Kinh La Ma Già
Tây Tần Thánh Kiên dịch
Bản Việt dịch của Thích Nữ Như Phúc
***
QUYỂN THƯỢNG
Như vầy tôi nghe:
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, rừng Kỳ-Đà, nước Xá Vệ, lầu gác trang nghiêm, giảng đường Thiện Thắng. Cùng với Đại Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, có các Bồ tát vị Bồ tát: Quang Minh Tràng, Tu Di Sơn Tràng, Bảo Tràng, Vô Ngại Tràng, Hoa Tràng, Tịnh Tràng, Nhật Quang Tràng, Tịnh Chánh Tràng, Ly Trần Tràng, Thế Tịnh Tràng, Địa Oai Đức Tràng, Bảo Oai Đức, Đại Oai Đức, Kim Cang Trí Oai Đức, Tịnh Oai Đức, Pháp Nhật Oai Đức, Công Đức Sơn Oai Đức, Trí Diễn Oai Đức, Phổ Hiện Thắng Oai Đức, Trì Địa Tạng, Hư Không Tạng, Liên Hoa Tạng, Bảo Tạng, Nhật Tạng, Công Đức Tịnh Tạng, Pháp Ấn Tạng, Thế Tịnh Tạng, Bất Kiêu Mạn, Liên Hoa Thắng Tạng, Thiện Tịnh Nhãn, Thanh Tịnh Nhãn, Tịnh Nhãn Tạng, Vô Trước Nhãn, Phổ Tập Nhãn, Thiện Quán Nhãn, Ưu Bát La Hoa Nhãn, Kim Cang Nhãn, Bảo Nhãn, Hư Không Nhãn, Thiên Nhãn, Phổ Nhãn, Thiên Quan, Pháp giới Diễn Trí Thiên Quang, Đạo Tràng Thiên Quan, Chiên Đàn Quan Thiên Quan, Phật Tạng Thiên Quan, Sơn Dõng Thiên Quan, Thế Tịnh Thiên Quan, Oai Nghi Thiên Quan, Vô Năng Thắng, Chư Phật Sư Tử Tòa Phú Quán, Phổ Pháp Giới Hư Không Quang Quán, Phạm Thắng Phát, Long Thắng Kế, Phật Biến Hóa Diễm Kế, Nhất Thiết Nguyện Hải Ma Ni Kế, Như Lai Viên Quang Thù Kế, Hư Không Đường Châu Bảo Kế, Như Lai Du Hý Châu Vương Võng Kế, Như Lai Pháp Luân Hương Kế, Nhất Thiết Tam Thế Hương Kế, Đại Quang, Ly Cấu Quang, Bảo Quang, Ty Trần Quang, Diễm Quang, Pháp Quang, Tịch Quang, Nhật Quang, Du Hý Quang, Thiên Quang, Công Đức Tướng Quang, Trí Tướng Diễm, Pháp Tướng Diễm, Thần Thông Diễm Tướng, Quang Diễm Tướng, Hoa Tướng Diễm, Châu Tướng Diễm, Bồ Đề Diễm Tướng, Phạm Tướng Diễm, Phổ Quang Diễm Tướng, Phạm Âm, Hải Âm, Biện Tài Âm, Thế Vương Âm, Sơn Tướng Kích Âm, Nhất Thiết Pháp Giới Phổ Âm, Nhất Thiết Pháp Hải Lôi Âm, Điều Phục Ma Giới Âm, Đại Bi Vân Lôi Âm, Nhất Thiết Thế Gian Tịch Âm, Pháp Giới Tuệ, Trí Dõng, Công Đức Tu Di Dõng, Công Đức Nha Dõng, Xưng Dõng, Phổ Diễm Dõng, Đại từ Dõng, Trí Hải Dõng, Như Lai Chủng Tánh Dõng, Quang Thắng, Diệu Thắng, Dõng Thắng, Thế Tịnh Thắng, Pháp Thắng, Nguyệt Thắng, Hư Không Thắng, Bảo Thắng, Tịnh Thắng, Trí Thắng, Thọ Vương Ấn Thắng, Pháp Vương An, Sơn Vương An, Châu Vương An, Long Vương An, Tịch Vương An, Bất Động Vương An, Tiên Nhân Hiền Lực Vương An, Thắng Vương An, Tịch Hương, Vô Cực Hương, Địa Hương Âm, Hải Lôi Hương Âm, Pháp Phong Hương Âm, Hư Không Hương Âm, Chúng Sanh Công Đức Hương Âm, Chúng Sanh Thiện Căn Hương Âm, Ma Giới Hương Âm, Trí Sơn Quang, Hư Không Ý, Tịnh Ý, Vô Trước Ý, Giác Ngộ Ý, Tam Thế Diễm Ý, Quang Ý, Phổ Minh Ý, Pháp Giới Diễm Ý, các đại Bồ tát này có đủ năm trăm vị.
Tất cả các vị Bồ tát này cùng tu hạnh Phổ Hiền và đều đầy đủ cảnh giới vô trước. Các ngài hiện khắp mười phương vô lượng cõi Phật, thân nhiều vô cực, ở khắp trong chúng hội chư Phật, từ lâu tu tập nơi cõi Tịnh Nhãn Vô Ngại, tâm không ngưng nghỉ, tích tụ khắp tất cả công đức chư Phật, nhất định thấu triệt nơi con đường giác ngộ, kết tụ vô lượng ánh sáng, trí thâm nhập tất cả pháp như biển, thường hành không vướng mắc, không chỗ thọ. Tâm được tuệ lớn, thân trường thọ vô lượng vô số kiếp, tứ biện tài không cùng tận, trí tuệ như hư không, không nương tựa, không một chút đắm trước. Tùy theo những gì chúng sanh ưa thích, như ý họ mà hiện sắc thân. Mắt tịnh trong suốt không chướng ngại, như mặt trời trong hư không, nơi tất cả pháp giới đều sáng suốt sung mãn.
Lại có năm trăm Thanh văn đã thông đạt Tứ đế từ lâu, thấy rõ căn tánh vô phân biệt, thâm nhập pháp tánh, lìa xa biển sanh tử, tùy thuận chúng Thánh đệ tử của đức Như Lai. Tâm được giải thoát đối với các kiết sử. Ở trong biển Phật pháp tâm không nghi hoặc, cùng vô số chư thiên vương tập họp và đã trồng các cội phước đức nơi chư Phật trước. Các ngài khắp vì các chúng sanh luôn làm người bạn thân thiết. Đã từ lâu thọ giới, tâm đầy đủ các công đức, siêu việt hơn cả trời người nhưng tâm không cao ngạo, tất cả phiền não đều đã chấm dứt. Tâm và trí giải thoát như hư không. Đối với pháp Phật không còn nghi ngờ và thâm nhập biển trí tuệ chư Phật. Tùy thuận oai nghi của các bậc Thánh Như Lai, thực hành lời dạy của chư Phật để thành tựu chúng sanh, ủng hộ hạt giống Phật pháp để không đoạn tuyệt. Nhờ căn lành này mà Bồ tát thường sanh vào ngôi nhà Phật pháp, đạt được trí tuệ và pháp môn chân thật.
Bấy giờ chư Bồ tát, đại chúng Thanh văn, chư thiên, ma, phạm và các thần tiên, mỗi vị cùng bà con quyến thuộc cung kính vây quanh, cảm kích suy nghĩ: nghĩ đến công hạnh đức Như Lai, nghĩ cảnh giới Phật, nghĩ sự biến hóa thần thông tự tại của Phật, nghĩ sự trì niệm Như Lai lực của Như Lai, nghĩ sự vô úy của Như Lai, nghĩ chỗ trú của Như Lai, nghĩ thiền định Như Lai, nghĩ nơi công đức thù thắng vi diệu Như Lai, nghĩ thân Như Lai, nghĩ trí tuệ vô bờ bến của Như Lai mà tất cả trời người không thể đo lường, không thể phân biệt, không thể phô bày, không thể dùng kiến thức để biết, không thể nói bằng lời, cũng không thể nói rõ ràng như thật. Ngoại trừ trì lực của Phật, năng lực tự tại của Phật, năng lực trí tuệ của Phật, năng lực biện tài của Phật, năng lực oai thần của Phật, năng lực tam muội của Phật, năng lực thần thông của Phật, năng lực bổn nguyện của Phật, năng lực căn lành quá khứ, năng lực thân cận thiện tri thức, năng lực tín tâm thanh tịnh, năng lực trụ phương tiện, năng lực ưa cầu căn lành thanh tịnh thù thắng vi diệu, năng lực tâm chánh trực giác ngộ sâu xa, nguyện lực nhất thiết trí.
Thế nên đức Thế tôn biết rõ những điều chúng sanh mong muốn, những niềm tin, những sự hiểu biết của họ mà tâm vẫn nhất như. Đức Thế tôn dùng âm thanh vô trước thức tỉnh tất cả biết đạo, nói đạo. Ngài khéo nói các địa vị và các công hạnh, các căn, những hạng người, những kính tin, những giải ngộ, những suy tư và biết cảnh giới bậc nhất thiết trí.
Ai ai cũng tư duy về công đức của Như Lai, cảm nguyện nói:
– Xưa kia, khi đức Như Lai còn là Bồ tát, hạnh nguyện thiện nghiệp. Ban đầu khi mới tu tập nhất thiết trí nguyện thù thắng ba la mật, thị hiện các thần thông và địa vị Bồ tát, trang nghiêm phương tiện, các âm hưởng siêu tuyệt, trang nghiêm hạnh Bồ tát, sanh ra biển mãn túc, trang nghiêm Bồ đề môn của Bồ tát. Thị hiện con đường tự tại của Bồ tát, sanh ra biển trang nghiêm Bồ tát, trang nghiêm Như Lai du hý thần thông, trang nghiêm Như Lai tự tại pháp luân, trang nghiêm Như Lai sát hai, trang nghiêm Như Lai hiện khắp mười phương điều phục chúng sanh mà không hiện thân tâm. Trụ nơi thành chánh pháp của chư Như Lai, công đức thù thắng siêu việt, thị hiện rộng khắp các đạo. Như Lai pháp vương vì tất cả chúng sanh thị hiện các nẻo, dùng sức thần thông tự tại chiếu khắp ánh sáng thanh tịnh. Như Lai là ruộng phước tối thượng của tất cả chúng sanh. Như Lai vì tất cả chúng sanh nói công đức bố thí tam-luân và giáo hóa tất cả muôn loài. Cúi xin đức Như Lai thương xót chúng sanh mà hiển hiện đầy đủ.
Bấy giờ đức Thế tôn biết tâm niệm của chư Bồ tát nên dùng thân đại bi, môn đại bi, tâm đại bi, tâm đại bi, bổn nguyện lực đại bi, tùy thuận đại bi rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư không, nhập Sư tử vương Phấn tấn tam muội. Vì Ngài muốn làm cho tất cả chúng sanh vui thích pháp thanh tịnh.
Khi ấy nơi rừng Kỳ-Đà, các lầu gác giảng đường bỗng nhiên sáng rực rỡ, nghiêm tịnh tỏa chiếu khắp nơi như trang nghiêm đất ấy. Kim Cang cõi Phạm thiên xen lẫn ngọc quý và các trân bảo trang hoàng tốt đẹp, mưa ngọc như ý và các hoa thơm đẹp, ánh sáng xuyên suốt tong ngoài cả khu rừng Kỳ-Đà. Có cây lưu ly thân cành hoa quả được tạo thành bởi các báu. Ánh sáng muôn màu quay vòng trở lại giữa khu rừng. Ngọc quý xinh đẹp dùng làm màn lưới đan kín với vàng Diêm phù đàn và giăng khắp bầu trời, che kín phía trên. Lại dùng những châu báu đặc sắc nhất để trang nghiêm lầu gác. Ngọc ma-ni sáng rực rỡ làm trụ và ánh sáng chiếu thẳng xuyên suốt cả vườn rừng. Cửa vàng, rèm ngọc, lan can trân bảo, bốn phía đường đi do các châu báu tạo thành. Ở riềm nhà chạy dọc hàng hiên cũng tỏa sáng và được trang trí bằng những hoa xinh đẹp kỳ diệu bằng ma-ni bảo vương. Những giải lụa, tràng phan, bảo cái đầy khắp cõi hư không. Nơi phía trước cửa sổ có cây báu hóa sanh, giống như rừng cây Sa-la thẳng tắp tự nhiên, quả như linh báu phát ra các âm thanh vi diệu. Dưới gốc cây chảy ra dòng nước lưu ly thơm dịu, trong mát, lượn lờ chảy quanh tinh xá Kỳ Hoàn.
Nhờ thần lực Phật, thần lực bổn nguyện mà mười phương thế giới số nhiều như bụi không thể nghĩ bàn, vô số cõi Phật thanh tịnh, vô lượng vô số đầy đủ những sự cúng dường đều hiện khắp nơi rừng Kỳ-Đà.
Lại có sông Công Đức Hương, nước trong chảy vòng ven bờ cả nước. Có vô lượng hoa báu sanh ra theo dòng nước không thể cùng tận. Hoa nước có âm thanh đều nói hạnh Bồ tát báo ứng, cây hoa nở sum suê tỏa hương mây phủ. Trong những lọng hương có rất nhiều không thể nghĩ bàn những lầu gác mây, có vô số không thể nghĩ bàn những vòng hoa anh lạc đều thòng rủ xuống, vô số ngọc ma ni báu tự nhiên tuôn ra. Y phục mềm mịn và các tràng phan báu, tràng phan bảo cái khói hương đều đầy đủ.
Có vô số những đài hoa báu như mây xoay vòng trong hư không. Tất cả những tràng phan và các lọng hoa, những tràng linh báu đều phát ra âm thanh vi diệu diễn nói tất cả danh hiệu chư Phật, hiển hiện tướng pháp luân thanh tịnh.
Còn có Sư tử Như Ý Châu Vương với âm thanh như biển rộng, giảng bổn nguyện hải môn của chư Phật. Tất cả pháp giới ma ni bao vương tướng pháp chói sáng để làm trang nghiêm.
Khi ấy nơi rừng Kỳ-Đà, trên không trung có bất khả tư nghì vô số các mây cây thơm. Biết bao nhiêu sự cúng dường đầy đủ như vậy, và các cõi Phật, các việc trang nghiêm nhiều vô lượng vô biên không thể nói hết.
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử từ cõi nước phương Đông cầu thiện tri thức, dần dần đi đến cõi nước phương Nam và chuyển đến phương Tây, trông thấy trưởng giả Thiện Thắng nơi thành Khuất Đầu Ma. Muốn đến thành kia, Thiện Tài đồng tử vừa lặn lội trên đường đi đến thành, vừa chánh định tư duy trong hiện tại, tâm không phân tán, luôn an trú nơi nhất tâm thiền định. Tuy đang đi, Thiện Tài vẫn yêu thích chánh pháp, tâm không hối hận, không lui sụt, vẫn dõng mãnh tiến bước và không sợ con đường hiểm nạn. Luôn nghĩ đến thiện tri thức, tu đạo chánh giác. Vì đạt đạo an lạc nên thiện tâm không cùng tận.
Giữa đường, Thiện Tài suy nghĩ: “Ta phải làm thế nào để đạt được cảnh giới thù thắng? Bây giờ ta phải làm sao để chóng đến chỗ thiện tri thức, để hỏi đạo Bồ tát và hạnh tu Bồ tát. Đối với thiện tri thức làm nhân duyên Phật đạo, được các ba la mật thu nhiếp khắp tất cả, xa lìa các chướng ngại, vào pháp giới vô trước. Khắp vì tất cả chúng sanh đoạn những nghiệp ác đạo để trừ bỏ tâm ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng. Diệt trừ tất cả bụi bặm phiền não, phá dẹp tất cả các lưới kiến chấp, hoàn thành mũi tên toàn thiện, đem cung từ bi để bảo vệ chánh pháp, thành tựu nhân quả. Vì sao? – Nếu được gặp thiện tri thức, chắc chắn được thành tựu các công đức thiện. Thiện tri thức có khả năng là nhất thiết trí làm nền tảng vững chắc, thân tâm chánh định, nhan sắc không thay đổi. Cầu thiện tri thức oai nghi khả kính, không có tướng hung bạo”.
Dần dần Thiện Tài đi đến thành Khuất Đầu Ma, thấy trưởng giả Thiện Thắng ở nơi lầu giảng đường thành kia. Đến nơi, Thiện Tài thấy mình như người lội trong biển rộng, không thấy đâu bờ bến. Có trăm ngàn vạn ức các đại trưởng giả vây quanh, tất cả đều hoan hỷ ở hai bên trưởng giả Thiện Thắng, mỗi người đều ưa muốn nghe các pháp. Như người hoa tiêu vì những người khách buôn mà nói về những nơi có châu báu trong biển, trưởng giả Thiện Thắng có tài phân biệt châu báu trong biển Phật pháp và vì chúng sanh thuyết vô sở trước, vô sở phân biệt.
Khi ấy, Thiện Tài đồng tử cúi đầu kính lễ thưa:
– Bạch đại thánh! Từ lâu tôi đã phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác nhưng không biết thế nào là hành đạo Bồ tát, tu hạnh Bồ tát.
Trưởng giả Thiện Thắng bảo Thiện Tài:
– Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Người đã phát tâm Bồ đề nên mới có thể khéo hỏi về kho báu đại trí tuệ để đạt pháp nghĩa sâu xa này, để đạt tận tất cả hạt giống khổ não nghi hoặc. Bây giờ đồng tử hỏi tôi để đến bờ nhất thiết trí, vì không có tâm phá hoại, hướng thẳng đại thừa, làm cho xa lìa tất cả sự sợ hãi nơi địa vị Thanh văn, Bích Chi Phật, thẳng nẻo Phật đạo, tu các pháp môn tam muội vắng lặng, khéo tu tất cả các hạnh Bồ tát. Nguyện du hý thần thông chuyển pháp luân bất thối, thanh tịnh các nghiệp đạo, nhanh chóng hồi hướng tâm nhất thiết trí. Đối với hạnh Bồ tát tu hành như thật, vì đạo Bồ tát nên đồng tử đến đây hỏi tôi. Người thực hành hạnh này thấy khắp mười phương có ngăn ngại, biết rõ nhất thiết trí và pháp môn đối trị. Vì trang nghiêm tất cả hạnh Bồ tát nên đến đây hỏi tôi.
Thiện nam tử! Tôi ở bờ biển nơi lầu giảng đường, tại thành Khuất Đầu Ma này, ngày đêm thường thuyết pháp môn đại từ đại bi Bồ tát tịnh hạnh.
Thiện nam tử! Tôi ở Diêm Phù Đề này thấy các chúng sanh nghèo khổ, chắc muốn nhiều sự lợi ích, sau đó tôi sẽ vì họ thuyết nghĩa KHÔNG sâu xa. Tùy theo sở nguyện của họ, tôi sẽ làm cho họ được đầy đủ. Hoặc dùng thực phẩm để giúp đỡ họ, hoặc dùng tài pháp để giúp đỡ họ, hoặc dùng nghiệp công đức để giúp đỡ họ, hoặc dùng trí tuệ để giúp đỡ họ, hoặc dùng nghiệp căn lành chánh trực để giúp đỡ họ. Nên đem căn Bồ tát để giúp đỡ, tức dùng căn Bồ tát để giúp đỡ họ. Nên đem phát tâm Bồ tát để giúp đỡ, tức dùng tâm Bồ tát để giúp đỡ họ. Hoặc nên đem sự từ bỏ nghi hoặc để phát tâm Bồ đề, tức dùng pháp từ bỏ nghi hoặc để giúp đỡ họ. Hoặc nên đem pháp hoan hỷ để phát tâm Bồ tát, tức dùng pháp hoan hỷ để giúp đỡ họ. Hoặc nên dùng đại bi phát tâm Bồ tát, tức dùng đại bi để giúp đỡ họ. Hoặc nên dùng pháp trừ sanh – lão – bệnh – tử – ưu bi khổ não, vô thường, định để phát tâm Bồ tát, tức dùng pháp khổ, không, vô thường để giúp đỡ họ.
Hoặc có chúng sanh nên đem tâm trụ nơi biển sanh tử không mệt mỏi, tức cùng ở nơi biển sanh tử để giúp đỡ họ. Hoặc có chúng sanh nên dùng Tứ nhiếp pháp phát tâm Bồ tát, tức dùng Tứ nhiếp pháp để giúp đỡ họ. Hoặc nên vì tuệ nhất thiết trí biển công đức mà phát tâm Bồ tát, tức dùng pháp tùy thuận biển trí tuệ công đức để giúp đỡ họ. Hoặc có chúng sanh nên dùng tất cả đối trị môn biển chánh pháp của chư Phật ba đời mà phát tâm Bồ tát, tức dùng biển chánh pháp chư Phật ba đời để giúp đỡ họ.
Thiện nam tử! Tôi dùng bao nhiêu pháp nhiếp thủ như vậy vì lợi ích cho chúng sanh, làm cho tất cả chúng sanh được pháp lợi lạc cho nên ở nơi bờ biển này.
Thiện nam tử! Tôi ở nơi bờ biển này biết khắp tất cả châu báu trong biển và chỗ sanh ra chúng. Biết cả nguồn gốc, tánh chất và giá trị quý hay tiện, cùng tướng trong sáng của châu báu. Biết ánh sáng báu, có thể phân biệt chính xác. Biết rõ tất cả công xảo kỹ thuật. Biết rõ các cung điện khác nhau của tất cả các rồng, rồng chúa và rồng con. Cũng có thể khéo diệt trừ các rồng ưa đánh nhau và có tướng ác đáng sợ. Biết rõ tất cả các thôn xóm, cung điện của La-sát chúa, có khả năng diệt trừ những La-sát đấu tranh, kiện tụng và mang đến sự sợ hãi. Khéo biết tất cả chỗ ở của những quỷ ly, mị, vọng, lượng và quỷ thần ác. Cũng có thể diệt trừ các nạn sóng biển vùi dập. Biết tất cả màu nước và những dòng chảy của suối nguồn. Có khả năng khéo xem biết thiên văn và những sự biến quái tai nạn khác. Lưu ý ngày đêm, không một khoảnh khắc nhỏ nào đánh mất tâm thường cứu độ. Phân minh rõ ràng không sai khác một mảy may. Biết giỏi những sách liệt kê toán số, chinh phục kẻ dưới, sử dụng tùy lúc. Biết rõ tất cả các tướng thay đổi không dừng trong từng sát-na, hoặc hợp hoặc tan, khéo biết tính toán các việc thế gian.
Thiện nam tử! Ông nay nên biết, tôi vì biết pháp môn Thập minh của tất cả chúng sanh này nên an trú thanh tịnh bên bờ biển, không sợ hãi và làm cho các chúng sanh kia đều được an ổn. Tôi thường dùng chánh pháp để an ủi, vỗ về họ.
Nếu trong Diêm Phù Đề có các thương gia buôn bán, muốn đến biển lớn tìm cầu trân bảo mà xưng tên tôi thì được rất nhiều trân bảo và an ổn may mắn trở về. Nếu có chúng sanh được nghe tên tôi thì những bụi bặm của thân tâm cho đến bụi bặm nơi y phục, vĩnh viễn được tiêu trừ, huống gì phiền não.
Nếu có chúng sanh mắt nhìn thấy tôi, thường được pháp hỷ vô thượng thanh tịnh, nghe pháp không chán, thân tâm vui vẻ an lạc nhờ được pháp này. Tôi thường khắp vì những nỗi khổ nội tâm của chúng sanh trong tất cả Diêm Phù Đề mà mưa trận mưa pháp lớn, làm cho họ được an vui.
Nếu có chúng sanh nghe tôi thuyết pháp ắt được an ổn vượt qua biển khổ sanh tử, thoát khỏi sự sợ hãi, chắc chắn được an vui nơi biển nhất thiết trí, vĩnh viễn xa lìa khát ái, không còn lo âu hoạn nạn, thường trụ nơi biển tam thế minh giải thoát.
Thiện nam tử! Ông nay nên biết, tôi có thể hòa nhập vào tất cả tâm chúng sanh và tâm tôi luôn hành đạo trong biển, làm cho chúng sanh kia tu nghiệp tịnh độ. Tôi biết khắp tất cả mười phương biển tịnh quốc, tùy ý vãng sanh, được nghiệp vô ngại. Tôi có thể trang nghiêm tất cả biển tịnh nghiệp căn, có thể thanh tịnh tất cả biển chúng sanh hạnh, làm cho họ được ở nơi biển nghỉ ngơi an lạc, vắng lặng, đại an.
Thiện nam tử! Tôi dùng sự biết đại từ bi và hỷ xả này để đối trị diệt tướng kích âm thanh pháp môn của Bồ tát Hỷ Tràng cùng chư đại Bồ tát, các ngài đã thành tựu vô lượng các công đức biển trí tuệ, khéo hay phân biệt tất cả biển thế giới hạnh, đoạn trừ tất cả biển nghiệp phiền não, thành tựu tất cả các biển pháp giới, bao gồm tất cả các chúng sanh và biển thế giới, nhập vào tất cả biển trí tuệ cao siêu, không bao giờ bỏ tất cả biển chúng sanh. Tâm ấy như đất, khéo hay tùy thuận tất cả biển chúng sanh, khắp vì giáo hóa tất cả biển chúng sanh, khéo tùy thuận biển oai nghi của tất cả chúng sanh. Chư đại Bồ tát hành pháp sâu xa như vậy, tôi phải làm thế nào để có thể biết, có thể nói về hạnh công đức kia?
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử cúi đầu đảnh lễ, nhiễu quanh trăm ngàn vòng rồi từ tạ trưởng giả Thiện Thắng, ra đi về hướng Tây.
Trưởng giả Thiện Thắng ngợi khen:
– Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử, ông hãy nên chánh niệm tư duy thiền định tam muội. Từ đây, đồng tử đi dần về phía Tây, hướng đến thành Danh Văn, qua khỏi thành này đi tiếp sẽ có nước tên Nan Nhẫn, thành tên Ca Lăng Đề. Cách thành này không xa có rừng Công Đức, trong khu rừng ấy có Tỳ kheo ni tên Sư Tử Phấn Tấn, thân màu vàng ròng, đoan nghiêm đệ nhất. Đồng tử hãy đến chỗ vị Tỳ kheo ni ấy để hỏi về hạnh Bồ tát, hỏi về giới Bồ tát, hỏi các pháp môn.
Khi ấy Thiện Tài đồng tử nhẹ nhàng dời bước, từ giã lui ra, dần dần đi đến rừng Công Đức, ven bờ suối Nhật Quang. Đồng tử thấy vị Tỳ kheo ni đang ngồi đoan nghiêm thiền định, có năm trăm đồng nữ tướng mạo xinh đẹp làm thị giả, và có năm trăm đồng tử bảo vệ các đồng nữ kia, cùng trăm ngàn thiên nữ đứng hầu hai bên.
Bên bờ suối Nhật Quang có một vườn cây tên Vương Viên. Vào trong vườn này thấy có một đại thọ tên Nhật Nguyệt Quang, phóng ra ánh sáng chiếu tỏa hàng trăm do-tuần để trang nghiêm vườn cây, hóa thành lầu gác trang trí bằng bảy báu, trên có ánh sáng.
Lại thấy cây đại thọ tên Phổ Quang Minh, cành lá nâng cao phủ khắp ba ngàn đại thiên thế giới, hình dáng như cây lọng, chảy ra các dòng nước có ánh sáng thanh tịnh.
Lại thấy rừng báu tên Hoa Tạng, cây vươn cao vô cực, hoa nở như thiên thọ vương, có ánh sáng rực rỡ như cung điện trời, màu trắng muốt đẹp như núi tuyết.
Lại thấy cây đại thọ tên Mỹ Vị, hoa vàng, quả vàng, hương thơm êm dịu, rất thích hợp lòng người.
Lại thấy một cây tên Thế Tịnh Quang, màu cây sáng chói, vô lượng vô biên ngọc chiên đàn dùng làm trái cây. Có A tăng kỳ các lưới ngọc đan nhau, lưới phủ trên cây giống như cung điện trời.
Lại thấy một cây tên Thiên Y, thường xuất vô lượng A tăng kỳ vô số các y phục báu.
Lại thấy các cây tên Âm nhạc, cành lá va chạm nhau phát ra tiếng du dương như Phạm âm.
Lại thấy các cây tên Phổ Hương Trang Nghiêm, mùi hương thấm nhuần khắp nơi không có chướng ngại.
Trong vườn rừng lại thấy ao, suối, lưới sáng bảy báu che phủ lên trên. Bốn phía ao có bốn dòng kênh, chia làm tám chi liên tục rót vào tám thứ nước công đức trong suốt tràn đầy. Bùn dưới đáy ao bằng bột ngưu đầu chiên đàn, các châu báu trang nghiêm, cát bằng hoàng kim, phun lên nước thơm này. Tiếng suối reo như nhạc trời làm vui đẹp lòng chúng sanh. Các châu báu được dùng làm lan can. Bên bờ ao được trải cát vàng, thường phóng ra các thứ ánh sáng muôn màu lấp lánh. Hoa sen trắng, hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen xanh chen nhau đua nở trên mặt nước. Có các cây báu thành hàng thẳng tắp trang hoàng chung quanh bờ ao, dưới mỗi cây này có tòa sư tử trải vô lượng châu báu, vô lượng y trời. Những trân bảo quý đẹp dùng làm đồ trang sức, đốt hương vô giá xông tòa sư tử. Các màn, trướng thơm, trắng sạch tươi sáng, lưới báu phủ lên trên, rủ xuống những phong linh vàng phát ra tiếng hòa diệu.
Lại có vô lượng những giường, màn báu chung quanh tòa cao, dưới mỗi một gốc cây cũng lại như vậy.
Ở giữa những cây đại thọ có vô lượng tòa sư tử liên hoa bảo tàng. Lại ở giữa cây có tòa chúng hương tàng. Và ở giữa cây có các thứ tòa hương vân tàng. Và ở giữa cây có tòa sư tử bảo tụ tàng. Và ở giữa cây có tòa nhất thiết thế gian phổ quang ma ni thanh tịnh tàng. Và ở giữa cây có tòa nhạo kiến sư tử bảo tàng. Vô lượng hương vi diệu dùng làm tọa cụ. Nơi những tòa báu này, mỗi một tòa đều có vô lượng trăm ngàn những sàn tòa nhỏ để chung quanh. Mỗi một tòa nhỏ dùng vô lượng châu báu để trang nghiêm. Trên mỗi một tòa có vô lượng ngọc quý đầy đủ tất cả như đại bảo châu. Dưới mỗi một tòa có ánh sáng thù thắng chiếu khắp Vương Viên và rừng Nhật Quang. Trong ánh sáng ấy, mưa y báu và những vàng bạc châu báu mềm mại khả ái dùng để trải trên mặt đất. Ví như biển lớn đều đầy đủ các trân bảo.
Nơi suối Nhật Quang này có nước thơm Chiên-đàn, bước nhẹ thì gót chân lún xuống tùy theo sự vận chuyển của chân. Khi nhấc chân lên, nó trở lại hoàn toàn như cũ. Ở trong ao có nhiều loại chim đẹp như: chim hồng, chim nhạn, uyên ương, chim thúy, khổng tước. Mỗi loại chim tự quay lại nhìn bóng mình trong nước để cùng hót lên âm thanh êm dịu, hài hòa. Chúng bay lượn trong không trung và tụ tập nơi rừng chiên đàn, tại rừng Vương Viên này.
Nước suối Nhật Quang sanh ra vô tận loại hoa thanh tịnh có hương thơm vô giá. Tung những loại hoa này lên không gian, nó vượt xa hơn ao rừng Hỷ Kiến của trời Đế Thích. Cây báu, phong linh báu, cành lá hoa quả không đánh tự kêu, phát ra âm thanh tuyệt diệu. Có các thiên nữ đoan trang xinh đẹp như hoàng hậu trời Tự Tại. Rừng Vương Viên này sáng tỏ gấp bội, vượt hơn các cung trời. Các thiên nữ này trỗi nhạc, ca hát vang khắp Vương Viên, làm hoan hỷ tất cả các vị trời và ở giữa cây có những y phục trổ ra.
Ở bốn bên rừng có Tứ Thiên Vương, tất cả đều là đại quyền Bồ tát thống lãnh bốn binh chủng để làm bảo vệ. Các loại lâu đài, lọng hoa, gấm trời và các cung điện, nhà cửa cũng có binh chúng để bảo vệ mọi người và vườn này trang nghiêm giống như vườn Hoan Hỷ xinh đẹp rực rỡ của trời Đế Thích. Khắp nơi đều sạch đẹp, nhìn mãi không chán, hơn là giảng đường Thiện Tịnh Trang Nghiêm của trời Đại Phạm. Với quả báo của trời người trong ba cõi không thể sánh bằng. Vô lượng Phạm vương với mắt sáng suốt do quả báo thanh tịnh cũng không thể thấy hết rừng Công Đức và suối Nhật Quang này. Giả sử tập hợp cả trăm ngàn Phạm cung cũng không sánh bằng rừng và suối kia được. Vì nó xinh đẹp kỳ diệu không thể nói hết.
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử thấy biết bao ánh sáng vi diệu trang nghiêm vườn rừng này, đều là bổn nghiệp tịnh hạnh của Bồ tát. Công đức chân thật này là sự thành tựu của nguyện lực và căn lành, siêu tuyệt quả báo tam giới thế gian. Bất khả tư nghì A tăng kỳ kiếp, Bồ tát đã ở nơi chư Như Lai trồng các cội công đức, không đắm trước thế gian, xa lìa đoàn thực cũng như nhà ảo thuật thấy các sắc tượng. Tu tất cả những nghiệp thanh tịnh, không đắm trước nơi hạnh thù thắng, không ai có thể phá hoại được.
Tỳ kheo ni Sư Tử Phấn Tấn là người hiểu rõ các pháp tánh, tướng như huyễn hóa, vốn tu công đức, trưởng dưỡng căn lành, thành tựu ngũ lực mà không có chỗ đắm trước.
Rừng Vương Viên này rộng mênh mông và trang nghiêm thanh tịnh, có thể dung chứa tất cả trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Khẩn na la, Ca lâu la, Ma hầu la già, người và chẳng phải người… trong khắp tam thiên đại thiên thế giới, tất cả đều vân tập vào Vương Viên này mà vẫn không chật chội. Vì sao? – Vì tất cả đều nhờ sức oai thần của Tỳ kheo ni Sư Tử Phấn Tấn. Bất khả tư nghì thần thông biến hóa đều từ bổn nguyện của Bồ tát phát sanh.
Thiện Tài đồng tử thấy tất cả những tòa sư tử dưới các cây báu, trên mỗi một tòa có một Tỳ kheo ni tên Sư Tử Phấn Tấn đoan nghiêm thù thắng vi diệu, oai nghi đỉnh đạc, tâm lành vắng lặng, điều phục các căn như đại long tượng, như ngọc như-ý làm vừa lòng tất cả các ước nguyện, tâm không vướng mắc như hoa sen, như sư tử chúa oai hùng chinh phục muôn thú. Vì an trụ bất động nên được giới vô tướng. Tâm ấy thanh tịnh tiêu trừ phiền não cũng như mùi hương hạng nhất có thể diệt hết những mùi hôi. Như đại Dược vương và những thuốc tốt nhất chữa trị được các căn bệnh. Như vua lương dược, người có thiện tâm được gặp có thể trừ được các bệnh, ngược lại, người bất thiện gặp thuốc hay trở thành độc hại. Đại Bồ tát cũng lại như vậy, vì người có duyên hay vô duyên thuyết pháp vi diệu. Người có duyên thấy thân ta, nghe tiếng ta liền được vô ngại đà la ni, còn chúng sanh vô duyên thì tăng thêm hạnh ác, chúng sanh vô ký thì được thiện tâm như trời Ba Lâu Na trang nghiêm vi diệu, ban bố khắp thế gian đều được thanh tịnh, trưởng dưỡng căn lành như ruộng phước tốt.
Thiện Tài đồng tử thấy những đại chúng trên tòa này như là trời Tịnh Cư và quyến thuộc vây quanh, thấy trời Ma Hê Thủ La và quyến thuộc vây quanh. Những thiên chúng này nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni Sư Tử Phấn Tấn mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni vì các chúng trời Tịnh Cư và chúng trời Ma Hê Thủ La mà thuyết pháp môn vô tận, pháp hạnh vô thọ.
Và thấy nơi tòa này có Dục Lạc thiên tử cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chiêm ngưỡng, nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Phổ minh Âm thanh danh văn thanh tịnh. Và thấy nơi tòa này Tự Tại thiên vương, thiên tử, thiên nữ, quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni kia mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni vì chúng trời Tự Tại thuyết pháp môn Bồ tát danh tự tại thanh tịnh. Và thầy nơi tòa này Hóa Lạc thiên vương, thiên tử, thiên nữ cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Nhất thiết pháp thanh tịnh trang nghiêm.
Và thấy nơi tòa này Đâu Suất thiên vương, thiên tử, thiên nữ cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn An lạc tâm tàng toàn phục tự tại vô ngại đà la ni.
Và thấy nơi tòa này Dạ Ma thiên vương cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Xuất sanh vô lượng thanh tịnh thắng diệu trang nghiêm.
Và thấy nơi tòa này Thích Đề Hoàn Nhân cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Bất tịnh nhẫn yểm ly vô thường khổ không vô ngã.
Và thấy nơi tòa này Giải Không Sa Già La long vương, Thập Quang Minh long vương… cùng quyến thuộc vây quanh. Nan Đà long vương, Bạt Nan Đà long vương… cùng quyến thuộc vây quanh. Ma Na Tư long vương, Y Na Bàn Na long vương, A Nậu Đạt Đa long vương… mỗi long vương lại cùng với long tử, long nữ và quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Nhất thiết cứu hộ thiện xảo phương tiện.
Và thấy nơi tòa này Đề Đầu Lại Tra thiên vương, Lãnh Càn Thát Bà… cùng bà con nam nữ lớn nhỏ nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Hoan hỷ vô tận.
Và thấy nơi tòa này Ma Hầu La Già, A tu la vương cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vì Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Pháp giới Trang nghiêm minh tuệ tốc tật.
Và thấy nơi tòa này Đại Thiên Thế Lực Ca Lầu La vương cùng với bà con nam nữ lớn nhỏ vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Độ sanh tử hải vô sở úy.
Và thấy nơi tòa này Thiện Âm Khẩn Na La vương cùng bà con nam nữ lớn nhỏ vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Bản hạnh thanh tịnh vô trước.
Và thấy nơi tòa này Kim Giác Vân Kết Ma Hầu La Già vương cùng với bà con nam nữ lớn nhỏ vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Chư Phật hoan hỷ phổ tập.
Và thấy nơi tòa này vô lượng nam nữ, đồng nam, đồng nữ cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Vô Thắng.
Và thấy nơi tòa này các La sát vương thường ăn tinh khí chúng sanh. Họ cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Phổ từ bi quán.
Và thấy nơi tòa này, tất cả chúng Thanh văn xuất gia đều vân tập đến đông đủ nơi hội chúng. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Trí tuệ quang minh thắng.
Và thấy nơi tòa này những chúng xuất gia thích pháp Duyên Giác đều đến nơi hội chúng đông đủ. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Tịnh minh Phật công đức.
Và thấy chúng xuất gia thích pháp Đại thừa, họ cùng hàng quyến thuộc vây quanh đến ngồi đông đủ nơi hội chúng. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Phổ môn trí tuệ quang minh tam muội.
Và thấy nơi tòa này Bồ tát mới phát tâm cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Nhất thiết chư Phật đại nguyện tụ.
Và thấy nơi tòa này Bồ tát Nhị địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Hư không minh tinh la ma ca tam muội.
Và thấy nơi tòa này Bồ tát Tam địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Trang nghiêm tịch tĩnh.
Và thấy nơi tòa này Bồ tát Tứ địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Nhất thiết chủng trí thế lực cảnh giới.
Và thấy nơi tòa này Bồ tát Ngũ địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Phổ tập tinh hoa tạng.
Và thấy nơi tòa này Bồ tát Lục địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Xuất thế thanh tịnh tạng.
Và thấy nơi tòa này Bồ tát Thất địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Phổ y chỉ thanh tịnh địa tạng.
Và thấy nơi tòa này Bồ tát Bát địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Pháp giới Tỳ la ma già phổ biến pháp thân hóa hiện nhất thiết hư không cảnh giới.
Và thấy nơi tòa này Bồ tát Cửu địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Vô ngại vô trước thanh tịnh lực trang nghiêm.
Và thấy nơi tòa này Bồ tát Thập địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho họ nghe pháp môn Viên mãn vô chướng ngại tịnh danh tam muội.
Và thấy nơi tòa này Kim Cang lực sĩ cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ kheo ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ kheo ni thuyết cho ho nghe pháp môn Trí tuệ trang nghiêm Na la diên Kim cang tướng tam muội.
Tất cả đại chúng như vậy, tất cả chúng sanh, tất cả các cảnh giới, những người có duyên được hóa độ cùng tất cả bà con của họ đã trồng căn lành, tùy theo những điều mong muốn, những sự thực hành những đạo quả và ưa thích nghe nhiều giáo pháp của các chúng sanh. Vì nuôi lớn căn lành, vì tăng trưởng căn lành, vì trang nghiêm căn lành, tùy theo chỗ thích ứng của họ mà Bồ tát khai thị, nói rõ tuệ giác vô thượng. Bồ tát chuyển bánh xe pháp bất thối chuyển, làm cho chúng sanh đạt bất thối chuyển. Vì sao? – Vì đây đều do vị Tỳ kheo ni Sư Tử Phấn Tấn thành tựu pháp môn Phổ Nhãn trí tuệ quang minh xả ly, thành tựu pháp môn Nhất thiết chư Phật pháp giới vô tướng thanh tịnh, pháp giới thông đạt vô ngại. Vị Tỳ kheo ni này thành tựu pháp môn Vô trước vô ngại thanh tịnh bí tàng, thành tựu pháp môn Viên mãn bất khả tư nghì tịnh tạng, thành tựu pháp môn Thanh tịnh phổ hỷ kiến tàng, thành tựu mười vạn ức không thể tính đếm Bát- nhã ba la mật, thành tựu Phổ nhãn Bát-nhã ba la mật, thành tựu tất cả pháp giới Phật không thể hoại Bát-nhã ba la mật.
Bên dòng suối Nhật Quang nơi rừng Vương Viên này, tất cả đại chúng đại Bồ tát… Từ lâu họ đều đã gieo trồng căn lành, có duyên được vị Tỳ kheo ni Sư tử Phấn Tấn thuyết pháp giáo hóa nên đạt đến đạo quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tâm họ hoàn toàn vắng lặng, đắc bất thối chuyển.
Khi ấy, Thiện Tài đồng tử biết Tỳ kheo ni Sư Tử Phấn Tấn từ lâu xa đã thành tựu hết tất cả các pháp môn như vậy nên mới hiện khắp các sắc thân để tự trang nghiêm và làm cho dòng suối Nhật Quang, rừng Vương Viên, các cây báu và các tòa sư tử đều hiện những việc vô cùng hy hữu. Đầy đủ tất cả vườn rừng, đường kinh hành hay thiền định và những thứ cần dùng, vật báu, giường, màn… Đồng tử thấy các đại chúng và tất cả bà con của họ đều ngồi trong vườn rừng ấy. Nhờ thần lực công đức của Bồ tát nên đầy đủ tất cả, có tám thứ âm thanh để thuyết các pháp vi diệu.
Thiện Tài đồng tử thấy những sự thể vô cùng kỳ lạ, hy hữu không thể nghĩ bàn. Lại nghe tám thứ âm thanh vi diệu và nghe bất khả tư nghì âm thanh vi diệu thanh tịnh, ca ngợi tuyên dương vô lượng pháp môn pháp vân. Nhờ pháp môn này, Thiện Tài đồng tử thân tâm được thấm nhuần, êm dịu. Pháp môn này gọi là chánh pháp đối trị vô tỉ.
Đồng tử được pháp môn này rồi, thân tâm hoan hỷ, hoát nhiên đại ngộ, thành tựu tất cả các đại pháp môn, cung kính chắp tay nhiễu quanh trăm ngàn vòng rồi đến trước đảnh lễ. Trong khoảnh khắc chưa ngẩng đầu lên, đồng tử thấy vị Tỳ kheo ni đã biến khắp tất cả tòa báu sư tử, phóng vô lượng ánh sáng sắc vàng rực rỡ, tỏa chiếu khắp rừng Vương Viên và ngàn cây nội cỏ, giống như mây sáng. Thần lực ánh sáng này làm cho cây cỏ đều xoay tròn về bên phải vô số vòng. Rừng cây hàng hàng tiếp nối nhau phóng ánh sáng tỏa chiếu vị Tỳ kheo ni.
Thiện Tài đồng tử thấy những tướng trang nghiêm như vậy rồi đứng chắp tay cung kính và đi lùi lại qua một bên, thưa:
– Bạch đại thánh! Trước đây tôi đã phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cúi xin đại thánh từ bi thương xót chỉ dạy cho tôi. Tôi không biết thế nào là học hạnh Bồ tát, tu đạo Bồ tát. Cúi xin đại thánh giải nói cho tôi.
Vị Tỳ kheo ni bảo Thiện Tài:
– Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ta biết pháp môn Nhất thiết chủng trí phổ năng khai hiện vô để này.
– Bạch đại thánh! Pháp môn Nhất thiết chủng trí vô để, thể tánh thế nào?
– Thiện nam tử! Đây là pháp môn tam thế đại thánh trí tuệ quang minh trang nghiêm.
– Bạch đại thánh! Pháp môn tam thế chư Phật trí tuệ quang minh trang nghiêm, cảnh giới thế nào?
– Thiện nam tử! Người nhập vào pháp môn này được thâm nhập hiện tiền phân biệt chánh thọ nhất thiết chư pháp bất sanh bất diệt bình đẳng pháp lâm trang nghiêm tam muội. Trụ vào tam muội này, tức được thần thông như ý tự tại. Từ Diêm Phù Đề này, thị hiện ở trời Đâu Suất và mười phương vô lượng thế giới như vi trần. Ở trời Đâu Suất cũng lại như vậy. Ở nơi mỗi mỗi chỗ của tất cả chư Phật kia, thị hiện thân nhiều vô lượng vô số. Từ nơi tự thân xuất hiện ra vô lượng vô số vi trần hóa thân biển cõi Phật, cung kính lễ bái, tu các nghiệp phước, và đem vô lượng vô số bất khả thuyết bất khả thuyết số nhiều như cát bụi những mây hoa nhiều màu sắc xen nhau. Bất khả thuyết bất khả thuyết mây anh lạc sắc màu xen lẫn. Bất khả thuyết bất khả thuyết vòng hoa báu sắc màu xen lẫn. Bất khả thuyết bất khả thuyết mây hương bột, hương xoa hợp lại. Bất khả thuyết bất khả thuyết mây tràng phan bảo cái hợp lại. Bất khả thuyết bất khả thuyết mây màn báu, lưới phủ báu nhiều sắc màu xen lẫn. Bất khả thuyết bất khả thuyết mây tòa báu đẹp. Trước mỗi một tòa, có bất khả thuyết bất khả thuyết mây đèn sáng trang nghiêm rực rỡ. Mỗi mỗi đèn sáng có những châu báu để trang trí thêm đẹp. Cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết mây trang nghiêm đầy đủ tất cả hợp lại để cúng dường đức Như Lai. Và đem bất khả thuyết bất khả thuyết mây nước hương hợp lại, từ trong mây nước hương sanh ra bất khả thuyết bất khả thuyết mây hoa sen báu. Từ những mây hoa sen báu sanh ra bất khả thuyết bất khả thuyết mây trang nghiêm anh lạc trời và đầy đủ những ánh sáng báu trang nghiêm. Cho đến mây đầy đủ vật cúng dường của tất cả chư thiên trời A-ca-nị-thác. Và từ nơi nước hương này sanh ra bất khả thuyết bất khả thuyết mây đầy đủ các vật cúng dường của Chuyển luân Thánh vương và các tiểu vương trong tất cả thế gian. Và từ nơi nước hương sanh ra bất khả thuyết bất khả thuyết thiên long bát bộ, cho đến tất cả bất khả thuyết bất khả thuyết mây vật dụng cúng dường để cúng dường đức Như Lai. Biến khắp tất cả chỗ, tất cả chư Bồ tát ở cung trời Đâu Suất hóa cỡi voi trắng giáng thần thai mẹ, đản sanh cung vua, xuất gia học đạo, đến cội Bồ đề, thành Chánh đẳng giác, chuyển pháp luân thanh tịnh rồi bay lên trời Đao Lợi vì mẫu hậu mà thuyết pháp. Bồ tát ở trên trời hay trong nhân gian biến hiện tự tại, cho đến nhập Niết-bàn đều ở chỗ các đức Phật trồng những cội đức, nhờ năng lực nhân duyên bản nguyện này cho nên hóa hiện sanh thân biến hóa khắp các nơi để cúng dường chư Phật. Các vật cúng dường cũng lại như vậy. Bao nhiêu vật dụng các thứ cúng dường này cũng duyên từ số kiếp lâu xa sức tu tập đại nguyện trang nghiêm pháp giới sanh ra.
Nếu có chúng sanh biết ta đã tu tập cúng dường như vậy, sẽ ở nơi Vô thượng chánh đẳng chánh giác được bất thối chuyển. Hoặc có chúng sanh đến chỗ của ta, ta sẽ vì họ thuyết Bát-nhã ba la mật, phân tích chỉ dạy để được lợi ích an vui.
Thiện nam tử nên biết! Ta thường không khởi tướng chúng sanh, không đắm trước tướng chúng sanh. Bởi vì chúng sanh không có tướng. Ta biết tất cả âm thanh ngôn ngữ nhưng không đắm trước âm thanh, vì âm thanh không có tánh và tướng. Ta thấy tất cả tướng đẹp chói sáng của chư Phật nhưng không đắm trước tướng đẹp ấy. Vì sao? – Vì ta biết rõ pháp thân thì không có sắc tướng. Ta thọ trì tất cả pháp luân của chư Phật nhưng cũng không đắm trước tướng pháp luân. Vì thân tâm ta hiểu rõ tướng và pháp tánh của các pháp là chân như và thật tế. Ở trong mỗi một niệm phổ biến tràn đầy khắp hư không pháp giới nhưng ta cũng không đắm trước tướng pháp giới, vì biết rõ tướng của tất cả các pháp như huyễn hóa.
Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Nhất thiết chủng trí phổ năng khai hiện vô để Bồ tát.
Thiện nam tử nên biết! Chư đại Bồ tát không đắm trước nơi tất cả cảnh giới Bồ tát và cứu cánh pháp giới. Các ngài có thể dùng một thân ngồi kiết già đầy khắp mười phương tất cả thế giới. Nơi tự nội thân đều có thể thị hiện những việc trang nghiêm tốt đẹp ở tất cả mười phương cõi nước chư Phật. Trong khoảng mỗi sát-na biến khắp mười phương đảnh lễ cúng dường chư Phật. Nơi tự nội thân đều có thể thị hiện nguyện lực biến hóa thần thông của tất cả chư Phật. Có thể dùng một sợi lông quấn hết các núi Tu Di khắp mười phương rồi nhấc lên đặt ở vô lượng thế giới phương khác. Nơi mỗi một lỗ chân lông hiện tướng kiếp thành hoại của mười phương tất cả thế giới. Trong một khoảng sát-na ở khắp mười phương bất khả thuyết bất khả thuyết nhiếp thọ chúng sanh, không bao giờ xả bỏ hạnh đầy đủ tất cả biển trí thẳm sâu của chư đại Bồ tát. Ta làm sao có thể biết và có thể nói nguyện lực công đức kia được.
Thiện nam tử! Từ đây đi về phương Nam có nước tên là Hiểm Nạn, thành tên Bảo Trang Nghiêm, ở trong thành đó có một người nữ tên Bà Tu Mật Đa. Ông đến đó để hỏi thế nào là học Bồ tát, hạnh Bồ tát và tu đạo Bồ tát?
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử cúi đầu kính lễ Tỳ kheo ni Sư Tử Phấn Tấn, chiêm ngưỡng thật lâu, rồi từ biệt đi đến phương Nam.
Thiện Tài đồng tử được ánh sáng trí tuệ lớn để chiếu rọi tâm mình, nuôi lớn đầy đủ tất cả căn lành. Vì muốn đem giáo hóa các chúng sanh nên đồng tử nhất tâm tư duy thật tướng các pháp, kiến lập tạng Nhất thiết thanh tịnh pháp thủy ngữ ngôn đà la ni, rộng tu và thọ trì Nhất thiết pháp luân đà la ni. Thành tựu năng lực tư duy để chúng sanh trở về nương tựa nguyện lực đại bi tất cả thế gian. Phương tiện quán sát pháp môn Nhất thiết chủng trí sung mãn pháp giới tốc tật tư duy nhất thiết tịnh pháp nguyện phổ quán sát quang minh. Trang nghiêm các thông minh lực khắp mười phương đều được tràn đầy tất cả pháp giới. Cứu cánh thành tựu viên mãn các hạnh Bồ tát và các nghiệp Bồ tát, nguyện lực trọn vẹn, đủ các thần thông.
Dần dần Thiện Tài đi đến nước Hiểm Nạn, thành Bảo Trang Nghiêm, tìm kiếm hỏi thăm nữ tôn giả Bà Tu Mật Đa hiện đang ở đâu. Có những người trong thành này suy nghĩ: “Ta chưa hề nghe có người nữ nào ở đây có trí tuệ sâu xa, khéo thu nhiếp các căn và thân tâm vắng lặng. Nay đồng tử này oai nghi đỉnh đạc, tâm tư điềm đạm, điều phục các căn, xa lìa buông lung điên đảo vọng tưởng, tỉnh thức trong hiện tại, quán sát kỹ lưỡng rõ ràng, nói năng hòa nhã, không quan tâm hình sắc, chánh niệm tư duy pháp tướng sâu xa, không tỏ ra mỏi mệt biếng nhác, tâm như biển rộng. Đây chẳng phải là người nhiễm dục điên đảo, không có tư tưởng dục tình, không rơi vào sa lầy dục vọng, không lệ thuộc các căn, vượt hẳn cõi ma, không bị tất cả các ma ràng buộc. Đồng tử này đầy đủ các công đức như vậy, cớ sao vì sắc đẹp mà hỏi cô gái này làm chi? Trong thành này có rất nhiều người thậm chí chưa nghe danh người nữ đây, huống hồ là biết!”.
Có một người nói:
– Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, nay ông chắc đạt nhiều lợi ích mới có thể hỏi tôn giả Bà Tu Mật Đa này. Theo như ý ông hỏi, ắt trước đây ông đã phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, quyết định đối với tất cả chúng sanh chắc chắn có thể bẻ gãy mũi tên dâm – nộ – si, không ôm ý tưởng bất tịnh, không đắm trước bất tịnh, hiểu rõ tất cả những sự ràng buộc chấp trước. Thiện nam tử! Hiện tôn giả Bà Tu Mật Đa đang ở trên lầu Trang Nghiêm, trong vườn Hoan Hỷ, phía Bắc thành này. Thiện Tài đồng tử nghe người ấy nói xong, hoan hỷ phấn chấn, đi đến chỗ đó và đứng ở bên cổng vườn, chắp hai tay quán sát bên trong khu vườn. Đồng tử thấy cung điện, nhà cửa rộng rãi, sạch sẽ, trang nghiêm. Mười loại tường báu bao vòng chung quanh, mười hàng cây đa la quý được trồng thẳng tắp, mười loại hào báu có nước trong vắt, trong hào có đầy đủ tám nước công đức, có hoa sen xanh, hoa sen trắng, hoa sen đỏ, hoa sen vàng chen nhau đua nở tươi đẹp phủ đầy trên mặt nước. Đáy hào được rải cát vàng, hai bên bờ châu báu trang hoàng tráng lệ. Ánh sáng rực rỡ sắc màu xen nhau tỏa chiếu khắp vườn rừng. Lầu gác, cung điện báu thanh tịnh trang nghiêm. Cửa sổ màn gấm gió thoảng hương thơm làm vui lòng mọi người. Những mành lưới đan nhau như những vòng tròn hoặc nửa vòng tròn để trang hoàng cho đẹp. Có lực sĩ Kim Cang đứng trợn mắt giơ chày, những sư tử quý vẫy đuôi gầm hét, tráng sĩ vua thú đứng thành hàng hầu bên cổng. Bốn góc cung thành có trụ minh châu, những cửa khuyết phóng ra các thứ ánh sáng. Trời mưa hoa châu báu gom tụ lại đến đầu gối. Đất sạch lưu ly như treo trên hư không, có ngọc vương như ý lấp lánh dưới đất. Kênh ngòi bằng vàng ròng chảy dòng nước thơm đẹp, hoa sen hoàng kim nở tươi tốt trên kênh đó. Từ nơi đài hoa sen phun lên nước có âm thanh tuyệt diệu để diễn dịch phân tán dòng pháp âm nghe khắp mười phương. Có cây chuối sắc vàng phóng ánh sáng lớn, nơi nào cũng tích tụ châu báu nhiều bằng gò núi. Mây hương trầm thủy uyển chuyển quyện tỏa thành vòng, hương xoa, hương bột tỏa ngát khắp cung thành. Những loài chim khác nhau phát ra tiếng hót dịu êm. Màn trướng báu lớn rủ xuống những hoa vàng, linh báu ma ni xen lẫn thêm những ngọc báu khác. Màn lưới bằng vàng Diêm Phù Đàn giăng kín cung tường. Đốt trăm ngàn vạn ức hương báu vô giá, khói hương ngào ngạt đầy khắp hư không. Vô lượng chư thiên đứng hầu quanh thành hàng, âm nhạc cõi trời không đánh tự kêu. Những bình tốt đẹp đựng ngọc như ý từ đất vọt lên và mưa vô lượng mây hoa báu cõi trời, vô lượng mây hương báu cõi trời, vô lượng mây tràng phan bảo cái, vô lượng mây thiên y anh lạc, vô lượng mây âm nhạc âm thanh cõi trời. Các thứ mây vật dụng cúng dường như vậy, tất cả đều phóng vô lượng hào quang giăng khắp hư không, chiếu đến mười phương cõi. Vô lượng vạn ức kho tàng kim cang báu đầy ắp trong cung. Mỗi một vườn báu đều được chạm trỗ điêu khắc những hoa văn, ánh sáng chiếu rọi lẫn nhau xuyên suốt không bị trở ngại.
Lại có vô lượng mười loại vườn báu dùng để bao quanh, trân bảo tốt đẹp trang nghiêm vô cùng thanh tịnh. Tôn giả Bà Tu Mật Đa đoan chánh vi diệu, đẹp như hoa nở, đầy đủ tướng tốt, thân toàn sắc vàng ròng, không cao không thấp, không mập không gầy, mắt màu xanh biếc như hoa sen xanh. Mái tóc mượt mà, xanh đen mướt rất đẹp, uy nghi tề chỉnh, tiến thối đường hoàng. Tay chân tươi mát, có trăm ngàn căm xe. Thiên hạ sáu cõi dục không thể sánh được. Tiếng hay vượt xa phạm âm. Tôn giả hiểu rõ các ngôn ngữ, khéo biết công xảo, kỹ thuật của thế gian. Thâm đạt tất cả những căn bản luận và tướng luận nghĩa đều rốt ráo tường tận. Biết giỏi chữ nghĩa, khéo biện tài chánh trí, phương tiện thiện xảo như cảnh giới huyễn. Biết rõ pháp môn phương tiện của Bồ tát, biết rõ phương tiện pháp giới của Bồ tát. Đầy đủ các tướng tốt, thân trang nghiêm bằng anh lạc, mão bằng ma ni báu, phóng ánh sáng lớn, tâm vương minh châu dùng làm tràng hoa. Bản nguyện quyến thuộc đều vây quanh. Thành tựu công đức viên mãn không thể hoại diệt, đầy đủ kho báu công đức không cùng tận. Thân phát ra ánh sáng chiếu khắp tất cả. Đó là ánh sáng lợi ích, ánh sáng êm dịu, ánh sáng vui tươi, ánh sáng khai tâm, ánh sáng trang nghiêm đạo tâm Bồ tát. Bồ tát dùng ánh sáng này để nghiêm tịnh tâm tất cả chúng sanh. Nếu người nào gặp được ánh sáng đây sẽ được xa lìa ngũ dục, nhổ hết các gốc khổ.
Khi ấy, Thiện Tài đồng tử đến gặp tôn giả Bà Tu Mật Đa, chắp tay thưa:
– Bạch đại thánh! Trước đây tôi đã phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác nhưng chưa biết thế nào là học hạnh Bồ tát, tu đạo Bồ tát?.
Tôn giả đáp:
– Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Nhất ức ly dục vô cấu cụ túc trang nghiêm Bồ tát.
Thiện nam tử! Nếu trời thấy ta thì ta ở khắp mọi nơi đeo chuỗi ngọc trời chiếu sáng để trang sức với thân thiên nữ.
Nếu người gặp ta, thì ta với thân hình đồng nữ trang sức bằng sắc đẹp tuyệt vời và từ tâm thanh tịnh.
Nếu phi nhân gặp ta, thì ta hiện thân phi nhân nữ xinh đẹp đặc biệt, ở khắp nơi của phi nhân.
Nếu có chúng sanh đến chỗ của ta mà sanh tâm dâm – giận – si, điều này không bao giờ có. Họ chỉ đạt chánh pháp vô thọ của Bồ tát, thường vì chúng sanh thuyết pháp môn thanh tịnh giải thoát ly khổ.
Người nghe tên ta được quán nhàm chán xa lìa, chóng được thành tựu công đức tam muội, thân tâm vắng lặng không có chướng ngại.
Người thấy thân ta liền được hoan hỷ tam muội. Người nghe tiếng ta, liền được Vô lượng thinh tạng tam muội.
Người nghe tên ta liền được quy y Phật, Pháp, Tăng bảo và được Chư Phật sát phổ hiện sắc tam muội.
Nếu có chúng sanh cùng ở chung với ta, liền được Giải thoát quang tam muội.
Nếu có chúng sanh chăm chú chiêm ngưỡng ta, liền được Tịch tĩnh trang nghiêm tam muội.
Nếu có người thấy ta mà nhíu mày, ngáp, thở, liền được Hoại tán ngoại đạo tam muội.
Nếu có chúng sanh quán sát ta thì đắc Nhất thiết chư Phật cảnh giới quang minh tam muội.
Nếu có chúng sanh nói chuyện cùng ta, liền được Thủ hộ nhiếp thọ nhất thiết chúng sanh tạng tam muội.
Nếu có chúng sanh gãi cho ta, liền được Nhất thiết đức tập hoa tạng tam muội.
Nếu có chúng sanh gần gũi ta, liền được pháp môn Nhất ức vô nhiễm ly dục trang nghiêm Bồ tát vô trước vô cực minh tịnh nhất thiết trí cảnh giới.
Thiện Tài đồng tử bạch đại thánh:
– Xưa kia ngài ở chỗ nào? Tu công đức gì? Trồng căn lành gì? Có những nghiệp nào mà đạt pháp môn này?
Tôn giả đáp:
– Thiện nam tử! Thời quá khứ có đức Phật hiệu Vô Nhiễm Trước Hạnh Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế tôn. Bấy giờ đức Như Lai Vô Nhiễm Trước Hạnh xuất hiện ở đời, vì thương xót và muốn đem lại sự lợi ích cho tất cả chúng sanh nên đi đến thành Phổ Hiền. Vừa đến cõi ấy, lúc đức Phật nhấc chân lên thì thành ấp, cả cõi nước chấn động sáu cách. Lúc bước chân xuống thì những gò nỗng, hầm hố đều tự bằng phẳng, trên hư không trong sáng tự nhiên nghiêm tịnh. Khi đức Thế tôn dẫm chân đến then cửa thì ngay lúc đó mặt đất lại chấn động, ngói gạch tường vách hóa thành bảy báu, rải các thứ hoa báu xếp thành vòm trên hư không, làm màn lưới che cả cung thành. Trăm ngàn vạn ức nhạc cụ của chư thiên được trang sức bằng những châu báu, treo tại hư không, không ai đánh tự phát ra âm thanh. Vô lượng chư thiên mỗi người đem kiệu riêng của họ xếp hàng đứng trong không trung và đảnh lễ dưới chân đức Phật. Mưa các hoa trời để cúng dường Phật. Khi đức Phật vào thành, phóng hào quang vàng rực rỡ giống như núi vàng. Vào lúc ấy, ta sống trong thành kia, làm vợ của trưởng giả cũng tên Bà Tu Mật Đa. Thấy sắc thân Phật tướng tốt chói sáng, đầy đủ thần thông, ta liền được khai phát căn lành đời trước. Khi đó, ta cùng người chồng trưởng giả vội vàng đến chỗ Phật và mở ngọc báu vô giá đang đeo để rải lên trên đức Phật. Ngọc báu được rải đều ở trên hư không, ta cung kính đảnh lễ Phật.
Bấy giờ đồng tử Văn Thù Sư Lợi làm thị giả đức Phật. Đồng tử bảo ta: “Thiện nữ nhân! Ngươi hãy mau phát tâm đạo Vô thượng”. Khi ấy ta mới phát tâm đạo Vô thượng Bồ tát “.
Tôn giả Bà Tu Mật Đa bảo Thiện Tài:
– Ta chỉ đạt được pháp môn Nhất ức vô nhiễm ly dục trang nghiêm vô trước. Chư đại Bồ tát trí tuệ phương tiện hóa độ chúng sanh pháp môn Đại hải thâm quảng tam muội. Sức trí tuệ lớn không thể tan hoại mà hàng phục cảnh giới. Ta phải làm thế nào để có thể biết và có thể nói về hạnh công đức kia được?
Thiện nam tử! Từ đây ông đi về phương nam, nơi ấy có thành lớn tên Thiện Tịch. Trong thành có trưởng giả tên Bất Kiêu Cao Quý Đức Vương. Vị đại trưởng giả này ngày đêm sáu thời luôn luôn cúng dường bảo tháp Chiên Đàn. Ông hãy đến đó để hỏi: “Thế nào là Bồ tát học hạnh Bồ tát và tu đạo Bồ tát ?”.
Thiện Tài đồng tử cúi đầu đảnh lễ tôn giả Bà Tu Mật Đa rồi từ biệt đi về phương Nam. Đồng tử đi bộ đần dần đến thành lớn kia, đến gặp trưởng giả thưa:
– Bạch đại thánh! Trước đây tôi đã phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác nhưng chưa biết thế nào là học hạnh Bồ tát và tu đạo Bồ tát.
Trưởng giả đáp:
– Ta chỉ thành tựu pháp môn Bất diệt độ thật tế Bồ tát. Trụ nơi pháp môn này, ta biết rõ chư Phật Như Lai không Bát Niết-bàn, không nhập diệt độ. Ba đời Như Lai tuyệt đối không Niết-bàn và không có tướng Niết-bàn, trừ chư Phật phương tiện để độ chúng sanh giả dối không thật nên thị hiện Niết-bàn. Vì muốn làm cho xá lợi Phật được ban bố khắp nơi nên các Ngài làm cho tất cả chúng sanh đều được nhập luật hành (thi hành giới luật).
Thiện nam tử! Nếu người nào có thể biết Như Lai hoàn toàn không Bát Niết-bàn, thì người đó có thể mở bảo tháp Chiên Đàn.
Thiện nam tử! Bây giờ ông có thể đến đó lễ bái cúng dường.
Thiện Tài đồng tử đi đến bảo tháp cung kính đảnh lễ và mở tháp Chiên Đàn. Khi mở cửa tháp, niệm niệm tương tục, đồng tử đắc pháp môn Vô tận Phật tánh Viên quang minh tịnh vô tận tam muội.
– Thiện nam tử! Tâm ta trong từng khoảng sát-na luôn nhập chánh định và ơ trong chánh định nên đạt vô lượng vô số Viên quang minh tam muội. Trong mỗi một niệm, ta nhập Thắng tấn địa.
Thiện Tài đồng tử bạch đại thánh:
– Pháp môn này cảnh giới thế nào?
Trưởng giả đáp:
– Thiện nam tử! Khi ta nhập tam muội này là nhập khắp tất cả đạo môn tam muội. Nhờ thần lực tam muội cho nên được thấy mười phương vô lượng chư Phật Ca Diếp Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri. Mười phương vô lượng mỗi hằng hà sa số vi trần biển thế giới cùng tên Ca Diếp Như Lai. Câu Na Hàm Mâu Ni Phật và mười phương vô lượng hằng hà sa số vi trần biển thế giới cùng tên Câu Na Hàm Mâu Ni Phật. Thi Khí Như Lai và mười phương vô lượng hằng hà hà sa số vi trần biển thế giới cùng tên Thi Khí Như Lai. Tỳ Bà Thi Như Lai và mười phương vô lượng hằng hà sa số vi trần biển thế giới cùng tên Tỳ Bà Thi Như Lai. Đề Xá Như Lai và mười phương vô lượng hằng hà sa số vi trần biển thế giới cùng tên Đề Xá Như Lai. Phất Sa Như Lai và mười phương vô lượng hằng hà sa số vi trần biển thế giới cùng tên Phất Sa Như Lai. Vô Thượng Thắng Phật và mười phương vô lượng hằng hà sa số vi trần biển thế giới cùng tên Vô Thượng Thắng Phật. Vô Thượng Liên Hoa Phật và mười phương vô lượng hằng hà sa số vi trần biển thế giới cùng tên Vô Thượng Liên Hoa Phật.
Vô lượng chư Phật như vậy trình tự tiếp nối nhau liên tục không gián đoạn. Trong tướng lông trắng giữa chân mày của một đức Như Lai phản chiếu tất cả mười phương vô lượng tất cả chư Phật. Trong tướng lông trắng giữa chân mày của vô lượng tất cả chư Phật mười phương phản chiếu một đức Phật. Chân lông của tất cả chư Phật sáng chói cùng phản chiếu nhau cũng lại như vậy. Ngồi nơi tháp Chiên-Đàn, trong khoảng sát-na ta đều trông thấy chư Phật Thế tôn, tâm tâm tương tục không hề có một khoảng cách gián đoạn. Cũng trong khoảng sát-na ta được thấy Diêm Phù Đề số nhiều như cát bụi, và thấy trăm ngàn vạn ức Diêm Phù Đề số nhiều như cát bụi, cho đến mười phương hằng hà sa bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới chư Phật số nhiều như cát bụi, hoặc vượt hơn cả số này. Ta được thấy vô lượng vô biên số vi trần chư Phật, cho đến được thấy bất khả thuyết số vi trần biển thế giới chư Phật. Và thấy chư Phật từ lúc mới phát tâm, du hý thần thông vô ngại tự tại. Cũng thấy pháp môn Nhất thiết đại nguyện thanh tịnh diệu hạnh thành tựu phân biệt công đức bất nhị. Cũng thấy mãn nguyện ba la mật, thanh tịnh ba la mật, thành tựu thứ tự tất cả các địa Bồ tát, đắc phổ nhẫn thanh tịnh du hý thần thông, nuôi lớn căn lành, hàng phục bốn ma, thành tựu chúng sanh, nghiêm tịnh cõi Phật, thành đạo Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, phóng ánh sáng lớn. Các đại chúng đây đều thấy tướng tâm tâm tương tục này, không hề có một khoảng cách gián đoạn.
Khi ấy trưởng giả Cao Quý Đức Vương bảo Thiện Tài đồng tử:
– Thiện nam tử! Ông có thấy trong tháp Chiên-Đàn này có ánh sáng thanh tịnh viên dung thanh tịnh thần thông trang nghiêm chư Như Lai chăng? Và đều nhập vào pháp môn Tỳ La Ma Già tam muội thần thông pháp luân bất nhị đó không? Chư Phật Như Lai do thần thông lực của pháp môn Minh tịnh bất nhị này mà hiện tất cả mọi nơi, chuyển pháp luân vi diệu để soi chiếu thân minh tịnh sung mãn khắp pháp giới.
Thiện Tài đồng tử bạch đại thánh:
– Nay tôi đã thấy tất cả cảnh giới thanh tịnh thần thông du hý của chư Phật và nghe âm thanh thuyết pháp của chư Phật, phân minh rõ ràng, không hư hoại nhĩ căn, thọ trì không quên, chánh niệm tư duy không mất câu nghĩa, phân tích có trình tự để giảng nói cho mọi người, trình bày giáo pháp lợi ích an vui. Dùng thần lực trí tuệ phân tích những giáo pháp Phật đà, truyền trao các chúng sanh. Tôi thấy đức Phật Di Lạc… trăm ngàn đức Phật thời vị lai; trăm ngàn vạn ức đức Phật, A Súc Bà, Tần Bà La, A Tăng Kỳ Phật, trong mỗi một niệm, từng khoảng sát-na tâm niệm sáng suốt thanh tịnh. Cũng thấy hằng hà sa bất khả thuyết bất khả thuyết số vi trần thế giới chúng sanh thời vị lai phát tâm Bồ tát, tu đạo Bồ tát, thực hành ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đầy đủ sáu ba la mật, du hý thần thông giáo hóa chúng sanh, thanh tịnh cõi Phật. Dùng cỏ cát tường trải dưới cội Bồ đề, hàng phục bốn ma, thành Chánh đẳng giác, chuyển pháp luân vô thượng, phóng ánh sáng lớn, thị hiện Niết-bàn, cho đến thị hiện chánh pháp, tượng pháp và kiếp số thành hoại, tâm tâm tương tục – tất cả hiển hiện rõ ràng, như thấy cõi nước mười phương thế giới này trong thời vị lai cũng lại như vậy. Và thấy trong hiện tại, đức Như Lai Tỳ Lô Giá Na A-la-hán Chánh đẳng chánh giác. Vô lượng vô số tất cả chư Phật, từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi nơi đạo tràng chuyển pháp luân vô thượng và thị hiện Niết-bàn, chánh pháp tượng pháp, kiếp số thành hoại, trụ thế lâu mau. Như thế giới này và mười phương cũng vậy. Ba đời tất cả cõi Phật mười phương, khi kiếp hỏa nổi lên, nơi tháp Chiên Đàn ánh sáng càng hiển lộ gấp bội và nghe ba đời chư Phật trong mười phương đã thuyết pháp, đang thuyết pháp, sẽ thuyết pháp. Do năng lực trí tuệ, tôi đều có thể thọ trì điều mà tất cả thế gian, Thanh văn, Duyên giác và tiểu Bồ tát không thể sánh kịp.
Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn bất sanh bất diệt thật tế trang nghiêm bình đẳng Bồ tát này. Chư đại Bồ tát nơi một niệm đều biết pháp Phật ba đời vốn chân lý bình đẳng, trong một khoảng sát-na trang nghiêm vô lượng cảnh giới hải môn tam muội, trụ như thật tế, không có tướng chủ thể và khách thể cũng không hai ý, trụ nơi Phật trụ, ở nơi tất cả kiếp mà không tưởng kiếp. Trụ nơi pháp giới hoan hỷ thanh tịnh trang nghiêm, tam thừa hiền thánh, trí tuệ như thật bình đẳng không hai. Không đắm trước thế gian và quả thế gian, ấn thọ và pháp thọ quyết của tất cả ba đời đức Như Lai đều đầy đủ pháp giới, thường trụ bất diệt. Tất cả đức Như Lai âm thanh sung mãn, pháp giới vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn, không thể nói hết được. Ta phải làm thế nào để có thể nói về hạnh công đức kia được?
Thiện nam tử! Ở phương Nam này có ngọn núi độc nhất tên Kim Cang Luân Trang Nghiêm Cao Hiển, ở đó có vị Bồ tát tên Quán Thế Âm trụ trên đỉnh núi. Ông hãy đến thỉnh hỏi thế nào là Bồ tát học hạnh Bồ tát và tu đạo Bồ tát?
Khi ấy, Thiện Tài đồng tử cúi đầu cung kính đảnh lễ Bồ tát Cao Quý Đức Vương xong, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, quyến luyến chiêm ngưỡng và chào từ biệt, đi về núi phương Nam.
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử chánh niệm tư duy lời dạy của vị trưởng giả kia, tùy thuận theo kho tàng giải nói của Bồ tát, chánh niệm vào các sức nhớ nghĩ của Bồ tát, nương nhờ oai thần Phật và sức bản nguyện Phật, do tam muội chánh định nên trong từng niệm không có khoảng cách gián đoạn. Luôn nhớ nghĩ vô lượng chư Phật nơi bảo tháp Chiên Đàn, thương khóc như mưa, theo đường mà đi, lần lượt phân biệt được tất cả chư Phật và pháp của chư Phật. Trong nhất tâm, nhớ nghĩ định tuệ lực trang nghiêm chư Phật thần thông, để tự trưởng dưỡng căn lành giác ngộ, chánh niệm tư duy tất cả nghiệp không thể nghĩ bàn của chư Phật. Dần dần đồng tử đi đến cô sơn, leo lên từng bước một và nhớ nghĩ đức Quán Thế Âm, chánh niệm không xả. Nhìn từ xa thấy như đi ngang qua cái gò lớn phía Tây, đâu đâu cũng có suối chảy, hoa lá, cỏ cây, rừng núi. Có ao nước trong xanh biếc và có hoa vàng, cỏ thơm mềm mại, tươi tốt sạch đẹp. Tất cả đều từ công đức của Bồ tát sanh ra.
Lên đến đỉnh núi, Thiện Tài đồng tử thấy Bồ tát Quán Thế Âm ngồi nơi tòa Kim Cang tám cạnh, tòa phát ra ánh sáng, trang nghiêm không gì so sánh được. Bồ tát Quán Âm đang thuyết pháp cho vô lượng Bồ tát và quyến thuộc vây quanh. Khi ấy, Bồ tát toàn thân màu vàng ròng, tay cầm hoa sen đại bi bách bảo, thuyết kinh Đại Từ Bi để khuyến phát và bảo hộ tất cả chúng sanh nhập vào pháp môn Phổ môn thị hiện.
Thiện Tài đồng tử được trông thấy như vậy vô cùng mừng rỡ, phấn chấn, không nén được sự phấn khích trong lòng vì cảm thấy việc chưa từng có. Đồng tử chắp tay chiêm ngưỡng, mắt không tạm rời, suy nghĩ: “Thiện tri thức tức là Như Lai. Thiện tri thức tức là chánh nhân của Phật đạo. Thiện tri thức là mây pháp báu. Thiện tri thức là kho tàng hạnh công đức. Thiện tri thức khó thấy, khó gặp, tối thắng không gì sánh được và khó có thể đo lường. Thiện tri thức là mười hai hạnh đầu đà chánh nhân. Thiện tri thức là kho tàng trí tuệ vô tận. Thiện tri thức là mầm cây sanh công đức. Thiện tri thức có thể khai phát, mở bày, hướng dẫn tất cả cánh cửa trí tuệ. Thiện tri thức có thể làm cho tất cả chúng sanh được vào biển Nhất thiết trí, cứu cánh thanh tịnh, Phật tánh vô thượng cảnh giới giác ngộ”.
Thiện Tài đồng tử ca ngợi thiện tri thức xong, dần dần đứng gần. Khi ấy trông thấy Thiện Tài, Bồ tát Quán Thế Âm khen:
– Lành thay! Lành thay! Hãy đến đây đồng tử! Chuyên cầu đại thừa, bảo vệ chúng sanh, cứu giúp muôn loài, sanh tâm từ ái, tâm ngay thẳng, tâm sâu xa, tâm ưa cầu Phật pháp, sanh tâm đại bi, hướng hạnh Phổ Hiền, phát tất cả đại nguyện hạnh thanh tịnh, thành tựu tất cả đại nguyện trang nghiêm, thường ưa thọ trì tất cả mây báu Phật pháp, tâm không suy giảm, tăng trưởng căn lành, tu các công đức không có nhàm chán. Thuận theo thiện tri thức, không trái với lời dạy của họ, theo biển trí tuệ mênh mông của Văn Thù Sư Lợi, thành thục tâm hạnh, đức Phật thế lực quang minh tam muội, thân tâm nghiêm tịnh không có vẩn đục, vĩnh viễn xa lìa giải đãi, không bao giờ thoái chuyển. Thường gặp chư Phật, sanh tâm hoan hỷ, chấm dứt các việc ác, tu các hạnh lành, thành tựu trí tuệ, tâm không chướng ngại, sạch như hư không, chóng đạt pháp môn đối trị ly khổ, trụ nơi cảnh giới ánh sáng của chư Như Lai và bảo vệ thánh pháp, phổ biến giáo pháp.
Thiện Tài đồng tử đến gặp Bồ tát Quán Thế Âm, cúi đầu đảnh lễ, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, chắp tay cung kính, rồi đứng lui về một phía và thưa:
– Bạch đại thánh! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác nhưng chưa biết thế nào là Bồ tát học hạnh Bồ tát và tu đạo Bồ tát.
– Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nay ngươi đã có thể phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Thiện nam tư ! Ta đã thành tựu pháp môn Tỳ La Ma Già tam muội đại bi. (Hoa Nghiêm tam muội).
Thiện nam tử! Pháp môn này là hạnh Bồ tát. Tất cả công đức trí tuệ của Bồ tát đều nhập trong pháp môn này. Nhờ sức tam muội nên không di chuyển khỏi tòa này mà vẫn hiện khắp tất cả những sắc thân thanh tịnh. Dùng pháp môn hóa hiện đó để thanh tịnh hạnh chói sáng, ở nơi mười phương thế giới giáo hóa thành thục chúng sanh trong sáu nẻo. Thường ở chỗ tất cả chư Phật tùy duyên ứng hóa hiện tiền. Hoặc dùng bố thí giúp đỡ những người bỏn sẻn, Hoặc dùng giữ giới giúp đỡ những người phá giới. Hoặc dùng nhẫn nhục giúp đỡ những người sân hận. Hoặc dùng tinh tấn giúp đỡ những người giải đãi. Hoặc dùng thiền định giúp đỡ những người tâm tán loạn. Hoặc dùng trí tuệ giúp đỡ những người ngu si. Dùng sáu pháp hòa kính khéo tùy thuận chúng sanh. Dùng Tứ nhiếp pháp giáo hóa chúng sanh. Phóng lưới ánh sáng lớn để diệt trừ sự đau khổ bức bách bởi phiền não của chúng sanh. Dùng phương tiện ba la mật để thực hành bố thí, ái ngữ, lợi ích và đồng sự giáo hóa chúng sanh. Dùng tất cả lưới ánh sáng âm thanh vi diệu khắp vì mười phương tất cả chúng sanh diễn nói pháp giải thoát của bậc thánh. Thành tựu tất cả các ba la mật, tùy thuận chúng sanh mà đáng dùng uy nghi hình sắc của chư Phật hoặc Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác để được hóa độ, thì đều vì họ mà hiện thân như vậy, ngồi tòa Kim cang, tay cầm hoa trắng để thuyết pháp giải thoát của bậc thánh là pháp môn Tỳ Ma La Già Bồ tát bản hạnh đại bi. Nếu có chúng sanh đáng dùng uy nghi hình sắc của sáu cảnh giới để được độ thoát thì hiện thân sáu cảnh giới, ngồi tòa Kim cang, tay cầm hoa trắng để thuyết pháp giải thoát của bậc thánh là pháp môn Tỳ Ma La Già Bồ tát bản hạnh đại bi, làm cho chúng sanh kia đều được an vui. Dùng sắc thân vi diệu biến hiện tự tại, hiện thân đồng loại hóa độ khắp tất cả, tùy theo uy nghi của họ, cho đến đồng tâm để giáo hóa chúng sanh.
Thiện nam tử! Ta thường thực hành pháp môn đại bi này là Tỳ Ma La Già Bồ tát viên mãn trí tuệ quang minh tam muội. Ta ở nơi thời quá khứ đã phát thệ thanh tịnh nên đầy đủ nguyện lực. Do quả lực thệ nguyện thanh tịnh mà ta trụ nơi pháp môn này. Thế nên môn tam muội này gọi là pháp môn Đại bi câu Bồ tát hạnh Tỳ ma la già tam muội. Ta giáo hóa tất cả chúng sanh, vì các chúng sanh mà làm ngôi nhà vững chắc cho họ nương náu, làm chỗ cho họ trở về nương tựa và được chở che an ổn. Vì các chúng sanh làm chiếc cầu vĩ đại, làm hòn đảo lớn. Vì các chúng sanh làm ngọn đuốc lớn soi đường, làm bậc thầy chỉ lối đạt đến cứu cánh giác ngộ. Vì hóa độ chúng sanh nên ta phát nguyện rộng lớn: nếu người nào được nghe thấy ta đều được hoan hỷ. Ta muốn làm cho tất cả chúng sanh trong ngũ đạo vĩnh viễn xa lìa sự sợ hãi nơi đường hiểm nạn, sự sợ hãi nơi tâm lý bức bách phiền não, sự sợ hãi ngu si, sự sợ hãi trói buộc, sự sợ hãi giết hại, sự sợ hãi bần cùng, sự sợ hãi đời sống thiếu thốn, sự sợ hãi tranh cãi kiện tụng, sự sợ hãi đám đông, sự sợ hãi chết chóc, sự sợ hãi đọa vào bốn đường ác, sự sợ hãi các nẻo luân hồi, sự sợ hãi về không đồng ý, sự sợ hãi vì yêu mà không yêu, sự sợ hãi tất cả điều ác, sự sợ hãi thân bức bách, sự sợ hãi tâm bức bách, sự sợ hãi sầu lo, sự sợ hãi giải đãi, sự sợ hãi tham sắc tà dâm, sanh – già – bệnh – chết, ưu bi khổ não, mong cầu không toại ý, khổ vì yêu thương phải chia lìa, khổ vì oán ghét mà gặp gỡ… Ta vì muốn giải thoát tất cả biển khổ mênh mông về sợ hãi cho tất cả chúng sanh nên phát nguyện rộng lớn, trụ nơi pháp môn Tịnh tuệ quang minh này.
Này thiện nam tử! Pháp môn hiện tại chánh niệm cứu hộ tam thế nhất thiết chúng sanh bố úy chánh niệm pháp danh tự pháp luân, xuất hiện nơi đời vì giải thoát sự luân chuyển của chúng sanh trong ba cõi nên ta nhập pháp môn luận nghị. Vì trụ pháp môn này nên ta thị hiện phương tiện tất cả loại thân chúng sanh, tùy duyên ứng hiện. Dùng phương tiện này để dập tắt nỗi sợ hãi của chúng sanh, làm cho họ phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đạt bất thối chuyển, cúng dường chư Phật, thọ trì chánh pháp.
Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Đại bi thanh tịnh Tỳ la ma già Bồ tát quang minh này. Chư đại Bồ tát đều đầy đủ tất cả đại nguyện thanh tịnh của Bồ tát Phổ Hiền, cứu cánh viên mãn hạnh Phổ Hiền, không đoạn tuyệt tất cả các dòng thiện căn, không diệt tất cả các dòng tam muội, thường tu hạnh nhất thiết trí chưa từng đoạn mất. Biết rõ tướng thành hoại của thế giới, diệt trừ những mầm mống bất thiện của chúng sanh, xuất sanh tất cả các dòng thiện căn, hoại diệt các dòng tâm sanh tử của chúng sanh, sản sanh dòng tâm thiện căn của chúng sanh. Ta làm sao có thể biết, có thể nói về hạnh công đức kia được ?