1
2

QUYỂN HẠ[140]

Đức Phật ra khỏi nhà ông Thuần, bảo tôn giả A-nan đến nước Cưu-di-na-kiệt[141]. Tôn giả A-nan thưa:

“Dạ vâng.”

Tôn giả liền cùng các Tỳ-kheo Tăng từ nước Hoa thị đi tới nước Cưu-di-na-kiệt. Đức Phật bảo:

“Ta đang bệnh; cần phải ngồi nghỉ.”

Ngài gọi A-nan. A-nan thưa: “Dạ vâng.”

Đức Phật nói:

“Gần chỗ này có một con suối tên là Cưu-đối[142]. Hãy cầm bát đến đó múc đầy bát nước lại đây. Ta muốn uống nước và rửa mặt.”

Tôn giả A-nan liền đến bên suối. Khi ấy có năm trăm cỗ xe đi qua trên dòng nước làm nước rất đục. A-nan liền múc nước đục đem đến, bạch đức Phật:

“Trên dòng nước có đến năm trăm cỗ xe đi qua làm cho nước rất đục. Nước này chỉ có thể rửa mặt, rửa chân chứ không thể uống. Ở vùng ấy lại có một con suối tên là Hê-liên[143], nước rất trong, từ đây đến đó cũng không xa, con có thể tới suối kia lấy nước cho Thế Tôn uống.”

Đức Phật liền dùng nước đục để rửa mặt, rửa chân. Bệnh của Ngài có phần thuyên giảm. Bấy giờ có vị đại thần tên là Bào-mân[144], người nước Hoa thị, cùng đi trên đường, từ xa trông thấy oai thần của đức Phật, dung mạo đoan nghiêm, đang ngồi một cách an tịnh. Đại thần Bào-mân liền đến trước đức Phật đảnh lễ rồi ngồi xuống. Đức Phật giảng nói kinh cho ông nghe và ông rơi lệ khóc lóc. Đức Phật dạy:

“Có Tỳ-kheo nào đã từng nói kinh cho ông nghe chưa. Vì sao nghe kinh mà ông lại khóc?”

Bào-mân thưa:

“Có một người tên là La-ca-diêm[145] tụng kinh cho con nghe, khi ấy nước mắt con tuôn trào.”

Đức Phật hỏi:

“Ông ta tụng kinh gì?”

Bào mân thưa:

“La-ca-diêm ngồi bên gốc cây, tự suy tư về thân thể. Lúc ấy có năm trăm cỗ xe đi qua. Không lâu sau đó có một người đến hỏi: ‘Vừa rồi có năm trăm cỗ xe chạy qua, tôn giả không nghe tiếng động sao?’. Đáp: ‘Ta không nghe.’ Người ấy nói: ‘Gần ngay nơi đây, tiếng xe ầm ầm như vậy, sao lại không nghe?’ Đáp: ‘Không nghe.’ Người ấy nói: ‘ Khi đó Tỳ-kheo ngủ à?’ Đáp: ‘Không ngủ.’ Người ấy nói: ‘Vậy sao lại không nghe tiếng xe chạy?’ Đáp rằng: ‘Ta đang nghĩ đến đạo, tự tư duy về năm tạng trong thân thể mình.’ Kẻ ấy nói: ‘Xe chạy qua như vậy mà lại không nghe tiếng xe!’”

Bào-mân thưa:

“Con đi nửa đường thì gặp một người đã thuyết pháp cho con nghe. Đó là Tỳ-kheo La-ca-diêm, người giữ đạo thâm diệu, không nghe tiếng ầm ầm của năm trăm cỗ xe chạy qua. Do đấy con cảm phục nên khóc.”

Đức Phật nói với Bào-mân:

“Tiếng của năm trăm cỗ xe chạy so với tiếng sấm sét, tiếng nào lớn hơn?”

Bào-mân thưa:

“Cho dù có ngàn cỗ xe chạy, tiếng động vẫn không bằng tiếng sấm sét.”

Đức Phật bảo Bào-mân:

“Ngày trước ta ở tại xóm Ưu-đàm[146], ngồi tư duy về nguồn gốc sanh tử của muôn loài. Bấy giờ trời đang mưa ào ào, sấm sét vang rền dữ dội, làm chết bốn con trâu và hai anh em người đi cày. Khi ấy nhiều người xúm lại để xem. Có một người đi đến chỗ ta, tới phía trước đảnh lễ. Ta hỏi: ‘Người ta làm gì mà tụ tập đông quá vậy?’ Người ấy thưa: ‘Vừa rồi sấm sét đã giết chết bốn con trâu và anh em người đi cày, tại sao Phật không nghe; hay là lúc ấy Phật đang ngủ chăng?’ Đức Phật trả lời: ‘Ta không ngủ. Ta đang ngồi tư duy về đạo.’ Người ấy nói: ‘Đạo của Phật sâu xa như vậy, tuy Ngài không ngủ mà vẫn không nghe tiếng sấm sét vang rền dữ dội, là do Ngài đang suy tư về đạo một cách sâu xa.’ Người đó cũng rơi lệ.”

Đại thần Bào-mân thưa:

“Đạo của Phật sâu xa như vậy, từ nay về sau con xin thọ trì kinh giới của Phật.”

Bào-mân liền gọi kẻ tùy tùng tới, bảo trở về lấy tấm vải dạ dệt bằng kim tuyến[147] đem đến để ông dâng cúng đức Phật. Kẻ tùy tùng liền trở về nhà đem tấm dạ dệt bằng kim tuyến đến. Bào-mân dâng lên Phật, thưa:

“Mặc dù con biết đức Phật không dùng thứ này nhưng mong Ngài thương xót mà nhận cho con.”

Đức Phật liền thọ nhận. Bào-mân đảnh lễ Phật rồi đi. Ông đi chưa bao lâu, đức Phật bảo A-nan:

“Hãy mang tấm dạ dệt bằng kim tuyến, có màu vàng lại đây.”

Tôn giả A-nan thưa:

“Con đã theo hầu Phật trên hai mươi năm chưa hề thấy tấm dạ nào đẹp như vậy.”

Đức Phật nói:

“Còn có cái hết sức đẹp.”

A-nan thưa:

“Sắc mặt của đức Phật ngày hôm nay đẹp như sắc tấm dạ vậy.”

Đức Phật bảo A-nan:

“Đức Phật có hai lần đạt được sắc diện đẹp như vậy. Đó là lúc đức Phật mới thành đạo, sắc diện đẹp như thế. Ngày hôm nay vào lúc nửa đêm ta sẽ nhập Niết-bàn nên sắc diện cũng lại đẹp như vậy.”

Đức Phật lại bảo A-nan:

“Hãy đi đến bên dòng suối Hê-liên, ta muốn tắm rửa thân thể.”

A-nan thưa:

“Dạ vâng.”

Đức Phật cùng A-nan đi đến bên dòng suối Hê-liên. Đức Phật cởi y, tự mình lấy nước để tắm rửa[148]. Đức Phật bảo A-nan:

“Sáng nay Ta thọ trai nơi nhà con ông Hoa thị tên là Thuần, rồi vào lúc nửa đêm ta sẽ nhập Niết-bàn. Hãy nói cho ông Thuần biết: đức Phật đã thọ trai nơi nhà ông, vào nửa đêm hôm nay Ngài sẽ nhập Niết-bàn. Vậy ông nên hoan hỷ. Hãy bảo ông Thuần đừng khóc lóc. Nếu ai cúng cơm cho đức Phật một lần sẽ được năm thứ phước. Đó là bữa ăn cuối cùng trước khi Phật Bát-nê-hoàn. Vậy ông Thuần sẽ được trường thọ, được đoan chánh, được phú quý, được tôn trọng, được sanh lên cõi trời. Đức Phật là bậc đáng tôn kính, ai cúng dường cơm nước cho Ngài một lần là được năm thứ phước trên.”

A-nan bạch Phật:

“Có một Tỳ-kheo tên là Chiên-đàn[149], tánh tình nóng nảy, ưa chửi mắng, thường tranh cãi với các Tỳ-kheo. Sau khi Phật Bát-nê-hoàn, con gặp các Tỳ-kheo như vậy làm sao để cùng nhau phụng sự kinh giới của Phật?”

Đức Phật bảo A-nan:

“Sau khi Ta nhập Niết-bàn rồi, nếu gặp loại Tỳ-kheo như vậy thì hãy đừng quan hệ, các Tỳ-kheo hãy đừng nói với kẻ ấy. Như vậy Tỳ-kheo Chiên-đàn sẽ phải suy nghĩ, ôm lòng xấu hổ, hối hận vì thường tranh cãi với các Tỳ-kheo.”

Đức Phật bảo tôn giả A-nan:

“Hãy trải giường cho ta, đầu quay về hướng Bắc. Lưng ta đau nhức, ta muốn nằm.”

A-nan liền trải giường, đặt gối. Đức Phật nằm nghỉ, nghiêng hông về phía bên phải, hai chân chồng lên nhau. Ngài nằm suy tư về đạo vô vi. Đức Phật đang nằm, bảo A-nan:

“Ngươi có biết bảy sự về ý[150] không? Những gì là bảy? Một, có chí. Hai, hiểu rõ kinh. Ba, siêng tụng kinh. Bốn, không ham nằm, ưa thích kinh. Năm, chánh tâm. Sáu, tịnh tâm. Bảy, thấy trong thân toàn là đồ dơ bẩn. Tỳ-kheo có được bảy pháp này thì tự biết là mình đã giải thoát khỏi cuộc đời.”

A-nan có ý nghĩ là Phật đang mệt mỏi. Đức Phật bảo A-nan:

“Ngươi nghĩ rằng Phật biếng nhác chăng?”

Đức Phật bảo A-nan:

“Người mà không biếng nhác đối với kinh, không biếng nhác ngồi dậy; người ấy muốn làm Phật thì có thể[151].”

Nói xong, Phật ngồi dậy.

Bấy giờ có một Tỳ-kheo tên Kiếp-tân[152], đến nói với A-nan:

“Tôi muốn hỏi một việc.”

Tôn giả A-nan đáp:

“Thánh thể của Phật không điều hòa, vậy nên thôi đi.”

Đức Phật từ bên trong biết có Tỳ-kheo muốn hỏi chuyện, Ngài bảo A-nan:

“Hãy bảo Tỳ-kheo ấy vào gặp ta.”

Đức Phật dạy:

“Ngươi muốn hỏi gì cứ hỏi.”

Tỳ-kheo thưa:

“Ngài đang bị bệnh, xin đừng thuyết giảng kinh nữa. Phật đã nói về bảy sự. Chúng con nghe và sẽ thực hành theo. Phật không cần thuyết kinh nữa.”

“Vừa rồi ta mới nằm, A-nan nghĩ rằng đức Phật có ý mệt mỏi, sao lại nằm. Do đó ta ngồi dậy nói về bảy việc.”

Tỳ-kheo thưa:

“Đức Phật là bậc tôn quý của trời và người, tại sao Ngài không lên trời lấy thuốc để trị cho hết bệnh?”

Đức Phật dạy:

“Như ngôi nhà cũ, thời gian lâu đều bị hư nát, nhưng đại địa thì sẽ tiếp tục an ổn. Tâm của Phật thì an ổn như đại địa, còn thân của Phật thì như ngôi nhà cũ. Tâm ta không bệnh, chỉ có thân ta mới có bệnh thôi.”

Đức Phật dạy:

“Hãy lo về bảy sự, lo cho thân mà giữ giới.”

Tỳ-kheo thưa:

“Nay Phật sắp nhập Niết-bàn vì thân có bệnh, huống chi là người phàm phu có xác thịt!”

Tỳ-kheo thưa:

“Loài chim yến sanh con, nhờ cha mẹ đút mồi mà được sống. Nay đức Phật bỏ chúng con mà nhập Niết-bàn, vậy chúng con biết nương cậy vào ai.”

Đức Thế Tôn bảo:

“Ta đã từng nói rằng: Có sanh thì có tử. Tỳ-kheo nên nhớ việc thọ trì trọng giới của đức Phật.”

Tỳ-kheo ấy lui ra. Đức Phật bảo tôn giả A-nan:

“Hãy đi nhanh đến rừng Diêm-kha-sa[153] trải giường, đầu quay về hướng Bắc, vào lúc nửa đêm hôm nay Ta sẽ nhập Niết-bàn.”

A-nan vâng lời đi đến đó, đặt giường ở trong rừng, đầu quay về hướng Bắc xong, trở về thưa:

“Con đã trải giường xong.”

Đức Phật đứng dậy đi đến Diêm-kha-sa, nằm lên giường, hông nghiêng về phía hữu. Có một Tỳ-kheo tên là Ưu-hòa-hoàn[154], đến đứng ở trước đức Phật. Đức Phật bảo:

“Không nên đứng phía trước Ta!”

A-nan bạch Phật:

“Từ khi con đích thân làm thị giả đến nay là hai mươi lăm năm, con chưa từng thấy có Tỳ-kheo nào đi thẳng đến trước Phật mà không hỏi ý con.”

Đức Phật bảo:

“Tỳ-kheo này có oai thần lớn hơn cả chư thiên, nghe Phật diệt độ cho nên mới nóng lòng tự mình đến thẳng phía trước, muốn gặp Phật[155].”

A-nan hỏi:

“Chỉ có vị thiên này biết Phật sắp diệt độ hay lại có các vị thiên khác cùng biết?”

Đức Phật bảo A-nan:

“Từ cảnh giới nước Cưu-di-na-kiệt, trong khoảng bốn trăm tám mươi dặm, đầu này nối tiếp đầu kia, không có một kẽ hở, đều là chư thiên; nghe Phật sắp Niết-bàn, họ đều thương tiếc, khóc lóc mà đi đến đây. Trong đó có vị cào đầu, bứt tóc, xé áo, tim muốn ngừng đập, ngất xỉu, than rằng: ‘Sao mà buồn quá! Đức Phật đã bỏ chúng ta. Ngài đã diệt độ vĩnh viễn! Sao mà nhanh thế! Phật là bậc sáng suốt tột bậc, là con mắt của ba cõi, nay Ngài đã nhập Niết-bàn, ba cõi thành tối tăm’.”

Đức Phật bảo A-nan:

“Ta đã từng nói rằng: ‘Trong trời đất này chẳng có cái gì mà chẳng bị hủy hoại; có sanh thì có tử. Kẻ ngu si thì cho rằng trời đất này là thường còn, Phật thì cho đó là hư không. Đất trời có thành thì có hoại, thân này rồi cũng phải bỏ đi. Chỉ có thiện hay ác đi theo thân. Cha có điều xấu ác, con không bị tai ương. Con có điều xấu ác, cha cũng không bị tai ương. Mỗi người phải tự nhận lấy sự sống chết, thiện hay ác, tai ương hay lỗi lầm, tất cả đều tùy thuộc vào mình.”

A-nan bạch Phật:

“Sau khi Phật diệt độ, cách thức an táng thân thể của Phật phải làm như thế nào?”

Đức Phật bảo A-nan:

“Ngươi hãy im lặng, đừng lo. Sẽ có các Thệ tâm, Lý gia cùng nhau lo việc đó[156].”

A-nan thưa:

“Họ theo phương thức gì để an táng tôn thể của đức Phật?”

Đức Phật bảo A Nan:

“Phương thức an táng cũng như phương thức an táng của Hoàng đế Phi hành[157]. Đức Phật còn hơn thế nữa.”

Tôn giả A-nan thưa:

“Phương thức an táng ấy như thế nào?”

Đức Phật bảo tôn giả A-nan:

“Lấy dạ trắng mới quấn quanh thân, tiếp đến lấy mười tấm vải kiếp-ba quấn lên trên dạ trắng, rồi đặt vào trong kim quan bằng bạc, dùng nước hoa rưới lên vải kiếp-ba; lại dùng tất cả loại hương tốt để lên trên, lấy củi cây tử, cây chương, cây chiên-đàn chất chung quanh kim quan. Dùng lọng che lên kim quan, lấy củi chất trên dưới rồi trà-tỳ. Tra-tỳ xong thì thu lấy xá-lợi, dựng tháp, treo phan, tại ngã tư đường, đặt cái mâm lên trên; trống nhạc, hoa hương, đốt đèn cúng dường. Phương thức an táng của Phi hành hoàng đế là như vậy. Cách thức an táng đức Phật còn hơn thế nữa.”

Khi đức Phật nói như vậy, A-nan đứng ở phía sau Ngài tiếc thương khóc lóc, đặt đầu trên góc giường, thưa:

“Ngài diệt độ sao mà nhanh quá! Đất trời trở nên tối tăm.”

Khắp bốn phương, các Tỳ-kheo Tăng nghe đức Phật sắp diệt độ đều khóc lóc trở về. Họ nói với nhau: ‘Sợ không còn thấy được Phật.’ Có Tỳ-kheo tăng bước đến, đức Phật hỏi:

“Tỳ-kheo A-nan ở đâu?”

Thưa:

“Tôn giả A-nan ở gần sau góc giường, đang cúi đầu khóc nghẹn ngào.”

Các Tỳ-kheo chảy nước mắt thưa:

“Đức Thế Tôn diệt độ sao mà nhanh quá!”

Đức Phật dạy:

“Lúc đi qua các thôn xóm, ta đã có cho biết trước rằng: ‘Khoảng chín mươi ngày trở lại ta sẽ nhập Niết-bàn. Lúc này, bốn chúng đệ tử ở xa vài ngàn dặm, tất cả đều trở về’.”

Đức Phật bảo A-nan:

“Chớ có buồn rầu. Sở dĩ như vậy, vì ngươi đã hết lòng hầu Phật trên hai mươi năm; có tâm từ đối với Phật; thân thì cung kính, miệng thì thận trọng; có lòng đại hiếu đối với Phật. Thị giả của Phật thời quá khứ cũng như A-nan, thị giả của Phật thời vị lai cũng như A-nan. Ngươi biết ý Phật; biết lúc nào nên cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào gặp Phật, lúc nào thì không nên cho. Trong công việc hầu hạ chuyện ăn uống, lúc nào nên ăn, nên uống, khi nằm, khi đứng, luôn hợp với ý của Phật, chưa từng mất oai nghi. Tỳ-kheo hay hàng Thệ tâm nào thích nghe kinh hay không thích, A-nan nói ra đều chân thật. A-nan đã hết lòng hiếu thuận đối với Phật, vậy thì khóc lóc làm gì?”

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe bậc Phi hành hoàng đế có bốn đức khó làm. Những gì là bốn đức?”

“Các Tiểu quốc vương và các Thệ tâm, Lý gia cùng các dân chúng, đến dưới cửa vua. Phi hành hoàng đế đều gặp họ, bằng tâm hòa thuận, dịu dàng để chỉ dạy, thuyết giảng phương pháp trị nước cho các vua, là phải tri túc, đừng cầu mong. Còn sự hành trì của hàng Thệ tâm thì lấy sự thanh tịnh làm đầu. Các Lý gia và dân phải đến chỗ thờ Phật để nghe Sa-môn giảng dạy về cách sống chơn chánh, nơi nhà thì phải tu hạnh hiếu thuận, theo chỗ an định, dùng tâm từ ban bố cho tất cả. Các vua, Thệ tâm, Lý gia và thứ dân không ai là không hoan hỷ, khen ngợi Thánh đế đã làm cảm động cả chư thiên. Phi hành hoàng đế có bốn đức như vậy. “Tỳ-kheo A-nan cũng có bốn đức: Nếu có Trừ cận nam, Trừ cận nữ, thanh tín sĩ, thanh tín nữ đi đến chỗ A-nan để hỏi kinh giới thì A-nan có thể trình bày quảng diễn cho họ một cách đầy đủ. Bốn chúng đệ tử chẳng ai là chẳng hoan hỷ cáo từ lui ra. Họ đều hết lời khen ngợi. Đó là đức thứ nhất trong bốn đức của A-nan.

“Lại có bốn chúng đệ tử không hiểu sự thâm diệu của kinh, đi đến chỗ của A-nan để hỏi những điều còn nghi. A-nan giải thích rõ các mối nghi của họ, chỗ nào cũng được khai mở, khiến người nghe không chán, khi ra về, không ai là không khen ngợi. Đó là đức thứ hai trong bốn đức của tôn giả A-nan.

“Các bậc cao đức trong bốn chúng nhìn thấy A-nan đứng hầu bên trái đức Phật, ai cũng hết lời khen ngợi. Đó là đức thứ ba trong bốn đức của A-nan.

“Đức Phật thuyết giảng kinh, bất luận nhiều hay ít, A-nan đã nghe qua đều nhớ nằm lòng rồi truyền lại cho bốn chúng, hoàn toàn không thêm bớt. Đó là đức thứ tư trong bốn đức của A-nan.”

A-nan bạch Phật:

“Cách đây không xa có những quốc độ như nước Xá-vệ, nước Sa-chi, nước Đàn-ba, nước Vương-xá, nước Ba-la-nại, nước Duy-da-lê[158]. Nơi các nước lớn ấy, văn minh nghĩa giáo đầy đủ, mong đức Phật nên đến những chốn đó để diệt độ. Sao Ngài không tới các nước lớn ấy mà chọn một huyện nhỏ, lại còn ở ngoài của thành, một xóm thưa thớt, một huyện thấp hèn, để nhập Niết-bàn?”

Đức Phật bảo A-nan:

“Đừng bảo đây là một xóm nhỏ. Vì sao như vậy?”

“Vào thời xa xưa ở xứ Cưu-di-na-kiệt này có tên là Cưu-di-việt-vương[159]. Khi ấy trong nước hết sức an lạc, không có các bệnh tật, lúa thóc dồi dào, dân chúng đông đúc, cuộc sống sung túc, trong nhà có con hiếu thảo. Thành từ Đông sang Tây dài bốn trăm tám mươi dặm, thành Nam-Bắc dài hai trăm tám mươi dặm. Thành có bảy lớp đều dùng ngói nung nhiều lớp ghép lại, dùng vàng ròng, bạc trắng, lưu ly, thủy tinh để làm tường thành, cũng dùng bốn loại báu làm ngói lợp. Thành cao sáu trượng bốn thước, ở bên trên rộng hai trượng bốn thước. Trong thành có cây báu, hoa phát ra ánh sáng năm màu. Đường đi có ba lối, hai bên đều dùng bốn báu để lót đường, có ngói lợp lên trên, hai bên là nhà ở, điêu khắc chạm trổ đẹp đẽ giống như trên cõi trời. Có các thứ âm nhạc, các loại đờn cầm, đờn sắt do nam nữ thuần nhất ca ngợi đạo đức. Nhạc về đạo có mục đích giúp cho trí tuệ thêm sáng suốt, khiến dân chúng không có ưu sầu, sợ sệt, tâm thường hoan hỷ. Trên đầu họ không có trang điểm nhưng hương trí tuệ tỏa khắp. Vị Thánh vương ở cõi này tên là Đại Khoái Kiến[160], hiệu là Phi hành hoàng đế, điều khiển binh đội thông minh nhất thế gian, dùng đạo trị dân, dân chúng không trái với vương pháp. Nếu dân chúng muốn phi hành, hễ nghĩ thì thân liền bay đến đó. Nhà vua có bảy báu, tự nhiên sanh ra: Bánh xe bằng vàng báu bay được. Voi trắng có thần lực. Ngựa thần màu xanh. Ngọc Minh nguyệt. Vợ là Ngọc nữ ở trên trời. Quan là bậc Thánh chủ kho báu. Quan là bậc Thánh coi về binh.

“Nhà vua có bốn đức. Lúc còn thơ ấu, lúc làm Thái tử, lúc lên ngôi vua, lúc bỏ nước, lúc diệt dục làm Sa-môn, đều trải qua mỗi thời kỳ là tám vạn bốn ngàn năm. Đó là đức khó có của vua Đại Khoái Kiến.

“Khi ăn uống thì tiêu hóa, thân thể không có bệnh lâu, lạnh nóng điều hòa, thân ý thường được an vui. Đó là đức thứ hai của nhà vua.

“Dung mạo oai nghiêm, khí sắc hơn đời, chỉ kém thua Đế Thích một chút, vua cho là không bằng. Đó là đức thứ ba của nhà vua.

“Khắp cả vòm trời, trọn cả cõi đất, người dân từ lớn chí nhỏ không ai là không yêu kính nhà vua, giống như người con chí hiếu mong cho cha mẹ đều được an lạc. Nhà vua cũng đem tâm thương yêu chúng sanh, xem tất cả như con đẻ. Nếu ai nghèo thì vua cho tiền của, đói cho ăn, khát cho uống. Già mà khốn cùng, nhỏ mà cô quạnh đều khiến cho ở chung như là quyến thuộc thân thích. Dùng nhà cửa, xe cộ để cứu tế khẩn cấp cho tất cả. Đó là đức thứ tư của nhà vua.

“Trong nước thường nghe mười hai loại âm thanh, đó là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng bò, tiếng xe, tiếng loa, tiếng trống, tiếng múa, tiếng ca, tiếng nhạc, tiếng ca tụng nhân nghĩa, tiếng khen Phật là bậc tôn quý. Dân chúng trang sức bằng các thứ châu báu dệt thành như vô số loại ngọc Minh nguyệt, chuỗi anh lạc chiếu sáng, ăn uống ca nhạc giống như cõi trời Đao-lợi. Dân chúng luôn được sống trong cảnh yên vui, sung sướng.

“Khi nhà vua muốn đi du ngoạn thì bảo vị quan giữ xa giá tên là Tu đạt[161]. Nhà vua bảo:

“Hãy chạy xe từ từ! Lâu rồi mà ta không gặp các Thệ tâm, Lý gia. Nay ta muốn gặp họ.”

“Các Thệ tâm, Lý gia nghe nhà vua đang đi; người có đeo ngọc minh châu, bạch ngọc, bích ngọc, thanh ngọc, san hô, chiên-đàn, các loại hương nổi tiếng liền đem dâng cho Thánh vương. Nhà vua không muốn nhận, nhưng những người ấy đều thành kính van nài, do đó nhà vua mới nhận. Vua ra lệnh cho vị quan coi về kho báu trả giá gấp đôi những vật đó. Dân chúng lớn nhỏ đều dùng các thứ hương hoa báu rải khắp trên mặt đất, chúc vua sống lâu vô lượng.

“Các Tiểu vương có đến tám vạn bốn ngàn người, nghe Phi hành hoàng đế muốn bố thí đều đến để phụ giúp. Họ đến đại điện, Hoàng đế muốn cùng các vua đều lên chánh điện. Các vua từ chối, thưa:

“Các nước của chúng thần đều có cung điện báu.”

Hoàng đế nói:

“Cung điện nhỏ của các vị không có gì đáng để nói. Hãy xem Minh điện, theo ta mà lên, đừng sợ!”

“Hoàng đế có chiếc xe báu và các Tiểu vương cũng vậy. Xe cao mười trượng có bốn bánh, từ trên xuống dưới đều làm bằng bảy báu, bên trên thì treo tràng phan màu sắc sáng chói phản chiếu nhau. Xe này do sáu con ngựa kéo, những con ngựa ấy đều bay được. Đặc biệt có một chiếc xe của nhà vua đi do hai con ngựa mình trắng bờm và đuôi đen nhưng xe tự nhiên chạy. Xe đó gọi là Câu-la-kiệt, để Thánh đế cỡi. Tám vạn bốn ngàn xe đều đi trước dẫn đường cùng đến Minh điện. Minh điện tên là Ba-la-sa-đàn, ngang dọc bốn mươi dặm, dùng hoàng kim, bạch ngân, lưu ly, thủy tinh làm tường, dùng bốn loại báu làm trụ, lấy ngói vàng ròng, bạch ngân, lưu ly, thủy tinh lợp lên. Có năm mươi lớp tam cấp đều dùng hoàng kim, bạch ngân, lưu ly, thủy tinh tạo thành. Các xà nhà, cột chống đều làm bằng hoàng kim, bạch ngân, lưu ly, thủy tinh. Trong điện có tám vạn bốn ngàn cái giường, tất cả đều làm bằng vàng ròng, bạch ngân, lưu ly, thủy tinh. Các thứ màn che cũng được làm bằng các loại báu ấy. Có những thứ nệm dệt bằng vàng ròng, bạch ngân, lưu ly, thủy tinh, hoặc dệt bằng nhung đỏ, tất cả đều dùng để trải lên giường. Còn gối thì do những tay nghề trên cõi trời dệt thành.

“Này A-nan, tường vách quanh cung điện có bốn lớp: tường bằng vàng ròng, tường bằng bạch ngân, tường bằng lưu ly, tường bằng thủy tinh. Ao tắm được làm bằng bốn thứ báu, chu vi bốn mươi dặm. Hễ ao bằng vàng ròng thì đường cấp lên xuống bằng bạch ngân. Hễ ao bằng bạch ngân thì đường cấp lên xuống vàng ròng. Hễ ao bằng lưu ly thì cấp bằng thủy tinh. Hễ ao bằng thủy tinh thì cấp bằng lưu ly. Trong ao tự nhiên sanh hoa sen có bốn màu: xanh, hồng, tía, trắng thường nở trong ao suốt mùa hè. Bên ngoài thì có cây hoa tỏa hương thơm ngát. Phía dưới cung điện có bốn con đường, đều dùng bốn báu để làm lan can cho hai bên lối đi, mỗi lan can dài hai mươi dặm. Trước cấp bậc của cung điện có bốn cây báu, mỗi cây cao bốn mươi dặm, bóng cây che phủ cả mặt đất. Cây bằng vàng ròng thì lá bằng bạch ngân, cây bằng bạch ngân thì lá bằng vàng ròng, cây bằng lưu ly thì lá bằng thủy tinh, cây bằng thủy tinh thì lá bằng lưu ly. Nhà vua ở dưới cung điện để tự suy nghĩ, không ở trên điện, dùng lời lẽ ôn hòa nói với các vua, các vua đều không dám lên điện.

“Vua Đại Khoái Kiến ra lệnh cho quan hầu cận thỉnh các Sa môn, Thệ tâm hiểu kinh, trì giới lên điện trước nhất. Trên điện đã dọn đủ thứ đồ ăn thượng vị, lại còn ban tặng ngọc báu quý giá. Các Sa môn, Thệ tâm đi rồi nhà vua liền đắm chìm trong tư duy: ‘Thọ mạng là vô thường.’ Ngài và một người hầu cùng lên Minh điện, bảo:

“Ta muốn các phu nhân, kỹ nữ, cận thần, các vua hãy lui ra.

“Nhà vua ngồi trên giường bằng vàng ròng, chân để trên ghế bằng bạch ngân, tự mình suy niệm một cách sâu xa về hành động của sự dâm dật, nào có ích gì cho ta mà kẻ ngu si phần nhiều tham đắm, không biết đó là tai họa. Nay ta tuy thọ đến ba mươi ba vạn sáu ngàn năm, nhưng cái gì có thạnh thì sẽ có suy, có hợp hội thì sẽ có sự chia ly. Thân là loại mục nát rồi trở thành tro bụi mà thôi. Nay bốn điện báu này, ai có thể bảo tồn lâu dài được? Đối với một thân ta chỉ cần một cái nhà nhỏ để ở là đủ, cần gì phải dùng đến cung điện bốn mươi dặm và tám vạn bốn ngàn cái giường?

“Nhà vua từ nơi giường bằng vàng ròng bước đến giường bằng bạch ngân, để chân lên ghế bằng vàng, chỉ suy tư về con người để khiến cho tâm tham lam, ganh ghét, giận dữ, ngu si, tà dâm được thanh khiết, vì bốn sự phi thường luôn hủy diệt nên chẳng cái gì tồn tại. Quán thấy thế gian là vô thường, vậy thân ta làm sao mà tồn tại lâu dài được?

“Nhà vua từ giường bằng bạch ngân đi đến giường bằng lưu ly, để chân lên ghế thủy tinh, nói:

“Ngọc nữ nơi hậu cung của ta có đến tám vạn bốn ngàn người, ta sẽ bảo lui về hết, dùng họ chỉ thêm sự trói buộc. Người nữ chứa đầy sự xấu ác, hãy bỏ đi chớ để cho tâm ý bị ô uế.

“Nhà vua từ giường lưu ly bước đến giường thủy tinh, đặt chân lên ghế lưu ly, lại tư duy về: ’Vạn sự đều xấu ác, chỉ có pháp Vô vi là an lạc. Hãy trừ bỏ tâm ý ô trược nơi ta, hãy cầu đạo Vô vi. Nay ta tuy làm Hoàng đế Phi hành cao quý như vậy, nào có ích gì cho thân?’

“Người hầu đến trước nhà vua thưa:

“Các Ngọc nữ báu hỏi nhà vua ở trong điện sao lâu quá, họ đều muốn tới trước để bái yết nhà vua.

“Vua bảo người hầu:

“Ra lệnh cho vị quan coi về kho báu bảo với các phu nhân ai về nhà nấy, hãy mang theo trong người các thứ châu báu danh tiếng tùy theo ý muốn. Còn các vị vua, quần thần, ngựa trời, voi báu, đều bảo là lui ra hết.

“Vua Đại Khoái Kiến liền bước lên lầu cao, từ xa nghe thấy các thứ âm thanh ‘than trời, trách đất’. Vua hỏi:

“Tiếng gì thế?

“Người hầu thưa:

“Đó là tiếng kêu than khóc lóc của đám Ngọc nữ nhà trời, các vị vua, đám quần thần, cả voi báu, ngựa trời. Tất cả đều hết lòng luyến mộ thiên vương, không một ai có thể rời bước được. Vua bảo:

“Hãy đem cái ghế nhỏ lại đây, đặt ở dưới điện, mời Ngọc nữ báu, các vị vua, bá quan, các thứ voi báu, ngựa báu và kẻ hầu. Đệ nhất hoàng hậu ngồi cạnh nhà vua.

“Vua lại bảo các thể nữ xinh đẹp hầu hạ các phu nhân. Hoàng hậu giơ tay chỉ các nữ báu, nói:

“Dung nhan của các thiên nữ tươi đẹp lạ thường, thân mặc y phục của trời, thế gian thật ít thấy! Mong ngài hãy nên lưu tâm! Có voi báu, ngựa trời; ngựa tên là Hoàn thanh[162]. Các thứ anh lạc báu như: Bạch châu, Dạ quang hiện rõ soi sáng cả nước. Các vị vua khắp bốn phương đều cần có ánh sáng của bậc thánh nhân để họ kính thờ, xưng mình là bề tôi, hết lòng hiếu thuận, trung hậu, ái mộ thiên vương.

“Vua Khoái Kiến bảo:

“Ta đời đời vốn có tâm từ bi. Người nữ trong thế gian ganh ghét nhau, gây tai ương xấu ác cùng khắp, làm ảnh hưởng lâu dài đến thân vua, đó chính là tai họa lớn. Ta muốn xa lìa. Từ nay về sau, nếu gặp các người nữ thì Ta xem họ như là em gái của ta.

“Các phu nhân cùng than khóc, thưa:

“Tại sao đang lúc còn sống lại nỡ xa lìa chúng tôi?”

“Tất cả đều vứt hết đồ trang sức nơi thân, ngã nhào xuống đất. Hoàng hậu thì càng áo não, sầu thảm, nói:

“Này Thiên vương, vậy chúng tôi biết nương tựa vào ai?

Vua bảo:

“Mạng người rất ngắn, nhưng sự lo buồn lại nhiều. Thân là vật hư nát, chẳng biết chết đi lúc nào. Từ nay ta giữ tâm, sùng kính uy đức của bậc Sa-môn, xa lìa cả những người nữ thân thuộc, chỉ có đạo là tôn quý, tự lo tu thân không thể lo các chuyện khác được.

“Ngài lại nói với các vị Tiểu vương:

“Mạng người ngắn ngủi nhưng sự lo buồn thì dài, nên tự thương lấy thân mình, hễ có sanh thì có tử. Hãy giữ tâm hạnh chơn chánh, từ ái, hiếu thuận, sự vinh hoa khó giữ mãi được.”

“Các Tiểu vương đều cúi đầu, chí thành thưa:

“Các nước trong bốn cõi thiên hạ đều trông cậy vào Thiên vương. Thường nghe các bậc Thánh từng khen ngợi về vùng đất này, không thể nêu rõ hết được. Vua và trăm quan hẳn là thần thánh nên châu báu của đất nước này nhiều khác nào như trên cõi trời. Vậy Thiên vương nên dốc lòng thương xót chúng dân mà thay đổi thánh ý đó đi!

“Nhà vua bảo các Tiểu vương:

“Tuổi thọ con người rất ngắn, mà nỗi lo lắng của người đời thì lại nhiều. Hãy tự lo cho thân mình, mạng người chỉ trong hơi thở. Hễ có sanh thì có tử, hãy lìa bỏ hành vi tham dâm, uế trược đi!”

“Nhà vua đứng dậy đi lên cung điện, ngồi trên giường bằng vàng ròng, giữ tâm từ bi rộng lớn hướng về các phu nhơn, trăm quan, các Tiểu vương, dân chúng, voi, ngựa, mọi loài lao khổ trong mười phương; đem tâm từ bi thương xót, muốn khiến cho họ biết đến Phật. Rồi Ngài từ giường bằng vàng đi đến giường bằng bạc, suy tư về đạo Vô vi. Từ giường bằng bạc ngài đi tới giường bằng lưu ly, suy tư về hạnh từ bi nhằm cứu vớt chúng sanh. Từ giường lưu ly, ngài lại đi tới giường thủy tinh, suy tư về hạnh đại hiếu, muốn cứu độ những người thân trong vô số kiếp. Tự mình suy tư về toàn bộ cơ thể trong con người là dơ nhớp. Nhà vua bảo:

“Ngày xưa ta đã từng mắc một chứng bệnh như có sợi dây bằng tre siết nơi cổ, như dùi gỗ xuyên qua thân. Thân là đồ chứa sự khổ, đâu đủ để làm chỗ nương tựa?”

Đức Phật bảo tôn giả A-nan:

“Hoàng đế Phi hành Đại Khoái Kiến ấy chính là thân ta. Nhà vua sau khi mãn tuổi thọ thì sanh lên cõi trời Phạm thiên. Ai biết thân Phật đã từng làm hoàng đế Phi hành, tu tập chánh pháp? Lại có bốn đức, bảy thứ báu tự nhiên xuất hiện. Từ cảnh giới Cưu-di-na-kiệt dài bốn trăm tám mươi dặm, rộng hai trăm tám mươi dặm, đều ở tại trong thành này. Trước đây ta từng bảy lần đem thân mình gắn bó với vùng đất này. Nay ta đã đoạn trừ được. Tâm mong cầu các định về niệm, không, vô tướng[163], cắt đứt nguồn gốc của sanh tử. Từ nay về sau ta không còn tái sinh nữa.

“Này A-nan, ngươi hãy vào thành báo cho dân chúng biết:

“Hôm nay, vào lúc nửa đêm, Như Lai sẽ nhập Bát-nê-hoàn. Nếu ai có điều gì nghi ngờ, hãy gấp đi đến để đức Phật giảng giải cho, đừng để sau này phải hối hận mãi. Rằng Phật ở tại xóm nhỏ, mà chúng không đến thọ bẩm lời dạy.”

A-nan như lời Phật dạy, đi báo cho dân chúng biết. Dân chúng vô cùng ngạc nhiên, thưa:

“Đức Phật vì sao lại ở tại một xóm nhỏ để diệt độ?”

Mọi người nghe tin, ai cũng than thở, khóc lóc, vừa ngạc nhiên, vừa thương tiếc, cùng bảo: ‘Cớ sao như vậy?’

Nhà vua nghe biết sự việc này, ngạc nhiên hỏi:

“Vì sao ở đây có sự than khóc?”

Vua bèn sai quan hầu ra ngoài dò hỏi? Dân chúng nức nở, nghẹn ngào tâu:

“Tôn giả A-nan cho biết là: đức Phật sắp diệt độ, ai còn nghi ngờ điều gì hãy đến để thưa hỏi. Do đó nên chúng tôi than khóc.”

Quan hầu trở về tâu với vua:

“Tôn giả A-nan báo cho dân chúng vùng này biết là đức Phật sắp nhập Niết-bàn, hãy đến để hỏi những chỗ còn nghi ngờ. Vì thế nên họ khóc lóc.”

Nhà vua liền cho gọi Thái tử A-thần[164], bảo:

“Con hãy đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, cung kính thăm hỏi tin tức, thỉnh nguyện đức Thế Tôn hãy chọn nơi chánh điện để nhập Niết-bàn, đừng ở chỗ xóm nhỏ hẹp ấy.”

Thái tử thưa:

“Nếu đức Thế Tôn không đồng ý thì phải làm thế nào?”

Vua bảo:

“Hãy thọ giáo và trở về cùng thật nhanh.”

Thái tử đi đến chỗ đức Phật. Tôn giả A-nan thưa với đức Phật:

“Quốc vương nước Cưu-di sai Thái tử đến, con chưa dám cho vào.”

Đức Phật nói:

“Hãy cho vào.”

Thái tử vào, gieo năm vóc xuống đất, cung kính đảnh lễ sát chân Phật rồi quỳ dài thưa:

“Nhà vua bảo con đến đảnh lễ Phật, cung kính hỏi thăm tin tức. Chúng sanh bị đắm chìm nơi vực thẳm mênh mông, chỉ có đức Phật mới cứu vớt được. Nay đức Thế Tôn sắp diệt độ, sao mà nhanh quá! Ngài nên chọn nơi hoàng cung mà nhập Niết-bàn, chớ nên ở nơi xóm nhỏ.”

Đức Phật bảo A-thần:

“Cám ơn phụ vương của Thái tử. Ta đã từng nói ngày trước Ta là hoàng đế Phi hành, là vị Thánh đế sau cùng, tên Đại Khoái Kiến. Ta đã từng bảy lần gắn bó với vùng đất này. Lần đây nữa là thứ tám. Nay ta đã thành đạo, không còn thọ thân nữa để phải an táng trong đất. Cám ơn phụ vương của ngươi, cảm phiền Thái tử.”

Thái tử im lặng trở về cung ra mắt vua cha trình bày rõ sự việc. Nhà vua kinh ngạc, rơi lệ tiếc thương, rồi ra lệnh cho dân chúng trong nước hãy đến chỗ Phật để thọ giáo pháp giác ngộ. Vua lại sai người ấn định giờ giấc để đến chỗ đức Phật. Vua cùng với mười bốn vạn người tề tựu đông đủ bên ngoài chỗ đức Phật. Nhà vua thưa với tôn giả A-nan:

“Tôi cùng với mười bốn vạn dân muốn đến xin thọ giới của Phật.”

Tôn giả A-nan hướng về đức Phật nêu đầy đủ ý của vua. Đức Thế Tôn liền bảo:

“Thật tội nghiệp cho vua và dân chúng!”

Tôn giả A-nan thưa:

“Có thể nói với nhà vua như thế nào?”

Đức Phật đáp:

“Hãy khoan! Hãy để họõ lần lượt vào gặp ta”

Nhà vua cùng các bậc hiền giả cao đức trong nước đồng bước tới chỗ Phật. Tất cả đều cung kính đảnh lễ Phật rồi chấp tay mà đứng. Lúc này nơi phía trước đức Phật, chẳng có đèn đuốc gì cả. Đức Phật bèn phóng luồng hào quang từ giữa đảnh đầu, chiếu sáng đến hai ngàn dặm. Đức Phật cám ơn nhà vua và dân chúng của ngài đã khổ cực đến đây. Nhà vua kính lạy đức Phật và bạch:

“Đức Thế Tôn có những lời chỉ dạy gì để chúng con phụng hành?”

Đức Phật nói:

“Ta đã bảo sứ giả: Phật đã thuyết giảng kinh trong bốn mươi chín năm, quốc vương và chư vị hiền thiện đều tự chấp hành. Nhà vua hãy trở về hoàng cung. Vào lúc nửa đêm hôm nay ta sẽ nhập Niết-bàn. Vua và trăm quan, dân chúng không nên khóc lóc thương tiếc.”

Đức Phật lại bảo nhà vua:

“Ta thấy[165] có sanh tất phải có diệt vong, vậy khóc than để làm gì? Hãy dằn lòng mình xuống, theo đúng pháp, xa điều ác, tự thương thân mình, siêng năng tu điều đức, thân cận người hiền. Việc gì xảy đến hãy suy nghĩ kỹ, đừng nên tàn bạo. Mạng người khó được, phải thương yêu muôn họ. Kẻ sáng suốt thì quý trọng, kẻ ngu si thì ân xá. Thế gian có nhiều điều tà vạy, hãy tự thương mình, hãy tự làm tốt cho mình.”

Nhà vua và các bậc hiền đức đều xin cáo từ.

Nhà vua ra đi cách chỗ đức Phật năm dặm thì cho binh lính dừng lại.

Trong nước này có vị cao niên, thọ một trăm hai mươi tuổi, tên Tu-bạt[166]. Bây giờ đang đêm khuya, ông chợt thức giấc vì thấy hào quang của Phật chiếu sáng cả thành. Nhà lại không có ai, ông liền đi ra khỏi thành bước nhanh về chỗ đức Phật, thưa với tôn giả A-nan:

“Vì tôi mới được nghe biết về việc đức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn, tâm tôi có chỗ nghi ngờ muốn được nêu bày với đức Thế Tôn.”

Tôn giả A-nan đáp:

“Đã gần nửa đêm, Phật sắp vào Niết-bàn, chớ nên làm phiền Ngài.”

Tu-bạt thưa lại:

“Vậy tôi không thể được lãnh hội gì chăng? Tôi nghe nói hàng vô số kiếp mới có một đức Phật ra đời. Nay tôi đến đây là để thưa hỏi về chỗ còn nghi ngờ mà chỉ có đức Phật mới giải thích được.”

Tôn giả A-nan bảo:

“Thôi đi, không nên hỏi nữa.”

Đức Phật biết Tu-bạt đang ở bên ngoài muốn thưa hỏi về chỗ nghi ngờ, nên gọi tôn giả A-nan:

“Sao lại không cho Tu-bạt vào để nêu bày về chỗ còn nghi ngờ ấy?”

Tôn giả A-nan thưa:

“Con thấy đã gần nửa đêm, Phật sắp diệt độ, con sợ ông ta vào chỉ làm phiền cho Phật. Nay Ngài sắp bỏ Dục giới ba cõi để nhập vào cõi Vô vi.”

Đức Phật dạy:

“Hãy để cho ông ấy vào.”

Tôn giả A-nan liền đưa Tu-bạt vào. Biết mình được vào gặp Phật, ông ta vô cùng sung sướng, toàn thân rung động, bước đến trước đức Phật, cung kính đảnh lễ. Đức Phật thấy Tu-bạt tuổi cao, hơi thở yếu ớt, bèn chỉ ghế bảo ngồi. Đức Phật hỏi Tu-bạt:

“Ông có những nghi ngờ gì?”

Thưa:

“Đức Phật là vị Trời trên các Trời trong ba cõi, thần thánh không thể lường được, là đấng Chí Tôn không gì sánh bằng; đã khai thị giáo hóa, dẫn dắt muôn loài trong bốn mươi chín năm, Tiên thánh, Phạm vương, Đế Thích không ai là không kính lễ. Con có tám người đồng chí hướng, đó là Cố-quy thị, Vô-tiên thị, Chí-hành thị, Bạch-lộ-tử thị, Diên-thọ thị, Kế-kim-phàn thị, Đa-tích-nguyện thị và Ni-kiền Tử[167]. Đó là tám người thuộc loại có trí tuệ, nhưng đấy chỉ là thứ ánh sáng yếu ớt, khéo che đậy cuộc sống sung mãn, râu tóc tuy mượt mà nhưng trong lòng chứa đầy ba độc, bên ngoài thì chạy theo dục lạc, ngồi lại thì bàn toàn chuyện xa vời, thư tịch hư dối, nói điều không thật, chẳng đưa đến chánh đạo, vậy đó là duyên gì?”

Đức Phật bảo Tu-bạt:

“Ý nghĩa nơi kinh của họ trái với kinh của Phật. Đó là con đường sanh tử, chỉ là để mong cầu phú quý. Chí của đạo ta là dứt mong cầu, niệm Không, không dua theo vinh hoa của thế gian, thanh tịnh vô vi, lấy điều ấy làm vui.”

Tu-bạt thưa:

“Sao gọi là đạo Vô vi?”

Đức Phật dạy:

“Diệt trừ mọi hệ lụy của sinh tử trở về cội nguồn, không còn bị sanh tử nữa, đó là Vô vi. Chí hướng của những người kia đều có tám thứ ác. Những gì là tám? Đó là Thờ cúng quỷ thần, bói quẻ, dối trá giết hại, đó là một.

“Đối với những người trong gia đình thì tham lam keo kiệt, không phụng thờ đạo hiếu, tham ái đủ thứ một cách tà vạy mà dục vọng vẫn chưa dừng. Đó là thứ hai.

“Nói hai lưỡi; nói lời ác độc, mắng nhiếc; nói dối, nói thêu dệt, chưa từng nêu bày điều thiện khiến cho kẻ ngu si bỏ điều ác. Đó là thứ ba.

“Sát sanh, trộm cắp, dâm dật. Đó là thứ tư.

“Thường ôm lòng oán hận, bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn anh em, vợ con, dòng họ, tâm tà vạy làm điều ô uế, không khéo giáo hóa, dẫn dắt, thường tự kiêu, tự đại muốn cho người ta sợ mình, kính mình. Đó là thứ năm.

“Ngày đêm ôm lòng tà, không sợ pháp luật, khinh chê bậc hiền thiện, tôn quý kẻ ô trược, xa lìa người chơn chánh, giao thiệp với người ác. Đó là thứ sáu.

“Nghe nói có bậc hiền trí, Sa-môn, Phạm chí hiểu kinh thì hoài nghi, ganh ghét, hủy báng một cách hư ngụy. Đó là thứ bảy.

“Không tôn kính tiên tổ và hết lòng hiếu thảo với cha mẹ; không tôn kính bậc hiền minh mà dua theo kẻ phản tặc; hủy bỏ điều nhơn từ chơn chánh; mê muội chạy theo thế tục ô trược, đáng xấu hổ. Đó là điều ác thứ tám.

“Ông tự nói rõ ra rằng đức Thế Tôn thuyết giảng kinh bốn mươi chín năm, mà tám người ấy không đến để mong được giáo hóa. Họ là những người ôm giữ tám điều ác này, há lại thích được giáo hóa theo con đường thanh tịnh sao? Nếu họ có chính thức đến thì Phật cũng nhổ sạch tám sự xấu ác ấy trong tâm của ông. Vậy hãy thận trọng chớ có hỏi Phật. Nếu giữ tám giới này[168] thì có thể chứng được bốn đạo Câu cảng, Tần lai, Bất hoàn, Ứng chơn[169]. Thực hành tám giới này thì tâm mình phải chơn chánh, đó mới là Phật tử. Nếu có kẻ phàm phu chuyên làm bậc thầy dẫn đường, đứng đầu việc giáo hóa mà phạm tám giới này thì đều là kẻ yêu tinh, độc hại, hãy nên xa lánh, từ bỏ, cẩn thận chớ nghe lời dụ dỗ[170].”

Đức Thế Tôn bảo:

“Nay Ta ở trong ba cõi, chỉ một mình, giảng nói và hành hóa chánh pháp không có người thứ hai sánh bằng. Nếu có điều gì còn nghi ngờ cứ hỏi, đừng ngại.”

Tu-bạt quỳ mọp, cúi đầu, bạch:

“Đúng như Phật nói. Con gần như để mất thân mình, lại còn rơi vào nẻo ngu si, cuồng loạn.”

Đức Thế Tôn lại nói:

“Ông đã hiểu tám giới này chưa?”

Thưa:

“Đã hiểu.”

Ông lại cúi đầu thưa:

“Con muốn từ bỏ cái chí thấp kém của mình để xin giữ lấy hạnh thanh tịnh của hàng Sa-môn.”

Đức Thế tôn lại nói:

“Ông thành tâm chăng?”

Thưa:

“Mong Phật rũ lòng thương xót, cho con được làm Sa-môn.”

Râu tóc Tu-bạt liền tự rụng xuống đất, mình đắp ca-sa, tâm dốc suy tư về điều Phật dạy, bỗng nhiên dứt hết mọi tưởng niệm, nhất tâm thanh tịnh, giống như hạt ngọc minh nguyệt, liền đạt đạo quả Ứng chơn. Ông lại tự suy nghĩ:

“Ta không nên để Thầy ta nhập Niết-bàn trước.”

Ngay khi đó ông liền nhập Niết-bàn.

Đức Phật gọi các Tỳ-kheo vào nói:

-Sau khi Ta diệt độ, nếu có người thế tục bỏ nhà, dứt trừ mọi cấu nhiễm, muốn làm Sa-môn, gia nhập vào hàng ngũ Tỳ-kheo tăng, trước hết phải thử thách trong ba tháng để biết chí nguyện của kẻ ấy cao hay thấp[171].

“Ở thế gian có bốn loại người: Một hạng nghèo khổ không thể tự sinh sống được, nên muốn làm Tỳ-kheo. Một hạng bị nợ nần không thể trả được cho nên muốn làm Tỳ-kheo. Một hạng đang ở trong quân đội, nhưng lúc đó không cần thiết nữa, cho nên muốn làm Tỳ-kheo. Một hạng là bậc cao sĩ đức hạnh thanh tịnh, nghe rằng trong vô số đời mới có một đức Phật xuất hiện, lại được xem kinh điển của Phật, vô cùng vui mừng, tâm đã thức tỉnh, bỏ nhà, bỏ dục, không ham sự vinh hoa của thế gian, để làm Tỳ-kheo.

“Sau khi Ta nhập Niết-bàn rồi, hễ có người đến xin xuất gia tu tập hãy xem chí hướng của người ấy, nhìn xem lúc ngồi lúc đứng, để ý về lời nói, quán sát lúc đi bộ, biết được hành động kẻ ấy hướng về thiện hay ác, dụng tâm cầu đạo có thích tinh tấn không? Xét kỹ trong ba tháng, nếu thấy kẻ ấy chí cao, hạnh thanh tịnh, có thể thưa chúng cho làm Tỳ-kheo. Thân đã làm Tỳ-kheo rồi phải chọn bậc kỳ cựu thông tỏ giới luật để làm thầy. Thọ trì mười giới[172], tuân giữ giới trong ba năm, siêng năng không biếng trễ, các bậc hiền thiện đều có thể chấp nhận trao cho vị ấy hai trăm năm mươi giới[173], mười giới là căn bản, hai trăm bốn mươi giới là lễ nghi. Nếu ở đời sau này dốc thi hành pháp ấy thì trời, thần các bậc đều luôn cung kính, hoan hỷ. Đối với giới pháp của Phật, các Tỳ-kheo phải suy tư thật kỹ, không được cho là Phật đã nhập Niết-bàn rồi thì sinh lười biếng, làm điều trái với pháp. Những việc làm của đức Phật, các đệ tử phải nên nhớ nghĩ, lãnh hội, kẻ lớn người nhỏ kính nhường lẫn nhau, không được làm trái đạo nghĩa. Nếu ai không ưa thích đắc đạo, ham chuộng sự tôn vinh thì nên đọc kinh này. Ai muốn cầu sống lâu, muốn sanh lên cõi trời hãy đọc kinh này. Nhưng chủ đích quan trọng nhất của đức Phật là hướng về đạo giải thoát. Sau khi ta nhập Nê-hoàn, đừng để vì Phật mất rồi mà nói là không có chỗ nương tựa. Hãy nương tựa vào giới, kinh. Sau khi ta nhập Nê-hoàn rồi, hãy tôn kính cúng dường lẫn nhau. Hãy xem kinh, thờ giới, giữ hai trăm năm mươi giới, nên thay nhau cung kính phụng trì, giống như con hiếu thảo phụng sự cha mẹ. Những Tỳ-kheo trưởng thượng phải dạy cho kẻ hậu học, giống như lúc ta còn tại thế. Hàng Tỳ-kheo đi sau nếu bị bệnh tật thì các Tỳ-kheo kỳ cựu phải lưu tâm săn sóc, thăm hỏi tin tức. Người đọc giáo lý, hiểu giáo lý, hãy dạy bảo trong sự hòa thuận, nên dốc thọ trì giới của Phật, để đạo ta được trụ thế lâu dài.

“Ta nhập Nê-hoàn rồi, hàng vợ con của các bậc hiền thiện, tìm hiểu, sau đấy thì nhớ nghĩ: ‘Đời của ta có Phật, có kinh điển vi diệu. Đức Phật ở thế gian vừa mới nhập Niết-bàn. Chúng ta đều có lòng chí hiếu đối với đức Phật, hết lòng đối với kinh.’ Những người ấy đến lúc mạng chung đều được sanh lên trời. Các ngươi đừng cho là Ta đã mất rồi thì không phụng hành kinh giới. Cẩn thận chớ có biếng trễ, kiêu mạn.

“Này các Tỳ-kheo, các ngưoi hãy nhìn kỹ dung mạo của Phật. Phật không dễ gặp được. Sau này mười lăm ức bảy ngàn sáu mươi vạn năm mới lại có Phật ra đời. Ở đời khó gặp Phật, kinh pháp khó được lãnh hội, chúng Tăng khó được nghe biết. Chỉ có Phật là khó thấy.

“Trong cõi Diêm-phù-đề có loại cây được tôn quý tên là Ưu-đàm-bát[174], có quả mà không hoa. Cây Ưu-đàm-bát hễ có hoa vàng thì thế gian mới có Phật ra đời. Ngay bây giờ ta sẽ Bát-nê-hoàn, các ngươi đối với kinh nếu có điều nghi ngờ gì thì đang lúc Phật còn tại thế sẽ giải thích cho. Nay các mối nghi không được giải tỏa thì về sau sẽ gây tranh cãi kéo dài. Đang lúc ta còn, hãy mau hỏi những chỗ còn hồ nghi.

Bấy giờ, tôn giả A-nan ở phía sau đức Phật, cúi đầu thưa:

“Từ lúc đức Phật chỉ dạy đến giờ, các Tỳ-kheo tăng không có nghi ngờ gì cả. Đệ tử tự nói: ‘Chúng con không có nghi ngờ gì đối với đấng Thiên trung thiên’.”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

“Đã gần nửa đêm, chớ nên gây tiếng động.”

Đức Phật liền đứng dậy, ngồi thẳng, suy tư một cách sâu xa về nguồn đạo, bỏ mọi thiện ác cả trong ba cõi. Ta nay tuổi đã hơn bảy mươi chín, chỉ đoạn trừ sanh tử, hố thẳm của nẻo luân hồi, tư duy quán sát một cách sâu xa, từ Tứ thiên vương, lên đến Bất tưởng nhập, từ Bất tưởng chuyển trở về nơi thân, tự suy tư về thân bốn đại hiện rõ sự xấu ác, chẳng có gì là quý giá[175].

Đầu đức Phật quay về hướng Bắc, co tay làm gối, nằm nghiêng về hông bên hữu, hai gối chồng lên nhau, liền nhập Bát-nê-hoàn. Đất trời chấn động mạnh. Chư thiên rải hương hoa, than khóc thương tiếc: ‘Đấng pháp vương đã diệt độ, chúng ta biết nương tựa vào ai?’

Quốc vương cùng bốn mươi vạn dân chúng nghe tin hầu như đều ngất xỉu, hướng về chỗ Phật mà than khóc: ‘Chúng sanh bị suy tổn lớn, sao mà đau đớn đến nỗi này!’ Có người chết giấc rồi sau mới tỉnh lại.

Vua Đế Thích thứ hai bảo chư thiên: ’Đức Phật thường dạy đã sanh ra thì không ai là không chết! Các vị hãy nhớ nghĩ đến chơn lý: vô thường-khổ-không-vô ngã, đừng có than khóc nữa.’

Vị thiên vương thứ bảy cũng hiện xuống bảo: ‘Hào quang của Phật đã tắt. Đức Phật còn phải xả bỏ thân, các vị thì mong cầu cái gì? Khóc thương thảm thiết như vậy cũng chẳng được chi cả.’

Các Tỳ-kheo thì vật vã trên mặt đất gào khóc cùng nói: ‘Con mắt của ba cõi sao mà tắt nhanh thế? Từ nay về sau, thế gian sẽ tăm tối mãi.’

Người thì đứng khóc, có người không dám nhìn vào thi thể của đức Phật, có người suy nghĩ một cách sâu xa: Lúc Phật còn tại thế thường dạy: ‘Hễ có sanh thì có tử, khóc lóc cực thân như vậy đâu có lợi gì cho việc hiểu rõ giáo pháp.’

Tỳ-kheo A-na-luật [176] bảo tôn giả A-nan:

“Thôi đi! Này các Tỳ-kheo, không ai bảo các vị phải than khóc. Cả nhà vua và trăm quan, dân chúng, cả chư thiên trên trời, xin hết thảy chư vị đừng quá buồn sầu xúc động nữa.”

Tôn giả A-nan thưa:

“Hãy nhìn chư thiên trên trời xem thử có bao nhiêu vị?”

Tôn giả A-na-luật nói:

“Trong chu vi bốn trăm tám mươi dặm, trước sau nối tiếp nhau đều là các vị chư thiên tôn quý. Nếu dùng một cây kim nhỏ ném lên trời thì cây kim ấy cũng không có chỗ để rơi xuống đất.”

Tôn giả A-na-luật khuyên chư thiên đừng sầu não nữa, nhưng chư thiên càng đau lòng gấp bội. Tôn giả A-na-luật nói với tôn giả A-nan:

“Đức Phật không bảo chúng ta làm công việc khâm liệm. Tôn giả hãy đến báo cho các Thệ tâm, Lý gia biết: ‘Chúng ta có thể tẩm liệm nhục thân của đức Thế Tôn được, nhưng đức Thế Tôn có bảo hãy để các Thệ tâm, Lý gia lo liệu công việc đó, sau này khỏi phải ân hận’.”

Tôn giả A-nan liền đến chỗ các Thệ tâm, Lý gia thuật lại sự việc như vậy. Các Thệ tâm, Lý gia khóc lóc thưa:

“Đức Thế Tôn diệt độ, chúng con hầu như bơ vơ, hàng hiểu biết lúc nào cũng một lòng gắn bó với đức Thế Tôn.”

Có năm trăm người đến chỗ đức vua tâu:

“Xin cho chúng tôi được quyền an táng trọng thể đức Thế Tôn.”

Nhà vua nói:

“Đức Phật mất rồi, chúng sanh cô độc! Nên giữ tâm hòa thuận, đừng tranh chấp, hãy giữ lòng hiếu thảo. Đức Phật luôn thương xót các người con của Ngài; luôn khiến cho tất cả được hưởng phước vô lượng.”

Nhà vua nói như vậy, khiến ai cũng nghẹn ngào nức nở. Các Lý gia và dân khiêng kim sàng của Phật vào thành vua. Chư thiên dùng lọng báu trang nghiêm che phía trên giường. Cờ phướn dẫn đường, hương hoa xen lẫn các thứ báu vật rơi xuống như tuyết. Mười hai loại nhạc đều cùng tấu lên, Trời, Người, Rồng, Quỷ chẳng ai là chẳng thương tiếc. Lý gia thưa:

“Lúc còn tại thế, đức Thế Tôn có bảo cách thức khâm liệm thi thể của Ngài như thế nào?”

A-nan đáp:

“Lúc Phật còn tại thế đã dạy: ‘Nên khâm liệm nhục thân của Ngài theo cách thức an táng hoàng đế Phi hành. Đối với đức Phật còn hơn thế nữa’.”

Lý gia thưa:

“Phương pháp khâm liệm hoàng đế Phi hành thì như thế nào?”

Đáp:

“Dùng dạ mới quấn chặt quanh thân; dùng vải kiếp-ba mới quấn thêm một lớp nữa, rồi đặt vào trong quan tài bằng bạc. Dùng dầu thơm rảy lên thân, lấy lọng báu che ở trên. Dùng hương chiên-đàn, củi mật hương, củi cây tử, củi cây chương chất ở phía trên dưới quan tài, bốn mặt cao rộng đều ba mươi trượng, rồi đốt lửa lên để trà-tỳ[177]. Mười hai thứ âm nhạc cùng lúc hòa tấu, dùng hoa thơm tươi tốt tung rải trên cao. Trà-tỳ xong, thu lấy xá lợi, loại bỏ tro tàn, dùng nước hoa thơm rửa thật sạch, bỏ trong bát vàng, để bát ấy trên giường bằng vàng, nên đặt trong cung, trai giới trên điện, xong chín mươi ngày thì chọn nơi ngã tư đường, dựng tháp, lập đàn tràng, treo cờ phướn, hoa hương, âm nhạc để cúng dường. Đó là phương thức an táng hoàng đế Phi hành. Đối với đức Phật thì phải hơn thế.”

Các Thệ tâm, Lý gia rơi nước mắt, thưa:

“Dạ vâng, chúng con sẽ làm đúng như lời dạy bảo sáng suốt ấy. Xin để trong bảy ngày.”

Các Lý gia đồng thưa với vua:

“Chúng thần muốn khâm liệm thánh thể của đức Thiên Tôn, kính mong vua chiếu cố.”

Vua đáp:

“Được.”

Lý gia rước cái giường vàng trên đặt kim quan của Phật, trở lại từ cửa thành phía Tây đi vào, để giữa thành trong bảy ngày. Lúc khâm liệm Ngài có đến ba mươi vạn dân chúng. Dân chúng dùng mười hai bộ nhạc tấu lên, ngày đêm thắp đèn sáng trưng khắp cả thành chu vi mười hai dặm, mỗi bước mỗi bước đều có đèn. Vua Đế Thích thứ hai đem theo mười vạn chư thiên, mang theo mười hai bộ danh nhạc của trời từ cõi trời Đao-lợi đến viếng đức Phật. Hoa hương, các thứ châu báu treo ở không trung, cách mặt đất ba dặm. Chỉ có một mình trời Đế Thích đi đến hỏi tôn giả A-na-luật:

“Đức Phật có dạy bảo gì không?”

Tôn giả A-na-luật thuật lại đầy đủ những lời đức Phật dạy cho Đế Thích. Trời Đế Thích thưa:

“Đã có đầy đủ các vật báu, kỹ nhạc, hoa hương để dùng cho việc liệm. Tôi muốn đứng ra lo việc an táng cho đức Phật, vậy có được không?”

Đáp:

“Để tôi hỏi lại đã.”

A-na-luật đem ý của trời Đế Thích nói với tôn giả A-nan. Tôn giả A-nan đáp:

“Khi Phật còn tại thế, Ngài không nói tới trường hợp chư thiên và quốc vương lo công việc khâm liệm. Ngài chỉ dành sự việc đó cho các Thệ tâm, Lý gia thôi. Vậy xin cám ơn các vị Phạm thiên, Đế Thích. Mong chư vị hiểu rõ ý Phật. Trời Đế Thích bèn cho chư thiên biết ý kiến của tôn giả A-nan.”

Chư thiên thưa:

“Bậc vua trời tôn quý của ta lo liệu công việc ấy một cách chu đáo, há không bằng người thế gian sao?”

Đáp:

“Không nên nói như vậy? Phải tuân giữ theo lời dạy của đức Thế Tôn, cẩn thận chớ làm điều không hay.”

Các Thệ tâm, Lý gia liền thưa:

“Chúng con tính nâng cái giường xá-lợi của đức Phật lên để đưa ra theo lối vào cửa thành phía Tây, nhưng cái giường ấy vẫn không nhúc nhích.”

Các Lý gia đồng thưa:

“Nếu cái giường không nhấc lên được thì làm sao đưa ra khỏi thành?”

Tôn giả A-nan hỏi tôn giả A-na-luật:

“Cái giường vì sao lại không nâng lên được?

Đáp:

“Chư thiên vì muốn được làm công việc khâm liệm nhục thân của đức Phật nên đã khiến cho cái giường không thể lay động.”

Tôn giả A-na-luật nói:

“Tôi sẽ nói cho Phạm, Thích cùng chư thiên biết.”

Tức thì tôn giả A-na-luật liền lên nói với Phạm, Thích:

“Tôn giả A-nan xin cám ơn ý muốn lo việc tống táng của chư thiên, nhưng việc này chính là ý của đức Phật.”

Phạm, Thích và chư thiên thưa:

“Chúng tôi đã mang theo dụng cụ cho việc tống táng đến đây, nên để cho chúng tôi lo việc phía phải, còn quốc vương và dân chúng thì ở phía bên trái kim sàng của đức Thế Tôn, dùng nhạc trời, hoa hương để tiễn đưa được không?”

Đáp:

“Tôi sẽ trở về báo lại.”

Tôn giả A-na-luật trở về, đem ý của chư thiên nói lại đầy đủ cho tôn giả A-nan. Tôn giả A-nan nói:

“Nếu họ muốn làm công việc khâm liệm thì rõ ràng là trái với lời dạy của đức Phật, nhưng vì lòng hiếu mà tiễn đưa thì được.”

Tôn giả A-na-luật liền báo cho Phạm, Thích biết ý kiến của tôn giả A-nan. Chư thiên đều hoan hỷ, liền hạ xuống đứng nơi phía bên phải kim sàng của đức Phật. Nhà vua và dân chúng thì đứng ở phía bên trái. Lý gia thưa:

“Có thể khiêng kim sàng của đức Phật ra cửa thành phía Tây không?”

Tôn giả A-nan đáp:

“Được!”

Thế là, phía bên phải, trước là Đế Thích, sau là Phạm vương. Phía trái thì trước là tôn giả A-nan, sau là quốc vương sở tại. Tất cả cùng đưa tay nắm lấy chân của kim sàng. Các Thệ tâm, Lý gia thì dùng lụa quấn nơi hai chân trước của kim sàng. Trời người cảm động xót thương cùng tiễn đưa. Chư thiên, rồng, quỷ thần rải hoa, các thứ báu, danh hương, kỹ nhạc, cờ phướn, lọng hoa tất cả đều đi theo sau. Vua và dân chúng cũng cúng dường đủ thứ như vậy. Bên trên thì trời người thương tiếc, ca ngợi công đức của Phật, dưới thì dân chúng tiếp tục hát những bài hát buồn. Trời, rồng, quỷ, thần, vua quan, dân chúng cùng một lúc bi ai, xúc động, đau lòng than: ‘Đức Phật diệt độ như vậy, chúng sanh biết nương cậy vào đâu?’

Đoàn tiễn đưa đi ra theo cửa thành phía Tây[178], đến điện Châu-lê-ba-đàn[179] có giảng đường lớn, họ để kim sàng của đức Phật ở trên giảng đường. Các Thệ tâm, Lý gia, như lời chỉ dạy để lại của đức Phật, dùng gấm mới quấn quanh nhục thân, lấy vải kiếp-ba một ngàn tấm quấn chéo nhau ở phía trên, rồi bỏ vào trong cái quan bằng bạc, dùng dầu thơm rảy khắp thân Ngài, dùng lọng trời che ở trên. Các Lý gia cùng đưa kim quan xuống khỏi điện, để ở giữa sân, lấy củi chiên-đàn hương, củi mật hương, tử chương và củi chiên chất cao rộng ba mươi trượng. Trời, thần, quỷ, rồng, các vua quan, dân chúng đều lấy hoa hương tung rải trên củi. Lý gia đốt củi, lửa vẫn không cháy. Họ hỏi tôn giả A-na-luật:

“Vì cớ gì mà lửa đốt không cháy?”

Đáp:

“Có bậc đệ tử kỳ cựu của đức Phật là tôn giả Đại Ca-diếp, đi khắp nơi để giáo hóa, nay đang trên đường trở về. Tôn giả Đại Ca-diếp dẫn hai ngàn đệ tử cùng với chư thiên nhiều vô số, tất cả đều muốn được nhìn thấy đức Phật một cách trọn vẹn, vì vậy nên khiến lửa không cháy.”

Lý gia thưa:

“Xin vâng theo lời dạy, chờ tôn giả Đại Ca-diếp.”

Lúc này, Đại Ca-diếp đang cùng bốn chúng đệ tử, mỗi chúng là năm trăm người, tạm nghỉ mệt trên con đường trở về.

Có kẻ dị học tên là Ưu-vi[180], từ chỗ đức Phật đi đến, tay cầm một cành hoa trời, tên là Mạn-đà-lặc[181], thấy tôn giả Đại Ca-diếp cùng với hai ngàn đệ tử theo sau. Ưu-vi đến trước tôn giả Đại Ca-diếp đảnh lễ, chào hỏi. Tôn giả Đại Ca-diếp hỏi:

“Ông từ đâu đi đến đây?”

Thưa rằng:

“Tôi từ nước Na-kiệt đến.”

Tôn giả Đại Ca-diếp hỏi:

“Ông có biết đức Phật là bậc Đại sư của tôi chăng?”

“Vâng, tôi có biết. Ngài đã diệt độ cách nay bảy ngày. Tôi ở chỗ đó nên có được cành hoa trời này.”

Bấy giờ, các đệ tử có người chưa thấy được chân lý, nghe đức Phật diệt độ thảy đều kinh ngạc, hết sức đau buồn than: ‘Tại sao lại như vậy? Chúng sanh biết nương cậy vào ai?’ Có người đã thấy được chơn lý, đã hiểu một cách sâu xa lời dạy của đức Phật, thì nói: ‘Thế gian đều là vô thường, mọi sự thương yêu đều như huyễn mộng, có ai sống mãi đâu!’

Trong chúng Tỳ-kheo có một vị Tỳ-kheo tuổi cao nhưng tâm trí lại tối tăm, không đạt được Thánh ý, thấy chúng Tỳ-kheo đau lòng, xúc động như vậy thì đứng lại và nói:

“Xin chớ buồn sầu nữa! Lúc đức Thế Tôn còn tại thế, lúc nào cũng răn dạy cấm đoán: đây là điều phi pháp, kia là điều phi nghĩa. Thọ trì cái này, làm như vậy là không trái phạm. Nay Thế Tôn đã qua đời thì chúng ta được tự do, há lại không thích thú sao?”

Chúng Tỳ-kheo đều cho lời nói như vậy là sai, nên cùng nhau thưa với trời. Trời bèn nắm Tỳ-kheo già ấy bỏ ra ngoài chúng. Tôn giả Đại Ca-diếp bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy lên đường gấp.”

Bốn chúng đệ tử, vô số trời, người đều buồn khóc mà đi, cùng đến chỗ đức Phật, nhiễu quanh điện ba vòng, cung kính đảnh lễ, đau đớn thương tiếc. Tôn giả Đại Ca-diếp nhìn thật kỹ vào kim quan của đức Phật, trong lòng tự nghĩ: ‘Ta trở về trễ, không thấy được Thầy ta. Chẳng biết đầu, chân của đức Thế Tôn ở chỗ nào?’ Đức Phật bèn đáp lại bằng cách duỗi hai chân ra ngoài. Tôn giả Đại Ca-diếp liền áp nhẹ đầu mặt mình vào chân đức Phật, ca ngợi công đức của đức Phật bằng bài kệ:

Ngài vì không ‘sanh, già’,

Và cũng không ‘già, chết’;

Ngài vì không tụ hội,

Không cùng kẻ ghét chung;

Ngài cũng vì không để

Yêu thương mà ly biệt;

Nên mới cầu phương tiện,

Để đạt đến chỗ này.

Ngài vì năm ấm này,

Rốt ráo không tái thọ;

Cũng không còn tạo tác,

Để thọ năm ấm ấy.

Vì chấm dứt khổ đau,

Và trừ luôn gốc hữu;

Nên mới cầu phương tiện,

Khiến đạt được như vậy.

Phật vì đoạn thế gian,

Ái dục đã trừ sạch;

Nên gọi là Nhẫn nhục,

Bỏ phiền não thế gian.

Phật vì tự an lạc,

Cùng an ổn thế gian;

Cho nên con chấp tay,

Cung kính đảnh lễ Phật.

Pháp Phật đã giảng nói,

Là nguồn sáng thế gian;

Phật Chí Tôn chỉ nẻo,

An ổn không chướng ngại;

Cũng hóa độ muôn loài,

Khiến không còn già, chết.

Vì sao người thế gian,

Lại không thọ ân Phật?

Trăng sáng trên bầu trời,

Để phá tan đêm tối.

Mặt trời chiếu trên không,

Để soi sáng ban ngày;

Điện xẹt trên trời cao,

Để chiếu soi mây sáng.

Hào quang Phật chiếu ra,

Để sáng soi ba cõi;

Tất cả các sông ngòi,

Sông Côn-lôn hơn hết.

Tất cả vùng nước lớn,

Biển cả là lớn nhất;

Tất cả ngôi sao sáng,

Mặt trăng là sáng nhất.

Phật là mắt thế gian,

Tối tôn trong trời đất;

Phật vì cứu độ đời,

Vì ban bố phước đức;

Phật chỉ dạy, giáo hóa,

Đến nay đã phân minh.

Do vậy mà hôm nay,

Đệ tử Phật thọ, hành;

Tất cả trời và người,

Cung kính cùng đảnh lễ.

Tôn giả Đại Ca-diếp tán thán đức Phật xong, thì trời, thần, quỷ rồng, vua quan, dân chúng đều đảnh lễ nơi chân Phật. Sau đấy thì hai chân Phật thu vào kim quan trở lại. Trời, người, quỷ, rồng thấy vậy thảy đều nức nở, thương tiếc. Tôn giả Đại Ca-diếp và các Tỳ-kheo cùng nhau thăm hỏi, chia buồn. Các Thệ tâm, Lý gia bèn đốt lửa trà-tỳ. Chư thiên tung rải hương hoa, đều nói rằng: ‘Vì sao chúng sanh lại cùng khốn như thế này?’

Hào quang của đức Phật thường chiếu thẳng lên cõi trời thứ bảy là cõi Phạm thiên. Những chỗ tối tăm, khuất kín trong mười phương, nơi mà chúng sanh không nhìn thấy nhau được, nhờ hào quang của đức Phật cùng lúc sáng rực nên hân hoan nói: ‘Ánh sáng ở đâu thế?’

Các Lý gia bàn bạc, khi nhục thân của đức Phật đã cháy xong, họ liền lấy nước hoa rưới lên cho lửa tắt, rửa sạch xá-lợi, đựng đầy trong bát bằng vàng. Y trong và ngoài của đức Phật vẫn còn nguyên như cũ. Trong khi vải kiếp-ba quấn quanh thân Ngài đều cháy hết. Họ lấy bát chứa xá-lợi để trên kim sàng rồi đưa vào cung, đặt trên chánh điện. Trời người tung rải hoa, ca nhạc, đốt đèn đi bộ quanh thành, đèn thắp sáng trên mặt đất đến mười hai dặm. Tôn giả A-nan nói với tôn giả A-na-luật:

“Cám ơn các vị trời, rồng, xin chư vị hãy trở về nơi chốn của mình.”

Trời, rồng, quỷ, thần đều rơi nước mắt, thưa:

“Mặt trời, mặt trăng của ba cõi đã mất. Thế gian sẽ mãi bị tăm tối. Lễ an táng sắp dứt hay còn kéo dài trong bao lâu nữa? Dân chúng đông đảo như muốn đuổi gấp chúng ta đi. Vậy chúng ta làm gì bây giờ?”

Đáp:

“Dân chúng nhao nhao muốn dâng hoa hương, vậy chư vị nên tạm thời trở về, để dân chúng được giải bày tấm lòng của mình.”

Đế Thích hỏi tôn giả A-na-luật:

“Ngày nào thì sẽ dựng tháp của đức Thế Tôn?”

Tôn giả A-na-luật hỏi tôn giả A-nan. Tôn giả A-nan thưa:

“Sau chín mươi ngày, sẽ chọn ở giữa ngã tư đường dựng tháp, lập đàn tràng.”

Chư thiên đồng nói:

“Vì duyên cớ gì chờ đến chín mươi ngày?”

Tôn giả A-na-luật đáp:

“Bốn chúng đệ tử còn ở xa, họ đang vội vã trở về để mong được nhìn thấy xá-lợi của đức Phật.”

Bấy giờ, chư thiên cùng một lúc cung kính lễ bái. Đế Thích đi trước, chư thiên theo sau, nhiễu quanh chánh điện ba vòng, buồn khóc trở về.

Hai vạn Tỳ-kheo lo việc gìn giữ xá lợi của Phật. Lại cảm tạ quốc vương, xin vua trở lại cung. Vua và các quan lễ bái lần nữa buồn bã nhiễu quanh chánh điện ba vòng rồi trở về cung. Nhà vua bảo các phu nhân, thể nữ đều phải phụng trì giới cấm trong suốt chín mươi ngày. Các Thệ tâm, Lý gia cũng thực hành trai giới trong thời gian ấy. Dân chúng khắp bốn phương xa đều nghe đức Phật đã diệt độ.

Bốn chúng đệ tử ở nước Cưu-di[182], đều mang theo hương hoa để cúng dường. Ai nấy đều khóc thương sầu thảm, chật ních đường xá. Họ nhiễu quanh chánh điện ba lần, cúi lạy dưới đất, giậm chân thương tiếc, than thở: ‘Tại sao lại như thế này?’ Các vị vua ở cách xa trong vòng ngàn dặm thì cùng đi với Thái tử. Các vị vua ở ngoài ngàn dặm thì sai Thái tử đốc suất dân chúng cùng đi đến chỗ đức Phật, nhiễu quanh chánh điện, tiếc thương, dâng hoa hương cúng dường. Ai đến trước thì về trước, ai đến sau thì về sau.

Các Tỳ-kheo đồng hỏi tôn giả A-nan:

“Phương pháp an táng cúng dường xá-lợi như thế nào?”

Tôn giả A-nan đáp:

“Nên đi về hướng Đông, cách thành ba mươi dặm, ở đấy có thôn Vệ-trí[183], sẽ đến chỗ ngã tư đường trống trải lập tháp, dựng đàn tràng, lấy ngọc làm ngói, viên ngói mỗi bề rộng ba thước, tháp cao rộng mười lăm thước, xá-lợi đựng trong bát vàng để ngay chính giữa. Dựng tháp xong thì lập đàn, treo cờ phướn trên cao, thắp hương đốt đèn, quét sạch, rải hoa, dùng mười hai bộ nhạc, sáng tối tấu lên để cúng dường. Các Thệ tâm, Lý gia hãy cùng nhau lo hoàn thành bảo tháp để Phạm vương, Đế Thích, quỷ, rồng, vua quan và dân chúng tiễn đưa xá lợi Phật.”

Lý gia cung kính vâng lời, làm đúng như lời chỉ dẫn của tôn giả A-nan.

Tôn giả Đại Ca-diếp, các bậc A-la-hán và tôn giả A-na-luật cùng nhau bàn luận: Ba mươi vạn dân chúng, vua và các quan hiện tại khi mạng chung sẽ được sanh lên chỗ của Ngài Di-lặc[184] tại trời Đâu-thuật. Khi đức Di-lặc thành Phật, thuyết giảng kinh lần thứ nhất, có chín mươi sáu ức Tỳ-kheo chứng quả A-la-hán. Ngài Di-lặc sẽ thuyết giảng kinh cho các chúng sanh rằng: ‘Các thần thông này đều là của đức Phật Thích-ca Văn!’ Bây giờ làm tháp thì hãy treo cờ phướn, thắp hương, đốt đèn, thực hành đúng theo giới pháp của Phật, công việc này đều giao cho thanh tín sĩ và thanh tín nữ vậy.

Tôn giả Đại Ca-diếp và A-nan cùng các vị A-la-hán luận bàn tiếp: ‘Vua nước Cưu-di sau khi mạng chung sẽ sanh về đâu?’. Tôn giả Đại Ca-diếp nói:

“Vua nước ấy mạng chung sẽ sanh lên cõi trời thứ mười hai là Thủy vi[185]. Sau khi đức Di-lặc hạ sanh, thành Phật, ông ấy sẽ có tên là Tu-đạt[186], tạo dựng cung điện cho Phật Di-lặc, nhà giảng dạy đạo[187], như tinh xá Văn Vật[188], vườn Cấp-cô-độc. Y phục, thức ăn uống, thuốc men chữa bệnh luôn cúng dường đầy đủ cho Tỳ-kheo tăng.”

Tôn giả A-nan hỏi tôn giả Đại Ca-diếp:

“Quốc vương nước Cưu-di tại sao không ở chỗ đức Phật Di-lặc mà chứng đạo quả Ứng chơn?”

Tôn giả Đại Ca-diếp đáp:

“Tâm dục của vua ấy chưa nhàm chán đối với các khổ của sanh, lão, bệnh, tử, buồn sầu cho nên không đạt được đạo quả Ứng chơn vậy.”

Tôn giả Đại Ca-diếp nói với A-nan:

“Ai không nhàm chán đối với bao nỗi khổ, lo của sanh tử thì rốt cuộc chẳng chứng đắc đạo.”

Tôn giả A-nan nói:

“Tôi đã nhàm chán nó từ lâu rồi, tại sao không đắc đạo?”

Tôn giả Đại Ca-diếp đáp:

“Tôn giả chỉ vâng giữ giới luật mà không tư duy về trong, ngoài thân, tư duy về sự ô uế của thân chuyển biến theo dòng sanh tử nên chưa đạt được.

Có tám nước ở ngoài biên giới[189] nước Cưu-di nghe tin đức Phật đã diệt độ, xá-lợi hiện đang được lưu giữ tại nước Cưu-di, tức thì họ đều huy động quân binh kéo đến đòi chia phần xá-lợi. Vua nước Cưu-di nói:

“Đức Phật đã ngự tại nước tôi, nay Ngài đã diệt độ, thì tôi sẽ lo việc cúng dường. Các vị từ chốn xa xôi khổ nhọc tới đây mong được chia phần xá-lợi, điều đó không thể được.”

Tám vị vua kia đáp:

“Chúng tôi thành thật mong muốn được chia phần xá-lợi. Nếu ông không chia cho chúng tôi, chắc chắn chúng tôi phải ra lệnh cho quân binh chống cự để đoạt lấy.”

Trời Đế Thích thấy tám vị vua cùng nhau tranh cãi để được phần xá-lợi đem về nước cúng dường, liền hóa thành một vị Phạm chí tên là Truân-khuất[190], chấp tay đến trước chỗ tám vị vua để giải thích:

“Xin cho tôi nói một lời: Lúc đức Phật còn tại thế, các vua luôn phụng hành, tôn kính lời dạy của Ngài là phải luôn từ bi. Phàm là bậc chủ của muôn dân thì không nên tranh chấp mà nên thực hành bốn sự bình đẳng, chia đều xá-lợi của Phật ra, khiến cho các nước đều có bảo tháp, để khai mở sự tối tăm của dân chúng, giúp họ được biết có Phật, lấy đó làm giềng mối ngõ hầu đạt được phước đức lớn lao.”

Trời, thần, quỷ, rồng, các vua và dân chúng cùng nhau khen ngợi:

“Lành thay, Truân-khuất! Ngài đã rộng thí phước điền cho chúng sanh.”

Vậy là họ cùng nhau nhờ Truân-khuất chia xá-lợi ra làm tám phần bằng nhau. Truân-khuất tự lấy bát vàng của cõi trời, bên trong bát dùng đường mía[191] bôi lên để chứa xá lợi, mỗi vua một phần. Các vua được xá-lợi rồi thì buồn vui lẫn lộn, đều lấy hương hoa, cờ phướn bằng tơ năm sắc, thắp hương đốt đèn, sáng tối tấu nhạc. Truân-khuất cung kính xin số mật xá-lợi còn lại ở trong bình để đem về lập tháp thờ. Các vua đồng ý cho, ông liền bỏ xá-lợi vào bình. Bấy giờ có một đạo sĩ tên là Hoàn-vi[192] cũng đến chỗ vua để xin xá-lợi. Vua bảo:

“Đã phân chia hết cả rồi, hiện chỉ còn số cháy thành than, nên tự mình đến đó mà lấy.”

Ông đạo sĩ liền đến chỗ trà-tỳ lấy phần cháy thành than xong thì dùng hương hoa cúng dường. Lại có người ở vùng Già-ca-kiệt[193] cũng tới để xin xá-lợi. Nhà vua bảo là đã phân hết rồi, chỉ còn có phần tro thôi. Người ấy liền đến lấy phần tro kia thờ cúng trong chín mươi ngày.

Tôn giả Đại Ca-diếp, A-na-luật, Ca-chiên-diên cùng nhau bàn bạc: ‘A-nan theo hầu Phật rất lâu, riêng được gần gũi với đức Phật. Những gì đức Phật đã giáo hóa, nêu giảng, chỉ dạy rộng khắp, A-nan đều ghi nhớ kỹ trong tâm, không chỗ nào là không hiểu rõ. Chúng ta hãy nhờ A-nan đọc tụng lại pháp luật để đại chúng dựa theo đấy mà lãnh hội, ghi chép.’

Tỳ-kheo Tăng cũng cùng nhau bàn luận: ‘A-nan chưa chứng đạo quả sợ còn có tâm tham, che giấu những chỗ ý nghĩa vi diệu, không chịu nói hết.’

Có những Tỳ-kheo Tăng thì bảo: ‘Nên tạm lập ra một tòa cao, chư thánh vân tập, các vị Tỳ-kheo tăng nhân đó nêu câu hỏi, trên dưới ba lần, hỏi về chỗ cốt yếu của kinh thì mới có thể biết được sự thành thật.’

Vua nước Cưu-di lập bảo tháp để thờ Phật, lại xây phòng ốc, thiền thất rộng rãi đẹp đẽ để chứa ba ngàn Tỳ-kheo ở trong đó tụng kinh, tọa thiền. Nhà vua sai vị đại thần tên là Ma-nam đem ba ngàn binh lính luân phiên lo canh gác bảo tháp. Tôn giả Đại Ca-diếp và tôn giả A-na-luật cùng báo cho các Tỳ-kheo tăng là sẽ kết tập kinh luật của Phật là bốn bộ A-hàm. Tôn giả A-nan theo hầu Phật, một mình luôn được gần gũi với đức Phật. Đức Phật vì sự phóng túng không biết kiềm chế của chúng sanh nên tạo ra một bộ A-hàm; vì những người hung dữ nóng giận, bội nghịch, nên tạo ra một bộ A-hàm; vì hạng người ngu si tăm tối, xa lìa đường chánh nên tạo ra một bộ A-hàm; vì những người bất hiếu với cha mẹ, xa lìa các bậc hiền thiện, không ghi nhớ ân sâu của Phật nên không lo báo đền, do đó tạo thành một bộ A-hàm.

Chúng Sa-môn thưa:

“Chỉ có tôn giả A-nan là bậc biết rõ về bốn bộ A-hàm, cho nên phải nhờ tôn giả đọc tụng.”

Tôn giả Đại Ca-diếp nói:

“Tôn giả A-nan chưa chứng đạo quả, sợ còn có ý tham không nói hết các kinh.”

Chúng Tỳ-kheo thưa:

“Hãy đem việc trước đây để chất vấn tôn giả A-nan. Nên mời tôn giả A-nan lên chỗ ngồi cao, các bậc hiền thiện ở dưới nêu hỏi về kinh.”

Mọi người đều nói:

“Lành thay! Rất hợp với việc lớn.”

Các Sa-môn trị sự liền họp thánh chúng giục tôn giả A-nan ra mắt. Thánh chúng đều an tọa, mời tôn giả A-nan tiến lên mau. A-nan bước lên, cung kính đảnh lễ Thánh chúng.

“Người nào được quả Ứng chơn Sa-môn thì vẫn ngồi như cũ. Người nào chưa đắc quả Ứng chơn thì hãy đứng dậy.”

Sa-môn trị sự mời tôn giả A-nan lên ngồi trên tòa cao ở chính giữa. A-nan từ chối, nói:

“Đó không phải là chỗ ngồi của tôi.”

Thánh chúng đều nói:

“Vì để đọc tụng kinh Phật nên mời tôn giả ngồi ở chỗ ấy, nhằm nói lại giáo pháp tối thượng của đức Phật mà ngài được lãnh hội cho chúng tăng nghe.”

A-nan liền ngồi. Chúng Hiền thiện hỏi:

“Tôn giả có bảy điều lỗi lầm, vậy tôn giả có biết chăng? Đức Thế Tôn lúc còn tại thế đã bảo: ‘An vui thay trong cõi Diêm-phù-đề!’ Vậy mà ngài vẫn cứ làm thinh không đáp[194].”

Vị Sa-môn trị sự gọi A-nan. A-nan liền đáp:

“Phật là bậc Thánh tôn vô lượng Chánh đẳng giác, há lại không được tự tại hay sao mà phải chờ tôi nói? Giả sử đức Phật còn trụ thế trong một kiếp, thì đức Di-lặc Chí Tôn làm sao mà sớm được thành Phật?”

Thánh chúng im lặng. A-nan thì không sợ hãi. Thánh chúng cùng nói:

“Xin ngồi lại chỗ cũ để biết giáo pháp mà ngài tuyên đọc tụng cùng với chánh pháp mà đại chúng được lãnh hội là giống nhau, không gì hơn là xin mời ngài ba lần lên tòa đọc tụng chánh pháp.”

Tôn giả A-nan ba lần xuống tòa, rồi lại lên tòa nói:

“Y-diệm ma tu-đàn. Y-diệm ma tu-đàn[195] là: ‘Tôi nghe từ Phật.’ Các Tỳ-kheo tăng nghe lời nói mở đầu của tôn giả A-nan: ‘Y-diệm ma tu-đàn’, ‘Tôi nghe từ Phật’, tất cả đều nghẹn ngào nức nở, nói: ‘Biết làm sao đây?’ Đức Phật mới đây vẫn còn tại thế mà nay lại nói: ‘Tôi từ Phật nghe như vầy.’

Trời, thần, quỷ, rồng, đế quan và muôn dân, bốn chúng đệ tử, không ai là không thương tiếc.

Tôn giả Đại Ca-diếp tuyển chọn trong chúng Hiền Thánh được bốn mươi vị A-la-hán[196], theo tôn giả A-nan để nghe tụng đọc về bốn bộ A-hàm: mỗi bộ A-hàm sáu mươi xấp lụa[197]. Chép kinh chưa xong, ở trong miếu thờ Phật tự nhiên sanh ra bốn cây danh mộc. Một cây tên là Ca-chiên, một cây tên là Ca-tỉ-diên, một cây tên là A-hóa, một cây tên là Ni-câu-loại[198].”

Các Tỳ-kheo tăng nói:

“Chúng ta đem tâm từ bi chép bốn bộ A-hàm, tự nhiên sanh ra bốn cây thần diệu. Bốn bộ A-hàm chính là cây đạo[199] của đức Phật. Do đó phải cùng nhau hết lòng giữ gìn. Giới của Tỳ-kheo tăng gồm có hai trăm năm mươi giới thanh tịnh. Giới của Tỳ-kheo ni gồm có năm trăm sự. Giới của Ưu-bà-tắc gồm có năm. Giới của Ưu-bà-di gồm có mười[200]. Khi chép kinh xong, các Tỳ-kheo tăng mỗi người phải tự thực hành kinh giới, cùng nhau trao truyền giáo hóa cho đến ngàn năm. Trong ngàn năm ấy, có người giữ đúng giới nên được ở chỗ của Phật Di-lặc là cõi trời thứ tư[201]. Đức Thế Tôn Di-lặc sẽ vì chư thiên giảng nói kinh pháp. Nay, trong chúng hội đều là những người trì giới của đức Phật Thích-ca Văn, tương lai sẽ sanh đến cõi ấy. Đức Phật Di-lặc nói: ‘Các vị hãy siêng năng tinh tấn thực hành đầy đủ những điều khó làm, nhiều ít cũng phải thọ trì giới luật. Sau khi Phật đã Nê-hoàn[202] hãy tạo tám miếu thờ[203]. Cái thứ chín là tháp thờ cái bình chứa xá-lợi. Cái thứ mười là tháp thờ phần xá-lợi vụn thành than, tháp mười một là tháp thờ tro dư.’

Kinh nói[204]: ‘Đức Phật đản sinh là ngày mồng tám tháng tư, ngày mồng tám xuất gia, ngày mồng tám đắc đạo, ngày mồng tám diệt độ. Ngài xuất gia học đạo, vào tháng sao Phất[205]. Ngài thành đạo vào tháng sao Phất. Ngài Bát Nê hoàn, vào tháng sao Phất[206].’ Cỏ cây đều sanh hoa lá, cây cối khắp cả nước đều lại xanh tốt um tùm. Đức Phật đã Bát-nê-hoàn rồi, vị Thiên trung Thiên của ba cõi, ánh hào quang đã tắt, tất cả muôn loài trong mười phương đều tự quy y Phật[207].”


Chú thích:

[140]. Bản Hán: Quyển hạ, No. 1(2) sđd.: ‘Du hành kinh đệ nhị’

[141]. Cưu-di-na-kiệt, 鳩 夷 那 竭; No. 2(2) sđd.: Câu-thi-na-kiệt, 拘 尸 那 傑; Pāli: Kusinagara.

[142]. Cưu-đối, 鳩 對; No. 1(2) sđd.: Câu-tôn 拘 孫.

[143]. Suối Hê-liên 醯 連; có lẽ là sông Hy-liên-thuyền (Pāli: Hiraññanavatī; xem cht. 99, quyển thượng). Nhưng, theo No. 1(2), giữa sông Câu-tôn (đây gọi là Câu-đối, xem cht.3) và chỗ Phật dừng chân có một con suối nước đục. Sông Hy-liên-thuyền còn cách xa một quãng nữa.

[144]. Nguyên văn: Đại thần danh Bào-mân, 大 臣 名 胞 罠; No. 2(2) sđd.: A-la-hán đệ tử danh viết Phúc-quý 阿 羅 漢 第 子 名 曰 褔 貴.

[145]. La-ca-diêm, 羅 迦 鹽; chính xác phải đọc là Ca-la-diêm, tên người thường biết với phiên âm là A-la-la Ca-la-ma (Pāli: Ālāra-Kālāma), vị đạo sĩ mà đức Thích Tôn đã từng đến tham vấn đạo sau khi Ngài rời cung vua. Trong bản Pāli, Pakkusa (tức Bào-mân ở đây) là đệ tử của Ālāra-Kālāma.

[146]. Ưu-đàm, 優 曇; No. 1(2) sđd.: A-việt, 阿 越; Pāli: Atuma .

[147]. Nguyên văn: hoàng kim chức thành điệp bố 黃 金 織 成 疊 (bộ mao 毛) 布.

[148]. No. 1(2): Phật uống nước, và tắm gội nơi sông Câu-tôn (Pāli: Kakutthā).

[149]. Chiên-đàn,栴 檀; No. 1(3) sđd.: Xiển-nộ 闡 怒, còn phiên là Xiển-đà, 闡 陀 hay là Xiển-na, 闡 那; Pāli: Channa; Skt: Chandaka, tức là Xa-nặc, 車 匿 nguyên quân hầu mã của Thái tử.

[150]. Hán: thất ý chi sự 七 意 之 事, tức bảy giác ý, cũng gọi là giác chi, hay bồ-đề phần (Pāli: satta sambojjhaṅgā), theo dịch ngữ thông dụng 1. niệm 念 (Pāli: satti), 2. trạch pháp 擇 法 (dhamma-vicaya) , 3. tinh tấn 精 進 (viriya) , 4. hỷ 喜 (pīti) , 5. khinh an 輕 安 (passaddhi) , 6. định 定 (samādhi), 7. xả 捨 (upekkhā).

[151]. Chính xác, đoạn văn mô tả trạng thái nghỉ ngơi của Phật, nhưng bản Hán dịch dài dòng và tối nghĩa. Tham chiếu Pāli: (…) sato sampajāno utthānasaññaṃ manasikaritvā, “chánh niệm, tỉnh giác, với ý tưởng ngồi dậy.”

[152]. Kiếp-tân, 劫 賓; No. 1(2) sđd.: không có tên cùng sự kiện này.

[153]. Diêm-kha-sa, 鹽 呵 沙, phiên âm, chỉ rừng sa-la song thọ, tức rừng cây sa-la mọc đôi. Pāli: yamaka-sālā.

[154]. Ưu-hòa-hoàn, 優 和 洹; No. 1(2) sđd.: Phạm-ma-na,梵 摩 那; Pāli: Upavāna.

[155]. So sánh với No. 1(2) và Pāli: Bấy giờ rất đông chư thiên muốn hầu Phật, nhưng vì uy lực của Tỳ-kheo này quá lớn che mất, khiến chư thiên không vào được. Vì vậy, Phật bảo Tỳ-kheo tránh ra.

[156]. Tức việc đó để cho các Bà-la-môn cư sĩ lo.

[157]. Phi hành hoàng đế, 飛 行 皇 帝 tức Chuyển luân Thánh vương 轉 輪 聖 王.

[158]. Các đô thị lớn, trù phú, thời Phật.

[159]. Cưu-di-việt-vương, 鳩 夷 越 王; No. 1(2) sđd.: Câu-xá-bà-đề, 拘 舍 婆 提; Pāli: Kusāvati.

[160]. Đại-khoái-kiến, 大 快 見; No.1(2) sđd.: Đại-thiện-kiến, 大 善 見; Pāli: Mahāsudassana.

[161]. Tu-đạt, 須 達; No. 2(2) sđd.: không có tên.

[162]. Hoàn thanh 桓 青, phiên âm của Vālahaka?

[163]. Hán: niệm không vô tướng chi định 念 空 無 相 之 定; chỉ ba môn giải thoát: không, vô tướng, vô nguyện.

[164]. A-thần, 阿 晨. nhân danh và sự kiện này bản No.1(3) sđd.: không có, mà chỉ có sự kiện dòng Mạt-la.

[165]. Hán: Ngô văn, 吾 聞.

[166]. Tu-bạt-đa-la, 須 跋 多 羅; No. 2(3) sđd.: Tu-bạt-đa-la, 須 跋 多 羅; Pāli: Subhadaparibbājaka , du sñ Subhada.

[167]. Danh sách các tông sư giáo tổ đương thời: Cố-quy-thị 故 龜 氏, Vô-tiên thị 無 先 氏, Chí-hành thị 志 行 氏, Bạch-lộ-tử thị白 鷺 子 氏, Diên-thọ thị 延 壽 氏, Kế-kim-phàn thị 計 金 樊 氏, Đa-tích-nguyện thị 多 積 願 氏 và Ni-kiền tử 尼 揵 子. Tham chiếu bản No. 1(3) chỉ có sáu vị, như các ông Phất-lan Ca-diệp ? 闌 迦 葉 (Pāli: Pūraṇa-Kassapa). Mạc-giá-lê Kiều-xá-lợi 末 伽 梨 憍 舍 利 (Paøli: Makkhali-Gosala ). A-phù-đà Sí-xá-kim-bạt-la 阿 浮 陀 翅 舍 金 拔 羅 (Pāli: Ajita-Kesakambalā ). Ba-phù Ca-chiên 波 浮 迦 旃 (Pāli: Pakudha-Kaccāyana ). Tát-nhã Tỳ-da-lê-phất 薩 若 毗 耶 梨 弗 (Sañjaya Belaṭṭhi-Putta). Ni-kiền Tử, 尼 乾 子 (Pāli: Nigaṇṭha-Nātha-Putta).

[168]. Theo bản No. 1(3) , đây Phật nói về tám Thánh đạo.

[169]. Còn gọi là Dự lưu 預 流, Pāli: Sotāpanna; Nhất lai; 一 來, Pāli: Sakadāgāmin; Bất hoàn 不 還 , Pāli: Anāgāmin; A-la-hán 阿 羅 漢, Pāli: Arahant. (dịch là Tu đà hoàn 須 陀 洹, Tư đà hàm 斯 陀 含, A na-hàm 阿 那 含, A-la-hán 阿 羅 漢.)

[170]. Đại ý, theo No. 1(2), và bản Pāli, Phật giảng cho Tu-bạt, vì các nơi khác không có tám Thánh đạo, nên không có các quả Thánh.

[171]. Đoạn này trái ngược với No. 1(2) và bản Pāli, theo đó, trước kia Phật quy định các tu sĩ ngoại đạo muốn xuất gia thị Tỳ-kheo, phải cho 4 tháng biệt trú để tìm hiểu tâm chí. Sau Phật Niết-bàn, quy định ấy nên bỏ.

[172]. Sa-di giới, 沙 彌 戒.

[173]. Tỳ-kheo giới, 比 丘 戒; cũng gọi là cụ túc giới 具 足 戒 (Upasaṃpadā).

[174]. Ưu-đàm-bát, 優 曇 鉢; hay Ưu-đàm-bạt-la,優 曇 跋 羅; Pāli: Udumbara; Skt. Uḍumbara, cũng gọi là hoa linh thụy.

[175]. Trên là quá trình xuất-nhập Thiền định trước khi đức Phật vào Niết-bàn. Tham chiếu bản No. 1(3).

[176]. A-na-luật, 阿 那 律; có thiên nhãn đệ nhất.

[177]. Nguyên văn: Xà-duy 蛇 維; No. 2(3) sđd.: Xà-duy 闍 維; hay trà-tỳ 茶 持 hỏa táng. Pāli: Jhāpetī.

[178]. No 1(3) sđd.: ra cửa Bắc.

[179]. Châu-lê-ba-đàn 周 黎 波 檀; No 2(3) sđd.: Thiên quan tự 天 冠 寺; hay Thiên quan miếu. Pāli: Makuṭa-(bandhana)-cetiya.

[180]. Hán: Hữu dị học giả danh Ưu-vi 有 異 學 者 名 優 為; No. 1(3) sđd.: Ngộ nhứt Ni-kiền Tử 遇 一 尼 乾 子.

[181]. Mạn-đà-lặc 曼 陀 勒; sđd.: Văn-đà-la 文 沱 羅; TNM: Mạn-đà-la 曼 陀 羅; Pāli: Mandarāva.

[182]. Cưu-di 鳩 夷 tức Cưu-di-na-kiệt.

[183]. Vệ-trí 衛 致; bản No. 1(3) không nói đến địa danh và chi tiết này.

[184]. Di-lặc 彌 勒; Skt. Maitreya.

[185]. Thập nhị Thủy vi thiên 十二 水 微 天, cõi trời thứ mười hai, tức phổ thông gọi là Quang âm thiên hay Cực quang thiên. Pāli: Ābhassara..

[186]. Tu đạt 須 達; Pāli, Skt.: Sudatta.

[187]. Hán: giảng thọ đạo đường 講 受 道 堂.

[188]. Văn vật tinh xá 聞 物 精 舍, có lẽ là Kỳ hoàn tinh xá 祇 洹 精 舍 (Pāli: Jetavana), được dùng để so sánh.

[189]. No 5, không liệt kê tên các nước. Tham chiếu bản No. 1(3): Ba-bà 波 婆 (Pāli: Pāvā), Giá-la-phả 遮 羅 頗 (Pāli: Allakapa), La-ma-già 羅 摩 伽 (Pāli: Rāmagāma), Tỳ-lưu-đề 毗 留 提 (Pāli: Veṭhadīpa), Ca-duy-la-vệ 迦 維 羅 衛 (Pāli: Kapila-vatthu; Skt. Capila-vastu), Tỳ-xá-ly 毗 舍 離 (Skt. Vaizāli), và Ma-kiệt 摩 竭 (Pāli, Skt. Magadha).

[190]. Truân-khuất 屯 屈; No. 1(3) sđd.: Hương tánh 婆 羅 門 香 性.

[191]. Hán: thạch mật 石 蜜.

[192]. Hoàn-vi 桓 違; xem cht. 54.

[193]. Già-ca-kiệt 遮 迦 竭; No. 1(3) chỉ nói người ở thôn Tất-bát 畢 鉢; bản Pāli nói người Moryā ở Pipphala . Các phiên âm và Pāli không gần nhau, nên khó xác định.

[194]. Buộc tội A-nan không khuyến thỉnh Phật trụ thế lâu hơn, dù Phật đã có gợi ý.

[195]. Y-diệm ma tu-đàn 伊 焰 摩 須 檀, phiên âm lời mở đầu các kinh, gần với Skt. hỗn chủng, hay Pāli: evaṃ me sutam, hơn là gần âm với Skt. tiêu chuẩn: evaṃ mayā śrutam. Hán dịch phổ thông: như thị ngã văn 如 是 我 聞.

[196]. Truyền thuyết trong các Luật tạng nói: năm trăm A-la-hán.

[197]. Hán: lục thất sất tố 六 十 疋 素, “sáu chục xấp lụa.” Khết tập lần đầu bằng khẩu truyền, chưa chép thành căn tự; cho nên Hán dịch ở đây không chính xác. Có thể hiểu: mỗi bộ A-hàm nguyên thủy được tập thành gồn 60 tụng, tức 60 lần đọc mới hết. Truyền thuyết các bộ phái không giống nhau.

[198]. Ca-chiên 迦 栴, Ca-tỉ-diên 迦 比 延, A-hóa 阿 貨, Ni-câu-loại 尼 拘 類. Hai cây đầu, chưa xác định được. A-hóa, phiên âm của Skt. Azvattha (Pāli: assattha ), một cây cung, tên khoa học Ficus Religosa; đức Thích Tôn thành đạo dưới cây này, nên cũng được gọi là cây Bồ-đề. Ni-câu-loại, Pāli: nigrodha, cây bàng; Phật Ca-diếp thành đạo dưới cây này; xem No. 1(1).

[199]. Hán: đạo thọ 道 樹, tức cây bồ-đề.

[200]. Nguyên văn: Ưu-bà-di giới hữu thập 優 婆 夷 戒 有 十 (?) , Hán dịch này có sự nhầm lẫn. Có lẽ mốn nói là giới của sa-di.

[201]. Tầng trời thứ tư của Dục giới, chỉ trời Đâu-suất.

[202]. Trong bản Hán: nê-viết 泥 曰.

[203]. Nguyên Hán: tông miếu 宗 廟.

[204]. Trong bản: Kinh viết, 經 曰

[205]. Nguyên Hán: Phất tinh 沸 星; Skt. puṣya(-nakṣatra), tương đương sao Quỷ trong nhị thập bát tú. Tháng sao Puṣya, hay tháng Pauṣsa tương đương khoảng tháng 12-Giêng dương lịch.

[206]. Tham chiếu No. 2(3) sđd.: Phật sinh giờ nào? Thành đạo giờ nào? Diệt độ thời nào? Sinh khi sao Phất mọc. Xuất gia khi sao Phất mọc. Thành đạo khi sao Phất mọc.

[207]. No. 5, đoạn văn từ: Quốc vương cùng bốn mươi vạn dân chúng nghe tin hầu như ngất xỉu, cho đến tất cả muôn loài trong mười phương đều quy y Phật. Đây là những sự kiện xảy ra sau khi Phật vào Niết-bàn: Từ vua quan sĩ thứ thương khóc xót xa cho đến những bài kệ tán thán của chư thiên các cõi đối với ân đức công hạnh của Phật đối với chúng sanh ba cõi, cùng những sự kiện sắp xếp dự liệu cho việc Trà-tỳ làm sao cho đúng pháp, cho đến mọi sự kiện khác xảy ra quanh việc chia phần Xá-lợi cho các nước phụng thờ giữa hai bản trên những sự kiện chính thì đồng, nhưng về cách diễn tả sự kiện chi tiết thì không giống nhau. Đôi khi bản này có sự kiện này mà bản kia lại không và ngược lại, hay những sai khác nhau về nhân danh địa danh quốc độ vào lúc bấy giờ giữa hai bản như những chú thích đã ghi lại ở trên.

    Xem thêm:

  • Kinh Pháp Bảo Đàn (Đôn Hoàng) - Kinh Tạng
  • Truyền Tâm Pháp Yếu Của Thiền Sư Hoàng Bá - Kinh Tạng
  • Kinh Phật dạy Lão Bà La Môn Ở Vườn Hoàng Trúc - Kinh Tạng
  • Kinh Mộc Hoạn Tử - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 18 – Kinh Mật Hoàn (Madhupindika sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nê Hoàn - Kinh Tạng
  • Kinh Bát Nê Hoàn - Kinh Tạng
  • Kinh Hoằng Đạo Quảng Hiển Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim - Kinh Tạng
  • Bá Trượng Hoài Hải Thiền Sư Quảng Lục - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cương Tam Muội Bản Tính Thanh Tịnh Bất Hoại Bất Diệt - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 2 – Kinh Tất Cả Các Lậu Hoặc (Sabbàsava sutta) - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Đàn Tràng Đại Khổng Tước Minh Vương Hoạch Tượng - Kinh Tạng
  • Uyển Lăng Lục Của Thiền Sư Hoàng Bá Đoạn Tế - Kinh Tạng
  • Kinh Nghi Quỹ Huyễn Hoá Võng Đại Du Già Giáo Thập Phẫn Nộ Minh Vương Đại Minh Quán Tưởng - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Nói Về Pháp Bố Thí - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Nói Về Phúc Báo Tạo Hình Tượng Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Ca Diếp Phó Phật Bát Niết Bàn - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Phật Mẫu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 51 Đến Phẩm 60 - Kinh Tạng