1
2
3
4
5
6
7
8
9

Phẩm 16: VUA TẦN-BÀ-SA-LA KHUYÊN BỒ-TÁT NHẬN LỢI DƯỠNG THẾ GIAN

Lúc bấy giờ, Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Xa-nặc trở về vương cung, đã theo đúng lời dặn dò của Bồ-tát an ủi vua cha Du-đầu-đàn, di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề, chánh phi Da-du-đà-la cùng các vị trong tộc họ Thích, khiến cho tất cả giảm bớt lo buồn sầu não hiểu rõ rằng Thái tử chỉ muôn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh nên đã cạo bỏ râu tóc, đưa áo Kiêu-xa-da đổi cho người thợ săn, lấy chiếc ca-sa làm pháp phục thanh tịnh.

Lúc ấy Bồ-tát đi dần đến chỗ tu khổ hạnh cửa vị nữ tu sĩ Bà-la-môn tên Bỉ Lưu, được vị này mời thọ trai vào hôm sau. Thọ trai xong, Bồ-tát đi dần đến chỗ vị nữ tu Bà-la-môn tên Ba-đầu-ma, cũng được vị này mời đến thọ trai vào hôm sau. Thọ trai xong Bồ-tát đi đến chỗ các vị ẩn sĩ Phạm chí tên Lợi-bà-đà, vị này cũng mới Bồ-tát vào hôm sau đến thọ trai. Rồi Bồ-tát đi đến chỗ tu của hai vị ẩn sĩ tên Quang Minh và Điều Phục, hai vị này cũng mời Bồ-tát hôm sau đến thọ trai…

Này các Tỳ-kheo, bấy giờ Bồ-tát lần lượt đi đến thành Tỳ-xá-ly, gần bên thành này có một vị Tiên tên A-la-la cùng tu với ba trăm người đệ tử, thường giảng dạy các đệ tử tu pháp môn định Vô sở hữu xứ. Lúc ấy vị Tiên A-la-la từ xa trông thấy Bồ-tát đến, trong lòng nghĩ thật là điều ít có bèn nói với các đệ tử:

-Các con hãy xem Bậc Thượng nhân tối thắng kia.

Các đệ tử thưa với thầy:

-Chúng con thấy vị ấy dung mạo đoan nghiêm, không rõ là trước kia ở đâu nay lại đến đây.

Các vị Tỳ-kheo, lúc đó Ta đã hỏi tiên A-la-la:

-Pháp tu chứng của ông có thể nói ra cho người khác nghe được chăng? Tôi nay muốn làm kẻ tu hành, mong ông giảng giải cho tôi.

Tiên nhân đáp:

-Này ông Cù-đàm, pháp tu chứng của ta rất vi diệu sâu xa. Nếu ông muốn học, ta sẽ giảng giải để ông tu tập đạt kết quả. Nếu có kẻ thiện nam nào thanh tịnh, tin tưởng thọ lãnh giáo pháp của ta đều thành tựu được phép định vi diệu Vô sở hữu.

Này các Tỳ-kheo, Ta nghe vị ấy nói như thế liền suy nghĩ: “Ta nay tự mình có đủ tinh tấn, niệm định để vui vẻ mong đạt tín, tuệ, chỉ ở một nơi siêng năng tu tập tâm không buông thả, chắc chắn sẽ chứng được pháp của vị Tiên đó”. Thế rồi ta tinh tấn tu tập tâm không hề biết chán nản mệt mỏi. Trải qua thời gian ngắn thì chứng đạt pháp định kia, sau đó ta đến chỗ vị ấy hỏi:

-Thưa Đại tiên, pháp tu chứng của ngài chỉ có mỗi pháp định ấy hay còn pháp nào khác?

Vị Tiên đáp:

-Này ông Cù-đàm, ta chỉ đạt được mỗi pháp ấy mà thôi chứ không còn có pháp nào nữa.

Bồ-tát thưa:

-Pháp tu ấy hiện tôi cũng chứng đạt được.

Vị Tiên bảo:

-Ta và ông cùng chứng được pháp định ấy, vậy thì ông hãy ở lại đây cùng ta truyền dạy cho các đệ tử.

Này các Tỳ-kheo, thấy Ta chấp thuận, vị Tiên ấy hết lòng quý trọng, luôn cúng dường Ta các món quý giá nhất, chúng môn đồ ấy thường xem ta là bạn tốt của họ. Nhưng rồi sau đó ta suy nghĩ: “Pháp tu của vị Tiên A-la-la chẳng thể dứt được khổ đau. Phải có pháp tu gì để lìa mọi nguyên nhân của đau khổ”.

Do đó Ta đã rời thành Tỳ-xá-ly đi dần tới đại thành Vương xá của nước Ma-già-đà, vào núi Linh thứu, chọn được một nơi an trụ một mình, thường được vô lượng trăm ngàn chư Thiên các cõi hộ trì. Sáng sớm Ta mặc Ca-sa, bưng bình bát từ cửa Ôn tuyền đi vào thành Vương xá lần lượt khất thực, bước đi khoan thai, các căn đều toát lên vẻ an nhiên tĩnh lặng, luôn nhìn về phía trước, tâm không tán loạn. Dân chúng trong thành Vương xá trông thấy Bồ-tát, tất cả đều hoan hỷ cho là điều ít có liền hỏi với nhau:

Vị này là ai, là Sơn thần, là Phạm vương hay Đế Thích, hay là các vị Tứ Thiên vương?

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn đọc bài kệ sau:

Bồ-tát thân thanh tịnh

Vô lượng ánh hào quang

Oai nghi đều đầy đủ

Tâm thanh tịnh nhu hòa

Trụ ở núi Linh thứu

Đúng theo phép xuất gia

Vào sáng sớm mỗi ngày

Đắp y và mang bát

Để điều phục thân tâm

Vào kinh thành khất thực

Thân như sắc vàng tụ

Tướng tốt tuyệt trang nghiêm

Nam nữ hai bên đường

Đều dừng lại nhìn ngắm

Đông đảo dân trong thành

Thấy Bậc Thắng Nhân đến

Đều sinh tâm hy hữu

Cùng chen nhau chiêm ngưỡng

Người này thật kỳ lạ

Từ đâu nay đến đây

Có từng đoàn thể nữ

Cùng lên lầu gác đẹp

Qua bao tầng cửa sổ

Dõi mắt nhìn đăm đăm

Phổ xá đông nghịt người

Chợ bán đều vắng không

Mọi công việc đều bỏ

Đến ngắm, hầu Bồ-tát

Có người đến kính báo

Vua Tần-bà-sa-la

Hiện có bậc Phạm thiên

Vào kinh thành khất thực

Lại có người cho rằng

Đó là trời Đế Thích

Trời Dạ-ma, Đâu-suất

Hay Hóa lạc, Tha hóa

Tứ Thiên vương, Nhật nguyệt

Hoặc là chư La-hầu

Bỉ-lưu-chất-đa-la

Tạm rời khỏi chư Thiên

Lại có kề tâu vua

Là Thần núi Linh thứu

Đại vương nên biết rằng

Ngài đang được lợi lớn

Vua nghe các lời tâu

Lòng tràn ngập vui mừng

Liền bước lên lầu cao

Xa ngắm thân Bồ-tát

Tướng tốt rất trang nghiêm

Khác nào vàng ròng tụ

Vua liền sai tả hữu

Dâng Bồ-tát phẩm trai

Lệnh tìm nơi người trụ

Theo sau để xem xét

Sứ giả theo Bồ-tát

Thấy về ngọn Thứu phong

Liền trở lại tâu vua

Thuật lại mọi sự việc

Vua nghe rõ đuôi đầu

Tâm hy hữu tăng lớn.

Trời vừa ló vầng hồng

Xa giá cùng đến thăm

Xa trông nơi núi cao

Tướng ngời sáng thanh tịnh

Uy dung cực nghiêm đẹp

Bất động như Tu-di

Liền để lại tùy tùng

Riêng vua lần bước đến

Đảnh lễ chân Bồ-tát

Cùng bao lời vấn an

Rồi thưa với Bồ-tát

Đại sĩ từ đâu lại

Quê hương ở chốn nào

Cha mẹ là những ai

Là vị Bà-la-môn

Hay thuộc Sát-đế-lợi

Hoặc là chư Tiên Thánh

Xin Nhân giả tỏ bày.

Bồ-tát đáp lời vua

Cha là vua Du-đàn

Xứ ở ven núi Tuyết

Kinh thành Ca-tỳ-la

Dân chúng đều an lạc

Vì cầu đạo Vô thượng

Nên nay mới xuất gia.

Vua lại cúi đầu thưa

Nhân giả hãy còn trẻ

Dung mạo thật tươi đẹp

Nên sống hưởng dục lạc

Sao lại chọn hành khất?

Tôi sẽ chia nước này

Tôi Ngài cùng trị quốc

Nay may mắn được gặp

Lòng tràn ngập niềm vui

Nguyện được làm bạn thân

Cùng chung nơi ngôi báu

Sao vui sống một mình

Nơi núi rừng hoang vắng?

Bồ-tát lúc bấy giờ

Ngôn từ thật dịu dàng

Từ tốn đáp lời vua

Tôi nay chẳng luyến tiếc

Vinh lợi chốn thế gian

Vì muốn đạt tịch diệt

Nên xuất gia rời thế

Huống chi đến nơi này

Lại còn sinh ham muốn

Ví như Ta-kiệt long

Biển khơi là cung điện

Há chịu vũng chân trâu

Mà sinh lòng yêu đắm

Đại vương cần nên biết

Năm dục lỗi dẫy đầy

Khiến cho đọa địa ngục

Súc sinh hay ngạ quỷ

Bậc trí nên lìa xa

Dứt bỏ như nhổ bọt

Dục như quả đã chín

Ắt rụng chẳng đợi lâu

Lại như mây trên không

Tan biến trong chốc lát

Như làn gió thổi nhanh

Chẳng lúc nào ngừng nghỉ

Kẻ đắm say năm dục

Mất niềm vui giải thoát

Bậc Đại sĩ trí tuệ

Ai cầu nhân thống khổ

Người nếu chưa hưởng dục

Lửa tham hừng hực luôn

Nếu đã trải qua rồi

Lại chuyển tăng không chán

Yêu thương rồi ly biệt

Càng thêm bao khổ sầu.

Cõi trời vui vi diệu

Quả thù thắng cõi người

Giả sử người thế gian

Thọ hưởng được cả hai

Tâm vẫn chưa biết đủ

Được rồi lại mong thêm

Ví như kẻ đói khát

Lại uống nhầm nước mặn

Năm dục cũng như trên

Mong cầu chẳng dừng nghi

Thường ở trong tử sinh

Luân xoay vòng không thoát

Nếu là Bậc Tuệ trí

Phải nhiếp phục các căn

Chứng Vô lậu quả

Thánh Đó chính là trí túc

Vua nay nên quán thân

Vô thường không bền chắc

Chín lỗ luôn chảy tuôn

Các cơ quan thọ khổ

Tôi tuy thọ ngũ dục

Nhưng chẳng hề tham đắm

Chỉ cầu vui tịch diệt

Ví thế nên xuất gia

Tần-bà-sa-la nói

Lành thay Bậc Đạo Sư

Xin thờ Ngài làm thầy

Ngài là bậc con vua

Đã dứt bỏ năm dục

Tôi nay khuyên tục lợi

Thật đắc tội vô biên

Mong vì lòng từ bi

Xót thương xá tội lỗi

Chứng đắc Bậc Giác Ngộ

Ở nơi cảnh giới này

Xin chớ quên thân tôi

Tôi sắp được đại lợi.

Liền từ tòa khởi tâm

Đảnh lễ chân Bồ-tát

Nhiễu quanh trăm ngàn lần

Rồi trở lại hoàng cung

Bồ-tát tâm điều phục

Làm chỗ tựa cho đời

Tùy duyên mà đi ở

Sẽ đến sông Ni-liên.

***

Phẩm 17: TU KHỔ HẠNH

Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Gần thành Vương xá có một vị Tiên, con ông Ma-la, tên Ô-đặc-ca, cùng tu với bảy trăm người đệ tử thường giảng về pháp tu định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bấy giờ Bồ-tát nhận thấy vị Tiên này là bậc Đa văn thông tuệ nhất trong số các vị Tiên, được nhiều người tôn kính, liền suy nghĩ:

-Ta nếu không tìm đến chỗ vị Tiên ấy cùng tu khổ hạnh, thì làm sao có thể chỉ rõ ra những thiếu sót trong pháp tu định của ông ta. Ta nay phải dùng phương tiện để khiến ông ấy tự nhận thấy phương pháp tu tập của mình chưa phải là rốt ráo. Lại cũng muôn mở bày sức định tuệ của ta đem lại lợi ích cho nhiều người, khiến họ phát khởi tâm hy hữu.

Suy nghĩ như thế rồi, Bồ-tát liền đến yết kiến vị Đại tiên thưa:

-Bậc hiền nhân, pháp tu của ngài được truyền thọ từ thầy nào và pháp tu ấy là gì?

Vị tiên nói:

-Ta vốn không theo học thầy nào cả, chỉ tự mình tu và ngộ đạo thôi.

Bồ-tát thưa tiếp:

-Tôi nay đến đây chỉ mong muốn đạt được sự chứng ngộ của ngài, xin ngài hết lòng chỉ dạy tôi sẽ dốc sức thực hiện.

Vị tiên nói:

-Ta sẽ giảng dạy làm vừa ý ông.

Sau khi đã nghe vị Tiên ấy dạy, Bồ-tát chọn một nơi yên tĩnh để chuyên tâm tinh tấn tu học. Do nhân duyên tu tập định tuệ trong quá khứ nên Bồ-tát đạt được trăm ngàn pháp Tam-muội ở thế gian. Tùy theo các pháp định mà tất cả hình tướng khác biệt đều hiện ra trước mắt. Lúc ấy Bồ-tát xuất định đến thưa với vị Tiên:

-Pháp tu của thầy, vượt qua pháp định ấy thì còn pháp nào nữa?

Vị tiên đáp:

-Đó là pháp tu tối thắng, ngoài ra không còn pháp nào khác.

Bồ-tát nghe vị Tiên trả lời như vậy liền suy nghĩ:

-Ta nhờ có đủ Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ nên mau chứng pháp tu định của vị Tiên ấy. Nay đạt được rồi thì thấy đó chưa phải là con đường tu tập chân chánh, chưa phải là pháp diệt khổ, không phải là pháp tu của hàng Sa-môn, lại càng không phải pháp tu đạt đến giác ngộ, giải thoát.

Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Bồ-tát vì muốn cho các vị Tiên lìa bỏ tà đạo nên đã giảng nói những điều suy nghĩ như trên. Lúc ấy, năm vị Bạt-đà-la đã theo tu tập trước ở chỗ vị Đại tiên kia, tu hành các hạnh thanh tịnh, cùng nhau bàn luận:

-Chúng ta tu học đã lâu vẫn chưa có thể thấu được phần sâu cạn của pháp định ấy. Vậy mà Thái tử chỉ trong một thời gian ngắn đã chứng được pháp tu của vị Đại tiên, lại còn chỉ rõ pháp tu ấy chưa phải là cứu cánh cần phải tìm pháp môn tu tập cao hơn nữa. Điều đó chứng tỏ Thái tử sẽ có thể chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề. Đến lúc ấy năm anh em chúng ta chắc sẽ được phần lợi ích.

Suy nghĩ bàn luận như vậy rồi, năm người liền rời bỏ chỗ vị Tiên kia cùng đi theo Bồ-tát. Bấy giờ Bồ-tát rời thành Vương xá cùng với năm vị Bạt-đà-la đi từ từ về hướng sông Ni-liên, đến núi Già-da lên cao trên đỉnh, trải cỏ ngồi dưới một cội cây lớn tư duy: “Ở thế gian dù là hàng Sa-môn hay Bà-la-môn, nếu thân tâm còn buông thả trong tham dục, bị phiền não chi phối nung đốt thì tuy tu khổ hạnh, con đường đến với đạo thật xa vời. Ví như người muốn có lửa, lại dùng khúc cây ẩm đặt trong nước rồi dùng đồ dẫn lửa mà kéo, xát, người ấy chắc chắn là không thể có lửa được. Cũng giống như thế, những kẻ còn sống trong tham dục, tuy tu khổ hạnh cũng không thể chứng được trí tuệ thù thắng xuất thế gian”.

Bồ-tát lại nghĩ tiếp: “Dù là hàng Sa-môn hay Bà-la-môn ở thế gian, nếu tự chế ngự thân, không tham dục, nhưng trong cảnh giới ấy tâm vẫn còn đắm trước tham luyến thì tuy tu khổ hạnh nhưng con đường đến với đạo vẫn còn xa lắm. Ví như người muốn có lửa lại dùng khúc cây ẩm đặt ở chỗ đất ẩm ướt rồi đem đồ dẫn lửa mà kéo xát người ấy chắc chắn cũng không thể có lửa được. Cũng giống như thế, nếu có người tham ái còn dấy khởi, tâm chưa được tịch tĩnh thì tuy tu khổ hạnh cũng không thể chứng được trí tuệ thù thắng xuất thế gian”.

Bồ-tát lại suy nghĩ: “Trong thế gian dù là hàng Sa-môn hay Bà-la-môn, nếu thân tâm đã được nhiếp phục, giữ gìn, lìa bỏ mọi tham dục, diệt trừ các phiền não, luôn giữ tâm tịch tĩnh tối thượng, tu hành khổ hạnh thì mới có thể chứng được thắng trí xuất thế gian. Cũng giống như người mong muốn có lửa, đem khúc cây khô đặt chỗ đất khô ráo rồi dùng đồ dẫn lửa kéo xát thì người ấy sẽ có được lửa. Cho nên nếu có người chẳng sống trong sự tham dục, thân tâm luôn tịch tĩnh, siêng năng tu hành khổ hạnh thì người ấy sẽ chứng được trí tuệ xuất thế gian”.

Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Bấy giờ Bồ-tát ra khỏi núi Già-da từ từ cất bước đi tới bờ phía Đông hồ Ưu-lâu-tần-loa, đứng ở đó có thể trông thấy dòng sông Ni-liên nước trong mát, chảy cuồn cuộn lấp lánh một màu trắng xóa, hai bên bờ bằng phẳng, cây cối thẳng hàng đều đặn, các thứ hoa quả tươi tốt thật khả ái. Tiếp theo bờ sông là thôn ấp chạy dài có vẻ trù phú, nhà cửa san sát, dân chúng đông đúc. Lúc ấy Bồ-tát nhẹ bước đến một nơi rộng rãi thoáng mát yên tĩnh, không có gò nổng, không gần cũng không xa phố xá, không cao cũng không thấp, liền suy nghĩ là nay nên dừng lại nơi này, thân tâm dễ được an tịnh, từ xưa đến giờ các vị Thánh tu hành hầu hết cũng chọn những nơi như thế này.

Bồ-tát lại suy nghĩ tiếp: “Ta nay đã thị hiện ở cõi đời đầy năm thứ vẩn đục xấu ác, nhận thấy chúng sinh thấp kém cùng các hàng ngoại đạo luôn chấp trước bảo thủ quan điểm của họ, tu hành khổ hạnh. Do vô minh che lấp mãi mong cầu trong hư vọng, tự làm khổ thân tâm để mong cầu giải thoát. Những người hoặc mang vật dụng đi khất thực; hoặc có người chỉ cần một vốc thực phẩm để đủ sống trong một ngày, hoặc chẳng đi khất thực mà chỉ nhận vật phẩm do người đem đến bố thí; hoặc có người không thọ nhận của người đem đến cho mà tự mình đi khất thực để cầu giải thoát; hoặc có người chỉ ăn uống cỏ rau rễ lá hoa quả hoặc ngó sen, phân thú vật, nước trái cây, nước vo gạo, cặn dầu; hoặc có người không dùng các thứ như đường cát, sữa bơ, mật ong, rượu ngon, dâm ngọt cùng các loại mỹ vị khác chỉ để cầu giải thoát; hoặc có người đến khất thực một nhà, xong rồi mới đến nhà thứ hai, thứ ba, cho đến nhà thứ bảy; hoặc có kẻ một ngày hay hai ngày ăn một lần cho tới nửa tháng, một tháng ăn một lần chỉ để cầu giải thoát; hoặc có kẻ ăn uống mau chậm, nhiều ít tăng giảm tùy theo trăng; hoặc có kẻ chỉ ăn mỗi ngày một nắm thóc, nhiều lắm là bảy nắm thóc; hoặc có người chỉ ăn mỗi ngày một hạt lúa mạch, một hạt mè, một hạt gạo; hoặc có kẻ chỉ uống nước trong để cầu giải thoát; hoặc có kẻ cho rằng mình được thần chọn, tự nhịn đói mà chết, bảo rằng sẽ được sinh lên cõi trời hay ở cõi người tùy theo ý mình; hoặc có kẻ dùng lông, cánh lông mềm của các loài cầm thú lớn để bện đan thành y phục mà mặc; hoặc mặc vỏ cây, hoặc mặc các thứ da trâu, da dê được phủi sạch bện thành tấm; hoặc mặc một áo cho tới bảy lớp áo; hoặc dùng màu đen, màu đỏ để làm y phục; hoặc chẳng mặc y phục; hoặc tay cầm ba cây gậy đưa lên cao; hoặc xâu các đầu lâu người chết lại thành vòng để cầu giải thoát; hoặc một ngày tắm rửa một lần, tắm rửa hai lần cho tới bảy lần hoặc chẳng tắm rửa gì cả; hoặc có kẻ dùng tro, mực bôi xoa lên người; hoặc trộn phân đất hoặc mang đeo hoa héo úa; hoặc dùng năm thứ lửa để nướng đốt thân mình để khói xông vô mũi tự đày đọa trên đỉnh núi cao, hai tay giơ cao một chân đứng yên nhìn mặt trời mặt trăng; hoặc nằm trên mé đòn cây, trên gai nhọn, trên phân tro, ngói đá, ván, chầy… để cầu giải thoát; hoặc đọc to các ấn úm, âm Bà-sa, âm Tô-đà, âm Ta-bà-ha theo các bài chú thuật và đọc tụng kinh Vi-đà để cầu giải thoát; hoặc nương thờ các vị Phạm thiên, Đế Thích, Ma-hê-thủ-la, Đột-già-na-la-diên, Câu-ma-la Ca-chiên-diên, Ma-trí lý-già, Bát-bà-tô-nhị-a-thủy-na, Tỳ-sa-môn Bà-lâu-na, A-lý-trí Chiên-đà-la, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Ma-hầu-la-già, Dạ-xoa, Độ-ba Cưu-bàn-trà, chư Thiên, Quỷ thần để mong được giải thoát; hoặc có người nương tựa đất nước, gió lửa, hư không, núi sông ao hồ, khe đầm, biển lớn, rừng cây, thảo mộc, mồ mả đường sá, nơi nuôi trâu bò cùng các chốn thị tứ đông đúc; hoặc thờ các thứ đao kiếm bánh xe, giáo dài cùng tất cả binh khí để cầu giải thoát… Những người ngoại đạo đó do sợ hãi cảnh sinh tử nên dốc lòng lìa bỏ, tu hành khổ hạnh. Xét ra, tất cả đều không có lợi ích gì, điều không nên quy ngưỡng lại quy ngưỡng, chẳng phải là việc an lành lại tưởng là an lành”.

Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

Bồ-tát bấy giờ lại suy nghĩ tiếp: “Ta nay vì muốn hàng phục những kẻ ngoại đạo nên phải thể hiện các việc hy hữu khiến cho chư Thiên và mọi người sinh tâm thanh tịnh, lại muốn làm cho những người đang có niềm tin lầm lạc kia biết về tạo nghiệp quả báo…, lại muốn thị hiện công đức trí tuệ có đủ thần lực, phân tích các phân vị khác nhau của các pháp tu định, lại muốn thị hiện sức đại dũng mãnh tinh tấn của mình cho nên mới ở tại chốn ấy”. Bồ-tát đã ngồi kiết già, thân khẩu ý đều an nhiên tịch tĩnh bất động. Lúc mới bắt đầu nhiếp tâm, chuyên chú thuần nhất vào một cảnh, chế ngự hơi thở ra vào, thì khí nóng chạy khắp cơ thể, mồ hôi từ dưới nách và trên trán chảy ra ướt đẫm như nước mưa tuôn nhưng vẫn nhẫn chịu khổ chẳng sinh mệt mỏi, còn khởi lên tâm tinh tấn dũng mãnh.

Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Khi Bồ-tát chế ngự hơi thở ra vào của mình, bên trong hai tai phát ra âm thanh lớn như đưa gió thổi mạnh vào đáy bể lò rèn, nhẫn chịu nỗi khổ ấy mà không hề biết mệt mỏi, chán nản.

Này các Tỳ-kheo, lúc đó nơi miệng, mũi,, tai của Ta mọi hơi thở ra vào như dứt hẳn, luồng khí trong người xông lên đảnh đầu phát ra âm thanh lớn ví như có người khua đao bén xông vào phá óc não mình, nhận chịu nỗi khổ ấy cũng không biết mệt nhọc, tâm không hề thoái chuyển.

Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Khi Bồ-tát chế ngự hoàn toàn hơi thở của mình, mọi hơi thở ra vào đều dừng hẳn, luồng khí trong người càng mạnh thêm, tụ lại xoay vần xoáy vào hai bên hông và phát ra âm thanh lớn, ví như người đồ tể dùng dao chọc tiết trâu bò, chịu đựng nỗi khổ ấy mà không hề giải đãi hay cảm thấy cực nhọc.

Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Lúc ấy do luồng khí trong thân Bồ-tát chuyển động nên toàn thân Bồ-tát nóng bức khó chịu ví như một người sức yếu bị ngọn lửa lớn vây hãm thiêu đốt thân mình, chịu đựng nỗi khổ ấy nhưng lại tăng thêm tâm dũng mãnh tinh tấn, vẫn chánh niệm suy nghĩ: “Ta nay an trụ nơi pháp Tam-muội bất động, ba nghiệp thân khẩu ý đều trụ trong chánh định, thể nhập Tứ thiền, xa lìa mọi hỷ lạc, chỉ còn phân biệt chút ít tiếng động nhẹ như gió thổi. Ví như hư không phủ khắp vạn vật không thể nào thay đổi. Pháp tu định ấy gọi là A-sa- bà-na”.

Bồ-tát lúc đó đã tu khổ hạnh cao nhất như thế.

Này các Tỳ-kheo, Bồ-tát lại khởi lên niệm này: “ở thế gian, hàng Sa-môn hay Bà-la-môn cho rằng phương pháp nhịn đói chính là khổ. Ta nay muốn hàng phục họ nên mỗi ngày chỉ ăn một hạt lúa mạch. Các Tỳ-kheo nên biết, xưa kia, trong khoảng thời gian Ta chỉ ăn mỗi ngày một hạt lúa mạch, thân thể Ta gầy yếu như cây A-tư, người chỉ còn da bọc xương như thể ngôi nhà hư nát lộ ra cột, chèo, đòn tay… xương sống lộ rõ từng đốt như loại cung trúc, hai mắt lõm sâu vào như hai hốc nước nhỏ, đảnh đầu khô héo giống như quả bầu phơi khô, đất ở chỗ Ta ngồi lún sâu xuống giống như dấu chân ngựa giẫm lâu ngày, da dẻ nhăn nheo khô nứt như dấu dao cắt cứa vào, đưa tay phủi bụi thì lông trên thân đều rụng hết, dùng tay xoa bụng thì chạm phải cột xương sống .Rồi Ta lại giảm dần chỉ ăn mỗi ngày một hạt gạo cho đến một hạt mè thân thể ta càng gầy gò gấp mười lần hơn trước, hình sắc như thể một vũng mực đen hay đông tro tàn. Người dân trong xóm làng khắp nơi qua lại thấy như vậy đều thở than thương tiếc, cho rằng Thái tử họ Thích đã tự làm khổ lấy thân mình. Thân tướng đẹp đẽ khỏe mạnh ngày trước nay còn đâu.

Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Bồ-tát trải qua sáu năm khổ hạnh như thế, bốn oai nghi không hề giảm mất. Mùa hạ nóng bức chẳng tìm đến chỗ mát mẻ; mùa đông giá buốt cũng chẳng hề mong được ấm áp, muỗi mòng bu đốt thân cũng không xua, ngồi kiết già thân tâm bất động chẳng chút chau mày cũng chẳng khạc nhổ, đám trẻ chăn trâu bò thường đến nhìn xem rồi đùa nghịch dùng cọng cỏ chọc vào lổ mũi Ta, có khi châm vào miệng hay lổ tai. Lúc đó thân tâm Ta luôn bất động, thường được Trời, Rồng, Quỷ thần cúng dường, làm cho mười hai lạc-xoa trời người an trú trong đạo Tam thừa.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên đọc bài kệ:

Bồ-tát vào thời ấy

Bỏ ngôi đi xuất gia

Vì lợi ích chúng sinh

Cố nghĩ tìm phương tiện

Ta thị hiện cõi trược

Sinh chốn Diêm-phù-đề

Lắm kẻ theo tà kiến

Phá pháp theo dị đạo

Kẻ ngu cầu giải thoát

Tự làm khổ thân tâm

Dù sợ nhân sinh tử

Thường mê xa rời quả

Hoặc ngã vào đống lửa

Tự buông mình đĩnh cao

Dùng ngũ nhiệt đốt thân

Bôi tro nhằm tự hủy

Ngày chỉ ăn chút ít

Đủ cho mạng sống còn

Khất thực nơi nhà người

Chủ vui mình mới nhận

Dung mạo thoáng buồn tiếc

Trọn ngày chẳng cần ăn

Hoặc lúc nghe chày khua

Hay là tiếng chó sủa

Liền dừng chẳng hành khất

Dù gọi cũng không nhận

Bơ dầu cùng mỹ vị

Sữa kem, các thứ đường

Tất cả đều không dùng

Chỉ ăn đồ xấu kém

Nước gạo cùng cặn dầu

Phân thú cùng ngó sen

Cây cỏ cùng hoa quả

Chỉ mong được giải thoát

Hoặc chỉ dùng nước trong

Hoặc ăn ngày hạt mè

Hoặc chỉ ăn hạt gạo

Hoặc nhịn đói mà chết

Nhằm mong được giải thoát

Hoặc dùng da thú mặc

Giẻ rách và lông chim

Vỏ cây bện thành đệm

Bao thứ hoại sắc phục

Hoặc chỉ mặc một áo

Cho đến bảy lớp che

Hoặc để lộ thân mình

Chỉ mong được giải thoát

Ngồi nằm mé cành cây

Trên gai nhọn tro đất

Ván, chày cùng đá, ngói

Để mong cầu giải thoát

Hoặc thường giơ hai tay

Hoặc chỉ đứng một chân

Chải tóc và bới tóc

Ngắm nhìn theo thái dương

Để mong được giải thoát

Hoặc thường lạy nhật nguyệt

Sông biển cùng khe núi

Cao nguyên nhiều cầy rừng

Để mong được giải thoát

Chúng ngoại đạo như thế

Siêng tu khổ chẳng lợi

Chấp trước nghiệp hư vọng

Bám chặt chưa từng bỏ

Những kẻ tà kiến ấy

Chết rơi vào ác đạo

Ta cũng tu như thế

Trải qua đến sáu năm

Thị hiện hàng phục chúng

Dốc tu đại khổ hạnh

Những kẻ thiếu trí tuệ

Thấy họ tu khổ tà

Cho là đúng chánh pháp

Bèn sinh tâm hoan hỷ

Cũng vì để giáo hóa

Nên quyết hành khổ hạnh

Bèn chọn chốn vắng vẻ

Kiết già nhập Tam-muội

Chế ngự mọi ăn uống

Ngày ăn hạt gạo, mè

Mùa lạnh không cầu ấm

Mùa nóng chẳng cầu mát

Cũng chẳng xua muôi mòng

Mưa gió không dời chuyển

Trẻ mục đồng đến thấy

Đùa dùng cọng cỏ châm

Vào cả tai miệng mũi

Dùng cây cỏ ngói đá

Quăng ném vào thân Ta

Cũng chẳng hề lay động

Đều nhẫn thọ tất cả

Thân cũng không cúi thấp

Cũng không sinh mệt mỏi

Khạc nhổ cùng mọi thứ

Uế tạp đều trừ dứt

Chỉ còn xương với da

Máu thịt đều khô kiệt

Hình dáng quá gầy yếu

Như cây A-tư-ca

Trụ định A-na-bà

Thân tâm thường bất động

Cũng chẳng hưởng thiền lạc

Mà khởi tâm đại Bi

Vì muôn loài chúng sinh

Tu hạnh định như vậy

Do tu pháp định ấy

Mau chóng đạt Phật-đà

Diệt trừ các tà đạo

Hàng phục các dị thuyết

Ví như chúng Ca-diếp

Chẳng tin có giác ngộ

Đại giác ngộ như thế

Vô lượng kiếp khó được

Vì muốn cho bao người

Vào định A-na-bà

Trong lúc nhập định ấy

Có mười hai lạc-xoa

Chư Thiên và chúng nhân

Trụ trong Tam thừa đạo

Chư Thiên cùng Long thần

Luôn cả ngày và đêm

Cúng dường thân Bồ-tát

Thảy đều phát thệ lớn

Nguyện trụ Na-bà định

Vì lợi ích muôn loài

Tâm ấy như hư không.

***

Phẩm 18: ĐẾN SÔNG NI-LIÊN

Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Bồ-tát bây giờ đã trải qua sáu năm tu khổ hạnh, ma vương Ba-tuần thường theo Bồ-tát để dò xét tìm kiếm những sơ hở sai lầm nhưng rốt cuộc cũng chẳng được gì nên sinh chán nản hậm hực bỏ đi.

Lúc đó Đức Thế Tôn đọc bài kê:

Nơi Bồ-tát an trụ

Rừng vắng thật thanh tịnh

Đông nhìn dòng Ni-liên

Tây dựa hồ Tân loa

Tâm tinh tấn phái khởi

Tìm đến chốn tịch tĩnh

Thấy nơi này rộng vắng

Dừng lại trừ phiền não

Chính ma vương Ba-tuần

Đến chỗ Bồ-tát trụ

Dùng những lời dịu ngọt

Mà thưa cùng Bồ-tát

Chúng sinh ở thế gian

Đều mến yêu mạng sống

Thân Ngài nay khô gầy

Cái chết thật chẳng xa

Nên tu đạo thờ lửa

Tất được quả báo lớn

Khỏi phải lìa thân mạng

Lại được người thương mến

Tâm tánh vốn khó trị

Phiền não chẳng thể trừ

Bồ-đề ai chứng được

Tự làm khổ ích gì.

Bồ-tát bảo ma vương

Hãy nghe lời ta nói

Tâm tối tham, sân, si

Cùng người là quyến thuộc

Kết với người tới đây

Cùng phá hoại căn lành

Ta chẳng cầu phước báo

Chớ dùng đó quấy Ta

Chết chóc Ta nào sợ

Lấy chết làm giới mốc

Chí nguyện cầu giải thoát

Tâm không hề thoái chuyển

Tuy chịu nhiều thống khổ

Tâm Ta luôn tịch tĩnh

Trụ ở định kiên cố

Tinh tấn cùng vui thích

Quyết đạt trí dù chết

Không tham sống vô tri

Ví như bậc nghĩa dũng

Thà quyết thắng mà mất

Không như kẻ khiếp nhược

Cầu sống bị người khinh

Vi thế Ta ở đây

Sẽ trừ hết quân ngươi

Một là quân tham dục

Hai là quân ưu sầu

Ba là quân đói khát

Bốn là quân ái nhiễm

Năm là quân hôn trầm

Sáu là quân sợ hãi

Bảy là quân nghi ngờ

Tám là quân hờn giận

Chín là quân buồn phiền

Cùng khen mình chê người

Tà cúng dường, các việc

Đám quân đông như thế

Là thân quyến của ngươi

Chuyên quấy phá trời, người

Ta nay luôn an trụ

Trong chánh niệm, chánh tri

Tiêu diệt ngươi Ba-tuần

Như nước ngâm gạch vỡ

Bồ-tát vừa dứt lời

Ma vương đã trốn mất.

Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

Lúc ấy Bồ-tát suy nghĩ: “Trong quá khứ, hiện tại và vị lai, có các bậc Sa-môn hay Bà-la-môn chuyên tu khổ hạnh, thân tâm bị bức bách vì phải chịu bao thống khổ phiền não, đều phải biết rằng đó là tự làm khổ thân, chẳng có lợi ích gì”.

Ngài lại suy nghĩ tiếp: “Ta nay đã trải qua các hạnh khổ cao nhất mà không thể chứng được Thắng trí xuất thế gian, như thế đủ biết khổ hạnh không phải là nhân đưa đến giải thoát giác ngộ, cũng chẳng phải là con đường biết Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt và tu Đạo. Vậy phải tìm ra pháp tu khác mới có thể dứt trừ sinh lão bệnh tử”.

Bồ-tát lại suy nghĩ: “Xưa kia, Ta ở dưới cội cây Diêm-phù trong khu vườn của phụ vương đã chứng được Sơ thiền, lúc đó thân tâm ta vui vẻ an lạc, như thế cho đến lúc chứng được Tứ thiền. Nhớ lại chuyện xưa kia từng chứng đắc, Ta thấy hẳn đó là nhân giác ngộ có thể diệt trừ sinh lão bệnh tử”.

Bồ-tát lại suy luận: “Ta nay với xác thân gầy còm ốm yếu như thế này hẳn là không kham nỗi trên con đường tìm được đạo. Nếu ta dùng diệu lực thần thông cùng trí tuệ khiến cho thân thể bình phục như trước để hướng tới giác ngộ thì đâu cần làm những việc đã qua. Đó không phải hành động vì thương xót tất cả chúng sinh, cũng không phải phương pháp tu tập để chứng quả vị Giác ngộ của chư Phật. Do đó nay Ta cần ăn uống đầy đủ như trước để thân thể khỏe mạnh mới có thể tu tập đạt đến quả vị Giác ngộ”.

Khi ấy, các vị trời có tâm luôn yêu thích các bậc tu khổ hạnh, biết Bồ-tát muốn ăn uống đầy đủ như trước liền đến thưa Bồ-tát:

-Tôn giả khỏi phải ăn uống đầy đủ để hồi phục sức lực, chúng tôi sẽ dùng thần thông làm cho khí lực Tôn giả bình phục trở lại như cũ, chẳng khác gì ăn uống.

Bồ-tát tự nghĩ: ‘Ta thật sự chẳng ăn uống gì như vậy là đã khá lâu, dân chúng khắp chốn cũng đã biết Ta tu khổ hạnh, nếu nay Ta theo lời của chư Thiên chẳng cần ăn uống đầy đủ, chỉ dùng thần lực để hồi phục sức khỏe thì Ta trở thành vọng ngữ”.

Lúc đó năm vị Bạt-đà-la nghe Bồ-tát muốn ăn uống đầy đủ trở lại nên cùng nhau bàn luận:

-Sa-môn Cù-đàm tu khổ hạnh như vậy mà vẫn chưa đạt được Thắng trí xuất thế gian huống chi nay muốn trở lại ăn uống đầy đủ, hưởng thụ lạc thú thì rõ ràng đó là kẻ vô trí, đánh mất định tâm.

Họ bèn bỏ Bồ-tát, đến khu vườn Nai, chốn Tiên nhân đọa-xứ thuộc thành Ba-la-nại.

Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Sau khi hết tu khổ hạnh, Bồ-tát đi đến thôn Ưu-lâu-tần-loa của vị trưởng thôn tên Tư-na-bát-để ở đó có mười cô gái, ngày trước cùng năm vị Bạt-đà-la thường đem phẩm vật đến cúng dường Bồ-tát. Các cô lúc ấy đã biết Bồ-tát bỏ lối tu khổ hạnh liền làm nhiều món ăn uống để cúng dường Bồ-tát. Nhờ vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn sắc tướng Bồ-tát đã trở lại tươi sáng vui vẻ. Mọi người trông thấy đều nói với nhau:

-Sa-môn Cù-đàm dung mạo oai nghiêm có phước đức lớn lao.

Trong số mười cô, có một người nhỏ tuổi nhất tên là Thiện Sinh. Ngày trước lúc Bồ-tát còn tu khổ hạnh cô thường đem đồ ăn uống cúng dường tám trăm vị tu sĩ Bà-la-môn, nguyện do phước đức của sự cúng dường ấy mà cầu riêng cho Bồ-tát mau chứng quả vị Vô thượng Bồ-đề.

Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Bồ-tát lúc ấy lại suy nghĩ: “Trải qua sáu năm tinh cần tu khổ hạnh, y Ta đã rách nạt”. Bấy giờ Bồ-tát thấy có một chiếc y phấn tảo cũ rách ở dưới đất trong rừng Thi-đà liền nhặt lấy đem về. Lúc đó Địa thần liền bảo với một vị thần ở trên hư không:

-Lạ thay, lạ thay! Thái tử họ Thích lìa bỏ ngôi vị Chuyển luân vương. Nay lại lượm chiếc y phấn tảo của người khác vứt bỏ.

Vị thần ấy nghe thế liền tâu lên chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên và chỉ trong khoảnh khắc đã truyền đến tận cõi trời A-ca-ni-trá. Lúc đó, Bồ-tát tay cầm chiếc y cũ nói:

-Không rõ nơi nào có nhiều nước để ta giặt sạch tấm y này.

Tức thì một vị Thiên tử liền hiện ra trước Bồ-tát chỉ tay xuống đất hóa thành một ao nước.

Bồ-tát lại suy nghĩ: “Không biết ở đâu có tảng đá để ta tẩy sạch chiếc y phân tảo này”. Thích Đề-hoàn Nhân lập tức đem một tảng đá vuông vức đặt cạnh bờ ao. Bồ-tát thấy tảng đá liền dùng để tẩy giặt chiếc y cũ. Lúc đó Đế Thích thưa với Bồ-tát:

-Tôi sẽ vì Tôn giả mà giặt sạch chiếc y cũ này, mong Tôn giả chấp thuận.

Tuy nhiên Bồ-tát muốn làm gương cho chúng Tỳ-kheo sau này nên đã tự mình giặt lấy tấm y chứ không nhờ Đế Thích. Giặt y xong, Bồ-tát xuống ao tắm rửa. Bấy giờ ma vương Ba-tuần liền biến bờ ao trở nên cao dốc. Cạnh bờ có một cây A-tư-na, lúc đó vị thọ thần đè mạnh cho cây thắp xuống để Bồ-tát vịn cây lên bờ, còn chiếc y cũ bị hút vào dưới gốc cây kia. Cùng lúc vị Thiên tử cõi trời Tịnh cư tên Vô Cấu Quang đem dâng chiếc ca-sa là vật dụng của Sa-môn cúng dường Bồ-tát.

Sau khi đã nhận y ca-sa, Bồ-tất vào sáng sớm mỗi ngày mặc Tăng-già-lê vào thôn xóm khất thực. Vị thần của thôn ấy vào đêm trước đã báo cho Thiện Sinh:

-Nàng thường vì bậc Thanh tịnh đó, bày các hội bố thí lớn, nay vị Sa-môn ấy đã bỏ cách tu khổ hạnh trở lại ăn uống đầy đủ. Trước đây nàng đã phát nguyện là nếu vị Sa-môn ấy thọ nhận thực phẩm của nàng cúng dường sẽ mau chứng đắc quả vị Vô thượng Bồ-đề. Nay chính là lúc nên bày biện cúng dường.

Nàng Thiện Sinh nghe vị thần nói như vậy liền vắt lấy sữa của một ngàn con bò cái. Sữa ấy qua bảy lượt chưng, nấu chỉ chọn lấy phần tinh khiết nhất đổ vào trong một chiếc nồi mới, dùng thứ gạo lúa thơm nấu thành cháo nhuyễn. Trong lúc đang nấu, trên mặt nồi cháo sữa ấy hiện ra hàng ngàn vòng bánh xe pháp, hoa Ba-đầu-ma và vô số hình tướng tốt lành. Lúc đó Thiện Sinh trông thấy tướng ấy liền suy nghĩ: “Sao lại có điềm lành này?” Một vị Tiên lúc đó bảo Thiện Sinh:

-Nếu người nào ăn được thứ cháo ấy chắc chắn sẽ thành tựu quả vị Vô thượng Bồ-đề.

Sau khi nấu xong cháo sữa, Thiện Sinh liền quét dọn nhà cửa hết sức sạch sẽ, sắp đặt chỗ ngồi thật trang trọng, bày biện tất cả mọi sự rồi dặn nàng Ưu-đa-la:

-Ngươi phải đến mời đông đủ các vị tu sĩ Bà-la-môn cùng đến đây.

Nàng ưu-đa-la vâng lời đi về hướng Đông chỉ gặp một mình Bồ-tát chứ không thấy một tu sĩ Bà-la-môn nào. Đi về các hướng Tây, Nam, Bắc cũng vậy. Đó là do chư Thiên cõi trời Tịnh cư đã dùng thần thông khiến nàng Ưu-đa-la không thể thấy được.

Ưu-đa-la trở lại thưa với nàng Thiện Sinh:

-Tôi đã đi cùng khắp chỉ thấy Sa-môn Cù-đàm chứ không gặp một vị tu sĩ Bà-la-môn nào cả.

Thiện Sinh bảo:

-Đó là Bậc Tối Thắng. Ta chính vì vị ấy mà nấu món cháo sữa này. Ngươi phải mau đến thỉnh vị Sa-môn ấy cho ta.

Nàng ưu-đa-la đến chỗ Bồ-tát, cúi đầu mặt lạy ngang chân Bồ-tát và thưa:

-Nàng Thiện Sinh sai con đến mời Thánh giả.

Bồ-tát nhận lời liền thân hành đến nhà Thiện Sinh, ngồi trên tòa ngồi trang nghiêm nhất. Khi ấy nàng Thiện Sinh dùng chiếc bát bằng vàng múc đầy cháo sữa đem đến dâng lên Bồ-tát. Sau khi nhận bát cháo Bồ-tát suy nghĩ: “Ta ăn thứ cháo sữa này chắc chắn sẽ chứng đắc quả vị Vô thương Bồ-đề”. Liền nói với nàng Thiện Sinh:

-Ta thọ nhận món cháo này xong, sẽ trao chiếc bát bằng vàng này cho ai?

Nàng Thiện Sinh thưa:

-Con xin dâng cúng cái bát ấy để Tôn giả tùy ý sử dụng.

Lúc đó Bồ-tát bưng bát cháo sữa rời khỏi thôn xóm Ưu-lâu-tần- loa đến sông Ni-liên, đặt bát cháo trên bờ xong, rồi tự mình cạo bỏ râu tóc rồi xuống sông tắm rửa.

Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Khi Bồ-tát đang tắm rửa, có trăm ngàn chư Thiên tung thiên hương thiên hoa rải xuống khắp mặt sông. Bồ-tát tắm xong, chư Thiên cùng nhau lấy nước ấy đem về Thiên cung; còn chỗ Bồ-tát cạo bỏ râu tóc sau này nàng Thiện Sinh xây tháp cúng dường.

Sau khi rời khỏi dòng sông lên bờ, Bồ-tát suy nghĩ: “Nên chọn chỗ nào thích hợp để dùng món cháo này”. Vị Long phi nơi sông ấy lập tức biến ra Hiền tòa từ dưới đất vọt lên, trải thành chỗ ngồi thanh tịnh mời Bồ-tát ngồi. Bồ-tát an tọa, ăn xong món cháo sữa, thân thể cùng các tướng tốt đều bình phục như cũ. Bồ-tát lấy bát vàng liệng xuống giữa dòng sông. Lúc ấy, Long vương trông thấy hết sức vui mừng liền thu lấy bát vàng ấy đem về cung cúng dường. Cùng lúc, Thích Đề-hoàn Nhân liền biến hình hóa thành Kim sí điểu bay theo Long vương đoạt lấy bát vàng rồi đem về cung điện mình cho xây tháp cúng dường.

Bấy giờ Bồ-tát rời tòa ngồi đứng dậy, vị Long phi cũng thu hồi lại tòa ngồi đem về nơi cung mình xây tháp cúng dường.

Này các vị Tỳ-kheo, do Bồ-tát có đủ lực phước đức và trí tuệ, cho nên ăn xong món cháo sữa ấy ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp càng tăng thêm vẻ tươi sáng toàn vẹn rực rỡ.

Lúc đó Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý trên nên đọc bài kệ:

Qua sáu năm khổ hạnh

Thân thể thật gầy yếu

Không dùng Thiên thần lực

Để đến chốn Bồ-đề

Vì thương xót chúng sinh

Quy ngưỡng theo Phật pháp

Nên ăn uống đầy đủ

Mới chứng được giác ngộ

Có vị nữ trước kia

Làm lành tên Thiện Sinh

Thời Phật tu khổ hạnh

Cúng dường tám trăm vị

Nửa đêm nghe thần báo

Sáng dậy sớm vắt sữa

Dùng sữa ngàn bò mẹ

Nấu thành cháo dâng cúng

Bồ-tát khoác y xong

Đi đến nhà Thiện sinh

Nhận lấy bát cháo sữa

Đến thẳng dòng Ni-liên

Bồ-tát vô lượng kiếp

Thường tu các hạnh lành

Thân tâm đều tịch tĩnh

Đứng đi luôn thanh thoát

Đến bờ Ni-liên-thuyền

Trời, Rồng đều vây quanh

Bồ-tát xuống sông tắm

Chư Thiên rải hương hoa

Vừa lên khỏi bờ sông

Thọ thần đến đảnh lễ

Thiện nữ cúng bát vàng

Long phi dâng tòa quý

Bước đi như Sư tử

Thẳng đến tòa Bồ-đề.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Trung Quán dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp Thiên Phật Danh - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Thiền Tâm dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Lực Trang Nghiêm Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bồ Đề Trường Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Sư Tử Trang Nghiêm Vương Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh Trang Nghiêm Tâm Bồ Đề - Kinh Tạng
  • Kinh Trang Nghiêm Vương Đà La Ni Chú - Kinh Tạng
  • Kim Cang Tràng Trang Nghiêm Bát Nhã Ba La Mật Đa Giáo - Kinh Tạng
  • Phẩm Nhứt Thiết Như Lai Liên Hoa Nghi Quỹ Đại Mạn Đồ La Kim Cang Đỉnh Hàng Tam Thế Đại Pháp Vương Giáo Trung Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chơn Ngôn - Kinh Tạng
  • Những Truyện Cảm Ứng Về Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 4 - Kinh Tạng
  • Phẩm Nhập Pháp Giới Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Vô Năng Thắng Phan Vương Như Lai Trang Nghiêm Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 3 - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cang Khủng Bố Tập Hội Phương Quảng Quỹ Nghi Quán Tự Tại Bồ Tát Tam Thế Tối Thắng Tâm Minh Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 89 – Kinh Pháp Trang Nghiêm (Dhammacetiya sutta) - Kinh Tạng