

Khi ấy đại thần và Quốc sư Bà-la-môn nhận sắc lệnh của vua Tịnh Phạn liền cùng nhau khởi hành để đi đến chỗ của Thái tử. Họ nói kệ:

Thái tử tu khổ hạnh như đây

Vua nhớ lời Tư-đà thuở trước

Ngôi Chuyển luân Thái tử chẳng ham

Đối ngũ dục nhân gian chẳng tưởng.

Đại thần và Quốc sư nói kệ rồi, hai người cùng nhau lên đường.

Đoạn nói về con ngựa Kiền-trắc, ngựa nghe đủ mọi lời quở trách thống thiết như trên, trong tâm hết sức ưu sầu buồn bã. Do tâm bị khổ não bức bách, không một chút an vui nên đưa đến bỏ mạng. Sau khi mạng chung thần thức sinh lên cõi trời Đao-lợi. Sau khi đã sinh lên cõi trời, biết Như lai đã thành đạo liền từ bỏ Thiên giới sinh xuống trần thế, làm con của một nhà Bà-la-môn đầy đủ sáu hạnh nơi thành Na-ba thuộc vùng Trung thổ Ấn độ. Qua thời gian đến tuổi trưởng thành, người con của nhà Bà-la-môn này đến đảnh lễ Đức Như Lai. Như Lai biết tiền thân người này trước làm thân ngựa, sau khi chết được sinh lên trời. Khi ấy Đức Thế Tôn liền nói cho vị ấy nghe được tiền duyên đời trước làm thân ngựa. Vị ấy nghe pháp rồi, dứt sạch các lậu, giải thoát chứng Niết-bàn.

***

Phẩm 24: QUAN SÁT CÁC NGOẠI ĐẠO

Thuở ấy Thái tử tự cầm dao cắt búi tóc trên đầu, rồi cạo bỏ râu tóc, thân mặc áo ca-sa, liền khi ấy vô lượng trăm ngàn chư Thiên hết sức vui mừng tràn ngập châu thân không thể tự kiềm chế. Do trong tâm qua đỗi vui mừng đồng la lớn, hoặc ca vang, hoặc huýt gió, hoặc tung y phục, rồi miệng hô to:

-Thái tử Tất-đạt-đa ngày nay đã xuất gia! Thái tử Tất-đạt-đa ngày nay đã xuất gia! Nhất định Ngài sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngài đã đủ tất cả yếu tố tinh thần của một chúng sinh, nhưng Ngài đã xả bỏ những yếu tố này, cho đến lẽ ra Ngài phải chịu những khổ não biệt ly như những chúng sinh khác, những thứ ràng buộc ấy nay Ngài đã giải thoát.

Nơi Bồ-tát cắt búi tóc, sau này dân chúng xây một ngôi tháp để kỷ niệm gọi là tháp cắt búi tóc.

Nơi Bồ-tát mặc chiếc ca-sa đầu tiên, sau này dân chúng xây một ngôi tháp gọi là tháp Thọ ca-sa.

Nơi Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc từ biệt Thái tử trở về hoàng cung, sau này dân chứng xây tháp kỷ niệm đặt tên là tháp Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc trở về cung.

Bồ-tát bước đi chậm rãi vẻ mặt đăm chiêu có ai đến hỏi Ngài, Ngài im lặng không đáp. Tất cả dân chúng nói với nhau: “Vị Tiên nhân này nhất định là con dòng họ Thích.” Nhân đây đặt tên cho Ngài là Thích-ca Mâu-ni.

Lúc ấy Bồ-tát tự tâm sinh ra suy nghĩ: “Ta nay đã sống cuộc đời như thế này rồi, đã xả bỏ cảnh vương vị quốc thành quyến thuộc, không có hối tiếc, việc xuất gia nay đã hoàn thành, là hiện tượng của tướng tịch diệt.” Nghĩ như vậy rồi, tâm Thái tử càng dũng mãnh. Rồi Thái tử từ thôn A-ni-di-ca lần lần hướng về thành Tỳ-da-ly, trên đường đi băng qua ngang chỗ ở của Vị Tiên nhân kỳ cựu tên là Bạt-già-bà (nhà Tùy dịch là Ngõa Sư). Khi Bồ-tát đến chỗ ở của vị Tiên nhân, khu rừng này tự nhiên bừng sáng. Bồ-tát đã cởi bỏ chiếc thiên y Ca-thi-ca và tất cả chuỗi anh lạc trang sức trên mình, chỉ do oai đức nơi tự thân Bồ-tát phát ra ánh sáng làm chói mắt tất cả Tiên nhân trong rừng. Có bài kệ nói:

Thiên y anh lạc Ngài đều bỏ

Chỉ mặc ca-sa pháp phục thường

Thân quang oai lực chiếu chư Tiên

Nào khác tượng vương sư tử bước.

Khi ấy, tất cả các Tiên nhân đang tu các hạnh như đi, đứng, nằm, ngồi, hoặc tay họ đang cầm đồ vật, họ tùy theo đó giữ lấy oai nghi, tất cả đồng hướng về trước mặt Bồ-tát, đem tâm cung kính ái mộ tôn trọng đảnh lễ; hoặc có Tiên nhân chiêm ngưỡng mà tâm còn sinh nghi. Nhưng những vị Tiên nhân kỳ cựu này, hoặc có vị đang nhặt lấy hoa quả, rễ cây dược thảo. Ngoài ra, các vị khác đi xa chưa về, mặc dầu họ chưa thấy Bồ-tát mà lòng họ không nghi, chỉ từ xa nghe tiếng Bồ-tát, sau khi nghe rồi lòng họ nao nao vội vã trở về chỗ ở trong rừng của mình, nên những điều đáng làm họ không làm, những vật đáng nhặt lấy họ không nhặt lấy, ngoài ra như bao nhiêu hoa quả, rễ cây dược thảo, dầu đã nhặt lấy rồi họ đều vất bỏ, trong tâm họ mong sao sớm trở về gặp được Bồ-tát.

Bao nhiêu loài chim trong rừng như hồng nhạn, ngỗng, vịt trời, anh võ, sáo sậu, uyên ương, mạng mạng, khổng tước và Ca-lăng-già, Câu-sí-la… khi thấy Bồ-tát tiến vào rừng, chúng đều cất tiếng hót thánh thót êm dịu.

Lại bao nhiêu loài trùng thú trong rừng, chúng nó đều không ăn cỏ uống nước, vui mừng hớn hở kéo đến trước mặt Bồ-tát.

Bấy giờ, trong rừng có các vị Bà-la-môn lo việc cúng tế, vắt sữa nơi các bò sữa, tuy các con bò này sắp hết sữa, nhưng vú nơi các con bò bỗng nhiên căng đầy tự nhiên tuôn chảy như lúc ban đầu. Họ nói với nhau: “Chúng ta đã từng nghe nói có tám vị trời Bà-sa-sa, người này phải chăng là một trong tám vị ấy.” Hoặc có người nói: “Các vị chủ trời sao Lâu, người này phải chăng là một trong hai vị ấy? Không biết lý do gì và từ đâu người đến khu rừng này? Ánh sáng tỏa khắp mọi nơi, giống như mặt trời xuất hiện ban mai chiếu khắp thế gian.”

Rồi họ nói kệ:

Tám Bà-sa phải chăng là một?

Hoặc Thiên tử trong hai sao Lâu?

Không phải vậy cớ sao bừng sáng?

Tợ vừng hồng tỏa khắp thế gian.

Lúc ấy các vị Bà-la-môn tu tập pháp tiên, tùy sản phẩm có sẵn trong rừng dùng làm vật cúng dường, đồng đem vật cúng dường này đến dâng trước mặt Bồ-tát, mọi người đều nhất tâm đảnh lễ dưới chân Bồ-tát, đồng thưa:

-May mắn thay! Thánh giả đến đây, chúng tôi muốn thỉnh Ngài ở lại. Nơi đây đầy đủ các thứ: rừng cây hoa quả, rễ lá dược thảo và dòng suối mát lạnh… Tùy mỗi thời tiết đủ cung cấp cho Ngài dùng sung mãn. Đây là chỗ ở của các vị Tiên nhân đời trước cầu đạo giải thoát, nơi đây vắng vẻ kinh hành tịch tĩnh dễ được an tâm.

Bồ-tát với giọng nói ngọt ngào êm dịu, từng chữ, từng câu rõ ràng dễ hiểu, âm thanh rền vang như tiếng sấm, mỗi Tiên nhân đều nhận được lời thăm hỏi.

Lúc ấy trong đại chúng Tiên nhân có một vị tiên Bà-la-môn ở trong rừng khéo tu pháp khổ hạnh, thấy được oai nghi dung mạo của Bồ-tát như vậy, mới nói với một vị Bà-la-môn khác:

-Vị Thiên đồng tử này hiểu rõ tâm lý người, khéo dùng phương tiện. Vì sao? Phàm người thế gian họ đều nói: “Ta sinh con cái cần phải nuôi dưỡng, khi các con trưởng thành chúng sẽ thay ta lo mưu kế kinh doanh gia nghiệp, buôn bán mưu cầu tiền của, lập kế sinh nhai. Ta lúc ấy chuyên tu trí tuệ cầu đạo, nếu ta có mắc nợ người khác, chúng đều thanh toán cho ta.” Họ suy nghĩ như vậy là do vì ân ái nên nuôi dưỡng các con. Còn đồng tử này không phải vậy, vì chúng sinh mà cầu đạo, không kể thân mạng, không tự cầu lợi.

Trong đại chúng Tiên nhân, có một vị Bà-la-môn khác nói với vị Bà-la-môn trước:

-Này nhân giả, đúng như lời nhân giả vừa nói, người trong thế gian không tự hiểu biết, không làm tròn bổn phận, thường không biết đủ, chỉ nói ngày nay ta phải làm xong việc như thế này, ngày mai ta phải làm xong việc như thế kia. Ngay khi người ta hành sự vẫn chưa đạt được mục đích, tất cả những người như vậy trong thế gian là do mê hoặc, trong hiện tại không làm tròn việc tự lợi, thì đời vị lai lại không cách nào thành tựu các lợi ích.

Thuở trước, khi Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất giáng xuống trần gian, thị hiện thai phàm vào nhà họ Thích, trước ngày sắp đản sinh, nơi khu rừng của Tiên nhân Bạt-già-bà, tự nhiên từ đất mọc lên hai cây bằng vàng, hai cây này to lớn cao vất, đến đêm Bồ-tát xuất gia hai cây này đồng một lúc bỗng nhiên biến mất không thấy tăm dạng. Tiên nhân Bạt-già-bà thấy hai cây này trong một đêm đồng biến mất, tâm rất lo âu vẻ mặt thiểu não, cúi đầu suy nghĩ: “Chắc chắn ta đến lúc suy thoái, hay lại có điềm xấu gì xảy đến nên mới xuất hiện việc như vầy chăng?”

Bồ-tát trông thấy Tiên nhân Bạt-già-bà ngồi gục đầu ưu sầu thiểu não tâm không chút an vui như vậy, Ngài lần lần tiến đến gần bên Tiên nhân hỏi:

-Thưa Tôn giả, vì cớ gì ngài ngồi cúi đầu trông có vẻ ưu sầu?

Tiên nhân đáp:

-Thưa Thiên đồng tử, chỗ này của tôi từ trước đến giờ có hai cây bằng vàng từ dưới đất mọc lên, thân cây to lớn cao vút đẹp đẽ rất khả quan, ngày nay tôi thấy cây này bỗng nhiên biến mất, nên ưu sầu tâm ý chẳng vui. Tôi ngồi cúi đầu tư duy, nguyên nhân là như vậy.

Bồ-tát liền hỏi Tiên nhân:

-Thưa Tôn giả, hai cây này mọc cách nay được bao lâu?

Tiên nhân đáp: .

-Đến nay đã trải qua hai mươi chín năm.

Bồ-tát lại hỏi:

-Cây này mất cách nay bao lâu?

Tiên nhân đáp:

-Đêm hôm qua cây này biến mất không thấy.

Bồ-tát lại bảo Tiên nhân:

-Hai cây này là quả báo do phước đức của ta, nên nó xuất hiện. Nếu Ta còn ở đời làm Chuyển luân thánh vương, thì nơi mảnh đất an lành này Ta sẽ lập một hoa lâm viên. Nhưng Ta nay đã xả tục xuất gia, vì lý do đó đêm hôm qua hai cây này biến mất không còn xuất hiện nữa. Vì nhân duyên như vậy, xin Tôn giả chớ ưu sầu.

Bấy giờ Bồ-tát được tất cả các Tiên nhân tùy tùng hai bên, đưa Bồ-tát hướng về phía trước để đến chỗ ở của họ. Bồ-tát tùy ý dạo chơi quan sát khắp tất cả quang cảnh tu khổ hạnh tinh tấn như vậy: đứng, ngồi, tọa thiền… để cầu đạo. Trong khi Bồ-tát ở trong rừng này, có một Tiên nhân tu khổ hạnh luôn luôn đi theo sau hầu Bồ-tát.

Bồ-tát vào trong rừng, đến chỗ ở của Tiên nhân rồi, Ngài đưa mắt quan sát khắp bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, thấy các hành giả đang tu khổ hạnh như đi, đứng, nằm, ngồi, với mục đích cầu quả vị tối thắng.

Bồ-tát hỏi các Tiên nhân:

-Nay tôi mới vào đây cầu đạo chưa được bao lâu, do vậy tôi muốn học hỏi nơi các vị. Cúi xin chư vị Tiên nhân đúng như pháp, vì tôi mà thuyết giảng những pháp tu khổ hạnh của các vị, mà trước đây tôi chưa từng hay biết. Các vị sẽ vì tôi phân tích rõ ràng, để tôi nghe rồi y như pháp tu tập, các phương pháp này quả thật đem lại lợi ích chân thật cho hành giả, tôi đây cũng y theo tất cả pháp khổ hạnh của các vị mà tu tập.

Các Tiên nhân đáp lời Bồ-tát:

-Nhân giả hỏi chúng tôi tất cả pháp khổ hạnh và pháp cầu đạo, chúng tôi sẽ vì Nhân giả theo thứ lớp mà giải thích. Phàm tu khổ hạnh, trong đây gồm có các pháp: Hoặc có pháp hành giả chỉ ăn rau cỏ; hoặc có pháp hành giá chỉ ăn mầm cỏ tranh; hoặc có pháp hành giá chỉ ăn nhành cây Ca-ni-ca-la; hoặc có pháp hành giả chỉ ăn nhành cây Đầu-câu-la; hoặc có pháp hành giả chỉ ăn nhành của một cây nào đó; hoặc có pháp hành giả chỉ ăn phân bò; hoặc có pháp hành giả chỉ ăn bã mè, quả dại, ngó sen; hoặc có pháp hành giả chỉ ăn cành non các loại cây; hoặc có pháp hành giả chỉ uống nước để sống; hoặc có pháp hành giả sống như con bọ hung; hoặc có pháp hành giả sống như con hươu nai chỉ ăn cỏ mà sống; hoặc có pháp hành giả đứng trên đất mà dụng tâm; hoặc có pháp hành giả ngồi trên đất mà diệt lòng ham muốn; hoặc có pháp hành giả sống bằng “Tứ khẩu thực”; hoặc có pháp hành giả lấy vỏ gai làm y phục; hoặc có pháp hành giả dùng lông dê đen làm y phục; hoặc có pháp hành giả dùng cỏ làm y phục; hoặc có pháp hành giả dùng tơ tằm làm y phục; hoặc có pháp hành giả dùng cỏ vòi rồng làm y phục; hoặc có pháp hành giả dùng cỏ gấu làm y phục; hoặc có pháp hành giả dùng da nai hay da các loài vật chết rữa còn thừa làm y phục; hoặc có pháp hành giả dùng tóc rối làm y phục; hoặc có pháp hành giả lấy len dạ làm y phục; hoặc có pháp hành giả lấy đủ loại giẻ rách làm y phục; hoặc có pháp hành giả để lõa hình nằm trên gai hoặc nằm trên tấm ván hoặc nằm trên gốc cây hoặc nằm trên cây sào; hoặc có pháp hành giả nằm trong rừng tử thi; hoặc có pháp hành giả nằm nơi đống gò mối giống như đời sống của con rắn; hoặc có pháp hành giả đứng nơi đất trống; hoặc có pháp hành giả trầm mình trong nước; hoặc có pháp hành giả thờ lửa; hoặc có pháp hành giả nhìn theo mặt trời di chuyển; hoặc có pháp hành giả giơ thẳng hai tay; hoặc có pháp hành giả đứng yên như trời trồng; hoặc có pháp hành giả ngồi soạt thân trên mặt đất; hoặc có pháp hành giả không tắm gội, thân thoa đầy bùn đất; hoặc có pháp hành giả búi tóc; hoặc có pháp hành giả nhổ sạch tóc trên đầu; hoặc có pháp hành giả nhổ sạch râu mép.

Chúng tôi tự tu những pháp như vậy. Lại nữa, trong khi thực hành, chúng tôi tư duy quán tưởng: Hoặc nguyện cầu mong được sinh lên cõi trời, hoặc có vị lại nguyện sinh trở lại nhân gian. Do tu khổ hạnh, nên về sau thân này sẽ được an lạc. Tại sao như vậy? Tại vì cầu được sinh lên trời rất khó, nên cốt yếu phải lấy việc tu khổ hạnh làm căn bản.

Rồi họ nói kệ:

Khi tu tập khổ hạnh như đây

Sẽ hưởng phước cõi trời Đao-lợi

Siêng khổ hạnh đời sau an lạc

Do vì khổ là nhân vui sướng.

Tuy Bồ-tát nghe được các pháp khổ hạnh của các Tiên nhân như vậy, tuy mắt chưa từng mục kích cảnh các Tiên nhân nỗ lực tu các pháp môn trên, nhưng tâm Ngài lấy làm ngao ngán cho rằng những lời trình bày của các Tiên nhân chưa phải là pháp chân thiện, Ngài hạ giọng chậm rãi bảo các Tiên nhân:

-Ta nay suy xét pháp tu của các ông, tuy nhiên có khổ cần phải tiêu diệt, mà phước báo đời sau nhưng không định hướng, dầu đời sau có được sinh lên cõi trời, lại các người không biết tất cả quả báo nơi cung điện chư Thiên đều là pháp vô thường. Do vì tu hành nên được quả báo nhỏ nhoi, khổ hạnh như vậy mà đã xả bỏ ân ái thân tộc, lại mất thú vui ở đời. Các vị tu khổ hạnh xa lìa các thú vui, ngược lại sẽ rơi vào trong đại lao ngục.

Rồi Ngài nói kệ:

Thân yêu, thú đời Ta đều bỏ

Tu hành khổ hạnh để lên trời

Tuy lại nói rằng lên Thiên giới

Nào ngờ hậu thế vào lao ngục.

Bồ-tát nói kệ xong, liền bảo:

-Nếu như có người dày vò thân thể để mong cầu quả báo tốt, như sinh lên trời. Do vì cảnh giới trời thọ hưởng thú vui ngũ dục không biết nhàm chán và đời vị lai họ không tránh khỏi tai họa của phiền não ngũ dục đưa đến.

Này các Tiên nhân, do các vị tu khổ hạnh trở lại chuốc lấy đại khổ. Vì các vị khi sắp mạng chung, thấy khổ sở sinh tâm quá sợ hãi, nên mong cầu đời sau sinh cảnh giới tốt đẹp hơn. Do có mong cầu sinh nên không thoát khỏi luật vô thường. Tại sao như vậy? Chúng sinh sống trên thế gian này, nơi nào có sự khủng bố, thì họ sẽ trở lại đắm chấp nơi đó. Do ở thế gian này bị các khổ sở bức bách, nên họ cầu sinh lên trời thọ hưởng thú vui. Họ ao ước trông mong sinh lên Thiên giới, nhưng việc làm đó chưa thoát khỏi luân hồi, nên đời sau lại đọa vào cảnh giới không lợi ích, mà họ vẫn cố chấp không bỏ tu khổ hạnh, họ cũng không mong cầu lìa bỏ pháp khổ thân.

Muốn cầu cảnh giới tốt đẹp vượt lên trên cảnh giới chư Thiên, nếu là người trí thì nên xa lìa ngũ dục, lần lần tìm đến cảnh giới tối thắng, như người đi bộ chân bước về trước, để đạt đến cảnh giới tối thắng, rồi phải vượt qua cảnh giới tối thắng ấy.

Nếu các người lấy việc khổ thân cho là đắc pháp, thì pháp khổ thân này là phi pháp. Nếu khổ thân để được thú vui trên Thiên giới, do thực hiện pháp này sẽ rơi vào phi pháp. Nhưng mọi hành động của thân này là do tâm điều khiển, cho nên trước phải điều phục tâm chẳng nên làm khổ thân.

Rồi Ngài nói kệ:

Khi thân động là do tâm chuyển

Trước điều tâm nên chớ khổ thân.

Thân vô tri dường như cây đá

Tâm làm chủ cớ sao thân khổ?

Bồ-tát nói tiếp:

-Theo như pháp tu khổ hạnh các vị nói vừa rồi, do nhịn ăn để được phước, thì các loài thú hoang lẽ ra được phước lớn; lại như kẻ bần cùng đời trước trồng ít thiện căn, nên ngày nay mắc quả báo nghèo nàn, tài sản thiếu hụt; cũng như thế gian có kẻ không công đức, thường cầu nước công đức nơi tất cả các thần kỳ trên quả đất này dùng để tắm rửa thân thể, nhằm mong cầu mọi sự đều được thành tựu như sở nguyện. Hoàn toàn không có việc như vậy!

Khi ấy các Tiên nhân khổ hạnh thưa Bồ-tát:

-Bạch Nhân giả trí tuệ sáng suốt, Ngài ở nơi đây nhận thấy những tai họa gì?

Bồ-tát đáp:

-Ngày nay các vị tu theo pháp khổ hạnh như vậy, đời sau các vị sẽ bị đọa vào cõi khổ.

Các vị Tiên khổ hạnh lại cùng nhau vấn nạn Bồ-tát:

-Nơi này có pháp tu hành như vậy, tại sao Ngài biết được tu khổ hạnh như thế này ngày mai lại bị đọa vào cõi khổ?

Bồ-tát đáp:

-Các vị tu các pháp khổ hạnh như vậy, không phải là giáo pháp cứu cánh, nên sẽ rơi vào chỗ không phải là không sợ hãi.

Các vị Tiên khổ hạnh lại bạch Bồ-tát:

-Nhân giả là bậc Đại đức, xin Nhân giả chớ nói lời như vậy! Chúng tôi ngày nay ở nơi đây, trên con đường hành đạo của chúng tôi có công đức lớn, không có gì đáng sợ hãi, nếu người nào y vào con đường tu hành này, sau khi xả bỏ thân hình thô xấu này, sẽ được báo thân tốt đẹp tuyệt vời.

Bồ-tát nói:

-Tuy sau khi xả bỏ thân thô xấu này sẽ được báo thân tốt đẹp, nhưng chưa phải là pháp ra khỏi luân hồi. Do ngày nay tu pháp làm khổ thân, đời sau sẽ được báo thân. Nhưng báo thân đời sau này cũng chưa khỏi khổ. Lý do tại sao? Tuy có tu nhiều pháp khổ hạnh, để mong cầu lạc thú, mà trái lại cũng chẳng hết khổ.

Các vị Tiên khổ hạnh chấp lý bạch Bồ-tát:

-Thưa Nhân giả, chẳng phải như vậy. Chẳng phải đời này do tu khổ hạnh đời sau lại bị khổ. Do những pháp khổ thân này của chúng tôi, nên đời sau quyết định sẽ được khoái lạc.

Bồ-tát lại bảo:

-Các vị nói như vậy, cũng chỉ là lời nói của kẻ vô trí. Vì cớ sao? Ví như có người muốn cầu lợi lạc mà không biết trong việc cầu lợi lạc này lại có điều bất lợi. Do vì biết bất lợi mà vẫn muốn cầu lợi nơi đó, đây chẳng phải là người trí.

Bấy giờ, có một vị Bà-la-môn ở trong đại chúng cao giọng xướng lên:

-Hy hữu thay! Hy hữu thay! Vị Vương tử này là bậc trí tuệ chân thật. Ví như có người được đồ ăn uống cao lương mỹ vị, mà đồ ăn này pha lẫn độc dược, thử hỏi ai muôn ăn. Việc tu khổ hạnh như đây, đời sau tuy được khoái lạc mà chưa thoát khỏi pháp hữu vi sinh lão bệnh tử, thì pháp khổ hạnh này đâu chẳng phải cầu trở lại đường sinh tử?

Bồ-tát lại nói:

-Tất cả khổ thế gian, ghét nhất là tử thần cướp mạng sống, mà lại cầu sinh đời sau, đây là điều đại ngu si.

Vị Tiên khổ hạnh tán thán:

-Hay thay Vương tử! E rằng Ngài chẳng quán sát chín chắn đi sâu vào môn khổ hạnh này. Trong quá khứ có vô lượng Đại đức đồng tu pháp khổ hạnh này, ở nơi đây cũng có vô lượng trăm ngàn vạn ức vị vua tu Tiên… đồng tu pháp khổ hạnh này, đồng cầu lạc thú ở đời vị lai.

Bồ-tát lại nói:

-Như lời ông nói hôm nay, trải qua ngàn vạn năm, ít thấy ai ngu si hơn. Ôi thôi vọng ngữ! Các Đại đức ở nơi đây do tu khổ hạnh, tâm so sánh cảnh khổ vui, nên cầu đời sau hưởng phước lạc, ở đời vị lai thọ sinh trong cảnh giới luân hồi, không bao giờ lấy làm thỏa mãn, ở trong phiền não làm những việc không nên làm. Luân hồi trong đó. Do vì ngày nay ở trong thế gian này cầu mong đời sau hưởng lạc thú, ngược lại bị nhiều khổ sở.

Tiên nhân khổ hạnh lại nói:

-Bạch Nhân giả Vương tử, quốc chủ nước này ở thành Mị-di-la, nhà vua trước khi tổ chức hội Vô già sát hại súc sinh không phải ít để cúng tế chư Thiên, cầu đời sau thọ hưởng lạc thú.

Bồ-tát lại nói:

-Phàm do sát sinh mà gọi là đắc pháp. Việc đó có thể gọi là pháp hạnh hay sao?

Tiên nhân khổ hạnh lại bạch:

-Pháp tế tự chư Thiên của chúng tôi từ trước đến nay được truyền thừa như vậy.

Bồ-tát nói:

-Có kẻ làm đau khổ người khác mà cho là đắc pháp. Ví như có người lấy đất trét lên thân, rồi lại dùng đất để lau đất trên thân, thử hỏi thân có hết đất hay không? Hoặc có người lấy máu thoa lên thân rồi lại lấy máu rửa máu trên thân, làm sao rửa sạch máu trên thân được! Như có người thực hành phi pháp, mong sẽ được đắc pháp. Không có việc như vậy.

Các vị Tiên khổ hạnh đáp:

-Thật có việc như vậy.

Bồ-tát hỏi:

-Vì lý do gì?

Các vị Tiên khổ hạnh đáp:

-Căn cứ vào luận Vi-đà. Tiên nhân đời xưa có nói rõ điều này.

Bồ-tát lại hỏi:

-Luận Vi-đà chư Tiên nói nghĩa ấy ra sao?

Các vị Tiên khổ hạnh đáp:

-Trong luận có nói: “Nếu có người cúng tế chư Thiên thì gọi là đắc pháp.”

Bồ-tát lại nói:

-Ta lại hỏi ông, theo pháp thế gian gần đây của các ông, nếu có người giết dê cúng tế trời đất, gọi là đúng như pháp. Lý do gì các ông không giết cha mẹ thân tộc để cúng tế trời đất. Do vậy Ta biết rằng giết dê cúng tế trời không có công đức. Ông thực hành các điều phi pháp, chỉ là ý muốn của các ông như vậy mà thôi.

Bấy giờ Bồ-tát đưa mắt nhìn trông thấy một rừng cây, cách chỗ Ngài ngồi chẳng bao xa, đó chính là rừng tử thi. Bồ-tát thấy rồi liền bảo các vị Tiên khổ hạnh:

-Các Tôn giả hãy nhìn xem cảnh trí mảnh đất khu rừng kia sẽ thuộc loại khổ hạnh nào, mà hiện giờ trong rừng hoặc có tử thi bị chim ăn; hoặc có tử thi thành đống xương trắng; hoặc có tử thi hiện nay đang hỏa táng thành một đống xương; hoặc có tử thi treo trên cây; hoặc có tử thi bị quyến thuộc sát hại, rồi trang nghiêm chỗ ngồi, y theo lễ nghi mai táng để người đời sau lấy làm hổ thẹn; hoặc có tử thi được quyến thuộc quây quần bên nhau đưa đến bãi tha ma trong rừng, bỏ đó rồi trở về nhà.

Các vị Tiên khổ hạnh lại đáp:

-Thưa Nhân giả Vương tử, đúng vậy, mảnh đất khu rừng tử thi kia là mảnh đất công đức bố thí thân bình đẳng, cùng chung cho bốn đẳng cấp trong xã hội không phân biệt một ai, nên gọi là cánh đồng hoang. Còn mảnh đất khu rừng này của chúng tôi, hễ người nào bố thí thân xác mà không lấy làm đau khổ với sở nguyện cầu đời sau được tốt đẹp, sau khi chết họ liền sinh lên trời hưởng thú vui; hoặc có hành giả gieo mình xuống vực thẳm; hoặc đốt thân, hoặc thí thân mạng, tất cả đều được sinh lên trời.

Bồ-tát lại nói:

-Nếu đúng như vậy, hành giả tu khổ hạnh cầu đời sau giàu có. Ôi thôi quá si mê! Ôi thôi, ở trong vô thường cầu đời sau phú quý tức cầu đời sau nhiều oán thù! Ôi thôi, đại khổ lại mưu cầu đại khổ! Họ là những người ngu si, là người vô trí, là người nhảy vào đống lửa, là kẻ nạp mạng vào miệng mãng xà.

Với tài hùng biện của Bồ-tát như vậy, Ngài đối với các vị Tiên khổ hạnh dùng lời vi diệu nói về đường lối giải thoát. Câu chuyện đến đây trời đã hoàng hôn, Bồ-tát trở về chỗ nghỉ của cấc Tiên nhân.

Sáng hôm sau Bồ-tát lại du hành đến các nơi khác, các Tiên nhân theo thứ lớp cất bước theo sau.

Bồ-tát đi chẳng bao lâu, Ngài thấy chư Tiên tiếp tục đuổi theo, thấy vậy Ngài liền an tọa dưới một tàng cây, chư Tiên hoặc đứng hoặc ngồi bao quanh Bồ-tát.

Lúc ấy trong đại chúng Tiên khổ hạnh có một Tiên nhân thuộc hàng Trưởng lão, đến trước Bồ-tát sinh tâm hy hữu mà bạch:

-Thưa Nhân giả Vương tử, kể từ khi Ngài đến khu rừng này, chỗ ở của chúng tôi được trang nghiêm, e Nhân giả đi rồi quang cảnh này liền trở thành cánh đồng hoang vắng. Vì lý do đó, xin Nhân giả chớ bỏ chúng tôi ra đi. Vì sao? Lại nữa hễ ai muốn sinh lên Thiên giới nên ở nơi mảnh đất công đức này mà tu khổ hạnh. Do vậy Nhân giả chẳng nên bỏ khu rừng nhiệm mầu này, là chỗ Thánh nhân đời trước tu hành thanh tịnh mà đi nơi khác!

Rồi Tiên nhân nói kệ:

Ngài đến đây rừng tôi rực rỡ

Nay vắng Ngài bỗng thành hoang dã

Vì cớ ấy ta chẳng xa nhau

Như ham sống hình hài chớ hủy.

Nói kệ rồi vị Tiên lại bạch:

-Thưa Nhân giả Vương tử, nay ở đây Ngài chỉ thấy có người thô bỉ hèn hạ vô ân nghĩa thôi sao? Hoặc Ngài thấy có người bị rơi vào đường hạnh tạp nhiễm; hoặc Ngài thấy có người sống đời bất tịnh hạnh. Nếu không như vậy tại sao Nhân giả không thích ở lại đây với chúng tôi? Chư Tiên chúng tôi muốn cùng Ngài kết nghĩa thiện hữu tri thức, tùy thuận vâng lời Ngài chỉ dạy thi hành không dám chống trái, muốn cùng Nhân giả mưu cầu đạt được cảnh giới thù thắng tuyệt vời. Giả sử người đang gặp vận xấu sống chung với Nhân giả vẫn đạt được điều tốt đẹp, huống gì là các Tiên nhân chúng tôi.

Bồ-tát được vị Tiên thượng thủ xin cùng Ngài cầu pháp giải thoát. Bồ-tát hiểu được ý họ, liền nói lời thệ nguyện bổn tâm của mình, đồng thời tán thán các Tiên nhân khổ hạnh. Ngài nói:

-Này các Nhân giả chư Tiên, ngày nay các Ngài đã chứng được biện tài vô ngại, từ trước đến nay đem thân tu tập pháp hạnh như vậy, nên tâm được thanh tịnh, đối với người chưa từng quen biết mà sinh tâm niệm ân cần kính trọng, nay sắp chia tay như xa cách người thân yêu nên rất bùi ngùi. Tình người tuy là vậy, nhưng pháp mưu cầu của chư Nhân giả là quả báo sinh lên Thiên giới. Còn Ta thì chẳng phải vậy. Ta nay chí cầu giải thoát, ý chẳng muốn cầu hữu ngã, nguyện Ta quyết định như vậy. Tâm Ta đã quán sát cảnh tượng của các vị rồi, đối với chỗ ở của các vị Ta chẳng ham muốn, một đàng muốn tái sinh trở lại, một đàng muốn giải thoát tam giới, hai vấn đề hết sức mâu thuẫn. Nhưng Ta cũng chẳng phải chẳng thích chỗ ở này, lại cũng không ganh tị người khác, cũng chẳng phải thấy lỗi của người khác mà bỏ ra đi. Nhưng các vị đều sống trong giáo pháp các vị, tuân hành lời chỉ dạy của bậc Thánh hiền Tiên nhân đời trước, các Ngài đều đã đắc pháp của bậc Đại Tiên.

Bấy giờ các Tiên nhân thấy chí cầu giải thoát tối thượng của Bồ-tát, lại càng sinh tâm ân cần ái kính tôn trọng.

Khi ấy, trong đại chúng Tiên nhân có một vị Tiên Phạm chí, tu hạnh luôn luôn nằm trong tro, hay thân nằm sát bên tử thi, lấy giẻ rách kết làm y phục, tai xanh, mắt vàng, mũi cao, thân trắng, tay cầm bình nước, nghe Bồ-tát nói như vậy, liền hướng đến trước mặt Bồ-tát, tâm rất hoan hỷ dùng lời tán dương:

-Lời nói của Nhân giả hết sức vi diệu trình bày bản nguyện tối thượng của mình. Ngài nay đang độ thiếu niên, chưa thọ ngũ dục mà thấy được các tai vạ ngũ dục nên không khát vọng. Còn có kẻ muốn sinh lên trời thì họ đâu có biết được hoạn nạn sau khi sinh lên trời. Kẻ nào quán sát như vậy mà mong cầu giải thoát thì chẳng bao lâu sẽ được toại nguyện. Nếu Nhân giả quán sát được như vậy, quyết định cầu mong giải thoát tam giới, Ngài nên mau mau ra khỏi nơi đây, đến xứ Nhật xuyên tạng là chỗ ở của một vị Tiên nhân tên là A-la-la, vị Tiên nhân này nhất định đã chứng được Chánh trí thanh tịnh nhãn. Nhân giả có thể học hỏi nơi vị này, sẽ nghe được con đường phương tiện chí chân. Nhân giả nghe được con đường phương tiện rồi, theo ý tôi nhận thấy trí tuệ Nhân giả nhất định sẽ hơn vị ấy. Như trí tuệ cùng tất cả tướng mạo sắc thân cửa Nhân giả ngày nay, quyết định sẽ vượt qua các trí đến bờ giải thoát. Hơn tất cả Tiên nhân đời trước, vì những điều họ chưa từng chứng biết, nay đây Ngài đều chứng biết.

Bồ-tát bảo vị Tiên Phạm chí:

-Tôi nguyện làm y như lời Nhân giả chỉ bảo.

Rồi Bồ-tát chia tay những Tiên nhân khổ hạnh đã tôn trọng cung kính ân cần mời Ngài ở lại, ra đi về hướng Tiên nhân A-la-la.

Có kệ nói:

Thái tử Thích-ca dòng tôn quý

Đem lời khéo an ủi chư Tiên

Quyết chí hướng về A-la-la

Chư Tiên khổ hạnh về bổn xứ.

***

Phẩm 25: SỨ GIẢ CỦA NHÀ VUA ĐI TÌM THÁI TỬ

Thuở ấy, Quốc sư Bà-la-môn và một đại thần vâng lệnh Đại vương Tịnh Phạn, họ buồn bã tủi khóc rơi lệ, liền bố trí xe ngựa nghiêm chỉnh hoàn bị, với tư cách thừa thế lực oai đức của Đại vương, khởi hành từ thành Ca-tỳ-la, ra khỏi thành tìm dấu tích đuổi theo Bồ-tát, chẳng bao lâu đã đến khu vực Tiên nhân Bạt-già-bà.

Tiên nhân Bạt-già-bà xa xa trông thấy đoàn sứ giả nhà vua lần lần tiến gần lại, Tiên nhân liền đứng dậy bước ra đón tiếp và nói:

-Hân hạnh thay Nhân giả đến đây! Không biết lý do gì quý ngài bỗng nhiên đến khu rừng này? Xin quý ngài vui lòng cho biết, xin mời quý ngài dừng chân giây lát, tạm ngồi trên tấm thảm cỏ này giải khát, rồi tôi sẽ thết đãi đủ thứ quả ngon nước ngọt tươi mát, các ngài mặc tình thọ dụng.

Hai sứ giả liền đảnh lễ dưới chân vị Tiên Bạt-già-bà, đảnh lễ rồi lui về ngồi một bên. An tọa xong, Tiên Bạt-già-bà vấn an sức khỏe hai sứ giả nhà vua.

Khi ấy đại thần cắt ngang lời nói của Tiên Bạt-già-bà rồi nói: -Thưa Đại Tiên tôn sư, chúng tôi được Đại vương Tịnh Phạn dòng Cam Giá sai đến đây, tôi là đại thần của nhà vua, còn vị kia là Đại Bà-la-môn Tôn sư của nhà vua. Nhà vua dòng Cam Giá có một Thái tử quý danh là Tất-đạt-đa. Do Thái tử sợ cảnh sinh, già, bệnh, chết, nên bỏ vương cung vào núi chí cầu giải thoát, nghe đồn rằng Thái tử đã đến xứ này. Đó là lý do chúng tôi đến đây.

Tiên Bạt-già-bà nghe hai sứ giả nói như vậy, liền đáp:

-Vị Trượng phu Tối thượng đầy đủ công đức to lớn ấy đã từng đến đây. Sau khi Ngài đến đây hỏi pháp tu tập của tôi, tôi thật sự y theo giáo pháp trình bày cho Ngài nghe. Ngài nghe xong liền nói: “Đây tuy là giáo pháp vượt lên trên thế gian, nhưng sau này vẫn trở lại trong sinh tử, chẳng phải phương pháp rốt ráo. Ngài chê giáo pháp của tôi, bỏ đi nơi khác để cầu đạo thoát ly sinh tử. Nay Ngài đang hướng về chỗ ở của Tiên A-la-la.

Rồi Tiên nhân nói kệ:

Tối thượng Trượng phu công đức lớn

Đến ta nghe pháp cho chẳng thật

Chí cầu Niết-bàn quả tối thượng

Bỏ ta hướng đến chỗ A-la.

Hai sứ giả đại thần và Quốc sư đại Bà-la-môn, sau khi nghe Tiên Bạt-già-bà nói, do họ dốc lòng ân cần kính trọng đối với Đại vương Tịnh Phạn, nên không biết mỏi mệt, không chút trễ nải, không kịp ăn quả ngọt uống nước ngon của Tiên nhân thết đãi, họ y theo lời nói của Bạt-già-bà cùng nhau vội vã ra đi, tìm về hướng Bồ-tát, lần lần chẳng mấy chốc họ đã tìm ra khu rừng Bồ-tát đang ở. Từ xa hai sứ giả trông thấy Bồ-tát đang ngồi trên thảm cỏ dưới cội cây trong khu rừng, Ngài đã cởi bỏ tất cả đồ trang sức quý báu: bảo châu, anh lạc… mà tự thân phóng ra hào quang chiếu sáng rực rỡ tỏa khắp cánh rừng, trông thật trang nghiêm, ví như mặt trời xuất hiện giữa đám mây, chiếu sáng cả trời đất. Sứ giả thấy quang cảnh như vậy, liền bước xuống xe, đi bộ chậm rãi hướng về phía Bồ-tát, đến nơi đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi đồng xướng lên:

-Cúi xin Thánh tử, Ngài luôn luôn được an lành. Rồi họ đứng nép một bên về phía trước Bồ-tát. Bồ-tát hỏi thăm hai vị sứ giả, Ngài tùy theo mỗi việc khó nhọc đã trải qua mà tỏ lời an ủi cảm tạ. Sau khi hỏi thăm an ủi rồi, Bồ-tát cho phép hai sứ giả ngồi gần kề bên.

Hai sứ sứ giả an tọa xong, liền thưa Bồ-tát:

-Thưa Thái tử Đại trí, phụ vương Ngài là Đại vương Tịnh Phạn, : do quá yêu thương kính mến Thái tử, nên rất buồn rầu khổ não. VÌ sao như vậy? Vì ngày Bồ-tát bỏ vương cung xuất gia, Đại vương nghe tin ấy đang đứng bỗng nhiên ngã xỉu xuống đất, hồn xiêu phách lạc hoàn toàn bất tỉnh, quần thần dùng nước rưới lên mình Ngài hồi lâu mới tỉnh, sau khi hồi phục tinh thần Đại vương quá ư thương nhớ Thái tử, nước mắt tuôn trào ràn rụa cả mặt. Do tình trạng như vậy, ngày nay Đại vương ra lệnh hai chúng tôi đi tìm Thánh tử, cúi xin Thánh tử chánh tâm lắng nghe sắc lệnh của Đại vương ban ra thế này:

“Trẫm cũng biết rằng tâm Thánh tử ưa thích chánh pháp, cũng biết Thánh tử không thích vương cung, quyết định xuất gia cầu vô thượng đạo. Việc ấy tuy đúng, nhưng nay chẳng phải là lúc Thánh tử vào rừng. Trẫm thấy Thái tử vào rừng không đúng lúc, do đó Trẫm hết sức ưu sầu đau khổ, toàn thân bị phiền muộn đốt cháy giống như lửa hồng phừng phực thiêu cả cánh rừng bát ngát. Nay Thái tử nên từ bỏ ý ấy đi, trở về sống nơi vương cung với Trẫm. Thái tử tạm thời xả bỏ tâm ái pháp, nhận lấy tấm lòng quý trọng của cha. Nếu được như vậy là pháp hạnh của Thái tử. Còn con không về gặp mặt cha, thì nỗi đau của cha lại càng thêm mãnh liệt. Ví như dòng nước đại hà chảy suốt quanh năm, tình cờ trong nhất thời hai bờ sông bị vỡ, làm cho dòng nước tự nhiên gián đoạn; lại như trận cuồng phong thổi tan đám mây lớn; ví như khí trời oi bức thiêu hủy đồng cỏ khô; ví như tháng trời đại hạn làm khô cạn các dòng sông; ví như trận mưa đá làm gãy đổ lúa mạ mùa xuân.

“Này đứa con yêu quý, tâm cha ngày nay cũng vậy! Do vì mơ tưởng thương nhớ đến con, tâm cha quá đau khổ như bị nước sôi, như lửa thiêu đốt làm ruột gan tan nát. Do vậy con phải hồi tâm trở lại vương cung; nhận lãnh ngôi vua trị vì thiên hạ. Còn nếu con muốn để lại đời sau lời bình phẩm, thì tùy ý con vào rừng cầu pháp.”

Vua Tịnh Phạn nói: ‘Con trí tuệ của cha, con đang sống với thân tộc mà không có tâm thương mến thân tộc. Con nên thuận ý cha trở về sống trong hoàng cung, chớ để cha ngày nay vì con mà phải chịu Ưu sầu khổ não, sẽ hại đến tính mạng.

“Này con yêu quý, người hành pháp đối với tất cả chúng sinh đều phải phát tâm từ bi, như vậy mới gọi là hành pháp. Đâu chỉ ở một mình trong rừng sâu mới gọi là hành pháp? Trước đây cha từng nghe, từ xưa đến nay, có nhiều người tại gia, thân không bỏ các đồ trang sức như chuỗi anh lạc… không cạo bỏ râu tóc vẫn đầy đủ công đức cầu giải thoát, ở tại gia cũng đắc pháp. Hành giả tu tập pháp hạnh giải thoát chỉ cần có trí tuệ và tinh tấn, như vậy là chánh nhân giải thoát. Vì con, cha sẽ trình bày sơ lược: Xưa có Nhân giả tên Tùy Thường, có Nhân giả tên Lực Kim Cang, có Nhân giả tên Đa Hữu, có Nhân giả tên Lưu Hành, có Nhân giả tên Đại Phú, có Nhân giả tên Biên Thiên, lại có vua nước Tỳ-đề-ha tên Năng Sinh Da-da-để (đời Tùy dịch là Hành Hành), có Nhân giả tên Tịnh Tiên, lại có vua Ma-la (đời Tùy dịch là Tác Hỷ) có vô lượng vô biên các vị vua tu tại gia như vậy đều được giải thoát. Con phải biết ở tại gia cầu pháp giải thoát cũng được thành tựu, hà tất phải xuất gia. Do vậy, con phải mau mau trở về nhà để hoàn thành hai nguyện: Một là con được hưởng thú vui năm dục, hai là để cha thường được an vui.

“Phàm người đời lên ngôi vua có tài năng trí tuệ làm đúng theo nguyện vọng của nhân dân gọi là minh quân, cha sẽ làm cho con đạt được hoàn toàn nguyện vọng ấy. Theo người đời, một vị vua khó từ bỏ vương vị, vì con ta làm được việc khó này, bằng cách làm lễ quán đảnh trao vương vị cho con. Nếu do nhân duyên này mà con xây dựng được sơn hà xã tắc, thì cha lấy làm hạnh phúc, bỏ quần thần, thế tục ngay, xuất gia vào núi cầu đạo.

“Vua đã nói kệ:

Ngôi vua, thân thuộc khó từ bỏ

Nay đều cắt bỏ trao Thái tử

Thấy con có khả năng trị nước

Ta sẽ hoan hỷ vào thâm sơn.”

Sau khi đại thần và Quốc sư Bà-la-môn đọc lại bài kệ của vua Tịnh Phạn, hai vị đại sứ khép nép thăm hỏi Bồ-tát xong rồi, lại đưa ra ba sự việc để can gián Thái tử:

-Thưa Đại trí Thánh tử, phụ vương Tịnh Phạn của Thánh tử truyền cho hạ thần những lời chua xót này với giọng điệu nghẹn ngào đôi mắt rơi lệ. Ngày nay Ngài đã nghe sắc lệnh của phụ vương như vậy, đáng ra Ngài phải cung kính vâng theo sắc lệnh của cha mình không được trái ý. Phụ vương của Thánh tử ngày nay đã chìm sâu vào dòng sông đau khổ, mà không có người cứu vớt lên bờ trí. Một mình Thánh tử mới có khả năng cứu vớt Đại vương ra khỏi biển khổ. Như có người rơi vào chỗ nước sâu thăm thẳm, chỉ có người lái thuyền giỏi mới vớt được người này.

Vị Sứ giả kia nói:

-Đúng vậy! Đúng vậy! Phụ vương của Thánh tử ngày nay chìm sâu trong biển cả đau khổ, lại không có người cứu nạn, chỉ một mình Thánh tử mới có khả năng làm việc ấy mà thôi. Lại nữa, khi Thánh tử còn bé nhỏ, chỉ có di mẫu Kiều-đàm-di là người chăm sóc nuôi dưỡng, mà bà lại là dì ruột của Thánh tử, đừng để bà cô quạnh, đến nổi chết mất. Ngày nay, vì nhớ nghĩ đến Ngài, bà buồn rầu kêu khóc hết sức đau khổ, như trâu mẹ mất con. Như vậy! Đúng vậy! Phu nhân Kiều-đàm-di vì không thấy Thánh tử nên buồn rầu, luôn luôn đau khổ kêu khóc tức tưởi. Vì vậy xin Thánh tử nghĩ lại ân dưỡng dục của bà thuở trước, như trâu mẹ luyến ái trâu con mà chẳng nên xa lìa. Phụ nữ quyến thuộc trong cung thương nhớ Thánh tử cũng như vậy.

Lại nữa, tất cả thần dân nam nữ già trẻ thuộc dòng họ Thích trong thành Ca-tỳ-la vì thương nhớ Thánh tử, tâm họ bị lửa khổ não thiêu đốt. Vì vậy, nay xin Thánh tử trở về hoàng cung để gặp lại họ.

Ví như mặt đất đang bị thiêu đốt, được chư Thiên giáng xuống trận mưa lớn dập tắt ngọn lửa khổ não.

Bấy giờ Bồ-tát nghe sứ giả của phụ vương trình bày như vậy, suy nghĩ một chút để điều hòa hơi thở, thân tâm an định rồi bảo sứ giả:

-Ta cũng đã biết, mọi người cha đều có tâm yêu thương con. Ta biết Đại vương Tịnh Phạn thân phụ của Ta, đối với Ta ngài hết sức thương nhớ. Nhưng Ta đang sợ sinh lão bệnh tử nơi thế gian, thấy mình đang bị chìm làm sao cứu được người chìm đắm. Do đó, muốn thoát khỏi luân hồi, trước tiên Ta phải tạm xa lánh quyến thuộc. Ai lại muốn sông xa lìa thân ái mà không muốn đoàn tụ. Nếu trong thế gian không có sự ly biệt ân ái, thì thử hỏi ai lại không thích ở trong thế gian. Tuy cùng thân quyến sống đoàn tụ, lâu dài đi nữa, rồi cũng có ngày biệt ly. Do vậy, ngày nay Ta xả bỏ thân tộc, kể cả cha mẹ thân yêu, chí cầu Bồ-đề.

Theo như lời trình bày của hai vị, vì thương nhớ Ta khiến phụ vương buồn phiền khổ não vô cùng. Nghe lời nói của các ông, Ta thật không lưu luyến ân ái. Tại vì sao? Ví như có người ở trong giấc ngủ, mộng thấy thân bằng quyến thuộc đoàn tụ hội họp, thức dậy vẫn thấy biệt ly. Nếu phàm phu không hiểu đó là giấc mộng, tâm sinh thương nhớ, đó là hạng chúng sinh ngu si vô trí. Nếu là người trí, thì suy nghĩ: “Sự đoàn tụ gia đình quyến thuộc như khách đi đường, các lữ hành đồng một lộ trình kết bạn cùng nhau đi, theo nhau xa gần, khi đến nơi rồi, đều chia tay nhau về nhà.” Do ý nghĩa như vậy, tất cả quyến thuộc thân yêu, có đoàn tụ thì có phân ly, cần gì phải ưu sầu khổ não. Lại trong quá khứ đã từng làm quyến thuộc với nhau, rồi xả bỏ đưa đến ngày nay, lại bỏ quyến thuộc đời này để sang đời sau, rồi bỏ quyến thuộc đời sau để sang đời sau nữa, cùng nhau xả bỏ theo tuần tự xoay như vậy. Tâm ái luyến quyến thuộc này từ đâu đến, rồi nó sẽ đi về đâu? Phàm người thế gian bắt đầu từ khi thọ thai đến bất cứ ở đâu, trong từng thời gian ngắn nhất đều có quỷ cướp mạng sống bên mình. Như vậy, tại sao nói đúng lúc với không đúng lúc mà ra sắc lệnh với ta: “Này con, lúc này không phải là thời điểm vào rừng cầu đạo, huống chi đây là lúc ở cung điện hưởng thụ ngũ dục!” Nếu hỏi Ta đúng thời và không đúng thời, Ta sẽ nói sơ lược. Tại sao? Trong tất cả thời gian, con quỷ cướp mạng sống luôn luôn ở bên chúng sinh, không rời. Do vậy, Ta muốn xa lìa cảnh sinh, già, bệnh, chết. Vì vậy, không lúc nào là không đúng.

Bồ-tát lại nói:

-Phụ vương bảo Ta hễ con về cha sẽ làm lễ quán đảnh trao vương vị. Phụ vương của Ta đã có tâm quảng đại, đối với việc khó làm mà ngài đã cho Ta một cách dễ dàng, điều đáng tiếc là chướng ngại đường tu tập của Ta, nên Ta không muốn nhận lãnh ngôi vua, thân ái ràng buộc, không phải là con đường giải thoát. Như người bệnh nặng không muốn ăn thức ăn ngon, tại sao người trí lại tham dục lạc ở đời. Kẻ vô trí bị vọng tưởng với thân ngu si chuốc lấy đại khổ, nên mới chịu nhận lãnh vương vị. Một khi đã ở ngôi vua thì buông lung phóng dật, ham mê tửu sắc không thể xa lìa. Ví như ngôi nhà bằng vàng bị ngọn lửa hồng thiêu đốt; ví như nước ngon pha với độc dược; ví như ao hoa lại có loài giao long. Đúng vậy! Đúng vậy! Người hưởng khoái lạc ngôi vua bị say đắm tâm ý, các tai hại liền kề mà không hay biết! Vì vậy, Ta không thích làm vua, nó không phải pháp giải thoát.

Rồi Ngài nói kệ:

Ví như nhà vàng tràn ngập lửa

Như uống nước ngon hòa độc dược

Như ao đầy hoa có giao long

Ngôi vua sung sướng rồi đau khổ.

Bồ-tát nói kệ rồi lại bảo:

-Vì lý do đó, các vua đời xưa lên ngôi, đang lúc tuổi trẻ trị dân, hưởng lạc, đến khi tuổi già nhàm chán ngũ dục, mới bỏ cung điện vào núi tu tập. Phàm người đã vào núi rừng tu tập, thà ăn cỏ để sống không chịu ở cung điện, thọ hưởng thú vui ngũ dục, như nuôi rắn độc, sau chuốc lấy tai vạ. Khi mới hưởng dục lạc không biết tai vạ, sau sân hận nổi lên làm hại đến thân. Thà bỏ nhà vào rừng núi tu hành, chẳng nên bỏ rừng núi trở về nhà. Tại sao như vậy? Vì bị chư Hiền thánh đời trước chê trách.

Ngày nay Ta đã sinh vào nhà đạo đức, nên tu pháp thiện, chẳng nên như người ngu si tâm tự buông lung làm điều bất thiện. Đã cạo bỏ râu tóc, thân mặc ca-sa, chỉ ở trong núi học tập tu đạo. Còn kẻ không biết xấu hổ cởi bỏ ca-sa, như vậy gọi là người ngu si không biết hổ thẹn, hoặc họ vì tham sân si, hay sợ người khác, mà lại thoái lui.

Ta ngày nay dù cung điện của trời Đế Thích cũng chẳng ham muốn, huống nữa là trở về cung điện của mình. Ví như có người được thức ăn ngon, sau khi ăn rồi ói mửa trên đất, dầu họ muốn ăn lại, thử hỏi có thể ăn được hay không?

Đúng như vậy! Như vậy, nếu người đã xả bỏ ngũ dục xuất gia, lại bị nghịch cảnh gì đó muốn trở về nhà cũng thế.

Như có người ra khỏi nhà lửa lại muốn trở vào nhà ấy. Đúng như vậy! Như vậy, người đã thấy tai vạ của thế tục, nên bỏ hình thức thế gian vào núi cầu đạo, nếu trở về nhà cũng thế.

Rồi Ngài nói kệ:

Như người chạy ra khỏi nhà lửa

Rồi lại bỗng nhiên vào nhà ấy

Thấy đời đau khổ bỏ xuất gia

Bỏ rừng hoàn tục cũng như vậy.

Bồ-tát nói kệ rồi, lại bảo hai sứ giả:

-Vừa rồi hai ông trình bày lời dạy của Phụ vương Ta: “Các vua đời trước ở tại gia tu tập cũng được giải thoát.” Điều này không thể có. Vì sao? Vì hai trường hợp này hết sức trái ngược. Tại sao? Người cầu đạo giải thoát tâm họ an định, ở nơi yên tĩnh mới là chỗ thích nghi. Nếu ở trong cung thì mặc tình hưởng thụ ngũ dục; lúc ra ngoài trị dân, thì phải giận dữ quở phạt đánh đập. Trong tâm người giải thoát không có việc này.

Đối với người ý muốn vui cảnh vô vi tịch tĩnh, họ không tham vương vị thế gian, dầu khi tại vị cần phải xa lìa, nếu ưa thích ngôi vua thì tâm ý của người này không thể tịch tĩnh. Nếu muốn an định mà lại tham việc đời, thì hai việc này mâu thuẫn nhau, cách xa như trời với vực. Như nước lửa không thể hòa hợp. Đúng như vậy! Như vậy! Như người cầu pháp giải thoát mà tham đắm ngũ dục, không thể có việc đó.

Ta xác định rằng các vị vua đời trước đã xả vương vị rồi, sau đó mới được an định trong tịch tĩnh. Nếu khi còn ở vương vị giáo hóa dân chúng, trí tuệ chưa đầy đủ cần phải dụng tâm học tập pháp trị dân, đâu thể chuyên học pháp giải thoát. Việc ấy tuy là như vậy, nhưng tùy ý các vua đời trước, hoặc cầu giải thoát, hoặc thọ ngũ dục. Còn Ta ngày nay không như vậy, chẳng học theo các vua, cũng lại chưa từng có tâm như vậy. Ta nay dứt khoát bẻ gãy khóa dục ở tại gia, không còn tham đắm ngũ dục thế gian, chí cầu giải thoát, đâu được hoàn tục.

Khi ấy, nghe Bồ-tát tỏ bày tâm chuyên chính không còn tham đắm thế gian hết sức chân thật như vậy, hai sứ giả lại cùng nhau kính bạch Bồ-tát:

-Tâu Đại thánh Vương tử, ngày nay Ngài phát lời thệ nguyện cầu pháp vô thượng, đó là điều chân thật không trái đạo lý, nhưng việc này chưa phải lúc. Tại sao? Vì ngày nay phụ vương của Thánh tử ưu sầu khổ não như vậy. Nếu tâm của Thánh tử trái với hiếu đạo, thì trái chánh pháp.

Rồi họ nói kệ:

Nay cầu pháp tạng thật lợi ích

Tuy có chánh lý, chưa hợp thời

Phụ vương sầu khổ tâm thống thiết

Trái với đạo hiếu, cầu đạo chi?

Hai sứ giả nói kệ rồi, lại bạch Thánh tử:

-Thưa Đại vương Thánh tử, theo thiển kiến chúng tôi, nếu cho tài lợi và ngũ dục thế gian không phải phương tiện tốt đẹp. Quan niệm này chưa phải là phương pháp quán sát chính xác. Ngày nay Thánh tử chưa biết nguyên nhân thì làm sao cầu kết quả? Hiện tại được phước báo mà lại bỏ đi, để tìm quả báo trong tương lai!

Thưa Đại thánh Vương tử, phàm tất cả sách vở thế gian đều có trình bày nhiều cách; có người chủ trương có đời vị lai; có người chủ trương không có đời vị lai. Đối với hai sự việc này rất có nhiều người phân vân. Do vậy Thánh tử đã được quả báo tốt thì nên thụ hưởng. Nếu giả sử thuyết không có vị lai là đúng, thì Thánh tử cần gì phải siêng năng cầu đạo giải thoát!

Lại có người cho rằng các việc thiện ác nơi thế gian này, quyết định sẽ lãnh hậu quá trong đời vị lai, do vậy siêng năng tu hành cầu đạo giải thoát. Quan niệm như vậy là kẻ ngu si. Giả sử các căn hủy hoại, xa lìa thân ái, oán ghét gặp nhau, cảnh hội họp, biệt ly đều là tự nhiên, kể cả sinh lão bệnh tử, thì cần gì phải nhờ vào nhân duyên siêng năng làm việc mà có. Phải biết vấn đề này không thật có. Lại khi ở trong thai, tay, chân, lưng, ngực, bụng, tóc, móng, các mạch, chi tiết… tự nhiên mà thành. Hoặc có người được thân thể rồi, trở lại bị hủy hoại. Hoặc có người nói: “Đã hủy hoại rồi, lại tự nhiên được thành tựu.” Cho nên trong các sách vở đời trước có nói: “Đầu gai nhọn như kim ai mài nó, chim thú đủ sắc lông ai người nào vẽ, vấn đề này tự nhiên không có tác giả, lại không thể muốn mà thành được. Tất cả sự vật trên thế gian không phải tùy tâm mà chuyển biến.”

Có kệ nói:

Đầu gai nhọn hoắc ai mài nó

Chim thú đủ màu nào có vẽ

Mỗi loài tùy nghiệp tự đổi thay

Sự vật thế gian không tác giả.

Lại có người cho rằng trời Tự tại là tác giả tạo ra mọi vật ở thế gian này. Nếu tự nhiên vậy, thì con người cũng chẳng cần khổ nhọc tạo nghiệp. Khi ấy phải chăng do nhân duyên đó lưu chuyển đưa đến, khi ra đi phải chăng cũng do nhân duyên ấy luân chuyển tự đi.

Lại có người cho rằng do phân biệt nên tướng “Ngã” phát sinh, cho nên thọ lấy hữu và hữu bị tiêu diệt cũng vậy. Nếu khi thọ lấy hữu chẳng do tìm cầu mà tự nhiên lãnh thọ, thì khi hữu hoại diệt, tự nhiên tiêu diệt không nhờ vào sức khác.

Lại có người cho rằng thế gian khi muốn thọ thân người, nếu cha họ không mắc nợ người khác liền được sinh làm người. Sinh lên trời hay làm tiên đều như vậy. Nếu muốn sinh vào ba chỗ này mà không mắc nợ người khác, thì họ không cần dụng công khó nhọc, cứ cầu thì tự nhiên sinh vào chỗ mình muốn. Việc giải thoát cũng như vậy. Trong các kinh điển đều trình bày đầy đủ những phương pháp như vậy, mỗi người đều được giải thoát. Người trí khi cầu cảnh giới tốt đẹp, nhất định phải tổn hại tâm lực. Do vậy, chúng tôi biết Thánh tử muốn Cầu giải thoát, cứ y vào lý, vào phương pháp của các sách vở đời trước đã nói để cầu con đường giải thoát. Nếu ai y như vậy, nhất định được giải thoát không nghi ngờ gì nữa.

Đại vương Tịnh Phạn, từ phụ của Thánh tử, vì yêu mến Thánh tử mà mang lấy sầu khổ, khổ này cần được giải trừ. Khi Thánh tử về lại cung, nếu trong ý cho cung điện là tai vạ cần phải xa lìa thì chẳng nên ám ảnh như vậy. Vì sao? Vì các Tiên vương đời trước bỏ hoàng cung ra đi, vào rừng núi tu hành, sau trở về cung điện của mình. Các vua ấy đều có danh hiệu là vua Am-bà-lê-sa (Tùy dịch Hư Không Tiễn), người đã bỏ cung điện vào núi tu hành, sau bá quan thần can gián khuyến dụ, quần thần tả hữu trước sau hộ vệ đưa vua trở về cung. Vua La-ma (Tùy dịch Năng Hỷ), người thấy quốc gia bị kẻ ác sách nhiễu, họ giết hại lẫn nhau chiếm cứ đất đai, nhà vua không nỡ đứng xem, nên từ bỏ núi rừng trở về triều chính đem chánh pháp ủng bảo vệ quốc gia. Lại nữa, thuở xưa tại thành Da-ly có một Đại vương tên là Đồ-lô-ma (Tùy dịch là Thọ) cũng từ bỏ núi rừng trở về bổn quốc bảo vệ dân chúng. Xưa có một Tiên nhân Phạm chí tên là Bà-chỉ-lê-đê (Tùy dịch là Ly Ngôn), lại có vua Chỉ-đề-bà (Tùy dịch Hỷ Thiên), lại có vua Đạt-ma-da-xá (Tùy dịch Pháp Xứng), vô lượng vô biên chư Tiên Phạm chí và các vua đều rời bỏ núi rừng trở về cung điện của mình, vỗ về dân chúng cai trị quốc gia. Do vậy, Thánh tử đã nghe việc làm của các vua đời trước, ngày nay Ngài nên trở về hoàng cung không có gì buồn khổ.

Rồi họ nói kệ:

Đây là danh hiệu các vua xưa

Đều bỏ thể nữ vào sơn lâm

Sau đều bỏ núi về vương cung

Thánh tử nay về nào có lỗi.

Lúc ấy, Bồ-tát nghe hai sứ giả nói những lời như vậy, liền bảo vị đại thần và Quốc sư Bà-la-môn:

-Vấn đề có hay không, nghi hay không nghi ta tự biết rõ. Nhưng hai vấn đề này nó có lý đúng của nó, dù ẩn hay hiện Ta đều chấp nhận. Nghe lời truyền lại đã không có nguồn gốc, do đâu mà tin được. Người có trí chẳng nên y vào lời không thật mà thực hành. Như người mù muốn đi đường, đã không có người dẫn, lại không thấy đúng làm sao đi được. Tâm không xác quyết, thì dù tốt hay xấu cũng như người mù ngu si kia. Đối với pháp thanh tịnh, thấy chẳng thanh tịnh, do vì vô trí. Nay thà Ta phát tâm tinh tấn dầu rằng chưa đắc quả, đành theo quả báo chịu nhiều khổ đau, thật chẳng ở trong vũng bùn lầy ngũ dục bị các bậc Thánh chê trách mà mê muội dục lạc nhất thời.

Theo lời các ông trình bày, từ xưa đến nay có các vua Hư Không Tiễn, vua Năng Tác Hỷ đều từ giã núi rừng để trở về hoàng cung. Đối với các vua này, Ta chẳng lấy đó để chứng minh cho sự giải thoát. Vì sao? Vì các vua này do sự học tập của họ, khi hết thần thông lại không có một pháp tu khổ hạnh nào khác, do vậy họ trở về hoàng cung.

Các ông ngày nay đối với Ta chớ có ý nghĩ như vậy. Ta đã lập nguyện: “Giả sử mặt trời mặt trăng rơi xuống quả đất này, núi Tuyết hùng vĩ kia dù có dời đi nơi khác, nếu Ta chưa chứng được trân bảo của chánh pháp, vì tham thế sự đem thân phàm phu này trở về hoàng cung thì không có việc như vậy.” Ta thà nhảy vào hầm lửa to lớn đang ngùn ngụt bốc cháy dữ dội, chẳng được tự lợi mà trở về hoàng cung, không có việc như vậy.

Khi tát phát lời thệ nguyện xong, Bồ-tát rời khỏi chỗ ngồi từ biệt hai sứ giả, ra khỏi khu rừng, một mình lên đường.

Khi ấy hai sứ giả nghe Bồ-tát nói lời như vậy, đồng thời thấy Ngài phát lời thệ nguyện dứt khoát rời bỏ thân tộc, biết chắc chắn Ngài không trở lại hoàng cung, cả người ngã xỉu, rồi đứng dậy cất tiếng khóc vang, nước mắt tuôn trào ướt cả mặt mày và cố đuổi theo Bồ-tát. Khi ấy do oai đức của Bồ-tát quá lớn, hào quang trong thân chiếu ra giống như ánh sáng mặt trời chói lọi, làm lòa đôi mắt hai sứ giả, nên không thể nào thấy thân Bồ-tát để theo kịp được.

Lúc ấy sứ giả vọng tiếng kêu Bồ-tát:

-Cúi xin Thánh tử chớ có ý chí cứng rắn như vậy, mong Ngài thương tưởng tâm ái mộ của chúng tôi, tâm yêu mến của chúng tôi không thể phai nhòa, không thể xa rời Thánh tử để về.

Hai sứ giả vừa ái mộ Thánh tử vừa kính trọng hướng về Đại vương Tịnh Phạn. Vì lý do đó hai người theo Bồ-tát khắp mọi nơi, hoặc đứng, hoặc trông, hoặc đi, hoặc chạy. Rồi hai sứ giả ra lệnh; riêng cho bốn kẻ tùy tùng âm thầm theo hầu cận sau Thánh tử: “Các người không được rời bỏ Thánh tử, hãy theo dõi Ngài đến nơi nào.”

Dặn dò như vậy rồi, trong tâm sứ giả lúc ấy sầu não đau khổ vô cùng, khóc than thảm thiết, cùng nhau thảo luận: “Giờ đây chúng ta làm thế nào trở về hoàng thành gặp mặt Đại vương, tâm tình của Ngài quá đau khổ vì nhớ Thánh tử! Lời của chúng ta làm sao tâu lên Đại vương! Khi đến gặp Đại vương, lại biết nói lời gì đây để giải tỏa được tâm phiền muộn của Ngài.”

Có kệ nói:

Hai sứ nhà vua biết Thánh tử

Quyết định không về nơi nội cung

Biệt phái bốn người theo Thánh tử

Về gặp nhà vua biết nói sao.

***

Phẩm 26: BỒ-TÁT HỎI ĐẠO TIÊN A-LA-LA

Khi Bồ-tát từ biệt hai sứ giả đại thần và Quốc sư Bà-la-môn của Phụ vương, cả hai sứ giả đều rơi lệ. Sau khi từ giã, Ngài từ từ ra đi hướng về thành Tỳ-xá-ly. Trên đường chưa đến thành, qua chỗ tu tập của một Tiên nhân, họ Ca-lam tên A-la-la. Một đệ tử của Tiên nhân trông thấy Bồ-tát đi về phía mình nên ngạc nhiên vô cùng, vì từ khi sinh ra cho đến ngày hôm nay chưa từng thấy sự việc này, vội chạy về chỗ Tôn sư đang ngồi. Đến nơi, hướng về các vị đồng tử bạn học, anh ta lớn tiếng xưng danh tánh mỗi người trong chúng, đây là nhân giả Bạt-già-bà, kia là nhân giả Di-đa-ma-la, nọ là nhân giả Thiết-ma…

-Này các đồng tử, các vị hãy nói rằng: “Chúng ta ngày nay đều hoan hỷ, nên từ bỏ pháp cúng tế này.” Ngày nay ở đây có bậc Đại đức Nhân giả là khách phương xa đến, cần phải nghinh tiếp. Vị Nhân giả này đã nhàm chán sự trói buộc của các phiền não, muốn cầu giải thoát vô thượng chí chân, là con của Đại vương Tịnh Phạn, chúa dòng họ Thích, các tướng trang nghiêm, thân như trụ vàng, hào quang tỏa sáng rất mực oai nghiêm, cánh tay rũ xuống, bàn tay quá gối, bàn chân bước đi in hình bánh xe ngàn tăm, dáng đi ung dung oai vệ trông như trâu chúa, vòng hào quang đầy oai đức như vầng mặt nhật, thân như vàng ròng mặc y ca-sa. Chúng ta được nhiều phước lợi, nên đấng Vô thượng Tối tôn đang từ từ đi đến. Chúng ta tùy theo khả năng của mình mà chuẩn bị nghinh đón tôn trọng cung kính lễ bái, cúng dường đầy đủ không được thiếu sót.

Rồi đồng tử đọc kệ ca ngợi Bồ-tát:

Ung dung đi bộ thật oai nghiêm

Đôi mắt trông nhìn như trâu chúa

Thân đủ tướng tốt thật trang nghiêm

Tất cả các lông mịn hướng lên,

Bánh xe ngàn căm dưới bàn chân

Lông trắng giữa mày xoay tròn đẹp

Cánh tay khỏe thẳng buông thong thả

Bậc Đại sư tử trong nhân loại.

Đồng tử đọc kệ tán thán Bồ-tát, rồi lại bảo các đồng tử khác:

-Nay tất cả các vị đồng tử, chúng ta hãy cùng nhau đến gặp Tôn sư thưa hỏi việc này.

Họ cùng nhau kéo về bên Tôn sư A-la-la. Đến nơi, họ khép nép trình bày thưa hỏi mọi việc ở trước.

Lời thưa hỏi của các đồng tử vừa dứt, ngay lúc đó Bồ-tát ung dung bước đến chỗ Tiên A-la-la. Tiên nhân A-la-la trông thấy Bồ-tát, khi Ngài gần đến nơi, vị ấy tự nhiên lên tiếng xướng to: “Lành thay! Thánh tử mời đến đây!”

Bồ-tát tiến đến bên cạnh Tiên nhân, hai người đối mặt cùng nhau vấn an sức khỏe: “ít bệnh, ít não, có an ổn hay không?”

Vấn an rồi Tiên nhân A-la-la mời Bồ-tát an tọa trên tấm thảm cỏ.

Có kệ:

Hai người hội ngộ rất vui mừng

Ít não, ít bệnh hỏi thăm nhau

Đàm đạo vấn an trong chốc lát

Thảm xanh thanh tịnh trải khách ngồi.

Khi Bồ-tát đã an tọa trên thảm cỏ, Tiên A-la-la chú tâm quán sát thân hình Bồ-tát từ đầu đến chân, lòng rất vui mừng thấy việc chưa từng có, với giọng nói hòa nhã đẹp ý cùng nhau đàm đạo.

Tiên nhân đem lời ca ngợi Bồ-tát:

-Nhân giả Cù-đàm, tôi từ lâu nghe danh Nhân giả là bậc Trượng phu, xá bỏ vương vị, cắt đứt màn lưới thân ái ô nhiễm vượt thành xuất gia, như voi chúa thoát khỏi xiềng xích sắt kiên cố, dứt hẳn mọi sự ràng buộc ra sau, tự do vượt khỏi, tùy ý ra đi. Đúng như vậy! Như vậy, ngày nay Nhân giả tâm chí dũng mãnh, xả bỏ cung điện vào nơi núi rừng, đối với mọi hoàn cảnh biết đủ ít muốn, là bậc Đại trí tuệ. Bạch Nhân giả Cù-đàm, Ngài đã làm được việc hiếm có như vậy. Đối với công đức phú quý thế gian, Ngài đã đạt được không màng đến, cạo bỏ râu tóc vào núi rừng, việc này thật khó làm.

Còn các vua đời trước được đầy đủ phước báo của một ngôi vua, thỏa mãn thú vui ngũ dục, đến lúc tuổi già làm lễ quán đảnh cho Thái tử để trao lại ngôi vua, rồi sau đó mới rời bỏ nội cung xuất gia đi vào núi rừng tu hành cầu đạo. Việc này không phải là việc khó, cũng chẳng phải ít có ở đời.

Theo chỗ tôi biết, Nhân giả tuổi trẻ mà chẳng ham ngũ dục, chẳng màng thế lực phú quý giàu sang, giữ vững tâm mình đến đây cầu đạo. Ngài đã được ngôi Chuyển luân thánh vương không thể nghĩ bàn, là cảnh giới cao tột, chính đang tuổi đầy sức lực, mà làm chủ được tâm ý, không đam mê dục vọng, chí cầu giải thoát, không bị cảnh đời ràng buộc, các căn không bị cảnh giới sáu trần cám dỗ, cảnh giác được tất cả khổ trong các cõi, chẳng bị chúng trói buộc. Tại sao vậy? Thuở xưa có vị vua hiệu Đảnh Sinh, nhà vua thống lãnh bốn châu thiên hạ, thế mà vẫn cho là chưa đủ, bay lên tận cõi trời Ba mươi ba, được chúa trời Đế Thích nhường cho nửa tòa ngồi, do vì trong tâm tham lam không biết đủ, liền khi đó mất hết phước báo ngũ dục, bị đọa lạc nơi trần gian. Lại có vị vua hiệu Na-hầu-sa cũng làm vua cai trị bốn châu thiên hạ, lên cõi trời Đao-lợi giáo hóa chư Thiên, thế mà vẫn cho là chưa đủ, nên cũng mất ngôi Thánh vương, đọa lạc nơi nhân gian. Cùng các trường hợp này có các vua như: La-ma, Đà-la-hô-di, A-ba-ba-tra-ca,… lại có các Chuyển luân thánh vương, khi được ngôi vua tâm không biết đủ, nên đều bị mất sạch cảnh phú quý của một vị vua. Ở đời không mấy ai khi đạt được cảnh phú quý tột đỉnh, mà họ lấy làm thỏa mãn. Ví như đống lửa lớn được thêm củi lại càng cháy mạnh.

Tiên A-la-la dứt lời, Bồ-tát lại nói:

-Thưa Nhân giả Đại tiên, tôi thấy sự đời là như vậy, lại quán sát tất cả pháp thế gian giống như cây chuối bên trong không cứng chắc, rốt cuộc bị hư nát. Do vậy, tuy tôi được ngôi vua, sợ không biết đủ, không cầu tự lợi, xa lìa dục lạc. Tôi biết như vậy rồi du phương mọi nơi tìm cầu Chánh đạo. Như có người đi trong đồng hoang mất bạn đồng hành, không biết phương hướng, không rõ tói đi, lại không có người hướng đạo, mới đi khắp đó đây để tìm kẻ chỉ lối. Tôi nay cũng vậy.

Bồ-tát vừa nói lời như vậy. Tiên A-la-la liền bạch Bồ-tát:

-Thưa Nhân giả Cù-đàm, tôi từ lâu đã biết được tư tưởng của Đại sĩ, nên biết đối với sự giải thoát, Nhân giả là bậc rất tài giỏi.

Bấy giờ trong đại chúng có một đồng tử là đệ tử của Tiên A-la-la chắp tay bạch bổn sư xin tán thán Bồ-tát. Đồng tử nói:

-Thưa thầy, vị này thật hy hữu không thể nghĩ bàn, biết rõ tâm mình. Còn các vua thuở xưa khi còn niên thiếu ở trong cung điện thọ hưởng ngũ dục, rồi sau đó đến tuổi già râu tóc bạc trắng, họ mới làm lễ quán đảnh truyền trao ngồi vua cho Thái tử, để vào rừng núi tu tập hành đạo, mà thành Tiên. Còn người này không phải vậy, đang niên thiếu sức lực cường tráng, rất ít tật bệnh, khí lực sung túc, tóc đen như quạ, thân thể mềm dẻo, tinh thần hết sức dũng mãnh, chẳng thiếu vật gì, chính là thời kỳ tâm ý buông lung say đắm thú vui ngũ dục, lại được phụ vương tuổi già trao cho vương vị. Thế mà người chẳng màng địa vị, chẳng ham phước báo, lìa bỏ thế gian, xuất gia vào núi cầu đạo.

Tiên A-la-la bạch Bồ-tát:

-Nhân giả phát tâm muốn cầu việc gì, muốn thành tựu đạo quả gì, mới phát tâm vào chốn rừng núi này?

Bồ-tát đáp:

-Thưa Tôn giả Đại sư, tôi thấy tất cả chúng sinh ở thế gian bị sinh, già, bệnh, chết trói buộc không thể vượt khỏi, nên nay tôi phát tâm tinh tấn như vậy.

Tiên A-la-la lại hỏi:

-Thưa Nhân giả Cù-đàm, Ngài phát sinh tuệ nhãn như vậy, phát sinh tưởng như vậy, điều này rất chân thật. Tại sao như vậy?

Rồi vị ấy nói kệ:

Vượt trên các pháp chỉ thực hành

Trì giới, thiền định chẳng qua tâm

Kẻ thù số một là ân ái

Già chết khủng bố khắp ba cõi.

Tiên A-la-la nói kệ rồi, có một đồng tử ở trong chúng là đệ tử của Tiên nhân thưa Bồ-tát:

-Ngày nay Nhân giả xả bỏ thân ái quyến thuộc mà vào nơi đây có ý gì chăng?

Bồ tát đáp:

-Thế giới có tụ tập nhóm hợp, phải có phân ly. Ta biết như vậy, nên phát tâm cầu đạo Chí Chân.

Lúc ấy Tiên A-la-la lại bạch Bồ-tát:

-Thưa Nhân giả ngày nay Ngài sẽ được giải thoát. Tại sao? Chúng sinh chìm đắm trong bùn dục vọng khó vượt qua. Thế gian còn bị trói buộc bởi sợi dây phiền não bền chắc, một mình Nhân giả hiểu rõ tâm mình. Giời đây ta sẽ nói về pháp môn giải thoát là tâm ái, Nhân giả cần phải xa lìa. Tâm ái nghĩa là gì? Là con giao long rất độc ác ở nơi thế gian. Nó cư trú trong nước tâm của chúng sinh, làm mất tất cả lợi ích. Vì lý do đó mà ta quán sát người thế gian không phải chánh hạnh. Người có khả năng tu pháp chánh hạnh này phải là người trí xa lìa ái nhiễm, cần phải phát tâm, đoạn kiến chấp hữu tướng, làm theo pháp vô tướng.

Bồ-tát đáp:

-Thưa Tôn giả Đại tiên, tôi xin thọ giáo lời Tôn giả vừa dạy.

Tiên A-la-la lại hỏi Bồ-tát:

Nhân giả lãnh thọ thế nào?

Bồ-tát đáp:

Người thế gian do chấp tướng nên bị tướng ấy trói. Phàm cha mẹ sinh con, nuôi dưỡng giáo dục để xây dựng gia thế. Nuôi dưỡng giáo dục con cái để gia thế phát triển, thành tựu sự nghiệp. Vì lý do đó, cha mẹ nuôi dưỡng con cái. Nếu không có động cơ ấy, dù là quyến thuộc, cũng không thân cận, huống lại là người dưng. Phàm người gần gũi vì mong cầu tham lợi. Bạn thật thân thiết với người thật khó tìm thấy.

Tiên A-la-la lại ca ngợi:

-Hay thay Nhân giả! Ngày nay Ngài đã biết tất cả pháp thế gian, vậy là Sa-môn Cù-đàm hiểu rõ tất cả các trí.

Lúc bấy giờ, trong pháp hội có một đồng tử cũng là đệ tử của Tiên A-la-la bạch Bồ-tát:

-Thưa Nhân giả Cù-đàm, ngày nay Ngài đã được niềm vui tối thượng. Tại sao? Vì Ngài từ từ xa lìa tất cả ân ái, thì chứng được các pháp không phiền não của thế gian. Tại vì sao? Vì tôi nhận thấy thế gian, ít có người không yêu thương vợ con, không mưu cầu tài sản, nên không giơ hai tay kêu khóc với cuộc đời. Mà ngược lại tôi thấy có nhiều người không ít muốn, không biết đủ, keo kiết của cải, khởi lòng tham đắm quyền lợi thế gian, nhà nhà đều đưa tay kêu khóc.

Rồi vị ấy nói kệ:

Thế gian ít thấy người biết đủ

Ít muốn không cầu khỏi khổ đau

Sở dĩ kêu khóc do ân ái

Phần nhiều tham đắm gom tài sản.

Khi ấy Tiên A-la-la bạch Bồ-tát:

-Hy hữu thay Nhân giả Cù-đàm! Trí tuệ Ngài quảng bác, như vậy ngày nay Nhân giả thật là dũng mãnh, chế phục các căn không để các dục nhiễm tăng trưởng, không bị dục vọng lôi cuốn.

Bồ-tát hỏi Tôn giả A-la-la:

-Thưa Tôn giả Đại Tiên, tại sao các căn không được an định? Muốn hàng phục nó phải dùng phương pháp gì? Cúi xin Tôn giả vì tôi giải thích.

Tiên A-la-la đáp:

-Này Sa-môn Đại sĩ, ta nay sẽ vì Đại sĩ trình bày tổng quát các phương pháp hàng phục, phàm là người thế gian muốn thoát ly sinh tử, hãy chú ý lắng nghe.

Có kệ nói:

Đại tôn Tiên nhân A-la-la

Mở mang thần trí cho Bồ-tát

Đây bằng kết quả của tự thân

Trình bày phân biệt điều cốt yếu.

Này Đại sĩ Cù-đàm, phàm muốn loại trừ thể và tướng các căn và cảnh giới của căn, cần phải tư duy phân biệt như thế này. Tại sao? Vì tất cả các căn và tất cả các trần cảnh đã do phân biệt mà biết, nên đều phải loại bỏ, cho đến cảnh ái nhiễm trong các căn, sự nhiễm do ái làm cho tham đắm, do sự tham đắm này, làm cho chúng sinh chìm trong thế gian không thể thoát ly ra được. Các kẻ phàm phu chịu khổ trói buộc bởi lòng tham ái. Tất cả tham ái đều do cảnh giới nên có những sự khổ như vậy. Đại sĩ phải hiểu do nhân duyên gì?

Rồi nói kệ:

Dê núi bị giết bởi tiếng kêu

Bướm nọ thiêu thân vì ánh lửa

Cá kia mắc câu bởi đớp mồi

Cảnh đời lôi cuốn người phải chết.

Lúc bấy giờ Bồ-tát nghe bài kệ này xong, lại hỏi:

-Ngày nay Tôn giả thuyết minh phương pháp điều phục các căn, do nhiều nhân duyên hợp lại mà thành, thể tánh trống không giả dối không thật, giống như hầm lửa, như giấc chiêm bao, như trò ảo thuật, như sương trên cỏ. Ngày nay, tâm tôi suy xét nên biết được như vậy.

Tiên A-la-la lại hỏi Bồ-tát Đại sĩ:

-Vì lý do gì Nhân giả nói cảnh giới vọng tưởng không lợi ích?

Bồ-tát đáp:

-Phàm người muốn nương các cảnh giới để thọ lấy quả báo, cũng như xây nhà cửa muốn che ánh sáng mặt trời hay tránh mưa gió, như người khát đi tìm nước uống, người đói tìm kiếm thức ăn, như dơ bẩn muốn tắm rửa thân thể, như người lõa thể tìm y phục để che thân, như người khốn khổ thiếu phương tiện thì tìm cầu xe cộ, muốn hết lạnh thì tìm chỗ ấm, muốn trừ chỗ nóng nên tìm nơi mát, muốn khỏi mệt mỏi nên ngồi nơi giường chiếu. Các việc tìm cầu như vậy đều do các khổ đến bức xúc bản thân, do đó mới tìm cầu giải thoát nỗi bức xúc giống như người bệnh nặng mới tìm lương y. Tất cả sự mong cầu của người đời đều như vậy.

Tiên A-la-la ca ngợi:

-Tư tưởng của Nhân giả Cù-đàm thật hy hữu! Đại đức tại sao ở trong thế gian mà phát sinh tư tưởng vô thường một cách dễ dàng như vậy? Hy hữu thay! Hy hữu thay! Thấy được chân thật. Đại đức là bậc lợi căn, thông minh, dễ ngộ. Người hiểu rõ các pháp như vậy gọi là bậc thấy được chân lý, nếu hiểu khác đây thì gọi là sai lầm mê muội. Đúng như lời Nhân giả nói: “Vì đói mà tìm thức ăn, tránh mưa che gió mà làm nhà, do vì trừ nóng lạnh… thay thế đoạt của nhau, người thế gian phát sinh vọng tưởng cho là an vui.”

Tiên nhân lại tán thán:

-Nhân giả Cù-đàm thật là chiếc cầu pháp có khả năng chịu đựng trọng tải lớn. Tuy ta truyền dạy giáo pháp, trước phải quán sát căn cơ đệ tử có thọ lãnh được giáo pháp hay không, rồi sau đó mới nói các luận. Theo tôi nhận thấy Nhân giả không phải như vậy, bất kỳ hành động gì đều thích nghi mọi trường hợp, chẳng cần giai đoạn quan sát. Ta sẽ vì Nhân giả nói hết những nghĩa chân thật trong luận.

Bồ-tát nghe Tiên A-la-la nói như vậy, hết sức hoan hỷ, rồi lại nói:

-Ngày nay Tôn giả chưa biết lòng trung thành của tôi, mà lại vì tôi dạy ngay những giáo pháp vi diệu như vậy. Tôi biết tướng này tuy chưa được ích, nay đã được lợi. Tại sao? Ví như có người muốn thấy cảnh vật phải có ánh sáng, như người đi xa cần có kẻ hướng đạo giỏi, như người muốn qua bờ bên kia sông cần kẻ đưa đò. Ngày nay Nhân giả khai thị tâm tôi cũng như vậy. Cúi xin Tôn giả vì tôi dạy những chỗ hiểu biết của Ngài, làm thế nào để giải thoát sinh, già, bệnh, chết.

Lúc bấy giờ Tiên A-la-la biết rõ tâm Bồ-tát có đầy đủ năng lực, nên trình bày giáo lý quyết định thành tựu trong luận của mình, mà nói kệ:

Sa-môn Cù-đàm hãy lắng nghe

Luận ta có nói “tổng thành tựu”

Tuy ngài còn ở trong phiền não

Mai sau giải thoát tự nhiên thành.

Sau khi nói kệ rồi, Tiên A-la-la lại nói:

-Phàm mỗi chúng sinh có hai phần: Một là bổn tánh, hai là biến hóa. Hợp hai phần này gọi là chúng sinh.

-Bổn tánh là gì? Tức là ngũ đại. Ngũ đại là gì? Đó là địa, thủy, hỏa, phong và không đại cùng ngã và vô tướng gọi là tánh Bản thể.

-Biến hóa là gì? Tức là cảnh giới của các căn như tay, chân, nói năng, đi đứng qua lại… và phần tinh thần gọi là Biến hóa.

Nếu biết các cảnh giới như vậy, gọi là biết cảnh giới. Biết cảnh giới nghĩa là gì? Là sự hiểu biết của ngã. Tư duy về ngã nghĩa là gì? Là sự tư duy của người trí.

Rồi vị ấy nói kệ:

Nếu như biết được các căn trần

Thế là biết rõ các cảnh giới.

Cảnh giới biết rõ phải thế nào?

Biết do tư duy của người trí.

Tiên nhân A-la-la nói:

-Thế nào là tư duy về ngã? Người này giống như Tiên Ca-tỳ-la và đệ tử của vị ấy cho sự suy lường là cảnh giới của ý. Còn con của Tiên nhân Ba-xà-ba-đề gọi chỗ hiểu biết sâu xa của ý cũng vậy. Như có người biết rõ con người luôn chịu sự đau khổ của cảnh sinh, già, bệnh, chết một cách chắc chắn, lại vì người khác giải thích, khiến họ xa lìa tư duy lý này, thì biết rõ tất cả các pháp đều vô tướng.

Tiên nhân lại nói:

-Nhân phiền não là gì? Là kẻ vô trí tham đắm các nghiệp, những nghiệp như vậy thuộc về nhân phiền não. Nhân phiền não đó có bốn loại. Người chưa giải thoát sinh tử, do vì họ chưa giải thoát phiền não. Bốn nhân phiền não là gì? Một là không tin. Hai là chấp ngã. Ba là nghi ngờ. Bốn là không xác định.

Thế nào là không tin? Thường làm trái ngược, đáng lẽ hiểu như thế này, mà ngược lại không biết. Như vậy gọi là không tin.

Thế nào là chấp ngã? Nói cái này là ta, cái kia chẳng phải là ta, ta nói như thế này, ta lãnh thọ như vậy, ta đi, ta đứng, tướng ta, thân ta…. Xưng ta như vậy, mà mình chẳng hay biết. Như vậy gọi là chấp ngã.

Thế nào là nghi ngờ? Đây không phải là nghi tất cả mà chỉ ở một vật. Như cục bùn. Như vậy gọi là nghi ngờ.

Thế nào là không xác định? Như vậy là đúng, phải cũng như vậy, chẳng phải cũng như vậy. Tâm ý tưởng đến tất cả các nghiệp đây là chúng, đây là ta, là đây, là kia … Như vậy gọi là không xác định.

Dư tàn nghĩa là chưa biết chỗ thù thắng, chưa giác, bắt đầu giác, chưa chứng tự tánh, hay mới chứng biết, gọi là dư tàn.

Thế nào là không có phương tiện? Người không có trí tuệ thì không biết được phương tiện. Do không có phương tiện, không thể trình bày. Như vậy gọi là không có phương tiện.

Thế nào là nhiễm trước? Nghĩa là người vô trí đối với các cảnh được thấy, nghe, cảm xúc và hiểu biết liền sinh tâm tham nhiễm; hoặc ý tham đắm, hoặc thân tham đắm, hoặc khẩu tham đắm, hoặc ý nghiệp tham đắm tất cả cảnh giới. Với nơi không nên tham đắm mà mê hoặc tham đắm, như vậy gọi là nhiễm trước.

Thế nào là sa ngã? Nghĩa là ta là chỗ kia, chỗ kia là ta. Nếu có ý nghĩ tư duy như vậy, gọi là sa ngã. Do nhân duyên đó rơi vào phiền não, gọi là vô đức, gọi là vô trí, gọi là năm chỗ khổ não không vui.

Chỗ không vui gọi là hắc ám, ngu si, đại si và hai tạp trụ là năm chỗ.

Sao gọi là hắc ám? Nghĩa là lười biếng.

Sao gọi là ngu si? Nghĩa là sinh tử.

Sao gọi là đại si? Nghĩa là hành dục. Tại sao? Tại đây giả sử như có bậc đại đức mà vẫn còn bị mê hoặc không biết tỉnh ngộ. Cho nên gọi là đại si.

Hai tạp trụ nghĩa là giận và hờn; lại hai tạp trụ còn gọi là trễ nải và biếng nhác.

Chúng sinh bị vô minh không biết như vậy để tu, nên si mê chìm đắm trong năm chỗ này, ở trong biển khổ phiền não thuận theo dòng sinh tử. Ta nghe, ta biết, ta thấy, ta làm rồi dạy cho người khác làm, ta đạt đến như vậy. Do tâm như vậy, do ý như vậy, đưa chúng ta đến chỗ luân hồi trong biển phiền não.

Bốn thứ nguyên nhân trên, nó ràng buộc quấn chặt chúng sinh trong phiền não, mà nói là không nhân quả! Đại đức Cù-đàm, Ngài phải biết các việc như vậy.

Rồi Tiên A-la-la nói kệ:

Nếu người muốn đạt đến chánh kiến

Tứ thiền thanh tịnh nơi giải thoát

Nếu tâm hiểu rõ trí kia rồi

Chân Thánh, phỉ Thánh đều biết rõ.

Phân biệt như trên cần thông suốt

Như vậy gọi là hiểu tứ thiền

Các hành vô hành đều xả bỏ

Ngữ văn ngôn tự đều không còn.

Đại phạm cảnh trời là chốn ấy

Tuyên dương phạm hạnh ở trần gian

Nếu ai giữ trọn pháp môn này

Sẽ được sinh về trời Đại phạm.

Lúc bấy giờ Bồ-tát nghe

Tiên A-la-la nói lời như vậy,

Ngài lại hỏi phương pháp thực hành:

-Nếu thực hành các phương tiện thì đến cõi nào và dựng tịnh hạnh, tu hành, cần phải hành chỗ nào và pháp gì? Xin Tôn giả vì tôi giải thích tất cả.

Lúc ấy Tiên A-la-la căn cứ nghĩa “tôn thể” trong tổng luận của mình, đem giải thích đầy đủ cho Bồ-tát nghe:

-Này Nhân giả Cù-đàm, phàm người muốn tu hành cần phải rời bỏ cung điện, theo hạnh người xuất gia khất thực để sống, phát thệ nguyện rộng lớn, giữ gìn giới hạnh, đời sống đạm bạc, ẩm thực y phục, đồ ngủ nghỉ phải biết thích nghi hoàn cảnh, sống một mình ở nơi vắng vẻ. Theo sự hiểu biết của tôi thì trong các luận có dạy: ‘Thấy các sai lầm của tham dục, sân hận, ngu si và cần phải lánh xa. Điều phục các căn, xa lìa dục vọng, nhập vào chánh định hưởng nhiều khoái lạc đi vào Sơ thiền. Bấy giờ ở nơi vắng lặng xa lìa các dục, không còn ác pháp, phân biệt sinh ly, tức chứng Sơ thiền. Được Sơ thiền rồi trở lại tư duy phân biệt như vậy, lần lần được an lạc. Đã được an lạc rồi, lại trụ trong định vắng lặng, do nương vào sức định này, ý lại càng xa lìa tham dục sân hận…, càng xa lìa phiền não, tâm được hoan hỷ, càng hoan hỷ thì trí tuệ lại càng thêm tăng trưởng, lúc ấy liền sinh lên cung điện Phạm thiên. Đã sinh vào cõi Phạm thiên rồi, lại tư duy phân biệt thế này: Cảnh giới này sẽ làm rối loạn trí tuệ của ta cần phải loại trừ. Loại trừ cánh giới này rồi liền chứng Nhị thiền, tâm rất hoan hỷ. Tâm đã được hoan hỷ rồi, lại thấy hoan hỷ làm rối loạn tâm, nên cầu mong sống cảnh giới tốt đẹp hơn, tức sinh lên cõi trời Quang âm. Đã đến cõi Quang âm rồi, được thọ lạc ở đấy, họ muốn xa lìa sự vui sướng đó; sau khi xa lìa sự vui sướng này, liền chứng Tam thiền. Ở trong Tam thiền hoàn toàn khoái lạc, mà các cõi trời Biến tịnh ở đây càng lên cao lại càng thù thắng, nếu có thể xả bỏ lạc thú này, không cảm thọ, không mê đắm tức là tâm đã xả bỏ được các thứ khổ vui, liền chứng Tứ thiền. Như vậy ở cảnh giới này tất cả khổ vui và tâm chấp đều bị xả bỏ.

Lại có người, tâm họ không thỏa mãn Tứ thiền, nên cầu pháp giải thoát, muốn vượt qua quả báo Tứ thiền, trong tâm tư duy quán sát, thấy chúng sinh trời Quảng quả cõi Tứ thiền trí tuệ thô thiển.”

Vị Tiên lại nói:

-Người này tư duy như vậy rồi, sau khi xuất định thấy sắc thân của mình có các tai họa, đau khổ, muốn xả bỏ sắc thân cầu trí tuệ tối thắng, nên phát tâm xa lìa cảnh Tứ thiền. Người này xả bỏ các tâm giống như khi phát tâm xả bỏ các dục vọng như vừa nói ở trước. Do vì muốn xả bỏ sắc thân thô, mà phát tâm xa lìa Tứ thiền như vậy. Lúc bấy giờ họ phân tích các sắc tướng trong thân thể trống không, không có ranh giới, đối với tất cả sắc tướng từ nội thân cho đến cây cối ngoại cảnh, phân tích tất cả vật chất thành hư không không có giới hạn. Phân tích tất cả sắc chất thấy rõ ràng trống không, không có giới hạn như vậy, tức là chứng được cảnh giới thù thắng.

Kệ nói:

Cõi trời Đại phạm thật nhiệm mầu

Tất cả vô ngôn, thường vô tướng

Người trí bảo rằng nhân giải thoát

Còn gọi đó là quả Niết-bàn.

Lúc ấy Tiên A-la-la nói kệ này rồi, lại bạch Bồ-tát:

-Thưa Nhân giả Cù-đàm, đây là cảnh giải thoát và phương tiện đạt đến cảnh giải thoát của tôi, nay tôi vì Nhân giả thuyết minh một cách rõ ràng. Theo như lời trình bày của tôi, nếu Nhân giả đối với pháp này sinh tâm hoan hỷ, Ngài có thể lãnh thọ.

Rồi vị Tiên nói kệ:

Thanh tịnh giải thoát pháp như đây

Ta đã biết rồi nay quảng diễn

Nhân giả tâm ý nếu hoan hỷ

Xin Ngài theo đây mà nhận lấy.

Tiên A-la-la lại nói:

-Thuở xưa có các Tiên nhân Kỳ-xa (nhà Tùy dịch cầu Thắng), Tỳ-du-xà-na (nhà Tùy dịch Ly Biệt Não), Ba-la-xa-la (nhà Tùy dịch Tha Tiễn) và một số các Tiên nhân khác đồng ca ngợi pháp giải thoát này, cũng đồng tu phương pháp này mà được giải thoát. Nhân giả là bậc Trượng phu đại trí, có khả năng tu tập pháp môn này. Nếu Ngài chịu tu tập sẽ được quả báo giải thoát tốt đẹp.

Khi ấy Bồ-tát nghe Tiên nhân A-la-la nói pháp môn thanh tịnh, nên lãnh thọ thực hành, muốn làm hạnh Sa-môn, muốn cầu quả Sa-môn, cho nên thực hành pháp môn này, liền chứng được. Bồ-tát khi nghe pháp môn này từ Tiên A-la-la nối ra tin tưởng thực hành không chút chống trái. Ngài cũng chẳng nói: “Ta đã biết trước”, chỉ thọ trì pháp, tư duy tinh tấn, phát sinh ý chí kiên cố cầu quả báo tốt đẹp. Khi Ngài chứng được cảnh giới tốt đẹp ấy, cũng không sinh tâm ngã mạn chê bai vị Tiên ấy. Nhưng, Ngài tự suy nghĩ: “Chẳng riêng gì Tiên A-la-la có đức tin, Ta cũng có đức tin như vậy! Chẳng riêng gì Tiên A-la-la có hạnh tinh tấn, Chánh hạnh tam-muội và Trí tuệ tam-muội… Ta cũng có các hạnh… trí tuệ cũng lại như vậy. Ngày nay Ta sẽ cầu chứng được pháp như Tiên A- la-la đã chứng, rồi phân tích rõ ràng cho người nghe để họ đạt được cảnh giới tốt đẹp đó.”

Bồ-tát theo sự hiểu biết mà thực hành, đã chứng được tất cả pháp hạnh do Tiên A-la-la chỉ bảo. Nhưng Bồ-tát tu pháp môn này không lấy làm khó nhọc, chỉ trong một thời gian ngắn Ngài đã chứng một cách trọn vẹn. Rồi theo chỗ tu chứng của mình thuyết minh một các thông suốt, giống như Tiên A-la-la không khác gì cả.

Rồi Bồ-tát đến trước Tiên A-la-la thưa:

-Bạch Tôn giả A-la-la, Ngài căn cứ vào pháp trí tu chứng của mình, rồi nói lại cho người khác nghe, phải chăng pháp giới đó cầu sinh cảnh giới Vô tưởng?

Bồ-tất vừa dứt lời, Tiên A-la-la lại đáp:

-Thưa Trưởng lão Cù-đàm, pháp trí như vậy tôi đã thật chứng, trình bày lại cho người khác một cách thông suốt rõ ràng.

Bồ-tát lại nói:

-Thưa Tôn giả tôi được nghe giáo pháp của Ngài, y như lời Ngài dạy, tôi tin hiểu và thực hành đã chứng được pháp ấy rồi. Nếu người trí biết thực hành và cầu sinh cảnh giới ấy, cũng không xả bỏ phương pháp này. Nhưng theo ý của tôi, thì pháp này tuy vi diệu nhưng chưa đạt đến chỗ rốt ráo. Tại sao? Với sự quán sát tư duy, theo ý tôi cho rằng pháp này còn có khi biến động. Nhưng bản tánh của cảnh giới này nó là như vậy, tuy đã biết trí này là vô trí, lại phát sinh các pháp khác. Tuy Tôn giả nói: “Ta được giải thoát thanh tịnh.” Nếu pháp giải thoát ấy do phân biệt quán sát mới có, thì đó chỉ là pháp nhân duyên, nên gặp duyên thì nó phát sinh trở lại, chẳng phải chân thật giải thoát. Giống như hạt giống gieo không phải mùa, hoặc không hợp thời tiết, hoặc khô nước, hoặc không gặp mưa, thì tiềm tàng trong đất không nảy mầm. Nếu hạt giống gieo đúng mùa, độ ẩm thích hợp, đầy đủ các duyên… hòa hợp, phát sinh. Nay đây cũng vậy, chỉ vì vô trí chấp trước nghiệp ái, khi xả bỏ được các thứ phân biệt chấp trước nghiệp ái này, cho là ta được giải thoát. Nhưng còn chấp ta giải thoát thì đều phải xả, tức phải xả các ái do vô trí, nghiệp không có chỗ kết hợp. Tuy hơn cảnh giới Tứ thiền ở trước, nhưng chưa phải là chỗ chân thật. Hễ còn phân biệt là còn chấp ngã, những vi tế ấy do ba việc mà có. Từ các thứ phiền não vi tế này, lại chấp có một cảnh giới vô tác dụng riêng biệt và chấp lấy tuổi thọ lâu dài, nói rằng ta đã giải thoát.

Rồi Ngài nói kệ:

Do các tai họa rất vi tế

Nên thọ dụng thân không tác dụng

Kiếp sổ thọ mạng thật lâu dài

Lại chấp cho là ta giải thoát.

Bồ-tát lại nói:

-Theo như Tôn giả đã nói ở trước “Ta đã xả ngã”. Đã nói “Ta đã xả ngã”, thì không gọi là “chân thật xả ngã”. Nếu còn căn cứ, còn phân biệt là chưa giải thoát, thì không thể nói là không còn nhiều đau khổ. Do vậy phải biết, chỗ có nhiều khổ không thể nói đó là chỗ vô ngã giải thoát”. Có ngã là có khổ, không thể tách rời ra được. Cũng như ánh lửa và sức nóng, sức nóng không thể tách rời ánh sáng lửa, ánh sáng lửa không thể tách rời sức nóng. Thể của hai thứ riêng nhau, trước không nay hợp lại mà có thì không đúng. Ngã đã như vậy thì tất cả khổ não cũng vậy. Giải thoát cõi này để đạt đến cõi kia, rồi bị cõi kia ràng buộc, do vì trí chấp lấy cảnh giới. Họ diệt hết sắc chỉ còn có thức, họ biết có ngã thức tức là hữu, do có hữu nên không được gọi là giải thoát. Vì cảnh giới thành tựu của ngã có hơn kém. Như vậy có thể biết cảnh giới tốt đẹp mà họ mong cầu là thế. Do vì nghĩa này, chẳng cần phải phân biệt đâu là ngã hay chẳng phải ngã, như gỗ như vách, gỡ bỏ từng lớp lại chồng lên từng lớp. Người có trí nên tư duy về ngã, đều buông xả tất cả cảnh giới để được tự lợi.

Rồi Ngài nói kệ:

Thứ tự các lớp đều buông bỏ

Như vậy mới là xả cảnh giới

Tất cả căn trần đều xả hết

Thế là tự lợi với tự tha.

Bấy giờ, trong đồ chúng của Tiên A-la-la có một đệ tử bạch Bồ-tát:

-Đại đức Cù-đàm, Ngài đến đây khiến chỗ ở của chúng tôi đều được tốt đẹp và có tám điều được tự tại.

Bồ-tát hỏi:

-Nơi này có tự tại gì?

Khi ấy Tiên A-la-la cắt ngang, bảo đệ tử:

-Con chớ suy nghĩ đến việc này. Vì lý do gì? Tự tại nghĩa là đối tất cả sự việc có khả năng quyết định, không lệ thuộc với người khác, không theo bạn bè, thân mình tự chứng cảnh an định mới sinh hoan hỷ.

Bồ-tát đáp:

-Tự tại không phải vậy.

Tiên A-la-la hỏi:

-Vậy việc ấy thế nào?

Bồ-tát liền đáp:

-Tự tại không phải như vậy, không phải như vậy.

Tiên A-la-la lại nói:

-Nhân giả cứ trình bày, không được nói lời uẩn khúc.

Bồ-tát nói:

-Nếu y như lời Tôn giả nói, thì hạnh này không còn luân hồi hay sao?

Tiên A-la-la lại hỏi:

-Nhân giả vì cớ gì đưa ra câu hỏi như vậy?

Bồ-tát đáp:

-Ngày nay tâm tôi nhàm chán sự sinh muốn cầu hỏi chỗ chân chánh.

Tiên A-la-la nói:

-Này Nhân giả Cù-đàm, Ngài muốn nghe chăng, tôi sẽ vì Ngài mà nói. Muốn khai hóa thế gian gọi đó là ngã, chỉ có danh từ mà không sinh không già, không thoái không lại, không trong không ngoài, không trước không sau gọi đó là ngã. Tự tại là có thể vào trong luân hồi, ở trong sinh tử cũng không tạm dừng. Nó là pháp và phi pháp, trời và tất cả các cõi, có thể đi xa, có thể tạo thành chiếc thuyền, ngồi trên chiếc thuyền này có thể vượt qua biển thẳm, lưu chuyển qua lại, hay tạo sinh tử, cũng hay biến hóa, tự tại tối thắng, tối diệu tối đại, làm chủ thế gian giáo hóa tất cả.

Bồ-tát hỏi:

-Biến hóa như thế có gì làm bằng chứng không?

Tiên A-la-la nói:

-Nghe lời hỏi của Nhân giả chắc chắn Ngài không chấp nhận giáo nghĩa mà tôi vừa nói, hoặc hiện giờ Nhân giả tâm không ham thích nữa.

Bồ-tát nói:

-Ta không có việc ấy.

Tiên A-la-la nói:

-Đại đức Cù-đàm chớ có nghi ngờ, tùy theo ý của Ngài, mà luận thuyết chủ trương của mình khéo tư duy thâm nhập, để tự soi sáng. Nếu tự hiểu biết thì không bị kẻ khác lừa dối, không nghe theo nghĩa lý khác. Chứng được như vậy gọi là tự lợi, người khác không bằng. Nếu tâm không quyết định, theo các luận sư khác mà chấp nhận giáo pháp của họ, thì trí tuệ của Ngài sẽ bị tổn giảm. Nhân giả nghe pháp của tôi, đối với mỗi pháp, hãy đọc tụng tư duy chân chánh, quán sát ý nghĩ sâu xa, xét chỗ hiểu biết của mình có điều gì nghi ngờ tùy ý hỏi, tôi sẽ mà giải thích cho Ngài.

Bồ-tát lại nói:

-Theo như lời nói của Tôn giả, có khả năng tạo tác biến hóa ra thế gian là bậc Tự tại. Đối với vấn đề này tôi có nghi ngờ.

Tiên A-la-la nói:

-Theo ý Nhân giả cho nghĩa này không đúng sao?

Bồ-tát lại nói:

-Tôi thấy không đúng!

Tiên A-la-la nói:

-Vì sao không đúng?

Bồ-tát lại nói:

-Lý do là tại sao nguyên nhân này chỉ có một? Nếu như trời Tự tại biến hóa tạo tác ra thế gian, thì các pháp chẳng được theo thứ lớp cùng nhau phát sinh như trong hiện tại. Vòng phiền não không nên theo thứ lớp như vậy mà chuyển. Lẽ ra tâm chúng sinh không cần ham lợi mà tự nhiên được lợi. Lẽ ra một chúng sinh không bị nhiều đau khổ. Lẽ ra chúng sinh trong thế gian cúng dường trời Tự tại như cúng dường cha mẹ, ngoài ra chư Thiên khác không được cúng dường. Người bần cùng lẽ ra không được nói những lời hủy nhục của họ, vì nghiệp thiện ác đều do vị ấy, nên chúng sinh không cần nương tựa, không cần tìm cầu, không cần tạo tác. Người đời không cần suy nghĩ có trời Tự tại hay không có trời Tự tại. Người đời phân biệt thế này: “Nên có tạo tác hay không tạo tác?” Nếu không có tạo tác các nghiệp thì lẽ ra tự nhiên sẽ được quả báo. Trời Tự tại do tu tập khổ hạnh để thành Tự tại. Nếu chúng sinh thế gian cũng thực hành như vậy, thì tất cả chúng sinh đó cũng đều gọi trời Tự tại hay sao? Nếu trời Tự tại vô nhân mà tự nhiên thành trời Tự tại. Như vậy chúng sinh khắp nơi cũng là trời Tự tại. Nếu chúng sinh không do tự tại kiến lập, thì không được gọi là có tự tại, đâu được gọi là trời Tự tại thành lập chúng sinh.

Tiên A-la-la tán thán Bồ-tát:

-Đại đức Cù-đàm trí tuệ cao xa, tiếp nhận các luận, khéo trình bày rõ ràng. Nói tóm lại, toàn thể đều do trí lực phân biệt hiểu biết của Ngài, nên thấy con đường để thành tựu chân thật một cách bình đẳng. Xin Ngài vì tôi trình bày, chớ nên từ nan lẫn tiếc pháp bảo.

Bồ-tát lại nói:

-Ta phải cúng dường Tôn giả.

Tiên A-la-la nói:

-Tiên nhân có nhiều hạng làm sao Nhân giả cúng dường hết được. Nhưng ngày nay Nhân giả đã là bậc Thượng thủ, Ngài cũng nên nhận lãnh sự cúng dường của các Tiên nhân.

Bồ-tát lại nói:

-Xin Tôn giả vì ta giải thích ý nghĩa này.

Tiên A-la-la nói:

-Hàng Tiên nhân thật ra hơn tất cả thế gian, nhưng trong số họ chưa hẳn đã sinh ra trước. Nhân giả có trí tuệ sâu xa, xin Ngài khéo tư duy: Nghiệp có trước hay thân có trước?

Bồ-tát hỏi:

-Nghĩa này như thế nào?

Tiên A-la-la nói:

-Vấn đề này rất nan giải! Tại sao? Nếu nghiệp có trước chẳng phải thân có trước, thì lẽ ra không thọ thân, thân không tạo nghiệp, mà nghiệp không tự sinh ra nghiệp, thì ai tạo ra nghiệp này? Nếu thân có trước chẳng phải nghiệp có trước, thì không có nghiệp. Nếu không có nghiệp, thì tại sao lại có chúng sinh (do nghiệp) thọ thân?

Cái gì có khả năng khai hóa thế gian, thì cái ấy không hư hoại, nhất định thường tồn, bị giữ mãi trong ba cõi. Đó là nguồn gốc sinh ra chúng sinh, sinh ra tự thân. Nếu không do trời Tự tại sinh thì tất cả chúng sinh yêu mến sắc thân, tự nó sẽ đầy đủ. Nếu tự nó đầy đủ, thì đối với mọi nơi lẽ ra phải tự có.

Bồ-tát nói:

-Như người bệnh cầu lương y chữa trị, Ta không vấn nạn nghĩa này nữa.

Lúc bây giờ có một Tiên nhân khổ hạnh là đệ tử của Tiên A-la- la, bạch Bồ-tát:

-Hay thay Cù-đàm! Theo như lời nói của Tôn sư tôi, xin không nên nạn vấn, như ý nghĩa của thầy tôi nói, hãy chấp nhận không nên tranh cãi vì việc làm như vậy không có lợi ích. Nhân giả nên nhận lãnh lời Tôn sư tôi.

Bồ-tát lại nói:

-Ta chẳng vấn nạn làm gì, chỉ muốn hỏi giáo pháp ấy truyền thừa ấy nguồn gốc như thế nào để biết sự thật.

Tiên nhân khổ hạnh nói:

-Nhân giả tùy nhân duyên mà thọ lãnh giáo pháp ấy, sẽ chứng được chân lý. Nếu nghi ngờ giáo pháp và tranh luận, thật là phi pháp, vị lai sẽ mắc tội.

Khi ấy vị Tiên khổ hạnh, đệ tử của A-la-la nói kệ:

Phàm người thưa hỏi, khi nghe pháp

Tâm ý không loạn nghĩa mới thông

Nếu như nghi ngờ lòng chê trách

Đó là soi mói cạnh tranh nhau.

Hai đàng tìm lỗi sinh oán hận

Tức giận hơn thua lời nói xấu

Người trí muốn trừ lỗi khẩu nghiệp

Nói lý, không ý tranh hơn thua

Nghị luận muốn hơn gọi là tham

Tranh danh, sĩ nhục hạ đối phương

Nhiều lời chỉ trích, thành lỗi lớn

Dua nịnh nghe theo, sinh kiêu hãnh.

Sân tâm ngã mạn, tội chướng tăng

Hủy báng cùng nhau tranh phải trái,

Điều phải chẳng làm, làm điều trái

Tranh cãi với nhau thành oán hận.

Bấy giờ Bồ-tát nghe kệ này rồi, nói với vị Tiên khổ hạnh:

-Đúng vậy! Lỗi của sự tranh cãi không thể nói hết. Nhưng Ta chỉ muốn tìm nguồn gốc truyền trao của việc thành tựu như thế nào, chứ không phải tranh cãi tận cùng.

Khi Bồ-tát nói như vậy, Tiên nhân khổ hạnh vẫn chưa vừa ý. Tiên A-la-la nói:

-Đại đức Cù-đàm, đối với con đường giải thoát này Ngài chẳng thích sao? Giáo pháp như đây là tùy duyên không có nguồn gốc?

Bồ-tát đáp:

-Khi muốn cầu quả giải thoát phải tìm hiểu như thế?

Lúc ấy vị đệ tử của Tiên nhân A-la-la lại nói:

-Thưa Sa-môn Cù-đàm, Nhân giả cầu quả giải thoát mà bỏ giáo pháp chúng tôi, chỉ nhọc thân vô ích mà thôi!

Bồ-tát đáp:

-Người cầu cái vui vô thường ở thế gian còn khó, huống gì cầu giải thoát không trở lại!

Vị đệ tử của Tiên nhân A-la-la lại bạch:

-Nhân giả nói không trở lại, vậy là thường đi mãi.

Bồ-tát đáp:

-Nơi ta đi đến theo ý muốn, nay đã đạt được thì trở lại làm gì?

Tiên A-la-la nói:

-Không đi đến chỗ kia mà cũng chẳng trở lại chỗ này, thì không được hay sao?

Bồ-tát nói:

-Việc như vậy thật là hy hữu! Tôn giả trước có nói: “Có thọ lấy đời sau.” Sau bây giờ lại nói không trở lại?

Tiên A-la-la đáp:

-Thật đúng như lời Nhân giả nói, thật là quá hy hữu! Thể chân như tịch tĩnh, không bắt đầu, không kết thúc, không có giới hạn, không trước không sau, đi không xác định hoạt động, hình thể không cùng tận. Nhưng do vị thầy vô tướng, ông chủ thiền định tạo ra. Đó là Đại Phạm thiên.

Bồ-tát lại nói:

-Ta xin hỏi Đại Tiên Tôn giả, đến kiếp hoại tất cả vạn vật trên cõi đại địa này như rừng rú, núi Tu-di… cho đến cung điện trời Đế Thích, tất cả đều bị kiếp hỏa đốt cháy. Lúc đó cõi trời Đại phạm ở chỗ nào? Là gì? Tên gì? Làm sao có nói năng? Quả báo công đức làm sao tồn tại? Làm sao khi kiếp hoại vạn vật đều bị tiêu diệt, tại sao trời Đại phạm không bị thiêu đốt?

Lúc bấy giờ Tiên A-la-la cười nhạt lặng thinh, nhưng đệ tử của vị ấy lại bạch Bồ-tát:

-Nhân giả là bậc trí tuệ hơn hết, tại sao Nhân giả không biết chư Tiên trong quá khứ đã chứng được Thánh đạo hay sao? Các Tôn giả Tiên nhân đó là Ba-la-xa-la, Phả-la-đọa-a-tu-lê-da, Bạt-đà-na, Ca-đố-bà-đà-na, Đà-na-đạt-đa, Đạt-lợi-đa-na-da, Bàn-giá-la-ba-để, A-sa-đà, Bạt-ma-đạt-đa, Na-hầu vương tử Da-da-để, Thiều-ba-lê, Ba- la-bà-giá-na, Tỳ-đề-a, Xà-na-ca, A-bàn-để-quốc-la-để-đề-bà, Xà-kỳ-xa-tỳ-da, Đề-tỳ-la, Tỳ-đà-ha-tỳ-da, Bà-nô, Đề-bà-da-na, Nê-sa-đa- na-da, Da-nhã-da-na, Ni-da-bạt-đô, Ha-lê-để, Bạt-xa-la-bà-hầu… Tất cả các Tiên nhân như vậy, vào trong ánh sáng mặt trời mà chứng Thánh đạo.

Lúc bấy giờ Bồ-tát bảo Tiên nhân:

-Nay người nói vào trong ánh sáng mặt trời cầu giải thoát. Nghĩa này như thế nào? Vậy Ta nên lễ bái các vị ấy, nhưng thật ra Ta không chấp nhận sự tự tại như thế.

Khi Bồ-tát nói lời ấy rồi, trong tâm suy nghĩ: “Giáo pháp của Tiên A-la-la không phải là giáo pháp rốt ráo.”, nên tâm Ngài chẳng vui.

Vị đệ tử của Tiên A-la-la đoán được ý Bồ-tát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Bồ-tát:

-Ngày nay Nhân giả đã vượt ra ngoài giáo pháp này, ý lại muốn cầu pháp giải thoát hơn nữa.

Bồ-tát đáp:

-Ý Ta nguyện muốn chứng được pháp như thế này: Không phải đất, không phải nước, không phải lửa, không phải gió, không phải hư không, không phải sắc, không phải thanh, không phải hương vị, không phải xúc, không phải tướng, không an vui, không sợ sệt, không chết, không bệnh, không già, không sinh, không phải có, không phải là không có, không thường, không phải không thường, không dùng ngôn ngữ diễn tả, không có giới hạn. Rồi Ngài nói kệ:

Không còn lỗi sinh, già, bệnh, chết

Không đất, nước, gió, lửa và không

Vượt khỏi ba cõi không thầy dạy

Thường tịnh tự nhiên được giải thoát.

Khi Tiên A-la-la nghe kệ rồi, lại bạch Bồ-tát:

-Thưa Nhân giả Cù-đàm, ngày nay bao nhiêu pháp tôi tự chứng, đối với người khác tôi đã trình bày một cách rõ ràng. Ngày nay, Nhân giả cũng chứng được pháp này, đối với người khác trình bày pháp ta đã chứng. Nhân giả đã chứng được cũng có thể làm thầy trong đại chúng này như ta đang làm thầy trong đại chúng này vậy. Cù-đàm ngày nay có thể cùng ta đồng tâm, hai chúng ta lãnh đạo đại chúng này, giáo hóa chỉ dạy họ.

Lúc bấy giờ Tiên A-la-la tuy ở địa vị thầy nhưng đối xử với Bồ- tát một cách bình đẳng, tự phân nửa tòa ngồi cho Bồ-tát, cúng dường Bồ-tát, tùy theo nhu cầu của Bồ-tát, Tiên A-la-la cung cấp một cách đầy đủ, hết sức lấy làm vui mừng, vô cùng sung sướng tràn ngập châu thân không thể tự chế.

Lúc ấy Bồ-tát tự suy nghĩ: “Giáo pháp này không thể đưa người đạt đến Niết-bàn, cũng không xa lìa các dục vọng vượt khỏi phiền não, cũng không phải thiền định tịch tịnh, diệt hết các lậu, chứng thần thông, lại cũng không tự giác ngộ và giác ngộ cho người khác thực hiện hạnh Sa-môn, chẳng có thể diệt trừ các phiền não ác. Tại sao? Tu pháp này, chỉ sinh lên cõi Phi tưởng để rồi lại tạo nghiệp. Nên biết pháp này chẳng là đạo quả cùng cực rốt ráo.” Suy nghĩ như vậy, Bồ-tát liền từ biệt Tiên A-la-la mà ra đi.

Có kệ:

Bồ-tát suy nghĩ các pháp này

Trong tâm không thể hoan hỷ lắm

Biết chẳng vượt đến chỗ cứu cánh

Từ giã La-la đi tầm đạo.

Lúc bấy giờ đồ chúng của vị Tiên A-la-la nói lời tạm biệt cùng chia tay Bồ-tát:

-Cầu nguyện Nhân giả, nơi nào Ngài đi đến luôn luôn được mọi sự an lành.

***

Phẩm 27: ĐÁP LỜI HỎI CON CỦA LA-MA

Lúc bấy giờ, nơi cõi Diêm-phù-đề có một vị Đại đạo sư tên là La-ma, ông ta đã qua đời, để lại đồ chúng cho trưởng tử tên là Ưu-đà-la La-ma Tử, làm chủ thống lãnh, ưu-đà-la thường vì đại chúng thuyết giáo pháp tu sinh lên cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng. Ông và đồ chúng sống trong A-lan-nhã tại khu vườn gần thành Vương xá.

Lúc bấy giờ, từ xa nghe danh giáo pháp ông ta hơn giáo pháp Tiên A-la-la, Bồ-tát suy nghĩ: “Ta cần phải đến cầu pháp với Ưu-đà-la La-ma Tử tu tập phạm hạnh.” Sau khi rời chỗ ỏ của Tiên A-la-la, Bồ-tát chậm rãi đi vượt qua sông Hằng, hỏi những người biết, rồi đi đến chỗ ông ta bạch:

-Thưa Tôn giả Ưu-đà, tôi muốn ở gần Ngài, cầu lời chỉ dạy về tu phạm hạnh.

Ưu-đà-la thưa Bồ-tát:

-Thưa Đại đức Cù-đàm, theo tôi nhận thấy Ngài là bậc Trí tuệ, có thể nhận lãnh giáo pháp của ta mà tu phạm hạnh. Nếu Ngài muốn thọ giáo tu phạm hạnh, cần phải thuận tu giáo pháp của ta bằng nghiệp thanh tịnh sẽ được quả báo.

Khi đó Bồ-tất thọ giáo tu tập khổ hạnh với Ưu-đà-la La-ma Tử.

Do vì cầu pháp Sa-môn, tu hạnh Sa-môn, nên Ngài cung kính chắp tay bạch:

-Thưa Nhân giả, tôi chưa rõ pháp thực hành của Ngài đã đạt đến cảnh giới nào? Xin Ngài hãy vì tôi giải thích.

Ưu-đà-la bảo Bồ-tát:

-Này Cù-đàm, phàm chấp tướng và vô tướng là một bệnh lớn, là ung nhọt lớn, là đại ngu si hắc ám, nếu chín chắn tư duy, tức chứng được hữu thể vi diệu, có thể theo thứ lớp giải thoát. Giáo pháp này của ta gọi là giải thoát vắng lặng tối diệu, tối thượng, tối thắng, quả giải thoát này chứng đến cõi Phi phi tưởng. Ta đang tu tập pháp môn tối thắng tối diệu này.

Rồi Ưu-đà-la lại nói:

-Ở trong cõi Phi tưởng phi phi tưởng này, ở trong quá khứ không có định nào vượt qua định này, hiện tại cũng không có, vị lai cũng không có. Định này tối thắng, tối diệu, tối thượng, ta đang tu pháp môn này.

Bồ-tát nghe pháp môn này, tư duy chẳng bao lâu liền chứng được. Ngài nghe lời chỉ giáo của Ưu-đà-la, nghe rồi tin theo lời ấy mà nghĩ như thế này: “Pháp như thế này Ta cũng có thể chứng được, tức có thể hiểu biết được lời thật không hư dối. Ta có thể thấy và biết như vị ấy.” Rồi Ngài lại nói với Ưu-đà-la:

-Chẳng riêng ngài hay là La-ma thân phụ của ngài có tín hạnh, mà Ta cũng có tín hạnh như vậy; chẳng riêng La-ma có tinh tấn chánh niệm, thiền định, trí tuệ, Ta nay cũng có tinh tấn cho đến… trí tuệ, Ta nay tu học pháp môn của La-ma này, ta sẽ chứng được rồi lại vì người khác thuyết minh. Ta biết pháp này rồi, ta chứng pháp này rồi, lại muốn cầu giáo pháp lối đẹp hơn.

Lúc Bồ-tát đạt được pháp môn này rồi, lại bạch Ưu-đà-la:

-Thân phụ của nhân giả thuở trước đối với cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng, sau khi chứng được có dạy lại cho người khác phải không?

Ưu-đà-la nói:

-Thưa Đại đức Cù-đàm, thân phụ tôi làm đúng như vậy.

Bồ-tát nói:

-Thưa Nhân giả Ưu-đà, tôi vâng lãnh giáo pháp của ngài rồi thực hành, nay chứng biết một cách thông đạt.

Ưu-đà-la lại bạch Bồ-tát:

-Thưa Đại đức Cù-đàm, nếu được như vậy thì Nhân giả cùng với thân phụ ta không khác. Nếu ngày nay Nhân giả đã chứng được pháp này rồi, lại vâng giữ thọ trì, thì Ngài sẽ như Tiên nhân La-ma thân phụ ta, thống lãnh đại chúng này, diễn giải chỉ dạy họ.

Thuở ấy Ưu-đà-la tự tu phạm hạnh không chút khuyết điểm, muốn giữ Bồ-tát đồng tu pháp môn, để đồng chứng pháp trí tăng thượng, nên đem đồ cúng dường thượng hạng cúng cho Bồ-tát, tâm rất vui mừng không thể tự chế.

Lúc ấy Bồ-tát nói với Ưu-đà-la:

-Thưa Nhân giả, pháp môn của Ngài không phải là pháp môn cứu cánh. Pháp cứu cánh phải là giải thoát dục vọng, diệt trừ phiền não, nhất tâm vắng lặng, không có các kết lậu… cho đến chứng các thần thông, thành hạnh Sa-môn vào Đại Niết-bàn. Còn pháp của ngài còn trở lại trong sinh tử. Vì sao? Vì đã sinh vào cõi Phi tưởng phi phi tưởng, sau khi thọ hết phước báo sẽ trở lại phiền não.

Bồ-tát vừa nói xong, Ưu-đà-la lại bạch:

-Thưa Đại đức Cù-đàm, sao Ngài chẳng nghe Tiên La-ma thân phụ của tôi đã chứng pháp này, đối với mọi sự vật đều không còn hay biết, đã sinh vào Phi tưởng phi phi tưởng mà còn trở lại trong sinh tử là điều vô lý.

Ưu-đà-la tuy tu Xa-ma-tha nhưng chỉ chứng được pháp tịch tĩnh, cho rằng không tái sinh, lại cũng không thấy cảnh giới tái sinh, nên không cầu pháp thù thắng tối thượng, chỉ nói La-ma cha ta đã nói như vậy.

Bồ-tát lại tư duy như thế này: “Pháp này chẳng phải pháp cứu cánh, ta nay không nên chuyên tâm giữ pháp này.” Rồi Bồ-tát liền từ biệt Ưu-đà-la đi nơi khác.

Có kệ nói:

Bồ-tát tư duy quán pháp này

La-ma thuở trước tuy tu tập

Chẳng phải cứu cánh chân giải thoát

Liền bỏ nơi đây đi nơi khác.

***

Phẩm 28: KHUYÊN HƯỞNG THỌ DỤC LẠC THẾ GIAN

Khi Bồ-tát từ biệt Ưu-đà-la La-ma Tử ra đi, Ngài ung dung chậm rãi tiến về phía núi Bàn-trà-bà (Tùy dịch Huỳnh bạch sắc). Đến dưới chân núi, Ngài tìm chỗ đất bằng phẳng, ngồi kiết già dưới một cội cây, thân hình đoan chánh tập trung tư tưởng ở trong chánh niệm bất động, giống như có người bị lửa cháy trên đầu, cấp tốc tiêu diệt vứt lửa xuống đất. Bấy giờ, trong tâm Bồ-tát muốn trừ sạch hết phiền não cũng như vậy.

Bồ-tát tư duy: “Không biết bao giờ Ta đập tan khối đại phiền não! Không biết bao giờ Ta phá được kho tàng đại ngu si để chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác! Chúng sinh đang chìm đắm trong biển sinh tử, không biết bao giờ làm cho họ thoát khỏi!” Ngài tư duy như vậy rồi, oai đức thể hiện rực rỡ.

Lúc ấy trong núi có nhiều hạng người, hoặc đi lượm củi, hoặc đi lượm phân bò, hoặc đi săn thú, hoặc đi cày làm ruộng, hoặc đi chăn trâu, cùng những người đi đường… Họ trông thấy Bồ-tát ngồi dưới gốc cây trong núi Bàn-trà-bà, giống như khối ngọc hay pho tượng vàng chiếu sáng. Thấy rồi, họ đều cho rằng điều chưa từng có, cùng nói với nhau: “Này các người, vị này không phải người thường, không biết từ đâu đến đây?” Hoặc họ cho rằng đây phải chăng là thần núi Bàn-trà? Hoặc họ cho rằng đây phải chăng là Tiên nhân tu ở trong núi Bàn-trà-bà? Hoặc họ cho rằng đây phải chăng là vị Thần minh ở xứ nào đến? Hoặc họ cho rằng đây phái chăng là vị thần hộ núi Tỳ-phú-la? Hoặc họ cho rằng đây phải chăng là vị thần thủ hộ núi Kỳ-xà-quật? Hoặc họ cho rằng, đây phải chăng là vị thần đại địa từ dưới đất xuất hiện? Hoặc họ cho rằng đây phải chăng là Thiên tử cõi trời từ hư không giáng hạ đến đây. Bọn họ đều nghi ngờ không biết lý do gì thân thể vị thần này sáng chói oai đức trang nghiêm, chiếu sáng cả núi, giống như ánh sáng vầng nhật nguyệt chiếu khắp, như hoa các cây Sa-la đều khoe sắc. Đây chẳng phải là ánh sáng của bậc Đại nhân thì làm sao có thể hiện được những việc như vậy!

Qua đêm ấy, ngày hôm sau trời vừa tảng sáng, Bồ-tát mặc y phục chỉnh tề rời khỏi núi Bàn-trà đi chậm rãi vào thành Vương xá khất thực. Trên đường đi, Ngài quán sát các ấm đều khổ, không, vô thường, muốn cầu pháp Vô dư đại Niết-bàn. Ngài nhìn xa một tầm, điều phục các căn, các cảnh ô nhiễm chấp trước đều bị đoạn trừ không còn một vết ô trược. Rồi Ngài lại nghĩ như thế này: “Hôm nay Ta khất thực mà không có bình bát, khi được vật thực, biết đựng vào đâu.” Nghĩ rồi, Ngài liền đi chung quanh tìm xin bát mà không có. Bỗng thấy nơi kia có một ao sen, Ngài liền nói với người giữ ao:

-Xin Nhân giả vui lòng cho tôi một lá sen trong ao?

Người giữ ao nghe qua liền đồng ý, vào ao ngắt lấy một lá sen dâng cho Bồ-tát. Bồ-tát nhận lá sen, rồi hướng về thành khất thực.

Lúc bấy giờ dân chúng trong ngoài thành Vương xá quan sát tỉ mỉ cử chỉ của Bồ-tát, đồng thời lại thấy Bồ-tát có oai thần rực rỡ, thấy rồi tâm họ cho là việc quá ư hy hữu, cùng nhau bàn tán: “Vị này phải chăng là vị trời Đại Tự tại ba mắt giáng đến xứ này? Trong số đó có những người sắp kinh doanh sự nghiệp đi làm ăn xa phương khác, họ vừa thấy Bồ-tát liền đổi ý không đi, lại cùng nhau kéo về hướng Bồ-tát; hoặc có người sắp làm sự việc, giữa đường thấy dung nghi của Bồ-tát họ liền bỏ sự việc hướng về Bồ-tát; hoặc có người đang ngồi vừa thấy Bồ-tát, bất chợt vùng dậy chạy mau đến bên Bồ- tát, hoặc có người hướng về phía Bồ-tát chắp tay cung kính; hoặc có người cúi đầu lễ bái; hoặc có người dùng âm thanh tao nhã ca ngợi Bồ-tát: “Lành thay! Lành thay! Ngài đến đây!.” Khi ấy tất cả dân chúng trong thành Vương xá thấy Bồ-tát, không một ai mà không hoan hỷ ái mộ. Hoặc trong thành có những kẻ nhiều chuyện nói lời đảo loạn, lời phù phiếm khi đối trước Bồ-tát họ đều lặng thinh đi theo Bồ-tát. Hoặc có già trẻ trai gái ở bốn phương thành Vương xá, họ sắp làm những việc khác đều bỏ việc của mình đều chiêm ngưỡng Bồ-tát mắt không nháy, cho là việc chưa từng có, quan sát thân hình Bồ-tát một cách tỉ mỉ: Mặt mày mát trán, vai cổ tay chân cùng hành vi cử chỉ. Một khi họ quán sát một nơi nào trên thân, đều ưa thích, không thể nhìn sang nơi khác.

Bấy giờ Bồ-tát đang độ thiếu niên cường tráng, xinh đẹp, chính là thời kỳ tràn đầy nhựa sống sắc đẹp như nở hoa, mà lại xả bỏ cung điện xuất gia tầm đạo. Giữa đôi chân mày của Ngài có sợi lông trắng xoay về bên phải, hai hàng lông mày dài nhỏ, đôi mắt lớn dài rộng, uy đức tỏa khắp, thân thể sáng rực, uy nghiêm đáng kính, chiếu khắp xa gần, giữa hai mươi ngón tay và chân đều có màng mỏng liên kết như mành lưới. Ngài có tài trị hóa tất cả nhân thiên, oai đức thần lực của Bồ-tát bao trùm tất cả, trong thế gian không ai sánh bằng.

Có bài kệ:

Trên đường Bồ-tát ung dung bước

Quần chúng đua nhau đồng chiêm ngưỡng

Chỉ thấy ánh sáng một phần thân

Thấy rồi liền phát tâm hoan hỷ.

Đôi mày nhỏ dài như vòng nguyệt

Đôi mắt xanh đen như trâu chúa

Thân thể trong sáng tỏa hào quang

Mười ngón tay chân có màn lưới,

Người xem thấy sắc đẹp tuyệt vời

Đại chúng tự nhiên theo Bồ-tát

Chiêm ngưỡng tướng tốt thật trang nghiêm

Tất cả mọi người rất hoan hỷ.

Bấy giờ thần thủ hộ thành Vương xá thấy oai nghi của Bồ-tát, tâm hoảng sợ run rẩy chẳng an, thầm nghĩ: “Đây là vị đại thần xứ nào muốn đến chỗ ở của ta?” Khi ấy Bồ-tát được vô số dân bao vây chung quanh tá hữu trước sau, để chiêm ngưỡng dung nhan Bồ-tát.

Ngài đi bộ từ từ hướng về thành Vương xá để khất thực, với y phục nghiêm chỉnh, nhất tâm định ý, chăm chú thúc liễm các căn, đôi mắt đăm chiêu nhìn xuống, hai tay nâng đỡ lá sen dùng làm bình bát, hai chân nhẹ nhàng bước đều không chậm không nhanh hướng về phía trước, lúc đi lúc đứng, khi cúi xuống ngước lên, nói chung mọi cử chỉ đầy đủ oai nghi ung dung, tự tại, mọi người trông thấy đều rất hoan hỷ. Ngài chứng pháp thiền chỉ tối thượng tối thắng, tâm được điều hòa, thân thể uyển chuyển, như tượng vương được thuần hóa, không có điều uế trược giống như ao nước trong sạch, thân luôn luôn tỏa hào quang chung quang độ một tầm, như cây Sa-la đang độ nở hoa, như pho tượng vàng từ đất xuất hiện, đầy đủ các tướng trang nghiêm một cách viên mãn, như mặt trăng giữa đám sao trên bầu trời đen tối, như vầng nhật chiếu sáng cả thế gian.

Khi ấy tất cả tầng lớp dân chúng trong thành Vương xá thấy Bồ-tát đi trên đường phố tâm họ đều hoan hỷ cho là việc chưa từng có. Hoặc như hạng thương gia giao dịch buôn bán trong thành thì đình chỉ việc buôn bán không đến chợ; hoặc có nơi tửu điếm bình thường có nhiều người say sưa tinh thần điên đảo rối loạn, thì hôm nay họ đều tỉnh táo không ăn uống say sưa, bỏ tất cả yến hội ca hát, đều cùng nhau chạy nhanh đến chỗ Bồ-tát; hoặc có người đi theo hai bên để chiêm ngưỡng Bồ-tát; hoặc có người chạy về phía trước xoay cổ lại xem; hoặc có người đi đàng sau.

Lại trong thành Vương xá có vô số phụ nữ, hoặc họ tựa bên cửa đi, hoặc đứng bên trong cửa sổ, hoặc có người ở trong lầu hay trên cao ốc mà trông, hôm đó mọi sinh hoạt thường ngày đều nghỉ cả để trông nhìn Bồ-tát. Trong thành, nhà nhà đều mở cửa hoan hỷ đón mừng, họ cùng nhau nói: “Người này là ai? Từ đâu đến đây? Thuộc dòng họ nào? Danh hiệu là chi mà dung nhan xinh đẹp, hành động dễ cảm mến thế này? Mà chúng ta từ xưa đến giờ chưa từng thấy tướng mạo đẹp đẽ khác thường như vậy phải chăng là Sa-môn hay Bà-la-môn?” Tiếng ca tụng vang khắp trong ngoài thành.

Lúc bấy giờ vua nước Ma-già-đà tên là Tần-đầu-sa-la họ Thí-ni đóng đô tại thành Vương xá, khi chưa lên ngôi đã mong cầu với năm nguyện:

1. Sớm lên ngôi khi còn tuổi trẻ.

2. Sau khi lên ngôi nguyện trong quốc độ tôi trị hóa, gặp được Đức Phật Thế Tôn xuất hiện.

3. Nếu khi Phật xuất hiện ở đời, tôi đích thân phụng thờ cúng dường Phật.

4. Nếu sau khi được phụng thờ cúng dường rồi, cúi xin Phật vì tôi thuyết pháp đáp ứng như sở nguyện.

5. Nếu Phật đã vì tôi thuyết pháp, tôi nghe pháp rồi, nguyện không hủy báng, được pháp rồi theo đó phụng hành.

Khi vua Tần-đầu-sa-la ngồi trên lầu cao có hàng đại thần hầu chung quanh, xa xa nhìn thấy Bồ-tát cùng đám người từ từ kéo nhau vào thành Vương xá. Nhà vua vừa thoáng thấy Bồ-tát, rất đỗi ngạc nhiên, vội vã xuống lầu, mở cửa cung ra khỏi thành. Nhà vua thấy oai nghi cử chỉ thân hình đoan chánh của Bồ-tát không ai sánh bằng giống như mặt trăng xuất hiện giữa đám sao trên bầu trời đen tối, được mọi người ưa thích ngắm xem, giống như ngọc ma-ni trong ngoài trong suốt sáng rực. Tôn nhan Bồ-tát tràn đầy oai đức chói sáng trang nghiêm cũng như vậy.

Vua Tần-đầu thấy tôn nhan Bồ-tát tốt đẹp như vậy, liền bảo quần thần:

-Ta từ khi sinh ra cho đến hôm nay, chưa từng thấy người nào có mắt mũi, mặt mày, sắc thân hình dung như vậy. Trán cao rộng bằng phẳng, trong sáng phân minh, chiếu soi tỏ rõ, giống như hoa sen trong nước mà chẳng dính một tí nước. Thân đầy oai đức, tất cả lông trên mình đều xoay về phía hữu. Giữa hai chân mày có sợi lông trắng trong sạch tợ như lưu ly hay bạch ngọc, cũng giống như bọt sữa sáng chói vô cùng, giống như ánh sáng trăng rằm. Hai bàn chân mỗi bước đi để lại trên mặt đất hình ngàn căm xe không sai lệch; không có trạng thái kinh hãi run sợ, trí tuệ Ngài yên tĩnh như núi Tu-di. Không biết từ đâu Ngài xuất hiện đến thành này.

Này các khanh, nến xem xét người này thuộc dòng họ nào? Con ai? Sinh ở nước nào? Danh hiệu là chi mà có hình dung tốt đẹp đáng yêu đáng mến, không biết lý do gì du hành đến đây?

Bấy giờ, trong các đại thần, hoặc có người cho rằng vị này là Thiên vương, có người cho là trời Đế Thích, có người lại cho rằng là Đại Long vương, có người cho rằng là vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa, có người cho rằng là vua A-tu-la Bà-lê, có người cho rằng là thần vương Hộ thế Tỳ-sa-môn, có người cho rằng là Nhật Thiên tử, có người cho rằng là Nguyệt Thiên tử, có người cho rằng là trời Đại Tự tại, có người cho rằng là Phạm thiên.

Lại có các bốc sư Bà-la-môn tâu:

-Tâu Đại vương, ngài phải biết, theo lời dạy từ trước đến sau trong các luận của chúng tôi, thì người này nhất định là Chuyển luân thánh vương. Vì sao? Vì hôm nay thấy thân thể vị đại sĩ này có đầy đủ các tướng tốt

Trong số đại thần lại có người tâu:

-Xin Đại vương phải biết thật có việc này. Tại sao? Cách đây chẳng bao xa hơn mười do-tuần về phía Bắc, dưới chân núi Tuyết có dòng họ Thích. Dòng họ này có một quốc gia tên là Ca-tỳ-la Bà-tô-đô. Vua cai trị nước này thuộc dòng họ Thích tên là Tịnh Phạn, hạ sinh một Thái tử quý danh là Tất-đạt-đa, họ Thích còn gọi là Cù-đàm. Ngày sinh Thái tử, nhà vua liền mời các tướng sư Bà-la-môn đến xem tướng. Khi các tướng sư xem xong tâu với Đại vương. “Bạch Đại vương, xin ngài biết cho, đồng tử này đủ hai tướng:

1. Nếu Ngài ở tại gia sẽ làm Chuyển luân thánh vương, đứng đầu trong bốn châu thiên hạ giữ gìn cõi đại địa, cho đến dùng đúng pháp trị hóa thế gian.

2. Nếu xả bỏ vương vị, nhất định thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, danh tiếng vang khắp mười phương.

Bạch Đại vương, người này chắc chắn là Thái tử Tất-đạt-đa không còn nghi ngờ gì nữa. Vì sao? Vì vị ấy nay đã xả bỏ quốc thành xuất gia, cạo bỏ râu tóc, sắc thân như vàng ròng mặc chiếc ca-sa du hành đến đây.

Rồi vị ấy nói kệ:

Tướng sư nước nọ dự đoán rằng

Chẳng ở ngôi vua ắt thành Phật

Chắc chắn người này con họ Thích

Xuất gia khổ hạnh mong giác ngộ.

Nghe vị đại thần nói xong, vua Tần-đầu-sa-la suy nghĩ: “Như thuở xưa ta từng phất nguyện, nếu đúng như vậy thì nguyện ta được thành tựu.” Nhà vua liền bảo hai đại thần:

-Nếu hai khanh hiểu biết, mau đi theo dõi người xuất gia kia dừng nghỉ ở nơi nào, sau khi đã biết chỗ ở, nên cấp tốc về báo lại cho ta biết. Sau đó, ta đích thân đến chiêm ngưỡng và cúng dường thưa hỏi nhận lãnh những điều chưa từng nghe.

Hai đại thần vâng thánh chỉ, cùng nhau đi theo sau Bồ-tát, không chút nào rời.

Bồ-tát ở trong thành Vương xá, khi khất thực, nhìn thấy mọi nơi quần chúng đều đông nghịt nên suy nghĩ: “Quần chúng này không nơi nương tựa, không có ai cứu giúp, thường bị sinh già bệnh chết trói mà không biết sợ hãi lo âu, lại cũng không biết cầu đạo cứu cánh, không có đạo sư, lại ngu si hôn ám, chìm đắm trong phiền não, ngày ngày bị tổn hại, vì si mê vô trí nên không hay biết. Do đó tham đắm thân ngũ ấm khổ, không, vô thường, mà không biết nhàm chán xa lìa.” Bồ-tát tư duy như vậy rồi, phát khởi lòng từ bi, gia tăng, tinh tấn dũng mãnh gấp bội phần, hàng phục tâm ý mình, với ý nghĩ: “Ta nay sẽ làm chỗ nương tựa cho tất cả người thế gian. Ta sẽ cứu vớt sự khổ não cho thế gian. Ta sẽ vì thế gian giảng nói đến chỗ chấm dứt sinh già bệnh chết.”

Bấy giờ đôi mắt của Bồ-tát nhìn về phía trước chừng khoảng một đường cày, im lặng chăm chú từ từ cất bước, oai nghi tề chỉnh tuần tự khất thực khắp thành Vương xá. Sau khi khất thực xong, Ngài ung dung rời khỏi thành, lần lần hướng về núi Bàn-trà-bà, tiến đến gần chân núi, ngồi bên bờ một dòng suối, chánh niệm an tọa, tùy thức ăn ngon dở, như pháp mà thọ dụng. Ăn xong Ngài xếp y, rửa tay chân, liền lên tận đảnh núi Bàn-trà, đi về phía Nam, tìm được một khu rừng có dòng suối trong mát, cây cối tươi tốt, cành lá hoa quả sum suê, có nhiều loại chim thú dạo chơi trong đó. Ngài đến giữa những cây đại thọ trải tấm thảm cỏ ngồi kiết già mắt hướng về phương Đông, thân hình ngay ngắn, chánh ý tư duy, điềm nhiên an tọa, như sư tử bước vào trong hang không chút kinh sợ, thân đắp chiếc ca-sa ánh sáng rực rỡ, dung mạo đoan nghiêm tốt đẹp, ánh sáng tỏa khắp, giống như ánh sáng mặt trời xuất hiện ban mai.

Có kệ:

Núi Bàn-trà rừng cây sầm uất

Chim thú dạo chơi rất thỏa tình

Thân đắp ca-sa như trăng sáng

Ánh sáng tràn ngập tợ bình minh.

Bấy giờ Bồ-tát ngồi dưới gốc cây tư duy thế này: “Ta nên ở nơi đây tu học: Không nhân, không ngã, không chúng sinh, không thọ mạng, không chúng sinh, lại không chủ tể, không có thắng ngã và không dưỡng dục, cái thân ngũ ấm này tất cả đều không, không có mạng cũng không có thức. Tất cả các pháp chỉ là giả danh gọi là chúng sinh mà thôi.”

Lúc ấy hai vị đại thần của vua Tần-đầu-sa-la, luôn luôn theo sát bên Bồ-tát. Rồi một người ngồi về phía trước cách Bồ-tát không xa, còn một người vội vã về báo tin cho vua Tần-đầu-sa-la biết. Sứ giả đến nơi, quỳ xuống tâu Đại vương:

-Thưa Đại vương nên biết, người xuất gia đó khất thực xong rời thành Vương xá hướng về núi Bàn-trà, sau khi thọ trai xong… cho đến thân ngồi nghiêm chỉnh, mặt hướng về phương Nam (như nói ở trên). Ngày nay Đại vương muốn chiêm bái, xin Ngài mau mau đến đó.

Đại vương Tần-đầu-sa-la nghe sứ giả trình bày dứt lời, liền ra lệnh sắm sửa hành trang xa giá chỉnh tề tốt đẹp, lên xe trực chỉ về núi Bàn-trà. Khi vua Tần-đầu vừa đến chân núi, từ xa trông thấy thân hình đoan chánh của Bồ-tát, tâm vui thích vô cùng, nào là dung nhan như trăng sáng giữa đám sao trong bầu trời đen tối, như khối lửa khổng lồ sáng rực giữa núi rừng tối tăm, như làn điện chớp xé tan đám mây mù dày đặc. Vua nước Ma-già-đà thấy Bồ-tát ngồi dưới gốc cây cũng như vậy. Thấy rồi nhà vua cho là việc quá ư hy hữu, hết sức vui mừng tràn ngập châu thân, rộn khắp cả người vội vã bước xuống xe đi bộ đến bên Bồ-tát vấn an sức khỏe, bạch Ngài:

-Ngài ít bệnh não, tứ đại có an ổn chăng?

Có kệ:

Vua trông Bồ-tát như Thiên chủ

Thân thể sáng lòa lòng hoan hỷ

Vấn an sức khỏe, thân an ổn

Ít bệnh, ít buồn, thân không bệnh.

Lúc bấy giờ Bồ-tát mỉm cười, dùng giọng Phạm thiên nói lời tao nhã dịu dàng, câu văn phân biệt, từ ngữ rõ ràng không có lời ô nhiễm thăm hỏi vua Tần-đầu-sa-la nước Ma-già:

-Đại vương tốt đẹp, rất an lành, có tài trị hóa dân chúng. Đại vương từ nơi xa nào đến? Xin tạm ngồi an nghỉ. Không biết ngài mưu cầu việc gì mà nhọc sức đến đây?

Vua Tần-đầu-sa-la nghe Bồ-tát vấn an như vậy, tiến đến trước Bồ-tát, ngồi an ổn trên một phiến đá. Nhà vua muốn trắc nghiệm tâm Bồ-tát nên bạch:

-Thưa Nhân giả, hôm nay nếu Ngài không từ nan mỏi mệt, cho trẫm hỏi vài lời, vì trong lòng trẫm có điều nghi ngờ, cúi xin Nhân giả giải tỏa mối nghi.

Nhà vua liền hỏi:

-Nhân giả là người gì? Là chư Thiên hay loài rồng? Là Phạm thiên hay Đế Thích? Là người hay thần linh?

Với tâm không kiêu mạn, không tham dục, không sân hận để nhổ sạch tất cả gai phiền não, lại cũng không tâm dua nịnh, Bồ-tát đáp lời vua Tần-đầu-sa-la nước Ma-già:

-Xin Đại vương biết cho, Ta chẳng phải là chư Thiên, chẳng phải là loài rồng, chẳng phải là Phạm thiên… Ta là người. Này Đại vương, Ta muốn cầu đạo tịch tĩnh, nên bỏ ngai vàng xuất gia.

Vua Tần-đầu-sa-la nước Ma-già bạch Bồ-tát:

-Thưa Nhân giả Tỳ-kheo, thấy Nhân giả lòng ta rất hoan hỷ, do vì ngày nay có điều uẩn khúc cũng do vì ta ái kính Nhân giả, muốn hỏi đôi lời, cúi xin Nhân giả vui lòng nghe cho. Vì sao Nhân giả đang độ thanh xuân, sức lực dồi dào khỏe mạnh, lại hình dung đoan chánh dịu dàng đẹp đẽ không ai sánh bằng, chính là thời kỳ mặc tình thọ hưởng thú vui, lại phát tâm xa lìa vương cung xuất gia làm Sa-môn, ngồi một mình trong núi vắng? Lại nữa, Nhân giả có thân hình như vậy, thật đáng thoa hương chiên-đàn, chẳng nên đắp ca-sa thế này! Hai tay Nhân giả với những ngón có đường chỉ như bức họa, chỉ nên trị hóa dân chúng, nhận lấy đầy đủ cao lương trăm vị tùy ý thưởng thức, nào phải bưng bát đi từng nhà xin ăn.

Rồi vua nói kệ:

Thân Ngài nên thoa hương chiên-đàn

Chẳng nên mặc tấm ca-sa cũ

Bàn tay Ngài chỉ đạo thế gian

Đâu phải sống hành nghề khất thực.

Vua Tần-đầu-sa-la nói kệ này rồi, lại bạch Bồ-tát:

-Ngày nay Nhân giả vì ái kính phụ vương nên không nhận vương vị, xá tục xuất gia. Nay tôi thỉnh Nhân giả ở lại nước tôi thọ hưởng ngũ dục, những gì Nhân giả cần dùng tôi đều xin cung cấp theo ý muốn. Như cần tiền của tôi xin cung cấp tiền của… cho đến các thể nữ hầu hạ của tôi, đều cung cấp cho Nhân giả. Tôi sẽ phân đôi đất nước cho Nhân giả cai trị, Nhân giả có thể ở nơi đất nước tôi nhận lãnh vương vị, tôi cung phụng Nhân giả không có gì thiếu hụt. Vì sao như vậy? Tôi nhận thấy thân thể Nhân giả dịu dàng chẳng nên sống trong cảnh núi rừng vắng vẻ, lại ngồi trên đất với thảm cỏ khô, sợ e tổn thương đến sức khỏe sinh ra bệnh tật. Xin Ngài trị vì quốc gia tôi độ một thời gian ngắn, khi nào phụ vương Nhân giả già yếu, Ngài sẽ trở về bổn quốc lên ngôi vua. Nếu ngày nay Nhân giả đoái tưởng đến tôi, thương xót đến tôi, xin Nhân giả nhận lãnh vương vị, rồi ở đây cai trị. Như Nhân giả tự cho mình là dòng họ tôn quý của một đại tộc, chê quốc gia tôi chật hẹp, đất đai nhơ nhớp thì tôi cùng quần thần bá quan vạn dân, vì Nhân giả mở mang bờ cõi biên cương, để quốc gia to lớn rộng rãi hơn, rồi cùng Nhân giả cai trị. Lúc đó, tôi nguyện được bang giao cùng quý tộc, kết nghĩa thâm tình như quyến thuộc. Mong Nhân giả chẳng nên nghi ngờ cho là không chân thật.

Rồi vua nói kệ:

Nhân giả tự cho dòng đại tộc

Chê nước trẫm nhỏ chẳng nhận lời

Trẫm với đại thần cộng bá quan

Mở mang bờ cõi thêm rộng lớn.

Lúc bấy giờ vua nước Ma-già-đà nói kệ rồi, lại thưa Bồ-tát:

-Tôi có tâm ái kính tổn trọng Nhân giả, mà ngày nay Ngài đi khất thực độ nhật. Ngài hãy nỗ lực phát tâm rộng rãi nhận lấy địa vị, tài sản và thú vui ngũ dục. Vì cớ sao Nhân giả lại nhận việc này? Ở trong cung thưởng thức sắc đẹp của thể nữ vui chơi hoan lạc, đã có thể làm người hưởng phước báo thế gian, ở vị lai cũng vậy. Nếu ngày nay Ngài không thọ hưởng ba việc này, hay xả bỏ một trong ba việc, thì trong hiện tại hay vị lai cũng không được đầy đủ phước báo. Nếu có nhận lấy cũng bị thiếu hụt. Do vậy, Nhân giả hãy phát tâm rộng rãi để thọ hưởng ba thú vui này. Thọ hưởng ba thứ vui đó, Ngài sẽ sử dụng thời thiếu niên với quả báo hình dung tuấn tú nhận lấy là địa vị, tiền tài và dục lạc. Người đàn ông ở thế gian đôi khi hưởng thọ dục là để sinh con cái thừa kế. Đây là tài sản quý báu nhất. Cho nên Nhân giả đừng để bỏ qua cơ hội!

Lại nữa như đôi cánh tay khỏe của Nhân giả phải dùng vào việc cung tên, đâu được bỏ uổng một đời như vậy. Thuở xưa, vua Đảnh Sinh dùng sức dũng kiện của mình cai trị bốn châu thiên hạ cho đến cung trời Đao-lợi. Ngày nay Nhân giả phải đảm trách việc như vậy. Tại sao? Ngày nay tôi vì thương xót tất cả dân chúng mà mời thỉnh Ngài như vậy, tôi cũng chẳng lấy tư cách vua chúa mà ân cần khuyên thỉnh. Tôi thấy thân hình Nhân giả đoan trang mà thương tiếc buồn bã rơi lệ, không nỡ làm thinh, nên tâm thán phục càng tăng bội phần, do đó mới ân cần chịu khó mời thỉnh như vậy. Ngày nay Nhân giả đang độ sức khỏe dồi dào, nên ở thế gian hưởng dục, chờ đến tuổi già sức yếu, chừng đó mới xả tục xuất gia.

Lại nữa, thưa Nhân giả, tổ tiên từ trước đến giờ đều theo hoàng tộc của mình, đến khi tuổi già mới đem việc quốc gia trao lại cho Thái tử hoặc đại thần. Sau đó, xả bỏ vương vị, xuất gia vào núi tu tập.

Lại nữa, thưa Nhân giả, chư Tiên nhân đời trước có dạy rằng phàm con người lúc thiếu niên phải thọ hưởng dục lạc, đến lúc trung niên nên kinh doanh sự nghiệp cầu tiền tài để sống, đến khi già yếu mới xả bỏ tài sản giao lại cho con cái, rồi tu các pháp khổ hạnh. Như vậy đối với mọi phương diện xã hội đều xây dựng chu toàn. Ngược lại người lúc niên thiếu không thọ dục lạc, lúc trung niên không xây dựng sự nghiệp, việc làm như vậy chính là oán thù của bản thân, cũng gọi là giặc. Đến khi tuổi già, các căn suy yếu khó mà tiếp nhận dục lạc.

Lại nữa, thưa Nhân giá, giả sử thiếu thời muốn tu pháp khổ hạnh, cũng bị các căn đòi hỏi ngũ dục. Đến tuổi già trong tâm suy nghĩ muốn đoạn tuyệt các dục lạc, thì cũng dễ hộ trì các căn sinh tâm xấu hổ, ý mới được vắng lặng.

Lại nữa, thưa Nhân giả, ở thế gian lúc thiếu niên chính là thời kỳ sung sức, không thể thấy đạo cao xa, sẽ có nhiều sự sai lầm. Đến tuổi trung niên, khí huyết dần dần suy yếu, thời kỳ phóng dật đã qua. Như có người qua được cánh đồng hoang, đứng nghỉ, thở than: “Ta đã vượt qua cánh đồng này.” Vậy ngày nay Nhân giả đang độ thanh xuân, chính là lúc hưởng thụ, nguyện xin Nhân giả tùy ý nhiều ít nên thọ dục.

Lại nữa, thưa Nhân giả, thuở thiếu niên các căn khó điều phục nếu Nhân giả muốn thực hành các pháp sự, ưa mến các pháp hạnh, phải theo pháp nhà Ngài, cúng tế chư Thiên. Nhờ sự cúng tế đó cũng được sinh lên trời. Nhân giả ở trong nhà dùng vàng, bạc, ngọc ngà quý giá trang sức nơi thân và hai tay, các vật quý tỏa ánh sáng như ngọn đèn.

Lại nữa, thưa Nhân giả, các vua đời xưa đầu đội mão báu, thân thể trang sức, thường ở trong cung cúng tế chư Thiên, hành các pháp hạnh, lập hội Vô già rồi mới vào trong núi tu các pháp đại tiên để cầu quả giải thoát. Ngày nay Nhân giả nên học các vị vua ấy, làm theo mỗi độ tuổi.

Vua nước Ma-già dùng đủ cách đem những lời ủy dụ như vậy, muốn khuyến thỉnh Bồ-tát hoàn tục. Nghe vua nước Ma-già khuyến thỉnh, Ngài không biến đổi sợ sệt, thân tâm không lay động vắng lặng an trụ như núi Tu-di, không sinh ý tưởng gì khác, thu nhiếp các căn, ba nghiệp thanh tịnh.

Có bài kệ:

Vua Ma-già-đà khuyên Bồ-tát

Như tình bằng hữu trao điều lợi

Bồ-tát bằng ba nghiệp thanh tịnh

Đáp lại như sen không thấm nước.

Bồ-tát bảo:

-Này Đại vương nước Ma-già-đà, ngài nói ra những lời bất thiện, lời đó giống như lời của kẻ vô trí, chẳng xứng đáng lời nói mẫu mực của bậc Đại vương trong thiên hạ. Nếu Đại vương có tâm chân thật đối với Ta, dầu lời nói thành thật đó cũng không lợi ích, cũng chẳng phải thương mến Ta, đối với Ta thật tổn hại. Người ác ở đời không có từ tâm, cũng giống như người phú quý mà khiếp nhược. Nếu muốn làm lợi ích thế gian, cần phải chỉ dạy những gì thu thập từ quá khứ mới là bằng hữu, mới là giúp đỡ họ phát đạt. Phàm người thấy bạn bè gặp hoạn nạn chẳng rời nhau, đồng tâm hợp lực bên nhau, mới gọi là quen biết. Ta cho rằng, khi phú quý sao lại không thể làm bằng hữu tri thức! Người nào khi được tài sản, theo pháp phân chia cho bạn không mất mát thì gọi là bạn thân. Người ấy có thể dùng tài sản lâu dài. Khi dạy bảo nhau, họ không chịu nghe lời hoặc vì nghiệp từ trước mà bị mất tài sản thì sau ta cũng không hối hận. Như nhà vua ngày nay cùng ta kết giao là tri thức, thật sự có tâm ái kính ta, đem những việc như vậy chỉ bảo Ta; Ta có thể tán đồng hay không tán đồng ý kiến của nhà vua.

Bồ-tát nói lời như vậy, lại bảo nhà vua:

-Đại vương phải biết, Ta cầu đạo là sợ cảnh sinh già bệnh chết, cầu pháp giải thoát nên chọn lấy cuộc sống thế này. Thân tộc quyến thuộc thật rất yêu mến ái kính, khó xa lìa họ. Họ khóc kể ảo não nước mắt tràn ngập mặt mày, hoặc vì Ta mà bỏ mạng. Ta bỏ tất cả đi đến đây, vì biết việc tham đắm ngũ dục thế gian là nguyên nhân của nhiều điều bất thiện.

Lại nữa, này Đại vương, Ta thật chẳng sợ rắn độc, cũng không sợ sấm sét của thiên lôi, cũng không sợ trận hỏa hoạn bị cuồng phong thổi cháy dữ dội thiêu đốt cả đồng nội ao hồ, chỉ sợ cảnh ngũ dục bức xúc thân tâm. Vì sao? Đại vương phải biết cảnh ngũ dục vô thường cũng như giặc dữ cướp tất cả công đức, giả dối không thật như trò ảo thuật hiện trong thế gian, nó mê hoặc người đời cho là sự thật. Người ngu si không biết nên say đắm. Huống chi chính mình thọ hưởng ngũ dục.

Bồ-tát nói kệ:

Ngũ dục vô thường cướp công đức

Sáu trần như huyễn hại chúng sinh,

Dối gạt người đời mắc quả báo

Bậc trí sao lại sống với chúng.

Vô trí thiên đường không thỏa mãn

Huống ở nhân gian lại vừa lòng

Đam mê dục nhiễm nào có biết

Đâu khác lửa hồng đốt cỏ khô!

Chuyển luân thuở trước hiệu Đảnh Sinh

Cai trị bốn châu ngồi xe báu

Được Đế Thích ngồi chung nửa tòa

Bỗng khởi lòng tham liền đọa lạc.

Dầu làm bá chủ đại địa này

Tham tâm vẫn muốn tìm thuộc địa

Hưởng dục người đời nào biết chán

Ví như biển cả nhận nước sông.

Bồ-tát nói kệ rồi lại bảo:

-Đại vương phải biết, thuở xưa có một vị Chuyển luân thánh vương tên Na-hầu-sa, thống lãnh bốn châu thiên hạ cho đến cung trời Đao-lợi, giáo hóa cả nhân thiên, nhưng lòng tham vô đáy, do vậy mà đọa lạc trong nhân gian.

Lại nữa, này Đại vương, có Chuyển luân thánh vương tên Y-la cai trị bốn châu thiên hạ cho đến cung trời Đao-lợi, nhưng lòng tham muốn vô độ, nên bị chết.

Lại nữa, này Đại vương, vua A-tu-la Bà-lê sau khi lên ngôi vua, lúc cùng Đế Thích chiến đấu bị thua, Đế Thích chiến thắng chiếm đoạt sơn hà. Rồi Đế Thích lại bị vua Na-hầu-sa chiếm đoạt; Na-hầu-sa vương sau lại bị trời Đế Thích chiếm lại. Như vậy, cảnh giới trời người luân phiên thay ngôi đổi chủ đều là vô thường, hễ ai có năng lực hơn thì sẽ làm chủ. Như vậy người có trí hơn nên quán sát tư duy thế này: Cảnh giới vô thường thay đổi trong chốc lát làm sao tin được! Chỉ có những vị Tiên nhân ở trong rừng núi, ăn toàn hoa quả, rễ lá dược thảo, thân mặc vỏ cây hay da lông thú đã chết, thân thể ốm gầy chỉ còn da bọc xương, họ muốn vượt qua hết tất cả phiền não, thoát ly thế gian, cầu quả giải thoát Niết-bàn Vô vi. Còn ai buông lung bị ngũ dục ràng buộc, đọa lạc vào luân hồi. Thử hỏi, người trí ai lại tham đắm ngũ dục. Nếu say đắm ngũ dục là tự chuốc lấy oán thù vào mình.

Bồ-tát lại nói kệ:

Tiên nhân ở động nơi rừng núi

Ăn quả uống nước mặc vỏ cây

Dầu tuy búi tóc thân gầy ốm

Mong cầu giải thoát lìa ái dục.

Nếu không tự chế hàng phục được

Cũng bị ngũ dục nó kéo lôi

Dục oán vô thường là thế ấy

Người trí chẳng nên dính mắc vào.

Bồ-tát nói kệ rồi, lại bảo:

-Đại vương phải biết, chúng sinh ở trong cõi dục vì muốn thọ hưởng khoái lạc, mà tìm cảnh dục để hòa hợp, khi đã đạt cảnh dục rồi, lại không thỏa mãn. Người vô trí thọ hưởng ngũ dục như vậy không nhàm chán, hiện tại bị khổ não vô cùng, trong tương lai sẽ bị tai ương hoạn nạn. Bởi vậy người trí không mơ tưởng ái dục. Người trí thấy kẻ tạo nghiệp đen tối, thọ khổ vô cùng. Nếu muốn được an ổn không nên tạo nghiệp, không nên hưởng thọ dục lạc, cần phải xa tránh tất cả dục lạc. Nếu có hội họp phải biết có ly biệt, buông lung tình dục thì tâm phóng dật, phóng dật tăng trưởng thì tạo các nghiệp bất thiện, kết quả của bất thiện là đọa vào địa ngục. Trong quá khứ đã làm việc khổ lớn, hiện tại được các dục, sau khi được dục rồi phải cố gắng bảo vệ, nếu không bảo vệ được thì lại bị rơi mất.

Lại nữa, này Đại vương, người trí đối với các ái dục ấy, tư duy thế này: Cảnh giới người trời cũng giống như vật mình mượn kẻ khác, chẳng phải vật thường tồn của mình, vì lý do gì đem tâm tham đắm. Tất cả quả báo cõi nhân thiên như sương trên cỏ, như đầu rắn độc, như đống xương trên bãi tha ma, lại như cục thịt đầu tiên nơi bào thai của người phụ nữ, như giấc chiêm bao, như trò ảo thuật, cũng như đống lửa. Tất cả các cõi khổ não tai ương, không thật như vậy. Chúng sinh luôn luôn bị tất cả các thứ đó bức xúc khổ não. Nên người trí không đem tâm say đắm ái dục.

Lại nữa, này Đại vương, như trong các luận có nói: Vào thời quá khứ ở thành Mị-thệ-la có một ông vua mù tên là Đầu-đề-lại-tra, tuy mù mắt nhưng sinh hạ nhiều con, tất cả một trăm người con đều bậc tài trí. Riêng người em nhà vua có năm chục người con, anh em chú bác tổng cộng một trăm năm chục người. Sau khi hai anh em nhà vua qua đời, các con của hai vị này muốn tranh ngôi vua vì nhân duyên quả báo ái dục, nên sát hại lẫn nhau không còn một người.

Lại nữa, này Đại vương, như khi khoảng đồng hoang ao hồ Đàn-trà-ca bị đốt cháy, các ác quỷ lại sát hại loài súc sinh.

Lại dưới núi Tu-di có hai anh em Tu-la vì đồng yêu một mỹ nữ, hai người chiến đấu để giành mỹ nhân, cả hai đều bị thương vong.

Lại nữa, các lò súc sinh ở thế gian, trồng các trụ cây buộc vào đó đủ loại súc vật để cắt mổ.

Các ái dục cũng như vậy, làm sao người trí có thể tham dục lạc cho được.

Rồi Ngài nói kệ:

Thuở xưa Tu-la hai huynh đệ

Yêu một mỹ nữ giết hại nhau

Cốt nhục tương tàn vì háo sắc

Kẻ trí biết vậy chẳng đam mê.

Bồ-tát lại nói:

-Đại vương phải biết, hoặc lại có người vì ham ngũ dục mong cầu sinh lên trời hay sinh nhân gian, sau khi được sinh vào cõi đó rồi thì say mê ngũ dục, toàn thân như chìm vào nước sôi hay sa vào hầm lửa. Cảnh giới vô thường dốt gạt như vậy, cũng chỉ vì ngũ dục mà chuốc lấy oan nghiệp vào thân. Làm sao đem tâm luyến ái cho được!

Rồi Ngài nói kệ:

Ngu si ái dục khiến bần cùng

Ràng buộc tan thương nhiều đau khổ

Trông mong nhớ dục mau thành việc

Nào biết cạn sức đời sau khổ.

Bồ-tát lại nói:

-Này Đại vương nước Ma-già-đà, Ta biết ngũ dục có tội lỗi đau khổ như vậy, nên nhà vua chẳng nên lấy ngũ dục mà khuyến dụ Ta. Ta đang muốn đi trên con đường vô úy. Nếu Đại vương thật là bạn tốt với Ta, thì đem những lời khuyến dụ thế này nói với Ta: Mong rằng đại nguyện rộng lớn của Nhân giả sớm thành tựu, nguyện sớm thoát khỏi phiền não. Vì sao? Vì Ta chẳng bị nhiều người rượt đuổi, nên lánh vào trong rừng núi. Ta cũng chẳng phải bị địch trả thù hay truy lùng, ta chẳng phải bị người khác chiếm ngôi mà bỏ đi. Ta cũng chẳng phải cầu đạo như các Tiên nhân đời xưa mà thoái chí trở về.

Thế nên, Ta không thuận theo lời Đại vương.

Lại nữa, này Đại vương, như có người nắm đầu rắn độc vứt đi, có thể muốn bắt trở lại hay không? Như ném đuốc lửa đang cháy vào tay, có nắm bắt lại không? Cũng như vậy! Cũng như vậy! Ta đã bỏ ngũ dục, xuất gia rồi, mà trở lại thọ ngũ dục thì cũng như vậy.

Lại nữa, này Đại vương, ví như người có đôi mắt sáng, không tốt đẹp hơn người mù mắt hay sao? Ví như người không bị các việc ràng buộc, không tốt đẹp hơn người bị ràng buộc trong lao ngục hay sao? Ví như người giàu có nhiều của cải, không tốt đẹp hơn người bần cùng đói lạnh ăn xin hay sao? Ví như người thông minh trí tuệ, không tốt đẹp hơn người điên cuồng hay sao? Nhưng những người ấy còn có chỗ đẹp chứ ta đã xa lìa ngũ dục, không một thứ nào Ta có thể tham đắm.

Lại nữa, này Đại vương, như lời Đại vương đã nói: “Ở lại nước ta thọ hưởng ngũ dục, tùy ý hoan lạc, ta sẽ cung cấp tiền của và thể nữ.” Đại vương biết cho, ta nay không chấp nhận ngũ dục thế gian như ngài nói.

Lại nữa, này Đại vương, khi Ta còn ở cung điện, có vô số ngũ dục, phải bỏ sáu vạn thể nữ, xuất gia vào rừng núi. Đại vương phải biết các thứ như vậy, có vô lượng vô biên tai ương nguy hiểm, lôi kéo chúng sinh vào trong địa ngục, còn dư báo thì làm loài súc sinh, ngạ quỷ, mất hết thiện căn, không phải là điều Thánh nhân ca ngợi.

Lại nữa, này Đại vương, các dục lạc thế gian giống như mây bay không một chút tạm dừng, như trận cuồng phong không bao giờ yên nghỉ, như tháo nước trên núi dồn dập cuốn trôi.

Lại nữa, này Đại vương, người ngu si đam mê ngũ dục không biết giới hạn, trầm luân trong sinh tử bị phiền não trói buộc không thể ra khỏi, như lữ khách trên đường dài khôn khổ mỏi mệt, lại uống nước mặn càng uống càng khát. Đúng như vậy, người hưởng thụ năm dục, không biết sự nguy hiểm của nó cũng vậy.

Lại nữa, này Đại vương, Ta nói tóm lại: Nếu như có người đang hưởng ngũ dục cảnh trời, cho đến cảnh dục tuyệt vời ở nhân gian. Với tất cả những thứ dục lạc vô cùng tốt đẹp như vậy, mà người ta thọ hưởng rồi thì không biết nhàm chán, tham dục càng thêm, sẽ tìm các thứ dục mới lạ khác.

Lại nữa, này Đại vương, như lời Ngài nói ở trước: “Cùng ta trị hóa nước Ma-già-đà, ta sẽ nhường lại nửa phần thiên hạ cho người cai trị, hoặc nhận lấy trọn ngôi vua ta, ta đều hiến dâng tất cả và phục vụ cho Ngài, hoặc ta hưng binh mở mang bờ cõi khiến cho quốc gia thêm rộng lớn tươi đẹp phồn thịnh.” Này Đại vương, ta đã từ bỏ bốn châu thiên hạ, phong phú đầy đủ không thiếu một thứ gì mà đi xuất gia, ngày nay đâu có thể lại tham đắm nhận lấy vương vị nhỏ bé của một tiểu quốc hay sao?

Lại nữa, này Đại vương, như quả báo Sa-già Long vương ở nơi biển cả, được nước mênh mông, với cung điện rộng lớn đầy đủ bảy báu trang nghiêm, đâu có thể tham sống nơi nước lỗ chân trâu hay sao?

Đại vương phải biết, đúng như vậy! Đúng như vậy! Ta đã phát tâm dũng mãnh, xả bỏ bốn châu thiên hạ cùng cung điện bảy báu… cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc, xuất gia vào rừng núi tu tập, mà ngày nay tham đắm vương vị thế gian thì cũng lại như vậy.

Bấy giờ Bồ-tát bảo nhà vua:

-Như lời nói của Đại vương: “Nhân giả Tỳ-kheo thân thể mềm mại, chẳng nên ở trong rừng núi vắng vẻ hiu quạnh, nằm ngồi ngủ nghỉ trên thảm cỏ.” Đại vương phải biết, khi Ta còn trong cung dùng các loại giường quý báu, mặc tình nằm ngồi trên đó, nay đã nhàm chán vứt bỏ đi xuất gia. Tại sao như vậy? Đại vương nên biết, thân này yếu ớt suy thoái vô thường, không phải vật bền chắc, là pháp hoại diệt, có đó rồi bị vứt đi nơi nào đấy, giống như khối đất, như nhau không khác. Lại nữa, này Đại vương, như người có trí đã vất bỏ thây ma, có thể lượm lại hay không? Nếu lấy trở lại, hoàn toàn không có việc như vậy.

Lại nữa, này Đại vương, như lời nói của ngài, nếu đối với Ta có lòng thương mến thì nên tùy hỷ, chớ nên trách Ta: “Khất thực độ nhật, là việc chẳng nên làm.” Đại vương nên biết, nếu thương mến Ta, chớ có nói như thế! Tại sao? Vì nay Ta muốn vượt qua biển khổ hoạn nạn sinh, già, bệnh, chết, mỗi bước đi vào đạo. Bởi vậy, Ta chọn lấy đời sống Tỳ-kheo, vì muốn cầu quả tịch diệt an lạc, muốn đời vị lai diệt trừ tất cả hoạn nạn, cho nên cần phải mặc ca-sa hoại sắc.

Đại vương nên biết, nếu có người ở hiện tại được phước đức thọ quả báo ngũ dục, nên yêu mến say đắm, những hạng người này thật đáng thương xót! Nếu có người trong đời hiện tại, không đạt được tâm tịch tĩnh an lạc, nhất định trong đời vị lai chịu các khổ báo. Những chúng sinh này thật đáng thương xót!

Lại nữa, này Đại vương, Ta nay kinh sợ các khổ của phiền não, nên xả tục xuất gia, muốn cầu Niết-bàn chân thật tịch tĩnh. Giả sử Ta được cung trời Đế Thích cũng chẳng ham muốn, huống là quả báo thấp hèn ở nhân gian.

Rồi Ngài nói kệ:

Ta bị trúng tên phiền não bắn

Cần tìm cao tịch diệt để trị

Ví dù có được cung Đế Thích

Ta cũng không ham huống vương vị.

Bồ-tát lại nói:

-Đại vương phải biết, như lời nói ở trước của Đại vương: “Phàm tất cả người thế gian sống phải thủ lợi thích hợp với ba độ tuổi.” Theo ý Ta xét thì, đó không phải là lợi ích chân thật. Tại sao? Vì cầu được nhiều tiền của, có được rồi một ngày kia cũng phải hết. Mong muốn thì thêm mong muốn, không khi nào biết đủ, cầu pháp mới là lợi ích chân thật. Pháp lợi có cạn sâu, tất cả có năm công đức, Ta quyết phải tìm cầu.

Rồi Ngài nói kệ:

Sinh già bệnh chết nếu không còn

Chân thật trượng phu là thế ấy

Tình đời tham dục mưu tài lợi

Ta lìa tài sắc chỉ mong pháp.

Bồ-tát lại nói:

-Đại vương phải biết, theo lời nói ở trước của Đại vương: “Nhân giả chưa đến tuổi già, chính đang độ thiếu niên, cần phải lãnh ngôi vua trị vì thiên hạ, thọ hưởng thú vui ngũ dục.” Ta chẳng phải vậy. Vì sao? Nếu thời thiếu niên luôn luôn như vậy, thì lẽ ra tất cả thiếu niên không già, lẽ ra tất cả chúng sinh ở mọi cảnh giới „ thường xuyên không bị tử thần lôi kéo nên tuổi thọ của chúng sinh không nhất định. Do vậy, người trí đã cầu pháp giải thoát tịch tĩnh – chẳng nên thọ lãnh ngôi vua vui chơi ngũ dục. Do đó, trong tất cả ba giai đoạn thiếu niên, trung niên hoặc tuổi già chỉ cầu mong pháp giải thoát sớm thành tựu, như cầu giải thoát hay cầu thiền định, chẳng được trễ nải chần chừ, cần phải siêng năng tu tập, để sớm hoàn tất.

Lại nữa, này Đại vương, như lời nói vừa rồi của Đại vương: “Nên theo pháp nhà thiết lễ cúng tế, lập hội bố thí, thì ở vị lai sẽ được các phước báo tùy theo ý muốn.” Đại vương phải biết, Ta không cầu những thú vui như vậy. Nếu các khổ não đến bức xúc tha thiết cầu được sự an lạc thì không phải an lạc chân thật. Kẻ phàm phu ở thế gian muốn cầu quả báo ở đời sau mà trong hiện tại giết hại các sinh mạng để cúng tế chư Thiên, thần lửa…. Đây là điều vô cùng phi lý. Tại sao phi lý? Nếu người làm việc từ thiện, thì chẳng nên làm tổn hại đến tánh mạng sinh vật. Giả sử sát hại sinh vật để cúng tế chư Thiên, thần lửa…, được quả báo an lạc, thường tồn thì cũng chẳng nên sát hại sinh mạng dùng vào việc cúng tế, huống nữa các quả báo an lạc đó đều là vô thường hư hoại, bị tận diệt, đâu phải là pháp chân thật.

Lại nữa, này Đại vương, phàm người muốn thực hiện pháp giải thoát, thì không cầu tự lợi, dù không tu hành, dù không trì giới, dù không thiền định, cũng còn không nên tổn hại tánh mạng kẻ khác để cầu quả báo lợi ích đời vị lai. Các phàm phu tại thế gian đem việc sát sinh, giả sử có được quả báo an lạc, đó cũng là việc bất thiện. Vì cớ sao? Vì không có từ tâm, mà lại mong cầu đời vị lai được quả báo thiện, hoàn toàn không có việc như vậy.

Rồi Ngài nói kệ:

Giả sử người đời tại thế gian

Giết hại sinh mạng mong an lạc

Trí giả cho là điều bất thiện

Huống cầu đời sau được trời người.

Lúc bấy giờ vua Tần-đầu-sa-la nước Ma-già-đà nghe Bồ-tát nói những lời như vậy, lấy làm ngạc nhiên, với điều chưa từng có, với lòng từ bi, ở trước Bồ-tát tán thán:

-Cao quý thay! Cao quý thay! Sa-môn Cù-đàm có công đức lớn, tu hành khổ hạnh khó tu, ở trong thế gian mà xả bỏ tất cả dục lạc. Thưa Nhân giả Tỳ-kheo, Ngài từ đâu bỗng nhiên xuất hiện đến đây? Sinh quán nơi nào? Thuộc dòng họ gì? Quý danh của song thân là gì? Danh hiệu là chi?

Thưa thế rồi Đại vương chí tâm lắng nghe. Lúc ấy Bồ-tát chánh tâm nhìn thẳng, ôn tồn bảo:

-Đại Vương phải biết, cách đây về phương Bắc dưới chân Tuyết sơn, có một vùng đất rộng lớn tên là Thích chủng, kinh đô của Thích chủng là Ca-tỳ-ca-la Bà-tô-đô (nhà Tùy dịch Huỳnh đầu cư xứ), Đại vương cai trị thành này là Tịnh Phạn vương, là phụ vương của Ta, Ta là con của Ngài. Mẫu hậu tên là Ma-da (nhà Tùy dịch là Huyễn), còn tên Ta là Tất-đạt-đa (nhà Tùy dịch là Thành Lợi).

Vua Tần-đầu nghe Bồ-tát nói những lời như vậy, buồn bã khóc lóc rơi lệ giây lâu, rồi gạt lệ tâu:

-Tỳ-kheo thật hy hữu, đã sinh trong nhà đại tộc, làm sao đi đứng sống một mình trong rừng thú dữ độc hại, không an ổn đáng sợ hãi này. Rừng này không tốt lại vui sống một mình, không có bạn hữu, làm sao Ngài có thể đi đứng, nằm ngồi an toàn cho được!

Bồ-tát bảo vua Tần-đầu:

-Này Đại vương, ngài phải biết, Ta nay đối với các loài cầm thú độc hại, không kinh hãi sợ sệt, dầu chúng có đến đây cũng không động một sợi lông của Ta. Đại vương phải biết, Ta nay chỉ sợ sinh già bệnh chết đến đây bức xúc Ta, ngoài ra đối với các loài ác thú trong rừng Ta không kinh sợ. Ta sống một mình không có bạn bè mà tự an vui.

Đại vương phải biết, cảnh già thật đáng sợ. Lý do vì sao? Vì khi cảnh già đến, nó cướp mất sức cường tráng khỏe mạnh của thời thiếu niên, thân hình khô gầy, lưng còm không thể đi được. Thử hỏi ai muốn thấy cảnh như vậy. Đó là điều thật đáng sợ!

Lại nữa, này Đại vương, bệnh hoạn nó đến, đó là điều đáng sợ. Lý do tại sao? Đang khi khỏe mạng mà bất chợt mai chiều lâm bệnh, “ đau nhức trằn trọc rên rỉ, khi khỏe mạnh sắc diện như hoa, sức lực dồi đào tươi thắm, bỗng nhiên tiều tụy, buồn phiền khổ não, nằm ngồi ngủ nghỉ chẳng an, đang lúc này có ai thay thế được cho ta? Nằm trên giường gối, sức không theo ý muôn. Do vì vậy, bệnh là điều thật đáng sợ!

Lại nữa, này Đại vương, chết là điều thật đáng sợ. Tại sao? Ngày chết đến làm giảm tuổi thọ của ta, bỗng nhiên đến cướp đi sự sống, tuy có sức thống trị bốn châu thiên hạ, có kim luân đánh dẹp giặc thù, có bảy báu hướng đạo, có dao bén binh hùng cũng không thể ngăn chận được, khi bị nó tranh giành cướp đoạt. Vì lý do này, chết là điều con người thật lấy làm đáng sợ.

Lúc ấy vua Tần-đầu-sa-la lại hỏi Bồ-tát:

-Thưa Đại thánh Thái tử, Ngài đang cần thứ gì?

Bồ-tát trả lời:

-Này Đại vương nước Ma-già, Ta chỉ cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi chứng quả rồi Ta sẽ chuyển pháp luân vô thượng. Ta chỉ cầu mong như vậy mà thôi.

Vua Tần-đầu lại bạch Bồ-tát:

-Thưa Đại thánh Thái tử, theo tôi nhận thấy tâm Nhân giả dũng mãnh, siêng năng tinh tấn, quyết định sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hoàn toàn không có gì phải nghi ngờ và quyết định sẽ chuyển pháp luân vô thượng.

Hay thay Thái tử, tôi được gặp Nhân giả! Hay thay Thái tử, tôi nghe được tên Nhân giả! Hay thay Thái tử, Nhân giả đã khéo xuất gia, Nhân giả con dòng họ Thích, tôi từ nay sẽ luôn luôn phụng thờ Nhân giả.

Thưa Đại thánh Thái tử, ngày nay tôi thỉnh Nhân giả luôn luôn ngày nào cũng đến cung điện chúng tôi. Tôi nguyện thường được gặp Ngài, bốn sự cần dùng của Nhân giả tôi nguyện cúng dường không chút thiếu hụt.

Khi vua Tần-đầu nói lời tán thán như vậy rồi, Bồ-tát bảo:

-Đại vương phải biết, Ta nay chẳng bao lâu sẽ rời chỗ này đi đến các phương khác.

Đại vương nghe Bồ-tát nói như vậy, chắp tay bạch:

-Thưa Đại thánh Nhân giả, mong rằng những sở nguyện gì của Ngài không bị các ma làm chướng ngại, những pháp giải thoát mà Ngài đang tìm sớm được thành tựu. Thưa Nhân giả họ Thích, mong rằng sau khi Ngài chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tôi nguyện được thân cận Nhân giả cung kính cúng dường; gặp Nhân giả rồi, liền đúng như pháp làm đệ tử Thanh văn của Ngài.

Rồi Đại vương nói kệ ca ngợi:

Ta, Tần-đầu chắp tay khen ngợi

Nguyện cầu Thái tử mau thành đạo

Nếu đã thành tựu, Ngài nhớ lời

Rủ lòng từ bi thương chúng sinh.

Bồ-tát nghe kệ rồi, bảo Đại vương:

-Hay thay lời nguyện của Đại vương! Lời nguyện của Ta và sự mong ước của Đại vương cả hai đều tốt đẹp.

Vua Tần-đầu chắp tay nhất tâm đảnh lễ bạch Bồ-tát:

-Hay thay Thái tử, Ngài có thể cho tôi sám hối, do tôi vô trí đã não loạn Đại thánh. Thái tử đã lìa ái dục nên cho ngũ dục là bất tịnh, còn tôi mang tâm ái nhiễm nên cho là trong sạch. Cúi xin Đại thánh lượng thứ bỏ qua tội này.

Bồ-tát vui vẻ mỉm cười, bảo vua Tần-đầu:

-Hay thay Đại vương! Đúng như vậy. Ta nay thọ sự sám hối thanh tịnh của Đại vương, nguyện Đại vương được an lạc ít bệnh, ít buồn phiền, giữ gìn thân tâm chớ nên phóng dật, thường làm điều lành xa lánh điều ác. Được như vậy Đại vương sẽ an ổn, hưởng nhiều thiện lợi.

Khi ấy vì quan tâm đến vua Tần-đầu-sa-la, Bồ-tát tùy căn cơ, y theo nghĩa lý các pháp tuyên dương giảng dạy khiến nhà vua hoan hỷ, rồi rời khỏi chỗ ngồi đi đến các nơi khác.

Vua Tần-đầu đảnh lễ dưới hai chân Bồ-tát, nhiễu quanh ba vòng, rồi đứng yên nhìn về hướng Bồ-tát ra đi một lúc. Sau đó, nhà vua rời núi Bàn-trà trở lại hoàng cung.

Có kệ:

Bồ-tát hứa với vua Tần-đầu

Khi Ta thành đạo sẽ độ vua

Nghĩ về Đại thánh, vua hoan hỷ

Chốc lát rời non về nước mình.

***

Phẩm 29: TINH TẤN TU KHỔ HẠNH

Bấy giờ Bồ-tát ra khỏi rừng nơi núi Bàn-trà-bà ung dung hướng về thành Già-da. Đến nơi, Ngài muốn nhiếp phục thân tâm diệt trừ các niệm ác, nên lên núi Già-da-thi-lê-sa (nhà Tùy dịch Tượng đầu). Ngài tìm một chỗ bằng phẳng trải thảm cỏ an tọa dưới một gốc đại thọ. Lúc đó, trong tâm Bồ-tát suy nghĩ về ba thí dụ, đều là việc hy hữu trong thế gian, chưa từng nghe nói, chưa từng xem thấy, chưa từng chứng biết. Ba thí dụ đó là gì?

Một, có những Sa-môn, Bà-la-môn, tuy thân không hành dục nhưng dục ái, dục não, dục nhiệt, dục chấp trong tâm ý họ vẫn chưa diệt hết, chưa đắc chánh định, vẫn còn tướng ngã, chỉ tu tập về thân. Những vị ấy luôn chịu khổ não, ý không hoan hỷ, tâm không đạt đến an lạc, không có được tri kiến, không chứng pháp thượng nhân, cũng không đạt đến chỗ vô úy. Trong số họ, tuy không còn tướng ngã, không chỉ tin về thân, không cảm thọ khổ não nhưng ý không cảm thọ, không có hỷ lạc nên không có tri kiến để chứng pháp thượng nhân, đến chỗ vô úy. Như có người lấy cây tươi ướt và phẩn ướt, để trên mặt nước cọ sát để lấy lửa. Có người từ nơi khác đến người này xin lửa. Nhưng người này từ nơi cây tươi ướt phẩn ướt ở trên mặt nước ra sức cọ sát có thể ra lửa cho người kia hay không? Nếu có lửa để cho là điều hoàn toàn phi lý. Lửa đã không xuất hiện thì người xin lửa làm gì có lửa. Đúng như vậy, như vậy, nếu có Sa-môn Bà-la-môn tuy không hành dâm dục… cho đến không có tri kiến, chứng pháp. Đây là ví dụ thứ nhất, thế gian chưa từng có cũng chưa từng nghe.

Hai, có những Sa-môn, Bà-la-môn, cấm chế thân không hành dâm dục, nhưng ý tham, phiền não, chấp trước về dục họ chưa diệt hết, chưa được chánh định, vẫn còn tướng ngã, chỉ tu chứng về thân, không còn khổ não nhưng không có hỷ lạc, không có tri kiến để chứng pháp thượng nhân, đạt đến vô úy. Trong số họ, tuy không còn tướng ngã, không chỉ tu chứng về thân, không còn khổ não nhưng tâm ý chưa hỷ lạc, không có tri kiến để chứng pháp thượng nhân, đến chỗ vô úy. Như có người muốn được có lửa, lấy cây tươi ướt cọ xát trên mặt đất, lại có người đến người này xin lửa. Người dùng cây tươi ướt cọ xát trên đất để tìm lửa, có thể có lửa cho người kia hay không? Nếu có lửa để cho là điều hoàn toàn phi lý. Đúng như vậy, như vậy, Các Sa-môn Bà-la-môn, tuy không hành dâm dục… cho đến không có tri kiến, để chứng pháp. Đây là ví dụ thứ hai, ở thế gian chưa từng nghe.

Lúc bấy giờ Bồ-tát suy nghĩ nói ví dụ thứ ba: Nếu các Sa-môn hay Bà-la-môn, tuy tiết chế thân không hành dâm dục, đối với các ái dục, lửa dục, não dục và tâm say đắm dục họ tiêu diệt hoàn toàn, được chánh định. Những hàng Sa-môn và Bà-la-môn này đã được tự lợi và còn lợi tha, trong tâm hoan hỷ an lạc, có đủ tri kiến để chứng được pháp thượng nhân và đạt được chỗ vô úy. Ví như có người muốn tìm lửa, họ dùng cây khô, cỏ khô và phẩn khô để trên đất cọ xát. Có người hướng về người này xin lửa, người này chỉ dùng ít công phu liền có được lửa, đem cho người kia. Đúng như vậy, như vậy, nếu có Sa-môn Bà-la-môn hành động lìa dục, đối với các tâm ái dục, não dục, lửa dục đều bị tiêu diệt hết, cho đến… được pháp thượng nhân, đến chỗ vô úy. Đây là ví dụ thứ ba của Bồ-tát, tự ý suy nghĩ phát sinh, đều là việc thế gian chưa từng nghe thấy.

Lúc ấy Bồ-tát lại xuống núi Thi-lê-sa thuộc thành Già-da đi đến thôn Ma-già-đà, lần hồi đi hỏi thăm mọi người: “Ở xứ này có công đức gì đáng làm? Có phi pháp nào nên đoạn diệt? Ta muốn cầu cảnh định tịch diệt tối thượng, để nói lên âm thanh vi diệu.” Cứ như vậy, Ngài tiến về trước đến một thôn ở phía Nam thành Già-da, thôn này tên Ưu-lâu-tần-loa. Sau khi đến thôn này rồi, vào buổi sáng Bồ-tát mặc y phục vào thôn đến nhà người thợ gốm, xin được một bình bát. Sau khi được bình bát, Ngài bưng bình đi theo thứ lớp khất thực trong làng. Khi đi ngang qua nhà một trưởng giả chủ thôn này, tên là Nan-đề-ca (nhà Tùy dịch Tự Hỷ), đến trước nhà, Ngài yên lặng đứng một bên. Trưởng giả Nan-đề-ca (Tự Hỷ), chủ làng này có một ái nữ tên là Tu-xà-đa (nhà Tùy dịch Thiện Sinh) dung nhan kiều diễm khả ái vô cùng, được người bấy giờ ưa chuộng chiêm ngưỡng dung nhan. Nàng Thiện Sinh từ xa trông thấy Bồ-tát bưng bình bát đứng yên lặng biết ý muốn khất thực. Thiện Sinh vừa thấy bỗng nhiên từ hai nhũ hoa tự nhiên chảy sữa. Khi ấy, nàng hỏi Bồ-tát.

-Thưa Nhân giả tối thượng, Ngài con ai? Họ tên là chi? Quý danh là gì? Cha mẹ ở đâu? Đang muốn tìm cầu thứ gì? Nhân giả có thần biến gì, mà tôi vừa trông thấy Nhân giả một lần, tự nhiên hai nhũ hoa của tôi ra sữa.

Bồ-tát đáp:

-Này chị Thiện Sinh, tên Ta là Tất-đạt-đa, tên này do cha mẹ Ta ban cho. Ngày nay, Ta muốn cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, khi chứng quả này rồi Ta sẽ chuyển pháp luân vô thượng.

Khi nàng Thiện Sinh vừa nghe như vậy, lấy bình bát từ tay Bồ-tát, đi vào nhà đựng đầy thức ăn uống cơm canh ngon ngọt, cùng đủ các thứ bánh trái cây. Nàng mang bình bát đầy trở ra, quỳ gối dâng cho Bồ-tát, miệng thưa thế này:

-Nhân giả tối thượng, tôi nguyện luôn luôn được cúng dường Nhân giả có bốn thứ nhu cầu: y phục, đồ ăn uống, đồ nằm ngủ và thuốc thang, tất cả đều đầy đủ, cúi xin Nhân giả từ bi nhận lấy. Tôi nhận xét quý danh của Ngài do cha mẹ ban cho, lại thấy Nhân giả dũng mãnh tinh tấn, chí tâm chuyên chú, nhất định sẽ thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, quyết định sẽ chuyển pháp luân, chắc chắn không còn nghi ngờ. Nếu khi Nhân giả thành đạo Bồ-đề, sẽ đến nhà tôi nhận sự cúng dường, độ thoát cho tôi, tôi sẽ làm đệ tử Thanh văn của Ngài.

Bồ-tát đáp:

-Này chị Thiện Sinh, sẽ được theo với nguyện của người.

Bồ-tát nhận vật thực xong, bỏ đi nơi khác Khi Bồ-tát nhận vật thực từ nhà Thiện Sinh, rồi đi đều chỗ vắng lặng, y như pháp mà thọ thực. Thọ thực xong Ngài đi kinh hành, lần lần đi đến một xứ nọ, đất đai bằng phẳng cảnh trí thanh tịnh hữu tình, thích thú tâm người du ngoạn. Rừng cây um tùm cành lá sum suê có đầy hoa quả nặng trĩu, đủ các dòng suối sông rạch ao hồ, nước trong sạch hương vị thơm tho ngọt ngào, chảy ngang dọc, không thiếu gì cả. Các dòng nước, không cạn không sâu lặng yên trong suối, dễ lội dễ múc. Trong rừng không có các trùng độc thú dữ, ngược lại đây có các loại cầm thú hiền lành xinh đẹp. Nơi này cách làng chẳng gần chẳng xa, nếu đến đó khất thực không khó nhọc, không bị thiếu hụt, nơi đây đường đi bằng phẳng, không cao thấp, dễ đi, dễ lội. Nếu như có người đến đây cầu lợi ích tối thắng thì vô thượng, dễ được dễ thành, mau thành tựu, chứng đắc đạo quả. vả lại, nơi này tuyệt nhiên không có các loài muỗi mòng rắn rít bọ cạp, lại không ồn ào, ban ngày ít người lai vãng làm phiền nhiễu, ban đêm dứt bặt tiếng động, yên tĩnh thanh nhàn, khí hậu ấm mát điều hòa, gió mưa hợp thời tiết, đáng làm nơi để lắng tâm tu tập thiền định. Lại thuở xưa có một tiên vua tên là Già-da (nhà Tùy dịch là Tượng) cư ngụ trong đây. Đây là thành cũ tiên vua thuở trước ở.

Khi Bồ-tát thấy cảnh trí như vậy, suy nghĩ: “Địa thế nơi đây bằng phẳng vuông vức, ý trông thấy biết là chỗ được mọi người ưa thích, cho đến… là chỗ có thể tu tập thiền định. Nếu như có kẻ trượng phu muốn trừ các nghiệp, cầu lợi ích vô thượng tối thắng, thì nơi đây đủ điều kiện để cư trú. Ta muốn dẹp trừ các ác nghiệp, tu tập thiện căn, cần phải dừng chân nơi đây, ngồi tại chỗ này, cầu đạo Bồ-đề quyết được thành tựu.”

Bồ-tát suy nghĩ như vậy rồi, liền trải tấm thảm cỏ trên mặt đất để tu tập thiền định. Sau khi an tọa, Bồ-tát suy nghĩ muốn cho tất cả chúng sinh đang tu tập các khổ hạnh cầu đạo giải thoát. Những khổ hạnh đó là: Hoặc có người đứng treo hai tay, để xả bỏ tất cả sự việc hữu vi thế gian. Hoặc có những hạng người tu tập khổ hạnh như: Khi khất thực họ không nhận vật thực lấy ra từ miệng chum, hoặc khi khất thực họ không nhận vật thực lấy ra từ trong miệng bát nhỏ, có người không nhận vật thực từ giữa hai con dê, có người không nhận vật thực từ người nơi phân dơ, có người không nhận vật thực nơi người chống gậy, không nhận vật thực của người cầm đao gậy. Đó là những trường hợp họ biết chỗ rõ ràng. Khi biết có người đàn bà bất tịnh đến họ chẳng nhận vật thực nơi người ấy, hoặc khi biết đàn bà có chửa cũng không nhận vật thực nơi người này, hoặc họ không nhận vật thực nơi nhà biết có người hành nghề bất tịnh, hoặc họ không nhận vật thực nơi người say rượu, hoặc khi có hai người đang ăn họ cũng không nhận vật thực nơi người này. Khi các người khổ hạnh này ăn, nếu có chó đến họ không ăn; hoặc trên thức ăn có ruồi nhặn hay muỗi bất tịnh dơ bẩn bay đến họ cũng chẳng ở nơi đó mà ăn; hoặc có người cất tiếng kêu: “Đến đây ta sẽ cho người đồ ăn.”, họ cũng không thọ lãnh; hoặc có người xướng lên: “Người đứng đó ta sẽ cho vật ăn.”, họ cũng không nhận vật thực nơi người này; hoặc có người xướng lên: “Ta đang làm món ăn để bố thí người hãy đợi đấy.”, họ cũng không nhận lấy vật ăn nơi người này; hoặc có người chết nên làm thức ăn, họ cũng không nhận lãnh; hoặc có người cho đồ cúng tế chư Thiên còn thừa, họ cũng không nhận lãnh; hoặc vật thực có đường cát, đường cục… cũng không nhận lãnh; hoặc vật thực có bơ dầu… họ cũng không nhận lãnh; hoặc trong vật thực có bơ sữa…, họ cũng không nhận lãnh; hoặc trong vật thực có cá và các loại thịt, họ cũng không nhận lãnh; hoặc trong vật thực có hành tỏi và các mùi gia vị cay hôi nồng nặc, họ cũng không nhận lãnh; hoặc họ chỉ nhận vật thực một nhà vừa đủ ăn một miếng; hoặc họ nhận vật thực hai nhà chỉ đủ ăn hai miếng cho đến họ nhận vật thực bảy nhà lại ăn bảy miếng rồi nghỉ; hoặc một ngày họ chỉ ăn một bữa; hoặc một ngày ăn hai lần, hay một ngày rưỡi mới ăn, hoặc họ trải qua ba ngày, họ chỉ ăn một bữa; hoặc một ngày họ chỉ ăn một ít; hoặc hai ngày họ chỉ ăn một ít; hoặc cho đến bảy ngày họ chỉ ăn một ít; hoặc họ chỉ ăn rau; hoặc họ chỉ ăn hột cỏ dại; hoặc họ chỉ ăn cành cây non; hoặc họ chỉ ăn bơ; hoặc họ chỉ ăn cành cây Ca-ni-ca-la; hoặc họ chỉ ăn toàn phân dê; hoặc họ chỉ ăn toàn phân trâu; hoặc họ chỉ ăn toàn bã mè; hoặc họ ăn trái cây; hoặc họ ăn tất cả loại rễ cây; hoặc họ ăn ngó sen; hoặc họ ăn tất cả nhánh ngọn non của các loại cỏ.

Hoặc họ lại chỉ uống nước để sống; hoặc họ dùng theo số vật thực được nhiều ít để sống; hoặc họ học cách ăn cỏ như loài dã thú để sống; hoặc họ có lúc đứng sừng sững mãi giữa trời; hoặc họ ngồi yên một chỗ không xê dịch; hoặc tứ chi họ chống xuống đất dùng miệng táp đồ ăn; hoặc họ chỉ mặc y phục bằng cỏ, hoặc họ dùng vải bỏ nơi mộ địa làm y phục; hoặc họ mặc y phục bằng các loại cỏ; hoặc họ dùng y phục bằng tơ lụa cũ Kiêu-sa-da; hoặc họ dùng vỏ cây đào trắng làm y phục; hoặc họ dùng cỏ râu rồng làm y phục; hoặc họ dùng da súc vật làm y phục; hoặc họ dùng da súc vật đã cũ làm y phục; hoặc họ dùng lông thú làm y phục; hoặc họ dùng da thú phá rách làm y phục; hoặc họ dùng vải vứt bỏ làm y phục.

Hoặc có người để lõa hình nằm trên gai; hoặc có người nằm trên tấm ván; hoặc có người nằm trên Ma-ni; hoặc có người nằm trên cây tròn; hoặc có người nằm nơi gò mả; hoặc có người nằm nơi gò mối giống như rắn ở; hoặc có người nằm trên đất trống.

Hoặc có người thờ nước; hoặc có người lại thờ lửa; hoặc có người nhìn theo mặt trời di chuyển; hoặc có người đứng giơ hai cánh tay; hoặc có người ngồi chồm hổm; hoặc có người dùng cát đất, bụi than thoa vào mình, đứng thẳng người; hoặc có người búi tóc, đầu, mặt, mắt mũi không tắm rửa, hai tay nắm chặt; hoặc có người nhổ tóc; hoặc có người nhổ râu.

Hoặc có đạo thờ thần như thần suối, thần ao, thần giếng, thần sông, thần kênh, thần khe, thần đất, thần cây, thần rừng, thần núi, thần đá, thần Dạ-xoa, La-sát, La-hầu A-tu-la vương, Bà-lê A-tu-la vương, Tỳ-chất-đa-la, Diệm-bà-lê A-tu-la vương… hoặc thờ sao Tuế, hoặc thờ Tiên nhân Dược Vương; hoặc thờ Tiên nhân Bà-la-đọa; hoặc thờ Tiên nhân Cù-đàm; hoặc có người thờ Tỳ-sa-môn Thiên vương; hoặc có người thờ chư Thiên Đồng tử; hoặc thờ Tự tại thiên; hoặc lại thờ mặt trời; hoặc lại thờ mặt trăng; hoặc lại thờ chư Thiên Na-la-diên, hoặc thờ Đế Thích; hoặc thờ Phạm thiên; hoặc thờ Tứ đại Thiên vương hộ thế. Thờ các thần như vậy để được hoan hỷ, rồi theo đó cầu nguyện để được mãn nguyện, đều cầu giải thoát.

Bồ-tát quán sát sự cầu giải thoát của họ sai lạc như vậy, Ngài biết rồi phát tâm tu rất khổ hạnh cực khổ đáng sợ.

Có kệ:

Bồ-tát đi đến sông Ni-liên

An tọa bên bờ tâm thanh tịnh

Thấy hàng ngoại đạo tu sai lạc

Nên tu đại khổ giáo hóa người.

Lúc bây giờ Bồ-tát an tọa, ngậm miệng hai hàm răng khít vào nhau, lưỡi co lên đụng nứu răng, nhiếp tâm nhất niệm, chuyên chánh quán sát tư duy thế này. Buộc tâm tại một chỗ, điều phục thân tâm. Khi hai hàm răng khít với nhau, lưỡi đụng vào nứu, nhiếp tâm buộc niệm tu tập, lúc đó mồ hôi nách tuôn ra. Bồ-tát biết mồ hôi nách tuôn ra như vậy, Ngài lại càng phát tâm dũng mãnh tinh tấn, tâm không còn vướng mắc, cũng không tán loạn, tâm trụ trong vắng lặng, tập trung bất động. Thân, khẩu, ý hết sức khổ như vậy, đều không lay động. Lúc ấy Bồ-tát lại có ý nghĩ: “Ta có thể nhập vào chánh định Bất động.”

Khi ấy Bồ-tát không còn dùng miệng thở ra, rồi dùng mũi hít vào nữa, miệng và mũi không hoạt động, thì lúc đó trong hai lỗ tai phát ra tiếng gió lớn, tiếng gió này giống như tiếng động lớn phát ra do khuây mạnh trong chum to để thành lạc. Đúng như vậy, đúng như vậy. Bồ-tát không cho hơi thở ra vào nơi mũi và miệng, lúc đó nơi hai lỗ tai phát ra tiếng hơi gió, cũng làm như vậy…

Ngài nghĩ: “Ta nay đã phát tâm tinh tấn, không còn nơi đắm nhiễm, bỏ cả giải đãi mới được khổ hạnh tối thắng, việc làm hết sức khó làm như vậy.” Rồi Ngài tư duy: “Ta có thể nhập vào chánh định’ Bất động.”

Khi thân, khẩu, ý của Bồ-tát đã được tịch định rồi, Ngài không cho hơi thở ra vào nơi miệng mũi và hai lỗ tai, tất cả đều bít kín. Miệng, mũi và tai đều được vắng lặng, thì hơi thở ở bên trong rất mạnh vì không thoát ra được, nên nó xung lên đảnh đầu, giống như một lực sĩ hết sức dũng kiện cầm một chiếc búa thật bén bổ vào não người khác. Đúng như vậy, như vậy do hơi thở Bồ-tát không thoát ra nơi miệng, mũi và hai tai được, dồn ép bên trong quá mạnh, nên nó xung lên đảnh, giống như tiếng búa đánh vào não.

Bồ-tát lại nghĩ: ‘Ta nay đã phát tâm tinh tấn, không còn đắm nhiễm xả bỏ giải đãi…, cho đến hết sức khổ hạnh, khổ hạnh tối thắng như đây” Suy nghĩ rồi Bồ-tát nhập vào chánh định Bất động.

Lúc bấy giờ Bồ-tát lại đình chỉ tất cả hơi thở từ miệng, lỗ tai và đảnh đầu không cho thoát ra. Do vì ngăn chận không cho thoát ra, nên hơi khí bên trong rất cường thịnh, nó xoay chuyển đập mạnh vào hai bên hông, giống như kẻ đồ tể hay con của đồ tể làm nghề giết trâu, bọn đồ tể hoặc cầm kiếm nhọn hoặc cầm dao bén mổ bụng rồi mổ hai bên hông trâu. Đúng như vậy, như vậy, vì Bồ-tát không cho khí thở thoát ra, nên khí thở bên trong cường thịnh, xuyên phá giữa hai bên hông tạo ra âm thanh cũng lại như vậy. Bồ-tát tư duy như vậy rồi, lại phát tâm tinh tấn đạt đến khổ hạnh tối thắng và suy nghĩ: “Ta nhập vào chánh định Bất động.”

Khi ấy Bồ-tát ngăn chận không cho hơi thở ra nơi miệng, mũi và lỗ tai, do đó hơi khí ở bên trong cường thịnh, ví như hai nhà đại lực sĩ, mỗi người nắm lấy mỗi tay của một kẻ yếu đuối ném vào hầm lửa lớn, thân người này hoặc bị lửa đốt cháy rám. Đúng như thế, như thế, Bồ-tát do hơi thở bên trong không thoát ra được, thân chịu sự nóng bức, cũng lại như vậy. Suy nghĩ như vậy rồi, Bồ-tát lại phát tâm tinh tấn, không còn đắm chấp gì cả, xả bỏ giải đãi, tâm không tán loạn, được chánh niệm, tất cả được vắng lặng. Thân, khẩu và ý đều được chánh định. Đây là khổ hạnh tối thượng, vô cùng kỳ diệu.

Lúc bấy giờ có hàng chư Thiên từ thượng giới xuống, thấy Bồ-tát khổ hạnh như vậy, họ cùng nhau bảo:

-Ngày nay Thái tử Tất-đạt-đa đại trí đã chấm dứt cuộc sống.

Lại có một nhóm Thiên tử khác trong chư Thiên đó nói với nhau:

-Thái tử Tất-đạt-đa ngày nay Ngài chưa chết, chỉ gần chết thôi.

Lại có các Thiên tử khác nói:

-Thái tử Đại thánh Tất-đạt-đa hiện tại chưa chết, sau này cũng không chết. Vì cớ sao? Vì Thái tử là bậc A-la-hán, phàm A-la-hán có hạnh như vậy, chẳng có gì lạ.

Lúc ấy Bồ-tát ở trong rừng thanh vắng, dụng tâm tu khổ hạnh, tức thành vĩ đại khổ hạnh. Lúc bấy giờ dân chúng ở xóm làng bốn phía, cùng đến nơi Bồ-tát đang ngồi, họ thấy Bồ-tát tu khổ hạnh vĩ đại như vậy, đều nói:

-Vị Sa-môn này tu khổ hạnh vĩ đại.

Do đó nên gọi Bồ-tát là Đại Sa-môn. Danh từ Đại Sa-môn để chỉ cho Bồ-tát được khởi xướng từ đây cũng vì lý do này.

Bồ-tát lại tư duy thế này: “Ở trong thế gian có những Sa-môn hay Bà-la-môn hạn chế sự ăn uống để lập hạnh đều giữ lấy sự thanh tịnh. Những hạng người đó, họ chỉ ăn lúa mạch bằng cách hoặc nấu cơm lúa mạch hoặc nấu tấm lúa mạch mả ăn, hoặc dùng lúa mạch biến chế thức ăn để nuôi thân. Hoặc lại có người ăn mè đen, hoặc ăn cháo, hoặc ăn đậu nhỏ, hoặc ăn đậu lớn, cho đến có người chỉ ăn toàn cơm đậu lớn, hoặc nước đậu lớn, hoặc bã đậu lớn, biến chế các thức ăn bằng đậu lớn để nuôi thân. Hoặc có Sa-môn hay Bà-la-môn tuyệt thực để kiến lập tịnh hạnh. Ta nay cũng có thể tuyệt thực để tu khổ hạnh.” Trong tâm Bồ-tát tư duy như vậy.

Lúc bấy giờ có chư Thiên ẩn thân đến chỗ Bồ-tát bạch:

-Mong Đại thánh Nhân giả chẳng nên suy nghĩ đến việc tuyệt thực như vậy. Tại sao? Nếu Nhân giả ngày nay tuyệt thực để lấy đó làm pháp môn tu hành, thì chư Thiên chúng tôi sẽ đem những thức ăn thượng vị đến, cho vào trong các lỗ chân lông của Nhân giả, để cho tánh mạng của Nhân giả được tồn tại, lại để thân thể của Nhân giả khỏi bị suy giảm.

Bồ-tát nghe lời nói của chư Thiên như vậy, lại tư duy thế này: “Ta đã công bố với tất cả mọi người là ta hoàn toàn không ăn các thực phẩm, mà ngày nay chư Thiên ẩn thân đem thức ăn thượng vị cõi trời đến, cho vào lỗ chân lông ta, để mạng ta còn sống. Như vậy có phải ta đại vọng ngữ dối gạt mọi người.”

Ngài nghĩ như vậy, rồi lại bảo chư Thiên:

-Này chư Thiên, tuy các người có lòng tốt, nhưng việc đó không nên làm.

Bồ-tát ngăn chư Thiên không được thực hiện ý đồ đó, rồi mỗi ngày chỉ ăn một loại khác nhau; hoặc một hột mè đen, hoặc một hột gạo, hoặc một hột đậu nhỏ, hoặc một hột đậu lớn, hoặc một hột đậu xanh, hoặc một hột đậu đỏ, hoặc một hột mạch lớn.

Bấy giờ, cách tụ lạc ấy không xa, có một Bà-la-môn tên Tư-na-da-na thuộc dòng họ tôn quý. Bà-la-môn này được vua Tần-đầu nước Ma-già phong cho một tụ lạc gần bên tụ lạc Ưu-lâu-tần-loa. Bà-la-môn này khi được phong ấp, đặt tên là Tư-na-da-na. Lại có một Bà-la-môn khác tên Đề-bà, sinh sống ở thành Ca-tỳ-la, do kinh doanh nên thường đến ở trong thành Tư-na-da-na vài ngày làm khách.

Bấy giờ, Bà-la-môn Đề-bà vì kinh doanh việc khác nên đi đến khu rừng Bồ-tát đang ở. Thấy Bồ-tát đang thực hành khổ hạnh tối thượng, Bà-la-môn này biết ngay và nói:

-Đây là Thái tử Tất-đạt-đa ở nước ta, đã tu hành khổ hạnh vĩ đại như vậy.

Thấy Bồ-tát hành khổ hạnh như vậy, ông ta rất hoan hỷ. Thấy Bà-la-môn Đề-bà hướng về mình với tâm hoan hỷ, Bồ-tát bảo ông ta:

-Đại Bà-la-môn, ông có thể cho Ta một ít lương thực để nuôi sống không? Như là đậu nhỏ chín, nước canh đậu lớn, đậu xanh, đậu đỏ… để Ta ăn duy trì mạng sống.

Bà-la-môn ấy với tâm hạn hẹp, thấy biết cạn cợt, không có ý rộng lớn, muốn làm việc bố thí, làm đúng theo lời này, nói với Bồ- tát:

-Thái tử Đại thánh, thức ăn này tôi có thể cung cấp đủ.

Bà-la-môn ấy trong sáu năm từng ngày đem thức ăn như trên dâng cho Bồ-tát. Hằng ngày, Bồ-tát nhận thức ăn này, ăn theo pháp để nuôi thân thể. Bồ-tát chỉ đưa bàn tay ra nhận riêng từng ngày, được một phần rất ít, ăn để sống, như là tiểu đậu chín, nước canh đậu đỏ… Như vậy, Bồ-tát ăn rất ít tùy theo số lượng trên tay nhận được và ăn nước đậu.

Bồ-tát do ăn những thức ăn như vậy, thân thể gầy còm, hơi thở yếu ớt, giống như ông già tám chín mươi tuổi suy nhược hoàn toàn không còn khí lực, tay chân không còn cử động theo ý muốn. Đúng như vậy, như vậy, các xương tay chân Bồ-tát chỉ còn dính liền với nhau cũng như vậy.

Sức lực Bồ-tát ra thế này, là do giảm sự ăn uống chỉ còn quá ít lại siêng khổ hạnh, da dẻ toàn thân nhăn nheo, như quả bầu đắng còn non cắt cuống phơi ở ngoài trời, bị nắng thiêu đốt sắc héo vàng, do quả bầu chưa già nên tóp khô, da nhăn nheo, tự rạn nứt ra từng mảnh như đầu lâu. Đúng như vậy, như vậy, xương đầu Bồ-tát cũng lại như vậy không khác. Do vì ăn quá ít, hai cặp mắt Bồ-tát sâu thẳm, cặp con ngươi thụp sâu vào trong giống như nước đáy giếng, trông thấy như hai ngôi sao. Đúng vậy, đúng vậy, mắt Bồ-tát trông kỹ mới thấy cũng như vậy.

Lại nữa, vì ăn quá ít nên xương sườn hai bên hông giãn cách xa nhau, chỉ còn da bọc lấy xương, giống như những sườn nhà nơi chuồng trâu hay chuồng dê.

Lúc bấy giờ 10 mục đồng chăn trâu, dê và ngựa trong làng lui tới khu rừng này, thấy Bồ-tát tu khổ hạnh như vậy, thấy rồi đều cho rằng việc thật hy hữu, tâm rất hoan hỷ, thường lai vãng cúng dường Bồ-tát.

***

Vào một hôm trời mùa xuân tươi đẹp, vua Tịnh Phạn du ngoạn, thấy tất cả thảo mộc trong hoa viên đều đâm chồi nảy lộc, trăm hoa đua nở, quang cảnh sáng tươi, các ao hồ rải rác đó đây đầy những loài ngỗng nhạn, hồng nhạn, oan ương… trên mặt nước, trên các cành cây có các loài chim như Anh dục, Anh võ, Câu-si-la, hoặc các loại Khổng tước, Ca-lạng-tần-già, Mạng mạng… cùng nhau vui đùa ca hát líu lo âm thanh vi diệu. Nghe tiếng chim hót, nhà vua thở than sùi sụt, gạt lệ than:

-Ôi thôi! Thái tử Tất-đạt-đa con ta bỗng nhiên bỏ ta xuất gia, vắng bóng đã qua sáu năm chẳng thấy mặt con. Than ôi! Ngày nay một mình ta thọ hưởng cuộc sống như thế này, biết làm gì đây khi ta không thấy Tất-đạt-đa con ta. Ở đây ngày đêm có thể nữ luôn hầu hạ bên mình, tấu đủ các loại âm nhạc như không hầu, tỳ bà, đàn sắc… Ta đang thọ hưởng thú vui ngũ dục tuyệt vời này, còn con ta tại sao sống một mình trong rừng núi vắng vẻ không bóng người, bị các loài dã thú sư tử, hổ lang, bạch tượng… bao vây; hoặc bị chúng dùng nanh vuốt ngấu nghiến tàn hại con ta ở nơi đó nào ai hay biết, hoặc sống hoặc chết bặt vô âm tín!

Tâm trạng buồn rầu khổ não thương nhớ không vui của vua Tịnh Phạn như vậy.

Bấy giờ Bồ-tát đang tu khổ hạnh nơi xứ Ưu-lầu-tần-loa, thân thể gầy ốm tồi tệ, muốn đứng dậy đi đứng, nhưng sức không giữ nổi thân hình, nên vừa muốn đứng dậy lại bị ngã nhào xuống đất. Khi đó chư Thiên cõi Địa cư thấy việc như vậy, cho rằng Bồ-tát sắp qua đời, nên trong tâm ưu sầu, rồi truyền với nhau: “Ngày nay Thái tử Tất-đạt-đa đã gần qua đời.”

Khi ấy, trong chúng chư Thiên có một Thiên tử vội vã đi đến chỗ vua Tịnh Phạn đang ngự, đến nơi tâu với Đại vương:

-Đại vương phải biết, Thái tử Tất-đạt-đa của Đại vương bỏ bốn Châu thiên hạ và bảy báu, vào núi xuất gia, do Ngài tu khổ hạnh nên nay đã bỏ mạng.

Lại có một Thiên tử khác cũng ở trong chúng chư Thiên Địa cư, vội vã đến chỗ Đại vương Tịnh Phạn, bạch với nhà vua:

-Đại vương phải biết, Thái tử Tất-đạt-đa của Đại vương tuy chưa chết, nhưng mạng sống không quá bảy ngày nữa.

Đại vương Tịnh Phạn nghe tin chư Thiên Địa cư nói như vậy, vì thương nhớ con trong lòng bức xúc ưu sầu khổ não la lớn lên:

-Ôi thôi con ta ơi! Con chết một mình trong rừng vắng! Con tuy được thân người không chịu hưởng thú vui ngũ dục, lại cũng không chứng được pháp vị vô thượng.

Đại vương nói lời như vậy rồi, tâm thân mê loạn ngã nhào trên mặt đất chết giấc. Hoàng gia dòng họ Thích bỗng nghe tiếng ta thán của Đại vương Tịnh Phạn như vậy, đều vội vàng chạy đến cung Đại vương. Đến nơi họ dùng lời an ủi tâm trạng Đại vương:

-Đại vương chớ khổ não như vậy, lại nữa long nhan ngày nay của Đại vương quá suy yếu, chẳng nên vì việc này mà hại đến tính mạng.

Đại vương hỏi:

-Ngày nay, nơi thành Ca-tỳ-la-vệ này thân tộc quyến thuộc của ta được bao nhiêu người hiện ở nơi đây?

Tất cả hoàng gia dòng tộc họ Thích liền tâu Đại vương:

-Đại vương biết cho, nay dòng họ Thích ở nơi đây có tất cả chín vạn chín ngàn người.

Đại vương lại hỏi:

-Này các khanh quyến thuộc, nếu muốn bảo tồn tánh mạng ta, thì các khanh nên mau mau đi tìm Thái tử Tất-đạt-đa con ta nay ở chỗ nào?

Khi ấy, tất cả quyến thuộc dòng họ Thích đều tâu:

-Đại vương phải biết, Đại vương có thể dùng một tay nắm lấy các núi rừng, núi Thiết vi và các biển lớn, núi Tu-di mà ném đi phương khác. Việc này còn có thể làm được. Còn Thái tử Tất-đạt-đa phiền não, thì dầu cho tập trung tất cả mọi người nơi thế gian và chư Thiên này để tìm cách đưa Thái tử về hoàng cung, việc này hoàn toàn không thể được.

Lúc ấy người con quốc sư họ Thích tên là Ưu-đà-di tâu Đại vương:

-Đại vương biết cho, con ngày nay có thể đến chỗ Thái tử Tất-đạt-đa xuất gia, đem hết tâm lực dùng lời khuyên nhủ đưa Thái tử trở về hoàng cung.

Đại vương nghe qua lời tâu như vậy, liền bảo người con của quốc sư:

-Hay thay Ưu-đà-di! Khanh có thể đến bên Thái tử, nếu như Thái tử chấp nhận lời của khanh trở lại hoàng cung, thì khanh nên theo sát Thái tử, mau mau cùng nhau trở về. Còn như Thái tử không chịu về, thì khanh cũng lánh khỏi nơi đây không được gặp mặt ta. Tại sao như vậy? Vì khanh nói như vậy, tuy giải được nỗi phiền muộn của ta, nhưng nếu Thái tử không về thấy lại mặt khanh, thì ta bị thất vọng, càng tăng sự ưu sầu.

Lúc bấy giờ, Ưu-đà-di, người con của quốc sư sửa sang xa giá, khởi hành từ thành Ca-tỳ-la, trực chỉ hướng bờ sông Ni-liên thuộc xứ Ưu-lầu-tần-loa. Khi đến nơi, trước tiên ưu-đà-di thấy nhóm năm người Kiều-trần-như có mặt nơi đây, liền hỏi:

-Thưa Nhân giả Kiều-trần-như, hiện nay Thái tử Tất-đạt-đa ở chỗ nào?

Kiều-trần-như đáp lời Ưu-đà-di:

-Thái tử Tất-đạt-đa đã vào trong rừng đang tu khổ hạnh.

Ưu-đà-di lại hỏi tiếp:

-Người hầu cận Thái tử tên gì?

Kiều-trần-như đáp:

-Này Ưu-đà-di, người đó tên là A-xa-du (nhà Tùy dịch là Điều Mã), ông nên hỏi người này.

Khi ấy ưu-đà-di liền đến trước A-xa-du thưa:

-Này A-xa-du, ông có thể đến chỗ của Thái tử, tâu giùm ta lời này: Vương phụ của Thái tử có sai sứ giả đến đây muốn ra mắt Thái tử.

Điều Mã đáp lời Ưu-đà-di:

-Ta thật không dám đến gặp Thái tử để trình lời nói này. Tại sao như vậy? Thưa Nhân giả, Thái tử đã tu khổ hạnh trải qua sáu năm. Từ khi Ngài xuất gia cho đến nay, chưa từng hướng mặt về chốn quê nhà, chỉ ngồi quay lưng; về thành Ca-tỳ-la. Tại sao như vậy? Vì nhàm chán nguy hiểm của cuộc đời. Này Ưu-đà-di, một mình ông có thể vào rừng diện kiến Thái tử để trình bày lời dạy của phụ vương.

Khi ấy ưu-đà-di một mình đi vào rừng, thấy Bồ-tát nằm trên mặt đất, từ đầu đến chân đều bị bụi phủ không còn oai nghiêm tươi sáng, cùng với màu đất, thân thể gầy ốm không còn một chút thịt, chỉ da bọc lấy xương giữ thân mà thôi. Đôi mắt sâu thẳm, giống như ngôi sao đặt dưới đáy giếng, toàn thân co quắp các đốt xương đều giãn ra.

Ưu-đà-di thấy thân hình Bồ-tát như vậy, đưa cao hai tay kêu gào khóc lóc la lớn lên:

-Ôi thôi! Ôi thôi! Người con dòng họ Thích của chúng ta, ngày nay bổng gặp tai nạn đến nỗi này. Thuở xưa, thân hình tuấn tú, nhan sắc tuyệt vời đáng yêu vậy mà ngày nay thân thể ra nông nổi thế này, giống như đất không khác. Đã không được giải thoát an lạc, mà ngược lại tổn hại uổng phí thân hình tốt đẹp.

Khi ấy, nghe tiếng kêu gào của Ưu-đà-di, Bồ-tát hỏi:

-Người này là ai mà trong lòng ưu sầu, ảo não kêu la giống như tiếng của người bị lửa đốt vậy?

Ưu-đà-di đáp lại lời Bồ-tát:

-Bạch Thái tử, tôi là con của Quốc sư trong nước của Thái tử, tên ưu-đà-di, được Đại vương Tịnh Phạn, phụ vương của Ngài phái đến đây thăm và nghênh đón Thái tử.

Bồ-tát lại nói:

-Này Ưu-đà-di, Ta không cần đến sứ giả phiền não này, Ta chỉ muốn được sứ giả Niết-bàn, không muốn sứ giả sinh tử của phụ vương.

Ưu-đà-di lại thưa Bồ-tát:

-Bạch Đại thánh Thái tử, Nhân giả ngày nay lập thệ nguyện gì kiên cường đến thế này?

Bồ-tát đáp lời ưu-đà-di:

-Nguyện rằng thân Ta ở nơi mảnh đất này, dù bị nghiền nát như hạt mè đen hay hạt cải trắng, nếu không được pháp tự lợi và lợi tha.

Tâm Ta vẫn tinh tấn quyết không buông xuôi mà sinh biếng nhác. Thân tâm Ta ngày nay chỉ thệ nguyện như vậy. Ưu-đà-di bạch Bồ-tát:

-Tâu Đại thánh Thái tử, tôi ở trước mặt Đại vương Thái tử đã nhận lời thề: “Con phải quyết định kề bên Thái tử cùng nhau trở về thành.” Ngày nay, Thái tử đã thệ nguyện sâu nặng như vậy, nếu như chưa được pháp tự lợi và lợi tha mà bỏ thân mạng thì làm sao tôi dám rời Thái tử để trái lời thệ nguyện của tôi mà một mình trở về vào, thành Ca-tỳ-la!

Bồ-tát một lần nữa bảo Ưu-đà-di:

-Này ưu-đà-di, Ta ở nơi đây tu khổ hạnh, nếu như chưa được pháp tự lợi, nửa chừng trên đường tầm đạo mà bỏ mạng, ông nên nhặt thi thể cửa Ta khiêng vào thành Ca-tỳ-la theo cửa thành lúc trước Ta ra đi. Hãy vì Ta, ông tuyên bố với tất cả dân chúng trong ngoài thành Ca-tỳ-la: “Đây là hài cốt thi thể của người tinh tấn cương quyết giữ lời chân thật, lập thệ nguyện chánh tâm chánh ý.”

Này Ưu-đà-di, lại vì Ta, ông đáp lời hỏi của phụ vương, ông| nên tâu thế này: “Đại vương phải biết, Thái tử đã vì hết sức tinh tấn chẳng phải do giải đãi nên ngày nay đã bỏ mạng. Cương quyết giữ lời chân thật nên đã bỏ mạng, chứ không dối trá.”

Này Ưu-đà-di, ngày nay Ta tuy như vậy, nhưng ở trong rừng ban đêm ta mộng thấy vô lượng chư Thiên ẩn thân đến bên Ta, đảnh lễ dưới chân và bạch: “Thái tử Tất-đạt-đa, ngày nay Ngài nên rất hoan hỷ! Từ nay trở đi, nội trong bảy ngày nữa, nhất định Ngài sẽ thành tựu điều lợi ích vĩ đại.” Này Ưu-đà-di, Ta mộng thấy như vậy, hoàn toàn không phải là không có. Này Ưu-đà-di, ông nên trở về hoàng cung, Ta chẳng cần cùng ông làm bạn.

Khi ưu-đà-di nghe lời thệ nguyện của Bồ-tát như vậy, nên không còn chút gì hy vọng, liền rời khỏi chỗ Bồ-tát ngồi trong rừng, một mình đi ra khỏi rừng. Sau khi ra khỏi rừng, vị này trở về thành Ca-tỳ-la để yết kiến Đại vương Tịnh Phạn. Đến hoàng cung, ông ta tâu Đại vương Tịnh Phạn:

-Đại vương biết cho, Vương tử Tất-đạt-đa bình an dũng mãnh, còn sống chẳng phải chết.

Đại vương Tịnh Phạn nói:

-Nếu Thái tử con ta bình an không chết, ta còn gì sầu muộn.

Sau khi nghe lời tâu của ưu-đà-di, nhà vua rất hoan hỷ.

Thuở ấy Ma vương Ba-tuần ở Dục giới muốn làm nhiễu loạn Bồ-tát, nên trong sáu năm Bồ-tát tu khổ hạnh, thường luôn luôn âm thầm sát bên Bồ-tát để tìm cơ hội sai lầm nho nhỏ mà chẳng có.

Có kệ nói:

Khung cảnh vắng lặng thật tuyệt vời

Tòng lâm phong cảnh cây tươi tốt

Ưu-lầu-tần-loa phía Đông này

Bên cạnh bờ sông Ni-liên-thiền

Địa thế nơi đây Ngài chọn được

Thệ nguyện kiết già hành khổ hạnh

Phát tâm dũng mãnh đại tinh cần

Nhất định đến nay, Ta giải thoát.

Ma vương Ba-tuần tới nơi này

Đem lời đường mật dối thưa rằng.

“Cúi xin Nhân giả sống lâu dài

Thọ mạng lâu dài mới đắc pháp

Sống lâu mới đức được tự lợi

Tự lợi về sau khỏi hối tiếc.

Giờ đây Nhân giả thân gầy ốm

Nhất định sẽ chết trong chốc lát

Nay thật, Nhân giả ngàn phần chết

May ra phước đức sống một phần.

Nên bố thí nhiều cúng chư Thiên

Đối với thần lửa nên tế tự

Nhờ vậy mới được công đức nhiều

Tu tập thiền định có ích chi

Xuất gia tầm đạo thật gian nan

Điều phục tự tâm đâu phải dễ. ”

Ma gần Bồ-tát bằng cách ấy

Dùng đủ lời lẽ giả ngợi khen.

Bồ-tát khi ấy giọng dịu hiền

Dùng lời sâu sắc đáp Ma vương:

“Ba-tuần phóng dật, ngươi bất thiện

Vì cầu tự lợi, hành thế pháp

Tâm ông cho đó là phước đức

Rốt cuộc không cầu được mảy may.

Nếu người thật sự cầu phước đức

Chẳng nên nói ra lời như vậy

Khổ chết với ta đồng như sống

Thật không một niệm sợ bị chết.

Giả sử chúng sinh đều tận diệt

Tâm ta hoàn toàn không thoái chuyển

Nay xây cầu lớn qua biển dục

Tinh tấn dũng mãnh tu phạm hạnh.

Nếu do phong tai thổi thế gian

Tất cả các sông còn khô cạn

Huống chi máu, dịch trong thân thể

Chất nước trong người cũng cạn khô,

Mỡ tủy chất ướt bị khô trước

Kế đến da thịt lại khô sau

Da thịt tiêu rồi khí lực kém

Tâm ý bấy giờ mới tịch định.

Tất cả tinh tấn thêm tăng trưởng,

Chỉ còn đi vào cửa chánh định

Ta nay muốn tu pháp hạnh này,

Mong cầu đạt đến Vô thượng giác.

Do đó, thân mạng Ta không tiếc

Ngươi biết tâm Ta thật thanh tịnh

Tâm Ta đã đạt chỗ chí thành

Trí tuệ trang nghiêm thật bền vững.

Thế gian chưa thấy có người nào

Có thể ngăn được Ta tinh tấn

Ta thà chịu chết mất mạng người

Không cần sống lâu nơi cung điện.

Trượng phu thà chết, cần chiến đấu

Quyết chẳng tham sống, hàng kẻ khác

Dũng mãnh đã chiến thắng đối phương

Địch đã hàng rồi, nào có sợ

Dũng kiện thì phá được kẻ địch

Ta chẳng bao lâu phá ma chúng:

Ma quân thứ nhất là tham dục

Tên ma thứ hai chẳng hoan hỷ

Thứ ba đói khát cùng lạnh nóng

Đam mê ái dục, ma thứ tư

Ma thứ năm chính là thùy miên

Kinh hãi sợ sệt, ma thứ sáu

Mê hoặc nghi ngờ, ma thứ bảy

Sân hận phẫn nộ, ma thứ tám

Thứ chín tên là tranh lợi dưỡng

Ngu si vô trí ma thứ mười

Cao ngạo kiêu căng ma mười một

Mười hai thường hay hủy nhục người

Các ngươi quyến thuộc ma Ba-tuần

Quân mã hành động đều hắc ám

Chúng ma đến đây hại hành giả

Những bậc Sa-môn Bà-la-môn.

Bọn ngươi thường đi khắp thế gian

Mê hoặc tất cả trời và người

Quân mã các người gặp phải Ta

Đem binh trí tuệ rất hùng cường

Có tài chiến thắng chẳng còn ai

Đại quân các ngươi bị phá sạch

Như nước làm rã bình đất sống

Quân ngươi tiêu tán chẳng khác nào.

Tâm Ta chánh định vững như núi

Phương tiện trí tuệ đều thành tựu

Tâm không phóng dật tu chánh hạnh

Người sao tìm được chút lỗi lầm! ”

Bấy giờ Bồ-tát lại suy nghĩ thế này: “Nếu trong quá khứ có Sa-môn hay Bà-la-môn, vì tự lợi mà tu tập các pháp đại khổ hạnh, hoặc tâm chẳng vui, hoặc cả thân tâm chẳng vui, với các cảm thọ như vậy, thì các Sa-môn Bà-la-môn cũng chẳng hơn khổ hạnh như Ta ngày nay do cầu tự lợi, nên thân và tâm chịu các khổ, chẳng vui. Nếu ở đời vị lai, có các Sa-môn và Bà-la-môn vì cầu tự lợi, thân tâm thọ các khổ hạnh, cũng chẳng hơn các khổ hạnh của Ta ngày hôm nay do cầu tự lợi, mà thân tâm chịu các khổ hạnh. Nhưng Ta vẫn chưa chứng được pháp thượng nhân, chưa được tri kiến, cũng chưa chứng được tăng ích, vậy có thứ đạo nào để chứng được đạo quả Bồ-đề?”

Rồi Bồ-tát lại tư duy tiếp: “Ta nhớ khi còn trong cung của phụ vương, đi xem nông dân canh tác, Ta gặp tàng cây Diêm-phù-đề mát mẻ. Thấy rồi, liền tĩnh tọa dưới tàng cây, Ta xả bỏ tất cả tâm dục nhiễm, nhàm chán các pháp bất thiện, khởi tâm phân biệt ưa thích tịch định nên sinh hỷ lạc, chứng được Sơ thiền. Ta hãy tư duy lại thiền định đó, con đường này chắc hướng về đạo Bồ-đề.” Bồ-tát suy nghĩ như vậy rồi, y như pháp nhất tâm chánh quán, nhập vào cảnh tịch định, mong nhờ thiền định này mà đạt đến giác ngộ.

Ngài liền nói kệ:

Pháp môn khổ hạnh chẳng ly dục

Chẳng phải chánh đạo đến Bồ-đề

Chẳng phải thắng nhân cầu giải thoát

Chỉ là làm khổ cho thân tâm.

Ngày nay nếu Ta muốn tu học

Cần phải như xưa xem canh tác

Ngồi dưới tàng cây Diêm-phù nọ

Lìa nhiễm chứng được định Tứ thiền.

Khi ấy Bồ-tát lại suy nghĩ: “Lạc của thiền định chỉ lìa các dục và pháp bất thiện, Ta nào không biết cái lạc đó, Ta nên chứng cái lạc đó, vì muốn thành tựu Nhất thiết tri kiến.

Rồi Bồ-tát lại suy nghĩ: ‘Ta muốn thành tựu cái lạc của Nhất thiết tri kiến cần phải có sự sống an lạc. Nhưng ngày nay Ta suy nhược không có sức lực, thì làm sao với chiếc thân suy nhược yếu đuối này mà có thể đạt được lạc ấy? Do vậy, lúc này Ta cần thân thể khỏe mạnh, phải ăn những thức ăn thô; như là đậu nấu hay bánh bún; hoặc dùng dầu hoặc bơ để thoa trên thân, rồi sau đó mới dùng nước nóng tắm rửa thân thể.”

Bồ-tát nói với người hầu cận Bà-la-môn:

-Này Đề-bà, kể từ nay, Ta không dùng những thức ăn như trước để duy trì thân mạng. Ý Ta muốn có thức ăn bổ dưỡng hơn để hồi phục cơ thể như là ăn uống các thứ bánh, bún, đậu nấu…; hoặc dầu mỡ để thoa trên thân và nước nóng để tắm gội. Ông có thể sắm đủ các thứ này cho Ta chăng?

Đề-bà bạch Bồ-tát:

-Ngày nay, tôi không có các thứ như vậy, lại nữa nhà tôi nghèo không thể sắm các vật đó, vả lại nếu lúc này dâng hiến liền cho Bồ-tát cũng không thể được. Nhưng Nhân giả phải lập lời thề, thì tôi sẽ vì Nhân giả dùng mọi phương tiện tìm cầu.

Bồ-tát hỏi:

-Ông muốn Ta lập lời thề gì?

Đề-bà bạch Bồ-tát:

-Khi Nhân giả tu khổ hạnh rồi, tâm nguyện được viên mãn, khi ấy Nhân giả bố thí pháp cho tôi, rồi lại đến nhà tôi thọ vật thực do tôi cúng dường.

Bồ-tát đáp:

-Đúng theo lời nguyện của ông.

Khi Bà-la-môn Đề-bà được Bồ-tát hứa khả rồi, liền vâng lời Bồ-tát ra đi, hướng về nhà Bà-la-môn Tư-na-da-na. Đến nơi Đề-bà nói với Bà-la-môn đó:

-Thưa Nhân giả, mong rằng vui với pháp hạnh, hiện cách làng này chẳng bao xa, có một Sa-môn tu đại khổ hạnh, Ngài trải qua nhiều năm tháng không ăn, nay muốn cầu thức ăn; hoặc cơm, bún, bánh, bơ mỡ, mật, đậu nấu…; hoặc dầu thoa thân và cần nước nóng tắm gội. Nhân giả có thể cung cấp các thứ đó chăng?

Thuở ấy, nhà Bà-la-môn Quân Tướng Tư-na-da-na có hai người con gái, một tên là Nan-đà (nhà Tùy dịch là Hỷ), người thứ hai tên là Bà-la (nhà Tùy dịch là Lực). Hai nàng này dung nhan thật đoan trang xinh đẹp, ở thế gian ít ai sánh bằng. Trước đây, hai nàng từng nghe: “Cách đây về phương Bắc ở dưới chân Tuyết sơn, có một xứ thuộc dòng họ Thích tên là Ca-tỳ-la-bà-tô-đô. Vị vua trị vì thành này họ Thích tên là Tịnh Phạn, đại phu nhân thứ nhất của vua tên là Ma-da. Hoàng hậu sinh một Thái tử, hình dung đẹp đẽ tuyệt vời, dung nhan phi thường hết sức dễ thương, sắc thân như vàng, trên đỉnh đầu tròn như chiếc lọng, mũi như chim anh võ, tay dài quá gối, tất cả bộ phận trên người đều đầy đặn, các căn hoàn bị, giống như tượng vàng, đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân trang nghiêm thân thể, khắp thân đầy đủ tám mươi vẻ đẹp. Sau khi Thái tử đản sinh, nhà vua mời tướng sư đến xem tướng Thái tử, tướng sư tiên đoán: “Nếu Thái tử ở tại gia nhất định sẽ làm Chuyển luân thánh vương cai trị bốn châu thiên hạ, làm chủ cõi đại địa này, đầy đủ bảy bấu, dùng chánh pháp trị hóa thế gian. Nếu Thái tử xuất gia sẽ thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tiếng đồn khắp mọi nơi.”

Hai nàng nghe danh tiếng Thái tử, nên đã từng tỏ lòng mơ ước với cha mình: “Con từng nghe Thái tử họ Thích đẹp đẽ dễ thương vô song như vậy, Thái tử có thể làm chồng chúng con.”

Quân Tướng Tư-na-da-na biết được tin tức Bồ-tát qua Bà-la-môn Đề-bà, bèn bảo hai người con gái:

-Lòng mơ ước của chị em con sẽ thành hiện thực. Tại sao? Các con hãy mau đến chỗ Đại Sa-môn tu khổ hạnh kia. Để làm gì? Sau khi hai con đến đó rồi, thưa thỉnh cung kính cúng dường thức ăn, dâng hiến dầu và bơ dùng để thoa thân, rồi sau đó cung cấp nước nóng để Sa-môn tắm gội. Do việc làm này, sự mơ ước của hai con sẽ được thành tựu.

Hai cô gái của Quân Tướng nghe cha dạy như vậy, liền đem theo thực phẩm, dầu và bơ…, những vật phẩm sẵn có trong nhà, đi đến chỗ Bồ-tát khổ hạnh. Đến nơi hai nàng lễ dưới chân Bồ-tát, rồi đem vật thực dâng lên và bạch Bồ-tát:

-Nguyện Tôn giả nạp thọ vật thực dâng cúng của tôi.

Bồ-tát nhận vật thực của hai nàng, tự ý thọ thực, lấy dầu và bơ thoa vào thân, rồi sau đó mới dùng nước nóng tắm rửa. Khi Bồ-tát dùng dầu bơ thoa vào thân, mỗi thứ theo lỗ chân lông hút vào bên trong cơ thể, giống như đống đất hay đông cát, tất cả dầu bơ thấm vào bên trong, không có một chút ở bên ngoài. Đúng vậy, đúng vậy. Dầu bơ thoa vào thân Bồ-tát đều hút hết vào bên trong, không có một chút dính bên ngoài. Thân thể Bồ-tát lúc bấy giờ vẫn chưa hồi phục như xưa.

Khi Bồ-tát thọ thực xong, bảo hai nàng:

-Hai chị em người muốn hồi hướng công đức này về ý muốn gì? Hai nàng bạch Bồ-tát:

-Thưa Đại Thiện Tôn giả, trước đây chúng tôi nghe dòng họ Thích hạ sinh một Thái tử, hình dung đoan chánh dễ thương, trên thế gian này không có người thứ hai, chúng tôi nguyện vị Thái tử đó cùng kết nghĩa trăm năm.

Bồ-tát bảo:

-Này hai chị em, ta chính là Thái tử dòng họ Thích. Từ nay trở đi, ta nguyện không còn hưởng thọ thú vui ngũ dục. Ta nguyện tương lai sẽ thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nguyện chuyển pháp luân vô thượng.

Hai nàng nghe Bồ-tát nói như vậy, lại bạch Bồ-tát:

-Đại thánh Nhân giả, việc này đúng như vậy, Nhân giả sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi Ngài đạt đạo rồi, xin đến nhà chúng tôi. Chúng tôi mong được gặp Ngài để làm đệ tử Thanh văn của Tôn giả.

Bồ-tát lại đáp lời hai nàng:

-Đúng vậy, đúng vậy. Đúng như lời nguyện của hai chị em.

Từ đó trở đi hai nàng mỗi ngày đem đồ ăn dâng cúng Bồ-tát, rồi dùng bơ dầu thoa trên mình Bồ-tát và sau đó dùng nước nóng tắm rửa thân thể Bồ-tát. Cứ như thế thân thể Bồ-tát lần lần phục hồi tướng tốt như xưa.

Khi ấy Bồ-tát bảo hai nàng:

-Chị em người từ nay trở đi, hai nàng không được tự ý đem nước tắm thân ta, thôi việc đó đi, chỉ cần đem thức ăn. Vì sao? Từ nay về sau, nếu thân Ta cùng người nữ tiếp xúc thì không được. Ý Ta chẳng thích, ý Ta chẳng phải như vậy.

Thuở ấy, có một kẻ chăn dê vì thấy Bồ-tát tu khổ hạnh thân thể ôm yếu, lại thấy Bồ-tát hết sức siêng năng cần khổ, nên đối với Ngài, sinh tâm hoan hỷ, liền đến nơi quỳ xuống, bạch Bồ-tát:

-Thưa Đại Thánh Tôn giả, ngày nay tùy ý tôi muốn tôn trọng phụng sự cúng dường Tôn giả, không biết ý của Ngài có chấp nhận hay chăng?

Bồ-tát đáp:

-Nếu người thấy đúng lúc, thì sớm sắm các vật tùy theo ý muốn của người.

Người chăn dê liền dùng dầu thoa trên thân Bồ-tát, rồi đem sữa dê dâng cúng cho Bồ-tát dùng, lại bẻ cành đại thọ Ni-câu-đa cắm trên đất che mát cho Bồ-tát. Nhưng do thần lực của Bồ-tát cành cây Ni-câu-đà vừa cắm xuống đất, liền mọc thành thân cây cành lá hoa quả… tất cả đều đầy đủ. Người đương thời trông thấy, gọi cây này là “Cây Ni-câu-đà chăn dê trồng.”

Khi Bồ-tát ăn thức ăn thô, năm vị tiên đồng tu với Bồ-tát, thảo luận với nhau:

-Ngày nay Thái tử Tất-đạt-đa thoái thất thiền định trở lại tính cũ, không còn trì giới, nay Thái tử thành người giải đãi, không còn tịch định, tâm sinh rối loạn.

Phê bình như vậy rồi, đối với Bồ-tát, họ ngao ngán phỉ báng, xa lìa Bồ-tát mà đi nơi khác. Lần lần, họ đến nước Ba-la-nại, vào vườn Nai tu thiền định ở đó.

Có kệ:

Tiên nhân khổ hạnh cả năm người

Thấy Bồ-tát ăn thức ăn cúng

Cho rằng chẳng còn tu thiền định

Phóng túng nuôi dưỡng thân năm đại.

***

Phẩm 30: HƯỚNG VỀ CÂY BỒ-ĐỀ

Khi Bồ-tát dùng thức ăn thô là chỉ muốn cơ thể phục hồi một ít khí lực, trong thời gian này nàng Thiện Sinh là con gái chủ thôn nọ, từ khi gặp Bồ-tát cho đến nay, vì cầu nguyện cho Bồ-tát, nên ngày ngày nàng bố thí thức ăn chín vào bình bát cho những ai khất thực. Vào buổi sáng, nếu thấy ai khất thực là Sa-môn hay Bà-la-môn đến khất thực thức ăn chín và bình bát, nàng ta đều bố thí, với tâm nghĩ miệng nguyện thế này: “Nhờ việc bố thí thức ăn này, có bao nhiêu công đức đều hối hướng về Thái tử họ Thích tu khổ hạnh, nguyện Ngài sớm thành tựu các thần thông, nguyện Ngài mau thành tựu diệu quả Bồ-đề, nguyện bậc khổ hạnh được như tâm nguyện, tất cả đều được đầy đủ viên mãn.” Nàng bố thí thức ăn và bình bát như vậy trải qua sáu năm.

Khi Bồ-tát đã mãn sáu năm, vào mùa xuân, ngày mười sáu tháng hai, trong tâm tự nghĩ thế này: “Ta chẳng nên ăn những thức ăn như vậy để thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ta không biết nhờ ai tìm thức ăn thơm ngon? Ai là người có thể cho Ta thức ăn như vậy, để Ta ăn rồi chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?” Khi Bồ-tát suy nghĩ như vậy, thì ngay lúc đó có một Thiên tử biết được tâm niệm của Ngài, liền đến nhà nàng Thiện Sinh chủ thôn nọ, bảo:

-Này nàng Thiện Sinh, người nếu biết đến lúc Bồ-tát đang muốn dùng thức ăn mỹ vị, Bồ-tát đang cầu thức ăn vô thượng mỹ vị, Ngài dùng thức ăn mỹ vị như vậy để rồi sau đó chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nay nàng nên sắm cháo sữa đủ mười sáu phần diệu hảo.

Sau khi nàng Thiện Sinh chủ thôn nọ nghe chư Thiên mách bảo như vậy, vui mừng hớn hở khắp cả thân, không thể tự chế, vội vã cho dồn một ngàn con bò sữa để vắt lấy sữa, rồi đem sữa này cho năm trăm con bò khác uống. Lại ngày sau vắt lấy sữa năm trăm con bò sữa này đem cho hai trăm năm mươi con bò sữa khác uống, lại ngày sau vắt lấy sữa hai trăm năm mươi con bò sữa này đem cho một trăm hai mươi lăm con bò sữa khác uống; ngày sau đó vắt lấy sữa một trăm hai mươi lăm con bò sữa này đem cho sáu mươi con bò khác uống; ngày sau vắt lấy sữa sáu mươi con bò sữa này đem cho ba mươi con bò khác uống; ngày sau vắt lấy sữa ba mươi con bò sữa này, đem cho mười lăm con bò khác uống; ngày cuối cùng vắt lấy sữa mười lăm con bò sữa này, đem trộn với một phần cháo gạo ngon trong sạch, rồi vì Bồ-tát nấu cháo sữa này.

Trong khi nàng nấu cháo sữa, thấy nồi cháo hiện ra hiện tượng lạ: Hoặc hiện ra bình hoa nở, hoặc hiện ra dòng nước sâu thẳm với năng lực, hoặc hiện lên chữ Vạn hoặc hiện bánh xe năng lực ngàn tăm, hoặc lại hiện hình trâu chúa, hoặc hiện Tượng vương hay Long vương, hoặc hiện hình con cá, hoặc có khi lại hiện hình đại trượng phu, hoặc lại hiện hình Đế Thích, hoặc có khi hiện hình đại Đại Phạm vương, hoặc cháo sữa sôi phun lên cao bằng nửa cây Đa-la trong giây lát rồi hạ xuống, hoặc cháo sữa phun lên cao bằng một cây Đa-la rồi hạ xuống, hoặc cháo sữa phun lên cao bằng một đại trượng phu rồi hạ xuống trong nồi cháo, hoàn toàn không có một giọt nào rơi bên ngoài cả.

Đang khi nấu sữa, có một vị toán số tướng sư đại tài đến chỗ này, thấy cháo sữa xuất hiện cấc hiện tượng như vậy, quán sát kỹ lưỡng rồi bảo:

-Hy hữu thay! Hy hữu thay! Vị nào ăn được cháo này chẳng bao lâu chứng được diệu dược cam lộ!

Vào ngày hai mươi ba tháng hai, sáng sớm, Bồ-tát mặc y phục chỉnh tề, đi về hướng Ưu-lầu-tần-loa để khất thực, lần lần đến thôn Nan-đề-ca. Đến thôn kia rồi, Ngài đứng yên lặng bên ngoài nhà Đại Bà-la-môn chủ thôn để cầu vật thực.

Lúc bấy giờ nàng Thiện Sinh con của chủ thôn, thấy Bồ-tát đứng yên lặng ngoài ngõ nhà mình, muốn khất thực. Thấy rồi, nàng lấy một bình bát bằng vàng đựng đầy cháo sữa hòa với mật, tự tay mình bưng bát cháo đầy đến trước mặt Bồ-tát. Đến nơi, nàng bạch Bồ-tát:

-Cúi xin Tôn giả thương xót nạp thọ bát cháo sữa hòa với mật này.

Khi Bồ-tát thấy cháo sữa hòa lẫn với mật, suy nghĩ thế này: “Ta đang được thuốc tốt chữa lành bệnh về thân, vậy Ta cần phải nỗ lực phát hạnh tinh tấn, sẽ chứng cam lộ và chánh pháp. Lại nữa, từ trước đến nay, Ta đã mất pháp thể và pháp hạnh, ngày nay Ta phải mở ra con đường đạo Ta đã phát thệ nguyện, phải hoàn thành ý nguyện này. Như Ta ngày nay đối với cháo sữa rất bổ hòa với mật này, đúng lúc nhận lãnh để thọ dụng, rồi y theo pháp mà thọ thực. Ta phải vượt qua cảnh giới tử ma, phải chinh phục tử ma đó, vượt qua bờ giải thoát bên kia.”

Bồ-tát tư duy như thế rồi mới nhận cháo sữa, rồi hỏi nàng Thiện Sinh con chủ thôn:

-Thưa Thiện tỷ Tôn giả, sau khi Ta dùng hết cháo sữa, chiếc bình bát này trao lại cho ai?

Nàng Thiện Sinh đáp:

-Tôi xin cúng cho Tôn giả.

Bồ-tát lại nói:

-Ta không cần dùng vật như thế này.

Nàng Thiện Sinh nói:

-Sử dụng bằng cách nào tùy ý Nhân giả. Vì tôi từ trước đến giờ hễ bố thí vật thực cho ai thì luôn luôn bố thí cả bình bát.

Khi Bồ-tát nhận vật thực rồi, từ xứ ưu-lầu-tần-loa chánh niệm ra về, ung dung lần lần hướng về bờ sông Ni-liên. Đến nơi, Ngài đặt bình bát vào chỗ sạch sẽ, rồi cởi y phục xuống sông tắm rửa giải sức nóng trong người. Trong khi Ngài đang tắm rửa thân thể, ở trên hư không chư Thiên dùng các loại bột hương thơm vi diệu hòa lẫn với nước mưa tuôn xuống trên mặt sông.

Lúc bấy giờ, trên mặt sông Ni-liên tràn ngập bột hương thơm xen lẫn với các loại hoa tạo thành dòng. Bồ-tát tắm xong rồi lấy chiếc ca-sa ở trong nước giặt giũ, vắt phơi khô khan rồi đắp lên thân. Ngài muốn sang qua bờ sông bên kia, nhưng sóng và dòng nước chảy quá mạnh, mà thân thể lại ốm yếu không thể lội được, vả lại trong sáu năm siêng tu khổ hạnh, sức yếu đuối không tài nào qua bên kia được.

Khi ấy bên bờ sông có một đại thọ tên là Át-thùy-na (nhà Tùy dịch là Kim giả), vị thần ở cây này là Kha-câu-bà (nhà Tùy dịch là Tiểu Phong), lúc đó Thọ thần dùng xâu chuỗi anh lạc đeo nơi tay để dìu Bồ-tát, khi ấy Bồ-tát nắm tay Thọ thần mà qua được bờ bên kia.

Nước hương thơm Bồ-tát tắm trên sông, tất cả chư Thiên đều múc lấy mang về cung điện, dùng nước công đức cát tường này rưới lên cung điện của mình.

Thuở ấy vị chủ sông Ni-liên-thiền có một Long nữ, tên là Ni- liên-trà-da (nhà Tùy dịch là Bất Quả), từ dưới đất vọt lên tay cầm bảo tọa hết sức tốt đẹp dâng cho Bồ-tát. Bồ-tát thọ nhận rồi, an tọa trên đó, an tọa xong Ngài lấy cháo sữa do nàng Thiện Sinh con gái chủ thôn nọ cúng. Ngài vừa ăn no thì cháo cũng vừa hết.

Sau khi Bồ-tát ăn cháo sữa vào, do sức phước báo nhân duyên bố thí đời trước huân tập, cho nên thân thể hồi phục đoan chánh dễ thương, các tướng hảo đầy đủ như cũ không có khuyết giảm.

Bồ-tát dùng cháo sữa xong rồi, ném bát vàng xuống dòng sông. Lúc đó Hải Long vương rất vui mừng cho là việc quá hy hữu, vì Bồ-tát khó xuất hiện ở đời, nên nhặt lấy bát vàng này, định đem về thờ nơi cung điện mình. Khi ấy chúa trời Thích Đề-hoàn Nhân hóa thành chim cánh vàng mỏ bằng ngọc kim cương, đoạt lấy bát vàng từ nơi tay Hải Long vương, bay hướng về cõi trời Đao-lợi Ba mươi ba, tự mình luôn luôn thờ cúng. Thuở ấy chư Thiên cõi trời Ba mươi ba lập ngày hội đặt tên là lễ cúng dường Bát vàng Bồ-tát, từ đó đến ngày nay không gián đoạn.

Khi Bồ-tát dùng cháo xong, đứng dậy, ung dung đi hướng về cây Bồ-đề. Long nữ thâu cất bảo tọa, đem về cung của mình để thờ cúng.

Có kệ:

Bồ-tát như pháp dùng cháo sữa

Cô gái Thiện Sinh dâng thượng vị

Dùng xong hoan hỷ đến cội cây

Rồi đây nhất định chứng Bồ-đề.

Sau khi Bồ-tất tắm rửa nơi sông Ni-liên-thiền, thọ cháo sữa, thân thể tươi sáng, dung nghi hồi phục đầy đủ như trước, oai lực tự tại, chậm rãi hướng về cây Bồ-đề. Dáng đi lúc ấy của Ngài giống như dáng đi của chư vị Bồ-tát trong quá khứ. Nghĩa là dáng đi khoan thai chậm rãi, trong lòng hoan hỷ, tiến tới đàng hoàng; từng bước đi vững vàng, chánh niệm an trú, như núi chúa Tu-di, dáng đi đường đường oai vệ; đi không sợ sệt, bước đi không loạn; đi với tâm tri túc không vội vã, không chậm chạp, không nghiêng vẹo, hai chân đi ngay thẳng không giẫm đạp lên nhau; hai chân không đuổi nhau mà đi, đi không thúc bách, đi không lắc thân, an ổn mà đi; đi một cách thanh tịnh, đi chăm chú có vẻ kỳ diệu, dáng đi không có hoạn nạn tổn hại, như dáng sư tử chúa đi, như Đại Long vương đi, như trâu chúa đi, như nhạn chúa đi, như voi chúa đi; dáng đi không khiếp sợ, dáng đi không do dự, dáng đi không dị tướng, bước đi thong thả như dáng đi lực sĩ Kim Cang; đi bàn chân không đụng đất mà vằn chỉ bánh xe ngàn tăm in trên mặt đất, đi với các ngón chân có mành lưới, có móng chân đỏ mịn như đồng; bước đi động khắp cõi đại địa, bước đi có tiếng rền vang như tiếng dội trong hang núi. Trên mặt đất, nơi nào Ngài đi đến hầm hố tự nhiên bằng phẳng. Trên mặt đất nơi nào có đất đá sỏi sạn, Ngài đi đến tự nhiên sạch sẽ. Mành lưới bàn chân phóng ra hào quang sáng rực chạm vào chúng sinh có tội thì được an ổn; dáng đi hoàn hảo, mỗi bước đi thanh tịnh sinh các hoa sen nhiệm mầu. Ngài bước trên đóa sen đó mà đi, vì trong quá khứ Ngài đã làm các thiện hạnh thanh tịnh, nên được bước đi như vậy. Thuở xưa chư Phật ngồi trên tòa sư tử cao, nương trên tòa này mà đi, tâm ý kiên cố như kim cang đi san bằng rừng rậm các cảnh giới, ngang nhiên mà đi. Nay Ngài vì tất cả các cảnh giới chúng sinh được an lạc mà đi, bẻ gãy tất cả ngọn cờ ma quân mà đi, dẹp tan tất cả ma lực mà đi, dập tắt tất cả ma khí mà đi, đập tan oai thế của ma mà đi, tước hết tất cả ma nghiệp mà đi, làm tiêu tan tất cả ma quân mà đi, làm cho sụp đổ tất cả thế lực của ma mà đi, vứt bỏ tất cả hành động ma mà đi, sát hại tất cả ma quân mà đi, xé tan tất cả lưới ma mà đi, dẹp tan tất cả ma thuyết phi pháp, như pháp thu phục ngoại đạo mà đi, chiếu sáng bóng tối phiền não mà đi, giúp đỡ bằng hữu phá tan phiền não mà đi, oai lực che khuất cả Đế Thích, Phạm thiên, Đại Tự Tại thiên và cõi trời Hộ thế khỏi bị sợ hãi mà đi; ở trong cõi Tam thiên Đại thiên này chỉ có một mình Ngài tôn trọng bậc nhất mà đi, không học theo người khác, tự mình chứng đạo, phân minh mà đi, muốn chứng Nhất thiết chủng trí mà đi, làm tất cả các hạnh chánh niệm, chánh ý tri túc, chánh hạnh mà đi, muốn diệt sinh lão bệnh tử mà đi, muốn hướng đến chỗ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Vô úy vi diệu tôi thắng mà đi, muốn vào cửa Niết-bàn mà đi, Có những hạnh như vậy, nên Bồ-tát chánh diện nhìn thẳng về cây Bồ-đề mà đi đến.

Bồ-tát lại suy nghĩ: “Ta đến Bồ-đề đạo tràng, sẽ làm tòa bằng gì để chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?” Rồi Ngài tự biết nên ngồi trên tòa làm bằng cỏ.

Khi ấy chư Thiên cõi Tịnh cư bạch Bồ-tát:

-Thưa Đại thánh Nhân giả, đúng vậy, đúng vậy! Tất cả chư Phật Như Lai trong quá khứ sắp chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều ngồi trên tấm thảm cỏ mà thành đạo Bồ-đề.

Bồ-tát lại suy nghĩ tiếp: “Ai có thể cho Ta nệm cỏ như vậy?” Nghĩ như vậy, Ngài đưa mắt nhìn quán sát bốn phía tả hữu trước sau.

Khi ấy chúa trời Đế Thích cõi Đao-lợi với Thiên trí biết được tâm niệm của Ngài, liền hóa thân làm người cắt cỏ đứng bên phải cách Bồ-tát chẳng bao xa đang cắt cỏ. Màu cỏ xanh biếc giống như sắc lông nơi cổ con chim khổng tước vương mềm mại óng mượt như thiên y Ca-thi-ca mịn mỏng, cỏ này cũng như vậy sắc đẹp tuyệt vời, hương thơm ngào ngạt, ngọn cỏ xoay về bên phải.

Thấy người cắt cỏ đứng bên phải cách mình chẳng bao xa, đang cắt những thứ cỏ như vậy, Bồ-tát liền từ từ tiến đến chỗ người cắt cỏ này, chậm rãi hỏi người cắt cỏ:

-Này Nhân giả hiền thiện, người tên gì?

Người cắt cỏ đáp:

-Tôi tên Cát Lợi (Lợi ích tốt đẹp).

Bồ-tát vừa nghe tên người cắt cỏ, suy nghĩ: “Ta đang muốn cầu tự thân được điều tốt đẹp lợi ích, rồi cũng vì người khác cầu cho họ được những điều tốt đẹp lợi ích. Người Cát Lợi này đang ở trước mặt Ta, nhất định Ta sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Bồ-tát suy nghĩ như vậy rồi, bảo với người cắt cỏ với lời êm ái dịu hiền, giống như những lời nói vi diệu của chư vị Bồ-tát trong quá khứ đã nói. Đó là: Lời nói chân thật không giả dối, dùng lời ngay thẳng với tiếng trong trẻo, êm dịu, nhẹ nhàng, hoan hỷ khiến người nghe được tiếng này liền vâng theo; tiếng nghe không trái tai, tiếng nghe trôi chảy, tiếng giáo hóa, tiếng hướng đạo, tiếng không cà lăm, tiếng không ú ớ rên rỉ, tiếng không thô lỗ, tiếng không phá nhau, tiếng dịu dàng, thanh tao, ngọt ngào, tiếng từ xa rõ ràng phân minh, người nghe tiếng này thân khẩu ý đều hoan hỷ; người nghe được tiếng này thì các thứ dục nhiễm, ngu si, sân nhuế, đấu tranh phẫn nộ đều được tiêu trừ; tiếng nghe như tiếng chim Ca-lăng-tần-già, tiếng chim Mạng mạng; như tiếng sấm rền, như tiếng nhạc ngâm vịnh, tiếng trầm bổng du dương, tiếng không chướng ngại, chẳng phải tiếng hơi mũi; tiếng thanh tịnh, tiếng chánh trực, tiếng như thật; như tiếng Phạm thiên? tiếng như hải triều âm, như tiếng núi đổ, tiếng vang dậy; như tiếng tán thán của chư Thiên vương, như tiếng ngâm vịnh của A-tu-la; tiếng diệt trừ tận gốc nạn ma lực, tiếng chinh phục tất cả ngoại đạo; như tiếng sư tử, như tiếng gió thổi, như tiếng tượng vương, như tiếng mây cuộn, tiếng lan rộng khắp mười phương chư Phật, tiếng giáo hóa chúng sinh, tiếng không nhanh không chậm, tiếng không bị dừng, tiếng không khuyết giảm, tiếng không trược uế, tiếng phù hợp với tất cả người nghe, tiếng hòa nhập vào tất cả tiếng khác, tiếng giải thoát, tiếng không ràng buộc, tiếng không nhiễm trước, tiếng phù hợp các nghĩa, tiếng nói hợp thời, không phải tiếng lỗi thời, tiếng khéo léo trình bày tám ngàn vạn ức pháp môn, tiếng không bị tắt, tiếng không bị ngăn chặn, tiếng có đủ tất cả loại tiếng, tiếng tùy tâm nguyện được viên mãn, tiếng phát sinh tất cả an lạc, tiếng thị hiện tất cả giải thoát, tiếng lưu thông tất cả đạo lộ, tiếng nói ở trong chúng không ra ngoài chúng, làm cho đại chúng được hoan hỷ, tiếng phát ra phù hợp với pháp âm của chư Phật.

Bồ-tát dùng những âm thanh như vậy bảo người cắt cỏ:

-Này Nhân giả, người có thể cho Ta cỏ không?

Hóa nhân đáp:

-Dạ được.

Lúc đó Đế Thích liền cắt cỏ sạch đẹp dâng cho Bồ-tát. Khi Bồ-tát đưa tay nhận bó cỏ này, thì ngay lúc đó mặt đất chấn động sáu cách. Bồ-tát cầm bó cỏ, đi về gốc cây Bồ-đề.

Trong khi Bồ-tát cầm bó cỏ đang đi, giữa đường bỗng xuất hiện năm trăm con chim sẻ màu xanh từ mười phương bay đến, nhiễu quanh Bồ-tát ba vòng, rồi bay theo sau Ngài. Lại có năm trăm con chim Câu-si-la từ bốn phương bay tới nhiễu quanh Bồ-tát như bầy chim trước; lại có năm trăm con chim Khổng tước bay đến, đại thể như nói ở trên; lại có năm trăm con Ngỗng trắng, năm trăm Hồng nhạn, năm trăm Bạch âu, năm trăm chim Ca-lăng-tần-già, năm trăm chim Mạng mạng, năm trăm bạch tượng sáu ngà, năm trăm bạch mã mà đầu đen như quạ, bờm đuôi đỏ như son phủ dài; năm trăm trâu chúa đều có sừng vòng qua cổ, giống như vầng mây đen.

Lúc ấy lại có năm trăm đồng tử và năm trăm đồng nữ, mỗi người đều mang chuỗi anh lạc quý giá trang sức trên thân. Năm trăm Thiên tử, năm trăm Thiên nữ, năm trăm bình báu có đầy hoa đẹp hương thơm. Chứa đầy các thứ nước thơm, không có người cầm, tự nhiên từ hư không bay đến.

Lại trong thế gian xuất hiện các điềm lành, theo mây nổi từ bốn phương kéo đến, nhiễu quanh bên phải Bồ-tát ba vòng, rồi kéo theo sau Bồ-tát.

Lại tất cả cây lớn, cây nhỏ, khi Bồ-tát đi ngang qua đều hướng theo nép mình sát đất.

Lại bốn phương nổi làn gió mát mẻ điều hòa, thổi tan các đám mây mù khói bụi, bầu trời hoàn toàn trong tạnh.

Lại nữa, trong khi Bồ-tát đi về hướng cây Bồ-đề, trên hư không có vô lượng ngàn vạn chư Thiên đều đi theo sau Bồ-tát, mỗi người vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân không sao tự chế, reo hò các âm thinh như: huýt gió, ca hát, xướng vịnh…, hoặc tay tung các thiên y và chuỗi anh lạc, đồng thời hô lên thế này: “Ngày nay cõi Diêm-phù-đề, có Đức Phật Thế Tôn xuất hiện”.

Có vô lượng chư Thiên Địa cư đến đứng chung quanh tả hữu trước sau, đảnh lễ và bạch Bồ-tát:

-Đại Thánh Tôn giả, Ngài đã từ lâu luôn luôn cầu nguyện, ngày nay sở nguyện của Ngài sắp được thành tựu. Tất cả chư Thiên trong thế gian có thể vì Nhân giả mà làm những việc tốt đẹp, có thể vì Nhân giả mà tạo những phương tiện an lành, lại có thể trợ giúp Nhân giả thành tựu tâm nguyện. Họ đang ở trước Ngài.

Tất cả số chư Thiên này đi theo sau Bồ-tát hướng về cây Bồ-đề. Khi Bồ-tát đến gần gốc cây Bồ-đề thì cõi mặt đất chấn động sáu cách.

Lại khi Bồ-tát đi bộ, dáng đi của Ngài như sư tử đi, như Long vương đi, như trâu chúa đi, như hồng nhạn đi, như Tượng vương đi, dáng đi không sợ sệt, không chướng ngại, không lệ thuộc; trừ diệt tất cả, không dựng lông tóc, không một ai có thể chiến thắng vì thuở xưa khéo tu tập thiền định; vì chân chánh, tối thắng, tối diệu mà đi; hàng phục các oán nghiệp mà đi, đoạn tuyệt tất cả điều bất lợi mà đi, muốn chứng được pháp bảo tối thượng nên đi, muốn tiếp nhận an lạc tối thượng nên đi, muốn chứng cảnh tịch tịnh nên đi.

Khi Bồ-tát đi bộ, tất cả các loại chúng sinh sống trên quả đất như chư Thiên Địa cư, A-tu-la, tất cả các loài Rồng, Càn-thát-bà, nhân loại, chim muôn thú vật, người… đều nghe tiếng đất chấn động, nên rất kinh ngạc. Chúng đều quán sát khắp nơi có hiện tượng gì lạ chăng mà mặt đất chìm nổi chấn động như vậy?

Lúc ấy cõi đất này có một Long vương tên là Ca-trà (nhà Tùy dịch là Hắc Sắc). Con rồng này sống trải qua nhiều kiếp số lâu dài, đã từng chứng kiến nhiều Đức Phật xuất hiện trong quá khứ. Cảnh giới rồng này thời gian ngày đêm rất dài, Long vương ngủ chưa được bao lâu lại thấy cõi đại địa chấn động, rồi nghe tiếng chấn động, liền giật mình thức giấc, vội vã ngồi dậy, hấp tấp bỏ cung điện chạy ra ngoài. Khi ra bên ngoài quán sát bốn phường, Long vương Ca-trà thấy cách chỗ ở của mình chẳng bao xa, có một vị Bồ-tát đang đi chậm rãi. Khi Long vương thấy Bồ-tát, dự đoán sẽ có điềm lành, giống như chư vị Đại Bồ-tát trong quá khứ phát tâm muốn đến gốc cây Bồ-đề, không khác gì cả. Thấy được như vậy trong tâm không còn nghi ngờ, quyết định biết đây là vị Bồ-tát Đại sĩ sắp chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sinh tâm vui mừng, Long vương liền chắp tay nhất tâm nói kệ tán thán:

Nhân giả oai đức thật trang nghiêm

Như ta từng thấy trong quá khứ

Có các Bồ-tát đến xứ này

Nhân giả ngày nay không có khác

Nay thấy Bồ-tát đến nơi đây

Nhất định thành Phật quyết chẳng nghi.

Thế Tôn ung dung đi tản bộ

Cất bước rảo đi, chân phải trước

Mắt nhìn chăm chứ quán các phương

Nhất định sẽ thành Phật, Thế Tôn.

Tôn giả đang đến bên Cát Lợi

Xin một bó cỏ cầm nơi tay

Chánh diện hướng về Bồ-đề thọ

Hôm nay nhất định chứng Chánh giác.

Gió mát bốn phương đồng xuất hiện

Giống như tiếng vang trâu chúa rống

Cùng các loài chim vỗ cánh theo

Trước sau tả hữu quanh bốn mặt.

Hắc ám đêm ngày ngập thế gian

Bị vô minh ngu si che lấp

Thánh giả thành tựu bậc Trượng phu

Hào quang tỏa khắp bốn phương trời

Linh thú dị cầm đồng kéo đến

Trăm ngàn vạn chúng bủa trước sau

Cùng nhau nhiễu quanh bên tay phải

Nhân giả giờ đây chắc đạo thành.

Súc sinh các loài, ngựa cùng voi

Tràng phan bảo cái đồng xuất hiện

Vội vã tranh nhau hướng đến Ngài

Biết chắc sẽ thành Phật Thế Tôn.

Lai nữa Tịnh cư chư Thiên nọ

Dùng vật thanh tịnh trang nghiêm thân

Cúi đầu đảnh lễ chân Bồ-tát

Biết chắc Nhân giả chứng Phật-đà.

Ngày nay hữu lậu tâm Nhân giả

Tất cả phiền não bức xúc Ngài

Các kết sử ấy nay diệt sạch

Bồ-tát quyết thành Vô thượng đạo.

Ngài nay đầy đủ vi diệu pháp

Sâu rộng cao xa khó nghị bàn

Chứng rồi quán sát ung dung bước

Do đó tâm ta chẳng nghi ngờ.

Nhân giả hôm nay đều như pháp

Thuyết pháp tối thượng khó ai bằng

Tất cả trời người không sánh kịp

Tâm ta do vậy chẳng hồ nghi.

Khi Hắc Long vương nói kệ tán thán Bồ-tát như vậy xong, tâm rất vui mừng hơn hở vô cùng, đứng trước Bồ-tát chắp tay đảnh lễ. Bồ-tát bảo Long vương:

-Hay thay Long Vương! Đúng vậy, đúng vậy. Đúng như lời ông nói, Ta sẽ nhất định thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Rồi Ngài nói kệ:

Hay thay Long vương! Như ông nói

Càng làm cho Ta thêm tinh tấn

Nhất định nay thành đạo Vô thượng

Nhân thiên khắp cõi chẳng sánh bằng.

Ngươi thấy các tướng trang nghiêm khác

Nhiều điều an lành đến giúp Ta

Ta đối với biển phiền não này

Quyết lên bờ giác chẳng nghi ngờ.

Lúc đó hoàng hậu của Hắc Long vương tên là Kim Quang, cùng vô số long nữ hầu hạ tả hữu chung quanh và mỗi Long nữ cầm đủ các thứ hoa thơm tuyệt diệu, phấn thơm, dầu thơm, cùng các thứ y phục đầy đủ màu sắc, cờ lọng phướn quý, các chuỗi anh lạc, đi theo sau Bồ-tát trổi các nhạc trời, trong tiếng nhạc này phổ ra đủ các lời ca xướng ngâm vịnh để ca ngợi Bồ-tát. Trong tiếng ca vịnh xuất ra lời tán thán Bồ-tát như sau:

Thế Tôn siêu việt thân bất động

Tâm không sợ hãi thường an định

Hoan hỷ vui mừng, thoát ái dục

Sân si đều xả chẳng còn tham

Cứu đời đau khổ làm thầy thuốc

Do vậy con xin đảnh lễ Ngài.

Chúng sinh phiền não quá sâu dày

Bị nó buộc ràng không ra khỏi

Chế phục các căn lại giúp người

Nhổ giùm tên độc cứu chúng sinh

Không nơi nương tựa Ngài bảo hộ

Làm người dẫn đường chốn tối tăm

Đèn soi duy nhất trong tam giới

Do vậy chúng con đồng cúi lạy

Nào ai chiến thắng được Thế Tôn

Ngài diệt vô minh tham sân hết

Phiền não dục nhiễm cũng chẳng còn

Do đó con đem đầu cúi lạy.

Tâm chúng sinh trúng tên phiền não

Không có kẻ giúp nhổ nó ra

Thế Tôn nay đây như bác sĩ

Trị bệnh phiền não cứu chúng sinh

Đối kẻ bơ vơ Ngài bảo hộ

Đạo sư hướng dẫn kẻ lạc đường.

Bóng tối vô minh trùm tam giới

Đuốc tuệ Thế Tôn chiếu khắp nơi

Nay thấy chư Thiên cầm hoa lạ

Ngạt ngào thơm phức khắp hư không

Thiên y anh lạc đồng tung vãi

Quanh cảnh thấy kia đã dự báo

Xét ra việc ấy nào hư vọng

Nhân giả thành Phật rất hỷ hoan.

Bồ-tát mau đến cây Bồ-đề

Nơi đây thu phục bốn ma quân .

Xé tan phiền não màn tà kiến

Mau chứng Niết-bàn Vô thượng đạo

Như trong quá khứ các bậc Trí,

Đồng đến nơi đây thành Chánh giác.

Nhân giả ngày nay đến chỗ này

Nhất định thành Phật quyết chẳng nghi

Thế Tôn quá khứ lúc tu nhân

Hành đạo số kiếp ngàn vạn ức

Siêng năng cần khổ chẳng tạm dừng

Mong đắc Chánh giác, chứng chân như,

Nay đã đến lúc chớ dừng bước

Mau đến ngồi dưới cội Bồ-đề

Chánh tâm nương vào dưới cây này

Quyết chứng Bồ-đề không ngờ vực.

Bồ-tát nghe Long vương nói kệ như vậy, chậm rãi đi về cây Bồ-đề, trong khoảng thời gian ấy suy nghĩ: “Ma vương Ba-tuần làm chủ cõi Dục, tự do thống lãnh. Ta phải báo cho chúng biết, nếu không báo mà tự chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì không gọi là Ta chứng Đại giác. Tại sao như vậy? Vì Ta muốn thu phục và giúp đỡ Ba tuần, đồng thời thu phục và giúp đỡ tất cả chư Thiên ở Dục giới. Chúng ma ấy trong cung điện của ma, lại có vô lượng vô biên chúng ma và quyến thuộc chư Thiên trong quá khứ đã trồng nhiều thiện căn, nếu hôm nay nghe ta phát ra tiếng sư tử rống, hoặc thấy Ta chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì họ sẽ hướng về Ta phát tâm Vô thượng Bồ-đề.”

Khi Bồ-tát tư duy như vậy, từ nơi lông trắng ở giữa hai hàng chân mày phóng ra một đạo hào quang tên là “Thu phục dẹp tan chúng ma quân.” Khi đó, hào quang này chiếu thẳng đến cung điện Thiên ma, che lấp tất cả ánh sáng theo nghiệp sẵn có nơi cung điện. Hào quang này biến thành ánh sáng rực rỡ chiếu khắp cõi Tam thiên Đại thiên.

Khi Bồ-tát phóng hào quang thì ma Ba-tuần nghe trong hào quang phát ra tiếng kệ:

Thế gian có một Đại chúng sinh

Nhiều kiếp tu hành công hạnh mãn

Thái tử Đạt-đa, con Tịnh Phạn

Xả bỏ ngôi báu đi xuất gia

Ngài muốn mở toang cửa cam lộ

Hiện giờ hướng đến cội Bồ-đề

Ma quân nếu có oai thần lớn

Cùng đến Bồ-đề để xem sao

Giác ngộ bờ kia Ngài gần đến

Muốn độ chúng sinh qua bờ giác

Bồ-tát giác ngộ được hoàn toàn

Nay muốn độ người đồng giác ngộ.

Thiền định tịch tĩnh đã chứng xong.

Lại dạy chúng sinh chứng Tam-muội

Con đường giải thoát Ngài rộng bước

Hướng dẫn người đến giải thoát thành

Phá tan ba ác không còn gì

Khắp cõi nhân thiên được đông thêm

Chỉ dạy thiền định năm thông lực

Đưa chúng sinh vào cung cam lộ.

Họ chẳng bao lâu chứng đại minh

Quyết chắc nước ông bị trống rỗng

Bạn sân nhuế ngu sỉ hắc ám

Bạn ấy của ông chẳng còn ai

Sẽ bị đập tan hết đường chạy

Lúc ấy tâm ông nghĩ kế chi?

Như Ngài chứng được cam lộ pháp,

Thường, lạc, ngã, tịnh thật an nhàn.

Đang ngủ, Ma vương Ba-tuần nghe tiếng kệ từ trong hào quang vọng ra như vậy, nên rất kinh sợ, mộng thấy ba mươi hai điềm không tốt.

Ba mươi hai điềm không tốt đó là gì?

1. Mộng thấy tất cả cung điện của mình ở các cõi trời đều tối tăm không có ánh sáng.

2. Mộng thấy cung điện của mình tràn ngập các thứ: Cát sạn phẩn uế.

3. Mộng thấy tự thân bị khủng bố chẳng an, tâm trạng hoang mang.

4. Mộng thấy chạy khắp các phương.

5. Mộng thấy tự thân: Thiên quan trên đầu bỗng nhiên rơi xuống đất, mất hết giày dép đi chân không.

6. Mộng thấy yết hầu, môi lợi khô rang, thân thể phát nóng lạnh.

7. Mộng thấy tất cả cành lá, hoa quả, cây cối trong hoa viên đều khô héo.

8. Mộng thấy tất cả các loài hoa nơi ngòi rạch, hồ ao đều khô héo.

9. Mộng thấy các loài chim trong vườn như Anh võ, Cù dục, Khổng tước, Uyên vương, Hồng nhạn, cồng cộc, Câu-si-la, Mạng mạng…, lông đầu, lông mình và lông cánh của chúng đều rụng trụi.

10. Mộng thấy các nhạc cụ trong nội cung như kèn, trống, đàn sắc, đàn cầm, không hầu, sênh, hoàng và tất cả nhạc khí ngũ âm đều đứt dây, gãy bễ, nằm ngổn ngang trên đất.

11. Mộng thấy những người sủng ái hầu cận từ trước, nay đều xa lánh mình, lui về đứng một bên ưu sầu khổ não, chỉ riêng một mình nằm trên đất.

12. Mộng thấy các ngọc nữ kiều diễm đáng yêu, co quắp, nằm trần trên đất đưa hai tay bức tóc trên đầu.

13. Mộng thấy những ma quân có trí biện luận giỏi đều hướng đến cây Bồ-đề, đảnh lễ dưới chân Bồ-tát.

14. Mộng thấy bốn ái nữ đều giơ hai tay, miệng khóc la lớn kêu: “Cha ơi! Cha ơi!”

15. Mộng thấy y phục trên thân hôi hám nhơ bẩn.

16. Mộng thấy bụi bặm nhơ phủ bẩn cả thân người.

17. Mộng thấy thân thể tự nhiên ốm yếu, mất vẻ tươi thắm.

18. Mộng thấy cung điện, lầu gác, thành quách cửa ngõ, giếng trời đều bị hư hoại đổ nát.

19. Mộng thấy đại binh tướng Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà hoặc Long vương, lúc thì thả xuôi hai cánh tay, hoặc đưa cánh tay đánh vào đầu hay vào ngực, cực kỳ khổ não.

20. Mộng thấy tất cả các vị chúa trời cõi Dục như Thiên vương trấn bốn phương, Đế Thích cõi Dạ-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại đều kêu khóc, nước mắt ràn rụa cả mặt mày, đồng chạy đến đứng trước mặt Bồ-tát để chiêm ngưỡng.

21. Mộng thấy tất cả dao, gậy, cung, tên… trong đấu trường đều hư nát, người hầu cận và quyến thuộc đồng bỏ Ma vương chạy tản mác các phương.

22. Mộng thấy những bình rượu may mắn của mình, nay đều vỡ nát.

23. Mộng thấy Thiên tiên Na-dà-la xướng lên: “Điều không lành!.”

24. Mộng thấy một vị thần tên là Hoan Hỷ đứng ngang cửa xướng lên lời thề này: ‘Thật không hoan hỷ!”

25. Mộng thấy mây mù khói bụi phủ cả hư không.

26. Mộng thấy vị đại thần công đức giữ cung ma cất tiếng khóc vang.

27. Mộng thấy những cảnh giới thuộc về ta đến nay không còn thuộc ta nữa.

28. Mộng thấy tất cả bằng hữu nay thành oán thù.

29. Mộng thấy các cung điện ma, hoặc tối tăm, hoặc bị lửa cháy, thiêu đốt tất cả.

30. Mộng thấy tất cả cung điện ma chấn động bất an.

31. Mộng thấy tất cả cây cối rừng rú đều bị kẻ khác chặt phá, hoặc bị ngã rạp trên mặt đất.

32. Mộng thấy hoặc có điều suy nghĩ hay phán đoán phân xử, hoặc muốn đưa ra một sách lược gì, tính toán cả ngày không được một lời, chỉ bị loạn tâm.

Vua Ba-tuần cõi Dục thấy ba mươi hai điềm chẳng lành như vậy, giật mình thức dậy cả người run rẩy, tâm ý chẳng an, hồi họp lo sợ, liền cho gọi tất cả quyến thuộc ma, các ma cận thần hộ vệ nội cung, các đại Tướng quân cho đến các tên gác cửa thành đều nhóm họp. Ma vương tường thuật điềm chiêm bao trong giấc mộng:

-Này các khanh, trong giấc mộng đêm rồi ta thấy những điều quái dị…, như nói trên. Ta thấy điềm chiêm bao không tốt như vậy, hết sức lo sợ, thân tâm chẳng an, bỗng nhiên thức dậy sinh nghi, nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa cảnh giới này của ta sẽ bị mất, lo sợ có kẻ phước đức hơn ta đến sinh cõi này và thay thế ta.

Rồi Ma vương nói kệ:

Đêm qua bỗng nhiên hào quang hiện

Trong đó có kệ vọng nói ra:

“Thái tử xuất gia dòng họ Thích

Thân đủ ba hai tướng tuyệt vời

Ròng rã sáu năm hành khổ hạnh,

Đang đi dần đến cội Bồ-đề.

Tự giác, giác tha, đến giác ngộ

Nếu có sức, ngươi cùng Ngài đánh

Bậc trồng thiện căn ngàn ức kiếp

Sắp chứng Bồ-đề quả Chánh giác

Phá cảnh giới ngươi thành trống không.

Nếu ngươi không sức đánh bại Người

Thì Người thành Phật, thân thường trụ

Lẽ phá cung điện ma các ngươi. ”

Do vậy ra lệnh các khanh hay

Ai có sức mạnh mau đến nơi

Một mình Sa-môn ngồi cây nọ

Hãy mau đừng để chứng Bồ-đề.

Nếu khanh vâng theo lời ta dạy

Vì ta kiếm đủ bốn hùng binh

Thế gian tuy nhiều Bích-chi-phật

Có Ngài, nhiều người chứng Niết-bàn

Ta cô độc, Ngài làm Pháp vương

Hạt giống giác ngộ không bị diệt.

Lúc ấy con của Ma vương Ba-tuần tên là Thương Chủ, liền nói kệ bạch phụ vương:

Phụ vương cớ gì mất sắc diện

Thân mất oai quang tâm run sợ?

Dường như phụ vương rất kinh hoàng

Hay nghe thấy gì rất quái lạ?

Xin cha nói rõ cho con biết

Theo sự thấy nghe, cùng bàn luận.

Ma vương Ba-tuần lại dùng kệ bảo Thương Chủ:

Này con phải lắng nghe thật rõ

Đêm qua mộng thấy rất lạ thường

Nếu ta nói đủ điều trong mộng

Đại chúng nghe qua đều chết khiếp.

Thương Chủ, con của Ma vương Ba-tuần lại dùng kệ đáp:

Đại chúng dù khiếp, chẳng dám lùi

Đánh trận bị thua mới thật khổ

Nếu như mộng thấy việc như trên

Thà đừng chiến đấu khỏi mang họa.

Ma Ba-tuần lại dùng kệ bảo Thương Chủ:

Trượng phu quyết tâm chắc chiến thắng

Nếu ta thua trận thì ngừng đánh

Sa-môn cô thế tài năng gì

Ta đến Bồ-đề người bỏ chạy.

Thương Chủ lại dùng kệ đáp phụ vương:

Người mạnh, người yếu hay nhiều người

Người có trí tuệ thắng tất cả

Ví như đom đỏm đầy ba cõi

Mặt trời xuất hiện, chúng hết sáng.

Trong tâm tự đại chẳng so lường

Cống cao khinh người, không hỏi rõ

Quần thần trí tuệ đồng can gián

Nếu chẳng nghe lời khó bình yên.

Khi Bồ-tát đi sắp đến cây Bồ-đề, trên khoảng đường đó có một cây Am-la. Tưởng là cây Bồ-đề, Bồ-tát đến dưới cây này định an tọa, Lúc đó chỗ đất này do oai đức của Bồ-tát, thân quá nặng nên đất không đỡ nổi sắp bị lún sâu.

Khi ấy Bồ-tát suy nghĩ: “Thế gian có hai hạng người ngồi vào đâu thì chỗ đất đó lún sâu. Hai hạng người đó là ai? Một là hạng người mất hết thiện căn. Hai là hạng người có nhiều phước đức, thiện căn sâu rộng vô kể. Ta nay chẳng phải là hạng người mất hết thiện căn hay chỗ này không phải là dưới cây Bồ-đề chăng?” Khi ấy chư Thiên Tịnh cư ở cõi sắc, vì Bồ-tát mà trang hoàng cây Bồ-đề, dùng phan lọng bằng lụa tuyệt đẹp trang trí trên cây Bồ-đề. Lại nữa, trong vùng này bao nhiêu cành thân của những cây khác đều nghiêng đầu về phía cây Bồ-đề. Do đó Bồ-tát biết cây này là cây Bồ-đề thật, nên Ngài rời cây Am-la, xoay lại đi chậm rãi về cây Bồ-đề.

Trong khi Bồ-tát hướng về cây Bồ-đề, có một Dạ-xoa tên là Hương Thú đứng dưới tàng cây cách gốc Bồ-đề chẳng bao xa để bảo vệ cây này, khi thấy Bồ-tát gần đến, cấp tốc báo tin cho một đồng bạn tên là Xích Nhãn, nói với Dạ-xoa Xích Nhãn:

-Này Nhân giả, anh lại đây, ta nay sẽ nói với anh điều này: Anh phải biết, anh hãy vì ta mau mau đến nơi Ma vương chúa trời Dục giới tâu với Ngài thế này: ‘Trong thời quá khứ có Đức Câu-lưu- tôn, Đức Câu-na-hàm và Đức Ca-diếp, các vị Đại Tiên Thánh đó đều đến chỗ này thành Đại chánh giác. Nay lại có người tinh tấn, công đức viên mãn, hạnh Bồ-đề đầy đủ, có ba mươi hai tướng tốt, xâm nhập vào cảnh giới Ma vương ở, đó là con vua Tịnh Phạn thuộc dòng họ Thích, tên là Tấ-đạt-đa, đã bỏ lối tu khổ hạnh, chứng được chánh niệm, nay đến chỗ đất tối thắng này, muốn dừng lại nơi đây, xin Đại vương biết thời.”

Xích Nhãn nghe Dạ-xoa Hương Thú nói những lời như vậy, liền vội vàng chạy đến gặp ma Ba-tuần và trình bày lại đầy đủ những lời trên.

Nghe Dạ-xoa Xích Nhãn nói như vậy, Ma vương Ba-tuần liền triệu tập tất cả chư Thiên: trời Tha hóa tự tại, trời Hóa lạc, trời Đâu-suất, trời Đao-lợi, trời Tứ Thiên vương, chư Thiên Địa cư, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, La-sát Tỳ-xá-giá… Ba-tuần bảo tất cả đại chúng:

-Tất cả các khanh đã nhóm họp, hãy nghe ta nói. Có một người dòng họ Thích sắp chứng quả Bồ-đề, chúng ta cùng nhau đến đó đoạn tâm dũng mạnh, đừng để người chứng quả.

Lúc ấy Thương Chủ, trưởng tử của Ma vương, tâu phụ vương Ba-tuần:

-Tâm con không được vui khi thấy phụ vương làm việc như vậy. Tại sao ngày nay phụ vương muốn cùng Đại sĩ Bồ-tát Tất-đạt-đa kết oán thù, e rằng sau này phụ vương sẽ ăn năn không kịp!

Khi ấy Ba-tuần nghe tâu như vậy, liền quở trách Thương Chủ: .

-Thôi đi đồ con nít, tâm trí u ám thiển cận, chưa từng thấy thần thông biến hóa của ta, chưa từng thấy oai lực tự tại của ta.

Thương Chủ bạch phụ vương:

-Đại vương biết cho, con chẳng phải là đứa con ngu si của phụ vương, cũng chẳng phải là chẳng biết thần thông oai lực của phụ vương. Chỉ e rằng ngày nay phụ vương chưa biết thần thông của Bồ-tát Tất-đạt-đa, chưa thấy oai đức của Bồ-tát Tất-đạt-đa. Việc ấy rõ ràng như vậy, mong phụ vương đến đó sẽ tự biết, tự chứng kiến thần thông của Ngài.

Ma vương Ba-tuần không nghe lời can gián của Thương Chủ con mình, vội vã sửa soạn hùng binh tinh nhuệ, ra lệnh tất cả đều tập họp, thân mặc chiến giáp, tay cầm vũ khí, giống như đại lực kiện tướng hết sức dũng mãnh thống lãnh nhiều loại quân lính đáng sợ. Trông thấy đám quân này, mọi người liền dựng chân lông. Thế gian chưa từng thấy cũng chưa từng nghe, có vô lượng trăm ngàn vạn ức binh Thiên ma như vậy. Hoặc một thân hiện trăm ngàn mặt quỷ, mỗi mặt lại hiện nhiều thân rắn; tay chân cong queo có hình thù đáng sợ; đều cầm các binh khí bằng kim cang như cung tên, giáo mác, trái chùy, gậy, búa, dao, đục, kiếm…; hoặc thân thể, đầu mặt, tay chân hiện các hình tướng kỳ dị; hoặc trên cổ đeo các vòng lửa phừng phực, hoặc nơi bụng phan ra lửa đỏ, hoặc miệng phát ra tiếng kêu la thô bạo, hoặc cầm lưỡi lê, hoặc cầm chùy đấm…. Bao nhiêu thứ binh khí y như vậy. Hoặc có kẻ hai mắt dữ tợn, tròng mắt gườm lên liếc xuống, miệng méo xệch lại nhiều răng nhô ra, lưỡi rộng lớn hiện nhiều hình tướng: Hoặc le thòng xuống, hoặc cuốn tròn như cục đá cuội; hoặc cặp mắt như sao băng, như hắc xà phun chất độc; hoặc nơi cổ quấn đầy rắn, hay tay cầm mãng xà mà ăn, giống như chim cánh vàng bắt rồng nơi biển mà ăn; hoặc tay cầm máu thịt đầu xương, mắt mũi tay chân người mà ăn; hoặc tay cầm ngũ tạng ruột bụng phẩn uế của người mà ăn; hoặc có tên mắt xanh như sư tử chúa rông vang đáng sợ, hoặc có tên mắt hụp xuống hay lồi ra nhắm mở đều phóng ánh sáng; hoặc có tên ngồi trên núi lửa lớn bay trên hư không mà đến; hoặc có tên hai tay và đầu đỡ lấy khối lửa đang cháy phừng phực; hoặc có tên ở trên đất, hai tay nhổ cây để luôn cả rễ, vác trên vai đi đến nơi đó; hoặc có tên lỗ tai như dê đen, hoặc như cái nia, hoặc như vỏ trai vỏ sò, hoặc như tai voi, hoặc như tai heo, hoặc như đoá hoa rũ xuống; hoặc có tên bụng giống như người bệnh phù nước, hai chân như ống sậy, thân thể ốm gầy; hoặc có tên lỗ mũi bành tẹt rộng ra; hoặc có tên bụng như cái chum, bàn chân như bát úp, da trên thân như phơi nắng, thịt trên thân khô ran, huyết mạch khô cạn; hoặc có tên bị treo chặt hết tay chân treo lên; hoặc có tên nắm chiếc đầu trong tay, hoặc có tên bị cắt cổ, máu phun ra, chúng xúm nhau ăn uống, uống rồi mửa ra, hoặc mửa nước bọt trắng, hoặc uống nước đồng sôi, hoặc nuốt hòn sắt nóng; hoặc có tên chặt mất tay chân đi bằng đầu gối; hoặc có tên chỉ còn bộ xương không có da thịt, hoặc có tên hình beo, hình lừa, hình voi, hình ngựa, hình lạc đà, hình bò, hình dê đen, hình tê giác, hình trâu, hình chồn, hình thỏ, hình mao ngưu, hình cự hư, hình cá kình, hình cá ma kiệt, hình chim nghích, hình sư tử, hổ, lang gấu, hình cầm thú, vượn khỉ, chó sói, báo, dã can, chồn, chó…. Tất cả các binh chủng ấy với hình dạng khác nhau rất khủng bố, rất sợ hãi, chỉnh tề, chuẩn bị sẵn sàng chờ lệnh phụng mạng ra tay.

Bấy giờ Ma vương bảo sứ giả Dạ-xoa Xích Nhãn:

-Này Xích Nhãn, ông thấy các binh chủng của ta như thế này thì có ai dám xâm lăng cảnh giới của ta hay không?

Sứ giả Dạ-xoa Xích Nhãn liền tâu Ma vương Ba-tuần:

-Bạch Đại vương, ngài phải biết, con vua Tịnh Phạn dòng họ Thích-ca, tên là Tất-đạt-đa trước ở nơi làng của nàng Thiện Sinh con gái thôn chủ đã lên tiếng vang rền như tiếng trâu chúa rống, đến người cắt cỏ xin một bó cỏ rồi rời khỏi đại thọ tên là Đa-la-ni-câu-đà do người chăn dê trồng, từ từ đi đến dưới cây Bồ-đề. Trong lúc đó lại có năm trăm chim se sẻ màu xanh vây quanh Bồ-tát. Vào tháng đầu mùa xuân, tất cả cây cối đều đâm hoa kết quả, cành lá tự hướng theo. Loài thảo mộc vô tri thức mà còn biết cúi đầu sát đất để cúng dường người. Khi người đến gần dưới cây Bồ-đề thì cõi đại địa này chấn động sáu cách.

Khi Ma vương Ba-tuần thấy Bồ-tát sắp gần đến cây Bồ-đề, y suy nghĩ: “Mong tên họ Thích này hướng đến các cây khác trải thảm cỏ mà ngồi, đừng trải tòa ngồi dưới gốc cây Bồ-đề.” Suy nghĩ xong, Ba-tuần bảo tất cả chúng Dạ-xoa.

-Hãy mau đến núp dưới cây Bồ-đề kia, đừng để cho người họ Thích đến chỗ cây Bồ-đề ấy.

Quỷ Dạ-xoa bạch Ma vương:

-Chúng tôi xin nghiêm túc vâng lệnh Đại vương.

Dạ-xoa liền rút bớt một số quỷ Dạ-xoa đến mai phục xung quanh cách gốc cây Bồ-đề không xa. Khi lính quỷ Dạ-xoa từ xa trông thấy Bồ-tát sắp đến gần cây Bồ-đề, thân thể Ngài sáng chói giống như kim sơn phóng quang rực rỡ, không tài nào diễn tả. Quỷ Dạ-xoa thấy vậy, liền nói kệ:

Mặt trời xuất hiện ngàn tia sáng

Oai đức chiếu sáng tựa Kim sơn

Từ bi ban bố cõi trời người

Tiến tới Bồ-đề như Sư tử.

Lúc ấy vị thần bảo vệ rừng cây liền dùng kệ đáp lời các quỷ Dạ-xoa:

Thế Tôn ngàn kiếp đủ công đức

Viên mãn sáu độ: Thí, Giới, Nhẫn

Tinh tân, Thiền định và Trí tuệ

Đầy đủ muôn hạnh thật trang nghiêm

Đang đi dần đến cội Bồ-đề

Sắp chứng Bồ-đề Vô thượng đạo

Chư Thiên tám bộ cùng nhân loại

Theo sau hộ vệ nghĩ như vậy.

Khi quỷ Dạ-xoa cùng quyến thuộc của Ma vương nghe lời kệ như vậy, đều rời khỏi cây Bồ-đề, tẩu tán nơi khác. Lúc ấy Bồ-tát lần lần đi đến chỗ đất đầy đủ mười sáu tướng công đức.

Mười sáu tướng công đức là:

1. Khi kiếp hỏa thiêu đốt cõi đại địa, mảnh đất này sẽ bị thiêu hủy cuối cùng. Khi lập kiếp ban sơ, mảnh đất này được thành lập trước tiên.

2. Chỗ đất này mọc đầy các loại cây cỏ: Ưu-ba-la, Ba-đầu-ma, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi tốt đẹp tuyệt vời (bốn loại cỏ xanh, đỏ vàng, trắng).

3. Chỗ đất này là vị trí trung tâm của cõi Diêm-phù-đề.

4. Chỗ đất này không có các chúng sinh ngu si đần độn sống ở đây. Chỉ có người đại phước đức thuộc dòng Thánh mới an tọa mà thôi.

5. Chỗ đất này không có các hầm hố, bốn phía trống rộng bằng phẳng.

6. Chỗ đất này sạch sẽ, không cao không thấp, đầy đặn như bàn tay.

7. Chỗ đất này tự nhiên sinh trưởng nhiều loại hoa như hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen vàng và hoa sen trắng lớn.

8. Chỗ đất này tất cả Thánh nhân đều biết.

9. Chỗ đất này nổi lên tự nhiên.

10. Chỗ đất này luôn luôn có Thánh nhân ở.

11. Chỗ đất này hoàn toàn không ai có thể chiếm lĩnh được.

12. Chỗ đất này có tòa sư tử rất cao, danh tiếng đồn khắp.

13. Chỗ đất này nếu có ma và quyến thuộc của ma có tâm tìm lỗi lầm cũng không thể có.

14. Chỗ đất này là cái rốn của tất cá chỗ đất khác.

15. Chỗ đất này được cấu tạo bằng kim cương.

16. Chỗ đất này mọc loại cỏ cao chừng bốn ngón tay (chồng lên), mềm mại, xanh biếc như lông cổ chim Khổng tước, chạm vào cỏ này như sờ thiên y Ca-thi-ca, thân cỏ mềm mại, ngay ngắn, màu sắc tuyệt vời, tỏa mùi thơm phảng phất, ngọn cỏ đều xoay về phía phải, trông thật đẹp mắt.

Thuở xưa các vị Chuyển luân thánh vương đều nghe việc vui thích hy hữu ấy, nên các ngài thường tới lui chiêm ngưỡng chỗ đất này.

Khi Bồ-tát đến gần cây Bồ-đề, thì chỗ đất ấy tự nhiên được quét dọn sạch sẽ, rưới nước hoa, mặt đất bằng phẳng, thanh tịnh trang; nghiêm, đẹp đẽ nên ai cũng ưa trông ngắm, lại hoàn toàn không có sỏi sạn, đá gạch và các loại cỏ dại gai góc bừa bãi.

Lúc xin cỏ, Bồ-tát dùng tay trái nhận bó cỏ. Khi đến dưới cây Bồ-đề, Ngài dùng tay phái với năm ngón có màn lưới mềm mại; xinh xắn, móng màu đỏ hồng như đánh son phấn nhận lấy bó cỏ từ nơi tay trái. Khi sắp trải cỏ dưới gốc cây Bồ-đề, Ngài hướng về phía Đông, cầm cỏ bỏ xuống đất, gốc cỏ hướng về cây Bồ-đề, trong tâm Bồ-tát thầm nguyện: “Khi ta đã ngồi ở nơi đây rồi, sẽ vượt qua biển phiền não để đến bờ giác ngộ.” Khi Ngài vãi nắm cỏ trên mặt đất, như hoa cắm trong bình, hoặc cuộn tròn như xoáy nước, hoặc như hình chữ Vạn.

Bồ-tát thấy tự bó cỏ rơi xuống đất, đều đặn không rối loạn, với những hiện tượng tốt đẹp như vậy, nên nói:

-Như ngày nay Ta vãi bó cỏ xuống đất, đáng ra rối loạn lại; không rối loạn, đây là tượng trưng cho điều tốt đẹp, chẳng khác nào như Ta sông trong thế gian loạn động mà nhất định sẽ chứng được pháp không loạn động.

Khi Bồ-tát vãi nắm cỏ trải ra như vậy, mặt đất chấn động sáu cách.

Bấy giờ Ma vương Ba-tuần, chủ cối Dục đến bên Bồ-tát nói:

-Này người dòng Sát-lợi, người không nên trải cỏ ngồi dưới gốc cây này. Tại sao vậy? Bởi vì nơi đây vào nửa đêm khuya có đến vô lượng quỷ Tỳ-xá-giá, Phú-đơn-na, Dạ-xoa, La-sát thường thường lui tới nơi đây ăn thịt người. Tại phương Bắc cây này có một khu rừng, là nơi an trú của các vị Đại Tiên nhân, gọi là xứ Ưu-lâu-tần-loa, phong cảnh tươi đẹp, rất hữu tình, ai cũng thích thưởng ngoạn. Này người dòng họ Thích hãy đến nơi đó ngồi tùy ý.

Bồ-tát đáp lời Ma vương Ba-tuần:

-Này Ma vương Ba-tuần, ngươi lẽ nào không biết, bất cứ nơi núi đầm thanh vắng, hoặc dưới gốc cây, hoặc nơi gò mả, hoặc ở trong rừng, vào nửa đêm Ta vẫn an ổn, tâm không sợ sệt. Lại nữa, Ta không là kẻ vô trí, lại cũng chẳng phải như người không có năng lực phương pháp, như người tầm thường đến nơi đây. Từ lâu Ta đã biết vào thời quá khứ, chư Phật tại chỗ đất vô úy dưới cội cây này mà thành Thánh đạo. Đó là lý do ngày nay Ta đến nơi đây.

Lúc bấy giờ có một quỷ Dạ-xoa đứng bên phải Ma vương Ba-tuần, nói với Bồ-tát.

-Này kẻ họ Thích, ngươi cần gì phải khổ nhọc ngồi dưới cội cây này, bên ngoài bốn phía cây Bồ-đề này có các đại thọ, người mau mau dời bước đi nơi khác.

Bồ-tát đáp lời Dạ-xoa:

-Tâm nguyện của Ta nếu ngồi ở dưới các cội cây khác thì không thành, chỉ ở dưới gốc Bồ-đề này thì quyết định thành tựu, chỗ khác thì không được.

Khi ấy, Dạ-xoa tâu lại Ma vương:

-Thưa Đại vương, nay ngài có nghe người này nói chăng? Chúng ta phải làm cách nào đuổi người đi khỏi nơi đây?

Ma vương Ba-tuần bảo Dạ-xoa:

-Ta cần phải dùng đủ mọi cách quyết tâm làm thế nào để ngăn người này không cho ngồi nơi đây nữa.

Nghe Ma vương Ba-tuần nói những lời như vậy, Ngài sắp an tọa trên cỏ, tư duy, phát nguyện: “Ta sắp ngồi tòa Kim cang mà chư Phật quá khứ đã ngồi. An tọa xong, Ta sẽ chế phục Ma vương Ba-tuần. Ngày nay, Ta đã ngồi chỗ này rồi, sẽ đoạn diệt các phiền não dục vọng, sân hận, ngu si… Ta đã ngồi chỗ này rồi sẽ chứng được pháp cam lộ vi diệu thanh tịnh mát mẻ.”

Khi Bồ-tát trải cỏ, gốc cỏ hướng về cây Bồ-đề, ngọn cỏ đều xoay ra bên ngoài. Ngài trải cỏ xong nhiễu quanh bên phải cây Bồ-đề ba vòng rồi ngồi kiết già, thân tâm đoan chánh, như rắn cất giữ thân thẳng yên không lay động. Ngài xướng lên ba lần:

-Ta chứng cam lộ. Ta chứng cam lộ. Ngày nay Ta nhất định chứng cam lộ!

Trong tâm Bồ-tát phát lời thệ nguyện vĩ đại: “Ta ngồi nơi đây, nếu tất cả hữu lậu không diệt sạch, tất cả tâm không được giải thoát thì Ta nguyện trọn đời không rời khỏi chỗ này.”

Có kệ nói:

Bồ-tát thiền tọa dưới cội cây

Như rắn giữ mình không lay động

Trong tâm nguyện lớn như thế này

Đạo quả chẳng thành không đứng dậy.

Lúc ấy Ma vương Ba-tuần biến mất khỏi chỗ cũ trong thời gian ngắn, rồi lại hiện một thân đầu xõa tóc rối, thân mặc áo xấu dính đầy cát bụi, môi miệng khô ran tợ người đói khát, tay cầm một bó lớn bì]thư, vội vã hướng về Bồ-tát, đứng trước mặt ném bó bì thư cho Bồ-tát| và nói:

-Một phong thư của Ma-na-ma dòng họ Thích của người gởi,; một phong thư của Ni-câu-đà gởi, một phong thư của Nan-đề-ca gởi, một phong thư của Bạt-đề-già gởi, một phong thư của Nan-đà gởi, một phong thư của A-nan-đà gởi. Bao nhiêu phong thư này đều là bà con dòng họ Thích nhờ ta chuyển đến người.

Khi ấy, trong số đó có một bức thư đề lời giả dối không thật; Thư đề: “Ngày nay, Đề-bà-đạt-đa ở thành Ca-tỳ-la soán ngôi vua, vào nội cung Thái tử thâu nạp tất cả phi hậu của ngài rồi bắt Đại vương Tịnh Phạn, thân phụ ngài, hạ ngục. Ngoài ra, các vương thúc Bạch Phạn, Hộc Phạn, Cam Lộ Phạn cùng tất cả các vị kỳ lão hoàng gia họ Thích đều bị đuổi ra khỏi thành. Nếu Thái tử nhận được thư này, phải mau mau trở về hoàng triều, chớ còn ở nơi thanh vắng làm gì?”

Bồ-tát đọc những dòng thư như vậy, nghĩ đến ba việc:

“Vì thể nữ sinh tâm ái dục nên Đề-bà-đạt-đa mới thâu nạp phi hậu của Ta.

“Vì Đề-bà-đạt-đa khởi tâm chiến đấu nên người mới thật sự cướp lấy ngôi của phụ vương và quốc gia Ta.”

“Vì hoàng gia sinh tâm sát hại, mà họ vì sao tiếc thân mạng không bảo vệ cha Ta?”

Rồi Bồ-tát lại suy nghĩ: “Tất cả cảnh giới thế gian đều vô thường, uế trược, bất tịnh, luôn luôn sinh diệt không chút thời gian tạm nghỉ.”

Rồi lại suy nghĩ: “Tất cả pháp thế gian đều là pháp hoại diệt, sinh diệt liên tục!” Do tư duy như vậy, Ngài mới cắt đứt tâm ái dục mà phát khởi tâm xuất gia; dứt tâm đấu tranh mà phát khởi tâm Từ mẫn, đoạn tâm sát hại mà sinh khởi tâm Bi.

“Những việc như vậy, Ta đã vứt bỏ từ lâu.” Tư duy như vậy rồi, Ngài phát khởi tâm xả.


Mục Lục Đầu trang

    Xem thêm:

  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 51 Đến Phẩm 60 - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 41 Đến Phẩm 50 - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 31 Đến Phẩm 40 - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 11 Đến Phẩm 20 - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 1 Đến Phẩm 10 - Kinh Tạng
  • Phẩm Pháp Nghi Quỹ Niệm Tụng Cúng Dường Thánh Hạ Dã Hột Lí Phược Đại Oai Nộ Vương Lập Thành Đại Thần Nghiệm - Kinh Tạng
  • Kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Trung A-Hàm 4 – Phẩm Vị Tằng Hữu Pháp - Kinh Tạng
  • Phẩm Nhứt Thiết Như Lai Liên Hoa Nghi Quỹ Đại Mạn Đồ La Kim Cang Đỉnh Hàng Tam Thế Đại Pháp Vương Giáo Trung Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chơn Ngôn - Kinh Tạng
  • Kinh Ba Mươi Bảy Phẩm Hạnh Thiền - Kinh Tạng
  • Phẩm Nhập Pháp Giới Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Phật Mẫu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Pháp Tùy Hành Niệm Tụng Đại Tì Lô Già Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh Lược Thị Thất Chi - Kinh Tạng
  • Kinh Thần Chú Hộ Mạng Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Quán Niệm A Di Đà Phật Tướng Hải Tam Muội Công Đức Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Thiền Tâm dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Thái Tử Mộ Phách – Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phạm Thiên Trì Tâm Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh Trung A-Hàm 1 – Phẩm Bảy Pháp - Kinh Tạng
  • Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa – Đường Pháp Thành - Kinh Tạng