1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

33. PHÁP HỘI VÔ CẤU THÍ BỒ TÁT ỨNG HIỆN THỨ BA MƯƠI BA

PHẨM TỰ THỨ NHẤT

Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Cấp Cô Độc cùng đại Tỳ Kheo ngàn người câu hội, đều là A La Hán các lậu đã hết không còn phiền não, ở trong các pháp đều được tự tại, chỗ làm đã xong xả bỏ gánh nặng đã được tự lợi hết kiết sử ba cõi được chánh trí giải thoát tâm thiện giải thoát huệ thiện giải thoát, tâm điều phục như đại tượng vương tâm được tự tại đến bỉ ngạn nhập bát giải thoát chỉ trừ một mình A Nan.

Lại có chư đại Bồ Tát đều là đại trang nghiêm mà mọi người đều biết, được bất thối chuyển nhứt sanh bổ xứ. Các Ngài hiệu là BửuThủ Bồ Tát, Đức Tạng Bồ Tát, Huệ Nghiêm Bồ Tát, Xứng Ý Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, Duyệt Âm Pháp Vương Tử, Bất Tư Nghị Giải Thoát Hạnh Pháp Vương Tử, Tư Duy Chư Pháp Vô Chướng Ngại Pháp Vương Tử, Di Lặc Bồ Tát, Thí Vô Ưu Bồ Tát, Vô Sĩ Kiến Bồ Tát, Ly Ác Thú Bồ Tát, Vô Si Hành Bồ Tát, Đoạn U Minh Bồ Tát, Trừ Chư Cái Bồ Tát, Biện Nghiêm Bồ Tát, Bửu Đức Trí Oai Bồ Tát, Kim Hoa Quang Minh Đức Bồ Tát, Tứ Vô Ngại Bồ Tát, một vạn hai ngàn đại Bồ Tát như vậy câu hội.

Một sáng sớm tám đại Bồ Tát và tám đại Thanh Văn: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, Vô Si Kiến Bồ Tát, Bửu Tướng Bồ Tát, Ly Ác Thú Bồ Tát, Trừ Chư Cái Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Biện Nghiêm Bồ Tát, Vô Si Hành Bồ Tát, Đại Đức Xá Lợi Phất, Đại Đức Đại Mục Kiền Liên, Đại Đức Ma Ha Ca Diếp, Đại Đức Tu Bồ Đề, Đại Đức Phú lâu Na Di Đa La Ni Tử, Đại Đức A Na Luật và Đại Đức A Nan, các Ngài đắp y cầm bát muốn vào thành Xá Vệ khất thực. Giữa đường các Ngài tự nghĩ và cùng tuyên bố. Đại Đức Xá Lợi Phất nói: Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện tất cảchúng sanh trong thành được nghe bốn thánh đế. Đại Đức Mục Kiền Liên nói: Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện tất cả chúng sanh trong thành rời lia ma sự. Đại Đức Ma Ha Ca Diếp nói: Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện cho người cúng thí tôi được phước báu vô tận nhẫn đến được Niết bàn. Đại Đức Tu Bồ Đề nói: Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện cho chúng sanh nào thấy tôi thì sẽ được thọ hưởng khoái lạc trong người trên trời được dứt hết khổ tế. Đại Đức Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử nói: Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện cho trong thành tất cả ngoại đạo phạm chí ni kiền tử v.v…đều được chánh kiến. Đại Đức Ly Việt nói:Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện trong thành tất cả chúng sanh được sự vui vô tránh. Đại Đức A Na Luật nói: Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện trong thành tất cả chúng sanh biết nghiệp báo đời trước. Đại Đức A Nan nói: Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện cho trong thành tất cả chúng sanh với pháp đã được nghe đều hiện tiền.

Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử quan niệm như vậy: Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ tất cả nhà cửa tường vách khí vật cây cối nhánh lá bông trái y phục anh lạc đều phát xuất tiếng không vô tướng vô nguyện vô sở hữu vô ngã vô hí luận vô tánh. Vô Si Kiến Bồ Tát quan niệm như vầy:Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ những chúng sanh đáng được Vô thượng Bồ đề thấy vật gì liền biến thành tượng Như Lai và khiến họ quyết định nơi Vô thượng Bồ để. Bửu Tướng Bồ Tát quan niệm như vầy:Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ trong tất cả nhà cửa của hàng tộc tánh bửu tạng đầy đủ bảy báu từ đất vọt ra. Ly Ác Thú Bồ Tát quan niệm rằng: Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ những chúng sanh đáng phải đọa ác đạo đều làm cho hiện đời chịu tội nhẹ mau thoát khổ não. Trừ Chư Cái Bồ Tát quan niệm rằng: Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ chúng sanh trừ hết ngũ cái. Quan Thế Âm bồ Tát quan niệm rằng: “Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ chúng sanh bị tù giam xiềng xích mau được thoát khỏi, kẻ sắp bị giết sẽ được cứu mạng, kẻ bị khủng bố liền được vô úy. Biện Nghiêm Bồ Tát quan niệm rằng: Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ ai thấy tôi đều được biện tài dùng diệu kế vấn đáp nhau. Vô Si Hành Bồ Tát quan niệm rằng: Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ ai thấy tôi đều không ngu si tà kiến và quyết định nơi Vô thượng Bồ đề.Tám đại Bồ Tát và tám dại Thanh Văn cùng luận sự trên rồi dến của thành Xá Vệ.

Bấy giờ Vô Cấu Thí con gái vua Ba Tư Nặc lên tám tuổi dung mạo xinh đẹp đoan nghiêm nhàm mùng tám tháng hai ngày sao Phất xuất hiện cùng với năm trăm Bà La Môn cầm bình đầy nước xuất thành để tắm gội Thiên tưọng. Chư Bà La Môn thấy chư Tỳ Kheo đứng ngoài cửa thành. Họ cho là chẳng tốt, vì trưởng túc Bà La Môn tuổi trăm hai mươi tên Phạm Thiên bảo Vô Cấu Thí rằng: “Nay chư Tỳ Kheo đứng ngoài cửa thành là sự chẳng tốt, chúng ta nên trở vào thành chẳng nên gặp họ.Nếu gặp họ thì sự tế tự đáng lẽ lành tốt lợi ích sẽ thành chẳng tốt chẳng lành vậỷ.

Vô Cấu Thí liền nói kệ đáp Bà La Môn rằng:

“Tỳ Kheo không ái nhiễm

Đệ nhứt đáng khen ngợi

Hay vì các chúng sanh

Rửa trừ tất cả ác

Các Ngài đây thanh tịnh

Đều thấy tứ thánh đế

Ngoại đạo chẳng thanh tịnh

Bị si tối che đậy

Ruộng phước Lưỡng Tùc Tôn

Cúng thí được báo lớn

Gieo giống vào ruộng nầy

Hưởng phước lạc vô tận

Đầy đủ tịnh giới hạnh

Ra khỏi bùn không nhiễm

Ở đời như lương y

Cứu trị bịnh chúng sanh

Phật tối thắng trong đời

Là vua của các pháp

Chúng đây là Phật tử

Thành xong A la Hán

Thật hành Bồ Tát đạo

Người đời nên khen ngợi

Trí huệ hành diệu hạnh

Nên gần sao lại tránh

Chúng đây là huệ nhơn

Lâu xa thường bố thí

Phạm chí kính chúng đây

Các sự quyết định tốt

Khen chúng đủ tướng nầy

Tâm tịnh ruộng phước tốt

Phạm Chí nếu tin được

Vui mừng không lo khổ”.

Các Phạm Chí nói kệ đáp Vô Cấu Thí rằng:

“Chớ theo lòng ngu dại

Cúng thờ và cầu phước

Chớ thấy và chớ gần

Sa Môn cạo râu tóc

Cha mẹ cô chẳng vui

Chúng ta cũng hổ thẹn

Nếu cô muốn bố thí

Sự ấy cũng chẳng tốt

Lành thay chớ cung kính

Các chúng Tỳ Kheo nầy”.

Vô Cấu Thí nói kệ đáp chư Phạm Chí rằng:

“Nếu tôi đọa ác đạo

Cha mẹ cùng quyến thuộc

Của báu và thế tục

Đều không thể cứu được

Trừ chúng oai đức nầy

Ai có thể cứu tôi

Vì kính Phật Pháp Tăng

Nên xả bỏ thân mạng

Trừ ngoài Tam bửu ra

Không còn chỗ nương tựa”.

Chư Phạm Chí nói Vô Cấu Thí rằng: “Cô chưa từng thấy Phật và Tăng cũng chưa từng nghe pháp, do đâu mà cô có lòng tin như vậy?”.

Vô Cấu Thí đáp: “Lúc tôi sanh được bảy ngày đang ở tại giường chưn bằng vàng trên điện cao thấy năm trăm Thiên Tử bay trên hư không nói vô lượng công đức ca ngợi Phật Pháp Tăng, lúc ấy tôi được nghe. Đồng thời lại có một Thiên Tử chưa từng thấy Phật nghe Pháp cũng chưa từng thấy chúng Tăng hỏi chư Thiên Tử: Phật là ai và như thế nào? Chư Thiên Tử biết tôi chí tâm và để đáp lời hỏi ấy cho được sự vui đẹp nên nói kệ rằng:

Tóc Phật màu biếc xanh

Trong sạch xoắn phía hữu

Mặt Phật như trăng tròn

Màu hoa sen trăm cánh

Bạch hào như ngọc tuyết

Xoắn phía hữu rất đẹp

Ong đen nhiểu sen xanh

Mày mắt Phật cũng vậy

Má tròn như sư tử

Mắt nháy như ngưu vương

Môi như trái tần bà

Răng trắng khít đều bằng

Đi như bạch nga vương

Lưỡi rộng trùm khắp mặt

Phát âm rất thanh tịnh

Người nghe đều vui mừng

Tiếng khổng tước nga nhạn

Tiếng đờn cầm lưu ly

Tiếng khẩn na chuông vàng

Tếng chim ca lăng tần

Tiếng chim câu na la

Cộng mạng chim cát la

Tiếng âm nhạc vi diệu

Âm thanh Phật cũng vậy

Phật hống như sư tử

Hay dẹp trừ tranh cãi

Trừ bỏ các nhơ khổ

Thiệt ngữ dứt kiến chấp

Phật ở giữa đại chúng

Hay giải quyết nghi vấn

Chẳng sai mà nhu hòa

Làm vừa đẹp lòng chúng

Bỏ lìa cả hai bên

Chánh thuyết đúng trung đạo

Hằng nói lời thích ý

Người nghe đều vui mừng

Lời Phật không siểm khúc

Người nghe đều được hiểu

Lời Phật huệ trang nghiêm

Như vòng hoa thơm đẹp

Cổ tròn tay dài thẳng

Bàn tay bằng luân tướng

Ngón tay vót dài đẹp

Móng như màu đồng đỏ

Thân Phật vững đầy ngay

Eo nhỏ hông sư tử

Tròn đẹp và đầy đặn

Âm tàng như mã vương

Vóc hình như núi vàng

Một lỗ mọc một lông

Hữu truyền hướng lên trên

Ví dụ như long tượng

Vế bắp như lộc vương

Chưn bằng xương câu tỏa

Mắt cá đầy chưn luân tướng

Rành rẽ đủ ngàn chia.

Nầy chư Phạm Chí! Lúc ấy chư Thiên nói kệ như vậy để ca ngợi đức Như Lai. Lại nữa, đức Như Lai Ứng Cúng độ tất cả chúng sanh đến bỉ ngạn, có đại từ bi như đại y vương cứu hộ vcác chúng sanh chẳng nhiễm tắng ái như hoa sen trong nước. Nơi công đức của đức Như Lai, tôi chỉ ca ngợi phần it thôi.

Nầy chư Phạm Chí! Tôi so sanh bảy ngày được nghe công đức của đức Như Lai như vậy, từ đó đến nay hằng không ngủ nghỉ, cũng không có lòng tham dục, lòng sân hận, lòng tổn não, từ đó đến nay với cha mẹ anh chị em thân thuộc của báu anh lạc y phục thành ấp vườn tược và thân mạng của mình tôi đều không có lòng luyến ái, chỉ trừ niệm Phật. Nơi nào xứ nào đức Như Lai thuyết pháp, tôi đều nhiếp tâm đến nghe và đều thọ trì hoặc văn hoặc nghĩa chẳng mất một câu.

Nầy chư Phạm Chí! Ngày đêm chưa có lúc nào chẳng thấy đức Thế Tôn. Tôi quán Phật không chán, nghe pháp không đủ, cúng Tăng không mỏỉ”.

Nghe Vô Cấu Thí ca ngợi công đức của Phật Pháp và Tăng, năm trăm Phạm Chí đều phát vô thượng Bồ đề.

Vô Cấu Thí xuống xe đi bộ đến trước chư Bồ Tát và chư Thanh Văn đảnh lẽ chưn các Ngài, dùng lòng cung kính tôn trọng đến đứng trước Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: “Tôi là nữ nhơn trí huệ cạn ít nhiều phiền não và nhiều phóng dật ưa sự ti tiện bị những tư tưởng chẳng thuận tốt nó kéo dắt. Lành thay Đại Đức Xá Lợi Phất! Vì thương xót tôi mà nói diệu pháp, tôi được nghe xong mãi mãi lợi ích thêm nhiều an vuỉ”.

Vừa lúc ấy vua Ba Tư Nặc đến nghe lời trên, vua bảo Vô Cấu Thí rằng: “Đối với con các khoái lạc đều không hề thiếu, sao con có các lo mà chẳng ngủ nghỉ chẳng ưa sự vui trong đời?”.

Vua Ba Tư Nặc vì con gái mình mà nói kệ rằng:

“Đoan nghiêm như thiên nử

Tắm gội ướp hương thơm

Anh lạc đều đầy đủ

Lo gì mà chẳng ngủ

Nước giàu nhiều của báu

Cha mẹ được tự tại

Có gì mà chẳng vui

Mà chẳng ngủ nghỉ vậy

Con đẹp lòng song thân

Mọi người đều kính vọng

Cha trang nghiêm mọi thứ

Cớ sao con chẳng vui

Con thấy nghe sự gì

Mà ôm lòng buồn lo

Lành thay con cầu gì

Con nói cha sự ấy”.

Vô Cấu Thí nói kệ bạch Phụ Vương:

“Cha chẳng rõ trong nhà

Ấm giới nhập các pháp

Thế gian như huyễn hóa

Mạng sống không tạm dừng

Uống độc ai ngủ được

Sắp chết ai vui được

Sa hố đâu mong sống

Sự đời đều như vậy

Như người ở gần rắn

Nào còn ngủ với ham

Tứ đại như rắn độc

Nào có lòng hoan lạc

Bi kẻ thù vây quanh

Như đói nào có vui

Bị các nước thù địch

Phụ Vương đâu có vui

Từ con thấy Thế Tôn

Phát tâm nguyện thành Phật

Con chưa hề nghe thấy

Bồ Tát tạm phóng dật”.

PHẨM THANH VĂN THỨ HAI

Bấy giờ Vô Cấu Thí bạch Tôn giả Xá Lợi Phất rằng: “Bạch Đại Đức! Tôi có ít lời hỏi xin Ngài thương mà giải thích. Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là đệ nhứt trong hàng trí huệ. Vậy trí huệ ấy là hữu vi hay là vô vi? Nếu là hữu vi thì là pháp hư dối không thiệt, nếu là vô vi thì là pháp vô vi không có sanh, pháp không sanh thì không có khởi, vì là không khởi thì trí huệ ấy là vô sở hữu”.

Tôn giả Xá Lợi Phất yên lặng. Thấy vậy Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói với Tôn giả Xá Lợi Phất: “Sao Đại Đức chẳng đáp lời hỏi của Vô Cấu Thí?”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Cô ấy chẳng hỏi pháp hữu vi mà hỏi đệ nhứt nghĩa. Trong đệ nhứt nghĩa không có ngôn thuyết, nên tôi không thể dùng ngôn thuyết để đáp”.

Vô Cấu Thí hỏi Tôn giả Đại Mục Kiền Liên: “Bạch Đại Đức! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là thần túc đệ nhứt. Lúc Đại Đức thừa thần túc là tưởng niệm chúng sanh hay là tưởng niệm nơi pháp? Nếu an trụ chúng sanh tưởng thì chúng sanh không thiệt thần túc ấy cũng không thiệt, nếu an trụ nơi pháp tưởng thì pháp không biến dị, nếu không biến dị thì vô sở đắc, nếu vô sở đắc thì vô phân biệt”.

Tôn giả Đại Mục Kiền Liên yên lặng.Thấy vậy Tôn giả Ma Ha Ca Diếp hỏi: “Sao Đại Đức chẳng đáp lời hỏi của Vô Cấu Thí?”.

Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói: “Cô ấy chẳng hỏi phân biệt thần túc mà hỏi pháp chư Phật. Pháp chư Phật vô tác vô phân biệt không ngôn thuyết được”.

Vô Cấu Thí hỏi Tôn giả Ma Ha Ca Diếp: “Bạch Đại Đức! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là đầu đà đệ nhứt. Đại Đức vì thương chúng sanh đã nhập bát giải thoát rồi mà họ cúng thí, nhẫn một niệm thọ người cúng thí.

Vậy Đại Đức dùng thân báo ơn hay dùng tâm báo ơn họ. Nếu dùng thân báo ơn thì thân tánh vô ký không khác cỏ cây tường vách ngói sạn tất không thể báo ơn cúng thí, Nếu dùng tâm báo ơn thì tâm niệm niệm chẳng dừng cũng chẳng báo ơn được, nếu trừ thân tâm thì là pháp vô vi, ai có thể báo ơn được?

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp yên lặng. Thấy vậy Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi: “Sao Đại Đức chẳng đáp lời hỏi của Vô Cấu Thí?”.

Tôn giả Ma Ha Ca Ca Diếp nói: “Cô ấy hỏi pháp chơn tế, lý ấy chẳng thể dùng lời để đáp”.

Vô Cấu Thí hỏi Tôn giả Tu Bồ Đề: “Bạch Đại Đức: “Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là đệ nhứt vô tránh. Hạnh vô tránh ấy nhập hữu tánh hay nhập như tánh? Nếu nhập như tánh thì như chẳng phải tướng sanh tướng diệt, nếu chẳng có tướng sanh diệt thì là bình đẳng, nếu bình đẳng thì là như vậy, nếu như vậy thì là vô tác, nếu vô tác thì không ngôn thuyết, nếu không ngôn thuyết thì là bất khả tư nghị, nếu bất khả tư nghị thì là chẳng thể tuyên bày được. Còn nếu nhập tại hữu tánh thì là hư dối chẳng phải thánh hạnh”.

Tôn giả Tu Bồ Đề yên lặng. Thấy vậy Tôn giả Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử hỏi: “Sao Đại Đức chẳng đáp?”.

Tôn giả Tu Bồ Đề nói: “Ở nơi lý tôi chẳng nên có đối đáp chỉ có yên lặng là chỗ mà tôi thích. Cô ấy hỏi pháp không hí luận, nếu có ngôn thuyết thì sanh lỗi, pháp tánh vô thuyết là hạnh vô tránh vậy”.

Vô Câu Thí hỏi Tôn giả Phú Lâu Na: “Bạch Đại Đức! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là thuyết pháp đệ nhứt. Lúc Ngài thuyết pháp là thuyết pháp có cảnh giới hay thuyết pháp không cảnh giới. Nếu thuyết pháp có cảnh giới thì đồng với phàm phu, tại sao? Vì phàm phu nói pháp có cảnh giới vậy, thế nên Đại Đức chẳng rời pháp phàm phu. Còn nếu pháp không cảnh giới thì là vô sở hữu, lấy gì gọi là đệ nhứt trong hàng người thuyết pháp?”.

Tôn giả Phú Lâu Na yên lặng. Thấy vậy Tôn giả Ly Việt bảo rằng: “Sao Đại Đức chẳng đáp?”.

Tôn giả Phú Lâu Na nói: “Cô ấy chẳng hỏi pháp hữu vi mà hỏi đệ nhứt nghĩa. Trong đệ nhứt nghĩa không có ngôn thuyết, thế nên không có lý để đáp”.

Vô Cấu Thí hỏi Tôn giả Ly Việt: “Bạch Đại Đức! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là người hành thiền đệ nhứt. Lúc Đại Đức hành thiền là y nơi thiền có tâm hay thiền không tâm? Nếu y như tâm nhập thiền thì tâm như huyễn hóa chẳng thiệt, định ấy cũng chẳng thiệt, còn nếu vô tâm nhập thiền thì cỏ cây v.v…cũng lẽ ra đắc thiền, vì nó cũng đồng vô tâm vậy”.

Tôn giả Ly Việt yên lặng. Thấy vậy Tôn giả A Na Luật hỏi: “Sao Đại Đức chẳng đáp?”.

Tôn giả Ly Việt nói: “Cô ấy hỏi chỗ sở hành của chư Phật chẳng phải hàng Thanh Văn giải đáp”.

Vô Cấu Thí nói: “Chư Phật pháp cùng Thanh Văn pháp có khác chăng? Nếu có khác nhau thì vô vi có hai chăng? Chư Hiền Thánh đều hành vô vi, pháp vô vi không có sanh, nếu không có sanh thì không có hai, nếu không có hai thì như vậy, như vậy không hai, thế sao Đại Đức Ly Việt lại nói lời như trên ư!”.

Vô Cấu Thí hỏi Tôn giả A Na Luật: “Bạch Đại Đức! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài thiên nhãn đệ nhứt.Chỗ Ngài dùng thiên nhãn thấy là có vật hay không có vật? Nếu thấy có vật thì là kiến thường, còn thấy không có vật thì là kiến đoạn. Nếu rời cả hai bên thì là không có thấy”.

Tôn giả A Na Luật yên lặng. Thấy vậy Tôn giả A Nan hỏi: “Sao Đại Đức không đáp?”.

Tôn giả A Na Luật nói: “Lời cô ấy hỏi là để phá giả danh nên không thể dùng giả danh để đáp”.

Vô Cấu Thí hỏi Tôn giả A Nan: “Bạch Đại Đức! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là đa văn đệ nhứt. Đa văn ấy là thiệt nghĩa hay là văn tự? Nêu là thiệt nghĩa thì nghĩa ấy chẳng thể nói, nếu là pháp chẳng thể nói thì chẳng phải chỗ nghe biết của nhĩ thức, nếu chẳng phải nhĩ thức nghe thì lại là chẳng thể nói. Còn nếu do văn tự, như lời đức Thế Tôn dạy “y theo liễu nghĩa chẳng y theo văn tự”. Thế nên Đại Đức A Nan chẳng phải đa văn cũng chẳng phải liễu nghĩa”.

Tôn giả A Nan yên lặng. Thấy vậy Văn thù Sư Lợi Bồ Tát hỏi: “Sao Đại Đức chẳng đáp lời hỏi của Vô Cấu Thí?”.

Tôn giả A Nan nói: “Chỗ hỏi đa văn của cô ấy rời lìa văn tự, đây chẳng thể dùng âm thanh để đáp vấn nơi bình đẳng, bình đẳng chẳng phải tâm thức vì rời lìa tướng của tâm vậy. Đây chẳng phải là pháp của hàng học địa, tôi đâu đáp được, đây là chỗ mà đức Như Lai Pháp Vương đến bỉ ngạn vậy”.

PHẨM BỒ TÁT THỨ BA

Bấy giờ Vô Cấu Thí hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là tối đệ nhứt trong hàng Bồ Tát thâm giải. Ngài lấy thập nhị nhơn duyên thâm làm thâm hay lấy chơn thâm làm thâm?

Nếu lấy thập nhị nhơn duyên thâm làm thâm thì không có chúng sanh thành thập nhị nhơn duyên thâm, tại sao, vì thập nhị nhơn duyên thâm không lai không khứ chẳng phải chỗ biết của sáu thức nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, trong thâm ấy thập nhị nhơn duyên chẳng phải là hành pháp. Còn nếu lấy chơn thâm.làm thâm thì chơn chẳng phải thâm cũng không ai được chơn thâm”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Do thỉ tế thâm nên thâm”.

Vô Cấu thí nói: “Thỉ tế thì chẳng phải tế. Thế nên sự biết của Ngài cũng chẳng phải biết”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Do vô tri mà được vô đắc nên nói là thỉ tế vậy”.

Vô Cấu Thí nói: “Trong vô đắc ấy không có ngôn ngữ, quá đường ngôn ngữ không có chỗ nóỉ”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nói là mượn văn tự để nói”.

Vô Cấu Thí nói: “Chư Phật Bồ đề quá văn tự ngôn thuyết thế nên Bồ đề thì chẳng thể nói được”.

Bấy giờ Vô Cấu Thí hỏi Ngài Vô Si Kiến Bồ Tát: “Bạch Ngài Vô Si Kiến Bồ Tát! Ngài nói tôi quan niệm đến thành Xá Vệ nguyện cho trong thành những ai đáng được Vô thượng Bồ đề phàm họ thấy vật chi đều biến thành tượng Phật cả và khiến họ quyết định nơi Vô thượng Bồ đề.

Bạch Ngài nếu thấy Như Lai là dùntg sắc thân thấy hay dùng pháp thân thấy? Nếu do sắc thân thì không thấy Phật, tại sao, vì như đức Thế Tôn từng dạy “Nếu thấy sắc thân ta nghe âm thanh ta người nầy biên kiến chẳng phải thấy ta”. Còn nếu do pháp thân thì pháp thân chẳng thể thấy được, tại sao? Vì pháp thân rời kiến văn chẳng thể lấy được, thế nên chẳng thể thấy nghe pháp thân Phật”.

Vô Si Kiến Bồ Tát liền yên lặng, Bửu tướng Bồ Tát hỏi: “Sao Ngài chẳng đáp?”.

Vô Si Kiến Bồ Tát nói: “Cô ấy hỏi nơi pháp vô tánh, pháp vô tánh ấy chẳng thể nói nên tôi không đáp”.

Vô Cấu Thí nói: “Bạch Ngài! Tôi không hỏi pháp vô tánh, pháp vô tánh chẳng thể hỏi. Học rồi mà đáp thì không có ngại gì”.

Vô Cấu Thí hỏi Ngài Bửu Tướng Bồ Tát: “Bạch Ngài Bửu Tướng Bồ Tát! Ngài quan niệm rằng lúc tôi vào thành nguyện cho trong thành những nhà của hàng tộc tánh bửu tàng vọt lên đầy đủ bảy báu. Tâm bố thí bảy báu của Ngài có nhiễm trứơc hay không nhiễm trước? Nếu có nhiễm trước thì đồng với kẻ phàm phu, tại sao, vì phàm phu có ái trước vậy. Còn nếu không ái trước thì trong ái trước không có bố thí bảy báu”.

Bửu Tướng Bồ Tát liền yên lặng.

Vô Cấu Thí hỏi Ngài Ly Ác Thú Bồ Tát: “Bạch Ngài Ly Ác Thú Bồ Tát! Ngài quan niệm rằng lúc tôi vào thành, nguyện cho trong thành những ai đáng đọa ác đạo đều khiến thọ tội nhẹ tại hiện đời mau thoát khổ não. Bạch Ngài! Đức Như Lai nói nghiệp bất tư nghị. Nghiệp bất tư nghị nầy có thể mau dứt chăng. Nếu dứt được thì trái với lời của đức Như Lai. Còn nếu chẳng dứt thì sao lại thọ nhẹ mau dứt. Nếu có thể dứt thì trong pháp không có chủ thì Ngài là chủ. Và nếu có thể dứt thì cũng chẳng thể dứt”.

Ly Ác Thú Bồ Tát nói: “Vì tôi dùng nguyện lực nên hay khiến thọ nhẹ dứt mau”.

Vô Câu Thí nói: “Bạch Ngài! Các pháp như tánh chẳng thể dùng nguyện lực mà thọ được”.

Ly Ác Thú Bồ Tát liền yên lặng.

Vô Cấu Thí hỏi Ngài Trừ Chư Cái Bồ Tát! “Bạch ngài Trừ Chư Cái Bồ Tát! Ngài quan niệm tôi nguyện cho chúng sanh trong thành đều trừ hết ngũ cái. Ngài quan niệm nhập định ấy rồi có thể khiến chúng sanh chẳng bị ngũ cái che chướng”.

Bạch Ngài! Ở trong định ấy, mình tự tại hay là người tự tại?, Nếu mình tự tại thì không do đâu đến người, tất cả pháp không pháp nào đến kia cả, sao Ngài thập thiền định trừ được ngũ cái cho người. Nếu là người khác tự tại thì chẳng thể lợi ích cho ngườỉ”.

Trừ Chư Cái Bồ Tát nói: “Hạnh nầy dùng từ làm đầu”.

Vô Cấu Thí Bồ Tát nói: “Bạch Ngài! chư Phật đều thực hành tử hạnh. Bạch Ngài! Vã có đức Phật nào nhơn nơi chúng sanh chẳng lấy ngũ cái làm lo đó chăng?”.

Trừ Chư Cái Bồ Tát liền yên lặng.

Vô Cấu Thí hỏi Ngài Quan thế Âm Bồ Tát: “Bạch Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát! Ngài quan niệm rằng nguyện cho chúng sanh trong thành những kẻ bị tù ngục trói nhốt mau được giải thoát, kẻ sắp bị giết được cứu sống, kẻ bị khủng bố được vô úy. Bạch Ngài! Xét về nói rằng bố úy ấy là có nắm lấy hay không nắm lấy. Nếu là có nắm lấy thì kẻ phàm phu cũng có nắm lấy vì thế nên chẳng phải. Còn nếu là không nắm lấy thì không chỗ bố thí. Trong pháp không bố thí đâu được có trừ dứt”.

Quan Thế Âm Bồ Tát liền yên lặng.

Biện Nghiêm Bồ Tát hỏi Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát: “Sao Ngài không giải đáp lời hỏi của Vô Cấu Thí?”.

Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Cô ấy chẳng hỏi pháp sanh diệt nên không thể đáp được”.

Vô Cấu Thí hỏi Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát: “Bạch Ngài! Chúng có vô sanh vô diệt hỏi chăng?”.

Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Không có”.

Vô Cấu Thí nói: “Trong vô sanh vô diệt bèn không văn tự ngôn thuyết. Người trí huệ ở nơi không văn tự mượn văn tự nói mà không trước văn tự, pháp tánh vô ngại. Vì thế người trí huệ chẳng ngại văn tự”.

Vô Cấu Thí hỏi Ngài Biện Nghiêm Bồ Tát: “Bạch Ngài Biện Nghiêm Bồ Tát! Ngài quan niệm rằng tôi nguyện người trong thành ai thấy tôi đều được biện tài dùng diệu kệ hỏi đáp nhau. Bạch Ngài! Biện tài được Ngài thí cho ấy là do giác mà khởi hay do ái mà khởi! Nếu do giác khởi thì tất cả pháp hữu vi đều do giác quán khởi thế nên chẳng phải tịch tĩnh. Nếu do ái khởi thì chỗ thí cho ấy luống hư”.

Biện Nghiêm Bồ Tát nói: “Đó là lúc tôi ban sơ phát tâm Bồ đề nguyện ai thấy tôi đều được biện tài dùng diệu kệ hỏi đáp nhau”.

Vô Cấu Thí hỏi: “Bạch Ngài! Hiện nay chính Ngài có tâm nguyện Bồ đề chăng? Nếu chính hiện có thì là thường kiến. Còn nếu hiện nay không có thì chẳng thể đem thí cho người, thì sở nguyện luống hư”.

Biện Nghiêm Bồ Tát liền yên lặng.

Vô Cấu Thí hỏi Ngài Vô Si Hành Bồ Tát: “Bạch Ngài Vô Si Hành Bồ Tát! Ngài quan niệm nguyện cho chúng sanh trong thành ai thấy tôi thì được vô si kiến quyết định nơi Vô thượng Bồ đề. Bạch Ngài! Bồ đề ấy là có hay là không? Nếu là có thì là hữu vi Bồ đề chấp nơi biên kiến. Nếu là không thì là hư vọng cũng sa vào biên kiến”.

Vô Si Hành Bồ Tát nói: “Bồ đề ấy gọi là trí”.

Vô Cấu Thí nói: “Trí ấy gọi là sanh hay gọi là vô sanh? Nếu gọi là sanh thì chẳng phải khéo thuận tư duy mà sanh, là hữu vi trí chỗ biết của phàm phu. Nếu gọi là vô sanh thì trong vô sanh vô sở hữu, nếu vô sở hữu là vô phân biệt. Bồ đề của Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát và Như Lai đều vô phân biệt, kẻ phàm phu phân biệt Bồ đề, người trí huệ thì vô phân biệt”.

Vô Si Hành Bồ Tát liền yên lặng.

Bấy giờ Tôn giả Tu Bồ Đề bảo chư đại Thanh Văn và chư đại Bồ Tát rằng: “Nầy các Ngài! Chúng ta nên trở về mà chẳng nên vào thành Xá Vệ khất thực. Tại sao? Vì nàng Vô Cấu Thí nầy nói tức là pháp thực của người trí huệ. Nay chúng ta vui thích pháp thực mà chẳng cần đoàn thực”.

Vô Cấu Thí nói với Tôn giả Tu Bồ Đề: “Bạch Đại Đức! Như nói các pháp không thượng không hạ, trong pháp ấy sẽ cầu mong gì mà đi hành khất ư?

Bạch Đại Đức! Pháp chẳng hí luận là sở hành của Tỳ Kheo, chẳng nên ưa hí luận. Đây là pháp vô y chẳng phải sở hành của người y chỉ, đây là sở hành của Hiền Thánh không có thối chuyển”.

Bấy giờ tám đại Thanh Văn, tám đại Bồ Tát, năm trăm Bà La Môn Phạm Thiên v.v…Vô Cấu Thí, vua Ba Tư Nặc và hàng đại chúng đều đồng đến chỗ đức Phật, đảnh lễ chưn đức Phật hữu nhiễu ba vòng, rồi ngồi một phía.

Vô Cấu Thí riêng nhiễu bảy vòng lễ chưn Phật chắp tay đứng nói kệ hỏi Phật:

“Tôi hỏi đấng vô Đẳng

Ứng Cúng Vô Thượng Giác

Ban cam lộ chúng mừng

Bồ Tát hành thế nào

Thế nào tại đạo thọ

Phá ma hàng lao oán

Thế nào động trời đất

Núi đồi và rừng cây

Thế nào phóng quang minh

Hiển phát vô lượng xung

Nguyện đại bi ThếTôn

Nói đúng hạnh Bồ Tát

Thế nào được tổng trì

Như Lai diệu âm thanh

Thế nào hay tu trì

Định thắng diệu thanh tịnh

Thế nào các người tu

Hay được sức thần túc

Nay khuyến thỉnh Thế Tôn

Nói Bồ Tát thiệt hạnh

Thế nào được chuyên niệm

Và cùng tâm kiên cố

Thế nào được ứng biện

Vi diệu thành cụ túc

Thế nào được thuận lý

Gồm đầy đủ các nghĩa

Khá nói pháp vi diệu

Trí giả không chỗ ngại

Thế nào ưa bố thí

Tịnh giới và nhẫn nhục

Khéo tinh tiến thiền định

Trí huệ soi thế gian

Thê nào nhớ túc mạng

Thiên nhãn minh thấy rõ

Thiên nhĩ tha tâm trí

Thần túc đến các cõi

Thế nào chẳng ở thai

Hóa sanh trong hoa sen

Hằng ở trước chư Phật

Khen pháp không vô ngã

Thế nào oan thân đồng

Dứt ái và nhiễm uế

Chí hành không cao hạ

Dường như là gió đất

Lợi suy cùng hủy dự

Xưng cơ và khổ lạc

Thế nào bỏ tám pháp

Ở đời như mặt nhựt

Thế nào chẳng siểm tránh

Trừ ngã bỏ kiêu mạn

Tịch tĩnh ở thiền định

Trí giả ưa thiệt nghĩa

Thế nào chẳng ưa thích

Vợ con và tài bửu

Thế nào người tu hành

Thích ở chỗ vắng lặng

Thế nào như chim bay

Cũng như lân một sừng

Thế nào ưa chánh pháp

Và ưa tâm hỷ duyệt

Thế nào các người trí

Quán địa, thủy, hỏa, phong

Không khuynh động phân biệt

Trụ thiền như hư không

Chẳng làm hạnh phi pháp

Chẳng ưa nhìn việc người

Thà xả bỏ thân mạng

Trọn chẳng bỏ lìa pháp

Thề nào nơi Bồ đề

Tưởng niệm như Thế Tôn

Tưởng như Thế Tôn rồi

Hay phát nguyện Bồ đề

Thế nào được Tịnh độ

Và cùng thanh tịnh Tăng

Trí giả được trường thọ

Danh xưng và an lạc

Phương tiện đến bỉ ngạn

Thấy đế không thủ chứng

Hay độ vô lượng chúng

Khuyên ưa tu căn lành

Thế nào được đoan chánh

Và được nơi hóa sanh

Được trí huệ tài bửu

Hay biết tâm mọi người

Thế nào nhớ đời trước

Thường hội cùng chư Phật

Trong ngàn vạn ức kiếp

Hằng chẳng sanh chỗ nạn

Thế nào được tùy hảo

Ba mươi hai tướng tốt

Thế nào được từ biện

Và được nơi ứng biện

Thế nào tu Tịnh độ

Thành tụ chúng Tỳ Kheo

Tùy thích nguyện nước nào

Hay được sanh nước ấy

Bồ Tát tu hạnh gì

Hay được sắc danh xưng

Được lực tinh tiến thẩy

Thế nào được bất hoại

Thế nào chẳng dụ dự

Hay làm hạnh Bồ Tát

Bỏ lìa các diệu hối

Vì chúng sanh thuyết pháp

Ở trong Phật Pháp Tăng

Thế nào được tối thắng

Thà xả thân mạng mình

Mà chẳng hủy báng pháp

Phật không gì chẳng biết

Đời nay và vị lai

Nguyện đại trí Thế Tôn

Tuyên nói hạnh Bồ Tát”.

PHẨM BỒ TÁT HẠNH THỨ TƯ

Đức Thế Tôn khen rằng: “Lành thay lành thay Vô Cấu Thí! Vì nhiều an lạc lợi ích chúng sanh và vì thương xót Trời Người thế gian mà ngươi hỏi đức Như Lai bao nhiêu hạnh của đại Bồ Tát như vậy. Lắng nghe lắng nghe khéo suy nghĩ ta sẽ vì ngươi mà nói”.

Vô Cấu Thí cùng đại chúng đồng xướng thiện tại nguyện ưa thích được nghe.

Đức Thế Tôn phán dạy: “Nầy Vô Cấu Thí! Bồ Tát thành tựu bốn pháp hay phá các ma: với lợi dưỡng của người chẳng sanh lòng ganh ghét, bỏ lìa lưỡng thiệt, khuyên nhiều chúng sanh tu căn lành, với tất cả chúng sanh phát lòng từ bi”. Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Chẳng sanh lòng ganh ghét

Lìa bỏ lời lưỡng thiệt

Hay dạy nhiều chúng sanh

Trồng gốc cây pháp lành

Hay tu tâm từ rộng

Khắp đều cả mười phương

Khéo làm bốn điều nầy

Dẹp được các ma oán

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay phóng quang minh đến vô lượng cõi Phật: Hay cúng thí đèn sáng, lúc pháp sắp diệt hay hộ trì chánh pháp, vì chúng sanh phóng dật và sa chỗ nạn mà thuyết pháp, hay đem anh lạc bửu sức cúng Tháp miếu Phật”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Nếu hay thí đèn sáng

Trong mạt pháp hộ pháp

Khai thị nạn phóng dật

Bửu sức cúng tháp Phật

Do đây mà Bồ Tát

Hay phóng tịnh quang minh

Đến vô lượng cõi Phật

Chiếu soi không bờ mé

Nhờ quang minh được vui

Đều phát tâm vô thượng

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay chấn động vô lượng vô biên thế giới: như sở thuyết thật hành, được thâm pháp nhẫn kiên trì thiện pháp, dạy vô lượng chúng sanh hành Vô thượng Bồ đề”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như sở thuyết tu hành

Khéo hiểu thâm pháp nhẫn

Muốn được pháp bạch tịnh

Kiên trì pháp diệu hạnh

Hay dạy vô lượng chúng

Phát tâm đại Bồ đề

Thật hành bốn pháp nầy

Hay chấn động thế giới

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được đà la ni: hay thí cho các thứ cần dùng tịnh diệu, trang sức các thể nữ ai cần thì thí cho, thường dùng các thứ pháp tán thán chư Như Lai, thân cận người nhiều tu tập Bát Nhã Ba la mật”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Làm các thứ bố thí

Hay được đà la ni

Trang nghiêm thể nữ đẹp

Tùy ý người cần dùng

Thảy đều cấp đầy đủ

Thường ca ngợi Như Lai

Tu những thiệt trí huệ

Được Thế Tôn hứa khả

Do nơi bốn điều nầy

Hay được đà la ni

Trong trăm ngàn ức kiếp

Nghe pháp trọn chẳng quên

Mười phương Phật thuyết pháp

Hay ghi nhớ thọ trì

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay được tam muội: nhiều chán sợ sanh tử, thường ưa chỗ nhàn tĩnh, thường siêng tinh tiến, khéo thành tựu được các việc làm”

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Bỏ rời các loài sanh

Đi riêng như kỳ lân

Thiện nam tử siêng làm

Thành tựn các công việc

Trí giả hay thành tựu

Bốn pháp thắng diệu nầy

Thân cận nơi Bồ đề

Cầu được pháp tối thắng

Người có tâm tịch tĩnh

Hay được các tam muội

Giác ngộ thắng Bồ đề

Chỗ đi của chư Phật.

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay được thần túc: vì thân nhẹ nhàng, vì tâm nhẹ nhàng, vì không y chỉ trong tất cả pháp, vì tiếp thọ bốn giới làm không giới”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Thân nhẹ tâm càng nhẹ

Trí giả chẳng trước pháp

Tiếp thọ bốn giới nầy

Cùng không giới bằng đồng

Người đủ bốn pháp nầy

Hay được thừa thần thông

Một niệm đến ức cõi

Cúng dường vô lượng Phật

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay thành tựu đoan chánh đẹp lạ: trừ bỏ tham dục chẳng sân hận, ưa làm sạch tháp miếu Phật dùng đồ thơm đẹp để cúng dường, trụ oai nghi trì giới thường vui vẻ hỏi thăm, chẳng chê người thuyết pháp hằng tưởng như Thế Tôn”.

Đức thế Tôn nói kệ rằng:

“Chẳng sân hại người khác

Bỏ lìa hạnh tham dục

Quét rửa tháp miếu Phật

Cung kính dâng thơm đẹp

Thường chấp trì tịnh giới

Pháp ý hỏi thăm trước

Với pháp sư kính trọng

Có ý tưởng như Phật

Hành bốn điều lành nầy

Thì gọi người dũng kiện

Đoan chánh xinh đẹp nhất

Ai thấy cũng đều khen.

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay được hóa sanh: khắc chạm hoa sen đặt tượng Phật ngồi lên, dùng các hoa sen xanh vàng đỏ trắng và những hoa thơm đẹp khác đầy bụm tay rải lên Phật và tháp miếu, chí nguyện lợi ích vô lượng chúng sanh hằng hòa thuận kính yêu chẳng chê người dở, mình gieo trồng căn lành để lợi ích an lạc nhiều chúng sanh thoát sanh tử khổ não vì nguyện thành Vô thượng Bồ đề vậy”.

Đức thế Tôn nói kệ rằng:

“Khắc hoa đặt tượng Phật

Các thứ hoa cúng dường

Lợi ích chẳng hại người

Được hóa sanh cõi Phật

Hằng phát hoằng thệ nguyện

Độ mười phương chúng sanh

Dùng bốn diệu hạnh nây

Hằng sanh Phật tịnh độ

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay được giàu có lớn: chẳng nghịch ý người xin, nơi đồ vật thí cho chẳng luyến tiếc, hằng cầu nguyện chúng sanh được nhiều của báu, bỏ rời kiến chấp thuận nơi chánh tín”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Bố thí chẳng trái nghịch

Nơi của không luyến tiếc

Tin hiểu các Phật pháp

Đời đời được của báu

Tin hiểu không nịnh ganh

Chẳng rêu rao lỗi người

Chuyên lòng một niềm tin

Do đây được của báu

.

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay được trí huệ: ở trong pháp khác chẳng ganh ghét, nói pháp trừ lỗi khiến không nghi hối, với người siêng tinh tiến khuyên họ chẳng thôi bỏ, tự mình thường thích nhiều tu pháp không”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Chẳng ghét chánh pháp khác

Dạy người trừ nghi hối

Thường dìu dắt chúng sanh

Tu không hạnh của Phật

Trí giả thích pháp nầy

Được trí huệ danh xứng

Khéo hiểu lời Phật nói

Mau thành Lưỡng Túc Tôn.

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì ghi nhớ túc mạng: học vấn tụng tập có người quên sót thì làm cho họ nhớ biết, người quên thì nói lại cho họ, hằng phát lời thích ý hay cho người ưa nghe, thường hành pháp thí chẳng để thôi bỏ vì thoát sanh tử xu hướng Niết bàn vậy, nguyện như Thiện Tài nhập thiền phương tiện”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Người quên khiến nhiớ biết

Hằng nói lời thích ý

Thuyết pháp chẳng mỏi mệt

Thường tu các chánh định

Do nơi bốn pháp nầy

Đều được túc mạng trí

Nhớ được vô lượng kiếp

Mau ngộ chỗ Phật đi.

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì thường gặp chư Phật: thà bỏ thân mạng chứ chẳng hủy báng chánh pháp, thà bỏ thân mạng chớ chẳng hủy báng Bồ Tát, thà bỏ thân mạng chớ chẳng thân cận ác tri thức, nhớ tưởng chư Phật không hề chán đủ”.

“Chẳng hủy báng Bồ đề

Cũng chẳng hủy Bồ Tát

Thường rời xa ác hữu

Niệm Phật luôn chẳng chán

Đại Đức hành hạnh nầy

Thường được gặp chư Phật

Lúc chưa được thành Phật

Hằng cùng chư Phật hội.

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thân ba mươi hai tướng: mang các trân bửu dâng tháp miếu Phật, dùng các thứ dầu thơm xoa nền tòa tháp Phật và dùng vòng hoa đẹp nghiêm sức tháp miếu, dùng các thứ kỹ nhạc để cúng dường, thường hầu cận Hiền Thánh không hề rời xa”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Mang báu vật cúng tháp

Dầu thơm thoa nền đài

Hoa đẹp các kỹ nhạc

Hầu hạ gần hiền thánh

Được thân tướng đoan nghiêm

Đủ ba mươi hai tốt

Do đây được các tướng

Để trang nghiêm thân Phật.

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được tám mươi tùy hình hảo:cổi y thắng diệu để trải pháp tọa cung cấp hầu hạ tất cả trọn không nhàm mỏi, đến chỗ thuyết pháp không có lòng tranh luận hơn người, cung kính đại chúng chỉ tưởng như Phật, khuyên nhiều chúng sanh phát tâm Bồ để”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Diệu y phục trải tọa

Cúng dường không chán mỏi

Chẳng tranh luận pháp sư

Khuyên chúng phát đạo tâm

Làm được các điều này

Mau thành tùy hình hảo

Bồ Tát thành hạnh nầy

Đủ tám mươi vẻ đẹp.

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được giỏi ứng biện: thọ trì thân cận Bồ Tát pháp tạng, ngày đêm sáu thời tụng Tam Âm kinh, chư Phật Bồ đề vô sanh vô diệt đời khó tin mà có thể thọ trì đọc tụng, rộng vì người giảng nói khiến họ vui thích chẳng tiếc thân mạng”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Hộ trì Bồ Tát tạng

Dũng mãnh tụng Tam Âm

Vô sanh đời khó tin

Phương tiện nói khiến mừng

Chẳng mến tiếc thân mạng

Trì chánh pháp của Phật

Không nghi lự mà làm

Tối thượng thắng Bồ đề

Tu pháp thậm thâm nầy

Thì hay được ứng biện

Ví như vòng hoa đẹp

Trời Người đều ưa nhìn.

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp thì được thanh tịnh độ: vì chẳng tật đố, vì tâm bình đẳng, vì hộ trì Bồ đề hạnh, vì chẳng thân cận bốn bộ chúng”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Chẳng ganh với người khác

Thấy người lợi vui mừng

Tâm bình đẳng hành từ

Hóa chúng không nhiễm trước

Hành bốn vô lượng nầy

Người trí khéo thủ hộ

Được tịnh độ không khó

Mau thành Vô thượng đạo.

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thanh tịnh chúng: chẳng hy vọng đồ chúng của người, kẻ chẳng hòa thuận thì nhiếp khiến hòa giải, với người học vấn tụng tập thì cung câp đồ dùng, rời bỏ lưỡng thiệt.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Trọn chẳng mong chúng người

Kẻ ly làm cho hiệp

Cấp người học thiếu thốn

Chẳng chia lìa chúng sanh

Làm được bốn hạnh nầy

Thì được thanh tụng chúng

Vì thanh chúng nên làm

Cực khổ cũng chẳng bỏ

Nầy Vô Cấu Thí! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì nguyện muốn sanh Phật độ nào liền tùy nguyện vãng sanh: đối với lợi dưỡng danh dự của người chẳng sanh lòng ganh ghét, chuyên tâm tu tập sáu Ba la mật, với tất cả Bồ Tát tưởng như Phật, từ sơ phát tâm nhẫn đến ngồi đạo tràng thường dùng tâm bình đẳng quan sát trọn chẳng vì lợi dưỡng danh dự mà siểm khúc dối khen tặng”.

Đức thế Tôn nói kệ rằng:

“Chẳng ganh danh lợi người

Cầu thanh tịnh lục độ

Xem Bồ Tát như Phật

Trọn chẳng nịnh cầu danh

Bồ Tát hành điều nầy

Hay thấy mười phương cõi

Tùy tâm mình sở nguyện

Liền được sanh Tịnh độ”.

Bấy giờ Vô Cấu thí bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như hạnh Bồ Tát đã được nói, tôi sẽ phụng hành. Trong những hạnh Bồ Tát đã được đức Thế Tôn dạy, nếu có một hạnh không làm thì tức là khi dối chư Phật thuyết pháp ở mười phương”.

Tôn giả Đại Mục Kiền Liên bảo Vô Cấu Thí rằng: “Cô dám ở trước đức Phật mà sư tử hống như vậy há chẳng biết rằng hạnh Bồ Tát khó làm được ư! Và trọn chẳng do từ nữ thân mà được Vô thượng Bồ đề”.

Vô Cấu Thí nói: “Nay tôi ở trước đức Phật phát nguyện thành thiệt rằng: Nếu đời vị lai tôi sẽ được thành Phật Như Lai Đẳng Chánh Giác đủ mười đức hiệu thì nguyện khiến cõi Đại Thiên chấn động sáu cách, không làm não loạn các chúng sanh. Như các hạnh Bồ Tát đã được đức Thế Tôn dạy tôi trọn đời thật hành, nguyện khiến hư không mưa các hoa trời, trăm ngàn kỹ nhạc chẳng đánh mà tự kêu và xin khiến nữ thân tôi đây biến thành đồng tử mười sáu tuổi”.

Vô Cấu Thí phát nguyện thành thiệt xong tức thì cõi Đại thiên chấn động sáu cách, hư không mưa hoa trời, trăm ngàn nhạc trời tự kêu và Vô Cấu Thí biến thành đồng tử mười sáu tuổi.

Tôn giả Đại Mục Kiền Liên trịch y vai bên hữu, gối hữu chấm đất chắp tay bạch đức Phật rằng: “Nay tôi quy mạng chư Phật chư bồ Tát từ sơ phát tâm nhẫn đến đạo tràng.

Bạch đức Thế Tôn! Cô gái nầy mà có sức oai đức thần túc lớn như vậy, hay phát đại nguyện, đã phát nguyện rồi tùy nguyện đều thành”.

Đức Phật dạy: “Đúng như vậy.Nầy Đại Mục Kiền Liên! Chư Bồ Tát từ sơ phát tâm nhẫn đến đạo tràng được Trời Người lễ kính như tháp miếu Phật, là phước điền vô thượng của Thanh Văn và Bích Chi Phật”.

Liền đó đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Theo thường pháp lúc chư Phật mỉm cười thì có ánh sáng nhiều màu xanh vàng đỏ trắng hồng tía pha lê từ miệng đức Phật phóng ra chiếu suốt vô lượng vô biên thế giới làm cho ánh sáng của cung điện thiên ma và nhựt nguyệt đều bị ẩn khuất. Đức Phật nhiếp ánh sáng ấy về nhập vào đảnh đức Phật.

Tôn giả A Nan chỉnh y phục lại trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay hướng lên Phật nói kệ hỏi rằng:

“Thiên Long phạm âm sư tử hống

Tiếng ca lăng tần tiếng sấm nổ

Trừ tham sân si sanh vui đẹp

Nguyện đấng thập lực nói duyên cười

Chấn động sáu cách không não loạn

Mưa hoa trời đẹp vui lòng chúng

Thế Tôn xô dẹp các ngoại đạo

Dường như sư tử phục dã can

Ngưỡng mong Thế Tôn vì tôi nói

Nhơn duyên vì đâu Phật mỉm cười

Ắnh sáng nhựt nguyệt châu vạn ức

Ánh sáng Thiên Long cùng Phạm Vương

Thích Ca miệng phóng tịnh quang minh

Trùm các quang minh Phật quang hơn

Bạch hào chặng mày như ngọc trắng

Viên mãn mềm mịn dường y trời

Bạch hào phóng quang chiếu vô lượng

Xin nói cớ chi phóng quang nầy

Thế Tôn răng trắng sạch không nhơ

Vuông bằng khít đều như ngọc tuyết

Miệng Phật phóng ra sáng nhiều màu

Xanh vàng đỏ trắng tía pha lê

Giả sử thế giới nhựt nguyệt hoại

Đất đầy hư không chẳng chỗ trống

Tánh nước biến được làm thành lửa

Tánh lửa cũng biến được thành nước

Biển cả làm cho đều khô cạn

Thiệt ngữ của Phật trọn chẳng hai

Tất cả chúng sanh trong mười phương

Giả sử đồng thời thành Duyên Giác

Mỗi mỗi Duyên Giác họp lời hỏi

Trăm ngàn vạn thứ trải ức kiếp

Đồng tập họp nhau trước Thế Tôn

Đều dùng dị âm đồng thời hỏi

Như Lai liền dùng nhứt âm đáp

Đều đứt hết tất cả chỗ nghi

Thành tựu trí huệ đến bờ kia

Tất cả trí huệ được trang nghiêm

Đấng Tối Thắng đủ băm hai tướng

Đấng oai đức xin giải đáp

Thế Tôn cớ chi hiện mỉm cười

Thọ ký Bồ đề cho ai đây

Chư Thiên người đời đều muốn nghe

Mong được Như Lai tuyên dạy rõ”.

Đức Phật phán: “Nầy A Nan! Ông có thấy Vô Cấu Thí nầy phát nguyện thành thiệt chấn động cõi Đại thiên chăng?

– Bạch đức thế Tôn! Đã thấy.

– Nầy A Nan! Vô Cấu Thí Bồ Tát nầy từ lúc phát tâm đến nay đã tám vạn a tăng kỳ kiếp tu hạnh Vô thượng Bồ đề. Vô cấu Thí Bồ Tát nầy tu hạnh Bồ Tát đến sáu mươi kiếp rồi sau đó Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử mới phát tâm Bồ đề. Nầy A Nan! Như Văn Thù Sư Lợi v.v…Tám vạn bốn ngàn Đại Bồ Tát có bao nhiêu công đức trang nghiêm Phật độ. Vô Cấu Thí Bồ Tát cũng đồng như vậy không khác”.

Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói với Vô Cấu Thí Bồ Tát: “Nầy thiện nam tử! Từ lâu Ngài đã phát tâm Bồ đề sao Ngài không chuyển thân nữ nhơn?”.

Vô Cấu Thí Bồ Tát bảo Tôn giả Đại Mục Kiền Liên: “Đức Thế Tôn thọ ký Tôn giả là thần túc đệ nhứt sao Tôn giả chẳng chuyển nam thân?”.

Tôn giả Đại Mục Kiền Liên liền yên lặng.

Vô Cấu Thí Bồ Tát nói: “Nầy Tôn giả! Cũng chẳng do nữ thân được Vô thượng Bồ đề, cũng chẳng do nam thân được Vô thượng Bồ đề. Tại sao? Vì Bồ đề vô sanh nên không có được vậy”.

PHẨM THỌ KÝ THỨ NĂM

Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn!Thật chưa từng có, Vô Cấu Thí Bồ Tát nầy hiểu pháp thậm thâm, dùng sức thệ nguyện làm thành các sở nguyện”.

Đức Phật bảo: “Đúng như lời Văn Thù Sư Lợi nói. Vô Cấu Thí Bồ Tát nầy đã từng ở chỗsáu mươi ức chư Phật mà tu không tam muội, ở chỗ tám mươi ức chư Phật mà tu vô sanh pháp nhẫn, ở chỗ ba mươi ức chư Phật mà hỏi pháp thậm thâm, đã từng đem y phục ẩm thực cúng dường tám mươi ức chư Phật và hỏi về phân biệt biện ấn tam muội nầy.

Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn vì Bồ đề đem đồ trân bửu đầy trong hằng hà sa thế giới bố thí chẳng bằng thọ trì kinh nầy đọc tụng thông thuộc rộng nói cho người nhẫn đến biên chép được công đức tối thượng tối thắng, huống là tu hành đúng như lời. Tại sao?Vì hay thọ trì hạnh Bồ đề của chư Bồ Tát vậy”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Pháp Vương Tử bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nên gọi tên kinh nầy là gì và thọ trì thế nào?”.Đức Phật dạy: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nên gọi là kinh Phân BiệtThuyết Ứng Biện, cũng gọi là kinh Thuyết Tam Muội Môn. Nên phụng trì như vầy”.

Lúc đức Phật nói kinh nầy, tám vạn ức chúng sanh chư Thiên và người đều phát tâm Vô thượng Bồ đề quyết định chẳng thối chuyển.

Bấy giờ Biện Nghiêm Bồ Tát bạch đức Phật: “Vô Cấu Thí Bồ Tát nầy thời gian nào sẽ thành Vô thượng Bồ đề?”.

Đức Phật phán: “Nầy Biện Nghiêm! Vô Cấu Thí Bồ Tát nầy quá số kiếp cúng dường quá số chư Phật xong sẽ được thành Phật hiệu Vô Cấu Quang Tướng Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác đủ mười đức hiệu, thế giới hiệu Vô Lượng Đức Trang Nghiêm, thuần Đại thừa Bồ Tát không có hàng Nhị thừa Thanh Văn Bích Chi Phật, cõi ấy nghiêm sức vi diệu hơn các cõi trời”.

Vô Cấu Thí Bồ Tát nghe đức Phật thọ ký, tâm thanh tịnh hớn hở vọt lên hư không cao hằng tám mươi ức cây đa la, phong quang minh lớn chiếu trăm ngàn ức thế giới chư Phật. Ngay trên đảnh đức Thế Tôn hóa làm tám vạn bốn ngàn các thứ lọng báu trang nghiêm đẹp lạ bằng thiên bửu. Liền ở trong hư không dùng sức vô lượng thần túc cúng dường lễ bái vô lượng chư Phật mười phương rồi trở về chỗ đức Phật đứng tại một phía.

Bấy giờ Bà La Môn Phạm Thiên và năm trăm Bà La Môn nghe đức Phật thọ ký vô thượng Bồ đề cho Vô Cấu Thí Bồ Tát và thấy sức vô lượng thần túc, đều hớn hở vui mừng đồng thanh nói kệ ca ngợi đức Phật:

“Người hay cung kính Phật

Được lợi ích đệ nhứt

Phát tâm cầu Bồ đề

Là Phật trí đệ nhứt

Xưa chúng tôi tạo ác

Nay sanh nhà tà kiến

Thấy Phật và chúng Tăng

Miệng phát ra lời ác

Nay tôi thành tâm hối

Tội ác khẩu đã phạm

Thấy chư Phật tử hiền

Cho là điềm chẳng tốt

Nếu chẳng thấy Như Lai

Tối tôn trong trời người

Thì uổng thọ thân người

Uổng ăn uống để sống

Tôi và Vô Cấu Thí

Xuất thành đi tế tự

Vô Cấu thấy Phật tử

Kính trọng và tán thán

Chúng tôi thấy tán thán

Liền quở chỗ được khen

Chúng tôi liển hỏi có

Đã từng thấy Phật chưa

Cô ấy đáp chúng tôi

Sơ sanh được bảy ngày

Nghe chư Thiên khen Phật

Cô ca ngợi Như Lai

Chơn thiệt không sai khác

Chúng tôi nghe khen xong

Liền phát tâm tối thắng

Cầu Bồ đề Vô thượng

Vì tôi nghe hiệu Phật

Được tỏ ngộ túc nghiệp

Liền đến lạy Thế Tôn

Để cầu pháp tối thắng

Thấy Phật kính lạy rồi

Nghe pháp tối vô thượng

Thấy đấnh Thiên Nhơn Tôn

Cầu thoát ly khổ tế

Pháp được đức Phật nói

Chơn thiệt hay độ đời

Chúng tôi học pháp ấy

Để được pháp vô thượng

Nghe công hạnh Bồ Tát

Để được chư Phật pháp

Chúng tôi cũng nên tập

Để được thành Phật đạo

Nói pháp môn xuất yếu

Hạnh của Bồ Tát làm

Tôi cũng hướng môn ấy

Được thế gian kính lễ

Phật biết kia thành tâm

Vui vẻ mà mỉm cười

A Nan liền bạch Phật

Xin nói duyên cớ cười”.

Đức Phật nói kệ bảo A Nan:

Năm trăm Bà La Môn

Cùng phạm chí Phạm Thiên

Đồng chung trong một kiếp

Kế nhau thành Chánh giác

Từng ở đời quá khứ

Cúng đủ năm trăm Phật

Từ nay do tu hành

Sẽ thấy ức số Phật

Trong tám mươi ức kiếp

Trọn chẳng sa nạn xứ

Ở trong mỗi mỗi kiếp

Sẽ thấy ức số Phật

Rồi sau đó sẽ thành

Đấng Tối Thắng Lưỡng Túc

Đều sẽ đồng một hiệu

Phạm Quang Minh Như Lai

Thọ mạng cũng đều đồng

Đủ tám mươi ức năm

Cõi nước đều đồng bằng

Đều tám mươi ức Tăng

Hóa độ vô lượng chúng

Lợi ích chúng sanh rồi

Sẽ nhập đại Niết bàn

Chứng tịch tĩnh diệt độ”.

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Vô Cấu Thí đại Bồ Tát và chư đại chúng, phạm chí Phạm Thiên năm trăm đại sĩ, vua Ba Tu Nặc, chư đại Thanh Văn, Thiên Long Bát Bộ Nhơn và Phi Nhơn, nghe lời đức Phật dạy đều rát vui mửng tín thọ phụng hành.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Bảo Tích tập 2 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 7 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 8 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 9 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 1 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 3 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 5 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích (trọn bộ 9 tập) – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 4 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (Trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 2 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 1 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikaya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 3 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư – HT Thích Trí Quảng soạn - Kinh Tạng
  • Kinh Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Nhất A-Hàm – HT Thích Thanh Từ dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng