1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Quyển 10

Đã nói qua về tán thán Tam Muội công đức môn rồi; bây giờ lần lượt nói về lưỡng luân cụ khuyết ích tổn môn.

Viết rằng: Lại nữa nếu người chỉ tu chỉ, tức tâm chưa lắng đọng; hoặc khởi lên sự giải đãi, chẳng vui với những việc thiện; xa lìa tình thương; cho nên tu quán. Khi tu tập quán thì sẽ quán được tất cả thế gian có các pháp, chẳng khi nào dừng lại lâu, tu di biến hoại tất cả tâm hạnh, niệm niệm sanh diệt; cho nên mới khổ. Nên quán về quá khứ nhớ nghĩ đến các pháp, tất cả đều như giấc mộng; nên quán sát về hiện tại, nhớ nghĩ đến các pháp giống như điện chớp; nên quán về tương lai, nhớ nghĩ đến các pháp trôi nổi như mây, cứ như thế mà khởi lên. Nên quán sát thế gian tất cả có thân tức là bất tịnh, đủ loại hôi hám dơ uế, chẳng có một chút gì để vui. Như thế nên nghĩ. Tất cả chúng sanh từ vô thỉ cho đến đời nay. Tất cả đều do vô minh huân tập, làm cho tâm nầy sanh diệt, đã thọ tất cả khổ lớn của thân và tâm; cho nên hiện tại bị vô lượng bức bách và vị lai sự khổ ấy lại cũng chẳng có ngằn mé, khó xả, khó lìa, mà cũng chẳng rõ biết; chúng sanh như thế, thật là đáng thương. Nên tư duy như thế nầy, phải dõng mãnh lên, lập thệ nguyện lớn; nguyện ấy làm cho tâm ta lìa được sự phân biệt, trải khắp mười phương, tu hành tất cả các công đức lành, tận đến vị lai, dùng vô lượng phương tiện, cứu bạt tất cả khổ não của chúng sanh, làm cho được đệ nhứt an lạc của Niết Bàn. Đã khởi tâm như thế rồi, đối với tất cả lúc, tất cả nơi, các việc lành theo đó càng sâu, chẳng xa rời tâm tu học, lại chẳng giải đãi. Ngoài việc ngồi ra, lúc nào cũng nhớ đến chỉ (dừng). Ngoài ra tất cả nên quan sát, nên tạo tác, chẳng nên tạo tác; hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi, tất cả đều nên thực hành chỉ quán. Nghĩa là chỉ nhớ nghĩ đến các pháp tự tánh chẳng sanh, mà chỉ nhớ nghĩ đến nhân duyên hòa hợp thiện ác nghiệp, khổ vui v.v… và nghiệp báo thì chẳng mất chẳng hoại. Chỉ nhớ nghĩ đến nhơn duyên thiện ác nghiệp báo, mà cũng phải nhớ nghĩ đến tánh ấy chẳng thể được. Nếu tu chỉ có nghĩa là đối trị với phàm phu, trụ vào sự đắm trước của thế gian; hay xa rời và thấy được sự yếu kém của nhị thừa. Nếu là tu quán thì đối trị nhị thừa, chẳng khởi tâm bi, tâm lượng hẹp hòi, xa lìa phàm phu chẳng tu căn lành. Đây là nghĩa ấy. Cả 2 môn chỉ quán nầy cùng tương trợ với nhau mà thành tựu; chẳng hề xa lìa; nếu chỉ quán không cùng nhau, tức chẳng thể nhập vào con đường giác ngộ.

Luận rằng: Trong câu văn nầy có 6 môn. Những gì là sáu? – Một là thị khuyết quán chỉ luân thất môn; hai là hiển thị tu hành quán luân môn; ba là duyên chúng sanh giới lập nguyện môn; bốn là lưỡng luân cụ chuyển bất ly môn; năm là hiển thị lưỡng luân sở trị môn; sáu là tổng kết lưỡng luân cụ chuyển môn. Đây gọi là sáu.

Trong môn thứ nhứt lại có 4 chuyện sai trái. Những gì là bốn?

Một là trầm luân sai trái, tâm nầy chưa được, chẳng thể rõ hết, như vào trong Ma Kiền Ha Thi cả phòng tối tăm. Đây giống như người tu chỉ, tâm nầy còn chìm nổi.

Hai là chẳng siêng năng sai trái. Tâm nầy giải đãi, chẳng hay tinh tấn, người người A Na Tỳ Đề vậy. Như đã nói hay khởi lên sự lười biếng.

Ba là ngoảnh mặt với việc lành. Tâm nầy chỉ một; chẳng thể phân biệt là nên làm hay chẳng nên làm; như người Bà Đa Ha Di Thi vậy. Nghĩa là chẳng vui với việc lành.

Bốn là lìa khỏi tâm bi. Tâm nầy nằm nguyên chẳng thể phát khởi lên tâm từ bi; như người bị hư các căn, dầu cho có mong muốn, cũng chẳng thể tăng trưởng được. Căn bản là xa lìa lòng đại bi vậy. Cho nên tu quán tức là chuyển qua quán đầy đủ.

Đã nói qua về thị khuyết quán chỉ luân thất môn rồi; bây giờ lần lượt nói về hiển thị tu hành quán luân môn. Trong môn nầy lại có 3 môn. Những gì là ba? – Một là khổ tướng quán môn; hai là vô thường quán môn; ba là bất tịnh quán môn. Đây gọi là ba.

Trong khổ tướng quán môn ấy lại có 2 loại. Những gì là hai? – Một là hoại khổ và hai là hành khổ. Nói là hoại khổ có nghĩa là tất cả các pháp hữu vi thanh tịnh hay có thể làm hoại tất cả những pháp chẳng thanh tịnh. Lại nữa tất cả các pháp bất tịnh lại có thể làm hại tất cả các pháp thanh tịnh.

Hai loại thế gian hỗ tương phá hoại với nhau. Những gì là hai? – Một là đầy đủ tất cả thế gian và hai là vọng tưởng hữu vi thế gian. Như thế 2 loại pháp thế gian nầy cùng phá hoại lẫn nhau. Cho nên gọi đây là hoại khổ. Nếu tu chỉ quán thì sẽ được lợi ích những gì? – Đó là thành tựu một việc làm một pháp sâu xa vậy. Như căn bản tu tập quán có nghĩa là quán tất cả pháp hữu vi của thế gian chẳng được lâu dài, như Tu Di sơn còn biến hoại nữa. Nói là hành khổ nghĩa là tất cả tâm hành đối với sự nhớ nghĩ thường hay di chuyển, mau sanh mau giảm chẳng thể từ nơi nầy đến nơi kia, như tất cả tâm hành, niệm niệm sanh diệt; cho nên gọi đây là khổ vậy.

Đã nói qua về khổ tướng quán môn rồi; bây giờ lần lượt nói đến vô thường quán môn. Trong môn nầy lại có 3 loại. Những gì là ba?

Một là Dĩ Quá Vô Thường, các pháp trong quá khứ trước có sau không, giống như giấc mộng kia khi ngủ thì có thấy rõ; nhưng khi thức rồi thì không còn nữa. Cho nên phải quán về quá khứ để nhớ nghĩ đến các pháp; phải biết rằng ấy là mộng huyễn.

Hai là đang có vô thường. Hiện tại các pháp xưa không có mà nay lại có; giống như điện chớp, sau đó liền mất, chẳng thể trụ lại lâu dài. Cho nên niệm quán hiện tại để nhớ đến các pháp cũng giống như điện chớp.

Ba là thường có vô thường, vị lai các pháp không có tự tánh mà tự nhiên đến, giống như mây nổi chẳng rõ biết chỗ nào, hốt nhiên có đó rồi tan vào khắp nơi ở mười phương. Nên quan sát ở vị lai để rõ các pháp giống như mây nổi, tự nhiên có đó vậy.

Đã nói về vô thường quán môn rồi; bây giờ lần lượt nói về bất tịnh quán môn. Nói là bất tịnh quán nghĩa là duyên vào các loại thân để tạo nên việc bất tịnh, xa lìa chỗ tham trước. Nên quán thế gian tất cả có thân đều là bất tịnh, đủ loại dơ uế; chẳng có một chút niềm vui.

Đã nói về hiển thị tu hành quán luân môn rồi; bây giờ lần lượt nói về duyên chúng sanh giới lập nguyện môn. Trong nầy lại có 2 loại. Những gì là hai? – Một là duyên vào chúng sanh giới, tư duy môn và hai là kiến lập thể nguyện biến bố môn. Đây gọi là hai.

Nói rằng nương vào chúng sanh giới tư duy môn nghĩa là duyên vào 3 cõi vô lượng vô biên tất cả chúng sanh và nhớ như thế nầy: Từ vô thỉ đến nay bị căn bản vô minh che lấp. Ví như bản giác thanh tịnh của Phật, trở về đó như không có mặt trời. Khi ra khỏi vô minh rồi thì liền rời bỏ, nếu ta chẳng phát tâm bi, chẳng nhiếp thủ thì lại trải qua nhiều kiếp số giữ ngôi chánh giác, kỳ thật không có thời gian, phát khởi vô biên tâm đại bi thì như vậy sẽ nhớ đến tất cả chúng sanh từ đời vô thỉ đến nay tất cả do nhơn vô minh huân tập cho nên làm cho tâm nầy sanh diệt rồi thọ tất cả thân tâm với khổ lớn. Nên hiện tại có vô lượng sự bức bách và vị lai khổ ấy chẳng có ngằn mé, khó bỏ khó lìa mà chẳng rõ biết chúng sanh như thế thật là đáng thương.

Nói là kiến lập thệ nguyện biến bố môn nghĩa là suy nghĩ như thế nầy rồi, liền lập đại thệ nguyện khởi lên trong 10 phương thế giới vi trần quang minh bát nhã, đạt được 10 phương thế giới vi trần đủ loại tâm tướng. Đối trị với 10 phương thế giới vi trần số tất cả các nghiệp chướng phiền não như biển cả. Đầy đủ 10 phương thế giới vi trần số việc làm là nguyên nhơn như biển cả; chứng được 10 phương thế giới vi trần số kết quả phước đức; tất cả đều làm cho chẳng thiếu. Rồi suy nghĩ như thế nầy và liền dõng mãnh lập đại thệ nguyện, nguyện cho tâm ta lìa sự phân biệt, làm cho 10 phương tu hành tất cả, tu những công đức lành cho đến đời vị lai vô lượng phương tiện để cứu khổ tất cả khổ não của chúng sanh và làm cho được Niết Bàn, đệ nhứt nghĩa an lạc.

Đã nói qua về duyên chúng sanh giới lập nguyện môn rồi; bây giờ lần lượt nói đến lưỡng luân cụ chuyển bất ly môn nghĩa là khi đã khởi lên lời nguyện rồi thì liền tu tập các việc lành là nhơn duyên như biển cả. Nếu khởi lên nguyện hải ấy mà chẳng siêng tu hành thì chẳng thể trang nghiêm viên mãn cái quả ấy. Nếu vì sự tu hành thì phải nên làm như thế nào? – Nghĩa là đầy đủ lưỡng luân làm cho vô biên vậy. Cụ lưỡng luân tướng ấy trong khế kinh nào phân minh hiển thị vậy? – Đó là Văn Thù Sư Lợi phát khởi 11.000 loại thậm thâm quảng đại viên mãn Đà La Ni khai vấn, vấn Đại Giác Tôn ích đại chúng hải khế kinh. Trong khế kinh kia nói như thế nào? – Trong khế kinh kia nói như thế nầy: Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi liền bạch Phật rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn! Vì sao lại gọi là chỉ quán cụ hành bất tương ly môn? Con và tất cả vô lượng vô biên đại chúng hải, tất cả đều vào nơi chẳng rõ chẳng biết biển cả vô minh; chẳng thể thông đạt, chẳng thể ra khỏi. Như vậy Thế Tôn vì muốn chúng con như là những đứa con trai, con gái mê mờ phân minh hiển rõ dùm cho.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: Hãy lắng nghe đây! Hãy lắng nghe đây! Hãy lành suy nghĩ, ta sẽ vì Ngươi phân biệt giải nói. Sau đó Đức Thế Tôn liền nói Già Đà (kệ) rằng:

Giống như chim một cánh

Hay xe chỉ một bánh

Người một chân cũng vậy

Ngựa kia một con mắt

Chẳng thể chạy nhanh được

Tùy chỗ mà vận chuyển

Đường nầy chỗ đi vào

Chẳng rơi vào hố nguy

Nếu đầy đủ một cặp

Hành giả mất một chân

Lại phải biết như thế

Việc nầy thật khó có

Pháp tánh trong hư không

Chở nhiều sự hiểu biết

Vào trong biển Phật Pháp

Chuyên chở nghĩa lý thật

Chơn như đường bình thường

Khắp nơi thông suốt đi

Tất cả ma ngoại đạo

Tà kiến sâu trong ấy

Chẳng lọt hầm hố kia

Cho nên những hành giả

Hai bánh đầy đủ chạy

Rốt chẳng thể xa lìa

Nếu là người tu hành

Mà không đủ hai điều

Cuối chẳng thể qua được

Vô thượng Đại Giác kia

Bây giờ trong câu kinh nầy muốn làm sáng tỏ nghĩa gì? Nghĩa là vì muốn hiển thị sự tu tập Tam Muội, đạt đến cảnh giới tịch tịnh, tu tập trí tuệ, chiếu tan những cảnh động. Trong sự yên tĩnh ấy thường chẳng xa rời cái động. Ở trong sự tán loạn kia, thường chẳng xa rời sự yên tịnh, rồi cũng chẳng xa lìa các việc làm và những việc chuyển động. Lại nữa vì muốn hiển thị tu tập Tam Muội, đạt đến cảnh giới không, vô; tu tập trí tuệ để làm sáng tỏ cảnh giới hiện tại. Trong cái không ấy chẳng đắm trước cái có. Trong cái có ấy chẳng nhiễm cái không. Có không đều chiếu rọi; không có đều cùng khắp, mà chẳng hề xa lìa, đều làm đều chuyển. Lại nữa vì muốn hiển thị tu tập Tam Muội đạt đến lý bình đẳng, tu tập trí tuệ soi rõ việc sai biệt; lý sự cả hai chẳng có sai biệt, mà chẳng lìa bỏ, đều làm đều chuyển. Lại nữa vì muốn hiển thị chỉ nên thường chờ quán rồi mới kiến lập nên phi tự tánh của chỉ. Quán ấy sẽ chờ chỉ rồi mới kiến lập phi tự tánh của quán. Lại chẳng có chỉ, lại chẳng có quán. Lại nữa vì muốn hiển thị chỉ, liền đó là quán và quán ấy là chỉ. Chỉ quán một thể không sai biệt. Cho nên như đây lần lượt nên phán xét suy nghĩ. Như thế khi khởi lên rồi liền nguyện. Đối với tất cả lúc, đối với tất cả nơi đều có các việc lành tùy theo chỗ này mà chẳng thể xa rời sự tu học, tâm chẳng giải đãi. Ngoài lúc ngồi ra chuyên niệm về chỉ. Tất cả đều phải nên quan sát việc nên làm, chẳng nên làm; hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi, tất cả đều nên chỉ quán đầy đủ. Nghĩa là chỉ nhớ nghĩ đến các pháp tự tánh chẳng sanh mà liền nhớ nghĩ đến nhân duyên hòa hợp, nghiệp lành và dữ. Khổ vui cùng với nghiệp báo chẳng mất chẳng hoại. Chỉ nghĩ đến nhơn duyên thiện ác nghiệp báo mà liền suy nghĩ, tánh ấy khó thể được.

Đã nói về lưỡng luân cụ chuyển bất ly môn rồi; bây giờ liền nói đến hiển thị lưỡng luân sở trị môn. Nếu có hành giả nào tu tập chỉ luân thì phải đối trị với những sai trái gì? – Nghĩa là phải đối trị với phàm phu chúng sanh nhiễm trước và sai quấy. Nhị thừa chúng sanh vui, không, sai quấy. Tất cả đều lìa khỏi vậy. Như vậy sự tu chỉ là đối trị với phàm phu trụ trước vào thế gian; nên xả bỏ chỗ thấy kiết yếu kém của Nhị Thừa. Nếu có hành giả tu tập quán luân sẽ đối trị với những gì sai quấy? – Đó là đối trị với nhị thừa chúng sanh về việc xa rời tâm Đại Bi, chẳng cứu khổ chúng sanh yếu kém sai quấy. Phàm phu chúng sanh thường hay giải đãi, chẳng siêng năng tinh tấn, chẳng tu việc lành; vui với việc ác sai quấy; tất cả đều phải ra khỏi. Như vậy kẻ tu quán để đối trị với nhị thừa chẳng khởi lòng đại bi với tâm hẹp hòi sai quấy. Xa rời phàm phu chẳng tu căn lành.

Đã nói qua về hiển thị lưỡng luân sở trị môn rồi; bây giờ lần lượt nói đến tổng kết lưỡng luân cụ chuyển môn. Đó là tổng kết như trên đã nói về luân khuyết hành giả quá sai quấy. Lấy từ nghĩa nầy; cho nên môn chỉ quán cùng với sự hỗ tương với nhau thành tướng chẳng xa lìa. Nếu chỉ quán không đầy đủ tức chẳng thể nhập vào con đường giác ngộ.

Đã nói qua về lưỡng luân cụ khuyết ích tổn môn rồi; bây giờ lần lượt nói về cần liệt hướng thắng bất thối môn.

Viết rằng: Lại nữa chúng sanh mới bắt đầu học pháp, muốn cầu chánh tín, tâm nầy yếu đuối, ở nơi thế giới Ta Bà nầy tự sợ chẳng hay thường gặp được chư Phật để chính mình cúng dường. Nghĩa là tín tâm khó thể thành tựu; nên có ý muốn thối thác. Nhưng phải biết rằng Như Lai có đủ phương tiện để nhiếp hộ tín tâm nầy. Nghĩa là dùng sự chuyển tâm niệm Phật thì đây là nhơn duyên, tùy theo nguyện ấy mà được sanh về đất Phật ở phương kia, thường hay thấy Phật, vĩnh viễn xa rời con đường ác như kinh đã nói. Nếu người nào chuyên tâm niệm Tây Phương Cực Lạc Thế Giới của Đức Phật A Di Đà thì nhờ tu căn lành hồi hướng đến thế giới kia và nguyện sanh về thì liền được vãng sanh, thường hay gặp Phật. Cuối cùng chẳng có thối tâm. Nên quán chơn như pháp thân của Phật kia, thường hay tu tập tinh tấn, cứu cánh sẽ được vãng sanh và ở ngôi Chánh Định.

Luận rằng: Trong câu văn nầy lại có 7 môn. Những gì là bảy? – Một là hiển thị thú hướng giả nhơn môn; hai là quy y sở học giáo pháp môn; ba là yểm ác xứ sở thoái tín môn; bốn là Như Lai phương tiện thù thắng môn; năm là thừa lực đắc thắng diệu xứ môn; sáu là đắc thiện xứ định bất thoái môn; bảy là dẫn kinh chứng tự sở thuyết môn. Đây gọi là bảy.

Nói là hiển thị thú hướng giả nhơn môn nghĩa là hiển thị được thập tín vị trước 4 loại tâm, liền chẳng rơi xuống chúng sanh hạ phẩm. Như căn bản đã nói về chúng sanh rồi.

Nói là quy y sở học giáo pháp môn nghĩa là chúng sanh hạ phẩm thập tín kia quy y và tin tưởng sâu xa với vô cực đại thừa khi mới học tập. Nghĩa là tất cả lấy chư Phật làm Thầy, 3 đời chẳng động, 4 tướng chẳng gặp. Tự nhiên thường ở Địa Tiền, Địa Thượng ở những con đường lớn. Như vậy đây là pháp cho kẻ sơ học vậy.

Nói là yểm ác thú sở thoái tín môn nghĩa là đối với Thập Tín vị hạ phẩm chúng sanh kia tuy gần gũi thân cận nghe nhận pháp môn sâu xa kia mà tâm nầy thân nầy yếu đuối sợ 2 việc lớn chẳng thể tiến được; nên lại muốn thối lui. Những gì là hai? – Một là quốc độ và hai là thắng duyên.

Nói là quốc độ tức là Ta Bà thế giới nầy. Nơi đây thô ác chúng sanh ô trược loạn động, phát khởi tịnh tâm và siêng tu hành thì thật là khó. Vì sao vậy? – Đối với tâm kia, đảo lộn cảnh giới, đối với tất cả lúc, đối với tất cả nơi thường hay hiện hữu trong tâm, mặt ấy luôn hướng tới chẳng thể buông bỏ.

Nói là thắng duyên nghĩa là đối với thế giới nầy nương vào chỗ ô trược loạn động tất cả chư Phật xuất thế thật là hy hữu, vô lượng Bồ Tát cảm phục thì quá xa. Chư Phật và Bồ Tát xuất hiện nơi đời tùy thuận theo tâm tình giống như tấm kiếng sạch và chẳng sạch. Nghĩa nầy là kẻ tu hành kia chẳng gặp được thắng duyên; nên sanh ra sợ hãi, phát ra ý nghĩ thối lui. Như vậy muốn cầu chánh tín tâm nầy yếu đuối mà ở nơi thế giới Ta Bà nầy thì tự mình lo sợ chẳng thể thường hay gặp được Phật để được tự cúng dường. Nghĩa là lòng tin kia khó thể thành tựu và có ý muốn thoái lui.

Nói là Như Lai phương tiện thù thắng môn nghĩa là chư Phật Như Lai có bất khả tư nghì, thậm thâm cực diệu với những phương tiện lớn có thể lành nhiếp giữ gìn tín tâm của người kia chuyên thẳng tiến đến. Thế nào là chuyên niệm? – Nghĩa là chuyên chú ý hồi tưởng nhớ nghĩ đến cảnh giới Tịnh Độ kia có đủ loại y báo và chánh báo. Niệm nầy luôn liên tục làm cho chẳng dứt mất. Như vậy phải nên biết rằng Như Lai có thắng lực phương tiện nhiếp hộ tín tâm; nghĩa là chuyên ý niệm Phật nhơn duyên vậy.

Nói là thừa lực đắc thắng diệu xứ môn nghĩa là các Đức Như Lai dùng bất khả tư nghì phương tiện lực tùy theo sở nguyện liền được vãng sanh về cảnh giới Cực Lạc vi diệu. Như căn bản tùy theo nguyện ấy mà được sanh về Tịnh Độ kia.

Nói là được thiện xứ định bất thoái môn nghĩa là sanh về cảnh kia rồi mở mắt ra thấy Như Lai đầy đủ hình tướng tốt đẹp, tai được nghe bậc Thánh thuyết các pháp âm thâm diệu, vĩnh viễn xa rời tiếng ác. Từ định bất động, biển tâm gạn sạch thân thể trở nên trong sáng; nương vào chánh pháp vi diệu thanh tịnh. Ở đó thường hay thấy Phật và vĩnh viễn xa rời đường ác.

Nói là dẫn kinh chứng tự sở thuyết môn nghĩa là nên nhiếp lấy việc thuyết pháp mà những ngôn ngữ thuộc về kinh chính, tán thán lời nói ấy và giải thích câu văn, dẫn dụ câu kinh, nói rõ minh bạch, chẳng cần giải thích lại. Như tất cả các kinh văn dạy, nếu có người chuyên tâm nhớ nghĩ về Tây phương Cực lạc Thế giới của Đức Phật A Di Đà thì phải tu căn lành hồi hướng và nguyện cầu sanh về thế giới kia; tức liền được vãng sanh và thường hay gặp Phật. Cuối cùng chẳng có thoái chuyển. Nếu xem được chơn như pháp thân của Phật kia thì thường xuyên tu tập; cuối cùng sẽ được vãng sanh về chánh định tụ vậy.

Đã nói qua về tu hành tín tâm phần rồi; bây giờ lần lượt nói đến khuyến tu lợi ích phần.

Viết rằng: Như vậy Ma Ha Diễn là tạng pháp bí mật của chư Phật, ta đã nói tổng quát rồi; nếu có chúng sanh nào muốn đối trước cảnh giới sâu xa của Như Lai được sanh chánh tín, xa rời sự phỉ báng, nhập vào con đường Đại Thừa sẽ giữ được luận nầy, suy xét tu tập, cuối cùng sẽ đến được vô thượng đạo. Nếu người nào nghe pháp nầy rồi thì chẳng sanh khiếp nhược; sẽ rõ biết người ấy nhứt định sẽ có hạt giống Phật, tức sẽ được chư Phật thọ ký cho. Giả sử nếu có người hay biến hóa trong 3.000 đại thiên thế giới có đầy khắp chúng sanh, làm cho họ thực hành thập thiện; chẳng có người chỉ trong một bữa ăn suy nghĩ đúng đắn như pháp nầy trải qua những công đức trước thì chẳng thể ví dụ được. Lại nữa nếu có người thọ trì kinh luận nầy quan sát tu hành hoặc trong một ngày hay một đêm thì những công đức ấy có được vô lượng vô biên chẳng thể nói được. Làm cho thập phương tất cả chư Phật, mỗi vị đều trải qua vô lượng vô biên A Tăng Kỳ Kiếp tán thán công đức nầy, cũng chẳng cùng tận. Vì sao vậy? – Nghĩa là pháp tánh công đức ấy chẳng có cùng tận. Công đức của người nầy lại cũng như thế, không có ngằn mé. Chúng sanh nầy đối với luận nầy hủy báng chẳng tin thì sẽ bị tội báo; trải qua vô lượng kiếp thọ nhận những khổ não lớn. Cho nên chúng sanh thường hay tin tưởng ngưỡng mộ, chẳng nên hủy báng, chỉ hại tự mình hoặc hại người khác, đoạn tuyệt tất cả hạt giống Tam Bảo, mà tất cả các Đức Như Lai đều nương vào pháp nầy để chứng được Niết Bàn. Tất cả các Bồ Tát nhơn việc tu hành nầy mà nhập được trí huệ của chư Phật, sẽ rõ biết được các Bồ Tát trong quá khứ đều nương vào pháp nầy mà được thành tựu lòng tin thanh tịnh. Hiện tại các Bồ Tát hay nương vào pháp nầy sẽ được lòng tin thanh tịnh. Vị lai Bồ Tát sẽ nương vào pháp nầy được thành tựu tín tâm thanh tịnh. Cho nên các chúng sanh phải siêng năng cố gắng tu hành.

Luận rằng: Trong câu văn nầy lại có 8 môn. Những gì là tám? – Một là cử tuyền sở thuyết tổng kết môn; hai là cử ích khuyến nhơn lệnh tu môn; ba là hiển ly nghi tín công đức môn; bốn là thử loại vi đối thị thắng môn; năm là cử thọ trì công tán dương môn; sáu là cử phỉ báng quá lệnh bố môn; bảy là thù thắng quảng thuyết ly báng môn; tám là tổng kết tu hành khuyên nhơn môn. Đây gọi là tám.

Nói là cử tiền sở thuyết tổng kết môn nghĩa là lấy một chữ tổng và một chữ kết trong 8 loại Ma Ha Diễn vậy. Vì sao thế? – Vì pháp ấy nói lược chẳng có biết. Cho nên cử bổn nhiếp phần sau nầy. Như đã nói đây là mật tạng Ma Ha Diễn của chư Phật, ta đã nói tổng quát rồi.

Nói là cử ích khuyến nhơn lệnh tu môn nghĩa là tập thành việc làm là nguyên nhơn như biển cả, mà vì sự trang nghiêm pháp thân là kết quả. Thọ trì luận nầy suy nghĩ nghĩa lý, thường hay liên tục, chẳng có đoạn tuyệt. Như đã nói nếu có chúng sanh nào muốn ở nơi Như Lai được cảnh giới sâu xa thì được sanh chánh tín, xa rời sự hủy báng và nhập vào con đường Đại Thừa thì sẽ thọ trì luận nầy suy nghĩ tu tập một cách rốt ráo, thì có thể đến vô thượng đạo.

Nói là hiển ly nghi tín công đức môn nghĩa là có những chúng sanh khi nghe được Ma Ha Diễn nầy sâu xa cực diệu, quảng đại pháp môn rồi, liền trong tâm nầy lại chẳng có nghi sợ, lại chẳng yếu đuối, lại chẳng xem nhẹ, lại chẳng hủy báng mà phát tâm quyết định, phát tâm kiên cố, phát tâm tôn trọng, phát tâm tín thọ… thì rõ biết người nầy thật là một Phật Tử, chẳng mất giống Phật, chẳng mất giống Tăng, chẳng mất giống Pháp thường hay liên tục; thay đổi tăng trưởng cả đến vị lai, lại được chư Phật thân cận gần gũi thọ ký cho. Lại vì tất cả vô lượng những Bồ Tát hộ niệm cho. Nếu có người nghe pháp nầy rồi chẳng sanh khiếp nhược thì biết người nầy nhứt định gần Phật và tất nhiên sẽ được chư Phật thọ ký.

Nói là thử loại vi đối thị thắng môn nghĩa là có người hay lành nhiếp hóa 3.000 đại thiên thế giới đầy khắp chúng sanh, tất cả đều thực hành thập thiện; hoặc có chúng sanh chỉ trong khoảng một bữa ăn mà đối với pháp sâu xa nầy quan sát suy nghĩ. Nếu so sánh công đức của hai người nầy thì người đầu được công đức thậm thâm vi diệu giống như hạt lúa tạo ra một phần trong trăm phần. Còn người thứ hai thì được công đức thâm cực rộng lớn số lượng giống như trong 10 phương thế giới vi trần. Như đã nói giả sử có người hay hóa hiện trong 3.000 đại thiên thế giới đầy dẫy chúng sanh và làm cho họ thực hành thập thiện, chẳng giống như người nầy đối với trong một bữa ăn chánh tư duy về pháp nầy, trải qua những công đức trước chẳng thể ví dụ được.

Nói là cử thọ trì công tán dương môn nghĩa là nếu có người nào thọ trì luận nầy rồi quan sát nghĩa lý trong một ngày hay một đêm, trong thời gian ấy sẽ được công đức vô lượng vô biên, bất khả thuyết, bất khả tư lường. Giả sử trong 10 phương ba đời tất cả chư Phật và 10 phương ba đời tất cả các vị Bồ Tát cùng với 10 phương thế giới vi trần của lưỡi, mỗi mỗi đều ở trong 10 phương thế giới vi trần số kiếp ấy chẳng thể nói hết tán dương người nầy mà công đức kia chẳng thể cùng tận lại chẳng hủy báng mà phát tâm quyết định, phát tâm kiên cố, phát tâm tôn trọng, phát tâm tín thọ… thì rõ biết người nầy thật là một Phật Tử, chẳng mất giống Phật, chẳng mất giống Tăng, chẳng mất giống Pháp thường hay liên tục; thay đổi tăng trưởng cả đến vị lai, lại được chư Phật thân cận gần gũi thọ ký cho. Lại vì tất cả vô lượng những Bồ Tát hộ niệm cho. Nếu có người nghe pháp nầy rồi chẳng sanh khiếp nhược thì biết người nầy nhứt định gần Phật và tất nhiên sẽ được chư Phật thọ ký.

Nói là thử loại vi đối thị thắng môn nghĩa là có người hay lành nhiếp hóa 3.000 đại thiên thế giới đầy khắp chúng sanh, tất cả đều thực hành thập thiện; hoặc có chúng sanh chỉ trong khoảng một bữa ăn mà đối với pháp sâu xa nầy quan sát suy nghĩ. Nếu so sánh công đức của hai người nầy thì người đầu được công đức thậm thâm vi diệu giống như hạt lúa tạo ra một phần trong trăm phần. Còn người thứ hai thì được công đức thâm cực rộng lớn vô lượng giống như trong 10 phương thế giới vi trần. Như đã nói giả sử có người hay hóa hiện trong 3.000 đại thiên thế giới đầy dẫy chúng sanh và làm cho họ thực hành thập thiện; chẳng giống như người nầy đối với trong một bữa ăn chánh tư duy về pháp nầy, trải qua những công đức trước chẳng thể ví dụ được.

Nói là cử thọ trì công tán dương môn nghĩa là nếu có người nào thọ trì luận nầy rồi quan sát nghĩa lý trong một ngày hay một đêm, trong thời gian ấy sẽ được công đức vô lượng vô biên, bất khả thuyết, bất khả tư lường. Giả sử trong 10 phương 3 đời tất cả chư Phật và 10 phương 3 đời tất cả các vị Bồ Tát cùng với 10 phương thế giới vi trần của lưỡi, mỗi mỗi đều ở trong 10 phương thế giới vi trần số kiếp ấy chẳng thể nói hết tán dương người nầy mà công đức kia chẳng thể cùng tận. Vì sao vậy? – Vì công đức của pháp thân chơn như ấy sánh với hư không giới thì không có ngằn mé, hà huống là người phàm phu nhị thừa có thể xưng tán được; so với người thọ trì trong khoảng thời gian một ngày một đêm không có nhiều, lại được công đức bất khả tư nghì hà huống là 2 ngày hoặc 3 ngày hoặc 4 ngày hay đến 100 ngày, thọ trì đọc tụng suy nghĩ quan sát thật là bất khả tư nghì, bất khả tư nghì, bất khả thuyết, bất khả thuyết vậy. Lại nữa nếu có người thọ trì luận nầy rồi quan sát tu hành nếu trong một ngày một đêm thì công đức ấy vô lượng vô biên chẳng thể nói hết được. Giả sử trong 10 phương tất cả chư Phật ở trong vô lượng vô biên A Tăng kỳ kiếp tán thán công đức nầy lại cũng chẳng thể cùng tận. Vì sao vậy? – Nghĩa là pháp tánh công đức kia không có cùng tận vậy. Công đức của người nầy lại cũng như thế, không có ngằn mé.

Nói là cử phỉ báng quá lệnh bố môn nghĩa là chúng sanh đối với luận nầy dạy đừng cho sanh tâm bất tín, đừng làm việc hủy báng; như vậy chúng sanh nầy lại bị tội báo cũng chẳng thể nói hết, chẳng thể nói hết trong kiếp số, phải thọ quả báo khổ não và những nỗi khổ lớn. Như có chúng sanh nào đối với luận nầy hủy báng chẳng tin thì phải nhận tội báo trải qua vô lượng kiếp, thọ những khổ não lớn. Cho nên chúng sanh thường nên ngưỡng vọng tin tưởng, chẳng nên hủy báng, rồi nói tổng kết như trên đã giải thích rõ để khuyến thỉnh các hành giả.

Từ đây trở xuống tạo nhơn duyên nầy về thị trọng quá thất. Nghĩa là trong pháp nầy chẳng tin và hủy báng; mất đi căn lành của chính mình, làm tổn hại đến công đức kia, đoạn tuyệt tất cả hạt giống Tam Bảo, chẳng có thời kỳ tiếp nối. Như vậy tự mình hại mình lại hại người khác nữa làm đoạn tuyệt tất cả hạt giống của Tam Bảo.

Nói là thù thắng quảng thuyết ly môn nghĩa là 10 phương 3 đời các Đức Như Lai đều lấy Ma Ha Diễn làm căn bản để thành Chánh Giác. Mười phương 3 đời vô lượng Bồ Tát tất cả đều lấy Ma Ha Diễn làm căn bản đầy đủ như biển cả làm nhơn duyên. Như vậy pháp Ma Ha Diễn nầy thật sâu xa. Nếu có chúng sanh nào sanh tâm chẳng tin, tranh luận phỉ báng thì những chúng sanh nầy lại có tên là chặt đứt tất cả chư Phật. Lại gọi là đoạn phạt tất cả các vị Bồ Tát. Lại gọi là đoạn tuyệt Như Lai Tạng của chính mình và bản giác Phật. Như đã nói tất cả các Đức Như Lai đều nương vào pháp nầy để được Niết Bàn. Các Bồ Tát nhơn việc tu hành nầy mà nhập vào Phật trí. Nên rõ biết tất cả Bồ Tát trong quá khứ đã nương vào pháp nầy được thành tịnh tín và hiện tại các Bồ Tát nay nương vào pháp nầy nên được thành tịnh tín. Vị lai Bồ Tát sẽ nương vào pháp nầy được thành tịnh tín. Cho nên chúng sanh nên siêng tu học. Đây tức là nói tổng kết về tu hành khuyến nhơn môn phải nên quan sát suy nghĩ phán xét.

Đã nói về khuyến tu lợi ích môn rồi; bây giờ lần lượt nói về hồi hướng biến bố môn.

Viết rằng: Chư Phật với nghĩa sâu xa rộng lớn, ta nay tùy phần nói tổng quát, hồi hướng công đức nầy như pháp tánh để làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh.

Luận rằng: Trong một bài tụng nầy lại có 3 môn. Những gì gọi là ba môn? – Một là nhiếp tiền sở thuyết tổng kết môn; hai là triển xá công đức lệnh quảng môn; ba là thí ư chúng sanh phổ lợi môn. Đây gọi là ba.

Trong môn đầu lại có hai loại. Những gì là hai? – Một là thông tổng nhiếp tiền sở thuyết môn; hai là hiển thị năng thuyết tự tướng môn. Như đây lần lượt sẽ phán xét quan sát; chư Phật thậm thâm với ý nghĩa rộng lớn tức là thông nhiếp tiền sở thuyết môn. Điều ấy có nghĩa là thông nhiếp 33 loại pháp số căn bản. Nghĩa nầy như thế nào? – Nói chư Phật nghĩa là chẳng phải 2 pháp Ma Ha Diễn. Vì sao thế? – Điều nầy chẳng phải hai pháp, mà đối với hình tướng của vị Phật kia là cái đức nầy hơn cả. Trong kinh Đại Bản Hoa Nghiêm có nói như thế nầy: Cái đức viên mãn đầy đủ nầy của chư Phật hơn cả biển rộng. Cho nên điều nầy tất cả các vị Phật chẳng thể thành tựu đầy đủ bằng biển hẹp hòi. Vì sao mà bấy giờ trong phần lưu thông của Hoa Nghiêm khế kinh nói như vậy? – Lô Xá Na Phật 3 loại thế gian vì thân tâm nầy, 3 loại thế gian nhiếp lấy giáo pháp không thiếu. Thân tâm của Phật kia lại cũng chẳng có chỗ để nhiếp lấy. Lô Xá Na Phật tuy nhiếp 3 thế gian, mà sự nhiếp ấy lại chẳng nhiếp; cho nên chẳng sai quấy.

Nói rằng thậm thâm có nghĩa là 2 lần 8 loại pháp căn bản Ma Ha Diễn. Với nghĩa gì mà đây gọi là thậm thâm? – Như vậy 2 loại pháp Ma Ha Diễn có thể nhập môn với vọng cực thậm thâm. Do nghĩa nầy cho nên lập nên nghĩa thậm thâm và nên phán xét suy nghĩ.

Nói là quảng đại vì lẽ 2 lần có thể nhập vào pháp môn. Vậy thì nghĩa gì mà gọi là to lớn? –Như đây 2 loại có thể nhập vào pháp môn. Tất cả mỗi mỗi đều có thể rộng ra cho tự thể của mỗi pháp và có thể to lớn hơn cho tự thể của pháp, có thể làm cho chính pháp để tạo ra tên nầy. Dùng nghĩa nầy cho nên kiến lập được tên và nghĩa to lớn ấy.

Đã nói qua về thông tổng nhiếp tiền sở thuyết môn rồi; bây giờ lần lượt nói đến hiển thị năng thuyết tự tướng môn. Nói là ta nay tùy theo phần tổng trì để nói; nghĩa là hiển thị có thể nói về tự tướng môn. Nghĩa là dùng chữ tổng để thông qua chữ trì của tất cả các loại lời nói. Lập nên từng phần nghĩa trong Ma Ha Diễn gọi là Tổng. Tức là phần nầy vậy. Vì sao nói một chữ thông trì? – Vì muốn hiển thị luận Ma Ha Diễn nầy là một luận như ý.

Đã nói qua về nhiếp tiền sở thuyết tổng kết môn rồi; bây giờ lần lượt nói về triển xá công đức lệnh quảng môn. Nói là hồi hướng công đức nầy như pháp tánh tức là triển xá công đức lệnh quảng môn. Điều nầy nghĩa là tự chỗ mình làm được các công đức, rồi hồi hướng đến 3 nơi. Những gì là ba? – Một là chơn như; hai là nhứt tâm pháp; ba là bản giác Phật tánh. Đây được gọi là ba. Dùng nghĩa gì mà lại nói hồi hướng đến 3 nơi? – Nghĩa là vì muốn tự chỗ làm công đức, làm cho bình đẳng cho nên hồi hướng đến chơn như. Hoặc vì muốn tự chỗ làm công đức, làm cho rộng lớn thêm; cho nên hồi hướng đến một tâm; hoặc vì muốn tự chỗ làm công đức làm cho rõ suốt, cho nên hồi hướng đến bản giác; nên như thế mà rõ biết; cho nên như thế mà quán sát. Như vậy sự hồi hướng nầy có được lợi ích gì? – Nghĩa là nhiều lắm. Nghĩa nầy như thế nào? – Giống như dùng một hạt bụi đặt lên trên đất rộng. Chỗ để hạt bụi ấy cùng đất rộng kia chẳng có sai khác. Pháp môn hồi hướng lại cũng như thế ấy. Lại nữa giống như dùng một giọt nước rồi đặt vào trong biển thì chỗ bỏ nước vào đó cùng với biển lớn chẳng có chỗ sai khác. Pháp môn hồi hướng lại cũng như vậy. Lại nữa giống như đập phá một sự hiện hữu nhỏ thì liền với hư không lớn chẳng có gì sai biệt. Pháp môn hồi hướng lại cũng như thế.

Đã nói qua về triển xá công đức lệnh quảng môn rồi; bây giờ lần lượt nói đến thí ư chúng sanh phổ lợi môn. Nói là phổ lợi tất cả chúng sanh giới; tức là thí cho các chúng sanh phổ lợi môn. Nghĩa là đưa công đức viên mãn to lớn ấy lên phổ biến khắp nơi làm lợi ích cho các cõi của chúng sanh vậy.

Hoan hỷ Đại Sĩ chí tâm động

Trong nhiều Phật Tử như biển cả

Ta đã trải qua kiếp lông, sừng

Qua khỏi sanh tử của bốn căn

Đầu tiên đủ loại ăn đầy đủ

Thứ đến Tăng kỳ lại vào không

Như thế nầy hãy các Phật Tử

Giống như hai tay trái và phải

Cầm lấy giải thích sáng như gương

Cùng bảy thức suy ra như mặt

Thấy lục trần cảnh giới dơ nhớp

Rửa pháp người chấp ta hằng bảo

Các ngươi Phật Tử nếu như thế

Pháp thân, ứng, hóa cả ba thân

Như nhà đầy chữ ở trước đó

Thường lạc ngã tịnh là bốn đức

Như vào trong ao rồi ra khỏi

Ta từ bốn vua, xứ tự tại

Xuống vào biển lớn nơi long cung

Tùy theo các loại, biển khế kinh

Tổng số một trăm loại Lạc Xoa

Như vậy các kinh pháp chơn thật

Vô lượng vô biên, nghĩa khác nhau

Ma Ha Diễn Luận, trong ấy lập

Để nhiếp an lạc, nói đầy đủ

Có các thiện nam cùng thiện nữ

Trong tay có được quyển luận này

Mỗi người trong tay cầm trăm kinh

Hoặc tự miệng mình tụng phần chính

Gọi đây tụng đủ trăm loại kinh

Người nầy lại được những công đức

Mười phương thế giới nhiều như bụi

Chư Phật cùng với Đại Bồ Tát

Mỗi vị tướng lưỡi như vi trần

Như vậy ở trong nhiều kiếp số

Chẳng thể nói hết, chẳng nghĩ hết

Hà huống quan sát cùng ý nghĩa

Suy nghĩ câu văn cùng chú giải

Cùng thiện nam tử và thiện nữ

Sanh tâm chẳng tin và hủy báng

Người nầy sẽ bị các tội nghiệp

Mười phương thế giới nhiều như bụi

Chư Phật cùng với Đại Bồ Tát

Mỗi vị tướng lưỡi như vi trần

Như thế ở trong nhiều kiếp số

Chẳng thể nói hết cũng chẳng cùng

Người nầy tội xưa mất chỗ nương

Tất cả chư Phật chẳng thể cứu

Cho nên hành giả trở về cũ

Hay nương luận nầy mà tu hành

Thật chẳng thể sanh tâm không tín

Hủy báng sâu xa lý Đại Thừa

Nay nguyện việc nầy lưu bố rộng

Biến khắp các nơi chẳng giới hạn.

    Xem thêm:

  • Luận Kim Cang Đỉnh Du Già Trung Phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề - Luận Tạng
  • Luận Chư Giáo Quyết Định Danh Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Đại Tông Địa Huyền Văn Bổn - Luận Tạng
  • Tam Luận Lược Chương - Luận Tạng
  • Ngộ Tánh Luận - Luận Tạng
  • Giảng Giải Kinh Viên Giác - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 3 - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Thành Duy Thức Luận - Luận Tạng
  • Luận Nhập Đại Thừa - Luận Tạng
  • Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Luận Tạng
  • Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Lược Sớ - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Khai Tâm Hiển Tánh Đốn Ngộ Chơn Tông - Luận Tạng
  • Một Trăm Câu Hỏi Đáp Về Pháp Môn Niệm Phật - Luận Tạng
  • Thiền Tông Khảo Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 2 - Luận Tạng
  • Tán Thuật Kinh Kim Cang Bát Nhã - Luận Tạng