1
2

Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương

Việt dịch: Nguyên Thuận

QUYỂN 1

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ, trong vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc, cùng với đại Tỳ-kheo Tăng, 1.250 vị, và chư Bồ-Tát Ma-ha-tát. Tên các vị ấy là:

– Kim Cang Thủ Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Trí Kiến Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Kim Cang Quân Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Bí Mật Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Hư Không Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Nhật Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Vô Động Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Bảo Thủ Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Chứng Chân Thường Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Trừ Cái Chướng Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Đại Cần Dũng Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Dược Vương Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Chấp Kim Cang Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Hải Tuệ Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– Trì Pháp Bồ-Tát Ma-ha-tát,

– và các vị khác như thế; 80 câu-chi Bồ-Tát đều đến hội họp.

Khi ấy còn có các vị thiên tử từ 32 cõi trời cũng đều đến hội họp. Đại Tự Tại Thiên và Na-la-diên Thiên làm bậc thượng thủ. Cùng với Đế-thích Thiên Vương, thiên chủ Đại Phạm Thiên Vương của Thế Giới Ta-bà, nhật thiên tử, nguyệt thiên tử, phong thiên tử, thủy thiên tử, và các vị thiên chúng khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn long vương, tên các vị ấy là:

– A-bát-la-la Long Vương,

– Ê-la-bát-đát-rị Long Vương,

– Để-minh-nghi-lệ Long Vương,

– Chủ Địa Long Vương,

– Bách Đầu Long Vương,

– Hổ-lỗ-tư-noa Long Vương,

– Đắc-xoa-kế Long Vương,

– Ngưu Đầu Long Vương,

– Lộc Đầu Long Vương,

– Nan-đà Long Vương,

– Bạt-nan-đà Long Vương,

– Ngư Tử Long Vương,

– Vô Nhiệt Não Long Vương,

– Sa-nghiệt-rị-noa Long Vương,

và các vị long vương khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn càn-thát-bà vương, tên các vị ấy là:

– Cổ Âm Càn-thát-bà Vương,

– Diệu Thanh Càn-thát-bà Vương,

– Thiên Tý Càn-thát-bà Vương,

– Thiên Chủ Càn-thát-bà Vương,

– Thân Hoan Hỷ Càn-thát-bà Vương,

– Chủng Chủng Nhạc Âm Càn-thát-bà Vương,

– Trang Nghiêm Càn-thát-bà Vương,

– Hiện Đồng Tử Thân Càn-thát-bà Vương,

– Diệu Tý Càn-thát-bà Vương,

– Pháp Lạc Càn-thát-bà Vương,

và các vị càn-thát-bà vương khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn khẩn-na-la vương, tên các vị ấy là:

– Diệu Khẩu Khẩn-na-la Vương,

– Bảo Quan Khẩn-na-la Vương,

– Hi Di Khẩn-na-la Vương,

– Hoan Hỷ Khẩn-na-la Vương,

– Luân Trang Nghiêm Khẩn-na-la Vương,

– Châu Bảo Khẩn-na-la Vương,

– Đại Phúc Khẩn-na-la Vương,

– Kiên Cố Tinh Tấn Khẩn-na-la Vương,

– Diệu Dũng Khẩn-na-la Vương,

– Bách Khẩu Khẩn-na-la Vương,

– Đại Thụ Khẩn-na-la Vương,

và các vị khẩn-na-la vương khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn thiên nữ, tên các vị ấy là:

– Tối Thượng Thiên Nữ,

– Diệu Nghiêm Thiên Nữ,

– Kim Đái Thiên Nữ,

– Trang Nghiêm Thiên Nữ,

– Văn Trì Thiên Nữ,

– Cam Lộ Nguyệt Thiên Nữ,

– Thanh Tịnh Thân Thiên Nữ,

– Bảo Quang Thiên Nữ,

– Hoa Thân Thiên Nữ,

– Thiên Diện Thiên Nữ,

– Khẩu Diễn Ngũ Nhạc Âm Thiên Nữ,

– Khoái Lạc Thiên Nữ,

– Kim Man Thiên Nữ,

– Thanh Liên Hoa Thiên Nữ,

– Tuyên Pháp Âm Thiên Nữ,

– Diệu Lạc Thiên Nữ,

– Nhạo Sanh Thiên Nữ,

– Diệu Nghiêm Tướng Thiên Nữ,

– Nghiêm Trì Thiên Nữ,

– Bố Thí Thiên Nữ,

– Khiết Dĩ Thiên Nữ,

và các vị thiên nữ khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn long vương nữ, tên các vị ấy là:

– Diệu Nghiêm Trì Long Nữ,

– Mẫu-tử-lân-na Long Nữ,

– Tam Kế Long Nữ,

– Hòa Dung Long Nữ,

– Thắng Cát Tường Long Nữ,

– Điện Nhãn Long Nữ,

– Điện Quang Long Nữ,

– Diệu Sơn Long Nữ,

– Bách Quyến Thuộc Long Nữ,

– Đại Dược Long Nữ,

– Nguyệt Quang Long Nữ,

– Nhất Thủ Long Nữ,

– Bách Tý Long Nữ,

– Thọ Trì Long Nữ,

– Vô Phiền Não Long Nữ,

– Thiện Trang Nghiêm Long Nữ,

– Bạch Vân Long Nữ,

– Thừa Xa Long Nữ,

– Vị Lai Long Nữ,

– Đa Quyến Thuộc Long Nữ,

– Hải Phúc Long Nữ,

– Cái Diện Long Nữ,

– Pháp Tòa Long Nữ,

– Diệu Thủ Long Nữ,

– Hải Thâm Long Nữ,

– Diệu Cao Cát Tường Long Nữ,

và các vị long nữ khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn càn-thát-bà nữ, tên các vị ấy là:

– Ái Diện Càn-thát-bà Nữ,

– Ái Thí Càn-thát-bà Nữ,

– Vô Kiến Càn-thát-bà Nữ,

– Diệu Cát Tường Càn-thát-bà Nữ,

– Kim Cang Man Càn-thát-bà Nữ,

– Diệu Man Càn-thát-bà Nữ,

– Thụ Lâm Càn-thát-bà Nữ,

– Bách Hoa Càn-thát-bà Nữ,

– Hoa Phu Càn-thát-bà Nữ,

– Bảo Man Càn-thát-bà Nữ,

– Diệu Phúc Càn-thát-bà Nữ,

– Cát Tường Vương Càn-thát-bà Nữ,

– Cổ Âm Càn-thát-bà Nữ,

– Diệu Trang Nghiêm Càn-thát-bà Nữ,

– Phong Lễ Càn-thát-bà Nữ,

– Pháp Ái Càn-thát-bà Nữ,

– Pháp Thí Càn-thát-bà Nữ,

– Thanh Liên Hoa Càn-thát-bà Nữ,

– Bách Thủ Càn-thát-bà Nữ,

– Liên Hoa Cát Tường Càn-thát-bà Nữ,

– Đại Liên Hoa Càn-thát-bà Nữ,

– Thể Thanh Tịnh Càn-thát-bà Nữ,

– Tự Tại Hành Càn-thát-bà Nữ,

– Thí Địa Càn-thát-bà Nữ,

– Thí Quả Càn-thát-bà Nữ,

– Sư Tử Bộ Càn-thát-bà Nữ,

– Bạch Thụy Liên Hoa Càn-thát-bà Nữ,

– Diệu Ý Càn-thát-bà Nữ,

– Huệ Thí Càn-thát-bà Nữ,

– Thiên Ngữ Ngôn Càn-thát-bà Nữ,

– Ái Nhẫn Nhục Càn-thát-bà Nữ,

– Nhạo Chân Tịch Càn-thát-bà Nữ,

– Bảo Nha Càn-thát-bà Nữ,

– Đế-thích Nhạo Càn-thát-bà Nữ,

– Thế Chủ Quyến Thuộc Càn-thát-bà Nữ,

– Lộc Vương Càn-thát-bà Nữ,

– Biến Hóa Cát Tường Càn-thát-bà Nữ,

– Diễm Phong Càn-thát-bà Nữ,

– Tham Giải Thoát Càn-thát-bà Nữ,

– Sân Giải Thoát Càn-thát-bà Nữ,

– Si Giải Thoát Càn-thát-bà Nữ,

– Thiện Tri Thức Quyến Thuộc Càn-thát-bà Nữ,

– Bảo Tòa Càn-thát-bà Nữ,

– Vãng Lai Càn-thát-bà Nữ,

– Hỏa Quang Càn-thát-bà Nữ,

– Nguyệt Quang Càn-thát-bà Nữ,

– Biến Chiếu Nhãn Càn-thát-bà Nữ,

– Kim Diệu Càn-thát-bà Nữ,

– Nhạo Thiện Tri Thức Càn-thát-bà Nữ,

và các vị càn-thát-bà nữ khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn khẩn-na-la nữ, tên các vị ấy là:

– Nhất Ý Khẩn-na-la Nữ,

– Thâm Ý Khẩn-na-la Nữ,

– Phong Hành Khẩn-na-la Nữ,

– Thủy Hành Khẩn-na-la Nữ,

– Thừa Không Khẩn-na-la Nữ,

– Tấn Tật Khẩn-na-la Nữ,

– Tài Thí Khẩn-na-la Nữ,

– Diệu Nha Khẩn-na-la Nữ,

– Vô Động Cát Tường Khẩn-na-la Nữ,

– Nhiễm Giới Khẩn-na-la Nữ,

– Sí Thịnh Quang Biến Khẩn-na-la Nữ,

– Diệu Cát Tường Khẩn-na-la Nữ,

– Bảo Khiếp Khẩn-na-la Nữ,

– Quán Tài Khẩn-na-la Nữ,

– Đoan Nghiêm Khẩn-na-la Nữ,

– Kim Cang Diện Khẩn-na-la Nữ,

– Kim Sắc Khẩn-na-la Nữ,

– Thù Diệu Trang Nghiêm Khẩn-na-la Nữ,

– Quảng Ngạch Khẩn-na-la Nữ,

– Vi Nhiễu Thiện Tri Thức Khẩn-na-la Nữ,

– Chủ Thế Khẩn-na-la Nữ,

– Hư Không Hộ Khẩn-na-la Nữ,

– Trang Nghiêm Vương Khẩn-na-la Nữ,

– Châu Kế Khẩn-na-la Nữ,

– Tổng Trì Châu Khẩn-na-la Nữ,

– Minh Nhân Vi Nhiễu Khẩn-na-la Nữ,

– Bách Danh Khẩn-na-la Nữ,

– Thí Thọ Khẩn-na-la Nữ,

– Hộ Trì Phật Pháp Khẩn-na-la Nữ,

– Pháp Giới Hộ Khẩn-na-la Nữ,

– Thượng Trang Nghiêm Khẩn-na-la Nữ,

– Sát-na Thượng Khẩn-na-la Nữ,

– Cầu Pháp Thường Trì Khẩn-na-la Nữ,

– Thời Thường Kiến Khẩn-na-la Nữ,

– Vô Úy Khẩn-na-la Nữ,

– Thú Giải Thoát Khẩn-na-la Nữ,

– Thường Bí Mật Khẩn-na-la Nữ,

– Sử Tổng Trì Khẩn-na-la Nữ,

– Kiếm Quang Diễm Khẩn-na-la Nữ,

– Địa Hành Khẩn-na-la Nữ,

– Hộ Thiên Chủ Khẩn-na-la Nữ,

– Diệu Thiên Chủ Khẩn-na-la Nữ,

– Bảo Vương Khẩn-na-la Nữ,

– Nhẫn Nhục Bộ Khẩn-na-la Nữ,

– Hành Thí Khẩn-na-la Nữ,

– Đa Trú Xứ Khẩn-na-la Nữ,

– Trì Chiến Khí Khẩn-na-la Nữ,

– Diệu Nghiêm Khẩn-na-la Nữ,

– Diệu Ý Khẩn-na-la Nữ,

và các vị khẩn-na-la nữ khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di cũng đều đến hội họp.

Lại có vô số chúng tại gia cùng hàng xuất gia, trăm ngàn quái dị lõa thể ngoại đạo ni-kiền-tử và các ngoại đạo khác cũng đều đến hội họp.

Lúc bấy giờ có luồng ánh sáng lớn từ Địa Ngục Đại Vô Gián phóng ra. Ánh sáng đó biến chiếu Tinh xá Kỳ Viên và khắp khu lâm viên đều trở nên thanh tịnh.

Trong vườn hiện ra những cột trụ vi diệu viên mãn với ma-ni bảo châu cõi trời dùng làm trang nghiêm.

Lại hiện ra những lầu các lớn với vàng báu dùng làm trang nghiêm.

Trong những lầu các đó lại hiện ra các phòng ốc:

– Hiện ra phòng do hoàng kim tạo thành với bạc trắng làm cửa.

– Hiện ra phòng do bạc trắng tạo thành với hoàng kim làm cửa.

– Hiện ra phòng do vàng bạc hỗn hợp tạo thành với vàng bạc hỗn hợp làm cửa.

– Hiện ra cung điện báu trang nghiêm do vàng bạc hỗn hợp tạo thành với vàng bạc hỗn hợp làm cột trụ cùng diệu bảo dùng để trang nghiêm.

– Hiện ra cung điện do hoàng kim tạo thành với vàng bạc làm cột trụ.

– Hiện ra cung điện do vàng bạc tạo thành với hoàng kim làm cột trụ.

– Hoặc hiện ra cung điện do vàng bạc tạo thành với các diệu bảo cõi trời dùng để trang nghiêm cột trụ.

Lại nữa, trên những cây cối tại vườn Kỳ-đà hiện ra đủ các loại châu báu cõi trời dùng để trang nghiêm.

Lại hiện ra những cây kiếp-ba-la do hoàng kim tạo thành với bạc trắng làm lá và trang nghiêm với đủ các loại châu bảo. Những cây đó có hàng trăm loại y phục thượng diệu như là kiều-xa-da và các y phục như thế treo ở trên cây. Lại có trăm ngàn màn lưới trân châu anh lạc báu quấn trùm ở trên cây. Lại có trăm ngàn mũ báu thượng diệu, bông tai, dây lụa đeo, và các tạp châu báu lung linh dùng để trang nghiêm. Lại có những loại hoa thượng diệu khác nhau cùng giường nằm vi diệu thù thắng và những bảo hợp vi diệu dùng để trang trí. Có muôn loại cây kiếp-ba-la được trang nghiêm như thế và số cây xuất hiện ở trong vườn có đến trăm ngàn.

Lại nữa, các khung cửa sổ và trên bực thềm của những lầu các trong vườn Kỳ-đà được làm bằng kim cang diệu bảo. Trên những lầu các đó có vô số vải lụa thù thắng vi diệu và trân châu anh lạc như thế dùng để trang nghiêm.

Trong vườn lại có trăm ngàn ao báu thù thắng vi diệu với nước tám công đức tràn đầy trong ấy. Trong ao có những tạp hoa thù thắng, vi diệu, và viên mãn đầy khắp trong ao, như là: hoa sen xanh, hoa súng trắng, hoa sen trắng, hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa ưu-đàm, và các thứ hoa khác như thế.

Lại có muôn loại cây hoa thù thắng vi diệu, như là: cây hoa ngọc lan, cây hoa ca-la-vĩ-la, cây hoa ba-tra-la, cây hoa diệu giải thoát, cây hoa hương vũ, cây hoa diệu ý, và có những cây hoa vui lòng đẹp ý như vậy.

Khi các tướng thanh tịnh hiếm có và vi diệu trang nghiêm như thế xuất hiện ở Kỳ Viên. Lúc ấy trong Pháp hội có một vị Bồ-Tát Ma-ha-tát tên là Trừ Cái Chướng, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo lộ vai phải, chắp tay cung kính cùng chiêm ngưỡng Tôn nhan và bạch Phật rằng:

“Hy hữu thay, Thế Tôn! Nay trong lòng con có điều nghi muốn hỏi Đức Như Lai. Ngưỡng mong Thế Tôn lắng nghe lời tác bạch của con. Thưa Thế Tôn! Nay ở nơi đây có ánh sáng lớn, đó là do từ đâu chiếu đến? Vì nhân duyên gì mà hiện ra các tướng lạ thường như thế?”

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Trừ Cái Chướng Bồ-Tát:

“Này thiện nam tử! Các ông hãy lắng nghe, Ta sẽ vì ông phân biệt giảng giải. Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên đã vào trong Địa Ngục Đại Vô Gián. Sau khi cứu họ thoát khỏi khổ ách xong, ngài lại vào đại thành để cứu độ tất cả ngạ quỷ đang chịu khổ.”

Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ-Tát Ma-ha-tát lại bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Ngục thành của Địa Ngục Đại Vô Gián được bao bọc bằng sắt và nền của ngục cũng làm bằng sắt. Thành đó không có chỗ nào hở trống. Lửa dữ với khói luôn bốc cháy hừng hực. Trong địa ngục của đường ác thú như thế có một cái chảo nước sôi rất lớn. Nước ấy sôi sùng sục và có trăm ngàn ức na-do-tha hữu tình đều bị ném vào trong vạc nước sôi đó, ví như là đậu nấu trong nồi nước. Khi nước đang sôi lên, họ chìm nổi lên xuống không gián đoạn và bị nấu nát nhừ. Trong Địa Ngục A-tỳ này có chúng hữu tình thọ khổ như vậy. Thưa Thế Tôn! Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát đã dùng phương tiện gì để vào trong đó?”

Đức Thế Tôn lại bảo Trừ Cái Chướng Bồ-Tát Ma-ha-tát:

“Này thiện nam tử! Đây ví như Chuyển Luân Thánh Vương bước vào khu vườn báu ma-ni cõi trời. Cũng như vậy, thiện nam tử! Khi Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát vào Địa Ngục Đại A-tỳ thì không gì có thể chướng ngại thân thể của Bồ-Tát. Lúc đó, tất cả khí cụ trừng phạt ở Địa Ngục A-tỳ đều chẳng thể nào bức hại thân của Bồ-Tát. Lửa hẫy hừng của đại địa ngục đó rồi sẽ diệt trừ và hóa thành ao nước mát mẻ. Khi ấy, các ngục tốt của Diêm Vương sanh lòng kinh ngạc về điều quái lạ chưa từng có này và nghĩ rằng:

‘Tại sao trong này bỗng nhiên biến thành cảnh tượng phi thường như thế?’

Khi ấy, Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát vào trong ngục phá hủy đi vạc nước sôi và diệt trừ lửa dữ. Hầm lửa lớn đó hóa thành ao báu và trong ao có hoa sen to lớn như bánh xe.

Khi các ngục tốt của Diêm Vương đã thấy việc như vậy, họ cầm những khí cụ trừng phạt đi đến chỗ của Diêm-ma Thiên Tử, nào là cung, kiếm, chùy, gậy, cung tên, bánh xe sắt, cây chỉa ba, và những khí cụ khác như thế. Khi đến nơi, họ tâu rằng:

‘Tâu đại vương! Ngài chắc chắn biết được tại sao nơi nghiệp báo của chúng tôi bỗng nhiên đều diệt hết!’

Khi ấy Diêm-ma Thiên Tử nói rằng:

‘Nơi nghiệp báo của các người đều diệt hết như thế nào?’

Lại thưa với Diêm-ma Thiên Tử rằng:

‘Địa Ngục Đại A-tỳ kia bỗng nhiên trở nên mát mẻ. Giữa lúc việc ấy xảy ra, có một người với sắc tướng đoan nghiêm, trên búi tóc cài châu bảo cõi trời và có mũ báu dùng để trang nghiêm nơi thân. Người kia vào trong địa ngục và phá hủy vạc nước sôi. Hầm lửa hóa thành ao và trong ao có hoa sen to lớn như bánh xe.’

Lúc đó Diêm-ma Thiên Tử nhiếp tâm tư duy:

‘Là vị thiên nhân nào mà có oai lực như thế? Là Đại Tự Tại Thiên, Na-la-diên hay vị trời nào khác đến địa ngục kia và biến hiện ra việc không thể nghĩ bàn như thế? Có phải là do oai thần của đại lực la-sát với mười đầu biến hóa ra chăng?’

Lúc bấy giờ, Diêm-ma Thiên Tử dùng thiên nhãn thông để quán xem trên cõi trời. Sau khi quán chư thiên xong, ngài lại quán Địa Ngục A-tỳ và nhìn thấy Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát. Khi thấy như vậy, ngài liền vội đến chỗ của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát. Lúc đến nơi, đầu đảnh lễ dưới chân Bồ-Tát và dùng bài kệ chí thành tán thán rằng:

‘Quy mạng Đại sĩ liên hoa vương

Đại Từ Đại Bi Quán Tự Tại

Bậc đại tự tại diệu cát tường

Khéo ban hữu tình điều nguyện ước

Sức đại oai thần viên mãn túc

Diệt bạo trừ ác khéo hàng phục

Làm ngọn đèn sáng nơi u tối

Ai trông thấy ngài đều hết sợ

Trăm ngàn cánh tay thị hiện ra

Hóa hiện số mắt cũng như vậy

Đầy đủ cụ túc mười một mặt

Trí tuệ ví như bốn biển lớn

Yêu mến thậm thâm vi diệu Pháp

Là để cứu hộ chúng hữu tình

Cá rùa thủy tộc cùng mọi loài

Trí tuệ tối thượng như núi cao

Ban thí châu báu cứu quần sanh

Là bậc tối thượng đại cát tường

Đầy đủ phước trí trang nghiêm thân

Vào trong Địa Ngục Đại A-tỳ

Sẽ liền biến thành nơi thanh lương

Hết thảy chư thiên đều cúng dường

Đảnh lễ bậc thánh thí vô úy

Thường thuyết Lục Độ Ba-la-mật

Hằng giữ Pháp đăng luôn cháy sáng

Pháp nhãn sáng hơn ánh thái dương

Sắc tướng vi diệu thật đoan nghiêm

Thân tướng sắc vàng như kim sơn

Lòng từ sâu thẳm như biển Pháp

Tâm ý tương ứng đồng chân như

Trong miệng hiện ra diệu công đức

Tích tập chánh định tam-ma-địa

Nhiều đến vô số trăm ngàn muôn

Lại có vô lượng sự an vui

Diện mạo đoan nghiêm tối thượng tiên

Sợ hãi kinh hoàng nơi ác đạo

Gông cùm xiềng xích sẽ thoát ra

Khéo ban chúng sanh Pháp vô úy

Quyến thuộc đại chúng luôn vây quanh

Sở nguyện sở cầu đều toại ý

Như được châu báu ngọc ma-ni

Phá hủy diệt nát ngạ quỷ thành

Khai mở con đường tịch tĩnh yên

Cứu độ thế gian trừ ách bệnh

Như cây tràng phan bao phủ che

Long Vương Nan-đà Bạt-nan-đà

Vua rồng cuộn quanh ở hai nách

Trên tay ngài cầm bất không sách

Hóa hiện vô số oai thần đức

Phá trừ Tam Giới điều hãi kinh

Bàn tay kim cang hiển oai thần

Dạ-xoa la-sát quỷ bộ-đa

Loài quỷ vĩ-đa-noa-chỉ-nễ

Cùng với loài quỷ cưu-bàn-đồ

Loài quỷ a-bát-sa-mạ-la

Tất cả thảy đều bị khiếp sợ

Như hoa sen xanh mắt sáng trong

Bậc thánh hay ban Pháp vô úy

Diệt trừ hết thảy các phiền não

Tất cả mọi việc đều giải thoát

Biến khắp thế giới vi trần số

Thâm nhập trăm ngàn tam-ma-địa

Khai thị chúng mê các cảnh giới

Tất cả chúng sanh trong ác đạo

Khiến họ thảy đều đắc giải thoát

Thành tựu viên mãn Đạo Bồ-đề’

Khi đã dùng đủ mọi lời tán thán để cúng dường Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát xong, Diêm-ma Thiên Tử nhiễu quanh ba vòng rồi trở về chốn cũ.

Lúc bấy giờ, Trừ Cái Chướng Bồ-Tát lại bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Lúc Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát đã cứu những chúng sanh thoát khổ xong, ngài sẽ đến tham dự trong Pháp hội này không?”

Phật bảo Trừ Cái Chướng Bồ-Tát:

“Này thiện nam tử! Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát từ Địa Ngục Đại A-tỳ rời khỏi, ngài lại vào đại thành của loài ngạ quỷ. Trong thành đó có vô số trăm ngàn ngạ quỷ, miệng phun ra lửa, mặt mày cháy khét. Thân hình khô héo, đầu tóc rối ren, lông trên thân đều dựng đứng. Bụng của chúng lớn như núi, còn cổ thì nhỏ như cây kim.

Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát đi đến đại thành của loài ngạ quỷ, lửa nghiệp cháy phừng phừng của thành đó đều bị diệt mất và biến thành mát mẻ. Lúc ấy có một con quỷ gác cổng thành. Thân hình quỷ to lớn, diện mạo xấu xí, hai mắt đỏ lòm, và nó phát khởi lòng từ như vầy:

‘Bây giờ, ta không thể canh giữ chốn ác nghiệp như thế này nữa.’

Khi đó, Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát khởi tâm đại bi, trong mỗi mười đầu ngón tay phun ra nước, lại trong mỗi ngón chân cũng vọt ra nước, và mỗi một lỗ chân lông đều chảy ra dòng nước lớn. Lúc ấy, các loài ngạ quỷ này uống nước trong đó. Khi uống nước này xong, cổ họng mở lớn và thân tướng trở nên viên mãn. Chúng lại được nhiều loại ẩm thực ngon lạ và tất cả đều no đủ.

Khi những loài ngạ quỷ này được sự an vui lợi ích như thế, trong lòng của mỗi ngạ quỷ suy nghĩ tường tận như vầy:

‘Tại sao người ở Nam Thiệm Bộ Châu thường thọ hưởng những sự mát mẻ, an ổn, và điều vui sướng? Là vì nơi đó:

– hoặc có người khéo có thể thường cung kính và hiếu dưỡng cha mẹ.

– hoặc có người khéo có thể bố thí ân huệ và vâng lời dạy của bậc Thiện Tri Thức.

– hoặc có người thông minh tài trí và thường yêu thích Pháp Đại Thừa.

– hoặc có người khéo có thể thực hành Bát Thánh Đạo.

– hoặc có người khéo có thể đánh trống Pháp.

– hoặc có người khéo có thể tu bổ tự viện bị hư hoại.

– hoặc có người khéo có thể tu bổ chùa tháp Phật.

– hoặc có người khéo có thể tu bổ tháp đền bị vỡ nát.

– hoặc có người khéo có thể cúng dường và tôn trọng Pháp sư.

– hoặc có người khéo có thể thấy nơi kinh hành của Như Lai.

– hoặc có người khéo có thể thấy nơi kinh hành của Bồ-Tát.

– hoặc có người khéo có thể thấy nơi kinh hành của Bích-chi-phật.

– hoặc có người khéo có thể thấy nơi kinh hành của A-la-hán.’

Khi chúng tư duy ở Nam Thiệm Bộ Châu có những việc tu hành như vậy, lúc đó ở trong Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương tự nhiên phát ra âm thanh vi diệu. Khi các loài ngạ quỷ này nghe được âm thanh đó, tuy sở chấp của chúng nơi thân kiến to lớn như núi cùng phiền não rối bời, nhưng thảy đều bị chày trí tuệ kim cang diệt trừ đến tận gốc. Chúng liền đắc vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc và đồng trở thành Bồ-Tát với tên gọi là Tùy Ý Khẩu.

Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát đã cứu những chúng sanh thoát khổ đó xong, ngài lại đến các thế giới phương khác để cứu độ chúng hữu tình khác.”

Lúc ấy, Trừ Cái Chướng Bồ-Tát lại bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát có đến nơi này để cứu độ chúng hữu tình không?”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ-Tát này đây thường luôn cứu độ vô số trăm ngàn ức na-do-tha hữu tình mà chưa hề ngừng nghỉ. Ngài có đầy đủ sức đại oai thần và còn vượt hơn các Đức Như Lai.”

Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn! Vì sao Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát có sức oai thần to lớn như vậy?”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Vào thuở quá khứ có Đức Phật xuất thế, hiệu là Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vào thời ấy, ta là con trai của một ông trưởng giả, tên ta thuở đó là Diệu Hương Khẩu. Từ nơi của Đức Phật kia, Như Lai đã nghe về oai thần công đức của Quán Tự Tại Bồ-Tát.”

Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai đã nghe về oai thần công đức của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát, việc đó thế nào?”

Đức Phật bảo:

“- Trong mắt của Quán Tự Tại Bồ-Tát sanh ra mặt trời và mặt trăng.

– Trên trán sanh ra Đại Tự Tại Thiên.

– Bờ vai sanh ra vị trời Phạm Vương.

– Nơi trái tim sanh ra vị trời Na-la-diên.

– Ở răng sanh ra vị trời Đại Biện Tài.

– Trong miệng sanh ra phong thiên.

– Chỗ rốn sanh ra địa thiên.

– Nơi bụng sanh ra thủy thiên.

Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát đã sanh ra các vị trời như thế xong, lúc đó Quán Tự Tại Bồ-Tát bảo Đại Tự Tại Thiên rằng:

‘Vào thời Mạt Pháp trong các cõi giới của chúng hữu tình đời vị lai, sẽ có những chúng sanh chấp trước tà kiến. Họ đều bảo ông là vị đại chủ tể từ vô thỉ đến nay và có năng lực sinh ra hết thảy mọi loài hữu tình. Những chúng sanh này vào thời kỳ đó đã đánh mất đi Đạo Bồ-đề cùng ngu si mê muội và họ sẽ nói lời như thế này:’

“Hư không này là thân thể rộng lớn của ngài; địa cầu là tòa ngồi của ngài. Các cõi giới cùng loài hữu tình đều sinh ra từ thân thể của ngài.”

Này thiện nam tử! Ta đã nghe việc như thế từ nơi của Đức Tỳ-bà-thi Như Lai. Về sau lại có Đức Phật xuất thế, hiệu là Thi-khí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Này Trừ Cái Chướng! Vào thuở đó, Ta là Dũng Thí Bồ-Tát Ma-ha-tát và từ ở Đức Phật kia, Ta đã nghe về oai thần công đức của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát.”

Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai đã nghe về oai thần công đức của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát, việc đó thế nào?”

Đức Phật bảo:

“Lúc bấy giờ, tất cả trời, rồng, dạ-xoa, a-tu-la, ca-lâu-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân trong Pháp hội của Đức Thi-khí Như Lai đã đến hội họp. Khi Đức Thế Tôn kia ở trong đại chúng sắp muốn thuyết Pháp, trong miệng của Ngài phóng ra muôn loại ánh sáng với nhiều màu sắc khác nhau. Như là:

– màu xanh tỏa ánh sáng xanh,

– màu vàng tỏa ánh sáng vàng,

– màu đỏ tỏa ánh sáng đỏ,

– màu trắng tỏa ánh sáng trắng,

– màu hồng tỏa ánh sáng hồng,

– màu pha lê tỏa ánh sáng pha lê,

– màu vàng kim tỏa ánh sáng vàng kim.

Những ánh sáng đó biến chiếu hết thảy mười phương thế giới. Sau đó, những ánh sáng ấy trở về và nhiễu Đức Phật kia ba vòng, rồi vào miệng của Ngài.

Khi ấy, trong Pháp hội kia có một vị Bồ-Tát Ma-ha-tát tên là Bảo Thủ, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo lộ vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính và bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

‘Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà xuất hiện điềm lành này?’

Đức Phật kia bảo:

‘Này thiện nam tử! Ở Thế Giới Cực Lạc có một vị Bồ-Tát Ma-ha-tát tên là Quán Tự Tại, ngài vì muốn đến nơi này nên Như Lai mới hiện ra điềm lành ấy.’

Khi ngài Quán Tự Tại sắp đến, nơi đó xuất hiện vô số cây kiếp-ba-la, cây bông hoa, cây hoa súng trắng, và cây hoa ngọc lan. Lại hiện ra các loại hoa hỗn tạp, ao báu cùng cây cối. Trên trời mưa xuống muôn loại diệu hoa. Lại mưa xuống các ma-ni báu, trân châu, lưu ly, vỏ sò hình xoắn, ngọc bích, san hô, và những châu bảo khác. Lại có các y phục cõi trời tựa như mây rơi xuống.

Vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc thuở đó xuất hiện ra thất bảo, gồm có:

– kim luân báu,

– voi báu,

– ngựa báu,

– châu báu,

– ngọc nữ báu,

– chủ tàng báu,

– và chủ binh báu.

Khi bảy loại báu như thế xuất hiện, mặt đất đó thảy đều biến thành màu vàng kim.

Giữa lúc Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát đang rời khỏi Thế Giới Cực Lạc, đại địa chấn động sáu cách. Lúc bấy giờ, Bảo Thủ Bồ-Tát Ma-ha-tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

‘Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà xuất hiện điềm lành này?’

Đức Phật kia bảo:

‘Này thiện nam tử! Đây là do Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát muốn đến nơi này nên Bồ-Tát mới hiện ra điềm lành ấy.’

Khi đó, trời mưa diệu liên hoa và các loại hoa vi diệu để làm vui lòng đẹp ý. Lúc ấy, trên tay của Quán Tự Tại Bồ-Tát mang theo một đóa hoa sen màu vàng kim sáng chói với 1.000 cánh đến chỗ của Đức Phật kia, đầu đảnh lễ dưới chân Phật, cầm đóa hoa sen đó và dâng lên Đức Thế Tôn kia rồi bạch rằng:

‘Bạch Thế Tôn! Hoa này là do Đức Phật Vô Lượng Thọ sai con đem đến.’

Đức Thế Tôn kia tiếp thọ hoa sen ấy và đặt ở bên trái của Ngài.

Đức Phật đó bảo Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát:

‘Nay ông hiện sức oai thần công đức trang nghiêm này là do duyên cớ gì?’

Quán Tự Tại Bồ-Tát thưa:

‘Con vì muốn cứu độ hết thảy chúng hữu tình ra khỏi chốn ác thú, bao gồm tất cả loài ngạ quỷ, địa ngục thọ khổ không gián đoạn, địa ngục sợi dây đen, địa ngục chết đi sống lại, địa ngục thiêu đốt, địa ngục quay nướng, địa ngục vạc nước sôi, địa ngục nước lạnh buốt. Trong các địa ngục lớn có những chúng sanh thọ khổ như vậy, con đều cứu bạt, xa rời các nẻo ác và sẽ khiến họ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.’

Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát nói lời ấy xong, ngài đảnh lễ dưới chân Phật. Lễ xong, ngài hốt nhiên vụt mất như ngọn lửa tan biến giữa hư không.

Lúc bấy giờ Bảo Thủ Bồ-Tát thưa rằng:

‘Bạch Thế Tôn! Con nay có điều nghi muốn xin thỉnh vấn Đức Như Lai, ngưỡng mong Đức Như Lai vì con tuyên nói. Ngài Quán Tự Tại Bồ-Tát có phước đước thế nào mà có thể hiện thần lực như vậy?’

Đức Phật kia bảo:

‘Nếu có người dùng y phục vi diệu cõi trời cùng với áo cà-sa, ẩm thực, thuốc thang, giường nằm, và các vật như thế, để cúng dường cho Hằng Hà sa chư Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, thì phước đức có được chỉ bằng một phần trên đầu cọng lông phước đức của Quán Tự Tại Bồ-Tát, số lượng đó không hề sai khác.

Này thiện nam tử! Lại ví như bốn châu lớn, ở đó ngày đêm có mưa lớn liên tục trong suốt mỗi năm 12 tháng, Ta có thể đếm từng giọt nước rơi nơi đó, nhưng thiện nam tử, Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ-Tát.

Này thiện nam tử! Lại ví như bốn biển lớn, độ sâu, rộng và dài là 84.000 do-tuần, Ta có thể đếm từng giọt nước của bốn biến lớn đó, nhưng thiện nam tử, Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ-Tát.

Này thiện nam tử! Lại ví như trong bốn châu lớn có các loài hữu tình bốn chân, như là: sư tử, voi, ngựa, cọp, chó sói, gấu, nai, bò, dê, và hết thảy các loài bốn chân như thế, Ta đều có thể tính đếm số lông trên thân của mỗi một con, nhưng thiện nam tử, Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ-Tát.

Này thiện nam tử! Lại ví như có người dùng vàng kim cõi trời cùng châu báu để tạo lập hình tượng của các Đức Như Lai nhiều như số vi trần, khi xong, người đó làm đủ mọi sự cúng dường trong một ngày, Ta đều có thể biết được số lượng phước đức có được của người ấy, nhưng thiện nam tử, Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ-Tát.

Này thiện nam tử! Lại ví như cây cối trong tất cả rừng, Ta có thể tính đếm số lá của từng cây, nhưng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ-Tát thì Ta chẳng thể nào nói hết số lượng.

Này thiện nam tử! Lại ví như trong bốn châu lớn có người nam, người nữ, đồng nam, đồng nữ, và những người như thế, đều chứng quả vị Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, A-la-hán, Duyên Giác, hay quả Bồ Đề, thì phước đức có được của họ chỉ bằng một phần trên đầu cọng lông phước đức của Quán Tự Tại Bồ-Tát, số lượng đó không hề sai khác.’

Lúc bấy giờ, Bảo Thủ Bồ-Tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

‘Con từ xưa đến nay, chưa từng bao giờ thấy và cũng chưa từng bao giờ nghe qua chư Phật Như Lai nào có phước đức như vậy. Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại chỉ ở quả vị Bồ-Tát mà sao có được phước đức dường ấy?’

Đức Phật kia bảo:

‘Này thiện nam tử! Chẳng riêng chỉ có Ta ở thế giới này mà thậm chí đến vô số chư Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác ở phương khác, đều cùng hội họp một nơi thì cũng chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức của Quán Tự Tại Bồ-Tát.

Này thiện nam tử! Nếu có người ở thế giới này, như có thể nhớ niệm danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát (tức là Quán Thế Âm Bồ Tát), thì người ấy sẽ xa hẳn sanh lão bệnh tử và nỗi thống khổ của luân hồi. Đây tựa như con ngỗng chúa bay thuận theo chiều gió. Người đó sẽ chóng đắc vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc và diện kiến Đức Vô Lượng Thọ Như Lai (tức là Đức Phật A Di Đà) để nghe diệu Pháp. Người như vậy sẽ vĩnh viễn chẳng còn thọ khổ luân hồi. Họ không có tham sân si, không có sanh lão bệnh tử, và không có đói khát khốn khổ. Người đó chẳng còn phải chịu khổ do thọ sanh từ bào thai, họ chỉ nương Pháp lực oai thần mà liên hoa hóa sanh. Người ấy thường ở quốc độ kia để hầu cận Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát cùng cứu độ tất cả hữu tình, khiến thảy đều đắc giải thoát, và thệ nguyện kiên cố của họ cũng sẽ viên mãn.’

Khi ấy, Bảo Thủ Bồ-Tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

‘Khi nào thì Quán Tự Tại Bồ-Tát sẽ cứu độ hết tất cả hữu tình, khiến thảy đều đắc giải thoát, và thệ nguyện kiên cố của ngài sẽ viên mãn?’

Đức Thế Tôn kia bảo:

‘Chúng hữu tình thì nhiều vô số. Họ thường phải chịu sanh tử luân hồi mà chưa hề ngừng nghỉ. Vì muốn cứu độ các chúng sanh như thế và khiến họ chứng Đạo Bồ-đề, nên Quán Tự Tại này đây, tùy theo mỗi loài hữu tình mà hiện thân thuyết Pháp.

Đáng dùng thân Phật để độ thoát, liền hiện thân Phật mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân Bồ-Tát để độ thoát, liền hiện thân Bồ-Tát mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân Duyên Giác để độ thoát, liền hiện thân Duyên Giác mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân Thanh Văn để độ thoát, liền hiện thân Thanh Văn mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên để độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân Na-la-diên để độ thoát, liền hiện thân Na-la-diên mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân Phạm Vương để độ thoát, liền hiện thân Phạm Vương mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân Đế-thích để độ thoát, liền hiện thân Đế-thích mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân nhật thiên tử để độ thoát, liền hiện thân nhật thiên tử mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân nguyệt thiên tử để độ thoát, liền hiện thân nguyệt thiên tử mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân hỏa thiên để độ thoát, liền hiện thân hỏa thiên mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân thủy thiên để độ thoát, liền hiện thân thủy thiên mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân phong thiên để độ thoát, liền hiện thân phong thiên mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân rồng để độ thoát, liền hiện thân rồng mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân chướng ngại thần để độ thoát, liền hiện thân chướng ngại thần mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân dạ-xoa để độ thoát, liền hiện thân dạ-xoa mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân Đa Văn Thiên Vương để độ thoát, liền hiện thân Đa Văn Thiên Vương mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân vua để độ thoát, liền hiện thân vua mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân tể quan để độ thoát, liền hiện thân tể quan mà vì họ thuyết Pháp.

Đáng dùng thân cha mẹ để độ thoát, liền hiện thân cha mẹ mà vì họ thuyết Pháp.

Này thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát tùy theo mỗi loài hữu tình mà ứng thân hóa độ. Hóa hiện thân hình như vậy để thuyết Pháp, cứu độ các chúng sanh, khiến đều sẽ chứng quả địa Niết-bàn của Như Lai.’

Lúc đó, Bảo Thủ Bồ-Tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

‘Con chưa từng bao giờ thấy hoặc nghe về những sự chẳng thể nghĩ bàn và hiếm có như vậy. Thưa Thế Tôn! Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát có những việc bất khả tư nghì như thế, thật là vị tằng hữu.’

Đức Phật kia bảo:

‘Này thiện nam tử! Tại châu Nam Diêm-phù-đề này có một hang động bằng kim cang, nơi ấy có vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha a-tu-la đang trú trong đó.

Này thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát đến nơi ấy, ngài hiện thân a-tu-la và vì loài a-tu-la đó mà thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này. Khi chúng a-tu-la nghe được Kinh này, tất cả đều phát khởi lòng từ, rồi chúng dùng bàn tay nâng đôi chân của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát mà thành tâm nghe Chánh Pháp. Sau đó, hết thảy đều đắc an lạc.

Nếu ai nghe được Kinh vương này cùng có thể đọc tụng, như người ấy có năm tội vô gián, thì hết thảy đều tiêu trừ. Khi gần mạng chung sẽ có 12 Đức Như Lai đến tiếp dẫn và bảo người đó rằng:

‘Này thiện nam tử! Chớ nên sợ hãi, bởi vì ông đã nghe được Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương.’

Sau đó, chư Như Lai kia hiển bày mọi đạo lộ để vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc. Lúc ấy có những lọng che vi diệu, mũ trời, bông tai, và các y phục thượng diệu. Khi hiện ra các tướng như thế, người đó nhất định sẽ vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc.

‘Này Bảo Thủ! Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát là bậc tối thắng, không một ai sánh bằng. Ngài hiện thân a-tu-la để khiến chúng a-tu-la đắc quả địa của Niết-bàn.’

Khi đó, Bảo Thủ Bồ-Tát cuối đầu sát đất và đảnh lễ dưới chân của Đức Thế Tôn kia, lễ xong rồi cáo lui.”

QUYỂN 2

“Sau Đức Phật Thi-khí, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Tỳ-xá-phù Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Này Trừ Cái Chướng! Vào thuở đó, ta là một vị tiên nhân tu hành nhẫn nhục và trú trong rừng sâu núi thẳm. Nơi ấy cao hẹp, sỏi đá lởm chởm, và không ai có thể đến hoặc ở lâu trong đó.

Lúc ở nơi Đức Như Lai kia, Ta đã nghe về oai thần công đức của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát.

Khi Quán Tự Tại vào trong đất vàng, ngài hóa hiện thân hình và vì loài hữu tình với gương mặt bị che khuất mà thuyết diệu Pháp, khai thị Bát Thánh Đạo và đều khiến họ đắc quả địa của Niết-bàn.

Sau khi rời khỏi kim địa, ngài lại vào trong đất bạc. Chúng sanh nơi đây đều có bốn chân và đang sống trong đó. Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát cứu độ loài hữu tình kia và vì họ thuyết Pháp mà nói lời như vầy:

‘Tất cả nên lắng nghe Chánh Pháp như vầy, hãy phát khởi tâm tưởng và tư duy quán kỹ. Ta nay sẽ khai thị những tư lương để các ông đạt đến Niết-bàn.’

Chúng hữu tình này đứng ở phía trước của Quán Tự Tại và thưa với Bồ-Tát rằng:

‘Đối với chúng sanh không có mắt mà vì họ mở sáng để khiến thấy Đạo.

Đối với người không có chỗ nương mà vì họ làm cha mẹ để khiến có chỗ tựa.

Những ai trong tối tăm mà vì họ làm ngọn đèn sáng và khai thị Chánh Đạo giải thoát.

Nếu có hữu tình nào niệm danh hiệu của Bồ-Tát, họ sẽ được an lạc.

Chúng con thường phải thọ lấy những khổ nạn như thế, xin hãy xót thương!’

Lúc ấy, khi tất cả chúng sanh này nghe Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương xong, chúng thảy đều được an vui và chứng quả vị bất thối.

Lúc bấy giờ, khi Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát rời khỏi nơi đó, ngài lại vào đất sắt. Trong ấy có một đại lực a-tu-la vương đang bị cấm chế. Đức Bồ-Tát đến nơi này và hiện ra thân Phật. Khi đó, đại lực a-tu-la vương từ nơi xa đi ra nghênh tiếp Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát. Ở tại cung điện của a-tu-la vương có vô số quyến thuộc, trong ấy đa số đều là gù lưng, lùn và xấu xí. Các quyến thuộc như thế đều đến thân cận cùng đảnh lễ dưới chân của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát. Sau đó, a-tu-la vương nói bài kệ rằng:

‘Hiện đời con đắc quả

Sở nguyện tất viên tròn

Như đã từng ước mong

Đây là do chánh kiến

Nên mới thấy Bồ-Tát

Con cùng hàng quyến thuộc

Thảy đều được an vui’

Nói xong, đại lực a-tu-la vương lấy tòa báu của mình hiến dâng cho Quán Tự Tại Bồ-Tát cùng cung kính chắp tay và bạch rằng:

‘Từ xưa đến nay, con cùng hàng quyến thuộc say đắm tà dâm, lòng thường luôn giận dữ, và còn thích giết hại chúng sanh. Do bởi tạo nghiệp tội như thế, nên lòng con lo sầu kinh hãi, sợ già chết cùng thọ các khổ não trong luân hồi. Chúng con không có chủ để nương và không có nơi để tựa. Xin hãy rủ lòng thương xót, từ bi cứu độ và vì chúng con mà chỉ bày lối thoát để rời khỏi nơi cấm chế này.’

Ngài Quán Tự Tại nói rằng:

‘Thiện nam tử! Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác thường hành khất thực. Nếu ai có thể cúng dường thức ăn, thời phước đức có được sẽ chẳng thể nào nói cho hết.

Thiện nam tử! Không chỉ riêng ta ở trong hang động a-tu-la này chẳng thể nào nói hết, thậm chí cho đến 12 Hằng Hà sa số Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng tụ hội lại một nơi thì cũng chẳng thể nói cho hết số lượng phước đức như vậy.

Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lượng của hết thảy vi trần, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.

Thiện nam tử! Lại ví như biển lớn, ta có thể đếm mỗi một giọt nước trong đó, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.

Thiện nam tử! Lại ví như bốn châu lớn, trong ấy có nam tử nữ nhân, đồng nam đồng nữ, hết thảy họ đều chẳng trồng bất cứ loại cây gì, mà chỉ trồng đầy khắp bốn châu lớn đó toàn là hạt cải. Loài rồng làm mưa đúng mùa. Khi rau cải đến thời điểm thu hoạch, họ lấy một châu dùng làm sân để chứa những hạt cải và tích tụ thành một đống lớn. Thiện nam tử! Ta có thể đếm từng hạt như thế, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.

Thiện nam tử! Lại ví như vua núi Diệu Cao, phần nước ở dưới núi sâu 84.000 do-tuần, bờ mặt trên nước trải rộng 84.000 do-tuần. Thiện nam tử! Hãy lấy vua núi như thế để làm giấy, dùng tất cả nước của biển lớn để làm mực. Sau đó, hết thảy nam tử nữ nhân, đồng nam đồng nữ trong bốn châu lớn đều lấy giấy mực để biên chép, cho đến khi viết hết tất cả và số lượng ấy chất cao như núi Tu-di. Ta có thể đếm mỗi một chữ họ viết, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai. Thiện nam tử! Giả sử tất cả những người biên chép như vậy đều đắc quả Thập Địa Bồ-Tát, thì phước đức cộng chung của hết thảy Bồ-Tát như thế, chỉ bằng phước đức cúng dường thức ăn cho Như Lai một lần, số lượng đó không bao giờ sai khác.

Thiện nam tử! Lại ví như Hằng Hà sa số biển lớn, ta có thể đếm từng hạt cát trong đó, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.’

Khi nghe những lời ấy, đại lực a-tu-la vương rơi lệ than khóc, nước mắt đầm đìa, lòng ảo não lo âu, và nghẹn ngào than thở, rồi thưa với Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát rằng:

‘Con đã từng thực hành bố thí vào thuở xa xưa, nhưng sự bố thí ấy là cáu bẩn, hắc ám và phi pháp. Do bởi thực hành bố thí như vậy, cho nên nay con cùng hàng quyến thuộc phải bị cấm chế trong đường ác để thọ nghiệp báo. Chúng con chẳng biết rằng, dẫu chỉ cúng dường một chút thức ăn cho Như Lai thì sẽ biến thành cam lộ.

Từ xưa đến nay, con ngu si vô trí và tu tập pháp Bà-la-môn của ngoại đạo. Khi đó có một người với thân hình lùn xấu đến chỗ con cầu xin. Lúc ấy con chuẩn bị đủ các loại mũ báu, bông tai vàng bạc, y phục tuyệt đẹp, châu báu trang nghiêm, át-già khí cụ, và các phẩm vật như thế.

Lại có trăm ngàn xe ngựa và xe voi báu. Chúng được trang nghiêm bằng trân châu anh lạc, màn lưới báu và treo những sợi dây tua vi diệu dùng để trang trí.

Lại có đủ các loại lọng che báu với màn lưới báu phủ quanh, ở trên đó treo những chuông báu và chúng vang ra các âm thanh kêu leng keng.

Lại có 1.000 con bò màu vàng, lông có màu rất đẹp, móng chân trang nghiêm bằng bạc trắng, đôi sừng trang sức bằng vàng kim, và còn có trân châu cùng các loại bảo châu khác nhau dùng để trang trí nơi thân chúng.

Lại có 1.000 đồng nữ với thân hình mỹ miều, dung mạo đoan nghiêm, và hình dáng tựa như các thiên nữ. Đầu đội mũ trời và trên thân họ trang nghiêm với đôi bông tai quý báu bằng vàng, các loại y phục đẹp đẽ, dây thắt lưng báu, nhẫn đeo tay, vòng xuyến báu, xâu chuỗi anh lạc sáng chói lung linh, vòng hoa vi diệu, và các đồ trang sức như thế.

Lại có vô số trăm ngàn tòa báu khác nhau.

Lại có những loại tạp bảo bằng vàng bạc, các thứ ấy tích tụ nhiều vô số.

Lại có trăm ngàn vạn đàn bò cùng người trông coi.

Lại có vô số thượng vị ẩm thực thơm ngon như cõi trời.

Lại có vô số chuông báu, vô số tòa sư tử bằng vàng bạc, vô số cây phất trần vi diệu với cây cán bằng vàng, và vô số lọng che được trang nghiêm bằng thất bảo.

Khi con đã chuẩn bị đủ các thứ như vậy để sắp làm đại bố thí, lúc ấy có trăm ngàn tiểu vương đều đến hội họp, trăm ngàn Bà-la-môn cũng đến, và vô số trăm ngàn vạn sát-đế-lợi cũng đến tham dự.

Khi con thấy họ đến, trong lòng khởi lên sự hoài nghi khác thường. Vào thời đó, chỉ một mình con là tối tôn, có đầy đủ thế lực lớn và thống lãnh đại địa. Bởi con y theo pháp của Bà-la-môn để sám hối ác nghiệp đời trước, nên con muốn giết chết hàng sát-đế-lợi cùng vợ con quyến thuộc của họ, rồi moi tim mổ gan để cúng tế trời, hy vọng làm thế sẽ diệt đi tội của mình.

Lúc ấy con xiềng xích trăm ngàn vạn tiểu vương thuộc dòng sát-đế-lợi, rồi nhốt họ tại một hang bằng đồng cùng với vô số trăm ngàn kẻ hạ tiện sống nơi biên địa. Hết thảy đều bị giam ở trong hang động này. Con lại dùng dây xích sắt và chốt sắt để trói buộc tay chân của hàng sát-đế-lợi kia.

Thuở đó, trong hang động ấy con xây những lớp cổng.

– Dùng gỗ bình thường để làm lớp cổng thứ nhất.

– Dùng gỗ khư-nễ-la để làm lớp cổng thứ nhì.

– Lại dùng sắt để làm lớp cổng thứ ba.

– Lại dùng đồng tinh luyện để làm lớp cổng thứ tư.

– Lại dùng đồng chưa tinh luyện để làm lớp cổng thứ năm.

– Lại dùng bạc trắng để làm lớp cổng thứ sáu.

– Lại dùng vàng kim để làm lớp cổng thứ bảy.

Ở trên bảy lớp cổng như thế, mỗi lớp cổng con dùng 500 ổ khóa siết chặt lại và còn để một hòn núi ở trước mỗi cổng.

Rồi một hôm nọ, có một vị trời Na-la-diên bỗng nhiên hiện làm thân của một con ruồi và bay đến dò thám. Lại một hôm khác, hiện làm thân của một con ong. Rồi một ngày nọ, hiện làm thân của một lợn. Lại một ngày khác, hiện thân tướng của loài phi nhân. Cứ mỗi ngày như vậy, ngài biến đổi thân tướng khác lạ để đến dò thám.

Lúc bấy giờ trong lòng con nghĩ là sẽ thi hành pháp của Bà-la-môn. Khi vị trời Na-la-diên thấy thế, ngài vào trong hang đồng mà phá hủy. Ngài dẹp đi bảy hòn núi ở trước các cổng và ném bỏ chúng ở chỗ khác, rồi hô lớn đến những người đang bị nhốt kia:

“Vô thắng thiên tử! Thân của các người đang chịu lắm khổ não, các người vẫn còn sống hay đã chết?”

Những người ấy nghe tiếng kêu hỏi, họ liền đáp rằng:

“Chúng tôi vẫn còn sống. Thưa Na-la-diên Thiên Tôn, bậc đại lực tinh tấn, xin hãy cứu chúng tôi thoát khỏi khổ nạn.”

Sau đó vị trời ấy phá hủy bảy lớp cổng của hang đồng và những tiểu vương ở trong hang được thoát khỏi nạn xiềng xích. Khi thấy vị trời Na-la-diên, trong lòng của mỗi người họ suy nghĩ rằng:

“Đại lực a-tu-la vương có phải đã chết rồi chăng? Hắn hiện vẫn còn sống hay đã chết ở nơi nào?”

Các hàng sát-đế-lợi lại nói:

“Chúng ta thà chết mà cùng hắn quyết đấu, còn hơn phải bị chết do giam cầm ở chỗ này. Bây giờ chúng ta nên y theo pháp của sát-đế-lợi, chiến đấu đánh nhau với hắn. Giả như chúng ta bị chết trong địa phận của hắn, chúng ta sẽ được sanh lên cõi trời.”

Thế rồi mỗi tiểu vương từ nơi ở của mình mà chuẩn bị xe và yên ngựa. Tay họ cầm binh khí và sắp muốn khai đại chiến.

Lúc bấy giờ, vị trời Na-la-diên hiện làm Bà-la-môn với thân hình lùn xấu, da hươu quấn ở hai nách, trong tay cầm một cây chỉa ba, và đến cửa thành của con. Khi đó, người gác cửa bảo người kia rằng:

“Không được vào cửa này, ngươi là kẻ lùn xấu. Đứng lại, cấm vào trong đó!”

Bà-la-môn nói:

“Tôi từ nơi xa đến đây.”

Người gác cửa hỏi Bà-la-môn:

“Ngươi từ đâu đến?”

Bà-la-môn đáp rằng:

“Tôi là một đại tiên nhân. Tôi từ hoàng cung của quốc vương nước Nguyệt Thị đến đây.”

Khi đó người gác cửa đến chỗ của con và tâu rằng:

“Tâu đại vương! Hiện có một Bà-la-môn với thân hình lùn xấu đến nơi này.”

Con nói:

“Ngươi có biết người đó muốn gì không?”

Người gác cửa thưa:

“Dạ, hạ thần không biết người đó muốn gì.”

Con nói:

“Ngươi đi kêu Bà-la-môn đó vào đây.”

Nhận được sắc lệnh, người gác cửa gọi Bà-la-môn vào trong. Khi con đã thấy, liền dâng tòa báu để người đó ngồi.

Lúc trước, con có một vị thầy, tên là Kim Tinh. Khi Bà-la-môn còn chưa vào trong, vị thầy này đã mách trước với con rằng:

“Bà-la-môn này là một kẻ ác. Hắn đến đây cốt ý là để phá hoại kế hoạch của ngài đó.”

“Nay ngài làm sao có thể biết được?”

Kim Tinh đáp:

“Thần tất nhiên biết. Đại vương có biết người đang hiện thân tới đây là ai không? Đó là vị trời Na-la-diên.”

Con nghe xong lời tâu ấy và suy nghĩ rằng:

“Ta luôn thực hành bố thì mà chưa hề thôi nghỉ. Tại sao hôm nay Bà-la-môn kia muốn tới đây phá hoại ta.”

Sau đó con nghĩ thế này:

“Ta nên dùng lời nói khôn khéo để dò hỏi Bà-la-môn đó.”

“Ngài đến chỗ của ta, thật tình ngài muốn điều gì?”

Bà-la-môn đáp:

“Tôi đến chỗ của đại vương để xin hai bước đất.”

Con nói với Bà-la-môn rằng:

“Ngài cần một ít đất và nói là muốn xin hai bước đất. Được! Tôi sẽ cho ngài ba bước đất.”

Sau đó con dùng bình vàng đựng nước sạch, [rót vào tay của Bà-la-môn để làm nghi thức bố thí] và nói rằng:

“Nếu ngài cần đất đai, vậy xin hãy nhận lấy!”

Bà-la-môn tiếp thọ và chú nguyện rằng:

“Nguyện đại vương sẽ hưởng an vui và đắc trường thọ.”

Khi đó, Bà-la-môn với thân hình lùn xấu bỗng nhiên biến mất. Lúc bấy giờ, Kim Tinh bẩm cáo với con rằng:

“Đại vương! Nay ngài sẽ thọ quả báo do từ nghiệp ác đó.”

Khi ấy vị trời Na-la-diên bỗng hốt nhiên hiện thân, trên hai vai vác mặt trời và mặt trăng, còn tay thì cầm nào là gươm bén, bánh xe, gậy, cung tên, và các khí trượng như thế. Lúc con thấy xong, liền giật mình, sợ hãi kinh hoàng, run lẩy bẩy, rồi té lăn và xỉu trên đất. Một hồi lâu sau mới tỉnh dậy và than rằng:

“Ta phải làm sao đây! Chẳng lẽ phải uống thuốc độc để chết sao?”

Khi ấy, vị trời Na-la-diên dùng bước chân đo đất đai, chỉ với hai bước mà không còn một tấc đất nào cả.

“Ta đã hứa là cho ba bước, nhưng bây giờ không đủ, ta phải làm sao đây?”

Na-la-diên nói với con rằng:

“Nay ông phải nên theo sự chỉ giáo của tôi.”

Lúc đó con thưa rằng:

“Tôi xin tuân theo sự chỉ giáo của ngài.”

Na-la-diên nói:

“Ông có thật là sẽ tuân theo không?”

Con thưa rằng:

“Tôi xin thật lòng. Lời nói này là thành thật, lòng tôi không bao giờ hối tiếc.”

Lúc bấy giờ, con y theo lời chỉ dạy và đều phá hủy tất cả những nơi tác pháp Bà-la-môn. Tất cả vàng bạc, trân bảo trang nghiêm, đồng nữ, y phục, chuông báu, lọng che, cây phất trần quý hiếm, tòa sư tử báu, bò màu vàng với châu bảo trang nghiêm, cùng các vật báu trang nghiêm, con thảy đều đưa hết cho các tiểu vương và thả họ ra khỏi nơi tác pháp đó.’

“Đại lực a-tu-la vương thưa với Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát rằng:

‘Nay con tư duy và mới tỏ ngộ. Vì thuở xa xưa, con y theo pháp Bà-la-môn để làm sự bố thí rộng lớn. Nhưng do vì việc bố thí đó là cáu bẩn, đen tối, và bất tịnh. Vì thế, nay con cùng hàng quyến thuộc phải bị cấm giam ở tại hang sắt và thọ lấy lắm khổ não. Thưa Thánh Quán Tự Tại, con nay xin quy y, nguyện ngài rủ lòng thương xót và cứu chúng con thoát khỏi chốn khổ nạn này.’

Đại lực a-tu-la vương dùng kệ tán thán rằng:

‘Quy mạng đại bi liên hoa thủ

Đại liên hoa vương đại cát tường

Đủ mọi trang nghiêm diệu sắc thân

Búi tóc mũ trời trang nghiêm báu

Đảnh đội Di-Đà Nhất Thiết Trí

Cứu độ chúng sanh vô số kể

Ai có bệnh khổ cầu an lạc

Bồ-Tát hiện thân làm y vương

Đại địa mắt sáng hơn mặt trời

Tối thượng thanh tịnh vi diệu nhãn

Chiếu soi hữu tình đắc giải thoát

Khi đã giải thoát sẽ tương ứng

Ví như ma-ni như ý bảo

Khéo hộ chân thật diệu Pháp tạng

Thường luôn tuyên nói Pháp Lục Độ

Xưng dương Pháp này đủ đại trí

Con nay thành khẩn xin quy y

Tán thán Đại Bi Quán Tự Tại

Chúng sanh nhớ niệm Bồ-Tát danh

Lìa khổ giải thoát được an ổn

Ai tạo ác nghiệp đọa địa ngục

Sợi dây đen cùng Đại A-tỳ

Nếu ai thọ khổ trong đường ác

Xưng danh hiệu ngài sẽ giải thoát

Nơi chốn ác đạo chúng hữu tình

Thảy đều lìa khổ được an vui

Nếu ai thường niệm Đại sĩ danh

Tất đắc vãng sanh Cực Lạc Quốc

Diện kiến Như Lai Vô Lượng Thọ

Nghe vi diệu Pháp chứng vô sanh’

Lúc bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát thọ ký cho đại lực a-tu-la vương rằng:

‘Vào đời vị lai, ông sẽ thành Phật, hiệu là Cát Tường Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vào lúc đó, ông sẽ chứng môn Tổng Trì của Lục Tự Đại Minh. Tất cả chúng a-tu-la hiện đang ở đây, ông vào đời vị lai sẽ đều cứu độ họ. Hết thảy chúng hữu tình trong cõi nước Phật đó đều chẳng hề nghe có tiếng của tham sân si.’

Khi đại lực a-tu-la vương nghe thọ ký xong, liền cầm xâu chuỗi anh lạc với giá trị của trăm ngàn trân châu, lại dùng muôn loại diệu bảo trang nghiêm, trăm ngàn vạn số mũ trời và bông tai để dâng lên và thưa rằng:

‘Xin hãy rủ lòng thương xót mà nhận lấy cho.’

Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát bảo đại lực a-tu-la vương rằng:

‘Ta nay sẽ vì ông mà thuyết Pháp, ông hãy lắng nghe và khéo tư duy. Đời là vô thường huyễn hóa, mạng sống ngắn ngủi và gặp nhiều khổ nạn. Trong lòng các ông thường nghĩ tưởng tham muốn có đầy đủ phước đức lớn, lòng thường yêu thích nô tỳ và nhân dân, cho đến lúa gạo, kho chứa thực phẩm cùng những bảo tàng lớn. Lòng thường yêu thích cha mẹ, vợ con cùng hàng quyến thuộc. Những việc như vậy, tuy thường yêu thích nhưng thấy chúng như đang ở trong mộng. Khi đến lúc lâm chung, không một thứ gì có thể tương trợ cứu giúp và làm cho họ sống mãi ở Nam Thiệm Bộ Châu.

Do bởi điên đảo nên sau khi mạng chung, họ thấy con sông lớn Nại Hà với tràn khắp máu mủ đang trôi chảy. Họ lại thấy những cây cối to lớn đang bốc cháy phừng phực. Khi thấy việc ấy rồi, lòng sanh kinh sợ. Lúc đó, các ngục tốt của Diêm Vương dùng dây trói cột và kéo họ đi qua các đại lộ đầy mũi nhọn mà chẳng chút thương tiếc. Nhấc chân lên hoặc bỏ chân xuống, họ đều bị đâm, bị cắt, bị xẻo. Lại còn có vô số diều hâu đen, loài chim củ-la-la và chó dại ăn thịt của họ. Họ ở trong đại địa ngục để chịu ách khổ cùng cực như thế.

Trên các đại lộ đầy mũi nhọn, lại có những cây gai lớn và dài đến 12 ngón tay. Trong mỗi bước đi có 500 cây gai đâm vào lòng bàn chân, làm cho họ khóc lóc thảm thiết và than rằng:

“Loài hữu tình chúng ta tạo nghiệp tội đều do bởi tham ái. Bây giờ phải thọ lấy ách khổ cùng cực, giờ chúng ta có thể làm gì đây?”

Khi đó, các ngục tốt của Diêm Vương liền nói:

“Từ xưa đến nay, các ngươi chưa từng lấy thức ăn để cúng dường Sa-môn, chưa từng nghe Pháp âm và cũng chưa từng nhiễu quanh tháp tượng.”

Lúc ấy chúng tội nhân thưa với các ngục tốt của Diêm Vương rằng:

“Do bởi tội chướng, chúng tôi chẳng thể tin hiểu cùng tôn kính Phật Pháp Tăng, vì thế mà thường xa lánh.”

Các ngục tốt nói rằng:

“Các ngươi tự mình tạo đủ mọi nghiệp ác, nay phải tự thọ lấy khổ báo.”

Nói xong, các ngục tốt mang những người tội đến chỗ của Diêm Vương. Khi đến nơi, họ đứng ở trước và lúc ấy vua Diêm-la phán rằng:

“Đem bọn chúng đến nơi của nghiệp báo.”

Khi đó, các ngục tốt của Diêm Vương lôi kéo người tội đến đại địa ngục sợi dây đen. Lúc đến nơi, những tội nhân này, từng người từng người một bị ném xuống đó. Khi ném vào trong địa ngục, thân thể của mỗi tội nhân bị 100 cây thương đâm vào thân xác, nhưng họ đều không chết. Tiếp đó, lại bị 200 cây thương lớn đâm vào thân, nhưng họ vẫn còn sống. Sau cùng, có 300 cây thương lớn đồng một lúc đâm vào thân xác của mỗi người tội, nhưng họ vẫn không chết.

Khi tánh mạng được phục hồi, lúc ấy họ lại bị ném vào trong vạc lửa lớn, nhưng họ vẫn không chết. Ngay lúc ấy, họ lại bị các ngục tốt bỏ những viên sắt nóng vào trong miệng và bắt nuốt, khiến cho môi, răng, thịt chân răng, hàm răng cùng cổ họng thảy đều cháy chín. Tim, ruột, và bụng bị cháy sèo sèo và làm cho toàn thân bị thiêu rụi.’

Lại bảo đại lực a-tu-la vương rằng:

‘Khi thọ khổ như thế, sẽ không một ai có thể tương cứu. Ông nên biết, ta nay vì ông mà thuyết Pháp như vậy. Các ông phải nên siêng năng tu phước.’

Khi ấy, Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát bảo đại lực a-tu-la vương rằng:

‘Ta nay muốn đến vườn Kỳ-đà, hôm nay đại chúng đang hội họp nơi đó.’

Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra vô số ánh sáng với màu sắc khác nhau, như là ánh sáng màu xanh, ánh sáng màu vàng, ánh sáng màu đỏ, ánh sáng màu trắng, ánh sáng màu pha lê, ánh sáng màu vàng kim, và những ánh sáng khác như thế. Những ánh sáng này chiếu đến ở trước Đức Tỳ-xá-phù Như Lai.

Khi đó có trời, rồng, dạ-xoa, la-sát, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, cùng người và phi nhân đều đến hội họp.

Lại có vô số chư Bồ-Tát Ma-ha-tát cũng đều đến hội họp.

Lúc ấy trong đại chúng có một vị Bồ-Tát, tên là Hư Không Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, trịch áo lộ vai phải, gối phải quỳ sát đất, cung kính chắp tay, rồi hướng về Đức Phật kia mà bạch rằng:

‘Bạch Thế Tôn! Những ánh sáng này là từ đâu chiếu đến?’

Đức Phật kia bảo:

‘Này thiện nam tử! Những ánh sáng này là từ Quán Tự Tại Bồ-Tát ở trong cung điện của đại lực a-tu-la vương phóng ra và chiếu đến nơi đây.’

Lúc đó Hư Không Tạng Bồ-Tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

‘Con nay phải dùng phương tiện gì mới có thể thấy Quán Tự Tại Bồ-Tát kia?’

Đức Phật kia bảo:

‘Này thiện nam tử! Vị Bồ-Tát kia cũng đang đến nơi này.’

Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát rời khỏi cung điện của đại lực a-tu-la vương, vườn Kỳ-đà bỗng hốt nhiên có những cây bông hoa vi diệu cõi trời và cây trời kiếp-ba-la. Chúng được trang nghiêm với vô số châu báu cõi trời, có màu sắc khác nhau và tươi đẹp lạ thường. Treo ở trên đó là hàng trăm loại trân châu anh lạc. Lại treo áo kiều-thi-ca cùng đủ các loại y phục khác nữa. Thân cây và cành có màu đỏ rực, lá được làm bằng vàng và bạc. Lại có vô số cây tỏa mùi hương vi diệu, cây bông hoa thù thắng vi diệu, và vô số ao tắm báu với trăm ngàn vạn tạp sắc diệu hoa đầy khắp trong đó.

Khi xuất hiện các việc như thế, Hư Không Tạng Bồ-Tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

‘Tại sao đến giờ Quán Tự Tại Bồ-Tát kia vẫn còn chưa đến?’

Đức Phật kia bảo:

‘Này thiện nam tử! Sau khi Quán Tự Tại Bồ-Tát kia từ cung điện của đại lực a-tu-la vương rời khỏi, có một nơi khác mà không ai có thể đến, tên gọi là Hắc Ám.

Này thiện nam tử! Ở nơi tối tăm kia, ánh sáng của mặt trời và mặt trăng không thể rọi đến, nhưng ở đó có như ý bảo, tên là Tùy Nguyện, và luôn phát ra ánh sáng chiếu soi. Ở nơi kia có vô số trăm ngàn vạn dạ-xoa đang trú trong đó. Khi chúng thấy Quán Tự Tại Bồ-Tát vào trong ấy, tâm sanh hoan hỷ, hớn hở vui mừng và chạy đến nghênh tiếp Quán Tự Tại Bồ-Tát, đầu đảnh lễ dưới chân Bồ-Tát và thưa hỏi rằng:

‘Nay Đức Bồ-Tát không mệt mỏi khi đến đây chứ? Ngài đã lâu rồi chẳng đến nơi tối tăm này.’

Quán Tự Tại Bồ-Tát nói rằng:

‘Đó là bởi vì ta cần cứu độ các hữu tình.’

Khi ấy, những dạ-xoa cùng chúng la-sát kia lấy tòa sư tử báu bằng vàng kim của cõi trời để mời Đức Bồ-Tát ngồi:

Lúc đó, Đức Bồ-Tát vì những dạ-xoa cùng chúng la-sát kia mà thuyết Pháp:

‘Các ông hãy lắng nghe. Có một bộ Kinh Đại Thừa tên là Trang Nghiêm Bảo Vương. Nếu có ai nghe được dù chỉ bốn câu kệ mà có thể thọ trì đọc tụng cùng giảng giải nghĩa ý và tâm thường tư duy, thì phước đức đạt được sẽ không có hạn lượng.

Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lượng của hết thảy vi trần, nhưng thiện nam tử, nếu ai như có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này, thì ta chẳng thể nào đếm hết số lượng phước đức mà người ấy có được.

Ví như nước trong biển lớn, ta có thể đếm mỗi một giọt nước trong đó; nhưng nếu ai có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh này, thì ta chẳng thể nào đếm hết số lượng phước đức mà người ấy có được. Không chỉ riêng ta ở nơi tối tăm này chẳng thể nói hết, dù cho 12 Hằng Hà sa số Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, tất cả đều hội họp cùng một nơi và trải qua 12 kiếp, thì cũng chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức như vậy.

Thiện nam tử! Lại ví như tất cả người trong bốn châu lớn đều sửa sang nhà của họ đang sống thành một tinh xá. Ở trong đó, họ dùng châu báu vàng kim cõi trời để dựng xây 1.000 cái tháp. Trong một ngày thì thảy đều hoàn tất, rồi họ dùng mọi thứ để cúng dường. Tuy nhiên, phước đức có được chẳng bằng phước đức của người có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh này.

Thiện nam tử! Ví như năm con sông lớn đổ vào đại hải, sự lưu chuyển của chúng là chẳng có cùng tận. Cũng như vậy, nếu như ai có thể thọ trì bốn câu kệ trong bộ Kinh Đại Thừa này, thì phước đức có được cũng như nước sông chảy vào biển và sẽ là vô tận.’

Khi đó, những dạ-xoa và chúng la-sát kia thưa với Quán Tự Tại Bồ-Tát rằng:

‘Nếu có hữu tình nào mà có thể biên chép bộ Kinh Đại Thừa này, thì số lượng phước đức có được là bao nhiêu?’

‘Thiện nam tử! Phước đức có được là không có bờ mé. Nếu ai có thể biên chép Kinh này thì đồng như biên chép 84.000 Pháp tạng, một chút cũng chẳng sai khác đi. Người này sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, thống nhiếp tứ đại châu cùng với diện mạo đoan nghiêm, và sẽ có 1.000 con trai vây quanh. Tất cả quân địch ngoại bang đều tự nhiên thần phục.

Nếu ai có thể thường luôn nhớ nghĩ đến danh hiệu của Kinh này, thời người ấy sẽ sớm được giải thoát của luân hồi khổ ách, xa hẳn già chết cùng ưu sầu khổ não. Ở những nơi sinh ra vào đời sau, họ sẽ nhớ việc đời trước. Trên thân thường có mùi hương của ngưu đầu chiên đàn, trong miệng thường tỏa ra mùi hương của hoa sen xanh. Họ có thân tướng viên mãn và đầy đủ uy thế lớn.’

Khi Pháp vừa thuyết xong, có những dạ-xoa cùng chúng la-sát kia đắc quả Dự Lưu và có vài trong số đó đắc quả Nhất Lai. Sau đó, họ tác bạch lời như vầy:

‘Cuối mong Bồ Tát hãy ở nơi này và chớ đi nơi khác. Nay chúng con sẽ ở nơi tối tăm này, lấy vàng kim báu cõi trời xây tháp và lại dùng vàng báu để tạo lập nơi kinh hành.’

Lúc ấy Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát nói rằng:

‘Ta vì phải cứu độ vô số chúng hữu tình và khiến họ đều đắc Đạo Bồ-đề nên mới muốn đi đến nơi khác.’

Khi đó các dạ-xoa và la-sát, mỗi mỗi đều cúi đầu, lấy tay kê lên má và bồi hồi suy nghĩ, rồi nói với nhau lời như thế này:

‘Bây giờ Quán Tự Tại Đại Bồ-Tát sẽ rời khỏi nơi này, về sau ai sẽ là người có thể thuyết vi diệu Pháp cho chúng ta đây?’

Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát rời khỏi, tất cả chúng dạ-xa cùng la-sát kia đều đi theo đưa tiễn. Sau đó, Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát bảo họ rằng:

‘Các ông đã tiễn rất xa rồi, hãy nên trở về đi.’

Lúc ấy, những dạ-xoa cùng chúng la-sát kia, đầu đảnh lễ sát đất ở dưới chân của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát, rồi họ trở về chốn cũ.

Lúc bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát bay lên hư không như ngọn lửa và thẳng đến thiên cung. Khi đã đến thiên cung kia, ngài hiện thân làm Bà-la-môn. Trong thiên chúng ở đó có một vị thiên tử, tên là Diệu Nghiêm Nhĩ, thường phải chịu khổ do quả báo bần cùng. Khi đó, Bà-la-môn do Quán Tự Tại Bồ-Tát hóa thân, đi đến chỗ của vị thiên tử kia. Lúc đến nơi, nói rằng:

‘Tôi đang bị đói lại còn bị khát nữa.’

Khi ấy, vị thiên tử kia nghẹn ngào than khóc mà nói với Bà-la-môn rằng:

‘Hiện tôi rất nghèo khốn và chẳng có vật gì để dâng cho ngài cả.’

Bà-la-môn nói:

‘Tôi đã bỏ công đến đây, cho dù là ít đến đâu thì ngài cũng nên biếu một chút gì.’

Lúc đó, vị thiên tử kia vào trong cung và cố gắng lục tìm các đồ vật. Bỗng nhiên thấy có những cái rương báu lớn đựng đầy các dị bảo ở trong đó. Lại có cái rương báu đựng đầy thức ăn nước uống ngon lạ. Lại có các thượng diệu y phục đầy khắp trong cung. Khi ấy vị thiên tử kia suy nghĩ rằng:

‘Hiện tại vị Bà-la-môn ở ngoài cửa nhất định là một người chẳng thể nghĩ bàn, nên mới khiến mình được những phước lợi phi thường này.’

Kế đó, vị thiên tử thỉnh đại Bà-la-môn kia vào trong cung của mình và cầm bảo châu vi diệu cõi trời cùng thượng vị ẩm thực cõi trời để dâng lên cúng dường. Khi thọ nhận xong, Bà-la-môn kia chú nguyện rằng:

‘Nguyện ngài sẽ hưởng an vui và đắc trường thọ.’

Khi ấy vị thiên tử kia thưa với Bà-la-môn rằng:

‘Hiền giả! Ngài từ đâu đến đây?’

Bà-la-môn nói:

‘Ta từ trong đại Tinh xá Kỳ Viên mà đến đây.’

Vị thiên tử hỏi:

‘Nơi đó như thế nào?’

Bà-la-môn bảo rằng:

‘Trong Tinh xá Kỳ Viên, đất đai nơi đó thanh tịnh và xuất hiện những cây kiếp-ba-la được trang nghiêm bằng ma-ni báu cõi trời. Lại hiện ra muôn loại như ý ma-ni bảo châu. Lại hiện ra đủ mọi ao báu. Lại có vô số đại chúng với giới đức uy nghiêm và đầy đủ đại trí tuệ cũng xuất hiện trong ấy. Nơi đó có một Đức Phật, hiệu là Tỳ-xá-phù Như Lai. Các thánh chúng và chư thiên cũng trú nơi đó nên mới xuất hiện những sự biến hóa như vậy.’

Khi ấy vị thiên tử kia thưa rằng:

‘Hiền giả! Xin hãy nói sự thật, đại Bà-la-môn ngài là trời hay là người vậy? Hiền giả! Tại sao hôm nay lại xuất hiện những điều kỳ diệu như thế?’

Bà-la-môn liền nói:

‘Ta chẳng phải trời và cũng chẳng phải người. Ta là một vị Bồ-Tát muốn cứu độ hết thảy hữu tình, khiến cho họ đều thấy Đạo Bồ-đề quảng đại.’

Khi vị thiên tử này nghe xong, liền cầm mũ trời báu vi diệu cùng bông tai trang nghiêm để dâng lên cúng dường và nói kệ rằng:

‘Con nay gặp được công đức địa

Xa hẳn tội chướng cùng cấu dơ

Vừa mới gieo trồng nơi phước điền

Liền được quả báo thù thắng thay’

Lúc vị thiên tử này nói lên bài kệ ấy và sự hóa độ của Bà-la-môn kia cũng đã hoàn mãn, thế nên Bồ-Tát rời thiên cung và liền đi tới nước Sư Tử. Khi đến nơi, ngài đứng ở trước các la-sát nữ với tướng mạo hóa hiện đoan nghiêm, sắc tướng thù đặc và vi diệu hiếm thấy. Khi các la-sát nữ thấy dung mạo như thế, liền khởi lòng ham muốn. Với sự hân hoan cùng ái mộ, họ đến gần và nói rằng:

‘Anh có thể làm phu quân của em không? Em là đồng nữ và vẫn chưa sánh duyên với ai, mong anh hãy làm phu quân của em. Bây giờ anh đã đến đây, xin chớ dời bước đi nơi khác. Em như người có không chủ, mong anh có thể làm người chủ của em. Em lại như căn phòng tối, mong anh hãy làm ngọn đèn sáng của em. Hiện chỗ của em có thức ăn nước uống, y phục, và rất nhiều kho chứa đồ. Lại có vườn trái cây xinh tươi và ao tắm mát mẻ.’

Bồ-Tát bảo la-sát nữ rằng:

‘Nay các cô hãy lắng nghe ta nói.’

Các la-sát nữ nói:

‘Dạ vâng, các em rất thích nghe những gì anh bảo.’

‘Hôm nay ta sẽ vì các cô mà thuyết Pháp Bát Chánh Đạo. Lại vì các cô mà thuyết Pháp Tứ Thánh Đế.’

Khi các la-sát nữ nghe Pháp đó xong, họ liền chứng quả. Có vị đắc quả Dự Lưu. Hoặc có vị đắc quả Nhất Lai. Họ chẳng còn khổ bức của tham sân si, không khởi lòng ác và không còn có ý nghĩ giết hại. Tâm họ yêu mến Pháp và vui thích trong giới luật. Sau đó, họ nói lời như vầy:

‘Từ nay về sau, chúng con sẽ không bao giờ sát sanh. Chúng con sẽ sống như những người trì giới ở châu Nam Diêm-phù-đề và dùng thức ăn nước uống thanh tịnh. Kể từ bây giờ, chúng con sẽ sống y như họ vậy.’

Khi các la-sát nữ đã không còn tạo ác nghiệp và họ có thể tu học thọ trì, Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát rời khỏi nước Sư Tử, rồi đi đến đại thành Ba-la-nại. Nơi dơ bẩn xấu ác kia có vô số trăm ngàn vạn loại côn trùng và con giòi đang ở trong ấy. Quán Tự Tại Bồ-Tát vì muốn cứu độ chúng hữu tình kia nên hóa hiện thành một con ong mà bay đến đó và trong miệng phát ra âm thanh như vầy:

‘Nam-mô Phật-đà-da!’

Các loài trùng kia nghe theo âm thanh đó và đều xưng niệm như tiếng ấy. Tuy sở chấp nơi thân kiến cùng các tùy phiền não của loài hữu tình kia như núi Tu-di, nhưng do bởi oai lực nên đều bị chày trí tuệ kim cang phá hủy hết sạch. Liền đó, chúng được vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc và đều trở thành Bồ-Tát với đồng tên gọi là Diệu Hương Khẩu.

Khi đã cứu độ chúng hữu tình kia xong, Bồ-Tát rời đại thành Ba-la-nại và đi đến nước Ma-kiệt-đà. Lúc bấy giờ ở trong nước kia bị hạn hán suốt 12 năm ròng. Dân chúng cùng các loài hữu tình vì bị đói khát làm cho khổ não bức bách nên ăn thịt lẫn nhau. Khi thấy thế, tâm của Quán Tự Tại Bồ-Tát tư duy rằng:

‘Ta phải dùng phương tiện gì để cứu những chúng sanh này?’

Lúc ấy, Quán Tự Tại Bồ-Tát giáng xuống những cơn mưa. Trước tiên, ngài mưa xuống nước để dẹp trừ cơn hạn hán. Tiếp đến, mưa xuống các loại thùng đựng và mỗi cái đều chứa đầy ẩm thực ngon lạ trong đó. Khi ấy dân chúng kia được các thức ăn nước uống như thế và thảy đều no đủ. Kế đó, Bồ-Tát lại mưa xuống thóc, đậu, và những vật dụng khác để cho dân chúng kia đều tùy ý mãn túc.

Lúc bấy giờ, hết thảy dân chúng trong nước Ma-kiệt-đà đều kinh ngạc và xem là việc chưa từng có. Lúc ấy, họ nhóm họp lại một nơi. Khi đã tụ tập đông đủ, ai nấy đều nói rằng:

‘Nay việc này là sao? Đây có phải là do oai lực của trời không?’

Khi ấy, ở giữa trong đại chúng kia có một ông lão rất già, lưng còng, tay cầm gậy, và đã sống đến vô số trăm ngàn năm. Lão ông bảo dân chúng rằng:

‘Đây chẳng phải là oai lực của trời đâu. Nay hiện ra điềm lành đó, nhất định là oai đức thần lực của Quán Tự Tại Bồ-Tát biến hiện ra.’

Dân chúng hỏi rằng:

‘Làm thế nào mà Quán Tự Tại Bồ-Tát kia có thể hiện ra các điềm lành ấy?’

Lão ông liền nói:

‘Công đức thần lực của Thánh Quán Tự Tại kia:

– có thể làm ngọn đèn sáng cho những ai mù lòa.

– có thể che chở cho những ai đang rơi vào đám lửa cháy phừng.

– có thể hiện làm con sông cho những ai khát nước.

– có thể ban điều không sợ hãi cho những ai đang sống trong sợ hãi.

– có thể làm y dược cho những ai mắc bệnh khổ.

– có thể làm cha mẹ cho những ai đang thọ khổ.

– có thể khiến chúng sanh trong Địa Ngục Vô Gián thấy Đạo Niết-bàn.

– có thể khiến hết thảy chúng sanh trong thế gian được công đức, lợi ích và an lạc.

Nếu lại có người niệm danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ-Tát, thì người này sẽ xa rời tất cả sự thống khổ của luân hồi.’

Khi dân chúng nghe xong, đều đồng tán dương:

‘Lành thay!’

‘Nếu như ai có thể kiến lập một Pháp tràng mạn-đà-la hình vuông ở trước tượng của Quán Tự Tại Bồ-Tát và thường đem hương hoa để cúng dường Quán Tự Tại Bồ-Tát, thì người này trong tương lai sẽ đắc sanh làm Chuyển Luân Thánh Vương và có đầy đủ các đồ thất bảo, gồm có: kim luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, chủ tàng báu, và chủ binh báu.

Nếu lại có người có thể cúng dường Quán Tự Tại Bồ-Tát một đóa hoa, thì thân thể người này sẽ tỏa ra mùi hương vi diệu và mọi nơi sanh ra đều được thân tướng viên mãn.’

Khi ông lão này đã nói về công đức thần lực của Quán Tự Tại Bồ-Tát xong, lúc đó dân chúng, mỗi mỗi đều trở về nơi trú xứ của mình và ông lão cũng trở về chốn cũ.

Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-Tát bay lên hư không và suy nghĩ rằng:

‘Ta đã lâu không gặp Đức Tỳ-xá-phù Như Lai. Bây giờ ta nên đi đến Tinh xá Kỳ Viên để gặp Ngài.’

Khi đó, Quán Tự Tại Bồ-Tát liền đi đến tinh xá kia và thấy có vô số trăm ngàn vạn trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân. Lại có vô số trăm ngàn vạn chư Bồ-Tát cũng đều đến hội họp.

Lúc bấy giờ Hư Không Tạng Bồ-Tát bạch Đức Phật kia rằng:

‘Bạch Thế Tôn! Vị Bồ-Tát đang đến là ai?’

Đức Phật kia bảo:

‘Này thiện nam tử! Đó là Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát.’

Hư Không Tạng Bồ-Tát nghe xong và giữ lặng yên.

Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát nhiễu quanh Đức Phật kia ba vòng, rồi ngồi sang ở bên trái. Lúc đó Đức Thế Tôn kia nói lời hỏi thăm rằng:

‘Ông không mệt mỏi chứ! Thiện nam tử! Ông đến những nơi khác giáo hóa, việc ấy như thế nào?’

Quán Tự Tại liền thuật lại việc giáo hóa của mình.

‘Con đã cứu độ chúng hữu tình như vầy như vầy!’

Khi Hư Không Tạng Bồ-Tát nghe xong, trong lòng kinh ngạc chưa từng có:

‘Nay ta đã thấy Quán Tự Tại, vị Bồ-Tát có thể cứu độ chúng sanh ở những quốc độ như thế, khiến cho họ thấy các Đức Như Lai, và làm cho các chúng sanh ở những quốc độ như vậy đều trở thành Bồ-Tát.’

Lúc ấy, Hư Không Tạng Bồ-Tát đứng ở trước Quán Tự Tại và hỏi Quán Tự Tại Bồ-Tát rằng:

‘Nhân giả đi hóa độ như thế, Nhân giả có mệt không?’

Ngài Quán Tự Tại nói:

‘Tôi không mệt.’

Khi hỏi xong, Hư Không Tạng Bồ-Tát giữ lặng yên.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn kia bảo các thiện nam tử rằng:

‘Các ông hãy lắng nghe, nay Ta sẽ vì các ông mà thuyết Pháp Lục Độ Ba-la-mật. Này các thiện nam tử! Phàm ai muốn làm Bồ-Tát thì trước tiên nên tu hành Bố Thí Ba-la-mật, rồi sau đó tu hành Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, và Trí Tuệ Ba-la-mật. Được như thế, họ sẽ thành tựu viên mãn và đầy đủ Lục Độ Ba-la-mật.’

Khi thuyết Pháp xong, Đức Như Lai kia giữ lặng yên. Khi ấy, các đại chúng trong Pháp hội kia, mỗi mỗi đều cáo lui và trở về bổn xứ của mình. Chư Bồ-Tát nơi đó cũng cáo lui và trở về cõi nước Phật của họ.”

QUYỂN 3

Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Con đã nghe Phật kể về sự tích của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát, nay kính mong Thế Tôn vì con mà tuyên nói vị Bồ-Tát kia có những môn tam-muội gì?”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Những môn tam-muội đó là:

– Hữu Tướng Tam-muội,

– Vô Tướng Tam-muội,

– Kim Cang Sanh Tam-muội,

– Nhật Quang Minh Tam-muội,

– Quảng Bác Tam-muội,

– Trang Nghiêm Tam-muội,

– Tinh Kỳ Tam-muội,

– Tác Trang Nghiêm Tam-muội,

– Trang Nghiêm Vương Tam-muội,

– Chiếu Thập Phương Tam-muội,

– Diệu Nhãn Như Ý Tam-muội,

– Trì Pháp Tam-muội,

– Diệu Tối Thắng Tam-muội,

– Thí Ái Tam-muội,

– Kim Cang Phan Tam-muội,

– Quán Sát Nhất Thiết Thế Giới Tam-muội,

– Nhạo Thiện Thệ Tam-muội,

– Thần Thông Nghiệp Tam-muội,

– Phật Đảnh Luân Tam-muội,

– Diệu Nhãn Nguyệt Tam-muội,

– Liễu Đa Quyến Thuộc Tam-muội,

– Thiên Nhãn Tam-muội,

– Minh Chiếu Kiếp Tam-muội,

– Biến Hiện Kiến Tam-muội,

– Liên Hoa Thượng Tam-muội,

– Thượng Vương Tam-muội,

– Thanh Tịnh A-tỳ Tam-muội,

– Tín Tướng Tam-muội,

– Thiên Luân Tam-muội,

– Sái Cam Lộ Tam-muội,

– Luân Quang Minh Tam-muội,

– Hải Thâm Tam-muội,

– Đa Cung Tam-muội,

– Ca-lăng-tần-già Thanh Tam-muội,

– Thanh Liên Hoa Hương Tam-muội,

– Vận Tải Tam-muội,

– Kim Cang Khải Tam-muội,

– Trừ Phiền Não Tam-muội,

– Sư Tử Bộ Tam-muội,

– Vô Thượng Tam-muội,

– Hàng Phục Tam-muội,

– Diệu Nguyệt Tam-muội,

– Quang Diệu Tam-muội,

– Bách Quang Minh Tam-muội,

– Quang Sí Thịnh Tam-muội,

– Quang Minh Nghiệp Tam-muội,

– Diệu Tướng Tam-muội,

– Khuyến A-tu-la Tam-muội,

– Cung Điện Tam-muội,

– Hiện Viên Tịch Tam-muội,

– Đại Đăng Minh Tam-muội,

– Đăng Minh Vương Tam-muội,

– Cứu Luân Hồi Tam-muội,

– Văn Tự Dụng Tam-muội,

– Thiên Hiện Tiền Tam-muội,

– Tương Ứng Nghiệp Tam-muội,

– Kiến Chân Như Tam-muội,

– Điện Quang Tam-muội,

– Long Nghiêm Tam-muội,

– Sư Tử Tần Thân Tam-muội,

– Sa-để-diện Tam-muội,

– Vãng Phục Tam-muội,

– Giác Ngộ Biến Tam-muội,

– Niệm Căn Tăng Trưởng Tam-muội,

– Vô Tướng Giải Thoát Tam-muội,

– Tối Thắng Tam-muội,

– và Khai Đạo Tam-muội.

Này thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát không chỉ có những tam-muội đó, mà trong mỗi một lỗ chân lông cũng có trăm ngàn vạn tam-muội.

Này thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát là một vị Bồ-Tát nhưng có công đức như thế. Cả đến chư Phật Như Lai cũng ngợi khen công đức như vậy là chưa từng có.

Này thiện nam tử! Vào thuở xa xưa khi Ta là một vị Bồ-Tát, ta cùng với 500 thương nhân vì muốn đến trong nước Sư Tử để tìm tài bảo, nên đã mang theo xe cộ, lạc đà, trâu bò và những đồ vật khác. Thế là đoàn thương nhân khởi hành lên đường. Họ băng qua các thôn xã, thành ấp, và xóm làng. Tiếp đó họ đến một ven biển và đáp thuyền ra khơi. Khi đã lên trên thuyền, ta hỏi chủ thuyền rằng:

‘Ông có thể xem hướng gió này là từ đâu đến và sẽ thổi đến nước nào không? Là sẽ đến lục địa châu báu, nước Xà-bà, hay là nước La-sát?’

Vị chủ thuyền xem hướng gió và nói lời như thế này:

‘Cứ y theo hướng gió bây giờ thì chắc chắn chúng ta sẽ đi đến nước Sư Tử.’

Và thế là các thương nhân nương sức gió và lướt nhanh đến nước Sư Tử. Ở trong nước kia có 500 la-sát nữ bỗng hốt nhiên tạo một trận cuồng phong. Cơn giông tố nổi lên những con sóng dữ dội và phá hủy đi thuyền của họ. Lúc đó, các thương nhân bị rơi vào trong biển nước, nổi lênh đênh và cuối cùng họ bơi được đến bờ. Khi 500 la-sát nữ kia thấy các thương nhân, thân thể của mỗi la-sát nữ dao động và phát ra âm thanh dữ tợn. Sau đó, chúng hóa thành những đồng nữ, rồi đi đến chỗ của các thương nhân và cho họ y phục. Các thương nhân mặc y phục này, rồi vắt quần áo ướt của mình và đem đi phơi khô. Các thương nhân rời nơi kia và liền đến dưới gốc cây chiêm-ba-ca nghỉ ngơi. Nghỉ xong, họ đều nói với nhau rằng:

‘Bây giờ chúng ta cũng chẳng biết tính sao, vậy phải làm gì bây giờ?’

Nói xong, họ đều im lặng. Lúc bấy giờ, những la-sát nữ kia lại đến ở trước các thương nhân và nói lời như thế này:

‘Em vẫn chưa có chồng, anh có thể làm phu quân của em không? Chỗ của em có thức ăn nước uống, y phục, kho chứa đồ, khu lâm viên, và ao tắm.’

Sau đó, mỗi một la-sát nữ kia dẫn một người thương nhân về nơi cư trú của mình. Trong những la-sát nữ này có một nữ la-sát chúa, tên là Ra-để-ca-lãm. Nữ la-sát chúa kia dẫn ta về nơi cư trú của cô ta, rồi cô ấy lấy những ẩm thực ngon lạ để cung cấp cho ta. Ta ăn uống no nê và cảm thấy vui vẻ như ở nhân gian không khác. Thời gian ở nơi đó vừa đúng 42 ngày, một hôm ta bỗng nhiên thấy Ra-để-ca-lãm cười bẽn lẽn. Lúc ấy ta cảm thấy kỳ lạ, bởi chưa hề khi nào ta thấy hoặc nghe điều quái dị như vậy. Khi la-sát nữ kia cười như thế, ta hỏi rằng:

‘Vừa rồi sao nàng lại cười như thế?’

La-sát nữ đáp:

‘Nước Sư Tử này là nơi ở của các la-sát nữ, em sợ anh sẽ bị nguy hiểm đến tánh mạng.’

Khi đó ta hỏi:

‘Sao nàng lại biết?’

La-sát nữ đáp:

‘Anh nhớ đừng đi về hướng nam! Bởi nơi đó có một thành bằng sắt, trên dưới và xung quanh đều chẳng có cửa. Ở trong đó có vô số thương nhân, phần nhiều đã bị ăn thịt và chỉ còn sót lại hài cốt. Hiện giờ nơi đó vẫn còn thấy có kẻ sống người chết. Anh không tin thì cứ đi theo con đường này thì sẽ đến nơi đó và anh sẽ tin những gì em nói.’

Sau đó, ta đợi đến khi cô ấy ngủ say, tới lúc nửa đêm, ta cầm thanh kiếm nguyệt quang rồi đi về hướng nam. Khi đã đến thành sắt kia, ta đi xung quanh mà chẳng nhìn thấy một cánh cửa hay cửa sổ nào. May thay bên cạnh thành sắt kia có một cây chiêm-ba-ca, thế là ta trèo lên cây và lúc đó ta hô lớn vào. Khi ấy các thương nhân trong thành sắt trả lời rằng:

‘Hiền đại thương chủ! Ngài có biết rằng chúng tôi bị chúng la-sát nữ nhốt tại thành sắt này và mỗi ngày có 100 người bị chúng ăn thịt.’

Sau đó, họ kể tường tận mọi việc đã xảy ra. Khi nghe xong, ta tụt xuống cây chiêm-ba-ca, theo đường cũ và cấp tốc trở về nơi của la-sát nữ kia. Khi đó, cô ấy hỏi ta rằng:

‘Hiền đại thương chủ! Anh có thấy thành sắt như em đã nhắc qua hay không? Giờ anh hãy nói thật đi.’

Ta nói:

‘Anh đã thấy!’

Tiếp đó, ta lại hỏi cô ấy rằng:

‘Anh phải làm cách nào mới ra khỏi nơi này được.’

La-sát nữ kia bảo ta rằng:

‘Hiện có một cách chu đáo khiến anh có thể bình an rời khỏi nước Sư Tử để trở về Nam Thiệm Bộ Châu.’

Nghe nói thế, ta lại hỏi cô ấy rằng:

‘Làm sao anh mới rời khỏi nước Sư Tử được?’

Lúc đó Ra-để-ca-lãm bảo ta rằng:

‘Ở nước Sư Tử có một Thánh Mã Vương hay khéo có thể cứu độ tất cả hữu tình.’

Sau đó, ta tìm được cơ hội để đi đến chỗ của Thánh Mã Vương kia. Lúc ấy, ngài đang ăn dược thảo trắng. Khi ăn xong, ngài lăn trên bãi cát vàng, rồi đứng dậy, rung rẩy lông trên thân và nói lời như thế này:

‘Có ai muốn đi qua bờ kia không?’

Ngài đã hỏi đến ba lần như vậy.

‘Nếu ai muốn đi thì hãy tự lên tiếng.’

Khi đó ta nói với Thánh Mã Vương rằng:

‘Nay tôi muốn đi qua bờ kia.’

Nói như vậy xong, ta trở về lại chỗ của la-sát nữ kia, rồi đi ngủ. Khi la-sát nữ kia thức giấc từ cơn ngủ say, lòng cảm thấy hối hận và hỏi ta rằng:

‘Thương chủ, tại sao thân mình của anh lạnh quá vậy?’

Biết cô ấy không nỡ muốn ta đi, nên ta đã dùng phương tiện mà nói với la-sát nữ rằng:

‘Anh đã ra ngoài thành một lát, rồi trở về nên thân mình của anh mới lạnh như thế.’

Cô ấy nói với ta rằng:

‘Hãy ngủ đi thôi!’

Ta ngủ đến khi mặt trời mọc và lúc đó ta mới đi gọi các thương nhân:

‘Bây giờ các người hãy ra khỏi thành và đợi ở ngoài đó.’

Khi các thương nhân đều đã ra khỏi thành, họ tụ tập ở một nơi để nghỉ ngơi và nói với nhau rằng:

‘Nay trong nhóm của chúng ta đây, hãy xem vợ của ai là thương người đó nhất. Mỗi người hãy kể ra những gì đã thấy và việc đó như thế nào.’

Lúc ấy có người trong đó nói rằng:

‘Cô ta lấy cao lương mỹ vị để cung cấp cho tôi.’

Hoặc có người nói rằng:

‘Cô ta mang đủ mọi quần áo để cung cấp cho tôi.’

Hoặc có người nói rằng:

‘Cô ta lấy mũ trời, bông tai và y phục để cung cấp cho tôi.’

Hoặc có người nói rằng:

‘Tôi chẳng được gì cả, chỉ toàn là sự bất mãn.’

Hoặc có người nói rằng:

‘Cô ta lấy các long hương, xạ hương và hương chiên đàn để cung cấp cho tôi.’

Khi các thương nhân nói lời đó xong, ta bảo họ rằng:

‘Các người thật khó mà giải thoát, sao các người lại tham luyến chúng la-sát nữa kia?’

Chúng thương nhân nghe xong, lòng sanh tâm sợ hãi và hỏi rằng:

‘Đại thương chủ, có thật là như vậy không?’

Ta liền bảo họ:

‘Nước Sư Tử này là nơi ở của các la-sát nữ. Họ chẳng phải là người mà đích thật là la-sát nữ.’

Tiếp đó, ta nói lời thề rằng:

‘Chỉ có Phật Pháp Tăng mới có thể biết họ là la-sát nữ.’

Lúc ấy các thương nhân nghe xong và nói với ta rằng:

‘Chúng tôi phải làm cách nào mới thoát khỏi nạn này.’

Ta nói với họ rằng:

‘Ở nước Sư Tử có một Thánh Mã Vương hay khéo có thể cứu độ tất cả hữu tình. Ngài ăn dược thảo trắng và lăn trên bãi cát vàng, rồi đứng dậy, rung rẩy lông trên thân và nói lời như thế này:

“Có ai muốn đi qua bờ kia không?”

Ta đã nói với Thánh Mã Vương kia rằng:

“Nay tôi muốn đi qua bờ kia.” ‘

Khi đó các thương nhân lại nói với ta rằng:

‘Vậy thì ngày nào chúng ta sẽ đi?’

Ta bảo họ rằng:

‘Ba ngày sau chúng ta nhất định phải đi, các người phải nhớ chuẩn bị các thứ tư lương để lên đường.’

Nói lời ấy xong, chúng thương nhân trở vào thành, rồi ai về nhà nấy của mỗi la-sát nữ.

Khi la-sát nữ thấy ta về, cô ấy liền hỏi:

‘Anh có mệt không?’

Ta hỏi la-sát nữ kia:

‘Anh chưa bao giờ nhìn thấy khu lâm viên đẹp đẽ và ao tắm của em cả, thật sự là có hay không?’

Lúc đó la-sát nữ kia bảo ta rằng:

‘Đại thương chủ! Ở nước Sư Tử có rất nhiều khu viên lâm xinh đẹp cùng ao tắm.’

Ta nói với cô ấy rằng:

‘Nàng hãy chuẩn bị các thứ tư lương, ba ngày sau anh muốn đi du ngoạn. Anh muốn tham quan các khu viên lâm, ao đầm, ngắm bông hoa quý, và anh cũng sẽ hái các loại hoa đó để mang về nhà.’

La-sát nữ liền nói với ta rằng:

‘Đại thương chủ, em sẽ chuẩn bị đầy đủ các thứ tư lương cho anh.’

‘Nếu la-sát nữ kia biết được phương kế của ta thì chắc sẽ giết chết mình.’

Nghĩ như vậy, ta giữ lặng yên.

Rồi sau đó, la-sát nữ kia lấy những thức ăn nước uống thơm ngon để mời ta dùng. Ăn xong, ta thở dài.

Cô ấy hỏi:

‘Đại thương chủ, tại sao anh lại thở dài như vậy?’

Lúc đó ta nói với cô ấy rằng:

‘Anh vốn là người của Nam Thiệm Bộ Châu, anh nay thật nhớ quê nhà quá.’

Cô ấy nói với ta rằng:

‘Đại thương chủ, đừng nhớ về quê hương của anh nữa. Ở nước Sư Tử này có đủ các loại ẩm thực, y phục, kho chứa đồ, những khu lâm viên xinh đẹp và ao tắm. Anh sẽ thọ hưởng mọi điều vui sướng, anh hà tất phải nhớ về Nam Thiệm Bộ Châu làm gì!’

Nghe xong, ta giữ lặng yên. Qua ngày hôm sau đến ngày thứ hai, cô ấy chuẩn bị đầy đủ ẩm thực và các thứ tư lương cho ta. Các thương nhân kia cũng thảy đều chuẩn bị đầy đủ các thứ tư lương, rồi cùng đợi đến ngày thứ ba. Vào ngày thứ ba khi trời vừa hừng sáng, tất cả chúng thương nhân đều ra khỏi thành. Khi đã ra khỏi thành, ai nấy đều cùng nhau bàn bạc:

‘Bây giờ chúng ta nhất định phải mau rời khỏi và đừng nên ngoái nhìn lại nước Sư Tử.’

Sau khi nói lời ấy xong, ta cùng họ liền chạy nhanh đến chỗ của Thánh Mã Vương. Lúc đến nơi, mọi người trông thấy Mã Vương đang ăn dược thảo trắng. Khi ăn xong, ngài lăn trên bãi cát vàng, rồi đứng dậy, rung rẩy lông trên thân. Lúc bấy giờ, trên mặt đất của nước Sư Tử đều chấn động. Khi đó, Mã Vương hỏi đến ba lần như sau:

‘Bây giờ có ai muốn đi qua bờ kia không?’

Lúc ấy các thương nhân nói lời như thế này:

‘Nay chúng tôi muốn đi qua bờ kia.’

Khi đó, Thánh Mã vương chuyển động thân mình và nói lời này:

‘Các ông nhất định phải hướng về phía trước và chớ nên ngoảnh nhìn lại nước Sư Tử.’

Khi Thánh Mã Vương kia nói như thế xong, ta trèo lên lưng của Mã Vương trước, rồi sau đó 500 thương nhân cũng đều trèo lên lưng của ngài.

Lúc bấy giờ, chúng la-sát nữ ở trong nước Sư Tử kia bỗng nhiên hay được các thương nhân đã ra đi, chúng liền phát ra những tiếng thương cảm thảm thiết và vội vã đuổi theo. Chúng khóc lóc buồn bã, vừa kêu vừa chạy. Khi các thương nhân nghe tiếng đó xong, họ quay đầu liếc nhìn thì bất chợt rơi xuống. Họ rơi vào trong nước và bị chúng la-sát nữ này ăn thịt. Lúc đó chỉ có một mình ta là về được châu Nam Diêm-phù-đề.

Khi Thánh Mã Vương đến tới bờ biển, ta leo xuống và nhiễu quanh Thánh Mã Vương ba vòng rồi rời khỏi nơi kia. Sau đó ta tìm đường về nơi xứ sở của mình và cuối cùng ta cũng về đến nhà. Khi cha mẹ ta nghe thấy ta trở về, họ ôm chặt vào lòng và vui mừng đến rơi nước mắt. Lúc trước, cha mẹ ta vì quá thương nhớ mà thường hay rơi lệ. Chính vì vậy mà làm cho mắt của họ đã bị mờ đi. Nay đã được hồi phục và sáng rõ như xưa. Khi đó, phụ mẫu tử được đoàn viên, ta thuật lại tường tận những việc gian khổ đã xảy ra. Sau khi nghe xong, cha mẹ ta bảo rằng:

‘Hôm nay con được bình yên trở về, cha mẹ đã an tâm lắm rồi và không còn lo lắng nữa. Cha mẹ không cần đến những tài bảo đó đâu. Nay cha mẹ tuổi hạc đã cao và sức khỏe suy kém, cha mẹ cần con trông coi ở những lúc ra vào. Lúc cha mẹ qua đời, con là chủ của một nhà và sẽ đưa tiễn cùng mai táng cho cha mẹ.’

Phụ mẫu của ta thuở xưa đã nói những lời an ủi với ta như vậy đó.

Này Trừ Cái Chướng! Lúc ta là một vị thương chủ, ta đã trải qua những khổ nạn nguy hiểm như thế.”

Phật bảo Trừ Cái Chướng Bồ-Tát:

“Thánh Mã Vương thuở đó chính là Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát, là vị đã cứu ta thoát nạn hiểm nguy trong những lúc kinh hoàng của sanh tử.

Này Trừ Cái Chướng! Ta nay chẳng thể nào nói tường tận công đức số lượng của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát. Ta nay sẽ vì ông mà lược nói về công đức của những lỗ chân lông nơi thân của Quán Tự Tại.

Này Trừ Cái Chướng! Trên thân của Quán Tự Tại Bồ-Tát có một lỗ chân lông vàng kim. Ở trong ấy có vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha càn-thát-bà. Chúng ở trong đó và không phải trải qua nỗi khổ của luân hồi, mà chỉ thường thọ hưởng những điều vui sướng tối thắng. Các phẩm vật cõi trời để thọ dùng thì nhiều vô cùng vô tận. Chúng không có tâm tà ác, không có tánh đố kỵ, không có tham sân si. Chúng luôn tu hành Bát Thánh Đạo và thường thọ Pháp lạc.

Này Trừ Cái Chướng! Ở trong lỗ chân lông vàng kim này lại có một như ý bảo châu. Nó phóng ra ánh sáng và tùy ý mãn túc mọi điều sở nguyện của chúng càn-thát-bà kia. Ở trong lỗ chân lông vàng kim này xuất hiện ra những việc như thế.

Lại có một lỗ chân lông màu đen. Ở trong ấy có vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha vị tiên nhân có thần thông. Trong đó có vị đắc một loại thần thông. Hoặc có vị đắc hai, ba, bốn, hoặc năm loại thần thông. Cũng có vị đắc đầy đủ lục thông. Ở trong lỗ chân lông này lại hiện ra đất bạc với núi làm bằng hoàng kim, chóp núi làm bằng bạc trắng và có 37 ái nhiễm liên hoa báu trang nghiêm ở trên núi đó. Ở trong dãy núi ấy có 84.000 chúng thần tiên. Bên cạnh của các vị tiên nhân này xuất hiện ra những cây kiếp-ba-la với thân cây có sắc màu hồng đậm, cành với lá làm bằng hoàng kim và bạc trắng, và chúng phóng ra ánh sáng châu báu.

Ở giữa mỗi một lỗ chân lông lại hiện ra bốn ao báu với nước tám công đức tràn đầy trong ấy, và có các diệu hoa đầy khắp trong ao. Cạnh bờ ao có những cây tỏa hương thơm vi diệu cõi trời và cây hương chiên đàn.

Lại có những cây kiếp-ba-la trang nghiêm. Trên cây treo các mũ trời, bông tai và còn có xâu chuỗi anh lạc được trang trí lên đó. Ở trên ấy lại treo những chuông báu, y phục vi diệu và áo kiều-thi-ca.

Ở dưới mỗi một cây kiếp-ba-la có 100.000 càn-thát-bà vương thường tấu các loại âm nhạc. Lại có những đàn nai và bầy chim linh thiêng, khi chúng nghe âm nhạc đó thì thảy đều suy nghĩ:

‘Đa số các chúng sanh đều thọ khổ luân hồi. Tại sao người ở châu Nam Diêm-phù-đề phải chứng kiến cùng thọ lấy sanh lão bệnh tử, ái biệt ly khổ và các thứ khổ khác như thế?’

Khi ấy, các bầy chim và đàn nai kia suy nghĩ đến danh hiệu của Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này, thì liền đó xuất hiện những cao lương mỹ vị ngon lạ cõi trời, các hương thơm vi diệu cõi trời, y phục vi diệu cõi trời cùng những phẩm vật khác, và tùy theo tâm niệm của chúng mà tự nhiên hiện ra đầy đủ như ý muốn.”

Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Con nay nghe được việc này, thật là hy hữu, thưa Thế Tôn!”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao?”

Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Bởi tâm của các hữu tình kia thường tư duy và niệm danh hiệu của Kinh này nên chúng mới được những sự lợi ích an vui như vậy.

Nếu lại có người nghe được Kinh này, rồi có thể biên chép, thọ trì đọc tụng, và cung kính cúng dường, thì người như thế sẽ thường được an vui.

Hoặc lại có người như có thể biên chép một chữ trong Kinh này, thì người đó trong tương lai sẽ không bao giờ còn thọ khổ của luân hồi. Họ vĩnh viễn sẽ không bao giờ sinh ra trong tầng lớp hạ tiện như là làm nghề đồ tể. Thân của họ khi sinh ra sẽ không bao giờ có những tướng xấu xa, như là gù lưng, chân tay co quắp, môi trề, khuyết tật, xấu xí, ghẻ hủi và những thứ bệnh tật khác. Họ chỉ có thân tướng viên mãn, các căn đầy đủ và có uy thế lớn. Huống nữa là công đức có được của những ai thọ trì đọc tụng, biên chép, và cung kính cúng dường Kinh này.”

Lúc bấy giờ Đức Phật ngợi khen rằng:

“Lành thay, lành thay, Trừ Cái Chướng! Ông nay thật khéo diễn nói Pháp như vậy. Nay ở trong Pháp hội này có vô số trăm ngàn vạn trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng các hàng đại chúng như thế, tất cả đều nghe được Pháp mà ông đã nói. Họ nghe được Pháp môn quảng đại đó, đây là do ông đã hỏi.”

Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Nay kính mong Thế Tôn hãy tuyên thuyết diệu Pháp để cho trời người cùng các hàng đại chúng sanh tín tâm kiên cố.”

Đức Phật liền ngợi khen rằng:

“Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Ông lại khéo có thể hỏi thêm về sự biến hiện công đức trong lỗ chân lông nơi thân của Quán Tự Tại.

Này Trừ Cái Chướng! Trên thân Bồ-Tát lại có một lỗ chân lông trang nghiêm. Ở trong ấy có vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha càn-thát-bà nữ với diện mạo đoan nghiêm, hình dáng diễm lệ và có đủ mọi vật báu trang nghiêm nơi thân. Tướng mạo của họ tựa như các thiên nữ. Tham sân si cùng những ách khổ đều chẳng thể nào xâm phạm. Các việc khổ não về thân mà người thế gian phải gánh chịu, một chút họ cũng chẳng lãnh thọ. Ở trong ba thời mỗi ngày [lúc mặt trời mọc, giữa trưa và mặt trời lặn], chúng càn-thát-bà nữ kia đều niệm danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ-Tát. Ngay lúc đó, họ sẽ được hết thảy các vật dụng như ước muốn.”

Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con muốn được vào trong những lỗ chân lông kia để xem thấy các việc đó.”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Những lỗ chân lông kia ví như hư không, chẳng có ranh giới và cũng không bị chướng ngại.

Này thiện nam tử! Những lỗ chân lông này là vô chướng vô ngại và cũng không có não hại. Nếu Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập vào một trong những lỗ chân lông kia và du hành suốt 12 năm, thì cũng chẳng thể đến được ranh giới. Trong mỗi lỗ chân lông, Phổ Hiền thấy có các Đức Phật đang ở trong đó. Vì thế mà Phổ Hiền chẳng thể nào thấy được ranh giới cùng khoảng cách. Nếu vậy thì chư Bồ-Tát khác làm sao có thể thấy được ranh giới của những lỗ chân lông kia?”

Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập vào một trong những lỗ chân lông kia và du hành suốt 12 năm mà cũng chẳng thể đến được ranh giới, và ngài lại thấy có 100 Đức Phật ở trong đó. Như Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát còn chẳng thể thấy được ranh giới, thế thì con nay làm sao mà nhập vào trong ấy cho được?”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Đến cả Ta cũng còn không thể thấy những sự vi diệu và tịch tĩnh như vậy. Do bởi Bồ-Tát là vô tướng, nên thị hiện đại thân, đầy đủ 11 mặt với trăm ngàn con mắt quảng đại viên mãn. Bồ-Tát đã đắc tương ứng địa và trụ trong vắng lặng tịch tĩnh. Bồ-Tát có đại trí của vô sở đắc và không sự có luân hồi. Bồ-Tát chẳng thấy có người được ngài cứu độ và cũng không có sự phân biệt chủng tộc. Lại cũng không có trí tuệ và cũng không có lời nói, bởi các pháp như thế chỉ là như bóng như âm vang.

Này thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ-Tát được tự tại của cái thấy, cái nghe, và tự tánh, cho đến Như Lai cũng chẳng thể thấy biết tâm niệm của Bồ-Tát. Ý ông nghĩ sao?

Này thiện nam tử! Phổ Hiền cùng chư Bồ-Tát khác đều cụ túc bất khả tư nghì, nhưng cũng chẳng thể biết rõ sự biến hóa của Quán Tự Tại.

Này thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát biến hiện đủ mọi sự việc để cứu độ vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha hữu tình, khiến họ đắc vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc và kiến thấy Đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Sau đó, họ nghe được Pháp yếu và đều sẽ viên thành Đạo Bồ-đề.”

Lúc ấy, Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con không biết phải dùng phương tiện gì để thấy được Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát?”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Vị Bồ-Tát kia sẽ đến Thế Giới Ta-Bà này để diện kiến cùng lễ bái và cúng dường Ta.”

Khi đó, Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Ngài có biết là khi nào thì Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát sẽ đến nơi này?”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Khi thiện căn của chúng hữu tình trong thế giới này thành thục thì Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát sẽ đến đây.”

Lúc đó Trừ Cái Chướng Bồ-Tát Ma-ha-tát lấy tay kê lên má và tư duy như vầy:

“Mình nay có tội chướng gì? Mặc dầu thọ mạng tuy lâu dài nhưng cũng chẳng có lợi ích chi cả. Mình không thể thấy Quán Tự Tại Bồ-Tát để được cung kính lễ bái. Mình ví như kẻ mù lòa đi trên con đường lộ.”

Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ-Tát lại bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát kia thật sự là khi nào thì sẽ đến đây?”

Lúc bấy giờ Đức Phật mỉm cười và nói rằng:

“Này thiện nam tử! Thời gian của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát sẽ đến là vô thời.”

Này thiện nam tử! Trên thân của vị Bồ-Tát kia có một lỗ chân lông tên là Sái Cam Lộ. Ở trong lỗ chân lông này có vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha chúng trời người đang trú ở trong đó. Họ đã chứng Sơ Địa, hoặc Nhị Địa và cho đến có vị đã chứng quả Thập Địa của bậc đại Bồ-Tát.

Này Trừ Cái Chướng! Ở trong lỗ chân lông Sái Cam Lộ kia có 60 dãy núi làm bằng vàng bạc báu. Mỗi một dãy núi cao 60.000 do-tuần và có 99.000 chóp núi. Có vàng báu vi diệu cõi trời trang nghiêm xung quanh và có các bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ-Tát hiện đang trú ở đó.

Lại có vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha chúng càn-thát-bà thường luôn tấu các loại âm nhạc ở trong lỗ chân lông kia.

Này Trừ Cái Chướng! Ở trong lỗ chân lông Sái Cam Lộ kia lại có vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha cung điện được trang trí xung quanh với ma-ni bảo châu vi diệu cõi trời cùng muôn loại trân châu anh lạc. Phàm ai thấy đều tự nhiên vui thích. Ở trong những cung điện kia có chư Bồ-Tát đang thuyết vi diệu Pháp. Sau đó, các ngài rời khỏi cung điện ấy và đi kinh hành.

Ở nơi kinh hành có 77 ao tắm với nước tám công đức tràn đầy trong ấy. Có đủ các loại hoa tràn khắp trong ao, như là: hoa sen xanh, hoa súng trắng, hoa sen trắng, hoa tu-càn-đề, hoa mạn-đà-la, và hoa ma-ha mạn-đà-la.

Trên đất của nơi kinh hành kia lại có cây kiếp-ba-la thích ý với lá làm bằng vàng bạc cõi trời, treo trên cây là những mũ trời, bông tai, trân bảo, xâu chuỗi anh lạc, và các loại châu báu dùng để trang nghiêm.

Khi đã đi kinh hành xong, vào buổi tối, chư Bồ-Tát kia nhớ tưởng đến các Pháp Đại Thừa, tư duy về quả địa tịch diệt, và tư duy về địa ngục, ngạ quỷ, cùng bàng sanh thú vật. Khi đã tư duy như thế xong, các ngài nhập vào Từ Tâm Tam-muội.

Này Trừ Cái Chướng! Ở trong lỗ chân lông kia xuất hiện chư vị Bồ-Tát như vậy.

Lại có một lỗ chân lông tên là Kim Cang Diện. Ở trong đó có vô số trăm ngàn vạn khẩn-na-la. Chúng lấy các vòng hoa và quấn khắp trên thân để trang nghiêm, dùng hương xoa vi diệu để bôi lên thân mình, phàm ai thấy đều rất hoan hỷ. Chúng luôn niệm Phật Pháp Tăng và được tín tâm kiên cố. Chúng an trụ nơi các Pháp với lòng nhẫn nhục, tâm từ bi, tư duy tịch diệt và lìa xa các nẻo luân hồi. Cũng như vậy, thiện nam tử! Chúng khẩn-na-la kia thường sanh tâm yêu mến.

Bên trong lỗ chân lông kia có vô số ngọn núi. Ở trong đó có hang kim cang báu, hang vàng báu, hang bạc báu, hang pha lê báu, hang liên hoa sắc báu, hang thanh sắc báu, và còn có đầy đủ các hang bằng thất bảo.

Như vậy, thiện nam tử! Ở trong lỗ chân lông kia có những sự biến hiện như thế.

Lại có vô số cây kiếp-ba-la, vô số cây chiên đàn to lớn, và các cây hương thơm vi diệu. Có vô số ao tắm, trăm ngàn vạn cung điện báu cõi trời được trang nghiêm bằng châu báu pha lê, thanh tịnh vi diệu và tráng lệ đẹp đẽ. Ở những cung điện như thế có chúng khẩn-na-la đang nghỉ ngơi trong đó. Khi nghỉ ngơi xong, chúng thuyết các Pháp vi diệu, như là:

– Bố Thí Ba-la-mật,

– Trì Giới Ba-la-mật,

– Nhẫn Nhục Ba-la-mật,

– Tinh Tấn Ba-la-mật,

– Thiền Định Ba-la-mật,

– và Trí Tuệ Ba-la-mật.

Khi đã thuyết sáu Pháp Ba-la-mật xong, mỗi mỗi đều đi kinh hành.

Ở nơi đó có những con đường kinh hành bằng hoàng kim cùng những con đường kinh hành bằng bạc trắng. Xung quanh nơi ấy có cây kiếp-ba-la với vàng bạc làm lá. Trên cây có đủ các loại thiên y, mũ báu, bông tai, chuông báu, và xâu chuỗi anh lạc để trang nghiêm nơi kinh hành kia.

Ở nơi kinh hành này lại có những lầu các, chúng khẩn-na-la kia tư duy về sự trầm luân của sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, bần cùng khốn khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, cầu bất đắc khổ, hoặc cái khổ bị đọa xuống địa ngục kim chích, địa ngục sợi dây đen, đại địa ngục uống giấm, đại địa ngục cực nóng, địa ngục hầm lửa, hoặc sa vào loài ngạ quỷ. Chúng khẩn-na-la kia tư duy về các đại khổ não mà chúng hữu tình như thế phải thọ lấy.

Lại nữa, thiện nam tử! Chúng khẩn-na-la kia yêu thích các Pháp thâm sâu, tư duy về Viên Tịch Chân Giới. Chúng lại luôn niệm danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát. Do bởi xưng niệm danh hiệu đó, nên chúng liền được đầy đủ tất cả các vật dụng như mong muốn.

Này thiện nam tử! Cho dù chỉ là danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát thì cũng khó mà nghe được. Tại sao thế? Vị Bồ-Tát kia ví như đại phụ mẫu của hết thảy chúng sanh. Ngài vì tất cả chúng hữu tình mà ban điều không sợ hãi, khai đạo và làm bậc thiện tri thức của hết thảy chúng sanh.

Vì thế, này thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát kia có Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni rất khó gặp. Nếu ai có thể xưng niệm danh hiệu của Đà-la-ni đó, thời họ sẽ được sanh vào trong lỗ chân lông của Bồ-Tát và sẽ không trải qua sanh tử trầm luân. Sau đó, họ rời khỏi lỗ chân lông ấy rồi nhập vào lỗ chân lông khác và trú ở đó. Cứ như vậy, lần lượt cho đến khi họ chứng đắc viên mãn của quả địa tịch diệt.”

Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này là từ nơi nào mà đắc được?”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này rất khó gặp, ngay cả các Đức Như Lai cũng còn chẳng biết nơi nào để đắc được, huống nữa là chư Bồ-Tát đang ở bậc nhân địa thì làm sao có thể biết nơi nào để đắc được?”

Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Đà-la-ni này, tại sao ngay cả chư Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác mà cũng chẳng thể biết?”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này là bổn tâm vi diệu của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát. Nếu ai biết bổn tâm vi diệu đó thì tức là biết được giải thoát.”

Trừ Cái Chướng Bồ-Tát liền bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Có ai trong các chúng hữu tình có thể biết được Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này chăng?”

Đức Phật bảo:

“Không một ai biết cả! Này thiện nam tử! Vô lượng các Đức Như Lai cũng khó mà biết Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, vậy thì chư Bồ-Tát làm sao biết được nơi bổn tâm vi diệu của Quán Tự Tại Bồ-Tát? Ta đã đến các cõi nước phương khác, nhưng cũng không thấy một ai biết được Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này.

Nếu ai có thể thường thọ trì Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì trong lúc người đó trì tụng sẽ có 99 Hằng Hà sa Như Lai đều đến hội họp. Lại có chư Bồ-Tát nhiều như số vi trần cũng đến hội họp. Lại có 33 chư thiên tử cũng đều đến hội họp. Lại có Tứ Đại Thiên Vương sẽ hộ vệ người đó ở bốn phương. Lại có Sa-nga-la Long Vương, Vô Nhiệt Não Long Vương, Đắc-xoa-ca Long Vương, Phạ-tô-chỉ Long Vương, và vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha long vương như thế cũng đến hộ vệ người ấy. Lại có địa hành dạ-xoa, chư thần trong hư không, và chúng hữu tình khác cũng hộ vệ người đó.

Này thiện nam tử! Trong các lỗ chân lông của Quán Tự Tại Bồ-Tát có hàng ức số Như Lai đang ở bên trong và ngợi khen người đó rằng:

‘Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Ông có thể đắc ma-ni như ý bảo châu này, thì tổ tiên trong bảy đời của ông sẽ đều được giải thoát.’

Này thiện nam tử! Phàm người trì Đà-la-ni này thì các loài trùng trong bụng của họ sẽ đắc quả vị bất thối chuyển của bậc Bồ-Tát.

Này thiện nam tử! Nếu lại có người đeo Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này trên cổ hay mang ở trong mình, thì khi ai đó thấy người ấy,

– cũng tức đồng như thấy được thân kim cang,

– lại cũng như thấy được tháp xá-lợi,

– lại cũng như thấy được Như Lai,

– lại cũng như thấy được người có đầy đủ trí tuệ bằng một câu-chi.

Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào mà có thể y Pháp tu hành và niệm Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì người đó sẽ đắc vô lượng biện tài, trí tuệ thanh tịnh cùng lòng từ bi rộng lớn. Mỗi ngày người đó sẽ được đầy đủ Lục Độ Ba-la-mật và thành tựu công đức viên mãn. Người này sẽ được quán đảnh Thiên Chuyển Luân. Nếu hơi thở của người ấy tỏa ra và chạm vào thân người khác, thì người bị chạm đến sẽ phát khởi lòng từ và rời xa các độc của sân. Họ sẽ trở thành Bồ-Tát trụ ở quả vị bất thối chuyển và sẽ mau chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Nếu người nào mang hoặc đeo Đà-la-ni này mà tay của họ chạm vào thân người khác, thì người bị chạm đó sẽ sớm được quả vị Bồ-Tát.

Nếu người nào mang hoặc đeo Đà-la-ni này mà họ gặp thấy người nam, người nữ, đồng nam, đồng nữ, và cho đến các loài hữu tình khác, thì những người gặp thấy đó sẽ thảy đều sớm được quả vị Bồ-Tát.

Người thọ trì Đà-la-ni như thế sẽ vĩnh viễn không bao giờ phải thọ nỗi khổ của sanh lão bệnh tử, hoặc khổ của ái biệt ly. Khi tụng niệm, họ sẽ được sự cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn.

Nay, Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này được thuyết giảng như vậy.”

QUYỂN 4

Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Nay con phải làm thế nào mới đắc được Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này? Phàm ai đắc được thời sẽ tương ứng chẳng thể nghĩ bàn của vô lượng thiền định và tức đồng như chứng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đà-la-ni này sẽ:

– dẫn nhập vào môn giải thoát,

– hiển bày cảnh giới Niết-bàn,

– diệt trừ vĩnh viễn tham sân si,

– thành tựu Pháp tạng viên mãn,

– phá hủy năm nẻo luân hồi,

– thanh tịnh các địa ngục,

– đoạn trừ mọi phiền não,

– cứu độ chúng bàng sanh,

– và viên mãn Pháp vị.

Nếu dùng Nhất Thiết Trí để diễn nói Đà-la-ni này thì cũng chẳng thể nói cùng tận.

Bạch Thế Tôn! Con cần có Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này. Vì Đà-la-ni này, con sẽ lấy thất bảo đầy khắp trong bốn châu lớn để bố thí và lấy dùng biên chép.

Bạch Thế Tôn! Nếu vẫn không đủ mực, giấy, hoặc bút, con sẽ dùng thân thể của con để chích máu làm mực, lóc da làm giấy, và chẻ xương làm bút.

Thưa Thế Tôn! Con sẽ không bao giờ hối tiếc và con tôn trọng Đà-la-ni này như cha mẹ của chính mình.”

Lúc bấy giờ Phật bảo Trừ Cái Chướng Bồ-Tát rằng:

“Này thiện nam tử! Nhớ lại vào thuở quá khứ, Ta vì Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này mà đã đi qua khắp các thế giới nhiều như số vi trần và cúng dường vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha Như Lai. Nhưng ở nơi của các Đức Như Lai kia, ta vẫn chưa hề đắc được hay nghe tới. Lúc đó trong đời có Đức Phật tên là Bảo Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Khi ấy ta ở trước Đức Phật kia mà rơi lệ than khóc. Lúc bấy giờ Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác kia bảo ta rằng:

‘Thiện nam tử! Ông chớ than khóc nữa. Thiện nam tử! Ông hãy đi đến thế giới của Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Ở chỗ ấy, Đức Phật kia biết được Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này.’

Này thiện nam tử! Sau đó ta từ biệt Bảo Thượng Như Lai và đi đến Phật độ của Liên Hoa Thượng Như Lai. Khi đến nơi, ta đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ở trước Đức Phật kia và chắp tay bạch rằng:

‘Duy nguyện Thế Tôn hãy truyền cho con Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni. Đà-la-ni kia là vua chân ngôn của tất cả bổn mẫu. Nếu nhớ niệm danh hiệu đó thời các tội cấu sẽ tiêu trừ và sớm chứng quả Bồ-đề. Con bây giờ đã kiệt sức, bởi vì con đã đến vô số thế giới mà vẫn không thể chứng đắc. Tới bây giờ, con mới đến được nơi này.’

Khi đó, Liên Hoa Thượng Như Lai liền nói công đức của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này:

‘Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lượng của hết thảy vi trần, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như biển lớn, Ta có thể đếm từng hạt cát trong đó, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như có vị thiên nhân tạo lập một kho chứa đồ với chiều dài 1.000 do-tuần, rộng 1.000 do-tuần, và cao 1.000 do tuần, tích trữ đầy khắp trong đó toàn là hạt vừng đến một chỗ trống nhỏ như cây kim cũng chẳng có. Lại nữa, người canh giữ nơi đó không bị già và không bị chết. Cứ mỗi 100 kiếp, người ấy thảy một hạt vừng ra ngoài và cứ như thế cho đến khi người ấy thảy hết không còn một hạt nào, Ta có thể đếm số lượng đó, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như bốn châu lớn, trong đó trồng đủ các loại lúa gạo cùng những cây khác. Vua rồng làm mưa và lúc đến mùa thì các cây đó thảy chín đều. Khi đã thu hoạch xong tất cả, hãy lấy Nam Thiệm Bộ Châu làm sân, rồi dùng xe cộ để vận chuyển hết về sân và tích tụ thành một đống lớn. Thiện nam tử, Ta có thế đếm từng hạt trong đó, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Ở Nam Diêm-phù-đề có những con sông lớn chảy suốt ngày đêm, như là: sông Tỉ-đa, sông Cương-nga, sông Diễm-mẫu-na, sông Phạ-sô, sông Thiết-đa-rô-nại-la, sông Tán-nại-la-bà-nghiệt, sông Ái-la-phạ-để, sông Tô-ma-nga-đà, sông Hê-ma, và sông Ca-la-thú-na-rị. Mỗi một con sông này có 5.000 con sông nhỏ và chảy suốt ngày đêm vào biển lớn. Thiện nam tử, Ta có thể đếm từng giọt nước trong những con sông lớn kia, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như trong bốn châu lớn có các loài hữu tình bốn chân, như là: sư tử, voi, ngựa, bò rừng, trâu nước, cọp, sói, khỉ, nai, dê, cừu, chó rừng, thỏ, và các loài bốn chân như thế. Ta có thể đếm từng cọng lông của chúng, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như vua núi kim cang hình móc câu, chiều cao 99.000 do-tuần, độ sâu 84.000 do-tuần, chiều dài 84.000 do-tuần, và chiều rộng là 84.000 do tuần. Ở trên núi kia có một người không già không chết, người ấy trải qua một kiếp mới đi hết một vòng của núi kia. Vua núi như thế, Ta có thể dùng áo kiều-thi-ca để quét sạch đến không còn một chút gì, nhưng nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như đại hải, độ sâu là 84.000 do-tuần, mặt biển trải rộng vô lượng. Ta có thể dùng trên đầu của một cọng lông để chấm vào biển nước, và chấm cho đến khi hết sạch, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như rừng cây lớn Thi-lợi-sa, Ta có thể đếm từng lá một, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như trong bốn châu lớn có đầy khắp kẻ nam người nữ cùng trẻ con đang trú ở đó, giả như tất cả họ đều đắc quả vị Thất Địa Bồ-Tát, thì công đức của chư Bồ-Tát kia cùng công đức người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này bằng nhau không khác.

Thiện nam tử! Trừ những năm có 12 tháng ra, hãy lấy những tháng dư của các năm có 13 tháng mà cộng lại thành một năm và rồi thành trọn một kiếp trên cõi trời. Giả như trời mưa ngày đêm suốt một kiếp đó, thiện nam tử, Ta có thể đếm từng giọt nước mưa, nhưng nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì số lượng công đức của họ còn nhiều hơn số kia. Ý ông nghĩ sao?

Thiện nam tử! Lại ví như có một câu-chi các Đức Như Lai đồng ở tại một nơi và có người trải qua thời gian một kiếp trên cõi trời, lấy y phục ẩm thực, giường nằm, tọa cụ cùng thuốc thang và đủ các vật thọ dụng để cúng dường chư Như Lai kia, tuy nhiên, công đức đó vẫn còn có thể biết được, nhưng công đức có được của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này thì cũng không thể nào biết tận số lượng. Chẳng phải chỉ có Ta nay ở tại thế giới này, mà dù cho Ta ở trong định thì công đức ấy cũng chẳng thể suy lường.

Thiện nam tử! Pháp này rất vi diệu, hết thảy đều tương ứng với Gia Hạnh Quán Trí. Vào đời vị lai, ông sẽ đắc tâm Pháp vi diệu này. Vị Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát kia khéo trụ nơi Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni như vậy đó.

Thiện nam tử! Thuở xưa, Ta dùng Gia Hạnh đi qua khắp vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha thế giới để đến chỗ của Đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Ta chắp tay ở trước Ngài và vì Pháp này mà Ta rơi lệ than khóc. Khi đó Đức Vô Lượng Thọ Như Lai thấy biết được nhân duyên của Ta ở hiện tại cùng vị lai mà bảo Ta rằng:

“Thiện nam tử! Ông cần Lục Tự Đại Minh Vương Quán Hạnh Du-già này phải không?”

Ta liền thưa rằng:

“Thưa Thế Tôn! Con cần Pháp này. Thưa Thiện Thệ! Con cần Pháp này. Con cần Pháp đó như người khát nước. Thưa Thế Tôn! Con vì Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này mà đã du hành qua vô số thế giới để cúng dường cho vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha Như Lai, nhưng con vẫn chưa từng đắc được Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này. Duy nguyện Thế Tôn cứu giúp sự ngu độn của con, như người không cụ túc mà khiến được cụ túc, như người bị lạc đường mà chỉ dẫn đúng đường, như dưới ánh nắng chói chang mà trồng cây sa-la ở ngã tư đường để làm tàng cây che mát. Tâm con rất khao khát Pháp này. Kính mong Thế Tôn hãy khai thị chỉ bảo, khiến con khéo trụ nơi Đạo cứu cánh và mặc áo giáp kim cang.”

Lúc bấy giờ Đức Vô Lượng Thọ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác dùng âm thanh ca-lăng-tần-già mà bảo Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát rằng:

“Thiện nam tử! Ông thấy Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này mà đã đi qua khắp vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha thế giới. Thiện nam tử! Ông nên truyền Lục Tự Đại Minh, bởi Đức Như Lai kia vì Đà-la-ni đó mà đến nơi này.”

Quán Tự Tại Bồ-Tát thưa với Đức Thế Tôn kia rằng:

“Phàm ai không thấy Pháp tràng mạn-đà-la thì chẳng thể đắc Pháp này. Huống nữa là làm sao biết được Liên Hoa Ấn? Làm sao biết được Trì Ma-ni Ấn? Làm sao biết được Nhất Thiết Vương Ấn? Và làm sao biết được Mạn-đà-la Thanh Tịnh Thể?

Tướng trạng của mạn-đà-la này có chu vi hình vuông với chiều dài năm khuỷu tay. Ở chính giữa mạn-đà-la an lập một hình tượng của Đức Phật Vô Lượng Thọ. Rải xung quanh là các loại bột quý báu, gồm có: nhân-nại-la-nể-la, bát-nột-mạ-la-nga, ma-la-yết-đa, pha lê, và tô-phạ-la-noa-rô-bá.

Ở bên phải hình tượng của Đức Vô Lượng Thọ Như Lai an lập một hình tượng của Trì Đại Ma-ni Bảo Bồ-Tát. Ở bên trái của Phật an lập một hình tượng của Lục Tự Đại Minh với bốn cánh tay, màu da trắng như nguyệt sắc, và có đủ mọi châu báu trang nghiêm nơi thân. Cánh tay trái ở trên cầm một hoa sen và trên hoa sen có một ma-ni bảo châu, còn cánh tay phải ở trên cầm xâu chuỗi. Hai cánh tay ở dưới kiết ấn Nhất Thiết Vương. Ở dưới chân của Lục Tự Đại Minh có chư thiên với đủ mọi châu bảo dùng làm trang nghiêm. Bên tay phải của họ cầm một lư hương và lòng bàn tay bên trái giữ một bình bát với châu báu đầy khắp trong đó. Ở bốn phía góc của mạn-đà-la an trí hình tượng của Tứ Đại Thiên Vương và trong tay họ cầm đủ các loại binh khí cùng gậy. Ở bên ngoài bốn phía góc của mạn-đà-la an bày bốn cái hiền bình và trong bình chứa đầy khắp muôn loại ma-ni châu báu.

Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào muốn vào mạn-đà-la này, thì quyến thuộc của họ không được cùng vào chung trong mạn-đà-la. Nhưng trước khi họ vào, người ấy có thể ghi tên thân quyến của họ lên một tờ giấy, rồi liệng tờ giấy đó vào trong mạn-đà-la, thời hàng quyến thuộc kia sẽ đều đắc quả vị Bồ-Tát. Còn người vào trong đó sẽ xa rời mọi khổ não và mau chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vị A-xà-lê không được vọng truyền Pháp này. Nếu có người khéo dùng thiện xảo phương tiện để chỉ bày cho người khác cùng thâm tín nơi Pháp Đại Thừa Gia Hạnh và chí tâm cầu giải thoát, thì vị A-xà-lê nên truyền Pháp này cho những người như thế mà chẳng nên truyền cho hàng ngoại đạo quái dị.”

Lúc bấy giờ Đức Vô Lượng Thọ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác bảo Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát rằng:

“Thiện nam tử! Nếu người thiện nam người thiện nữ nào có năm loại bột quý báu như thế, thì có thể thiết lập mạn-đà-la này; nhưng nếu họ nghèo túng hoặc chẳng thể gôm đủ các loại bột quý báu đó, thời phải làm sao?”

Ngài Quán Tự Tại bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn! Họ có thể dùng môn phương tiện, bằng cách lấy các vật liệu với nhiều màu sắc, và dùng đủ mọi hương hoa để cúng dường. Nếu với phương thức đó mà thiện nam tử thiện nữ nhân kia vẫn không làm được, hoặc vì họ đang ở trọ hay đang lữ hành, vị A-xà-lê có thể vận dụng ý lực để nghĩ tưởng và tạo thành mạn-đà-la cùng kiết ấn A-xà-lê.” ‘

Lúc bấy giờ Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác nói với Quán Tự Tại Bồ-Tát rằng:

‘Thiện nam tử! Xin hãy nói cho Ta biết Lục Tự Đại Minh Vương Đà-la-ni này. Ta thỉnh cầu là vì muốn cho vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha hữu tình, khiến họ thoát ly khổ não của luân hồi và mau chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.’

Lúc đó Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát truyền Lục Tự Đại Minh này cho Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Đà-la-ni thuyết như vầy:

Om Mani Padme Hum (Tiếng Phạn)

(Phát Âm Theo Tiếng Việt: Ôm Ma Ni Pat Mê Hum)

Đương lúc tuyên thuyết Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì bốn châu lớn và cung điện của chư thiên thảy đều chấn động như tàu lá chuối. Nước trong bốn biển lớn phun ra và nổi sóng cuồn cuộn. Hết thảy loài gieo rắc tai ương, như là vĩ-na-dã-ca, dạ-xoa, la-sát, cưu-bàn-đồ, ma-ha-ca-la, với những loài khác cùng quyến thuộc của chúng ma, tất cả đều hốt hoảng giải tán và tháo chạy biệt tăm.

Lúc bấy giờ Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác duỗi cánh tay ra như cái vòi của con voi chúa và trao cho Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát xâu chuỗi anh lạc với trị giá trăm ngàn trân châu báu để cúng dường. Quán Tự Tại Bồ-Tát thọ nhận, rồi ngài dâng lên cho Đức Vô Lượng Thọ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức Phật kia nhận xong, rồi Ngài lại cầm trao cho Đức Liên Hoa Thượng Như Lai. Khi Đức Phật Liên Hoa Thượng đắc được Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này xong, Ngài trở về lại Thế Giới Liên Hoa Thượng.

Và như thế, thiện nam tử! Ta vào thuở quá khứ đã nghe được Đà-la-ni này từ nơi của Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác kia.”

Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con phải làm thế nào mới đắc được Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này? Thưa Thế Tôn! Đà-la-ni này có đầy đủ đức vị của cam lộ. Thế Tôn! Nếu con nghe được Đà-la-ni này, con sẽ luôn nhớ niệm, tư duy cùng thọ trì mà không dám lãng quên. Con muốn làm cho chúng hữu tình nghe được Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, để họ có được đại công đức. Cuối mong Thế Tôn hãy giảng nói.”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Nếu có người biên chép Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này thì tức bằng như biên chép 84.000 Pháp tạng mà không chút sai khác.

Nếu có người dùng vàng kim báu cõi trời để tạo lập hình tượng của các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác nhiều như số vi trần, sau khi làm xong, họ tán thán và cúng dường trong một ngày, thì quả báo đạt được sẽ không bằng biên chép một chữ trong Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này. Quả báo công đức của Đà-la-ni này là chẳng thể nghĩ bàn và khéo dẫn đến bờ giải thoát.

Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào y Pháp tu hành và niệm Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, thì người đó sẽ đắc các tam-muội, như là:

– Trì Ma-ni Bảo Tam-muội,

– Quảng Bác Tam-muội,

– Thanh Tịnh Địa Ngục Bàng Sanh Tam-muội,

– Kim Cang Giáp Trụ Tam-muội,

– Diệu Túc Bình Mãn Tam-muội,

– Nhập Chư Phương Tiện Tam-muội,

– Nhập Chư Pháp Tam-muội,

– Quán Trang Nghiêm Tam-muội,

– Pháp Xa Thanh Tam-muội,

– Viễn Ly Tham Sân Si Tam-muội,

– Vô Biên Tế Tam-muội,

– Lục Ba-la-mật Môn Tam-muội,

– Trì Đại Diệu Cao Tam-muội,

– Cứu Chư Bố Úy Tam-muội,

– Hiện Chư Phật Sát Tam-muội,

– Quán Sát Chư Phật Tam-muội,

– và các tam-muội như thế, sẽ đắc 108 tam-muội cả thảy.”

Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Nay con phải đến nơi nào để con có thể đắc được Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này? Xin Thế Tôn hãy khai thị.”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Trong đại thành Ba-la-nại có một vị Pháp sư thường tư duy, thọ trì cùng tụng niệm Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này.”

Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Bây giờ con muốn đến đại thành Ba-la-nại để diện kiến vị Pháp sư kia cùng lễ bái và cúng dường.”

Đức Phật bảo:

“Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Vị Pháp sư kia rất khó gặp. Bởi vì ngài có thể thọ trì Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này, cho nên thấy được vị Pháp sư đó thời sẽ:

– như thấy được Như Lai không khác,

– như thấy được công đức Thánh địa,

– như thấy được nơi hội tụ của phước đức,

– như thấy được nơi tích trữ của trân bảo,

– như thấy được như ý ma-ni bảo châu,

– như thấy được Pháp tạng,

– và như thấy được bậc Thánh giả khéo cứu độ thế gian.

Này thiện nam tử! Khi ông thấy vị Pháp sư kia thì không được sanh lòng khinh mạn hay hoài nghi. Thiện nam tử, Ta e sợ ông sẽ thối thất quả vị Bồ-Tát và sa đọa trầm luân, bởi vì giới hạnh của vị Pháp sư kia bị khiếm khuyết và sai phạm. Ngài có vợ, còn phân và nước tiểu dính áo cà-sa, cùng chẳng có chút oai nghi.”

Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Con xin vâng lời Phật dạy.”

Ngay sau đó, Trừ Cái Chướng Bồ-Tát cùng vô số chư Bồ-Tát, hàng xuất gia, trưởng giả, đồng nam, và đồng nữ, đều hân hoan muốn đến nơi đó để cúng dường. Họ cầm theo lọng che cõi trời cùng các vật cúng dường, như là: mũ báu, bông tai, anh lạc trang nghiêm, nhẫn đeo tay, vòng xuyến báu, áo kiều-thi-ca, vải lụa sặc sỡ và giường nằm.

Lại có đủ các loại hoa vi diệu, như là: hoa sen xanh, hoa súng trắng, hoa sen trắng, hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, và hoa ưu-đàm.

Lại có đủ các loại cây hoa, như là: cây hoa ngọc lan, cây hoa ca-la-vĩ-la, cây hoa ba-tra-la, cây hoa a-đề-mục-đa, cây hoa phạ-lật-sử-ca-thiết, cây hoa quân-đa, cây hoa tu-mạn-na, và cây hoa mạt-lợi.

Lại có chim uyên ương, bạch hạc, và xá-lợi bay theo.

Lại có 100 loại lá cây, như là màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, pha lê, và những màu sắc khác.

Lại có muôn loại trái cây quý hiếm.

Họ mang theo những vật cúng dường như thế, rồi hướng về đại thành Ba-la-nại và đi đến chỗ của vị Pháp sư.

Khi đến nơi, đầu đảnh lễ dưới chân ngài. Tuy họ thấy giới hạnh của vị Pháp sư kia bị khiếm khuyết, sai phạm và chẳng có chút oai nghi, nhưng họ vẫn vui mừng và cúng dường ngài với lọng che, hương hoa, y phục, vật báu trang nghiêm cùng những phẩm vật khác đã mang theo. Khi xong, họ chắp tay và đứng ở phía trước của vị Pháp sư kia mà thưa rằng:

“Đại Pháp tạng là tạng của vị cam lộ, là biển Pháp thâm sâu, và rộng lớn như hư không. Tất cả hàng người đều nghe ngài thuyết Pháp. Lúc ngài thuyết Pháp thì hàng trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân, hết thảy đều đến để nghe ngài thuyết Pháp. Ngài như đại kim cang, khiến cho chúng hữu tình giải thoát khỏi sự trói buộc cùng quả báo của luân hồi và làm cho họ có được phước đức. Vì dân chúng sống trong đại thành Ba-la-nại này thường thấy được ngài nên các tội thảy đều tiêu trừ, như lửa thiêu đốt rừng cây. Chỉ có các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác mới hiểu thấu ngài.

Hôm nay có vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha chư Bồ-Tát đều hân hoan đi đến chỗ của ngài để cúng dường. Lại có Đại Phạm Thiên Vương, Na-la-diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, nhật thiên, nguyệt thiên, phong thiên, thủy thiên, hỏa thiên, Diêm-ma Pháp Vương cùng Tứ Đại Thiên Vương cũng đều đến cúng dường.”

Lúc bấy giờ vị Pháp sư nói rằng:

“Thiện nam tử! Ông đang nói đùa phải không? Thánh giả! Ông có thật sự là vì thế gian mà cầu mong đoạn trừ phiền não của luân hồi không?

Thiện nam tử! Nếu có ai đắc được Lục Tự Đại Minh Vương Đà-la-ni này thì ba độc tham sân si chẳng thể làm nhiễm ô người đó. Người ấy ví như châu báu màu vàng tím, trần cấu chẳng thể nào xâm nhiễm.

Thế nên, thiện nam tử! Nếu có ai mang hoặc đeo Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni này trong mình, thì người đó cũng sẽ chẳng bị các thứ bệnh của tham sân si xâm nhiễm.”

Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-Tát cầm bàn chân của vị Pháp sư kia mà bạch rằng:

“Con vẫn chưa có đầy đủ con mắt sáng và mê mất đi Đạo nhiệm mầu, ai sẽ làm người chỉ dẫn cho con? Nay con khát ngưỡng Pháp vị, xin ngài hãy ban cho Pháp vị. Hiện tại con chưa chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, xin hãy khiến chúng con khéo an trụ nơi hạt giống Pháp của Bồ-đề, chứng sắc thân thanh tịnh, cùng được thiện căn bất hoại, và làm cho chúng hữu tình đều được Pháp này.”

Khi đó, đại chúng đồng nói rằng:

“Xin chớ giữ cho riêng mình! Kính mong Pháp sư hãy truyền Pháp Lục Tự Đại Minh Vương và như thế sẽ khiến chúng con mau chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, khiến chúng con có thể chuyển 12 Pháp luân để cứu độ tất cả hữu tình thoát khỏi sự khổ não của vòng luân hồi. Chúng con chưa từng bao giờ nghe được Pháp Đại Minh Vương này. Giờ đây mong Pháp sư hãy truyền Lục Tự Đại Minh Vương Đà-la-ni, để chúng con có thể làm nơi nương tựa cho những ai không người cứu hộ, mà làm ngọn đèn sáng trong đêm tối.”

Lúc ấy, vị Pháp sư kia bảo rằng:

“Lục Tự Đại Minh Vương Đà-la-ni này rất khó gặp:

– như kim cang không gì có thể phá hoại;

– như thấy được trí tuệ vô thượng;

– như thấy được trí tuệ vô tận;

– như thấy được trí tuệ thanh tịnh của Như Lai;

– như nhập vào vô thượng giải thoát, xa hẳn tham sân si cùng khổ não của luân hồi;

– như nhập vào thiền định, giải thoát, tam-ma-địa, và tam-ma-bát-để;

– như nhập vào tất cả pháp mà chư thánh thường yêu mến.

Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào vì cầu giải thoát mà tuân theo đủ mọi pháp của ngoại đạo ở khắp nơi, như là: thờ kính Đế-thích, hoặc thờ kính hàng cư sĩ bạch y, hoặc thờ kính hàng thanh y, hoặc thờ kính nhật thiên, hoặc thờ kính Đại Tự Tại Thiên, hoặc thờ kính Na-la-diên Thiên, hoặc họ ở trong chúng ca-lâu-la hay trong hàng ngoại đạo lõa thể. Tuy họ yêu mến các nơi như vậy, nhưng chẳng thể nào giải thoát ra khỏi vô minh. Sự tu hành của họ chỉ có danh nghĩa, hư vọng như hư không, và chỉ tự mình làm khổ mệt chính mình.

Hết thảy thiên chúng, Đại Phạm Thiên Vương, Đế-thích Thiên Chủ, Na-la-diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, nhật thiên, nguyệt thiên, phong thiên, thủy thiên, hỏa thiên, Diêm-ma Pháp Vương, và Tứ Đại Thiên Vương, tất cả họ luôn mong được Lục Tự Đại Minh Vương của ta, bởi vì nếu họ đắc được Lục Tự Đại Minh Vương của ta thời sẽ đều đắc giải thoát.

Đà-la-ni này diệt trừ tất cả chướng nạn, là mẹ của hết thảy chư Như Lai Bát-nhã Ba-la-mật. Khi tuyên thuyết Lục Tự Đại Minh Vương này thì tất cả các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác cùng chư Bồ-Tát thảy đều cung kính chắp tay và đảnh lễ.

Thiện nam tử! Trong Đại Thừa, Pháp này là tối thượng, tinh thuần, và vi diệu. Vì sao thế? Đó là vì Pháp này bao gồm hết thảy Khế Kinh Đại Thừa, như là: Trường Hàng, Trùng Tụng, Cô Khởi, Tỷ Dụ, Nhân Duyên, Tự Thuyết, Bổn Sanh, Bổn Sự, Vị Tằng Hữu, Phương Quảng, Luận Nghị, và Thọ Ký.

Thiện nam tử! Nếu đắc được bổn mẫu của Đà-la-ni này thì có cần thiết tu tập các môn tịch tĩnh giải thoát khác nữa không? Ví dụ như có người đến mùa thu hoạch lúa, họ bỏ thóc vào bao và mang về nhà. Sau đó, họ lấy thóc đi phơi khô, rồi đập, giã, và quạt để lấy vỏ trấu ra. Cuối cùng họ có được những hạt gạo tinh sạch. Cũng như vậy, trong tất cả các môn Du-già, các môn Du-già khác ví như vỏ trấu, còn Lục Tự Đại Minh Vương này thì ví như gạo trắng.

Thiện nam tử! Chư Bồ-Tát vì Pháp này mà tu hành Bố Thí Ba-la-mật, Trì Giới Ba-la-mật, Nhẫn Nhục Ba-la-mật, Tinh Tấn Ba-la-mật, Thiền Định Ba-la-mật, và Bát-nhã Ba-la-mật.

Thiện nam tử! Lục Tự Đại Minh Vương này rất khó gặp. Như chỉ niệm một biến thì người này sẽ được tất cả các Đức Như Lai lấy y phục, ẩm thực, thuốc thang, tọa cụ, giường nằm và những vật khác để cúng dường.”

Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-Tát thưa với Pháp sư rằng:

“Xin hãy truyền cho con Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni.”

Vị Pháp sư kia liền chánh niệm tư duy và bỗng nhiên trong hư không có tiếng rằng:

“Thánh giả! Hãy truyền Lục Tự Đại Minh Vương này cho ông ta.”

Vị Pháp sư kia liền tư duy:

“Tiếng này là từ đâu phát ra?”

Trong hư không lại có tiếng vọng ra rằng:

“Thánh giả! Nay vị Bồ-Tát đó tu hành Pháp Gia Hạnh và chí tâm khẩn cầu, Thánh giả hãy truyền Lục Tự Đại Minh Vương này cho ông ta.”

Vị Pháp sư kia liền quán sát trong hư không thì thấy Liên Hoa Thủ Bồ-Tát và Liên Hoa Cát Tường Bồ-Tát. Thân tướng của các ngài như sắc màu ánh trăng mùa thu. Trên đỉnh đầu đội mũ báu Nhất Thiết Trí, thù diệu trang nghiêm.

Khi kiến thấy thân tướng như thế, vị Pháp sư bảo ngài Trừ Cái Chướng rằng:

“Thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát bảo ta truyền cho ông Lục Tự Đại Minh Vương Đà-la-ni. Ông hãy lắng nghe.”

Ngài Trừ Cái Chướng liền chắp tay cung kính để nghe Lục Tự Đại Minh Vương này. Đà-la-ni thuyết như vầy:

Om Mani Padme Hum (Tiếng Phạn)

(Phát Âm Theo Tiếng Việt: Ôm Ma Ni Pat Mê Hum)

Đương lúc tuyên thuyết Đà-la-ni này thì đại địa đều chấn động sáu cách. Trừ Cái Chướng Bồ-Tát liền đắc tam-muội đó và còn đắc thêm Vi Diệu Tuệ Tam-muội, Phát Khởi Từ Bi Tam-muội, và Tương Ứng Hành Tam-muội. Khi đã đắc các tam-muội này, Trừ Cái Chướng Bồ-Tát Ma-ha-tát liền dùng đồ bảy báu tràn khắp trong bốn châu lớn mà phụng hiến cúng dường cho vị Pháp sư. Lúc đó, vị Pháp sư bảo rằng:

“Sự cúng dường của ông bây giờ còn chưa đáng bằng một chữ của Lục Tự Đại Minh Đà-la-ni. Thế thì làm sao cúng dường trọn cả sáu chữ? Thiện nam tử! Ông là một vị Bồ-Tát, là một bậc Thánh giả, chứ không phải là phàm phu.”

Khi ấy, ngài Trừ Cái Chướng lại dùng xâu chuỗi anh lạc với trị giá trăm ngàn trân châu báu để cúng dường vị Pháp sư.

Lúc đó vị Pháp sư kia nói rằng:

“Thiện nam tử! Hãy nghe tôi nói, ông nên cầm những châu báu này mà cúng dường cho Đức Thích-ca-mâu-ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác.”

Lúc bấy giờ, Trừ Cái Chướng Bồ-Tát cuối đầu đảnh lễ dưới chân của vị Pháp sư. Lễ xong, trong lòng được mãn nguyện toại ý, rồi từ biệt cáo lui và trở về vườn Kỳ-đà. Khi đã về đến nơi, ngài đảnh lễ dưới chân Phật.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích-ca-mâu-ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác bảo rằng:

“Này thiện nam tử! Ta biết ông đã chứng đắc.”

“Dạ vâng, thưa Thế Tôn!”

Ngay lúc ấy có 77 câu-chi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác đều đến hội họp và chư Như Lai kia đồng tuyên thuyết Đà-la-ni như vầy:

“nam-mô tát-đa-nẩm, tam-miệu tam-bồ-đề cu-chi-nẩm, đát-điệt-tha, án chiết-lệ chủ-lệ chuẩn-đề ta-bà-ha”

|| namaḥ saptānāṃ samyak-saṃbuddha-koṭīnāṃ tadyathā oṃ cale cule cunde svāhā ||

[Khi đó, Đức Phật bảo:]

“Đang trong lúc 77 câu-chi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác tuyên thuyết Đà-la-ni này, thì trên thân của Quán Tự Tại Bồ-Tát có một lỗ chân lông, tên là Nhật Quang Minh. Trong ấy có vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha Bồ-Tát. Ở trong lỗ chân lông Nhật Quang Minh kia lại có 12.000 dãy núi vàng. Mỗi một dãy núi có 1.200 chóp núi. Giáp vòng trên núi có hoa sen báu rực rỡ trang nghiêm. Xung quanh các núi kia có ma-ni báu cõi trời và khu viên lâm thích ý.

Trong lỗ chân lông kia còn có đủ mọi ao hồ cõi trời. Lại có vô số trăm ngàn vạn lầu các được trang nghiêm bằng vàng báu. Treo trên đó có trăm ngàn y phục và trân châu anh lạc. Trong những lầu các kia có như ý bảo châu vi diệu. Bảo châu này cung cấp cho chư đại Bồ-Tát kia tất cả những vật dụng theo ý muốn.

Khi đó chư Bồ-Tát vào trong những lầu các, rồi họ niệm Lục Tự Đại Minh và liền thấy quả địa của Niết-bàn. Khi đã đến quả địa của Niết-bàn, các ngài thấy Như Lai cùng quán thấy Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát, tâm liền sanh hoan hỷ. Tiếp đó, chư Bồ-Tát này rời khỏi những lầu các kia và đến nơi kinh hành. Ở nơi kinh hành ấy có các khu vườn báu, các ngài đi đến đó và rồi lại đi đến ao tắm. Sau đó, họ đi lên núi báu có hoa sen rực rỡ, rồi đồng xoay mặt về một hướng, ngồi kiết già và nhập tam-muội. Và như thế, thiện nam tử! Chư Bồ-Tát đó đang trú ở trong lỗ chân lông kia.

Này thiện nam tử! Lại có một lỗ chân lông tên là Đế-thích Vương. Trong ấy có vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha chư Bồ-Tát trụ ở quả vị bất thối chuyển. Ở trong lỗ chân lông Đế-thích Vương này lại có 80.000 ngọn núi vàng báu cõi trời. Trong các ngọn núi này có như ý ma-ni bảo, tên là Liên Hoa Quang. Chúng tùy theo tâm tư duy của chư Bồ-Tát kia mà đều hiện ra như ý. Ở trong những ngọn núi đó, chư Bồ-Tát kia như muốn ẩm thực, thời sẽ được đầy đủ. Các ngài chẳng có sự khổ não của luân hồi, luôn tư duy về thân họ và không suy nghĩ điều gì khác.

Này thiện nam tử! Lại có một lỗ chân lông tên là Đại Dược. Trong ấy có vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha sơ phát tâm chư Bồ-Tát. Thiện nam tử! Ở trong lỗ chân lông kia có 99.000 dãy núi. Ở trong những dãy núi này có hang kim cang báu, hang vàng báu, hang bạc báu, hang Đế-thích xanh báu, hang màu hoa sen báu, hang màu xanh biếc báu, và hang màu pha lê báu. Mỗi một vua núi này có 80.000 chóp núi. Trên đó được trang nghiêm với đủ mọi thích ý ma-ni cùng các bảo châu vi diệu.

Trong những chóp núi kia có chúng càn-thát-bà thường tấu âm nhạc. Các sơ phát tâm Bồ-Tát kia tư duy về không, vô tướng, vô ngã, sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, nỗi khổ của chúng hữu tình bị đọa vào Địa Ngục Vô Gián và địa ngục sợi dây đen, nỗi khổ của chúng hữu tình bị sa vào loài ngạ quỷ. Khi tư duy như thế, họ ngồi kiết già và nhập tam-muội ở trong những ngọn núi kia.

Này thiện nam tử! Lại có một lỗ chân lông tên là Hội Họa Vương. Trong ấy có vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha bậc Duyên Giác đang phóng ra ánh sáng cháy rực. Ở trong lỗ chân lông kia có trăm ngàn vạn ngọn núi. Những vua núi này được trang nghiêm bằng đồ bảy báu và có muôn loại cây kiếp-ba-la với bạc trắng làm lá cùng vô số trăm loại châu báu dùng để trang nghiêm. Trên cây treo những mũ báu, bông tai, y phục, xâu chuỗi anh lạc, chuông báu, và áo kiều-thi-ca. Lại có chuông báu làm bằng bạc trắng và chúng phát ra tiếng leng keng. Những cây kiếp-ba-la như thế có đầy khắp trong núi. Có vô số bậc Duyên Giác đang trú ở nơi kia. Họ luôn thuyết giảng Kinh Pháp như là: Trường Hàng, Trùng Tụng, Cô Khởi, Tỷ Dụ, Nhân Duyên, Tự Thuyết, Bổn Sanh, Bổn Sự, Vị Tằng Hữu, Phương Quảng, Luận Nghị, và Thọ Ký. Này Trừ Cái Chướng! Khi đó các bậc Duyên Giác kia đi ra khỏi lỗ chân lông đó.

Lại có một lỗ chân lông sau cùng tên là Phan Vương, rộng 80.000 do-tuần. Ở trong ấy có 80.000 ngọn núi được trang nghiêm bằng muôn loại diệu bảo cùng thích ý ma-ni. Trong vua núi kia có vô số cây kiếp-ba-la, vô số trăm ngàn vạn cây hương chiên đàn, và vô số trăm ngàn vạn cây cổ thụ. Lại có đất kim cang báu. Lại có 99 lầu các với trăm ngàn vạn châu báu, vàng kim, trân châu, anh lạc, và y phục được treo trên đó. Ở trong lỗ chân lông kia xuất hiện ra những việc như thế.”

Khi đã thuyết giảng cho ngài Trừ Cái Chướng xong, lúc bấy giờ Đức Phật bảo ngài A-Nan:

“Như có người nào không biết nghiệp báo mà ở trong tinh xá khạc nhổ cùng đại tiểu tiện và những việc tương tự, nay Ta sẽ vì ông mà nói quả báo đó:

Nếu ai khạc nhổ trên đất của Thường Trụ, thì người này sẽ sanh làm côn trùng, miệng nhỏ như cây kim, và ở trong cây sa-la 12 năm.

Nếu ai đại tiểu tiện trên đất của Thường Trụ, thì người này sẽ sanh làm con giòi bọ bẩn thỉu ở trong phân hoặc nước tiểu của đại thành Ba-la-nại.

Nếu ai dùng tâm xỉa răng của Thường Trụ mà không xin phép, thì người này sẽ sanh làm cá, rùa, hoặc loài cá ma-kiệt.

Nếu ai trộm cắp đèn dầu, gạo, đậu, hoặc những vật khác của Thường Trụ, thì người này sẽ đọa trong loài quỷ đói với đầu tóc bù xù và lông trên thân đều dựng đứng. Bụng của chúng lớn như núi, còn cổ thì nhỏ như cây kim. Thân hình chúng cháy khét và chỉ còn lại hài cốt. Đó là khổ báo mà người này phải thọ lấy.

Nếu ai khinh mạn chư Tăng Ni, thì người này sẽ sanh trong gia đình bần cùng hạ tiện. Ở mọi nơi sanh ra, các căn đều chẳng hoàn chỉnh, gù lưng, lùn và xấu xí. Lúc xả báo thân đó, thì khi sanh ở đời sau sẽ chịu nhiều bệnh tật, gầy ốm héo hon, chân tay co quắp, có máu mủ ứa ra và nhiểu khắp trên thân thể. Đó là khổ báo mà trăm ngàn vạn năm người này phải thọ lấy.

Nếu ai chiếm đoạt đất đai của Thường Trụ, thì người này sẽ đọa xuống địa ngục gào thét. Họ bị bắt nuốt viên sắt vào miệng và khiến cho môi, răng, hàm răng cùng cổ họng thảy đều cháy chín. Tim, gan, ruột, bụng và toàn thân cũng bị cháy sạch. Tiếp đó, có ngọn gió nghiệp thổi qua và làm cho họ chết đi sống lại, rồi các ngục tốt của Diêm Vương xua đẩy người tội đi. Do nghiệp tự chiêu cảm nên tội nhân sẽ sanh ra với cái lưỡi to lớn và có trăm ngàn vạn lưỡi cày sắt cày bừa trên đó. Khi đã thọ khổ báo nhiều ngàn vạn năm như thế, họ được thoát ra địa ngục kia, rồi lại rơi vào địa ngục kế. Trong địa ngục ấy có những cái chảo khổng lồ đang bốc cháy. Ở đó, các ngục tốt của Diêm Vương lôi kéo người tội và dùng trăm ngàn vạn cây châm để chích trên lưỡi của họ. Do bởi nghiệp lực nên sẽ không bị chết. Tiếp đến, các ngục tốt lùa đuổi tội nhân đến hầm lửa và ném vào trong đó. Tiếp theo, chúng xua đẩy người tội đến bờ sông Nại và ném vào trong ấy. Mặc dù vậy nhưng họ cũng chẳng bị chết. Và cứ triển chuyển như thế suốt ba kiếp, người tội sẽ lần lượt đọa vào các địa ngục khác nhau. Sau đó, người này sẽ thác sanh vào trong một gia đình bần cùng hạ tiện ở châu Nam Diêm-phù-đề và mắt lại bị mù. Đó là khổ báo mà người này phải thọ lấy. Hãy cẩn thận chớ trộm cắp đồ dùng của Thường Trụ.

Đối với chư Tỳ-kheo nào trì giới thì nên thọ trì ba y. Nếu vào cung vua thì nên mặc y lớn thứ nhất. Nếu ở trong đại chúng thì nên mặc y thứ hai. Nếu đang lúc làm việc, hoặc vào thôn xóm, hoặc vào thành thị, hay trong lúc đang đi, thì nên mặc y thứ ba. Chư Tỳ-kheo nên thọ trì ba y như vậy. Nếu Tỳ-kheo nào tu theo giới luật thì sẽ được công đức và có trí tuệ. Ta giảng nói các Tỳ-kheo phải trì giới và không được trộm cắp tài vật của Thường Trụ. Ví dụ như có người bị rơi xuống hầm lửa hoặc thường phải uống thuốc độc, thì họ vẫn còn cách cứu chữa. Tuy nhiên, nếu ai ăn cắp đồ vật của Thường Trụ thì chẳng thể nào cứu vớt.”

Lúc bấy giờ Tuệ mạng A-Nan bạch Phật rằng:

“Chúng con xin vâng lời Phật dạy, sẽ tu học và thực hành trọn đủ. Nếu vị Tỳ-kheo nào thọ trì Ba-la-đề-mộc-xoa, là môn biệt giải thoát, thì sẽ khéo an trụ và thủ hộ giáo Pháp của Phật.”

Lúc ấy, Tuệ mạng A-Nan đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu quanh và cáo lui. Tiếp đó, chư đại Thanh Văn, ai nấy trở về bổn xứ của mình. Tất cả trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân trong thế gian, sau khi nghe Phật thuyết giảng, họ đều hoan hỷ tín thọ, đảnh lễ Đức Phật rồi cáo lui.

    Xem thêm:

  • Thiện ác nghiệp báo phần 10 – Thụ Trai - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bồ Đề Trường Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Vì Hải Long Vương Dạy Pháp Ấn - Kinh Tạng
  • Kinh Nữ Long Thí - Kinh Tạng
  • Kinh Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp Thiên Phật Danh - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Vì Ta Già La Long Vương Sở Thuyết Đại Thừa - Kinh Tạng
  • Củ Lí Ca Long Vương Tượng Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Thiền Tâm dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Trung Quán dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Dạy Tu Tập Mười Nghiệp Lành - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Câu Lợi Già La Đại Long Thắng Phục Ngoại Đạo - Kinh Tạng
  • Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Căn Bổn Đại Giáo Vương Kinh Kim Sí Điểu Vương Phẩm - Kinh Tạng
  • Hà Da Yết Lợi Bà Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Pháp Đàn - Kinh Tạng
  • Kinh Long Thí Bồ Tát Bổn Khởi - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bảo Tạng Văn Thù Sư Lợi - Kinh Tạng
  • Kinh Hoằng Đạo Quảng Hiển Tam Muội - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng