1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

28. PHÁP HỘI DŨNG MÃNH THỌ TRƯỞNG GIẢ THỨ HAI MƯƠI TÁM

Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội, đều là A La Hán các lậu đã hết không còn phiền não, được thượng điều phục như đại long, chỗ làm đã xong bỏ những gánh nặng đã được lợi mình hết kiết sử các cõi, chánh trí giải thoát tâm được tự tại, tối thượng ứng cúng mọi người được quen biết, chỉ có Ngài A Nan còn ở tại bực hữu học. Tên của các Ngài ấy là:A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Ca Thấp Ba, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên,

Ma Ha Kiếp Tân Na, Ma Ha Câu Si La, Ma Ha Phạm Phả, La Hầu La, Nan Đà v.v…làm bực thượng thủ.

Lại có năm trăm đại Bồ Tát câu hội đều được tam muội và đà la ni.

Bấy giờ trong thành Xá Vệ có trưởng giả tên Dũng Mãnh Thọ giàu có nhiều của báu kho đụn đầy tràn, những vàng bạc lưu ly xa cừ mã não san hô hổ phách ma ni chơn châu voi ngựa bò dê kẻ hầu người hạ các loại buôn bán tất cả đều nhiều. Trưởng giả Dũng mãnh Thọ cùng năm trăm trưởng giả yến hội nghị rằng: “Nầy các Ngài! Phật xuất thế khó, được thân người khó, gặp Phật cũng khó, ở trong Phật pháp do lòng tinh xuất gia cũng khó, thành tánh Tỳ kheo lại càng khó, đúng phép tu hành cũng khó, biết ơn báo ơn mang chút ơn chẳng quên người nầy khó có, ở nơi Phật pháp có thể sanh lòng tin ưa người nầy khó được, tin ưa thành tựu việc nầy lại khó, trang nghiêm Phật pháp sự nầy cũng khó, giải thoát sanh tử càng khó gấp bội. Chúng ta vì Thanh Văn thừa Bích Chi Phật thừa mà cầu diệt độ hay sẽ phát xu tối thượng Phật thừa”.

Mọi người đều xướng lên rằng: “Chúng ta phải ở nơi vô thượng Phật đạo mà chứng Niết Bàn”.

Chúng trưởng giả quyết nghị xong cùng xuất thành đến rừng Kỳ Đà đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng ngồi qua một bên.

Đức Thế Tôn biết mà cố ý hỏi: “Chư trưởng giả có duyên gì nay đến chỗ Phật?”.

Trưởng giả Dũng Mãnh Thọ cùng năm trăm trưởng giả đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chấp tay cung kính bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đồng tập hội nghị rằng: Phật xuất thế khó, thân người khó được nhẫn đến giải thoát sanh tử càng khó gấp bội, nay chúng ta sẽ ở nơi Thanh Văn Thừa, Bích Chi Phật thừa mà cầu diệt độ hay sẽ phát xu vô thượng Phật thừa! Chúng tôi đồng xướng lên rằng: chúng ta phải ở nơi vô thượng Phật đạo mà chứng Niết bàn. Do quyết nghị ấy mà chúng tôi đến chỗ đức Như Lai Đẳng Chánh Giác.

Bạch đức ThếTôn! Đại Bồ Tát chí cầu vô thượng Bồ đề, phải học thế nào? Trụ thế nào? Tu thế nào?.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Các ông phát xu Vô thượng Bồ đề đến chỗ Phật phải lắng nghe kỹ khéo nghĩ nhớ lấy. Như chư đại Bồ Tát nên học nên trụ nên tu sẽ vì các ông mà nói”.

Chúng trưởng giả vâng lời dạy lắng nghe.

Đức Phật phán dạy: “Nầy chư trưởng giả! Đại Bồ Tát ở nơi vô thượng Bố đề có chí nguyện thù thắng phải đối với tất cả chúng sanh khởi tâm đại bi, phải rộng tu hành phải siêng huân tập. Vì thế nên Bồ Tát ở nơi thân thể sanh mạng tài sản vợ con kho tàng nhà cửa uống ăn y phục xe cộ mền nệm hoa hương tất cả đồ dùng phải là không ái trước. Tại sao?Vì chúng sanh chấp trước nơi thân mà tạo nghiệp ác, do nghiệp ác mà đọa trong địa ngục. Nếu đối với chúng sanh khởi tâm đại bi thì chẳng chấp trước thân mạng tài và sẽ sanh thiện đạo. Đại Bồ Tát ở nơi vô thượng Bồ đề có chí nguyện thù thắng đối với chúng sanh khởi từ bi rồi phải tu đại xả mà chẳng cầu báo, người chẳng cầu báo phải an trụ giới luật, ba giới thanh tịnh rồi phải đủ nhẫn nhục hay nhẫn các điều ác hại rồi nên phát khởi tinh tiến chẳng tiếc thân mạng, nên tu nhứt tâm an trụ thiền định, nên tu trí huệ thiện xảo phương tiện, phải ở nơi ngã nhơn chúng sanh thọ mạng đều xả ly. Vì chúng sanh nên hành bố thí thọ trì cấm giới, vì chúng sanh nên tu nhẫn nhục phát khởi tinh tiến, vì chúng sanh nên nhập thiền định tu tập trí huệ thiện xảo phương tiện”.

Chúng trưởng giả bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Ở nơi thân mạng và vợ con tất cả tài vật lòng chúng tôi thường mến tiếc. Đại Bồ Tát quan sát thế nào ở nơi thân mạng tài có thể không tham lẫn?”.

Đức Phật phán dạy: “Nầy thiện nam tử! Đại Bồ Tát có chí nguyện thù thắng nơi Vô thượng Bồ Đề phải quan sát thân nầy có vô lượng lỗi họa, các vi trần tích tập sanh trụ dị diệt niệm niệm dời đổi, chín cửa chảy dơ như hang rắn độc, trong ấy không chủ như xóm hoang vắng, rốt ráo phá hoại như ngói bình chưa nung, nước dơ đầy tràn như chậu phẩn dãi, chứa những bất tịnh như hầm tiêu, chẳng động chạm đến được như nhọt dữ, tham ngon bị họa như món ăn lộn chất độc, chẳng biết ơn đức như Vị Sanh Oán, khi dối mọi người như ác tri thức, bị si ái hại như làm bạn khỉ vượn, dứt mạng trí huệ như sát nhơn, đoạt các pháp lành như trộm cướp, thường tìm dịp hại như oán thù, không có từ tâm như người hàng thịt, khó hầu gần như kẽ bạo ác, như tên cắm vào thân động tới thì đau như nhà hư mục phải luôn sửa sang, như xe cũ hư khó dùng, như hộp rắn độc khó gần, như quán trọ chỗ họp của kẻ mệt mõi, như nhà cô độc không bị nhiếp thuộc, như lính ngục chuyên hai,như vua lo nước, như thành trì biên giới phải phong sợ, như ác quốc nhiều tai họa, như chén bể khó cầm, như thờ lửa không chán, như dương diệm hư dối, như huyễn hóa mê hoặc người như lột dây chuối không lõi cứng, như khối bọt nước chẳng nắm cầm được, như bong bóng nước mau sanh mau diệt, như cây bờ sông lâm nguy lai động, như giòng sông chảy xiết trọn đến biển chết.

Bồ Tát lại quan sát thân nầy nhơn duyên trước sau của nó, ban đầu do dục ái hòa hiệp mà sanh, vì nuôi lớn lên nuốt đồ ăn vào đến sanh tạng đàm ấm tiêu hóa, kế vào đến huỳnh tạng lúc sắp thục thì biến làm chất chua, kế vào đến phong tạng do phong lực chia ra nước và cặn bã lưu hành riêng thành đại tiểu tiện. Nước biến ra máu máu biến thành thịt, trong thịt sanh mỡ, nơi mỡ sanh xương sanh tủy. Nhơn duyên của thân thể trước sau đều bất tịnh như vậy.

Khi quan sát như trên Bồ Tát lại nên suy nghĩ: Thân nầy do ba trăm sáu mươi khối xương ráp thành như nhà mục hư, các lóng đốt chi trì dùng bốn lưới mạch giăng bủa giáp vòng, năm trăm phần thịt như bùn tô trét, sáu mạch cột nhau, năm trăm gân ràng rịt, bảy trăm mạch nhỏ dùng làm lạc bện, mười sáu mạch to câu mang liền nhau, có hai sợi dây thịt dài ba tầm rưỡi vấn gút nơi trong, mười sáu trường vị vây quanh sanh tạng thục tạng, hai mươi lăm mạch hơi như kẻ song,,một trăm lẻ bảy cửa huyệt như bình bể nát, tám vạn lỗ lông như cỏ loạn trùm, năm căn bảy khiếu đầy tràng chất dơ, bảy lớp da gói ghém, lục vị nuôi lớn như thờ lửa nuốt thâu chẳng chán.

Thân thể như vậy tất cả hôi dơ tánh chất thúi rã. Có ai nên ái trọng nó mà sanh kiêu mạn.Chỉ nên quan sát nó như giữ cái bình, như gìn chiếc xe, nuôi dưỡng nó để được đến Bồ Đề vậy”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Thân nầy là chậu dơ

Dường như bình đựng phẩn

Phàm phu không trí huệ

Cậy sắc sanh kiêu mạn

Trong mũi hằng chảy mũi

Hơi miệng luôn hôi hám

Mắt ghèn thân đầy trùng

Ai nên tưởng lạc sạch

Như người cầm hòn than

Mài dồi muốn trắng bóng

Dầu mài đến mòn hết

Thể sắt than không đổi

Dầu muốn thân mình sạch

Rửa hết cả nước sông

Thân trọn không sạnh được

Vì thể chất vốn dơ.

Nầy các thiện nam tử! Nếu Bồ Tát phát chí nguyện thù thắng hướng đến vô thượng Bồ đề thì nên quan sát thân thể nầy bốn mươi bốn thứ:

Một là thân nầy đáng chán vì tánh không hòa hiệp vậy. Hai là thân nầy hôi dơ vì máu mủ thường chảy vậy. Ba là thân nầy chẳng bền vì cứu cánh bại hoại vậy. Bốn là thân nầy yếu đuối vì chi tiết trì nhau vậy. Năm là thân nầy chẳng sạch vì chất dơ dáy đầy tràn vậy. Sáu là thân nầy như ảo thuật vì phỉnh gạt phàm phu vậy. Bảy là thân nầy như miệng nhọt vì cửu khiếu thường chảy vậy. Tám là thân nầy lửa cháy vì lửa dục thạnh vậy. Chín là thân nầy là lửa vì lửa giận mạnh vậy. Mười là cháy khắp vì lửa si cháy khắp vậy. Mười một là thân nầy tối tăm vì tham sân si vậy. Mười hai là thân nầy sa lưới vì bị lưới ái trùm vậy.Mười ba là thân nầy là khối ung nhọt vì đầy ung nhọt vậy. Mười bốn là thân nầy chẳng an vì bốn trăm lẻ bốn bệnh vậy. Mười lăm là chỗ ở của côn trùng vậy. Mười sáu là thân nầy vô thường vì cứu cánh phải chết vậy. Mười bảy là thân nầy ngoan si vì không rõ các pháp vậy. Mười tám là như đồ sành vì sanh trụ hoại vậy. Mười chín là bức bách vì nhiều lo sầu vậy. Hai mươi là không được cứu hộ vì chắc hoại diệt vậy. Hai mươi mốt là hiểm ác vì siễm cuống khó biết vậy. Hai mươi hai là như hố không đáy vì tham muốn không chán vậy. Hai mươi ba là như lửa nhận củi vì tham sắc chẳng nhàm vậy. Hai mươi bốn là không nhàm đủ vì tham thọ ngũ dục vậy. Hai mươi lăm là như bị đập đánh vì bị tổn hại vậy. Hai mươi sáu là bất định vì thạnh suy tăng giảm vậy. Hai mươi bảy là thân chuyển theo tâm vì chẳng chánh tư duy vậy. Hai mươi tám là chẳng biết ơn vì chắc bỏ gò mả vậy. Hai mươi chín là bị kẻ khác ăn vì chồn sói kiến mối ăn vậy. Ba mươi là như bộ máy vì gân xương chi trì vậy.Ba mươi mốt là chẳng khả quan vì máu mủ phẩn dơ vậy. Ba mươi hai là chẳng tự do vì phải nương uống ăn vậy Ba mươi ba là hư vọng gói cột vì trọn bại hoại vậy. Ba mươi bốn là ác hữu vì nhiều nghịch hại vậy. Ba mươi lăm là kẻ giết hại vì nó tự tàn hại vậy. Ba mươi sáu là đồ khổ họa vì nhiều khổ bức bách vậy. Ba mươi bảy là khối khổ vì năm uẩn sanh vậy. Ba mươi tám là không có chủ vì các duyên sanh vậy. Ba mươi chính là không có mạng vì rời lìa tướng nam nữ vậy.Bốn mươi là rỗng không vì phải quán uẩn giới xứ vậy. Bốn mươi mốt là hư vọng vì như chiêm bao vậy. Bốn mươi hai là chẳng thiệt vì như huyễn hóa vậy. Bốn mươi ba là huyễn hoặc vì như dương diệm vậy. Bốn mươi bốn là thân nầy khi dối vì như bóng tượng trong gương vậy.

Lúc quan sát thân thể như vậy, đối với thân mạng vợ con tài vật Bồ Tát đều lìa chán không còn ái luyến mau thành tựu sáu Ba la mật sớm được vô thượng Bồ đề”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Được thân người tốt rất là khó

Chớ vì thân nầy tạo nghiệp ác

Cứu cánh gò hoanh nuôi chồn sói

Chớ vì ác kíến sanh tham ái

Phàm ngu mê hoặc vì cuồng si

Do ái thân nầy tạo ác nghiệp

Thân nầy cũng lại chẳng biết ơn

Ngày đêm chỉ thêm duyên khổ họa

Cơ quan động chuyển thường mỏi nhọc

Mũi qiải tiên lợi hằng tràn đầy

Đói khát nóng rét luôn bức ngặt

Nào có người trí lại ái thân

Thân nầy không nhàm như hố sâu

Luống hay nuôi lớn những oán hại

Do nơi thân nầy thường làm ác

Phải thọ khổ báo vô lượng kiếp

Nên nhớ gìa chết siêng tu phước

Chánh tín sanh vào trong Phật pháp

Uống ăn y phục các hương thoa

Dưỡng nuôi thân nầy đã từ lâu

Ai hay nắm giữ cho chẳng hoại

Phải biết vô ích chớ đam mê

Đức Phật Như Lai rất khó gặp

Trong vô lượng kiếp một lần hiện

Đối với Phật pháp nên tin sâu

Ác đạo đáng sợ chớ theo nó

Dầu cho sống lâu ngàn kiếp năm

Còn sợ vô thường sanh lòng chán

Huống là giây lát chẳng bảo đảm

Phải bị trầm luân trong ác đạo

Hoặc có ác hữu đến khuyên bảo

Thân người khó được nay đã được

Cầu nhiều của báu hưởng dục lạc

Kịp thuở khỏe mạnh vui chơi thỏa

Có ai cầu của mà sung sướng

Dầu được giữ gìn vẫn khổ nhọc

Người ngu như vậy luống vọng ngôn

Thế nên người trí phải quan sát

Tài vật như ảo cũng như mộng

Chúng sanh ngu si bị phỉnh lầm

Trong sát na được sát na mất

Đâu có người trí lại mến luyến

Như nhà ảo thuật hóa ảo sự

Thành càn Thát Bà nhiều hình sắc

Của báu cũng vậy gạt phàm ngu

Ở trong hư vọng nào có thiệt

Chiu nhiều khổ não cầu tài lợi

Nước lửa vua giặc thường xâm đoạt

Do đây hay làm nhơn duyên khổ

Đâu có người trí sanh mến luyến

Có những kẻ thường hoài tham ái

chạy theo tài lợi không biết chán

Đối với cha mẹ không từ tâm

Cho đến thân thuộc sanh oán hại

.Lời nói thuận hành lòng sâu độc

Gây tạo nhiều nghiệp duyên khi dối

Hoặc học tà luận tà chú thuật

Dối khoe tài nghệ như dâm nữ

Hoặc lại siểm cuống hiện nhu hòa

Hoặc lại cang cường hiện oai mãnh

Vô lượng ác nghiệp nhiều như vậy

Không gì chẳng do tài lợi sanh

San hô vàng ngọc châu ma ni

Vật ấy bổn lai như bọt bóng

Chẳng biết được nó như ảo hóa

Vì vật hư giả đọa tham đồ

Thời kỳ Di Lạc Phật xuất thế

Bổ xứ thành Phật nối Thích Ca

Cõi nước hoàng kim lót mặt đất

Thất bửu hiện ra từ đâu đến

Kiếp tận thế gian bị thiêu hoại

Tu Di sông biển khô cháy hết

Cứu cánh hư mất hoàn hư không

Những của báo nầy đi về đâu

Gây tạo nghiệp báo ác cầu tài vật

Nuôi nấng vợ con cho rằng vui

Đến lúc lăm chung khổ bức thân

Hoặc vợ hoặc con không cứu được

Ở trong tam đồ kinh sợ kia

Chẳng thấy vợ con cùng thân thuộc

Ngựa xe của báu thuộc người khác

Thọ khổ có ai chia sớt được

Cha mẹ anh em cùng vợ con

Bằng hữu bè bạn và của cải

Chết đi không một cùng gần kề

Chỉ có ác nghiệp thường theo sát

Người trí trọn chẳng vì thân ái

Mà tạo nghiệp mãn mời ra khỏi

Thân thuộc không ai thay thế được

Diêm La sứ giả chỉ khảo nghiệp

Chẳng hỏi thân quyến và bằng hữu

Người được thân người chẳng bỏ ác

Khổ sở nay phải cam nhận chiu

Diêm La thường bảo người tội ấy

Ta không gia được một chút tội

Người tự tạo tội nay tự đến

Nghiệp báo tự chiệu không ai thế

Cha mẹ vợ con không cứu được

Chỉ nên siêng tu nhơn xuất thế

Thế nê phải bỏ nghiệp xích xiềng

Khéo biết xa lìa cầu an lạc

Với vợ con nhà nên biết sợ

Hằng nương Phật giáo chánh tu hành

Tại gia phùng thạnh là gốc khổ

Dường như lò lữa rất đáng sợ

Thân tâm nóng bức bị đốt cháy

Đâu có người trí sanh tham ái

Ưa thích tu hành các Phật pháp

Không hề doanh cầu là khoái lạc

Phàm phu ngu tối chẳng biết hay

Nhà là gốc khổ lại tham ái

Nơi khối da xương gân thịt kia

Mê lầm vọng tưởng là chồng vợ

Chẳng biết thân thể như ảo hóa

Phàm phu ngu tối sanh tham ái

Người trí biết thân là lỗi họa

Dục lạc trong đời đều vất bỏ

Cầu pháp phải như cầu lương dược

Phải mau bỏ lìa dây tại gia”.

Nghe pháp xong năm trăm trưởng giả được vô sanh nhẫn vui mừng hớn hở nói kệ rằng:

“Mừng thay được lợi lớn

Tối thượng trong lợi ích

Chúng tôi đối Phật pháp

Đều sanh lòng vui thích

Phát xu đại Bồ đề

Lợi lạc cho chúng sanh

Pháp lành dùng nuôi mạng

Giác huệ tự an tâm

Thương xót các chúng sanh

Nguyện sẽ thành Phật đạo

Chúng tôi đều đã phát

Tâm Bồ đề vô thượng

Thân vàng tướng trang nghiêm

Chiếu sáng khắp thế giới

Người thích tâm Bồ đề

Sẽ được tâm Như Lai

Đại tâm Bồ đề tâm

Tối thượng trong các tâm

Giải thoát tất cả phược

Đầy đủ các công đức

Các chúng sanh ít phước

Nơi đây không ưa thích

Chẳng nhìn lỗi sanh tử

Chẳng thích tâm Bồ đề

Tâm Bồ đề công đức

Nếu có sắc phương phần

Rộng khắp cõi hư không

Không gì dung chứa được

Trong sát độ chư Phật

Nhiều như các sông Hằng

Giả sử trải trân bửu

Dùng cúng dường chư Phật

Có người hay chấp tay

Hồi hướng tâm Bồ đề

Phước đây hơn phước trên

Chẳng thể suy tính được

Nào riêng phước cúng dường

Phước khác cũng như vậy

Tâm Bồ đề như vậy

Đấng Tối Thắng tuyên nói

Tâm Bồ đề tối thắng

Như thuốc a già đà

Trừ được tất cả bịnh

Cho tất cả an vui

Tôi thấy các chúng sanh

Bị ba độc nhiệt não

Trí giả vô lượng kiếp

Cần khổ thường tu tập

Như Y Vương dũng mãnh

Đầy đủ hạnh Bồ đề

Cứu vớt chúng sanh khổ

Lìa hẳn các ưu não

Tất cả chỗ thọ sanh

Trọn chẳng bỏ thân nầy

Siêng tu các hạnh nguyện

Dũng mãnh cầu Phật pháp

Chúng tôi được lợi lành

Chúng tôi lòng vui thích

Nay gặp Phật Thích Ca

Sẽ được thân Như Lai”.

Bấy giờ đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ diện môn của đức Phật phóng ra những thứ tia sáng sanh vàng đỏ trắng hồng tía pha lê chiếu đến vô lượng vô biên thế giới cho đến trời Phạm Thế, oai quang cùa nhựt nguyệt đều bị ẩn khuất, trở về nhiễu ba vòng rồi nhập vào đảnh Phật.

Tôn giả An Nan đứng vậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay bạch đức Phật rằng: “Bạch thế Tôn! Có nhân duyên gì mà đức Phật mỉm cười”.

Tôn giả liền nói kệ rằng:

“Chư Phật là đạo sư tối thượng

Chẳng không duyên cớ hiện mỉm cười

Đấng thương xót lợi ích thế gian

Xin nói nhơn duyên của sự ấy

Chúng sanh nghèo thiếu không pháp tài

Nên ban nói thừa lớn tối thượng

Hay làm mắt sáng cho thế gian

Xin nói nhơn duyên Phật cười mỉm”.

Đức Phật phán dạy: “Nầy A Nan! Ông có thấy năm trăm trưởng giả nay ở trước Phật phát tâm vô thượng Bồ đề chăng?

-Vâng tôi đã thấy, bạch đức Thế Tôn!

-Nầy A Nan! Năm trăm trưởng giả nầy thuở xưa đã ở nơi trăm ngàn ức na do tha chư Phật thừa sự cúng dường, trồng các thiện căn, nay nghe ta nói pháp đều được vô sanh nhẫn. Các trưởng giả nầy về sau chẳng còn sanh ác đạo thường thọ khoái lạc trong Nhơn Thiên. Đời sau ở chỗ Phật Di Lạc, các trưởng giả nầy thân cận cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, với tất cả chư Phật trong Hiền kiếp cũng như vậy, ở chỗ chư Phật nghe chánh pháp thọ trì đọc tụng vì người mà giảng nói. Quá hai mươi lăm kiếp, các trưởng giả nầy sẽ ở trong các Phật độ thành Vô thượng Bồ đề đều thành một danh hiệu Thắng Liên Hoa Tạng Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác”.

Tôn Giả An Nan bạch đức Phật: “Hi hữu Thế Tôn! Hi hữu Thiện Thệ! Nên đặt tên pháp môn quảng đại nầy là gì, chúng tôi phải thọ trì thế nào?”.

Đức Phật phán dạy: “Nầy A Nan! Pháp môn nầy tên là Du Già Sư Địa, cũng gọi là Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả Sở Vấn, ông nên thọ trì”.

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Tôn Giả A Nan và các Tỳ Kheo năm trăm trưởng giả các chúng Bồ Tát, Trời Người Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Bảo Tích tập 2 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 7 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 8 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 9 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 1 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 3 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 5 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích (trọn bộ 9 tập) – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 4 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (Trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 2 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 1 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikaya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 3 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư – HT Thích Trí Quảng soạn - Kinh Tạng
  • Kinh Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Nhất A-Hàm – HT Thích Thanh Từ dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng