1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Quyển 4

Đã nói về Tánh Tịnh Bản Giác Môn rồi; bây giờ nói đến Căn Bản Vô Minh Trụ Địa Môn.

Giải rằng: Nói là Bất Giác nghĩa là chẳng rõ như thật, chơn như pháp chỉ có một. Tâm bất giác khởi lên mà có niệm nầy. Niệm ấy không có tự tướng, chẳng lìa khỏi bản giác; giống như người mê nương vào phương hướng vậy; nên vẫn mê; nếu lìa phương hướng, tức chẳng có mê. Chúng sanh lại cũng như thế. Nương vào giác cho nên mê; nếu lìa tánh giác tức chẳng thể chẳng giác, mà có bất giác là do tâm vọng tưởng vậy. Nên biết tên nghĩa mà nói chơn giác. Nếu lìa tâm bất giác, tức chẳng có chơn giác, tự tướng có thể nói.

Luận rằng: Trong câu văn nầy có hai môn. Những gì là hai? Một là dị thuyết tương ưng khế đương môn và hai là tùy thứ biệt thích tán thuyết môn. Môn đầu nghĩa là gì?

Tụng rằng:

Mâu Ni Đại Giác Tôn

Một đời Thánh nói ấy

Tổng có sáu loại nói

Nghĩa rõ tối đều chẳng

Không và cùng đầy đủ

Như thế sáu vô minh

Tùy nghĩa lập tên khác

Tức thể chẳng sai biệt

Luận rằng: Phàm trong suốt cuộc đời của Đức Thế Tôn nói nhiều loại khác nhau; nhưng tổng cộng có sáu loại. Những gì là sáu? Một là minh vô minh; hai là ám vô minh; ba là cụ thị vô minh; bốn là cụ phi vô minh; năm là không vô minh và sáu là cụ túc vô minh. Như thế 6 loại tùy theo nghĩa mà gọi tên, giúp thể vô biệt. Minh vô minh nghĩa là chữ nghĩa sai biệt; còn tướng nầy ra sao?

Tụng rằng:

Cứu cánh không ngoài không

Thông đạt hiển liễu minh

Đây do nhân duyên vậy

Nói tổng ý biệt minh

Luận rằng: Cứu cánh vô dư cho nên nói là vô. Thông đạt hiển liễu nên gọi là minh. Cho nên mặt trời viên mãn Bát Nhã chu biến khắp pháp giới; chẳng có mỗi một pháp nào mà chẳng minh. Cho nên sẽ rõ như thế vô minh là nói tổng ý; còn trong khế kinh biệt quang minh bảo trí nói như thế nầy:

Lúc bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất liền bạch Phật rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn! Vì nhơn duyên gì mà trong đại chúng xướng lên như thế nầy: Ta nay nói trong tất cả các khế kinh, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu đều tận nhiếp tất cả vô lượng chỗ rõ ràng, mà vì các chúng sanh thuần căn, dùng những lời nói mà đàm luận. Nếu như Thế Tôn nói, sẽ vì chuyện sai trái thì vì sao vậy? như chữ vô minh, tuy có biểu hiện phẩm chất đen; chẳng thể biểu thị Bát Nhã Trí Minh. Cho đến chữ vô thường chỉ biểu hiện tướng của sanh diệt chẳng thể rõ ràng biểu hiện vô vi, sẽ trụ chơn thật lý sao? Vì sao mà Thế Tôn lại nói như vậy?

Sau đó Đức Thế Tôn bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng:

Ta nay sẽ nói thật chẳng sai trái. Vì sao vậy? Như chữ vô minh, chẳng thể được nói, tuy biểu hiện phẩm chất tối. Ngươi trí huệ lực hẹp, yếu, nhỏ bé nên thấy nhỏ, nghe nhỏ; nên nghi như thế, mà chữ vô minh nầy tận nhiếp tất cả Bát Nhã Trí Minh đầy đủ viên mãn, không chỗ khuyết thất. Cho nên nghĩa là cứu cánh vậy. Nghĩa là chu biến; nghĩa là viên mãn; nghĩa là bình đẳng; nghĩa là vô dư; nên nói là không; nghĩa là thông đạt; nghĩa là hiểu rõ; nghĩa là quán chiếu; nghĩa là biện tìm; nghĩa là vô ngại; nên nói là minh. Cho đến nói rộng ra. Còn ám vô minh, chữ nghĩa ấy khác nhau; vậy tướng nầy là gì?

Tụng rằng:

Tất cả Bát Nhã minh

Chứa giấu làm chẳng sanh

Giống như trong chỗ tối

Chẳng có việc thù thắng

Luận rằng: Căn bản vô minh có thể che tất cả tổng trì huệ minh, chướng ngại làm cho chẳng sanh. Dụ như trong bóng tối, đồ đạc trang nghiêm, có tướng thắng diệu mà bị tối che đi. Việc thù thắng kia chẳng được xuất hiện. Cho nên nói bóng tối kia là vô minh. Trong viên mãn khế kinh nói như thế nầy: Tất cả chúng sanh đều đầy đủ ba trí; nhưng do vì điên đảo cho nên chẳng rõ, chẳng biết vậy. Còn Cụ Thị Vô Minh theo chữ nghĩa sai biệt, tướng nầy như thế nào?

Tụng rằng

Chỉ một loại vô minh

Hoặc sáng hay là tối

Giống như một màu tối

Hai người mỗi thấy khác

Luận rằng: Một loại vô minh hoặc sáng hoặc tối; giống như một màu mà hai người thấy khác nhau. Nghĩa nầy như thế nào? Nghĩa là như Ca La Cưu Xà Na và một người khác cùng ở trong một đêm tối, cùng tại một chỗ, thấy màu đen nầy. Trong khi Ca La Cưu Xà Na chỉ thấy màu sắc thanh tịnh quang minh. Còn người kia chỉ thấy một màu đen tối thì Cụ Thị Vô Minh lại cũng là như vậy. Tuy chỉ có một vô minh; hoặc trí huệ minh; hoặc hắc pháp ám, kể cả 2 việc vậy. Trong thậm thâm khế kinh nói như thế nầy: Căn bản vô minh đối với người huyễn có thể tạo ra huyễn chất; đối với người có đức có thể tạo ra đức chất; chẳng thể chấp vào một, mà cũng chẳng phải một vậy. Còn Cụ Phi vô minh nghĩa của chữ sai biệt và tướng ấy ra sao?

Tụng rằng:

Từ vô thỉ đến nay

Chẳng có nói nương vào

Xa rời liễu biệt chuyển

Xa lìa xa lìa vậy

Luận rằng: Nói Cụ Phi nghĩa là không nói nương tựa vậy; lìa tâm mà chuyển vậy. Cho nên gọi là Cụ Phi vô minh. Trong khế kinh Bát Thắng Thiên Tử có nói như thế nầy:

Lúc bấy giờ Quang Minh Tự Tại Hoa Bảo Diệu Luân Thiên Tử liền thừa Phật thần lực mà bạch Phật rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn! Vô minh có chăng?

Đáp rằng: Chẳng có.

Hỏi rằng: Không chăng?

Đáp rằng: Không có.

Hỏi rằng: Cùng có cùng không chăng?

Đáp rằng: Không có.

Hỏi rằng: Chẳng có chẳng không chăng?

Đáp rằng: Chẳng có.

Hỏi rằng: Chẳng phải chăng?

Đáp rằng: Không vậy.

Hỏi rằng: Vì sao có như vậy?

Đáp rằng: Dùng vô có thể sáng việc ấy. Cho nên nói vô thủy, vô minh vậy. Còn Không Vô Minh, chữ nghĩa sai biệt, tướng nầy là gì?

Tụng rằng:

Vô thể, dụng tắc không

Giống như sừng thỏ không

Như thế rõ đạo lý

Cho nên nói là minh

Luận rằng: Không vô minh, thể dụng đều không; cho nên gọi là vô. Như vậy đạo lý rõ ràng hiện tiền. Gọi đây là Minh; giống như sừng thỏ trước sau không có; tất cả mọi người đều biết như thế. Trong vô thủy khế kinh nói như thế nầy:

Căn bản vô minh không có sở hữu, là do biến kế sở chấp vậy. Còn Cụ Túc vô minh thì chữ nghĩa khác nhau thì tướng nầy như thế nào?

Tụng rằng:

Nhiễm tịnh tất cả pháp

Thông xuất tăng sanh trưởng

Do nhân duyên nầy vậy

Kiến lập đầy đủ tên

Luận rằng: Nói là Cụ Túc nghĩa là căn bản vô minh có thể sanh tất cả nhiễm pháp và tịnh pháp, làm cho tăng trưởng, rồi lập nên tên gọi đầy đủ. Trong khế kinh Phật Tánh Giải Thoát nói như thế nầy:

Từ loại vô minh, xuất ra cây giác trí. Từ cây giác trí xuất ra hoa công đức trí tuệ. Từ hai vòng hoa kết thành quả pháp thân giải thoát. Cho đến có thể nói rộng thêm nữa. Như vậy 6 loại căn bản vô minh; ở trong luận văn đã nói rõ ràng rồi. Bây giờ an lập phân phối lược đi vậy. Vả lại ám vô minh tên chữ sai biệt; còn tướng nầy thì sao? Trong khế kinh nói khác với số lần có.

Tụng rằng:

Tổng có mười tên gọi

Khế kinh nói khác nhau

Thấy một xứ trụ địa

Hoặc báo ân vô tận

Hoặc vô thỉ hữu chung

Hoặc vô đẳng đẳng sanh

Hoặc sanh được, quán đủ

Trí ngại và bất giác

Giác rồi cùng tử tàng

Như thế mười loại tên

Tùy nghĩa dùng sai biệt

Chỉ một ám vô minh

Luận rằng: Phàm gọi chung nhiều loại khế kinh tổng nói có 10 loại. Những gì là mười?

Một là thấy một nơi trụ địa.

Hai là báo ân vô tận địa.

Ba là vô thỉ vô chung trụ địa.

Bốn là vô đẳng đẳng sanh trụ địa.

Năm là sanh được trụ địa.

Sáu là quán mãn trụ địa.

Bảy là trí ngại trụ địa.

Tám là bất giác trụ địa.

Chín là giác liễu trụ địa.

Mười là tử tạng trụ địa.

Đây gọi là mười. Như vậy 10 tên, duy chỉ có một thể; tùy theo nghĩa mà dùng riêng; nên rõ quan sát. Kiến nhứt xứ trụ địa là chữ nghĩa sai biệt; còn tướng nầy thì như thế nào?

Tụng rằng:

Viên mãn Bát Nhã huệ

Hiện thấy một pháp giới

Vô minh thể đốn mất

Nên gọi thấy một xứ

Luận rằng: Kim Cang tâm hoàn, trí huệ chưa đủ, phước đức vi diệu; chẳng đạt nhứt tâm, trung thật xứ vậy. Căn bản vô minh giống như chưa ra khỏi, mà cùng với vạn hạnh, lúc đến quả vị; thỉ giác Bát Nhã nếu phân minh rõ ràng thì bổn hữu công đức cụ túc viên mãn; hiện thấy trong một pháp giới; tâm an vị trú xứ. Căn bản vô minh đốn đoạn không còn. Cho nên gọi là kiến nhứt xứ hoặc. Trong khế kinh Quang Nghiêm Đồng Tử nói như thế nầy:

Lại nữa có hoặc; tất cả Thanh Văn Bích Chi Phật, cho đến Thập Địa Bồ Tát, chẳng thể đoạn được. Nghĩa là kiến nhứt xứ vô minh trụ địa. Như thế trụ địa chứng một pháp giới. Thanh tịnh giác giả, lại cũng có thể đoạn trừ. Còn báo ân vô tận trụ địa, chữ nghĩa sai biệt thì tướng nầy ra sao?

Tụng rằng:

Vô lượng tất cả Phật

Báo vô minh ân ấy

Đến vị lai không cùng

Nên gọi ân vô tận

Luận rằng: Thập phương tam thế tất cả chư Phật, báo vô minh ân, cho đến tận vị lai chẳng có cùng tận. Vì sao vậy? Vì tất cả những bậc giác ngộ đều lấy vô minh tạo ra nhơn vô vi, là quả đầy đủ trang nghiêm pháp thân vậy. Trong bổn lai thanh tịnh khế kinh nói như thế nầy:

Văn Thù Sư Lợi liền bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn trong vô lượng kiếp, chẳng tiếc thân mệnh đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, đầy đủ nhơn hạnh, trang nghiêm tánh hải, hỷ lạc tự tại, đức dụng vô ngại. Vì nhơn duyên gì mà nói rằng: Ta có nhiều ân đến tận vị lai chẳng thể báo hết?

Phật bảo: Ta do vô minh, lấy đó làm chất để thành đạo chánh giác. Cho nên ta nói có rất nhiều ân nặng ở nơi trần kiếp báo ân chẳng hết là do nghĩa ấy. Vô minh trụ địa lại cũng còn gọi là báo ân vô tận trụ địa vậy. Còn Vô Thỉ Hữu Chung trụ địa, chữ nghĩa khác nhau; vậy tướng ấy là gì?

Tụng rằng:

Kiếp quá khứ không cùng

Đến vị lai không tận

Do nhơn duyên nầy vậy

Gọi vô thỉ vô chung

Luận rằng: Căn bản vô minh nếu chối từ quá khứ thì chẳng có bổn tế nầy; nên gọi là vô thỉ. Còn nếu tiến tới vị lai, tất cả có gián đoạn; nên gọi là hữu chung. Trong Bát Nhã Ba La Mật nói như thế nầy:

Thỉ giác tịnh trí hữu thỉ vô chung. Vô minh trụ địa vô thỉ hữu chung. Cho nên vô đẳng đẳng sanh trụ địa có chữ nghĩa khác nhau, mà tướng nầy là gì vậy?

Tụng rằng:

Quá hằng thượng phiền não

Chẳng trước sau một lúc

Đầy đủ liền sanh ra

Gọi sanh không nói hết

Luận rằng: Căn bản vô minh có thắng lực. Qua cả hằng sa các phiền não, chẳng có trước sau một lúc đều sanh. Cho nên gọi là vô đẳng đẳng sanh. Trong Tự Thể khế kinh nói như thế nầy:

Giống như Thiên Ma Ba Tuần ở nơi Đại Tự Tại Thiên, sắc lực thọ mệnh, quyến thuộc đầy đủ tự tại thù thắng. Vô đẳng đẳng xuất sanh đại lực trụ địa lại cũng như thế; thô tế trước sau chẳng có trước sau; cùng lúc sanh trưởng. Còn Sanh Đắc Trụ Địa chữ nghĩa sai biệt; nhưng tướng nầy là gì?

Tụng rằng:

Sanh nghĩa ba loại sanh

Được nghĩa lập thành tựu

Vô minh kia thành lập

Nên gọi là sanh đắc

Luận rằng: Nói là sanh nghĩa là 3 loại tướng sanh. Cho nên nói được. Tức có hai nghĩa. Những gì là hai? Một là nghĩa kiến lập; hai là nghĩa thành tựu. Căn bản vô minh có thể lành thành lập 3 loại tướng kia. Nên gọi là sanh đắc trụ địa. Trong thập chủng vọng tưởng khế kinh nói như thế nầy:

Nương tựa cùng còn, con chuyển sanh, được gọi địa. Chẳng có thể tự thể; nên gọi là sanh đắc vậy. Còn Quán Mãn Trụ Địa chữ nghĩa sai biệt; tướng nầy là gì?

Tụng rằng:

Căn bản thể vô minh

Kim Cang hoàn tất tận

Sẽ chờ quả mãn vị

Nên gọi là quán đủ

Luận rằng: Căn bản vô minh, Kim Cang tâm hoàn, giống như tồn tại chẳng hết, sẽ chờ mãn vị và đoạn dứt không còn. Cho nên gọi là quán mãn trụ địa. Trong Vô Thượng Bồ Đề khế kinh nói như thế nầy:

Căn bản vô minh chờ con đường cứu cánh; gọi tên là quán đủ. Những thức hí luận, tùy vị dần mất. Gọi đây là quán phần vậy. Còn Trí Ngại Trụ Địa chữ nghĩa sai khác. Tướng nầy như thế nào?

Tụng rằng:

Ngại tất cả chủng trí

Ngược thế gian thông đạt

Sai khác thật quá đi

Nên gọi là trí ngại

Luận rằng: Căn bản vô minh thật là tăm tối; tất cả loại trí hiển rõ thật sáng. Như vậy tướng sáng tối ấy là chỗ sai khác nhau, thật là sâu xa vậy. Cho nên gọi là Trí Ngại Trụ Địa. Trong thậm thâm nhơn duyên khế kinh nói như thế nầy:

Phiền não ngại sâu thẳm cùng với chánh thể trí, tướng ấy sai biệt khá rõ; nên tạo ra chướng; bát nhã huệ ngại cùng với hậu đắc trí, tướng ấy sai biệt quá nhiều, tạo ra chướng ngại. Cho đến nói rộng ra vậy. Còn Bất Giác Trụ Địa theo chữ nghĩa sai biệt, thì tướng nầy ra sao?

Tụng rằng:

Từ vô thỉ đến nay

Đủ ba thân bồ đề

Đầy bốn đức Niết Bàn

Chẳng thể giác, bất giác

Luận rằng: Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay đầy đủ ba thân, viên mãn bốn đức, tự tánh thanh tịnh, xa lìa trói buộc, mà do vô minh, bất tri bất giác; cho nên nói là Bất Giác Trụ Địa. Trong khế kinh Đại Bổn Tăng Già nói như thế nầy:

Bát Nhã vô trí, các thức hí luận tức là trí vô; căn bản vô minh, tức là bất giác. Cho nên bất giác là giác vậy. Cho đến có thể nói rộng ra. Còn Giác Liễu Trụ Địa theo chữ nghĩa sai biệt thì tướng nầy như thế nào?

Tụng rằng:

Thập địa chẳng cảnh giới

Phàm nhỏ, lại chẳng cảnh

Duy Đại Giác rõ biết

Nên gọi là Giác Liễu

Luận rằng: Căn bản vô minh Thập Địa Bồ Tát chưa có thể hết trí; hà huống là kẻ phàm phu nhỏ nhoi có thể lành rõ. Duy Đại Giác thì rõ hết không sót. Cho nên gọi là Giác Liễu Trụ Địa. Trong khế kinh Bửu Tích nói như thế nầy: Chỉ có cảnh giới Phật, chẳng thể rõ biết. Vì giác liễu vô minh vậy. Còn Tử Tạng Trụ Địa chữ nghĩa sai biệt thì tướng nầy như thế nào?

Tụng rằng:

Vô minh như biển lớn

Nhiếp giữ những phiền não

Giống như hạt giống vậy

Nên gọi là tử tàng

Luận rằng: Vô thỉ vô minh nắm chặt phiền não làm được dừng nghỉ; giống như các loại hạt giữ yên ổn rồi hiện ra mầm. Cho nên gọi là Tử Tàng Tử Địa. Trong Bổn Khế Kinh nói như thế nầy:

Các hạt giống ấy giống như võng trời vậy. Với nhơn duyên gì mà gọi là Trụ Địa? Chữ nghĩa sai khác và tướng ấy như thế nào?

Tụng rằng:

Lực vô minh thật lớn

Gìn giữ những pháp nhiễm

Như đất giữ bốn loại

Nên gọi là Trụ Địa

Luận rằng: Căn bản vô minh, lực nầy lớn lắm, có thể lành ở giữ gìn tất cả những nhiễm pháp; giống như đại địa có lực mạnh gánh giữ 4 loại nặng. Cho nên gọi đây là Trụ Địa. Những gì là bốn? Một là Đại Hải; hai là các núi; ba là cỏ cây và bốn là chúng sanh. Cho nên gọi đây là bốn. Trong khế kinh Thắng Man nói như thế nầy:

Thế Tôn như là vô minh Trụ Địa lực. Đối với việc yêu mến bốn trụ địa. Vô minh trụ địa, lực nầy rất lớn. Cho đến có thể nói rộng ra vậy.

Đã nói qua dị thuyết và tương ưng của Khế Đương Môn. Sau đây lần lượt giải thích riêng về Tán Thuyết Môn. Chỗ nói không rõ nghĩa. Nói chung là trước sau chưa được giác ngộ hoàn toàn. Từ đây trở xuống giải thích chỉ bày. Ban đầu giải thích căn bản về bất giác, sau đó sẽ giải thích, phân ly quyến thuộc của bất giác. Rộng nói lược bớt. Hãy nên quan sát. Nghĩa là chẳng như thật, rõ pháp chơn như và một ấy là do tâm bất giác khởi lên vậy. Do đó mà hiển thị căn bản của nhơn duyên để khởi lên bất giác. Vậy thì căn bản của bất giác do nhân duyên gì mà được khởi lên vậy? Nhơn không như vậy, nên được khởi lên chỗ có. Ở trong pháp ấy những gì là chẳng như vậy? Nghĩa là trong 3 pháp, có bất như. Nói bất như là có nghĩa gì vậy? Nghĩa là ý nghĩa sai nghịch vậy. Những gì là ba pháp? Một là thật rõ biết một pháp; hai là chơn như một pháp; ba là nhứt tâm một pháp. Đây gọi là ba vậy. Thật tri nhứt pháp nghĩa là tất cả giác, tức hay đạt được trí. Chơn như nhứt pháp nghĩa là bình đẳng lý, tức là chỗ đạt được cảnh. Nhứt tâm nhứt pháp nghĩa là một pháp giới; tức là chỗ nương của thể vậy. Đối với ba pháp nầy, tất cả đều sai nghịch nhau; nên vô minh có thể khởi lên. Cho nên nói chung nghĩa là bất như thật tri chơn như pháp riêng một; nên khởi lên tâm bất giác. Cả ba loại pháp ấy đều giữ lại một, cuối cùng chẳng xả ly. Cho nên gọi tên là một. Từ đây trở xuống luợc nói về quyến thuộc.

Đối với việc có niệm nầy, tức là hiển thị phân ly vô minh. Nghĩa là cái chính đã lập rồi, thì tất cả quyến thuộc đều được hiện hữu vậy. Từ đây trở xuống tức có nhị môn. Thế nào là hai? Một là quy đức thành huyễn lực, vô lực môn; hai là cử vọng hiển chơn lực, vô lực môn. Quy đức thành huyễn môn nghĩa là tất cả vô minh. Nếu khắc phục được căn bản nầy thuộc vô minh thể tướng, thì nương vào bản giác mà được thành lập; giống như người lầm đường nương vào đường để đi; nên mê. Nếu lìa con đường, thì không có việc mê loạn. Giống như niệm gốc không có tự tướng và chẳng lìa bản giác. Giống như người mê nương vào phương hướng nên bị mê; nếu lìa phương hướng, tức chẳng có việc mê lầm vậy. Chúng sanh cũng như thế; nương vào giác nên mới mê; nếu lìa tánh giác, tức chẳng bất giác vậy.

Cử vọng hiển chơn môn nghĩa là pháp thân bát nhã chẳng thể tự hiển, mà chờ đợi bất giác rồi sau đó mới tán dương danh nghĩa đầy đủ trước tiên. Cũng giống như bậc Trượng Phu mạnh khỏe đối với quân lính. Sau đó sẽ được ở địa vị cao cả. Như cái gốc lấy có, là tâm bất giác vọng tưởng vậy. Nên rõ biết danh nghĩa mà nói là chơn giác. Nếu lìa tâm bất giác, tức vô chơn giác để có thể nói về tự tướng vậy.

Đã nói về căn bản vô minh trụ địa môn rồi. Bây giờ lần lượt nói về quyến thuộc của vô minh trụ địa môn. Ở trong sự giải thích nầy, tự có 2 loại. Những gì là hai? Một là hiển thị vi tế quyến thuộc môn; hai là hiển thị thô trọng quyến thuộc môn. Môn đầu tiên là thế nào?

Viết rằng: Lại nữa nương vào bất giác nên sanh ra 3 loại tướng, cùng với tướng bất giác kia, tương ưng chẳng lìa nhau. Những gì là ba? Một là vô minh nghiệp tướng. Vì nương vào bất giác; nên tâm động và nói là do nghiệp. Giác tức là chẳng động, mà động tức là có khổ; quả chẳng lìa nhơn vậy. Hai là năng kiến tướng; lấy chỗ nương vào động; cho nên hay thấy; chẳng động tức chẳng thấy. Ba là cảnh giới tướng; lấy chỗ nương vào nên thấy hiện ra cảnh giới vọng. Nếu lìa sự thấy, tức chẳng có cảnh giới.

Luận rằng: Tựu chung trong câu văn nầy có hai loại. Những gì là hai? Một là tổng phiêu lược thị môn; hai là phiêu thích cụ thành môn. Môn đầu tiên nói là nương vào bất giác cho nên sanh ra 3 loại tướng cùng với bất giác kia tương ưng, chẳng lìa; tức là hiển thị tướng chưa rõ khí lực bản thể, mà từ đó được thành lập. Lại nữa bản thể kia vì nhận cái tướng chưa rõ ấy nuôi dưỡng cành lá mà có thể dừng ở; giống như cha con nương nhau và vì nhơn nầy mà được thành lập. Cho nên nói rằng tương ưng bất ly. Nếu nói như vậy thì từ đệ bát địa trở đi của Bồ Tát phải nên đoạn trừ vô minh để đồng với diệu giác sao? Việc nầy chẳng phải như vậy. Chỉ đoạn tướng thô. Còn 3 tướng vi tế thì chưa đoạn được.

Từ đây trở đi giải thích về môn thứ hai. Trong 3 tướng nầy, đệ nhứt nghiệp tướng hay thấy chỗ thấy, thấy chỗ không; nên có sai biệt. Tâm vương niệm pháp chẳng thể phân ly. Duy chỉ do nghĩa lưu chuyển, yên ổn, cử động, tinh ròng mà gọi tên là nghiệp. Như thế sự động lưu chỉ do bất giác. Nên giác chẳng động, mà động tức là có khổ. Vì sao thế? Cái quả đầu tiên của tướng nghiệp là chẳng lìa vô minh; đây là cái nhơn đầu tiên vậy. Như cái gốc một ấy là nghiệp tướng vô minh dùng để nương vào bất giác; cho nên tâm động và gọi là nghiệp giác; tức là chẳng động; động tức là có khổ quả và chẳng lìa nguyên nhơn vậy.

Đệ nhị chuyển tướng, lấy nghiệp tướng niệm làm chỗ nương vào, chuyển tác tạo duyên, lưu chuyển thành liễu tướng. Nếu không có nghiệp tướng, động niệm phân vị, sẽ vô liễu biệt chuyển tướng kiến phần. Nương vào sự động nầy để tạo ra sự chuyển kia; nên gọi tên là chuyển tướng. Như căn bản thứ hai là hay thấy tướng; dùng sự nương vào động cho nên có thể thấy; còn bất động thì chẳng thấy được.

Đệ tam hiện tướng lấy liễu biệt chuyển làm chỗ nương tựa. Hí luận cảnh giới đầy đủ hiện ra rồi duyên vào tướng phần, đầy đủ an ổn lưu bố. Nếu lìa liễu biệt kiến thức phần vị, tức là không chỗ duyên vào cảnh giới trần tướng. Nương vào đây thấy hiện phân ra tướng phần kia; giống như nương vào cái kiếng sáng; nên thấy hiện ra các hình ảnh màu sắc; nên gọi tên là hiện tướng.

Như vậy cả ba cảnh giới tướng đều nương vào để thấy; cho nên cảnh giới vọng hiện ra; nếu lìa thấy, tức chẳng có cảnh giới nào cả. Như thế 3 tướng chỉ có danh tự sai biệt; tất cả đều chỉ cho thức nầy, mà phía trước đã giải thích rộng rồi.

Trong đây 3 tướng đầu ấy hay cùng với đồng thể không phân biệt. Trong ấy chỉ hay thấy, tức chẳng chỗ thấy. Sau đó hay cùng chỗ cụ túc viên mãn. Căn bản vô minh lại còn có gì nữa? Điều nghi là những gì? Vô minh tự thể là chẳng rõ biết; cho nên nói tâm thể chẳng động. Nói chung lúc ấy gọi là vô minh. Việc nầy tức chẳng phải vậy. Vì sao thế? Vì cả ba nói riêng đều nương vào bất giác; nên tâm động và nói là nghiệp. Nếu nói động là nghiệp thức phần vị thì phi vô minh vậy. Việc nầy lại cũng chẳng phải như thế. Vì sao vậy? Hiện lượng phần nói là chẳng đạt một pháp giới; nên tâm bất tương ưng, rồi liền niệm khởi; nên gọi là vô minh. Sự động khởi ấy là hai, đều do nghiệp thức tạo ra như thế mà nói; chẳng phải là vô minh kia. Vì sao thế? Vì hay động hay khởi căn bản vô minh. Tùy động tùy khởi tức là nghiệp thức. Lấy nghĩa nầy; nên không có chỗ sai trái. Nếu căn bản vô minh tự thể là vậy, thì sao lại hay động tâm thể, hay khởi các niệm? Ở đây khó rõ hết. Thập Địa chẳng phải là cảnh giới của Tam Hiền nên chẳng so sánh. Chỉ có Phật mới rõ tất cả, chẳng có thể nói lời vọng. Tuy nhiên nương theo kinh để nói là giả ngôn và cách gọi mạnh mẽ là bất giác. Được chỗ nhân duyên, lần lượt giải thích, tự sẽ rõ bày. Nghiệp tướng, niệm tế hay là chỗ khó phân biệt. Tướng và cảnh giới chẳng thể phân biệt, mà vì nhơn duyên gì lại trở nên động và giải thích về nghiệp tướng nầy gọi là gì?

Việc nầy lại cũng chẳng thể nói vọng được. Tuy chỉ nương vào kinh để nói; nên gọi như thế nầy: Nghiệp tướng bổn thức chẳng thể rõ chỗ tạo tác và không chỗ rõ làm, chẳng thể phân chiết, chẳng thể cách biệt. Chỉ do tĩnh động và nghĩa của an ổn, lưu chuyển; nên gọi là Kiên Ma. Nếu có chúng sanh nói nhiều lời khác nhau, chỉ là nói ỷ ngữ. Cuối cùng rồi cũng chẳng rõ biết điều gì cả.

Đã nói qua hiển thị vi tế quyến thuộc môn. Bây giờ lần lượt nói hiển thị thô trọng quyến thuộc môn.

Viết rằng: Lại do cảnh giới duyên vào nên lại sanh ra 6 loại tướng. Những gì là sáu?

Một là trí tướng; nương vào cảnh giới và tâm khởi lên sự phân biệt, thương cũng chẳng thương.

Hai là tương tục tướng; nương vào nơi trí để sanh ra khổ, lạc và giác. Tâm khởi lên niệm tương ưng, chẳng đoạn mất.

Ba là chấp thủ tướng; nương vào sự tương tục, duyên vào niệm cảnh giới, trụ giữ chỗ vui, tâm khởi lên đắm trước.

Bốn là kế danh tự tướng; nương vào vọng chấp phân biệt, giả danh ngôn tướng.

Năm là khởi nghiệp tướng; nương vào nơi danh tự, tìm danh thủ trước, rồi tạo ra các loại nghiệp.

Sáu là nghiệp phồn khổ tướng; nuơng vào nơi nghiệp thọ quả, chẳng tự tại.

Luận rằng: Như thế sáu tướng đều là ý thức địa, chẳng ngoài thức pháp. Vì sao vậy? Trong các kinh lớn đều nói như vậy. Sự giải thích phân loại nầy căn cứ theo kinh nào? Đây chính là kinh Lăng Già. Trong khế kinh ấy nói về những gì? Trong phần phân bố lưu thông, khế kinh Lăng Già nói như thế nầy:

Giống như sóng biển lớn

Đều do gió thổi mạnh

Sóng cao đánh thành vòi

Không lúc nào dừng nghỉ

Biển tạng thức thường ở

Cảnh giới gió làm động

Nhiều loại sóng của thức

Thay đổi mà chuyển sanh

Xanh đỏ đủ loại màu

Sữa ngọc và mật đá

Mùi nhạt, các hoa quả

Trời trăng cùng ánh sáng

Chẳng khác, chẳng chẳng khác

Nước biển khởi thành sóng

Bảy thức cũng như vậy

Tâm đủ, hòa hợp sanh

Giống như nước biển đổi

Nhiều loại sóng biển chuyển

Bảy thức lại cũng vậy

Tâm đủ, hòa hợp sanh

Giống như nước biển đổi

Nhiều loại sóng biển chuyển

Bảy thức lại cũng vậy

Tâm đủ hòa hợp sanh

Ở nơi tạng thức kia

Nhiều loại thức chuyển động

Nghĩa là lấy ý thức

Tư duy những tướng nghĩa

Tướng bất hoại có tám

Vô tướng lại vô tướng

Nương vào kinh văn nầy để giải thích, khởi lên sáu tướng. Bây giờ theo câu văn của kinh nầy sẽ làm rõ được nghĩa gì? Nghĩa là muốn hiển thị tánh lớn như biển của hiện thức, mà tánh ấy tự thường ở. Vì do gió lục trần cảnh giới, làm trôi giạt động loạn. Là cái nhơn bên trong làm thể của bảy loại chuyển thức hiện thức. Sáu trần cảnh giới làm ngoại duyên, cùng với sáu loại tướng thô trọng kia, như kinh nói:

Giống như sóng biển lớn

Đều do gió mạnh thổi

Sóng cao đánh thành vòi

Không có lúc dừng nghỉ

Biển tạng thức thường trụ

Gió cảnh giới làm động

Đủ loại sóng thức kia

Thay đổi mà chuyển sanh

Sao gọi là gió của cảnh giới? Gió nầy hình trạng như thế nào? Nghĩa là xanh, vàng cùng những màu sắc khác hay khởi nơi nhãn thức; nơi đá quý, ngọc hiện các loại âm thanh hay ho, hay khởi lên nhiều nhĩ thức. Bột trầm cùng hương đốt, đủ loại mùi hương ấy, khởi lên là do tỉ thức. Mộc la thạch mật cùng với các loại đồ mặc mềm mại hòa hợp với những sự tốt đẹp sanh vui là do thân khởi lên thức. Những mùi vị ngọt lạt, tùy theo chỗ sinh ra các mùi vị, là do thiệt thức sanh khởi. Các hoa lá trong hiện tại và quả là nhiều loại pháp trần ở vị lai. Tùy theo thức kia mà hay duyên vào cảnh giới, để khởi lên ý thức. Bây giờ trong câu văn nầy đưa ra thức trần thủ, hay xem xét quan sát. Mạt Na thức kia tức là ý thức vi tế phần vị, chẳng phải biệt thể của lỗ tai. Như thế sáu trần hay khởi động tâm thể, làm cho bị tán loạn; giống như gió mạnh; nên gọi tên là gió, như trong kinh nói:

Xanh, đỏ các loại màu

Sữa ngọc và mật đá

Mùi nhạt cùng hoa quả

Như thế bảy thức cùng với tạng thức đồng nhau hay khác nhau? Chẳng đồng mà cũng chẳng khác, lìa hai việc nầy. Giống như mặt trời và ánh sáng; như nước và sáng kia, chẳng giống chẳng khác. Bảy thức cùng với tạng thức phi đồng phi dị. Nghĩa nầy cũng lại như vậy, như kinh nói:

Trời trăng cùng ánh sáng

Chẳng khác, chẳng chẳng khác

Nước biển tạo thành sóng

Bảy thức cũng như vậy

Tâm đủ, hòa hợp sanh

Như vậy bảy thức từ nơi nào đến nhập vào tạng thức tạo thành 7 loại vậy? Lúc lưu chuyển khởi động, chẳng ngừng nghỉ ấy, thì gọi là 7 thức; chẳng từ trong ra, chẳng từ ngoài đến, chẳng từ giữa lại. Duy do thể của tạng thức biến tác thành 7 thức; giống như nước biển biến tạo thành sóng như trong kinh nói:

Giống như nước biển đổi

Đủ loại sóng chuyển thay

Bảy thức cũng như thế

Tâm đủ hòa hợp sanh

Nơi tạng thức xứ kia

Đủ loại các thức chuyển

Vì do ý thức kia

Tư duy các nghĩa tướng

Như vậy hiện thức và bảy chuyển thức, thành 8 loại tâm thức. Tuy nhiên có sanh diệt vô thường tướng không? Lại có thật tướng, thường trụ tướng không? Như vậy tám thức đều từ vô thỉ đến. Ba cõi chẳng động, 4 tướng chẳng đổi; chơn thật thường trụ, tự tánh thanh tịnh, là những tướng bất hoại. Đầy đủ viên mãn, chẳng có chỗ khiếm khuyết, mà như thế cùng với tất cả các công đức, đồng với pháp giới; nên chẳng có 2 tướng. Vì không có 2 tướng cho nên chỉ có một tướng. Vì chỉ có một tướng cho nên lại chẳng có vô tướng. Tất cả đều không tướng. Cho nên không tướng lại vô tướng, như trong kinh nói:

Tướng chẳng hoại có 8 vô tướng lại cũng vô tướng. Theo kinh Lăng Già nầy thì muốn làm rõ cho thức nào? Có hai môn. Những gì là hai? Một là lược thuyết môn; hai là quảng thuyết môn. Như vậy trong hai môn lại có 3 cách giải nói khác nhau. Những gì là nói khác?

Nghĩa là một bản của phân lưu Lăng Già khế kinh thì nói như thế nầy:

Đại Huệ lược nói có 3 loại thức; nói rộng thì có 8 loại tướng. Thế nào là ba? Nghĩa là chơn thức, hiện thức và phân biệt sự thức.

Lại một bản khác trong Lăng Già khế kinh thì nói như thế nầy: Đại Huệ quảng thuyết có 8 loại thức, mà lược nói thì có hai loại thức. Những gì là hai? Một là liễu biệt thức và hai là phân biệt sự thức.

Lại một bản khác phần lưu Lăng Già khế kinh nói rằng: Đại Huệ! Lược nói có 4 loại thức và nói rộng thì có 7 loại thức. Những gì là bốn? Đó là nghiệp thức, chuyển thức, hiện thức và phân biệt sự thức.

Như vậy 3 kinh đều nói những điều chơn thật. Nên hãy nương về. Còn những Lăng Già như nhơn duyên Lăng Già, Sa La Lăng Già, Bát Thi Đa Lăng Già cùng với 4 loại kinh nầy, tức là ngụy giả thuyết. Do vậy không nên nương về. Nay nên nương về với 10 vạn 6 ngàn Uẩn Đà Nam tụng Đại Bản Lăng Già. Ba kinh dị tướng, an lập cùng giải thích. Như đây lần lượt nên quan sát phán đoán.

Trong khế kinh đầu, đệ nhứt chơn thức nói đúng là do căn bản vô minh huân vào bản giác chơn tâm. Đệ nhị hiện thức thật là hiện tướng của A Lợi Gia Thức. Đệ tam phân biệt sự thức đấy chính là ý thức. Tế phần tức là Mạt Na Thức. Vì sao kinh nầy ý thức tế phần là Mạt Na Đà thức? Trong 3 loại vi tế thì nghiệp thức chuyển thành thức. Cho nên lược bớt chẳng hiển thị. Tức có hai môn. Những gì là hai? Một là cử lưỡng hiển tam bị số môn; hai là Suất thương đạt hạ bị số môn. Môn đầu tiên là gì? Nghĩa là cái thô hiển mạnh và cái tế yếu đi. Nghĩa nầy là thế nào? Như trong 3 tế ấy, thô chính là hiện thức. Đối với trong 7 thức kia, cường chính là ý thức. Cử thô hiện thức hiển tế nghiệp chuyển. Tuy nói là hiện thức. Cử cường ý thức chỉ cho Mạt Na yếu. Tuy nói là ý thức, mà ở đây nói lược, nghĩa ấy đầy đủ với sự nghe. Đây gọi là cử lưỡng hiển tam bị số môn.

Còn cửa sau như thế nào? Nghe là che khuất trước sau, đầy đủ danh tự. Nghĩa nầy là thế nào? Trên vấn đề ngôn ngữ của câu kinh thì các thức có 3 loại tướng. Nghĩa là chuyển tướng, nghiệp tướng và chơn tướng. Đệ nhứt chuyển tướng tức là tam tế sở nhiếp chuyển thức. Đệ nhị nghiệp tướng tức là tam tế sở nhiếp nghiệp thức. Đệ tam chơn thức tức là ý thức tế phần sở nhiếp Mạt Na Thức. Trong kinh văn nầy cũng như những câu văn ở dưới đầy đủ danh tự nghĩa lý cụ túc, nên tên là tốt thượng đạt hạ bị số môn. Trong khế kinh nầy có 8 loại thức. A Lợi Gia Thức, Mạt Na, Ý Thức và 5 thức của thân. Đây gọi tên là tám. Những gì để trở thành tám? Trong một ý thức phân làm bảy loại. Trong khế kinh là đệ nhứt liễu biệt thức, đúng là hiện tướng A Lợi Gia Thức. Đệ nhị phân biệt sự thức, đúng là ý thức. Nghĩa như trước đã nói, cùng nói là Mạt Na. Trong kinh đầu nói là chơn tướng. Trong kinh nầy gọi là trí tướng thức. Tên khác lại đồng nghĩa. Trong Mạt Na Vị, đầu tiên có huệ số; phân biệt nơi trần, tên là trí tướng thức. Như vậy trí thức sở duyên vào cảnh, tạo ra tướng giải chơn thật, rồi chuyển đổi; nên tên gọi là chơn tướng. Trong nầy 8 thức như trước đã rõ. Trong khế kinh sau có 4 loại thức pháp. Câu văn làm rõ; nên đây lược chẳng nói.

Nói là 7 thức thì Mạt Na Ý Thức cộng chung thành một vậy. Thô tế tuy riêng biệt; nhưng chỉ có một thức. Trong khế kinh pháp giới pháp luân nói như thế nầy: Đệ lục ý thức phân biệt lục trần cảnh giới thì đương nhiên nương vào Mạt Na làm chỗ nương tựa căn bản, rồi sau đó được sanh khởi. Cho nên ý thức sẽ là chỗ có thể hay nương vào. Mạt Na Thức kia sẽ là chỗ tựa, hay nương vào chỗ nương, chẳng phải một loại. Vì sao bây giờ lại nói một thể vô biệt? Kinh có ý riêng; nên làm chẳng khác. Nghĩa là trong kinh kia lập ra những loại khác biệt. Bây giờ trong kinh nầy lập giống lại như vậy. Lấy câu văn nào làm phân minh hiện trí và phân biệt sự thức? Chẳng nương vào Mạt Na mà được sanh khởi. Trong kinh Lăng Già đã nói rõ điều nầy rồi. Trong kinh kia vì sao nói như thế? Nghĩa là trong phân bố Lăng Già nói như thế. Đại Huệ liễu biệt sự thức, phân biệt sự thức. Hai loại thức kia không có sai biệt, lần lượt cùng làm nhơn. Lại một bản khác phân lưu Lăng Già nói như thế nầy. Đại Huệ! Hiện thức và phân biệt sự thức. Hai loại nầy hoại, chẳng hoại tướng, thay đổi làm nhơn. Do đây mà câu văn nầy lại làm sáng tỏ để biết ý thức. Tuy là hiện tướng A Lợi Gia Thức, làm chỗ nương tựa bên trong, sanh khởi động chuyển, chẳng nương vào Mạt Na.

Lại nữa trong Đại Bản Lăng Già khế kinh nói như thế nầy: Lúc ấy Diệu Nghiêm Bồ Tát liền bạch Phật rằng: Tướng thô, tướng ý thức tế, ý thức lấy gì làm nhơn, lấy gì làm duyên, để tiếp tục mà chuyển?

Phật bảo rằng: Thô tế ý thức lấy hiện kính thức mà làm cái nhơn nầy. Lấy lục trần cảnh mà làm cái duyên nầy, tương tục mà chuyển. Đây là nghĩa nầy vậy.

Đệ thất Mạt Na duyên vào lục trần cảnh làm chỗ duyên và chuyển, nghĩa nầy được thành lập. Vì sao vậy? Kinh Già Đà nói như thế nầy: Gió cảnh giới làm chỗ động, bảy thức chuyển thành sóng. Lại nữa nếu có chúng sanh, qua hiện thức tức là Mạt Na thức. Cho nên lấy ý thức làm nhơn. Hãy ra khỏi lời nói nầy chẳng có thể là lời chỉ nam chăng?

Đã nói kinh gốc rồi. Bây giờ giải thích theo luận. Tức là trong câu văn nầy có hai môn. Thế nào là hai? Một là tổng phiêu lược thị môn và hai là phiêu tích cụ thành môn. Lấy có cảnh giới duyên; nên lại sanh 6 loại tướng. Tức là môn đầu. Câu văn đây muốn làm sáng tỏ nghĩa gì? Nghĩa là vì hiển thị ý thức kia cùng với 6 loại tướng thô. Trong hiện kính thức có 6 trần cảnh giới lấy làm duyên để khởi. Hiện kính thức thể lấy đó nương vào làm nhơn, được tương tục lâu dài đầy đủ chuyển đổi. Như vậy là thế nào? Tuy nói là lấy cảnh giới làm duyên và chẳng nói lấy bổn thức kia làm nhơn. Vì nghĩa tướng đã rõ nên đã nói lược qua. Cái lý nầy phi vô. Nếu mà hiện thức tức là Mạt Na thì lấy ý thức kia, gần gũi nương vào, giống như ý căn. Giải thích nghĩa nầy tức có 2 ý. Những gì là hai? Một là già ý; hai là hứa ý. Già nghĩa là già biệt chủng. Hứa nghĩa là Hứa A Lợi Gia Mạt Na. Như vậy nghi ngờ đến Đạt Mạt Na, trong phần giải thích, lý nầy tự rõ. Từ đây trở xuống giải thích về hai môn. Trong 6 tướng nầy, tướng một và hai tức là pháp chấp. Tướng hai hai tức là nhơn chấp; tướng ba hai tức là nghiệp nhơn quả báo biệt tướng. Lại nữa từ nhị địa trở đi đều dứt. Trong 2, 3 hiền chỗ dứt. Sau 20 tín chỗ lìa. Lại nữa hai phần đầu tức là tướng vi tế. Sau có 4 tướng tức là tướng thô. Lại nữa một phần đầu tức tướng vi tế. Sau có 5 loại tức là tướng thô. Lại nữa 5 phần đầu tức là tướng vi tế, sau một ấy là tướng thô. Lại nữa 6 tướng đều là tướng thô; Lại nữa 6 tướng đều là vô tế tướng lại là vô thô tướng, như thế lần lượt nên quan sát, suy nghĩ.

Đã nói về hiển thị thô trọng quyến thuộc môn. Bây giờ lần lượt nói về hiển thị vô minh hữu quyết nghi môn.

Viết rằng: Nên rõ vô minh hay sinh tất cả những nhiễm pháp, mà tất cả những nhiễm pháp ấy đều là tướng bất giác.

Luận rằng: Tức trong câu văn nầy có hai môn. Những gì là hai? Một là trực thị đắc hữu môn và hai là thích tướng quyết nghi môn. Môn đầu là những gì.

Tụng rằng:

Giống như thấy gốc cây

Nên rõ có cành lá

Thấy những phiền não ấy

Rõ vô minh cũng vậy

Luận rằng: Giống như có người thấy một rừng cây và quyết định sẽ rõ biết được những loại cành lá. Thấy hết cả phiền não, biết được vô minh có ý nghĩa cũng như thế ấy. Như gốc gác nên rõ vô minh hay sinh ra tất cả các nhiễm pháp vậy. Còn môn sau nghĩa là gì?

Nghĩa là có chúng sanh tạo ra nghi như thế nầy. Vô minh tuy một mà nhiễm pháp thì vô lượng. Há chỉ một vô minh mà sinh ra nhiều phiền não chăng? nên sinh ra tâm chẳng tin. Nếu quyết nghi kia; nên làm như thế nầy. Giống như cành chỉ có một mà sanh ra vô lượng vô biên hoa quả; lá cây, sánh với các phiền não. Căn bản vô minh lại cũng như vậy. Tuy chỉ có một vô minh hay sanh tất cả vô lượng vô biên phiền não nhiễm pháp. Dùng cái gì để được rõ tất cả phiền não đều do vô minh sanh? Do cái nhiễm pháp kia, tất cả đều là tướng bất giác. Nếu rõ lời nầy rồi thì nghi kia liền tan. Như căn bản lấy tất cả các nhiễm pháp đều là tướng của bất giác thì từ trên đến đây, gốc ấy chính là vô minh đã lược giải rồi. Từ đây trở xuống tổng gồm tất cả nhiễm tịnh các pháp, rồi tạo ra giống, khác hai loại môn, là biểu thị của bổn ý tạo luận chơn thật nầy. Tướng ấy thế nào?

Viết rằng: Lại nữa giác và bất giác có hai loại tướng. Những gì là hai? Một là đồng tướng và hai là dị tướng. Nói là đồng tướng nghĩa là giống như các loại ngói gạch đều giống tướng tánh vi trần. Như vậy vô lậu vô minh các loại nghiệp huyễn, đều đồng chơn như tánh tướng. Cho nên trong kinh nói rằng nương vào nghĩa nầy để nói rằng: Tất cả chúng sanh trước sau đều thường trụ; nhập vào Niết Bàn Bồ Đề các pháp, chẳng thể thấy tướng tu; chẳng thể tạo ra tướng ấy; cứu cánh chẳng được. Lại giống như vô sức tướng có thể thấy; nhưng sự có thấy sắc tướng ấy là do chỗ tùy theo sự nhiễm nghiệp huyễn ấy tạo ra; chẳng phải rõ sắc về tánh chẳng không ấy. Dùng trí tướng không thể thấy vậy. Nói là dị tướng giống như các loại gạch ngói mỗi mỗi chẳng giống. Như vậy vô lậu vô minh tùy theo nhiễm huyễn sai biệt, mà tánh nhiễm ấy sai biệt vậy.

Luận rằng: Tức ở trong câu văn nầy liền có hai môn. Những gì là hai? Một là đồng tướng môn và hai là dị tướng môn. Dùng vô minh ở nghĩa nào để kiến lập đồng tướng môn? Vì muốn hiển thị tất cả các pháp, chỉ một chơn như, không ngoài pháp ấy. Chơn như môn dùng vô minh ở nghĩa nào? Kiến lập dị tướng môn vì muốn hiển thị duy nhứt chơn như, tạo ra tất cả pháp, tên gọi mỗi mỗi sai biệt, nghĩa dụng cũng lại chẳng giống nhau. Cùng với sanh diệt môn. Như vậy hai môn nương vào khế kinh nào để kiến lập vậy? Đó chính là Văn Thù Sư Lợi đáp đệ nhứt kinh. Trong khế kinh kia, nói những gì vậy? Trong khế kinh kia nói như thế nầy:

Phật hỏi Ngài Văn Thù rằng: Ngươi từ xưa đến nay chưa hề ngơi nghỉ, hay đi đây đó trong 10 phương quốc độ, thấy việc gì là đặc biệt?

Ngài Văn Thù trả lời rằng: Con từ xưa đến nay chẳng thấy việc gì cả, chỉ thấy vi trần.

Phật lại hỏi rằng: Ngươi ở trong hằng trăm năm ấy ở nơi nhà cửa, chẳng thấy tướng của các loại ngói gạch sao?

Văn Thù đáp rằng: Con tuy thấy vi trần; nhưng chẳng thấy ngói gạch.

Phật lại hỏi rằng: Ngươi thật chẳng thấy đất, nước, gió, lửa, núi, sông, cây, rừng và các loại tướng ấy chăng?

Văn Thù đáp rằng: Con thật chẳng thấy các tướng như thế, mà chỉ thấy vi trần. Cứ như thế như thế Đức Thế Tôn hỏi và Ngài Văn Thù đáp. Cho đến hằng trăm việc Phật hỏi, Văn Thù cũng chỉ thấy vi trần sao?

Văn Thù đáp rằng: Con từ xưa đến nay chẳng thấy vi trần.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Ngài Văn Thù rằng: Lành thay! Lành thay! Ngươi là bậc Đại Sĩ hay rõ một tướng. Hay rõ một tướng tức là pháp vô tướng. Văn Thù Sư Lợi! Ngươi là một hiền nhơn chẳng rõ biết như thế, nương vào một tướng môn. Tất cả chúng sanh trước sau đều thường trụ, nhập vào Niết Bàn Bồ Đề các pháp cho đến dùng trí tướng chẳng thể thấy được. Mã Minh Bồ Tát nương vào kinh văn nầy để lập nên đồng tướng môn.

Câu văn làm rõ tướng rồi, chẳng cần giải thích nhiều. Còn dị tướng môn, trong khế kinh kia nói như thế nầy:

Phật bảo Thân tử: Ngươi thấy đất kia tạo ra cái gì để tâm thấy?

Thân tử đáp: Con thấy đất nầy, núi, sông, rừng, cây, sa mạc, đất, đá, mặt trời, mặt trăng, cung điện, nhà cửa v.v… tướng của mỗi loại có mỗi mỗi hình tướng khác nhau; nên tên gọi sai khác chẳng đồng.

Phật bảo: Trí huệ của ngươi còn thấp kém, hẹp nhỏ. Tâm kia có cao có thấp; nên thấy khác như vậy. Duy ngươi một người chẳng thấy như thế. Tất cả chúng sanh lại cũng như vậy. Từ đó các pháp lại cũng như vậy. Chơn vọng lẫn lộn, nhiễm tịnh duyên nhau; công đức khác nhau nên hình tướng, tên gọi mỗi mỗi sai biệt. Tùy theo tâm phàm phu mà lập nên danh tướng. Có ấy thật chẳng thật, tất cả đều là pháp huyễn hóa. Cho đến nói rộng ra, nương vào câu văn nầy tìm nghĩa để thuật lại và lập nên dị tướng môn.

Tướng của câu văn đã rõ rồi, chẳng cần nói thêm nữa. Trong hai môn nầy, chỗ tồn tại môn đầu nên phán xét tư duy. Từ trước đến nay đã giải thích rồi. Phần chính trong đây là do tâm sanh diệt, như chữ, câu đã rõ rồi. Từ đây trở đi nói ngay về nhơn duyên.

Viết rằng: Lại nữa sanh diệt nhơn duyên; nơi mà chúng sanh nương vào tâm ý và ý thức chuyển đổi. Nghĩa nầy như thế nào? Dùng sự nương vào A Lợi Gia Thức để nói thì có vẻ vô minh bất giác khởi lên. Hay thấy, hay hiện, hay chấp giữ cảnh giới, khởi niệm tương tục. Cho nên nói là do ý. Ý nầy lại có 5 tên gọi. Những gì là năm?

Một tên là nghiệp thức. Nghĩa là vô minh lực, bất giác tâm động.

Hai gọi là chuyển thức. Nghĩa là nương vào nơi tâm động, hay thấy tướng vậy.

Ba gọi là hiện thức. Cho nên hay hiện tất cả các cảnh giới; giống như mặt kính sáng, hiện ra các hình ảnh. Hiện thức lại cũng như vậy. Tùy theo trần nầy đối đãi liền hiện, không có trước sau. Dùng tất cả lúc để nhận lấy, mà khởi lên thường tại trước.

Bốn gọi là tri thức. Nghĩa là phân biệt nhiễm định pháp. Nên gọi là tương tục thức, dùng niệm tương ưng bất đoạn vậy.

Luận rằng: Do trong câu văn nầy, từ đó có hai môn. Những gì là hai? Một là nhiếp nghĩa hiển tông sanh giải môn. Hai là tùy văn tán thuyết quyết nghi môn. Môn đầu nghĩa là gì? Trong đây nhân duyên có hai loại. Những gì là hai? Một là bất tương ưng sanh diệt nhân duyên. Hai là tương ưng sanh diệt nhơn duyên. Nhơn duyên đầu có tướng như thế nào?

Tụng rằng:

Căn bản vô minh kia

Hay tùy duyên bản giác

Mỗi nhân duyên đầy đủ

Vì ba bất tương ưng

Chính tạo nhân duyên vậy

Nhỏ, sanh diệt nhân duyên

Liền tác ý quan sát

Nên xem nghĩa lý nầy

Luận rằng: Căn bản vô minh theo duyên bản giác. Mỗi mỗi nhơn duyên có đầy đủ hai nghĩa. Hay vì 3 loại bất tương ưng nhiễm,chính tạo nhơn duyên, cho nên nói rằng vi tế sanh diệt nhân duyên môn, đầy đủ hình tướng, nói rải rác trong môn nầy và lý nầy tự làm sáng tỏ. Tiếp theo nhân duyên nữa. Hình tướng như thế nào?

Tụng rằng:

Hiện kính, thức tự thể

Lục trần cảnh giới tướng

Vì ba loại tương ưng

Hay tạo nhân duyên vậy

Luận rằng: Hiện kính thức thể, lục trần cảnh giới, như lần lượt sau đây, vì 3 loại tương ưng nhiễm pháp hay tạo nhân duyên; cho nên nói: Thô trọng sanh diệt nhơn duyên môn. Trong hiện thức thể lại có nghĩa của duyên; nên quan sát suy nghĩ. Lại nữa liền có hai loại nhân duyên. Những gì là hai? Một là bổn biến nhân duyên; hai là mạt biến nhân duyên. Nói bổn biến có nghĩa là đưa ra căn bản vô minh và bổn giác tâm, vọng đối với tướng của lục trần; nên có nghĩa của nhân duyên vậy. Nói là mạt biến là đưa ra nghiệp chuyển tướng, vọng ở nơi ba tương ưng; nên có nghĩa của nhơn duyên. Lại nữa liền có hai loại nhân duyên. Những gì là hai? Một là thượng hạ nhơn duyên; hai là hạ thượng nhơn duyên. Nói là thượng hạ nhơn duyên nghĩa là vô minh lấy quả báo đầu làm cuối. Hạ hạ cùng với lực không vượt qua số nầy, tạo nên nhân duyên vậy. Nói là hạ thượng có nghĩa là quả báo lấy vô minh đầu làm cuối. Thượng thượng cùng lực chằng vượt qua số nầy, tạo ra nhơn duyên vậy. Lại nữa tất cả hữu vi sanh diệt pháp, từng sát na chẳng dừng nghỉ; nên vô nhân, vô duyên vậy. Lại nữa nhân duyên pháp không, mà chẳng có chủ, tự tánh thật nầy chẳng thể có được. Lại chẳng có pháp được. Chẳng thể được, lại chẳng thể được, như lần lượt dưới đây; nên phán xét suy nghĩ chọn lựa.

Đã nói về nhiếp nghĩa hiển tông sanh giải môn rồi. Bây giờ lần lượt nói về tùy văn tán thuyết quyết nghi môn. Trong nầy có hai môn. Những gì là hai? Một là tổng phiêu môn; hai là quảng thích môn. Lại nữa sanh diệt nhơn duyên nghĩa là chỗ mà chúng sanh nương tâm ý, ý thức để chuyển, tức là môn đầu. Câu văn nầy làm rõ nghĩa gì vậy? Nghĩa là muốn hiển thị chỗ nương tựa hay nương sai biệt. Chỗ nương tựa ấy như thế nào? Nghĩa là tâm bản giác. Có thể nương tựa như thế nào? Tức là chúng sanh. Nói chúng sanh có nghĩa là theo pháp gì vậy? Nghĩa là ý, ý thức. Vì sao ý và ý thức gọi tên là chúng sanh. Ý và ý thức tất cả chúng sanh cùng nhiễm tập hợp lại mà sanh. Cho nên gọi là chúng sanh; nguyên là vô biệt tự thể; chỉ có nương vào tâm để làm thể. Cho nên nói là nương tâm để chuyển vậy.

Đã nói về tổng phiêu môn rồi. Bây giờ lần lượt nói về quảng thích môn. Trong nầy có hai phẩm. Đầu tiên nói về Mạt na chuyển. Sau đó nói về Ý thức chuyển. Tướng của câu văn ấy có thể thấy chăng? Nghĩa nầy như thế nào? Tổng môn có hai chuyển. Từ đây trở xuống sẽ giải thích kỹ. Ý chuyển môn nầy nương vào khế kinh nào để kiến lập vậy? Chính là Hiển Liễu Kinh. Trong khế kinh nầy nói những gì? Nghĩa là trong Hiển Liễu khế kinh nói như thế nầy: Các loại tâm thức tuy có vô lượng; chỉ có Mạt na thức chuyển, chứ không có pháp khác. Vì sao thế? Vì Mạt na thức nầy đầy đủ 11 nghĩa không có chỗ tạo tác. Trong khế kinh kia 11 nghĩa nầy nói lược, không nói riêng biệt. Cho nên luận rằng: Để đầy đủ 11 loại tên ở đây đưa ra, cho phân minh rõ ràng. 11 tên ấy là những loại nào vậy?

Một là căn bản vô minh. Hai là nghiệp tướng. Ba là chuyển tướng. Bốn là hiện tướng. Năm là trí tướng. Sáu là tương tục tướng. Bảy là nghiệp thức. Tám là chuyển thức. Chín là hiện thức. Mười là trí thức. Mười một là tương tục thức.

Đây gồm 11 tên. Như vậy gốc ấy nương vào A Lợi Gia Thức, nói có vô minh, bất giác mà khởi; hay thấy hay hiện, hay chấp vào cảnh giới; nói rộng cho đến 5 loại, tên là tương tục thức; dùng niệm tương ưng chẳng ngừng nghỉ vậy. Trong Bổn Địa khế kinh nói như thế nầy: Đại Mạt Na Thức đầy đủ 12 chuyển. Chỗ nương vào bản giác lấy đó làm một. Tướng thức hai chữ nầy sai khác ra sao? Có phải là thêm số lên để kiến lập riêng chăng? Số sai biệt thật lớn. Sai biệt như thế nào? Nghĩa là tất cả những quyến thuộc nhiễm pháp. Tất cả mỗi mỗi đều có hai nghĩa. Những gì là hai? Một là thần giải nghĩa; hai là ám độn nghĩa. Thần giải nghĩa nghĩa là nương cậy vào vô minh, lưu chuyển sai dần vậy. Nương vào môn đầu để kiến lập nên thức danh; nương vào môn sau để tạo nên tướng danh. Hai môn sai biệt như thế nên rõ biết. Vì sao lại như vậy? Nói là thức vì giải rõ nghĩa; nên thuận theo với bản giác. Nói là tướng, vì khác với nghĩa gốc nên thuận theo vô minh. Cho nên trong Thường Trụ Phật Tánh khế kinh nói như thế nầy. Lấy gì để rõ biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh? Đáp rằng: Tất cả chúng sanh đều có tâm thức; nên rõ biết là có Phật tánh. Vì sao Phật gọi là giác? Nghĩa là hay lành chiếu đến tất cả pháp vậy. Trong thân chúng sanh có cái giác nầy. Cho nên tất cả chúng sanh đều có liễu biệt thức vậy. Như thế thì ý ấy nghĩa là gì? Có hai nghĩa. Những gì là hai? Một là căn nghĩa; hai là thân nghĩa. Nói căn nghĩa nghĩa là hay sanh ra nghĩa vậy. Nói là thân nghĩa vì nương vào nghĩa vậy. Nghĩa ấy là gì? Nghĩa là căn bản vô minh, tùy nhiễm bản giác, mỗi mỗi đầy đủ nhân duyên, hỗ tương vọng với nhau. Nghĩa nầy như thế nào? Nghĩa là đưa ra bản giác và cùng với vô minh vọng nơi 3 thức. Bản giác làm nhơn, vô minh làm duyên; cùng đưa ra hai vọng kia nơi ba tướng. Vô minh làm nhơn, bản giác làm duyên. Vì sao vậy? Vì do chỗ gần gũi thân cận làm nhân và do chỗ xa ấy làm duyên.

Vì sao ở trên nói phân biệt trí tướng và tương tục tướng ý thức phân chia nhỏ ra; còn bây giờ trong câu văn nầy lại nói Mạt Na Thức nhiếp lấy? Vì muốn thành lập Mạt Na Ý Thức. Tuy chỉ là một thể, không có 2 sai biệt. Nếu như vậy thì vì sao lược bỏ phần thô đi, chẳng lấy làm ý? Thật ra đều là ý, mà lý tận đã lược nói rồi. Cho nên kinh nói không có chỗ chẳng tạo ra, mà biệt kiến lập ý thức chuyển. Vì muốn kiến lập hay nương vào chỗ nương của pháp môn vậy. Đưa quyết trạch 3 tướng nầy; Mạt Na nên rộng rõ biết. Lại nữa vì muốn hiển thị A Lợi Gia Thức phi định A Lợi Gia. Mạt Na phi định Mạt Na. Ý thức phi định Ý Thức. Vì vô định vậy. Tạng thức mạt na, Mạt Na Tạng Thức; Ý thức tạng thức, Tạng thức ý thức, lại đều là Tạng thức. Tất cả đều là Mạt Na. Tất cả đều là Ý Thức; lại nữa tất cả đều là không. Như thế nên không định. Tất cả đều là vô thường. Vô thường nên chẳng phải là chơn thật. Phi chơn thật; nên tất cả đều là huyễn hóa. Vì là huyễn hóa nên tự tánh là không, vô. Tự tánh không, nên quyết định tịch diệt. Tịch diệt nên tịch diệt, lại tịch diệt. Trong Kim Cang Tam Muội kinh nói như thế nầy:

Địa Tạng Bồ Tát nói: Bất khả tư nghì! Bất khả tư nghì! Gồn 75 chẳng sanh, 86 tịch diệt, 9 tướng không, vô. Có không, không không, không có. Cho đến câu văn như trên.

Phật bảo: Nói thấy tức là vọng. Vì sao vậy? Vì tất cả vạn hữu vô sanh, vô tướng. Cái căn bản không có tự tướng và tất cả đều là rỗng không. Tất cả pháp tướng lại cũng như thế. Tất cả thân chúng sanh lại cũng như vậy. Thân thường chẳng có. Vì sao lại có thấy?

Đã nói về tùy văn tán thuyết quyết nghi môn rồi. Bây giờ lần lượt nói về nghiệp tương tục và dụng sai biệt môn.

Viết rằng: Ở vào quá khứ vô lượng đời trước, thiện ác nghiệp làm cho chẳng mất, lại hay thành tựu hiện tại vị lai khổ vui và quả báo… không chỗ sai khác. Hay làm cho hiện tại những sự việc qua đi, rồi nhớ đến vị lai, chẳng biết, vọng tưởng.

Luận rằng: Tương tục thức nầy có 3 nghĩa. Thế nào là ba? Một là nhiếp tiền bất thất nghĩa; hai là cảm quả thành tựu nghĩa; ba là vọng lự biến duyên nghĩa. Nghĩa đầu như thế nào? Tương tục thức nầy hay phát khởi thấm nhuần nghiệp phiền não, ở trong quá khứ, nơi vô minh mà khởi. Tất cả các loại nghiệp lành nghiệp dữ, hay tạo thành quả lực dụng. Như gốc ở quá khứ vô lượng đời trước nghiệp lành dữ ấy làm cho chẳng mất đi đâu cả. Trong nghĩa nầy như thế nào? Tương tục thức nầy lại hay phát khởi nhuần thắm sanh ra phiền não mà làm cho điều nầy thành nghiệp, quyết định quả báo an lập thuộc vào. Như căn bản lại hay thành tựu hiện tại vị lai khổ, vui và quả báo chẳng sai khác vậy. Nghĩa sau ra sao? Tương tục thức nầy phan duyên chẳng đổi rộng ra, phân biệt lại mạnh hơn. Duyên rồi rõ biết cảnh, rồi phát ra tâm vui hay chẳng vui. Đối với cảnh hiện tiền tăng trưởng sự yêu thương hoặc tâm chẳng yêu thích. Duyên vào cảnh chưa rõ, chưa hoàn toàn rồi vọng tính. Như căn bản ấy hay làm cho hiện tại trải qua các việc mà niệm vị lai ấy bất giác vọng lự. Như vậy thức nầy liên tục sanh tử làm cho chẳng đoạn tuyệt. Cho nên có tên là tương tục thức vậy.

Đã nói qua về nghiệp tương tục, dụng sai biệt môn rồi. Bây giờ lần lượt nói về duy tâm hướng chuyển các pháp môn.

Viết rằng: Cho nên 3 cõi hư ngụy, chỉ có tâm tạo ra. Lìa tâm thức không có lục trần cảnh giới. Nghĩa nầy như thế nào? Do tất cả pháp đều từ tâm niệm vọng tưởng khởi lên nên sanh ra. Tất cả những phân biệt tức là phân biệt tự tâm; tâm chẳng thấy, tâm vô, tướng có thể được, sẽ rõ biết thế gian tất cả cảnh giới. Tất cả đều nương vào tâm vọng vô minh của chúng sanh mà được ở lại. Cho nên tất cả pháp như hình trong gương, chẳng có thực thể. Do tâm hư vọng. Do tâm sanh nên mọi pháp đều sanh. Tâm diệt tức mọi pháp đều diệt.

Luận rằng: Câu văn nầy làm rõ nghĩa gì? Vì muốn hiển thị tất cả các pháp, duy chỉ có tâm hướng chuyển, chẳng có pháp nào khác cả. Vì sao thế? Tùy tâm mà có không sai biệt, pháp có pháp không. Các pháp đều do tâm và tâm nầy có không? Như thế tâm pháp lại chẳng thể được. Vậy thì tâm nầy được thành lập với nghĩa gì? Điều nầy cũng lại do tâm vậy. Lấy gì để rõ biết? Kinh văn đã nói rõ rồi. Sao lại nói như thế? Nghĩa là trong phần lưu Lăng Già khế kinh có nói như thế nầy: Với tâm vô tâm ta nói vì tâm lượng. Lại nữa do tâm chẳng thể có được câu cú, mà thành lập cái nghĩa của cái không to lớn. Do tâm không tâm, so sánh với câu cú; nên thành lập cái nghĩa của sự huyễn sai biệt. Lại nữa do cái nghĩa không to lớn ấy mà các pháp được thành lập. Do cái nghĩa của huyễn sai biệt vậy. Cái lý của không được hiển bày. Lại nữa do tương quan; nên không định hai việc. Vô nhị sự; cho nên chẳng thành một việc. Vô nhứt sự nên chẳng thành, lại cũng chẳng thành. Như thế lần lượt nên phán đoán quan sát vậy.

Đã nói rộng về Đại Mạt Na chuyển tướng môn rồi. Bây giờ lần lượt nói về phân biệt sự thức chuyển tướng môn.

Viết rằng: Lại nữa nói ý thức tức là tương tục thức. Nương vào phàm phu mà chấp thủ chuyển nhiễm, tính toán về ngã và ngã sở; nhiều loại vọng chấp tùy theo sự việc phan duyên, phân biệt lục trần, tên gọi lá Ý Thức. Lại cũng có tên là Phân Ly Thức và lại cũng có tên là Phân Biệt Sự Thức. Thức nầy nghĩa là nương vào sự thấy, yêu, phiền não tăng trưởng vậy.

Luận rằng: Như trong câu văn ấy tự có bốn môn. Những gì là bốn? Một là giản trạch giả giả đồng phân môn; hai là sanh khởi thô trọng chuyển tướng môn; ba là kiến lập danh tự sai biệt môn; bốn là hiển thị an lập sở y môn.

Giản trạch giả giả môn nghĩa là đưa ra 3 loại phàm phu, giản địa thượng thánh vậy. Những gì là 3 phàm phu? Một là vô căn đuôi điếc phàm phu; hai là lông đầu nan giác phàm phu; ba là Kim Cang bất biến phàm phu. Đây gọi tên là ba. Như trước nương vào các phàm phu vậy.

Sanh khởi thô trọng môn nghĩa là: Nếu thay tà định tụ thì các chúng sanh thường cùng với thức hý luận phân biệt, thủ trước tất cả cảnh giới, lưu chuyển không ngừng và không có ranh giới, cũng chẳng có đầu đuôi, thường hay tăng trưởng chẳng có đoạn tuyệt. Như căn bản thủ trước, chuyển sâu hơn vậy. Nếu thay cho bất định tụ của chúng sanh thì chỉ có giác diệt, tướng định là việc chẳng thiện khởi lên, chẳng tác ý, mà con người không rõ vị hiện tiền vậy; duyên vào các cảnh giới và thân phận mà tính về ngã, ngã sở, cố chấp chẳng bỏ. Như căn bản tính về ngã và ngã sở vậy. Nếu thay thế tam hiền vị của chúng sanh thì tuy đã thành tựu nhơn không rồi và bát nhã giác ấy khác với tướng của mộng; mà chơn pháp không ấy rõ biết như là vị hiện tiền vậy. Khởi lên nhiều loại chấp trước, cố chấp thật pháp. Tùy theo việc mà suy nghĩ chẳng thể rõ biết bình đẳng chánh lý. Như căn bản nhiều loại vọng chấp tùy việc phan duyên, phân biệt lục trần vậy.

Còn Kiến Lập danh tự môn có ba loại. Những gì là ba? Một là sở y vi tế danh tự; hai là sở y thô hiện danh tự; ba là tùy thuận cảnh giới danh tự.

Đây gọi tên là ba. Tên đầu nghĩa là gì?

Thức nầy nương vào vi tế Mạt Na Thức kia, lấy làm chỗ dừng của căn mà được an lập; nên có tên là ý thức. Như căn bản gọi đây là ý thức vậy. Trong nầy gọi là gì? Thức nầy nương vào mắt kia và ngũ căn, rồi do căn dừng mà phân biệt ngũ trần. Đây lại cũng có tên là Phân Biệt Thức. Như gốc gọi tên là Phân Ly Thức. Tên sau có nghĩa gì? Thức nầy toàn duyên vào cảnh giới, mà chuyển phân biệt, chưa được như lý, làm tự cảnh giới. Cho nên gọi tên là Phân Biệt Sự Thức. Như căn bản lại cũng nói: Đây là phân biệt sự thức vậy.

Hiển thị sở y môn nghĩa là: Thấy tu hai hoặc huân vào nơi bổn thức. Do các lực huân nầy mà phần thô của ý thức được kiến lập, tăng trưởng tương tục, hằng chuyển và được lưu giữ lại đó. Như căn bản, thức nầy nương vào sự thấy, yêu phiền não; nên hay tăng trưởng là ở nghĩa nầy vậy.

Từ trước đến nay sanh diệt nhơn duyên đã giải thích rồi và từ đây trở xuống hiển thị nhơn duyên thù thắng tướng bất khả tư nghì.

Viết rằng: Nương vào vô minh huân tập; nên có thức chỗ khởi. Chẳng phải kẻ phàm phù rõ biết được, mà chẳng phải hàng nhị thừa trí tuệ chỗ rõ biết. Nghĩa là nương vào Bồ Tát từ sơ chánh tín phát tâm quan sát; nếu chứng pháp thân thì sẽ được một ít phần trí. Cho đến Bồ Tát cứu cánh địa chẳng thể rõ biết được. Duy chỉ có Phật mới rõ cùng tận. Vì sao vậy? Tâm nầy từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh, mà vì có vô minh và vì chỗ nhiễm của vô minh; nên có tâm nhiễm nầy. Tuy có tâm nhiễm ô, mà thường hằng bất biến. Cho nên nghĩa nầy chỉ có Phật mới rõ biết hết. Cho nên tâm tánh thường vô niệm. Gọi đây là bất biến. Lấy việc chẳng thấu đạt một pháp giới. Tâm chẳng tương ưng, hốt nhiên khởi niệm, tên gọi là vô minh. Trong thâm tâm có 6 loại. Những gì là sáu?

Một là chấp tướng ưng nhiễm; nương vào nhị thừa giải thoát và tín tương ưng địa viễn ly.

Hai là bất đoạn tương ưng nhiễm; nương vào tín tương ưng địa tu học phương tiện, dần dần có thể xả bỏ được tịnh tâm địa, cứu cánh lìa khỏi.

Ba là phân biệt trí tương ưng nhiễm; nương vào Cụ Giới Địa dần dần ra khỏi và cho đến vô tướng phương tiện địa, cứu cánh lìa khỏi.

Bốn là hiện sắc bất tương ưng nhiễm; nương vào sắc tự tại địa hay lìa khỏi.

Năm là hay thấy tâm bất tương ưng nhiễm; nương vào tâm tự tại địa hay lìa khỏi.

Sáu là căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm; nương vào Bồ Tát Địa, tận được vào Như Lai Địa, hay lìa khỏi.

Bất liễu nhứt pháp giới nghĩa là từ tín tương ưng địa quan sát học dứt, nhập vào tịnh tâm địa tùy theo phần được lìa; cho đến Như Lai Địa hay cứu cánh lìa khỏi vậy. Nói tương ưng nghĩa là tâm niệm pháp sai khác; nương vào nhiễm tịnh sai biệt mà rõ tương duyên, tương đồng. Còn chẳng tương ưng nghĩa là tâm ấy bất giác, thường chẳng có sai khác, chẳng đồng rõ tướng, duyên tướng vậy.

Lại nữa nhiễm tâm nghĩa là phiền não ngại, hay chướng thế gian, nghiệp tự nhiên rõ biết. Nghĩa nầy là thế nào? Lấy sự nương vào tâm nhiễm ô hay thấy hay hiện, vọng chấp thủ cảnh giới, sai với tánh bình đẳng. Lấy tất cả pháp thường tịnh, chẳng có khởi tướng. Vô minh bất giác vọng động cùng với pháp sai biệt, chẳng thể được tùy thuận thế giới tất cả cảnh giới đủ loại rõ biết.

Luận rằng: Trong câu văn nầy có 5 môn. Những gì là 5? Một là cử nhân hiển thị thù thắng môn. Hai là hiển thị thâm duyên quyết nghi môn. Ba là cử chướng thị trị phối đương môn. Bốn là hiển ứng bất ứng sai biệt môn. Năm là lập nhị ngại biệt chướng môn. Đây gọi chung là năm.

Trong môn thứ nhất tức có 3 người. Những gì là ba?

Một là phân mãn cụ tuyệt nhơn, tà tịnh phàm phu tất cả nhị thừa, ngu si sâu dày, trí huệ yếu kém. Như căn bản nương vào vô minh huân tập rồi tạo chỗ khởi lên thức mà không phải phàm phu rõ biết được; lại chẳng phải nhị thừa trí tuệ thấy biết được.

Hai là có phần không đầy người. Trong 50 vị, người rõ biết Bát Nhã chưa trọn vẹn. Như căn bản nghĩa là nương vào Bồ Tát từ sơ chánh tín phát tâm. Quan sát để chứng pháp thân, được một ít trí, cho đến Bồ Tát cứu cánh địa, chẳng thể rõ biết hết.

Ba là có đầy đủ, không phần người. Trong quả vị Phật, đại viên cảnh trí, biến hiện ra trước vậy. Như căn bản, chỉ Phật mới rõ biết tột cùng. Đây gọi tên là ba.

Đã nói về cử nhân hiển thị thù thắng môn rồi. Bây giờ lần lượt nói về hiển thị thâm duyên quyết nghi môn. Trong đây có hai ý. Những gì là hai? Một là thường, vô thường môn; hai là vô thường, thường môn. Nói là thường vô thường môn có nghĩa là tự tướng bổn giác của tâm từ vô thỉ đến nay, quyết định thường trụ, thể tánh không thay đổi; chẳng phải chẳng vô thường; chẳng phải không biến hóa. Như căn bản tại sao tâm nầy từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh mà lại có vô minh. Vì vô minh nên mới bị nhiễm ô và sinh ra tâm ô nhiễm nầy vậy. Nói là vô thường, thường môn nghĩa là bản giác tâm nầy từ vô thỉ đến nay thường hằng vô thường, thường hay biến đổi; chẳng có lúc nào là chẳng dừng nghỉ; chẳng phải chẳng không thay đổi. Như căn bản, tuy tâm có ô nhiễm mà thường hằng bất biến. Cho nên nghĩa nầy chỉ có Phật mới có thể rõ biết được. Tổng kết thù thắng. Từ đây trở xuống liền dùng 2 câu để giải thích 2 câu trên. Qua câu văn có thể thấy được.

Đã nói qua về hiển thị thâm duyên quyết nghi môn rồi. Bây giờ lần lượt nói đến cử chướng thị trị phối đương môn. Nghĩa là trong môn nầy có hai ý. Những gì là hai? Một là tùy chuyển đối trị phần vị môn; hai là căn bản đối trị phần vị môn. Tùy chuyển đối trị môn nghĩa là 6 loại tùy tướng như lần lượt phát tâm làm đầu và diệu giác làm cuối. Tùy theo đó không rời bỏ. Như căn bản sự nhiễm ô của tâm có 6 loại. Những gì là sáu? Một là chấp tương ưng nhiễm, y nhị thừa giải thoát và tín tương ưng địa viễn ly; nói rộng cho đủ 6 là căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm y Bồ Tát Địa; cho đến cuối cùng được nhập vào Như Lai Địa, hay lìa được vậy. Căn bản đối trị môn nghĩa là: Đại lực vô minh cực vui làm đầu và diệu giác làm cuối. Tùy theo đó chẳng lìa khỏi. Như gốc gác chẳng rõ biết một pháp giới từ tín tương ưng địa, quan sát học đoạn, nhập vào tịnh tâm địa, tùy theo từng phần được lìa, cho đến Như Lai Địa có thể lìa cứu cánh. Trong Cực Hỷ địa, căn bản tùy tướng đối trị hình tướng sẽ sai khác như thế nào? Nghĩa là Hậu Đắc Trí đoạn được thì đây gọi là vô minh và chánh sở trí đoạn được, thì đây gọi là tùy tướng; nên như thế mà rõ biết. Nói đến Cực Hỷ thượng, tất cả địa lại cũng như vậy.

Đã nói về cử chướng thị trị phối đương môn rồi. Bây giờ lần lượt nói về hiển ưng bất ưng sai biệt môn. Tại sao lại gọi là tương ưng nghĩa? Nói là tương ưng nghĩa nghĩa là chỉ cho tâm phẩm và niệm pháp sai biệt. Tâm phẩm là những gì? Đó là bản giác tùy nhiễm của tâm. Những gì gọi là niệm pháp? Đó là nương ngay vào vô minh để sanh trưởng các pháp vọng. Dùng nghĩa gì mà gọi là tương ưng? Nghĩa là tương cùng với sức mạnh. Như vậy thì hai pháp có nghĩa khác nhau ra sao? Cái gốc của mỗi đều khác nhau. Như nói cái gốc tương ưng nghĩa là tâm niệm pháp sai khác. Niệm pháp nương vào sự nhiễm ô. Tâm phẩm nương vào chỗ sạch sẽ. Như vậy cả hai nương vào chỗ khác nhau. Giống như nước, lửa làm sao nói nghĩa giống nhau được. Rõ tướng và duyên tướng hợp lại giống nhau. Thế nào là tên gọi của tri tướng khế đồng? Tâm phẩm niệm pháp chẳng giống nhau, xa lìa nhau, hòa hợp chuyển đổi. Sao gọi là duyên tướng khế đồng? Như vậy hai phẩm cùng duyên với nhau. Như căn bản nương vào nhiễm tịnh sai biệt mà rõ biết tương duyên, tương đồng. Trong Đại Bản Kim Cang Tam Muội khế kinh nói như thế nầy: Ba loại tương đồng; khác nhau nên thành giống nhau. Nếu giống thì chẳng giống. Nếu như vâỵ thì trong Bộ Tổng Khế Kinh nói ra sao? Ba loại thô nhiễm hai nghĩa hay thay đổi. Những gì là hai chuyển? Một là tương vi chuyển; hai là tùy thuận chuyển. Cho đến nói rộng ra trên nghịch dưới thuận, tạo ra những thế để nói. Chẳng có ý sai biệt. Bất tương ưng nghĩa là tương ưng và tương vi (lìa nhau); hãy nên quan sát phán xét.

Đã nói qua về hiển ưng bất ưng sai biệt môn. Bây giờ nói về lập nhị ngại biệt chướng dụng môn. Phiền não ngại kia tán tác và tánh động nhiều, mà chơn như trí thì trực tịnh tánh; như vậy có chỗ trái lại; nên tạo ra chướng. Như căn bản nghĩa là tâm nhiễm ô và gọi đây là phiền não ngại, hay làm chướng chơn như căn bản trí. Trí tuệ ngại kia có tánh tối mờ mịt; rồi tạo nghiệp trí và có tánh thông minh. Như vậy có chỗ ngược lại nên tạo thành chướng ngại. Như gốc của vô minh nghĩa là làm cho trở ngại của trí tuệ, hay làm chướng thế gian tự nhiên nghiệp trí vậy. Nghĩa nầy như thế nào ở hạ hiển thị nhơn duyên nầy nên phán đoán suy nghĩ để rõ. Nhị chướng nhị ngại lại có cái gì khác nhau? Lập nên hai chướng môn, đưa ra một hướng đoạn lìa; lập nên hai ngại môn để đưa ra sự đoạn lìa và chẳng dứt mất. Nên rõ như vậy; nên quan sát như vậy. Từ trên trở lại đây nhơn duyên thù thắng quyết trạch phần đã nói xong.

    Xem thêm:

  • Luận Kim Cang Đỉnh Du Già Trung Phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề - Luận Tạng
  • Luận Chư Giáo Quyết Định Danh Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Đại Tông Địa Huyền Văn Bổn - Luận Tạng
  • Tam Luận Lược Chương - Luận Tạng
  • Ngộ Tánh Luận - Luận Tạng
  • Giảng Giải Kinh Viên Giác - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 3 - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Thành Duy Thức Luận - Luận Tạng
  • Luận Nhập Đại Thừa - Luận Tạng
  • Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Luận Tạng
  • Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Lược Sớ - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Khai Tâm Hiển Tánh Đốn Ngộ Chơn Tông - Luận Tạng
  • Một Trăm Câu Hỏi Đáp Về Pháp Môn Niệm Phật - Luận Tạng
  • Thiền Tông Khảo Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 2 - Luận Tạng
  • Tán Thuật Kinh Kim Cang Bát Nhã - Luận Tạng