1
2
3

QUYỂN TRUNG

Lúc bấy giờ ở phương Đông có một vị Bồ tát tên Vô Dị Hạnh với hoa báu đỡ chân, đi trên hư không, đến núi Kim Cang Luân, thế giới Ta Bà. Khi Bồ tát đặt chân trên núi nơi thế giới Ta Bà thì mặt đất chấn động sáu cách và biến thành châu báu dùng để trang nghiêm. Các lỗ chân lông toàn thân của Bồ tát đều phát ra ánh sáng và chiếu dội lại làm phủ mờ cả ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và muôn sao. Thích, Phạm, Tứ thiên vương và tất cả trời, rồng, thần, dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân và phi nhân… Ánh sáng ngọc hỏa, ánh sáng ngọc ma ni đều như đêm đen. Ánh sáng từ Bồ tát này chiếu khắp chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Diêm la vương và các chỗ tối tăm, tiêu trừ các khổ, chấm dứt sự sợ hãi về bệnh khổ, phiền não, tất cả đều được an ổn. Mưa khắp nơi những trận mưa báu đầy ngập cõi Phật và mưa tất cả những vật dụng cúng dường, đem những vật cúng dường này để cúng dường đức Như Lai. Tùy các chúng sanh, nơi đáng hiện thân thì vì họ thị hiện, biến hiện khắp sáu nẻo rồi đến núi Kim Cang Luân, đến chỗ Bồ tát Quán Thế Âm.

Khi ấy, Bồ tát Quán Thế Âm bảo Thiện Tài:

– Thiện nam tử! Ngươi có thấy Bồ tát Vô Dị Hạnh nơi tòa này chăng?

– Bạch đại thánh, thưa vâng! Con có thấy.

– Ngươi hãy đến đó hỏi thế nào là Bồ tát học hạnh Bồ tát và tu đạo Bồ tát?

Thiện Tài đồng tử cúi đầu cung kính đảnh lễ dưới chân Bồ tát Quán Thế Âm, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng không biết chán, nghĩ nhớ chân chánh những lời Bồ tát đã dạy, thâm nhập biển trí tuệ rồi từ biệt lui ra. Đến chỗ Bồ tát Vô Dị Hạnh cúi đầu kính lễ, nhiễu quanh bên phải bảy vòng rồi chắp tay đứng thưa:

– Bạch đại thánh! Trước đây con đã phát tâm vô thượng Chánh đẳng chánh giác nhưng chưa biết thế nào là học hạnh Bồ tát và tu đạo Bồ tát?

– Thiện nam tử! Ta đã thành tựu pháp môn Phổ Hiền tốc hành.

– Bạch đại thánh! Ngài đắc pháp môn này nơi đức Phật nào? Từ đây đến cõi Phật đó bao xa? Đi mất bao lâu?

– Thiện nam tử! Chỗ đó rất khó biết. Chỗ mà tất cả trời, người, A tu la, nhân và phi nhân… đều không thể suy lường. Chỉ có hạnh siêng năng tinh tấn không thối chuyển, gần gũi thiện tri thức, được chư Phật thương tưởng thì mới có thể biết được. Nếu không đầy đủ sức thiện căn đã gieo trồng từ trước và trực tâm thanh tịnh, đầy đủ căn lành Bồ tát khai mắt trí tuệ, nghe nhiều, biết nhiều, còn chưa được khai ngộ, chưa có thể thâm nhập trí tuệ hiền thánh, huống chi là tin hiểu hành xứ của Bồ tát.

Thiện Tài đồng tử thưa:

– Bạch đại thánh! Cúi xin ngài vì con nói về danh hiệu của đức Như Lai ở nơi cõi nước kia. Con sẽ nương nhờ thần lực Phật và năng lực thiện tri thức, tin ngũ căn lực, thành tựu thần thông lực mà được tin hiểu.

Bồ tát Vô Dị Hạnh đáp:

– Ta đã đến cõi Phật đó tên là Diệu Thủ Pháp Tạng, đức Phật hiệu Phổ Hiền Thủ. Nơi cõi Phật đây ta đạt pháp môn Phổ hiện tốc hành này. Từ đó đến nay đã trải qua bất khả thuyết số kiếp vi trần cõi Phật, ở trong một niệm ta đã đi bất khả thuyết vi trần cõi Phật. Mỗi một bước đi vượt qua bất khả thuyết bao vi trần thế giới cõi Phật, đi qua các nước mà đức Phật đều hiện tiền. Ta dùng tất cả vật dụng cúng dường vô tận của Bồ tát để cúng dường hóa thân chư Phật. Vì sao? – Vì ta chứng đắc pháp môn Vô trước thanh tịnh pháp tánh sanh thân như thật tướng ấn tam muội. Nhờ công đức này mà ta có thể cúng dường pháp thân vô trước của Như Lai, dùng những sự hy hữu mà chư Bồ tát không thể thấy để cúng dường chư Phật. Tùy theo căn lành đời trước của các chúng sanh, ta thị hiện sắc thân và thuyết pháp cho họ. Phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương, thích ứng tâm chúng sanh, tùy chỗ họ cần dùng đều được như ý. Thành tựu pháp tạng, phát ra âm thanh vi diệu, diễn nói chánh pháp làm lợi ích chúng sanh, đem pháp thân vi diệu để độ thoát chúng sanh, cho đến mười phương cũng lại như vậy.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Bồ tát Phổ hiện tốc hành này. Chư đại Bồ tát ở khắp mười phương không có nơi nào mà không đến, vô lượng cảnh giới không thể hoại diệt. Pháp thân thanh tịnh đầy khắp pháp giới, phân biệt biết rõ các đường của chúng sanh, đầy khắp tất cả cõi Phật, tùy thuận tất cả pháp, quán ba đời bình đẳng, thuyết pháp bình đẳng, tùy thuận thế gian, không đắm trước Phật đạo, đến khắp mọi nơi mà không vướng mắc và không chướng ngại, khéo thuyết thật tướng các pháp bản tánh vắng lặng. Ta làm sao có thể biết, có thể nói về hạnh công đức của chư Bồ tát đó được?.

Thiện nam tử! Ở phương Nam này có thành tên Bà La Bà Đề, nơi đó có vị trời tên Đại Thiên. Ông hãy đến đó để hỏi thế nào là Bồ tát học hạnh Bồ tát và tu đạo Bồ tát?.

Thiện Tài đồng tử cúi đầu đảnh lễ dưới chân Bồ tát Vô Dị Hạnh, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng quán sát rồi từ biệt, đi về phương Nam.

Khi ấy, Thiện Tài đồng tử chánh niệm tư duy hạnh Tỳ la ma già vô chướng ngại của Bồ tát, luôn luôn chuyên tâm cầu cảnh giới trí tuệ của Bồ tát

Vô Dị Hạnh, là nơi phát ra cảnh giới sắc thân thần thông trí tuệ sáng ngời, cảnh giới của tất cả công đức trang nghiêm. Đồng tử dõng mãnh tinh tấn, kiên cố hoan hỷ, xuất sanh vô lượng bất khả tư nghì pháp môn trì hạnh an trụ thần thông, được trí quyết định, thân tâm vui vẻ, hoan hỷ khắp thân, đầy đủ các công đức, các địa tam muội, đà la ni địa, đại nguyện địa, các biện tài địa, đủ các lực địa.

Dần dần đồng tử đi đến cửa thành kia, tìm hỏi trời Đại Thiên hiện đang ở đâu? Lúc đó có người nói:

– Thiện nam tử! Trời Đại Thiên hiện đang ở trên lầu, phía trong thành, thành tựu sắc thân thanh tịnh vi diệu, hóa hiện thuyết pháp cho đại chúng vây quanh.

Thiện Tài đồng tử vào đến chỗ Đại Thiên, cúi đầu kính lễ, thưa:

– Bạch đại thánh! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác nhưng chưa biết thế nào là Bồ tát học hạnh Bồ tát và tu đạo Bồ tát.

Khi ấy, Đại Thiên liền duỗi bốn cánh tay vốc lấy nước trong bốn biển đặt trong lòng bốn bàn tay mà không làm cho nước chảy ra ngoài và đưa cho Thiện Tài đồng tử súc miệng, rửa mặt rồi cầm hoa sen bằng vàng để rải lên Thiện Tài và nói:

– Hy hữu thay thiện nam tử! Thật đặc biệt và kỳ diệu mới có thể từ xa xôi đến đây cầu thiện tri thức. Thiện nam tử! Các hạnh Bồ tát khó thấy, khó nghe, sâu xa vi diệu không thể nghĩ bàn. Bồ tát dõng mãnh tinh tấn, hình dung vi diệu, là hoa Phân-đà-lợi trong loài người, làm nơi trở về nương tựa của chúng sanh và bảo vệ, chở che cho tất cả muôn loài, làm lợi ích chúng sanh, luôn giúp đỡ không lìa bỏ, an ổn tất cả, chiếu khắp tất cả cõi mười phương, hiển bày chánh đạo, xa lìa ngu si, làm đại đạo sư, ủng hộ giữ gìn chánh pháp, dìu dắt chúng sanh được an lành không lo lắng. Đạt đến bờ giác, Bồ tát chắc hẳn sẽ đến thành Nhất thiết trí, kham nhẫn hy hữu ba nghiệp Bồ tát thành tựu viên mãn, làm tịnh những gì khó tịnh, đoạn trừ những việc ác. Đối với chúng sanh vạn loại thường dùng lời nói yêu thương, tùy phước duyên của họ đều ứng hóa hiện tiền, không bỏ lỡ cơ hội cứu độ nào.

Thiện nam tử! Ta chỉ thành tựu pháp môn Bồ tát vân võng quang minh.

Thiện Tài đồng tử thưa:

– Bạch đại thánh! Pháp môn Vân võng quang minh cảnh giới thế nào?

Bấy giờ Đại Thiên ở trước Thiện Tài chất đống thiên kim cũng như núi chúa, chất đống bạch kim, chất đống lưu ly, chất đống pha lê, chất đống xa cừ, chất đống mã não, chất đống dạ quang, chất đống thủy tinh, chất đống kim tinh, chất đống ngọc khai đạo chúng sanh, chất đống ngọc ma ni như tóc xanh biếc, chất đống ngọc Châu la, chất đống ngọc thủy quang, chất đống hổ phách, chất đống hổ phách tía, chất đống ngọc nhật tinh, chất đống di la khư bảo, chất đống tạp sắc bảo, chất đống Tỳ phú la bảo, chất đống lưới chân châu đỏ, chất đống ngọc chiên đàn và chất đống các anh lạc trang nghiêm chi tiết toàn thân, nhiều như núi Tu Di bao nhiêu hoa đẹp, hương thơm, hương thoa, hương bột, tất cả vòng hoa, tất cả thiên y, tất cả lọng báu, tất cả tràng phan, tất cả nhạc cụ, tất cả màn trướng… các vật dụng cúng dường nơi cảnh giới ngũ dục. Các châu báu như vậy chất cao như núi Tu Di.

Và lại xuất hiện vô số trăm ngàn vạn ức các chúng đồng nữ nói với Thiện Tài đồng tử:

– Thiện nam tử! Đồng tử có thể lấy tất cả những vàng bạc châu báu này để cúng dường đức Như Lai và đem ban bố cho tất cả mọi loài, giúp đỡ chúng sanh làm cho họ đều tu bố thí ba la mật, học bố thí ba la mật. Vì xả bỏ tất cả cho nên đem tâm xả này dạy bảo khắp các chúng sanh đều được tu hành và làm cho họ có thể xả bỏ những gì khó xả nhất.

Thiện nam tử! Ta đem vật này dạy đồng tử bố thí, dạy bảo chúng sanh cũng lại như vậy. Làm cho họ dùng căn lành vô tham huân tu thân tâm, khiến cho chúng sanh tu hạnh Phật và Bồ tát, gần gũi thiện tri thức, cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, xuất sanh căn lành, trưởng dưỡng căn lành, thành tựu đầy đủ tất cả căn lành và phát tâm tuệ giác vô thượng.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh tham mê ngũ dục, nên vì chúng sanh đó mà thị hiện cảnh giới bất tịnh.

Người tham đất đai nên nói về sự vô thường.

Vì chúng sanh sân hận, sợ hãi, kiêu mạn, buông lung, oán thù tranh tụng như quỷ La-sát, sát sanh vô số, uống máu ăn thịt… những chúng sanh như vậy đều vì họ thị hiện, dạy bảo cho họ tu đại từ bi, làm cho họ vĩnh viễn xa lìa sân hận buông lung.

Nếu có người giải đãi, nên vì họ thị hiện những nạn nước trôi, lửa cháy, trộm cướp, vua ác, oán thù… hóa hiện vô thường để cho họ phát khởi căn lành.

Thiện nam tử! Những hạng chúng sanh xấu ác như vậy, nên dùng phương tiện trí tuệ diệt trừ các việc ác và tất cả chướng ngại oán địch nơi trí tuệ, thành tựu tất cả Vô ngại ba la mật.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Bồ tát vân võng quang minh này. Chư đại Bồ tát diệt trừ phiền não như Đao Lợi thiên vương tiêu diệt nạn A tu la. Chư Bồ tát như nước, có thể dập tắt lửa phiền não dữ dội của chúng sanh. Chư Bồ tát như lửa, có thể thiêu rụi đống củi phiền não của chúng sanh. Chư Bồ tát như gió, thổi tan những vướng vít tham ái của chúng sanh, hoại diệt tất cả tâm ái nhiễm si mê. Chư Bồ tát như Kim cang nghiền nát tất cả sự chấp ngã hữu ái của chúng sanh… Chư đại Bồ tát thành tựu các công đức lớn như vậy, ta làm sao có thể biết, có thể nói được hạnh Bồ tát kia?!

Thiện nam tử! Phía Nam Diêm Phù Đề này có nước tên Ma Già Đà, dưới cội Bồ đề, nơi đạo tràng vắng lặng, có vị thần tên An Trú. Đồng tử đến đó để hỏi: thế nào là Bồ tát học hạnh Bồ tát và tu đạo Bồ tát?.

Thiện Tài đồng tử cúi đầu đảnh lễ dưới chân Đại Thiên rồi từ biệt lui ra, rảo bước đến đạo tràng vắng lặng nước Ma Già Đà, nơi vị thần An Trú ở.

Bấy giờ mười ngàn địa thần, mỗi người nói:

– Đồng tử này đến đây cứu giúp tất cả chúng sanh tức là Như Lai tạng, có thể phá tan màn vô minh phủ mờ của chúng sanh, thường sanh nhà pháp vương thù thắng vi diệu, xa lìa cấu nhiễm và không bị chướng ngại, đầu đội mão gấm báu cõi trời. Đồng tử này có kho báu trí tuệ, chinh phục các luận nghị sư của ngoại đạo, vua pháp của pháp luân, giáo hóa chúng sanh.

Khi ấy, An Trú địa thiên cùng một vạn vị thần làm cho mặt đất chấn động, mưa nước hoa thơm, quét bằng gió thơm. Một vạn địa thiên đồng thời phát ra âm thanh vi diệu, vang khắp ba ngàn đại thiên thế giới, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Và có những cung điện quý giá dùng để trang nghiêm. Tất cả cây hoa đua nở sum suê tươi tốt, cành cây rủ xuống, những cây ăn quả đều có quả sum suê cũng đều rủ xuống. Bao nhiêu nước thơm từ ao, sông, suối nguồn chảy vòng trở lại về vực. Tiếng nước chảy xuống phát ra những âm thanh vui tươi. Châu báu các cõi trời trang nghiêm lầu gác. Kỳ lân, sư tử, voi lớn, nai trắng, chim phụng, khổng tước… những loài cầm thú khác nhau, mỗi loài cùng quyến thuộc đem đến những vật cúng dường. Mọi loài đều hoan hỷ phát ra âm thanh êm dịu. Vô lượng kho tàng trân bảo tự nhiên vọt lên. Gió nổi lên bốn phương giống như kim luân, thổi đến những hoa đẹp nhiều màu sắc rải khắp đạo tràng. Trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân và phi nhân… đầy khắp giữa vườn rừng.

An Trú địa thần bảo Thiện Tài đồng tử:

– Thiện nam tử, đến đây! Ngươi có muốn thấy kiếp xưa của mình đã từng ở đây gieo trồng căn lành và quả báo phước đức chăng?

Thiện Tài đồng tử cung kính đảnh lễ dưới chân An Trú địa thần và nhiễu quanh vô số vòng rồi lui về đứng một bên, thưa:

-Bạch đại thánh! Thưa vâng, con muốn thấy.

An Trú địa thần liền dùng ngón chân ấn xuống mặt đất thì có vô lượng vô số kho báu vàng ngọc mở ra trước mắt. Những chiếc bình cát-tường tự nhiên vọt lên.

– Thiện nam tử! Đây là phước báo bố thí từ xưa của ngươi đưa đến kho tàng vô giá này. Ngươi tha hồ tùy ý đem bố thí.

Thiện nam tử! Ta đã thành tựu pháp môn Bồ tát bất khả hoại trí tuệ tạng. Từ thời đức Phật Nhiên Đăng đến nay, ta đã đạt căn lành lớn, thường ở nơi đất này lần lượt ủng hộ chư Bồ tát, làm cho họ thâm nhập cảnh giới trí tuệ đến tận cùng căn để, đại nguyện viên thành, thanh tịnh hạnh Bồ tát, xuất sanh tất cả tam muội, tu tất cả thần thông, đầy đủ tất cả thần lực công đức rộng lớn của Bồ tát, đầy đủ thần lực oai đức lớn của chư Bồ tát, thành tựu trí tuệ không thể suy lường của Bồ tát, tâm ấy kiên cố không thể phá hoại. Phóng lưới ánh sáng, dạo khắp cõi Phật, nghe chư Như Lai thọ ký chuyển pháp luân và tất cả chỗ Như Lai chuyển pháp luân cùng tất cả vòm mây kinh điển. Dùng ánh sáng giáo pháp vĩ đại hóa độ khắp quần sanh, thọ trì thần lực tự tại của chư Phật, giữ gìn thần lực chói sáng pháp vĩ đại của chư Phật, chỉ bày giáo hóa đem lại hoan hỷ và lợi ích cho muôn loài. Ta chỉ biết pháp môn Bồ tát bất khả phá hoại trí tuệ này.

Thiện nam tử! Vào thuở xa xưa, cách đây nhiều hơn số kiếp vi trần bằng núi Tu Di, có kiếp tên Quang Minh Tịnh, thế giới tên Nguyệt Tràng, đức Như Lai hiệu Thiện Nhãn.

Thiện nam tử! Ta ở nơi kiếp Quang Minh Tịnh, chỗ đức Phật Thiện Nhãn tư duy được pháp môn này và tu tập trưởng dưỡng thanh tịnh pháp môn, tăng thêm tinh tấn, cao rộng diễn nói phổ biến pháp môn này. Thời gian ấy, ta thường được thấy Phật từ kiếp quang minh cho đến kiếp hiền. Trong thời gian đó, có bất khả thuyết bất khả thuyết những kiếp nhiều như vi trần cõi Phật. Chư Phật trong vô số kiếp đó ta đều gần gũi, cúng dường đầy đủ chư Phật như vậy cho đến đạo tràng dưới cội Bồ-đề và các vật dụng trang nghiêm ta đều được thấy. Ở nơi mỗi một đức Phật ta được lắng nghe, lãnh hội tu tập. Được pháp môn này, ở chỗ chư Phật tu tập căn lành, do căn lành này, nghe nhân duyên các pháp, đạt pháp môn Bất khả hoại tạng trí tuệ.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Bồ tát bất khả hoại tạng trí tuệ Chư đại Bồ tát ở nơi tất cả chư Phật, thân cận cúng dường. Chư Phật thuyết pháp đều được nghe và thọ trì. Tùy theo âm thanh chư Phật vì người khác giảng nói, niệm niệm tương tục, được thể nhập vào tâm Phật, trụ nơi bí mật của Phật, được pháp thân thanh tịnh, vượt khỏi trí tuệ ngăn che bởi vô minh của Bồ tát, xuất sanh tất cả kho tàng ảnh hưởng từ chư Phật, khéo nói câu nghĩa, ghi khắc không quên. Hiện khắp các sắc thân, đối với thân tướng bất nhị, các hạnh Bồ tát vô lượng vô biên, ta làm sao có thể biết, có thể nói hết được?

Thiện nam tử! Cõi Diêm Phù Đề này có nước tên Vô Não, thành tên Thắng Nhẫn. Ở trong thành đó có một Dạ thiên tên Bà Sa Bà Đà. Ngươi hãy đến đó hỏi thế nào là Bồ tát học hạnh Bồ tát và tu đạo Bồ tát?

Thiện Tài đồng tử cúi đầu đảnh lễ dưới chân thần An Trú, nhiễu quanh vô số vòng, quyến luyến chiêm ngưỡng rồi từ biệt. Dần dần đồng tử đi đến chỗ của Dạ thiên.

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử chánh niệm tư duy lời dạy của vị địa thần kia về pháp môn bất khả hoại trí tuệ. Tu tam muội biết rõ nẻo vào tự tại của Bồ tát, quán sát cách thức luật nghi của Bồ tát, tâm đồng tử thấu suốt sự an trú trong thần thông tự tại của chư Bồ tát. Quán sát tất cả pháp tánh thanh tịnh, thâm nhập cảnh giới sâu xa, trí tuệ rốt ráo của Bồ tát, thâm nhập pháp môn Bồ tát trí hải, tùy thuận pháp môn Bồ tát quán sát vô hoại trí hải, quán sát pháp môn Bồ tát thâm cực vô biên thanh tịnh bất hoại, quán sát pháp môn Bồ tát pháp vân pháp hải ấm phú.

Đồng tử đi mãi, dần dần đến nơi thành lớn kia và nhiễu quanh vô số vòng, đi vào bằng cửa Đông và đứng giữa thành. Lúc đó mặt trời lặn chưa bao lâu, với suy nghĩ ái mộ bậc thầy, như người khát cần nước và vâng theo lời dạy bảo của tất cả chư Bồ tát nên đồng tử nhất tâm chắp tay, muốn thấy đại sư Dạ thiên Bà Sa Bà Đà. Ở chỗ thiện tri thức, đồng tử tưởng nhớ đức Như Lai là bậc Ưng cúng, Chánh biến tri. Nhìn khắp cảnh giới, hiển hiện tất cả sắc thân cùng thần lực trí tuệ trong mười phương và đến khắp tất cả, ưa thấy thiện tri thức ở cảnh giới thanh tịnh, thấy khắp tất cả pháp môn từ tâm cảnh giới diệu tạng của chư thiện tri thức, được tất cả mắt trí tuệ chánh pháp, quán sát cảnh giới thập phương tam muội trí hải phổ nhãn, không xuất không nhập, đồng tánh nhất như tất cả biển trí chói sáng pháp giới, mắt đại trí tuệ sâu rộng vô biên.

Thiện Tài đồng tử trông thấy Dạ thiên kia trong hư không ở trên thành, ở lầu châu báu, nơi thế giới Hương Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm, ngồi trên hoa sen báu, toàn thân như vàng ròng, búi tóc trên đảnh xinh đẹp với màu vàng ròng trong sáng, mắt màu xanh biếc, phân biệt rõ ràng tinh tế, sắc tướng đoan nghiêm, đẹp thù thắng vi diệu bậc nhất. Những châu báu trang nghiêm thân hy hữu không gì sánh được. Ai trông thấy cũng hoan hỷ, nhìn mãi không chán. Dạ thiên mặc áo đỏ, trang sức bằng châu báu tốt đẹp, búi tóc trên đảnh giống như Phạm vương.

Bấy giờ Dạ thiên liền vì Thiện Tài đồng tử thuyết thần chú Lê kế Phạm vương đảnh pháp thân ấn:

– Lặc đam, bà la bà sa na, đà la ni. Miên già phạm ma xà trà chấn na, xá lợi la, ma cưu thác, đà la ni. Miên già, chiết ca la đà la ni, đa soa ha, xà soa ha.

Thiện nam tử! Nếu người nào được thần chú này thì các lỗ chân lông trên thân người ấy sẽ hiện khắp tất cả nhật, nguyệt, ngũ tinh và hai mươi tám ngôi sao, cũng hiện ra tất cả ngôi sao chiếu sáng rực rỡ. Do ánh sáng này chiếu khắp vô lượng thế giới tất cả chúng sanh. Trong khoảng sát-na có thể thấy chúng sanh ở trong ba đường ác chịu tám nạn khổ. Nơi một lỗ chân lông đều thấy chỗ hóa sanh của chúng sanh: hoặc thấy chúng sanh ưa sanh cõi trời, hoặc có chúng sanh ưa đắc quả Thanh văn thừa, hoặc có chúng sanh ưa đắc Nhất thiết chủng trí. Nơi một lỗ chân lông đều hiển hiện tất cả. Hoặc có chúng sanh ưa thấy những loại phương tiện hình sắc, oai nghi, âm thanh thuyết pháp và các ngôn ngữ. Và ở nơi một niệm đều trông thấy tất cả sự vi diệu như vậy, pháp âm trong trẻo tùy chỗ thích nghe trải qua vô số kiếp. Cũng ở nơi lỗ chân lông đều thấy nghe tất cả các hạnh của chư Bồ tát, hoặc thấy Bồ tát dõng mãnh tinh tấn tu các tam muội thần thông lực, cảnh giới thần lực tự tại của Bồ tát, chỗ ở của Bồ tát, ánh sáng Bồ tát, pháp môn thần thông phấn tấn Bồ tát. Thể hiện tất cả như vậy, tùy chỗ giáo hóa chúng sanh nơi lỗ chân lông đều được thấy nghe. Đây là bản hạnh sở đắc của Bồ tát.

Thiện Tài đồng tử được thấy nghe như vậy rồi, tâm rất hoan hỷ, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Dạ thiên, nhiễu quanh vô số vòng, chắp tay cung kính và đứng qua một bên, bạch với thiên thần:

– Trước đây con đã phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, sanh tâm tin hiểu, nhờ thiện tri thức được thấy chư Phật, nghe pháp công đức. Cúi xin thiên thần, hôm nay vì con khai thị chỉ bày những sở hành của Bồ tát và đạo Nhất thiết trí. Nếu có Bồ tát hướng đến đạo này, sẽ được Thập lực thập địa Bồ tát.

Dạ thiên bảo Thiện Tài đồng tử:

– Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi biết cung kính thiện tri thức, vâng theo lời dạy của họ. Nếu có Bồ tát cung kính thiện tri thức và vâng theo lời dạy của họ, sẽ chóng đạt đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Thiện nam tử! Chỉ có ta là thành tựu pháp môn Bồ tát Quang minh phổ chiếu chư pháp hoại tán chúng sanh ngu si phá ma.

Thiện nam tử! Ta đối với những chúng sanh tà kiến xấu ác, phát tâm đại từ. Đối với những chúng sanh ngũ nghịch tạo nghiệp bất thiện, phát tâm đại bi. Đối với chúng sanh tu nghiệp thiện, phát tâm hoan hỷ. Đối với chúng sanh thiện ác, sanh tâm vô nhị. Đối với chúng sanh nhiễm ô, phát tâm thanh tịnh. Đối với chúng sanh tà kiến chấp ngã, phát tâm bình đẳng. Đối với chúng sanh hạ tiện dơ bẩn phát tâm hoan hỷ. Đối với chúng sanh đắm trước dục lạc, sanh tâm thanh tịnh. Đối với chúng sanh ưa sanh tử luân hồi, phát thiện tâm tùy thuận hiểu rõ bánh xe sanh tử. Đối với chúng sanh ưa Thanh văn, Duyên giác, phát sanh tâm an lập trụ đạo giác ngộ Nhất thiết trí.

Thiện nam tử! Ta thường tư duy như vậy để giáo hóa tất cả chúng sanh, thành tựu pháp môn Bồ tát quang minh phổ chiếu hoại tán chúng sanh ngu si phá ma. Sau nửa đêm, khi con người hoàn toàn vắng lặng là lúc mà tất cả quỷ thần chen nhau đuổi chạy, lúc đạo tặc hoành hành, lúc Tỳ kheo rời bỏ oai nghi, lúc khói mây bụi mù che phủ, tối tăm không thấy ánh sáng mặt trăng, mặt trời. Ta ở những nơi đó mà làm đôi mắt sáng dắt dẫn vượt qua con đường tăm tối.

Nếu có chúng sanh ở tại thành ấp, thôn xóm, phố thị hoặc núi non, đồng vắng, hoặc trong tám ngàn biển lớn, cho đến nơi sông nước bình nguyên, rừng núi, con đường nguy hiểm tối tăm sợ hãi. Nạn sấm sét trời gầm, nạn ác thú và người ngu khủng bố, nạn giặc cướp nơi sa mạc, nạn bệnh dịch đói khát trong nước, nạn chiến tranh tàn phá… Ta dùng thần lực của thần chú để diệt trừ những tai nạn sợ hãi kia.

Nếu có chúng sanh gặp tai nạn nơi biển, cuồng phong sóng dậy, sóng lớn dập vùi làm cho khách buôn rối mù không thấy đâu bờ bến. Những tai nạn về sóng nước như vậy, ta đều hiện diện ở đó để làm nơi nương tựa bình yên, hoặc làm hòn đảo để dừng chân, hoặc làm hình con tàu cứu vớt những người bị chìm dưới nước, hoặc làm người tài giỏi, hoặc làm người cá, hoặc làm hình voi chúa, hình ngựa chúa, hoặc làm hình voi con, hình con giải, ba ba, cá sấu, hình A tu la vương, hình long vương thần biển, hoặc làm cẩu vương, hình muỗi mòng…. Ta hiện tất cả những loại hình tướng như vậy để làm nẻo quay về, làm phương tiện độ thoát tất cả nạn khổ. Nguyện cho chúng sanh lìa khổ ngũ ấm, đắc đạo giải thoát.

Tất cả nhân gian sống trong đêm dài tăm tối, nơi ngói sỏi, gai gốc, gò nỗng, đồi non, rắn độc, sư tử, hổ beo, bò cạp, tất cả sự độc hại, nạn cuồng phong, lạnh, nóng… Những lúc ấy, ta làm hình mặt trời, mặt trăng, hình ngôi sao sáng, hình sao lưu, hình sao chổi, hoặc làm tiếng sấm sét vang rền, hoặc làm hình ánh sáng châu báu, hoặc làm hình sao hỏa, hoặc sao thái bạch, hoặc các hình sao biến quái tai nạn khác… Hoặc làm các cung điện trời, hoặc làm hình thiên vương, hoặc làm các hình trời, rồng, thần, bát bộ, hoặc làm hình Chuyển luân Thánh vương, hình các tiểu vương và các loại hình người, hoặc làm hình Bồ tát, hoặc làm hình Như Lai. Ta dùng thần lực đà la ni và vô số phương tiện để che chở, bảo vệ chúng sanh. Nguyện cho chúng sanh thường được an ổn, đại bi che chở được ở chỗ Phật ở. Hoặc làm hình hang đá núi cao, hoặc làm hình khe suối, ao hồ, rừng cây, cỏ thuốc, cây hoa quả. Hoặc làm trăm loại thực phẩm ngọt ngào thơm ngon, hoặc làm băng tuyết, hoặc làm hình bóng râm che mát, hoặc làm những con đường, con hẻm đều bằng phẳng. Hoặc làm hình những giống chim: ca-lăng-tần-già, khổng tước chúa… Hoặc làm hình cây thuốc chúa phóng ánh sáng. Hoặc làm hình thần đất, thần núi. Hoặc làm hình bó đuốc lớn điện sáng.

Nếu có chúng sanh ở núi hiểm nguy, đầm bằng, các chỗ sợ hãi, ta dùng thần lực đà la ni để cứu giúp họ. Ta dùng vô số phương tiện như vậy để làm cho các chúng sanh thoát khỏi khổ lo và xa lìa biển sanh tử. Phát sinh tâm niệm này làm cho các chúng sanh vượt khỏi núi ngã mạn. Ta lại nguyện cho họ vượt qua dòng sanh tử, làm đuốc tuệ rạng ngời phá tan bóng tối vô minh, đất cháy thân ngũ ấm, qua khỏi đầm lầy sanh tử.

Thiện nam tử! Ta đối với chúng sanh ngu si nơi hiểm nạn sanh tử, dùng thần lực đà la ni để tháo gỡ sự trói buộc, khủng bố của lưới sanh tử, những lời nguyền rủa, mắng nhiếc, lưỡi đôi chiều, lời hung ác, lời phỉ báng quanh co… những lúc như vậy ta sẽ làm tiếng chim Ca-lăng-tần-già cất tiếng hót tuyệt diệu về đà la ni, làm cho những chúng sanh đó được vui vẻ, thoát khỏi buồn lo.

Nếu có những trẻ con hay đồng tử, thanh niên hay già cả bị đui mù, câm ngọng, lưng gù, tay chân co quắp, ghẻ lở, ung thư… cho đến bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh, ta dùng thần lực đà la ni làm đại y vương, hiện diện trước bệnh nhân để nói về các phương pháp trị bệnh giúp mỗi người được thuyên giảm.

Thiện nam tử! Ta lại suy nghĩ: Nếu thấy những chúng sanh say đắm nơi rừng gai gốc ngũ dục, say đắm về những ngôn từ điên đảo sai lầm, say đắm lãnh thổ, đất đai và sanh kiêu mạn… những nạn khổ say đắm đủ thứ như vậy, bức bách thân người, không hiểu không biết, trong mê muội luôn đeo đuổi bên chúng sanh phải nhớ việc gì và nghĩ việc gì. Ta dùng thần lực đà la ni hiện thân chỉ dẫn, dắt dìu cho họ con đường chân chánh và đem lại cho họ sự an vui. Nhờ ân lực của ta, mà họ xa lìa được những nạn khổ, đến chỗ an ổn. Ta vì những người đó lại phát thệ nguyện: Làm cho các chúng sanh xa lìa ba đường ác, vĩnh viễn được giải thoát tất cả khổ đau, chuyên cầu trí tuệ, hướng đạo giác ngộ, không còn những buồn lo, thường được an ổn, đoạn hẳn sự ràng buộc của ngũ ấm.

Nếu có những quốc vương, vương tử, thiện nam, thiện nữ ở những đất nước nhỏ bé nơi biên phòng, lo sự cạnh tranh kiện tụng của quốc gia, lo sự nghiệp đời sống, nhà cửa, ruộng vườn, lo về danh tiếng, địa vị và sự tự do… Biết bao nhiêu nạn lo sợ, nguy ách như vậy, ta ở nơi đó dùng sức phương tiện của thần chú làm cho họ hòa đồng với nhau và được an ổn.

Ta lại phát nguyện làm cho các chúng sanh đoạn trừ được tất cả những chấp trước nơi năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, vượt qua dòng sông sanh tử, an trụ bên bờ giác ngộ. Và nguyện cho chúng sanh được ở cảnh giới Nhất thiết trí Phật, vĩnh viễn không còn kiến thức sai lầm, phát sanh tất cả hạnh Phật an lạc.

Nếu có chúng sanh vướng mắc nơi nghiệp tụ lạc, bị vô minh ràng buộc, sáu mươi hai tà kiến và những chấp trước sai lầm, chịu nhiều khổ não, thật đáng xót thương. Ta dùng phương tiện thần chú, vì họ thuyết pháp, làm cho họ nhàm chán, rũ bỏ; dùng giáo pháp nhiếp phục họ. Ta suy nghĩ: Làm sao cho các chúng sanh an trụ nơi địa đạo chánh pháp vô thượng. Và ta suy nghĩ: Nguyện cho các chúng sanh đều được xa lìa làng xóm trống rỗng của lục nhập, siêu việt hoàn toàn cảnh giới sanh tử, ở an nơi thành Nhất thiết trí, nơi vắng lặng an vui.

Này thiện nam tử! Như người lầm phương hướng, tưởng Đông là Tây, tưởng Tây là Đông, tưởng Nam là Bắc, tưởng Bắc là Nam, bốn góc trên dưới cũng lại như vậy. Tất cả thế gian là người mê pháp, không biết chánh đạo cũng giống như vậy.

Thiện nam tử! Ở đời có ba loại người:

1- Cuồng.

2- Si.

3- Bệnh phong.

Ba loại người như đây bị độc hại hoành hành, tay cầm kiếm bén muốn chặt phương Đông, trở lại chặt phương Tây, muốn chặt phương Tây trở lại chặt phương Đông, muốn chặt phương Nam trở lại chặt phương Bắc, muốn chặt phương Bắc trở lại chặt phương Nam, bốn góc trên dưới cũng lại như vậy. Người báng bổ chánh pháp cũng giống như đây, vì tâm họ điên đảo nên đối với chánh pháp mà tưởng là tà pháp, đối với tà pháp mà tưởng là chánh pháp. Đối với pháp thường mà tưởng là vô thường, đối với pháp vô thường mà tưởng là thường. Đối với pháp vui mà tưởng là pháp khổ, đối với pháp khổ mà tưởng là pháp vui. Đối với bất tịnh mà tưởng là tịnh. Đối với pháp vô ngã mà lầm tưởng là ngã. Nơi đất bằng phẳng mà tưởng là hiểm trở, nơi hiểm trở mà tưởng là đất bằng phẳng. Đời sung túc an vui mà tưởng là đói khát, thiếu thốn. Đời đói khát, thiếu thốn mà tưởng là sung túc an vui. Đời nhân dân đông đúc mà tưởng là hoang vu, đời hoang vu mà tưởng là đông đúc… Những tư tưởng ngu si này làm cho chúng sanh lầm đường, mê hoặc và mất tánh chúng sanh. Ta dùng vô số sức phương tiện thần chú, phóng ánh sáng lớn soi chiếu chỗ tối tăm. Người muốn ra đường, ta mở các cửa cho họ. Vì người ngu si, ta phóng ánh sáng lớn, mở mắt trí tuệ. Vì chúng sanh lạc đường, ta chỉ bày cho họ con đường đúng và dắt dẫn họ.

Nếu có chúng sanh muốn vượt qua dòng nước lớn, ta vì họ làm cây cầu, làm thuyền, làm bãi, bờ, làm đảo cho họ sang bờ bên kia. Người không biết khu vực địa phương, ta chỉ cho họ vùng đất bình yên. Nơi có gò nỗng, hầm hố, ta hóa làm đất bằng phẳng, có cỏ mềm mại, hoặc hiện làm thành ấp, xóm làng và những hình sắc đẹp ban bố cho chúng sanh, làm cho họ được vui vẻ. Ta hiện làm những dòng sông lớn nhỏ, dòng suối, vườn rừng, ao hồ có nhân dân đông đúc, an khang thịnh vượng, khiến các chúng sanh cùng hướng đến nhau bằng tâm từ ái cũng như cha con, anh chị em, và phát nguyện rằng: Ta đã bố thí cho chúng sanh tất cả ánh sáng trí tuệ an vui, làm cho họ vĩnh viễn rời xa bóng tối dày đặc vây phủ bởi vô minh, mê muội trong đêm dài si ái. Chúng sanh không có mắt, được mắt trí tuệ, làm cho khắp tất cả được thanh tịnh sáng suốt.

Nếu có chúng sanh chấp trước nơi tướng chúng sanh – nhân – ngã, ta làm cho họ xa lìa tư tưởng chấp chúng sanh – nhân – ngã.

Nếu có chúng sanh đối với vô thường nghĩ là thường, vô ngã nghĩ là ngã, khổ nghĩ là vui, bất tịnh nghĩ là tịnh, chẳng phải ấm nghĩ là ấm, chẳng phải mạng nghĩ là mạng, chẳng phải trung ấm nghĩ là trung ấm, chẳng phải ấm – giới – nhập mà nghĩ là ấm – giới -nhập, cỏ cây không có mạng mà nghĩ là có mạng sống, chúng sanh chẳng phải là cỏ cây mà nghĩ là cỏ cây. Đối với chẳng phải nhân quả mà nghĩ là nhân quả, chẳng phải đạo hạnh tốt mà nghĩ là đạo hạnh tốt, giết hại để tế trời mà nghĩ rằng mong cầu an vui mãi mãi… Cho đến mười nghiệp ác tà kiến, ta nguyện tất cả chúng sanh lìa bỏ những tư tưởng này.

Những chúng sanh bất hiếu với cha mẹ, không kính Sa môn và Bà la môn, không có đền ân, không biết ân dưỡng dục, xa lìa chánh đạo, làm nghiệp bất thiện, đầy đủ mười sáu các ác luật nghi, phỉ báng chánh đạo, phá hủy luận bàn chân chánh, đắm say kiến thức sai lầm, phỉ báng Phật, Pháp, Tăng, cắt đứt chánh pháp luân, hoại diệt chúng Bồ tát, oán ghét đại thừa, sát hại Bồ tát, không ca ngợi Bồ tát tăng… Tất cả những loại nghiệp bất thiện như vậy, làm cho đủ loại chúng sanh bị muôn vàn nỗi khổ bức bách thân, lòng ôm sầu não, đánh mất tâm trí vốn có, không biết pháp lợi ích, ngu si cuồng loạn, không biết con đường chân chánh, nơi vô lượng kiếp thường bị chê bai, tà kiến mê hoặc không biết các phương. Ta vì những kẻ phi pháp, phi luật như vậy sanh lòng từ bi sâu xa, khiến họ được che chở giúp đỡ.

Khi ấy, Dạ thiên Bà Sa Bà Đà vì các chúng sanh cuồng loạn chê bai giáo pháp, thuyết thần chú Tịnh điều phục trừ vô lượng a tăng kỳ kiếp tội nghiệp chướng:

– Đê giám bạt la, bạc đà na dạ, tam ma mạt kỳ tha ba da ngộ, tỳ ma lê thâu đàn nại, tỳ ma la thâu đàn di dực, thâu đàn ni di hoa ha, ma ha thâu đàn na ma đê di soa ha.

Nếu có chúng sanh chê bai chánh pháp, hủy báng Bồ tát tăng, phá hòa hợp tăng, đoạn tuyệt lời dạy của bậc thánh trí tuệ về đại thừa, oán ghét người tu hành hạnh Bồ tát, không có tâm nhớ ơn. Những người như vậy không được gọi là trượng phu đầy đủ thân nam tử.

Người bất hiếu với cha mẹ, sát nghịch cha mẹ, ở chỗ thiện tri thức tranh tụng dối trá, giết hại tám hạng người cho đến A-la-hán, bất nhân bất nghĩa, trộm cắp vật của Phật, vật của tháp, vật của Pháp, vật chiêu đề tăng, vật hiện tiền tăng, phạm bốn giới trọng, mười ba pháp tăng tàn, mười bất thiện đạo, năm tội vô gián. Người này tức tốc hướng thẳng đến nẻo ác đạo, bị vô minh che phủ và chìm đắm nơi biển khổ. Ta dùng nguyện lực đại trí tuệ sáng suốt để trừ bóng tối ngu si mê hoặc, tội nặng ám chướng nơi địa ngục vô gián, làm cho họ chóng phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức dùng đại thừa để tự trang nghiêm, đầy đủ hạnh Phổ Hiền. Vì chúng sanh thuyết cảnh giới Như Lai pháp vương, Như Lai thập lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, những việc thần thông, thành tựu tất cả đại trí tuệ địa. Nay ta thị hiện mười lực Như Lai, bốn vô sở úy, thần lực đà la ni, an trụ tất cả chánh đạo chư Phật. Do thần lực đà la ni này, có thể làm cho tất cả chư Phật mười phương đồng một pháp thân.

Thiện nam tử! Ta vì đối với chúng sanh trong đêm dài bệnh khổ, khổ não, nhiều bệnh gầy còm, tật dịch già suy, xan tham bần cùng, nguy ách khốn khổ, nước mất nhà tan, mất quê trôi giạt, nghèo đói cô độc, thất thế yếu hèn không ai cứu giúp. Tất cả đều do đời trước không có tâm từ bi, quả báo của nghiệp ác bị lệ thuộc nơi kẻ khác, tám khổ suy não dùng làm y phục. Ta vì những người không chỗ quay về nương tựa này, dùng đại bi phương tiện mà cứu giúp họ. Những người nghèo khổ, ta dùng năng lực đà la ni làm cho kho tàng của họ tự nhiên đầy tràn. Hoặc có kẻ tham lam keo kiệt, đến chết vẫn không xả nên làm quỷ giữ của. Ta vì những người tham đắm này, dùng các phương tiện để giáo hóa, dắt dẫn họ, làm cho tất cả đều được giải thoát.

Và lại phát nguyện: Ta sẽ vì các chúng sanh kia làm người cứu giúp vĩ đại, dùng thuốc pháp bố thí. Người được uống thuốc này có thể tiêu trừ tất cả các bệnh phiền não, xa lìa nỗi sợ hãi về tám nạn khổ nơi sanh – già – bệnh – chết, mười hai luân chuyển: vô minh, lão, tử và tất cả các khổ đều vĩnh viễn được đoạn trừ, xa lìa tri thức ác, gần gũi bạn lành, dùng giáo pháp thù thắng để giáo hóa tất cả chúng sanh, làm cho họ được an trụ nơi ba nghiệp thanh tịnh, kính tin pháp thân chân thật vi diệu Như Lai, được vĩnh viễn chấm dứt sanh – già – bệnh – chết, thường trú nơi cảnh giới hoàn toàn thanh tịnh.

Này thiện nam tử! Ta thấy những chúng sanh tà kiến và bà con của họ làm luật nghi ác, thấy các chúng sanh xa rời chánh đạo, hướng nẻo đường tà, chấp trước những kiến thức điên đảo, mê hoặc dối trá, những thân – miệng – ý của họ làm vô số sự giải đãi bất thiện và sống theo pháp tà. Đối với phi chánh giác mà tưởng là chánh giác. Đối với chánh giác lại tưởng là phi chánh giác. Gần gũi bạn ác học theo pháp khổ hạnh như: nhảy xuống vực sâu, đi đến hầm lửa, tự nhảy xuống từ đỉnh núi cao, thường đi khập khiễng một chân, đốt thân bằng năm cách, bôi đất tro nhơ nhớp trên thân, nằm trên gai góc, tự nhịn đói đến chết, mùa Đông nằm xuống vực sâu lạnh lẽo và chôn vùi dưới băng giá. Giữ giới của những loại gà, chó, trâu, nai… Vô số những loại tà kiến như vậy mà muốn mong cầu giải thoát, ta dùng đủ thứ phương tiện để đoạn trừ tà kiến cho họ, làm cho họ được an trụ trong chánh kiến và làm cho khắp trời người được an vui tối thượng.

Ta lại phát nguyện: Nguyện các chúng sanh ra khỏi thế gian, không đắm trước kiến thức sai lầm, ở yên nơi đạo Vô thượng chánh chơn, được bất thoái chuyển, thành Nhất thiết trí, cứu cánh viên mãn hạnh nguyện vĩ đại của Bồ tát Phổ Hiền, hướng đến Nhất thiết trí nhưng không lìa tất cả các địa vị Bồ tát, không loại bỏ tánh chất khổ của tất cả chúng sanh để được giải thoát.

Bấy giờ, Dạ thiên Bà Sa Bà Đà muốn trùng tuyên pháp môn Bồ tát quang minh phổ chiếu chư pháp hoại tán chúng sanh ngu si, nương oai thần Phật quán sát khắp mười phương, tức vì Thiện Tài đồng tử nói kệ:

– Diệu pháp ta thành tựu

Tri thời các địa môn

Chiếu trừ ngu si tối

Quán khắp tất cả pháp.

Pháp môn ta vắng lặng

Tu tâm từ đạt được

Vô lượng vô số kiếp

Đại bi giúp quần sanh.

Thành tựu biển thương lớn

Xuất sanh Phật ba đời

Diệt trừ bao khổ não

Thiện Tài chóng rốt ráo

Con Phật tâm hoan hỷ

Chấm dứt ác thế gian

Vượt hẳn khổ ba cõi

Được vui chư hiền thánh

Xa lìa ác hữu vi

Trí Thanh văn giải thoát

Trọn vẹn trí chư Phật

Phật tử được cứu cánh

Ta dùng mắt thanh tịnh

Quán khắp cõi mười phương

Ở trong thế giới kia

Chư Phật ngồi đạo tràng

Thân trang nghiêm tướng tốt

Vô lượng chúng vây quanh

Phóng biển ánh sáng lớn

Giáo hóa khắp quần sanh

Thấy hết thảy muôn loài

Chết đây rồi sanh kia

Trôi lăn trong sáu nẻo

Nhận chịu bao khổ đau

Ta dùng biển thiên nhĩ

Nghe khắp tiếng mười phương

Tất cả biển ngôn ngữ

Đều có thể thọ trì

Ta dùng tỷ căn tịnh

Vô ngại trong biển pháp

Vào khắp các pháp môn

Thiện Tài nên cứu cánh

Ta thành tướng đại nhân

Lưỡi thanh tịnh rộng dài

Tùy thuận diễn nói pháp

Phật tử nên cứu cánh

Thanh tịnh diệu pháp thân

Ba đời đều bình đẳng

Tùy theo chỗ ứng hóa

Hiện thân khắp mọi miền

Tâm ta vô sở trước

Trong suốt như hư không

Thu khắp cảnh giới Phật

Nhưng tướng cũng không hai

Đều biết vô lượng lợi

Các biển tâm chúng sanh

Phân biệt các căn ý

Xa lìa pháp hư vọng

Ta dùng sức thần thông

Dạo khắp vô lượng cõi

Che chở hết mọi loài

Điều phục các chúng sanh

Trí tuệ tịnh như không

Vô cùng không thể sánh

Cúng dường tất cả Phật

Lợi ích khắp quần sanh

Trí tuệ sạch rộng lớn

Biết rõ muôn biển pháp

Diệt trừ các si hoặc

Phật tử đạt cứu cánh

Ta vào biển pháp Phật

Thông đạt pháp ba đời

Biết rõ Nhất thiết trí

Không thể đo lường được

Trong mỗi một hạt bụi

Đều thấy biển cõi Phật

Hoặc thấy Phật ba đời

Chân thật sức trí tuệ

Thấy Phật Lô Xá Na

Đạo tràng thành chánh giác

Mười phương cõi vi trần

Đều chuyển chánh pháp luân.

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử bạch với thiên thần:

– Ngài phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác thời gian bao lâu mới được pháp môn này? Và thời gian bao lâu mới có thể làm lợi ích cho chúng sanh như vậy?

Thiên thần đáp:

– Này Phật tử! Vào thuở xa xưa, số kiếp nhiều hơn số bụi như núi Tu Di và nhiều hơn số vô lượng vô biên ở đây, có một thế giới tên Thất Bảo Công Đức Tập, kiếp tên Quang Minh Tịch Tĩnh, nước tên Bảo Nguyệt Quang Minh, thành tên Liên Hoa Quang, ở trong Diêm Phù Đề. Trong kiếp này có năm trăm ức đức Phật ra đời. Lúc đó trong thành kia có Chuyển luân Thánh vương tên Thiện Pháp Độ, dùng chánh pháp của Thánh pháp vương để cai trị thế gian, bảy báu tự đến, làm vua bốn thiên hạ, tuổi thọ một kiếp, có oai lực tự tại, không cầm binh bị vẫn tự nhiên thái bình. Vị vua này có vị đệ nhất phu nhân rất nể vì, tên Nhật Nguyệt Ý. Phu nhân vui chơi âm nhạc cho đến nửa đêm thì ngủ say, mộng thấy trong thành này có một Dạ thiên tên Tối Chánh Giác Tịch Tĩnh Quang Minh đến đứng chắp tay trước mặt bà và nói:

– Này thiện nữ nhân! Người có biết không, ở phía Đông đại thành Liên Hoa Quang có khu rừng tên Tịch Tĩnh Quang Vi Diệu Đức. Trong rừng này có cây Bồ đề tên Nhất thiết Phật Tự Tại Quang và có đức Phật Thế tôn hiệu Nhất Thiết Pháp Lôi Âm Vương, ngồi dưới cội Bồ đề thành Đẳng chánh giác, đầy đủ mười hiệu, phóng ánh sáng lớn tên Ma Ni Vương Phổ Chiếu Nhất Thiết. Đức Phật Lôi Âm Vương xuất hiện ở đời, đến ngồi dưới cội Bồ đề và mới thành chánh giác trải qua bảy ngày.

Lúc đó Dạ thiên ca tụng ngợi khen, phô diễn vô lượng công đức và thần thông tự tại của đức Như Lai, làm cho phu nhân phát đạo tâm vô thượng, tán thán những hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền. Ngay lúc trong mộng, Vương phu nhân cung kính đảnh lễ đức Phật và phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác cúng dường Phật.

Khi ấy, đức Thế tôn phóng ánh sáng sắc vàng xúc cảm tâm phu nhân và chiếu khắp cung thành toàn cả sắc vàng, tức thì phu nhân tỉnh giấc. Đức Phật cùng thị giả Thanh văn, Bồ tát và toàn thể đại chúng hiển hiện trước phu nhân. Phu nhân cúi đầu đảnh lễ đức Phật và đại chúng, cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, đồng thời phát nguyện:

– Nguyện cho công đức này đến đời tương lai làm bậc tối tôn, tối thắng trong cõi nhân thiên.

Thiện nam tử! Ngươi nên biết, Vương phu nhân Nguyệt Ý khi ấy đâu phải người nào lạ, nay chính là ta vậy. Ta ở chỗ đức Phật kia mới phát đạo tâm, trang nghiêm công đức, trồng căn lành lớn vượt hơn cả những kiếp số vi trần núi Tu Di. Không đọa vào địa ngục, quỷ đói, súc sanh, Diêm la vương và nơi gia đình hạ tiện. Các căn đầy đủ, diệt trừ các khổ, thường ở trong hàng trời người được quả báo tối thắng. Luôn luôn được gần gũi bạn lành, thường sanh nơi nhà chư Phật, Bồ tát, không sanh kiếp ngũ trược.

Thiện nam tử! Ta được thiện lợi, ở chỗ đức Phật kia sâu trồng căn lành, nuôi lớn căn lành nên trong tám mươi ức kiếp vi trần núi Tu Di thường thọ khoái lạc vẫn chưa viên mãn căn lành. Bồ tát cũng chưa đạt được thần thông tam muội. Được hơn tám mươi ức kiếp vi trần núi Tu Di, hơn kiếp này rồi, lại hơn một vạn kiếp nữa, có kiếp tên Thanh Tịnh Vô Ưu, thế giới tên Thanh Tịnh Oai Đức. Trong thế giới đó có năm trăm ức Phật xuất hiện ở đời, thành Đẳng chánh giác, đầy đủ mười hiệu. Cõi nước đức Phật hoặc sạch hoặc dơ, lúc đó ta vẫn theo trình tự cúng dường đức Phật. Thế giới đức Phật kia có một tứ thiên hạ tên Ly Cấu Tràng, thành tên Trang Nghiêm. Bấy giờ ta là một nữ trưởng giả cực kỳ thông minh, tên Thắng Tuệ Quang, đoan trang xinh đẹp tuyệt vời. Trong đời đó, nữ trưởng giả gặp đức Phật đầu tiên hiệu Tu Di Sơn Thiện Tịch Tràng. Có một vị trời tên Tịnh Giác Nguyệt, do sức bản nguyện sanh trong thành kia. Và có Dạ Thiên tên Thanh Tịnh Nhãn, trong lúc ta ngủ ông vào vương cung, đến ngay chỗ ta hiện thân tốt đẹp ca ngợi đức Như Lai, khuyên ta phát tâm làm cho đến chỗ đức Phật mà nói rằng:

– Đức Phật Tu Di Sơn Thiện Tịch Tràng vừa mới thành chánh giác, phóng ánh sáng lớn đã trải qua bảy ngày.

Bấy giờ Dạ thiên dắt dẫn ta, ngay lúc đó ta giật mình tỉnh giấc và thấy ánh sáng lớn tràn ngập khắp cung thất. Cha mẹ ta kinh ngạc, vui mừng bảo:

– Đây là ánh sáng gì mà sắc vàng rực rỡ chiếu sáng nhà ta?

Ta liền thưa với cha mẹ:

– Trong giấc mộng, con có thấy một Dạ thiên ca ngợi công đức thù thắng vi diệu của đức Như Lai rằng: “ Có đức Phật Thế tôn tên Tu Di Sơn Thiện Tịch Tràng ra đời đã trải qua bảy ngày”. Xin cha mẹ cùng các bà con hãy đến chỗ Phật cung kính cúng dường và nghe Phật thuyết pháp.

Cha mẹ hoan hỷ bằng lòng. Khi ấy, Dạ thiên đi trước dẫn đường, ta cùng cha mẹ và bà con quyến thuộc đều đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài rồi lui về một bên. Trông thấy sắc thân vi diệu chói sáng của đức Phật, ta liền đạt Bồ tát thanh tịnh tam thế phổ trí tuệ quang minh tam muội. Được tam muội này rồi, ta nhớ về quá khứ kiếp lâu xa như vi trần của núi Tu Di đã được gặp chư Phật, chỗ thuyết kinh pháp thọ trì không quên và được pháp môn Quang minh phổ chiếu chư pháp hoại tán chúng sanh ngu si phá ma. Được pháp môn này rồi, ta lại nhớ những việc quá khứ nhiều như kiếp số vi trần thế giới của mười thế giới. Lại thấy tất cả chúng sanh ở thế giới đó và nghiệp báo xấu tốt của họ cũng như các căn lợi độn, tánh dục bất đồng, âm thanh ngôn ngữ, từ lâu đã tu nghiệp thiện, gần gũi thiện tri thức, tùy duyên hóa độ, thị hiện sắc thân để làm lợi ích. Ta thấy những sự kiện này như đang trong hiện tại. Ta dùng thần lực tam muội này ở trong mỗi niệm, tăng trưởng pháp môn, tâm tâm tương tục. Có thể dùng một thân hiện đầy khắp thế giới nhiều như cát bụi trong mười phương, cho đến đầy khắp biển cát bụi của tất cả thế giới. Và nhiều hơn số cát bụi của tất cả thế giới kia cùng bất khả thuyết, bất khả thuyết thế giới. Trong những thế giới như vậy, ta đều thấy tất cả chư Phật, nghe Phật thuyết pháp ta đều có thể nhớ nghĩ, phân tích, thọ trì. Biết rõ biển nguyện bản tịnh của đức Phật kia và biết phát nguyện thanh tịnh của chư Phật trang nghiêm cõi Phật. Nay ta cũng muốn nghiêm tịnh tất cả biển thế giới chúng sanh, trở thành tịnh độ. Như trong hiện tại, tùy duyên chúng sanh đáng gặp thân ta, ta liền thị hiện điều phục tâm kia và hóa độ họ. Từ thuở xa xưa cho đến ngày nay, trong từng sát-na liên tục, ta luôn trưởng dưỡng tăng tấn tu tập pháp môn này. Pháp môn này cứu cánh rộng lớn như các pháp giới.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Bồ tát quang minh phổ chiếu nhất thiết chư pháp hoại tán chúng sanh phá ma. Chư đại Bồ tát cứu cánh vô lượng vô biên biển hạnh nguyện Bồ tát Phổ Hiền, thâm nhập tất cả các biển pháp giới, kiến lập tất cả chư Bồ tát trí tuệ tràng tam muội. An trụ trong thần thông, thành tựu viên mãn đại nguyện, bảo vệ thọ trì biển công đức lớn của chư Phật Như Lai. Trong mỗi niệm đều trang nghiêm giáo hóa tất cả chúng sanh, thành tựu trọn vẹn đầy đủ biển tánh trí tuệ, diệt trừ vô minh mê hoặc điên đảo, ban rải trí tuệ thanh tịnh trong sáng như trăng thu.

Bồ tát ở đời chiếu sáng khắp ba cõi, không đắm trước các tướng, dập tắt sự nóng đốt bức bách, thị hiện ba đời thần thông tự tại, chuyên chở chúng sanh, mở bày con đường chân chánh, ra khỏi ba đời, thanh tịnh viên mãn tất cả âm thanh, sung mãn tất cả pháp giới mười phương. Từ khi mới phát tâm cho đến Thập địa, trong suốt thời gian ấy, Bồ tát đều được đầy đủ vô lượng công đức không thể nghĩ bàn các thần thông lực và ánh sáng trí tuệ. Ta làm sao có thể biết, có thể nói được hạnh Bồ tát kia?

Thiện nam tử! Nước Ma Già Đà ở Diêm Phù Đề này có một Dạ thiên tên Vi Diệu Công Đức Ly Cấu Quang Minh. Vị Dạ thiên đó là đại sư của ta, trước đây đã khuyên ta phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chỉ dạy cho ta được lợi ích an vui. Ngươi hãy đến đó hỏi: thế nào là Bồ tát học hạnh Bồ tát? Tu đạo Bồ tát?

Khi ấy, Thiện Tài đồng tử dùng kệ ngợi khen Bà Sa Bà Đà:

– Con thấy thân tôn quý

Tướng tốt tự trang nghiêm

Siêu việt nơi thế gian

Cũng như núi Tu Di

Pháp thân tịnh trong sáng

Ba đời đều bình đẳng

Giúp đỡ khắp quần sanh

Người ấy vô sở trước

Mở ánh sáng trong lành

Chiếu soi khắp mọi nẻo

Nơi một lỗ chân lông

Đều thấy muôn tinh tú

Tâm tịnh không vướng mắc

Mặt trời trong hư không

Vua pháp nhiếp thủ pháp

Sáng sạch trí tuệ sâu

Mỗi chân lông ánh sáng

Chiếu khắp cõi mười phương

Nơi tất cả chỗ Phật

Mây pháp mưa pháp lành

Tất cả lỗ chân lông

Thị hiện thân biến hóa

Đầy khắp mười phương cõi

Phương tiện độ chúng sanh

Khi mới hành Bồ tát

Nghiệp tịnh không thể bàn

Trong mỗi lỗ chân lông

Hiển hiện mười phương cõi

Người được biết thấy nghe

Đều được lợi công đức

Chuyên cầu đạo giác ngộ

Quyết thành Phật không nghi

Số kiếp bất tư nghì

Thường cầu thiện tri thức

Thà đọa ba đường ác

Không bỏ tâm Bồ đề

Trăm ngàn kiếp vi trần

Ngợi khen tất cả đức

Kiếp số có thể tận

Công đức không thể cùng.

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử cúi đầu đảnh lễ dưới chân vị Dạ thiên, nhiễu quanh vô số vòng, quyến luyến chiêm ngưỡng, quán sát tâm không nhàm chán, từ biệt lui về phương Nam, hướng đến nước Ma Già Đà.

    Xem thêm:

  • Kinh Trung Bộ 62 – Ðại Kinh Giáo Giới La Hầu La (Mahà Ràhulovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Tập Cửu Phẩm Vãng Sanh A Di Đà Tam Ma Địa - Kinh Tạng
  • Kinh Ma Ni La Đản - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 61 – Kinh Giáo Giới La Hầu La Ở Rừng Ambala (Ambalatthikà Ràhulovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 147 – Tiểu Kinh Giáo Giới La Hầu La (Cùlaràhulovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Thức Xoa Ma Na Ni Giới Bổn - Kinh Tạng
  • Kinh Chú Đà La Ni Ma Lợi Chi Thiên - Kinh Tạng
  • Kinh Đàn Đặc La Ma Du Thuật - Kinh Tạng
  • Ma hê thủ la thiên pháp yếu - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Quán Thế Âm Như Ý Ma Ni Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Câu Lợi Già La Đại Long Thắng Phục Ngoại Đạo - Kinh Tạng
  • Kinh Tệ Ma Thử Tôn Giả Mục Liên - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Tam Ma Nhạ - Kinh Tạng
  • Bảo Kinh Lăng Già A Bạt Đa La - Kinh Tạng
  • Kinh Du Già Tập Yếu Cứu A Nan Đà La Ni Diệm Khẩu Quỹ Nghi - Kinh Tạng
  • Kim Cang Tràng Trang Nghiêm Bát Nhã Ba La Mật Đa Giáo - Kinh Tạng
  • Pháp Niệm Tụng Bồ Tát Quán Thế Âm Như Ý Ma Ni Luân Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Phạm Ma Du - Kinh Tạng