Quyển 2
Đã nói phần lập nghĩa rồi. Bây giờ nói đến phần giải thích. Trong phần giải thích về pháp môn nầy, tên gọi có bao nhiêu và tướng ấy như thế nào?
Tụng rằng:
Chỉ có bốn loại pháp
Cùng với hai mươi chín môn
Lược chẳng giải thích vậy
Chín luận đã nói rồi.
Luận rằng: Trong phần giải thích chỉ giải thích 4 pháp. Còn các môn khác lược nói, chẳng giải thích riêng lẻ. Vì sao gọi là 4? Một là thể Ma Ha Diễn. Hai là tam tự Ma Ha Diễn. Ba là chơn như môn. Bốn là sanh diệt môn. Vì sao những pháp khác chỉ nói qua mà chẳng giải thích? Vì ở nhứt tâm biến mãn cửu luận đã giải thích rồi vậy. Cho nên trong nhứt tâm biến mãn luận chỉ giải thích về 4 pháp thôi. Còn những pháp môn khác chỉ lược qua chứ không giải thích. Vì sao gọi là 4? Một là nhứt thể nhứt tâm Ma Ha Diễn. Hai là tam tự nhứt tâm Ma Ha Diễn. Ba là nhứt thể nhứt tâm môn. Bốn là tam tự nhứt tâm môn. Trong luận dung tục quy chơn chỉ giải thích 4 pháp. Còn các pháp khác chỉ lược qua, không giải thích riêng. Sao gọi là 4?
Một là vô lượng vô biên các pháp sai biệt, chẳng tăng chẳng giảm, thể đại Ma Ha Diễn.
Hai là tịch tịnh chẳng tạp, một vị bình đẳng, chẳng tăng chẳng giảm thể đại Ma Ha Diễn.
Ba là các pháp sai biệt, bất tăng bất giảm, thể đại môn.
Bốn là một vị bình đẳng, chẳng tăng chẳng giảm, thể đại môn.
Trong luận về pháp giới tạng chỉ giải thích 4 pháp và các môn khác cũng lược nói, chẳng giải thích riêng lẻ. Thế nào là 4?
Một là Như Lai Tạng công đức, tướng Đại Ma Ha Diễn.
Hai là đầy đủ tánh công đức, tướng Đại Ma Ha Diễn.
Ba là Như Lai Tạng công đức, tướng Đại Môn.
Bốn là đầy đủ tánh công đức, tướng Đại Môn.
Trong bí mật vi diệu luận chỉ giải thích 4 pháp. Còn các pháp khác thì lược nói, chẳng giải thích riêng. Thế nào là 4?
Một là hay sanh tất cả thế gian nhơn quả, dụng Đại Ma Ha Diễn.
Hai là hay sanh tất cả xuất thế gian thiện nhơn quả, dụng Đại Ma Ha Diễn.
Ba là Thế gian nhơn quả, dụng Đại Môn.
Bốn là xuất thế gian thiện nhơn quả, dụng Đại Môn.
Ở trong luận Chúng Lệnh Hợp Nhứt chỉ giải thích 4 pháp. Còn các pháp môn khác chỉ lược nói, chẳng phân biệt giải thích riêng. Sao gọi là 4?
Một là vô lượng vô biên các pháp sai biệt, chẳng tăng chẳng giảm Ma Ha Diễn.
Hai là tịch tĩnh chẳng tạp, một vị bình đẳng, chẳng tăng chẳng giảm Ma Ha Diễn.
Ba là các pháp sai biệt chẳng tăng chẳng giảm môn.
Bốn là một vị bình đẳng, chẳng tăng chẳng giảm môn.
Trong luận Chơn Như Tam Muội chỉ giải thích 4 pháp. Còn những pháp môn khác chỉ lược nói, chẳng giải thích riêng biệt. Sao gọi là 4?
Một là Như Lai tạng công đức Ma Ha Diễn.
Hai là đầy đủ tánh công đức Ma Ha Diễn.
Ba là Như Lai tạng công đức môn.
Bốn là đầy đủ tánh công đức môn.
Trong luận Tân Tánh Thanh Tịnh chỉ giải thích 4 pháp. Ngoài ra các môn khác chỉ lược nói, chẳng phân biệt giải thích. Sao gọi là 4?
Một là hay sanh tất cả thế gian nhơn quả Ma Ha Diễn.
Hai là hay sanh tất cả xuất thế gian thiện chơn quả Ma Ha Diễn.
Ba là thế gian nhơn quả môn.
Bốn là xuất thế gian thiện nhơn quả môn.
Trong luận Bất Động Bổn Nguyên thậm thâm huyền lý nhị chủng chỉ giải thích một pháp. Còn những pháp môn khác lược nói, chẳng giải thích riêng biệt. Sao gọi là một?
Đó là bất nhị Ma Ha Diễn Pháp.
Nói rộng nói lược mỗi mỗi sai biệt vậy. Vì sao mà các luận kiến lập các môn lấy số gốc làm chính? Trong các môn nói rộng ra thì mỗi pháp môn đều có chỗ thiếu sót. Do muốn hiển thị pháp thể, chẳng phân nghĩa môn có sai biệt. Lại nữa vì muốn làm cho những người học hay tăng trưởng sự suy nghĩ vậy. Lại nữa vì muốn làm cho khai thị giáo lý sâu xa huyền diệu mà sanh ra tâm tán thán tôn trọng vậy. Lại nữa vì muốn hiển thị pháp môn rộng như hư không giới, nghĩa lý vô cùng như Trừng Thần Hải nên nói chẳng thể đàm luận, suy nghĩ chẳng thể rõ biết số lượng nầy.
Ở đây đã nói về bổn số. Bây giờ sẽ nói về sự giải thích riêng.
Viết rằng: Giải thích có 3 loại. Thế nào là ba?
Một là hiển thị chánh nghĩa. Hai là đối trị tà chấp. Ba là phân biệt phát thú đạo tướng.
Luận rằng: Như thế 3 môn giải thích 4 pháp, đại môn số lượng.
Viết rằng: Hiển thị chánh nghĩa, nương vào nhứt tâm pháp có 2 loại môn. Thế nào là hai?
Một là tâm chơn như môn.
Hai là tâm sanh diệt môn.
Đây là hai loại môn mà tất cả mỗi mỗi đều tổng nhiếp tất cả pháp. Nghĩa nầy như thế nào? Lấy đây hai môn, chẳng lìa tướng vậy.
Luận rằng: Tức thị phần nói lược, trong đây có 3 môn. Thế nào là ba?
Một là kiến lập 4 loại pháp tướng môn.
Hai là pháp môn cai nhiếp viên mãn môn.
Ba là phát khởi vấn đáp hiển nhơn môn, nương vào nhứt tâm pháp có 2 loại môn. Thế nào là hai?
Một là tâm chơn như môn.
Hai là tâm sanh diệt môn. Nghĩa là kiến lập 4 loại pháp tướng môn. Hai pháp hai môn, tiếng gọi riêng biệt. Số lượng là bao nhiêu và tướng nầy là gì?
Tụng rằng:
Mỗi có mười loại tên.
Khế kinh nói khác đi
Mà chẳng có thể riêng
Tùy đó lập tên khác.
Luận rằng: Hai phái hai môn mỗi mỗi có 10 tên gọi. Trong các khế kinh nói rất rõ ràng; mà pháp nầy thế của nó chẳng có sai biệt. Tùy theo công năng đó mà lập nên tên nầy vậy. Hai loại bổn pháp và 10 tên gọi ấy là gì?
Tụng rằng:
Tỳ Na Ha Kiền Na
Ma Ha Cưu Thi Đế
Ma Thi Đà Na La
Ma Ca La Cu Xá
Tất Tát Y Ni La
Bà Già Bà Cu Xá
Tất Đạt Ma Biến Na
Hoặc tên Ma Ha Diễn
Sa Già Xoa La Bà
Tất A Tác Ma Lợi
Như Thế mười tên gọi.
Thông hai loại bổn pháp.
Luận rằng: Hai loại bổn pháp, mỗi mỗi có 10 tên. Tên thông nghĩa biệt. Thế nào là 10?
Một là tên Quảng Đại Thần Vương. Trong nầy lại có hai. Những gì là hai? Một là Cưu Na Già Thần Vương. Hai là Khứ Tỳ Khư La Thần Vương. Vị Thần Vương thứ nhất trụ ở Kim Cang Sơn, một hướng xuất sanh, kiết tường thần chúng.
Vị Thần Vương thứ hai trụ trong biển lớn. Biến thông xuất sanh tất cả các loại kiết tường thần chúng, qua hoạn thần chúng. Hai loại bổn pháp, quảng đại Thần Vương lại cũng như thế. Một thể bổn pháp, một hướng xuất sanh chơn như tịnh pháp.
Ba là tự bổn pháp, biến thông xuất sanh tất cả các loại tịnh bạch phẩm pháp, nhiễm ô phẩm pháp vậy. Tự thể ở trong khế kinh nói như thế nầy. Văn Thù Sư Lợi ở trước Phật thưa rằng:
“Thế Tôn! Thậm thâm vi diệu, hai loại Đại Thừa, chẳng rõ chẳng biết giống hay khác là điều nghi ngờ nhiều ở tâm của chúng con. Như vậy xin Thế Tôn vì chúng con mà giải bày”.
Phật ngồi đoan nghiêm rồi bảo Văn Thù:
“Nầy Thiện Nam Tử! Như thế hai pháp, giống như Kim Cương Thần Vương và Chủ Hải Thần Vương, tướng nầy mỗi mỗi sai biệt. Nghĩa là như Kim Cang Thần Vương thì trụ ở Kim Cang Sơn, thấy các cảnh giới, chỉ hiện ra ánh sáng vàng, chẳng hiện ánh sáng khác. Chơn Như nhứt tâm Thần Vương lại cũng như thế. Duy chỉ có tịnh pháp, không có các pháp khác. Lại nữa như Kim Cang Thần Vương chỉ xuất sanh thanh tịnh quyến thuộc, sẽ chẳng cho ra tạp loạn quyến thuộc. Chơn Như nhứt tâm lại cũng như thế, duy chỉ cho ra vô cấu thanh tịnh pháp. Lại nữa giống như chủ Hải Thần Vương trụ ở trong biển lớn, cho ra đủ loại thô ác quyến thuộc, đủ loại thiện diệu quyến thuộc. Sanh diệt nhứt tâm, chủ Hải Thần Vương cũng lại như thế. Cho ra tất cả những pháp dơ sạch.
Thứ hai gọi là Đại Hư Không Vương. Trong nầy lại có hai. Thế nào là hai? Một là Không Tự Tại Không Vương. Hai là Sắc Tự Tại Không Vương. Đệ Nhứt Không Vương, lấy không dung thọ, mà làm tự tại. Đệ Nhị Không Vương lấy sắc dung thọ mà làm tự tại. Hai loại Bổn Pháp lại cũng như thế. Nhứt Thể Không Vương lấy Vô Trụ Xứ mà làm tự tại. Tam Tự Tại Vơng lấy hữu trụ xứ mà làm tự tại. Trong Kim Cang Tam Muội Khế Kinh nói như thế nầy: Nhứt tâm như pháp lý, tự thể không vô. Như Hư Không Vương kia, chính chẳng có trụ xứ. Trong Nhứt Địa Khế Kinh cũng nói như thế. Nhứt tâm pháp thể ở trong các chướng ngại mà chẳng có chướng ngại, làm cho ở lại nơi các pháp. Giống như Không Vương ở nơi tất cả sắc mà được tự tại vậy, dung thọ những loại lớn.
Ba là Xuất Sanh Long Vương. Ở trong nầy có hai. Những gì là hai? Một là xuất sanh Quang Minh Long Vương. Hai là xuất sanh Phong Thủy Long Vương. Đệ nhứt Long Vương lấy tịnh quang minh mà nương nhờ vào đó. Đệ nhị Long Vương lấy cái đức của gió, nước mà nương nhờ. Hai loại bổn pháp xuất sanh Long Vương cũng vậy. Một thể bổn pháp lấy pháp thuần sạch mà làm thể nầy. Ba tự bổn pháp lấy pháp sạch dơ mà làm đức nầy vậy.
Ở trong Thuận Lý Khế Kinh có nói như thế nầy: Nhứt tâm bổn pháp thuần nhứt chẳng tạp. Giống như Quang Minh Long Vương dùng Tịnh Quang Minh để làm cung điện vậy, dùng tịnh quang minh mà làm tướng của thân, dùng tịnh quang minh mà làm đồ chúng.
Trong Vô Thỉ Khế Kinh cũng nói như vậy. Giống như trong biển lớn có một Đại Long Vương tên là Xuất Sanh Phong Thủy. Từ đảnh đầu cho ra trừng thủy (nước gạn sạch). Từ nơi sau đuôi cho ra cột khói. Do từ Long Vương nầy mà nên nước biển lớn. Gió thường hay liên tục không dừng nghỉ; nên Nhứt Tâm Long Vương lại cũng như thế. Hay sanh tất cả sai biệt bình đẳng các loại pháp, thường hay liên tục, không có đoạn tuyệt.
Bốn gọi tên là Như Ý Châu Tạng. Trong nầy có hai. Những gì là hai?
Một là Kim Cương Như Ý. Hai là Mãn Vương Như Ý. Đệ nhứt Như Ý chỉ phóng ra Kim Cang. Đệ nhị Như Ý cho ra đầy đủ vật thiện và bất thiện. Hai loại bổn pháp lại cũng như vậy. Nhứt thể Như Ý chỉ sanh tịnh pháp. Tam Tự Như Ý thông sanh nhiễm tịnh pháp. Như trong khế kinh cũng nói như vậy.
Phật bảo Kim Cang Tạng Bồ Tát rằng: Nầy Phật Tử! Giống như Kim Súy Điểu Vương chết đi, sau đó tâm nầy nhập vào biển làm Như Ý châu, hay sanh Kim Sa lợi ích Long Vương. Nhứt tâm bổn pháp lại cũng như thế. Hay sanh chơn lý, lợi ích viên mãn. Cho nên trong Bổn Tánh Trí Kinh cũng nói như thế. Giống như Già Đa Lợi quỉ, vì báo ân mà ở một vạn kiếp làm Như Ý châu, lợi ích cho đời sống trong biển. Nhứt Tâm Như Ý lại cũng như vậy, hay sanh trưởng sanh tử và pháp Niết Bàn.
Thứ năm có tên là Phương Đẳng. Ở trong đây lại có hai. Thế nào là hai? Một là Bạch Hào Phương Đẳng. Hai là loạn sắc phương đẳng. Trong đệ nhứt phương đẳng chỉ hiện trước thiên tượng. Trong đệ nhị phương đẳng thường hiện ra ngũ thứ. Như thế nhị hào chúng sanh phân thân. Hiểu rõ phân minh, giống như tấm kính sáng trong. Hai loại bổn pháp lại cũng như vậy.
Trong Nhiếp Vô Lượng Khế Kinh cũng nói như thế. Thanh tịnh pháp giới như bạch tất Tát Y Ni La. Vô tận pháp giới như Loạn Tất Tát Y Ni La.
Thứ sáu gọi là Như Lai Tạng. Trong đây lại có hai. Thế nào là hai? Một là Viễn Chuyển Viễn Phược Như Lai Tạng. Hai là cùng hành cùng tướng Như Lai Tạng. Trong Thật Tế Khế Kinh cũng nói như thế. Nầy Phật Tử! Như Lai Tạng duy chỉ có bậc giác ngộ. Duy chỉ có bậc như như, lìa cái nhơn lưu chuyển, lìa nơi trí bị trói buộc mỗi mỗi trắng trong. Cho nên gọi tên là Như Lai Tạng. Trong kinh Lăng Già cũng nói như thế. Như Lai Tạng là cái nhơn thiện, bất thiện, thọ khổ vui, cùng với cái nhơn đầy đủ của sanh, của diệt, giống như cánh tay của đứa bé.
Thứ bảy là Nhứt Pháp Giới. Trong đây lại có hai. Thế nào là hai? Một là thuần bạch nhứt pháp giới. Hai là vô tận nhứt pháp giới. Đệ nhứt pháp giới như lúc kiếp không. Đệ nhị pháp giới như trụ ở kiếp có thời gian. Trong Chơn Pháp Giới Khế Kinh cũng nói như thế. Loại không ấy vô ngại như không dài thời gian. Loại biên vô ngại như có thời gian dài.
Tám là Ma Ha Diễn Nghĩa như trước đã nói.
Chín là Trung Thật. Trong nầy lại có hai. Những gì là hai? Một là Đẳng Trụ Trung Thật; hai là Biệt trụ trung thật. Đệ nhứt trung thật như viên minh châu ở một mình. Đệ nhị trung thật như thuần minh châu. Ở trong Minh Trung Thật Khế Kinh cũng nói như thế. Lìa khỏi chơn tâm nếu chơn như nương vào như hạt châu giống hay khác nhau; hay sanh diệt nương vào nơi hạt châu giống hay khác vậy.
Mười là Nhứt Tâm. Trong đây lại có hai. Thế nào là hai? Một là thị nhứt thị, nhứt nhứt tâm. Hai là thị nhứt thiết, thị nhứt thiết tâm. Đệ nhứt nhứt tâm tùy chỗ tạo tác mà lập nên tên. Đệ nhị nhứt tâm tùy chỗ hay tạo mà lập nên tên. Trong Nhứt Tâm Pháp Khế Kinh cũng nói như vậy.
Lúc bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Bổn Địa Tu Đa La (Kinh) tác như thị xướng. Tâm nầy thể tánh chẳng lớn chẳng nhỏ, chẳng pháp, chẳng phi pháp, chẳng giống, chẳng khác, chẳng một, chẳng tất cả. Do nhân duyên gì vậy? Ngày nay tự nói chơn như nhứt tâm, nhơn một rồi một; sanh diệt nhứt tâm, nhơn nhiều rồi một. Chẳng phải Thế Tôn không có trước sau, đúng sai hay sao?
Phật bảo: Thiện Nam Tử! Hãy đừng nói như thế. Vì sao vậy? Vì tâm pháp không có một. Nhơn tạo ra một là chỗ giả danh làm một. Tâm pháp chẳng phải tất cả. Nhơn chỗ tạo tác tất cả; nên giả danh là tất cả. Mà nói nhứt tâm, chẳng nói tất cả tâm. Tùy hay tạo tâm, mà lập nên tên nầy vậy. Cho đến nói rộng ra. Có tên là mười. Như vậy 10 tên tổng nhiếp chư Phật tất cả pháp tạng căn bản danh tự.
Đã nói 2 pháp 10 loại tên riêng biệt. Bây giờ lần nói đến 2 môn và tên gọi sai biệt. Đúng là 10 tên và tướng nầy như thế nào?
Tụng rằng:
Bà già bà Cu Xá
Kiền Giá A Đa Na
Tất Bồ Đề Hấp Lê
Kiền Ha Kiền Bà Na
A Đà A Chỉ Ni
A Già Ta Thỉ Ya
Độ La Nặc Bổ Đế
Hán Hồ Kiền Na Địa
Ma Ha Phước Đà Nhứt
Bà A Xoa Ni La
Như thế mười tên gọi
Chơn như chẳng thể khác
Luận rằng: Tâm chơn như môn có 10 tên gọi. Những gì là 10?
Một là Như Lai Tạng môn, chẳng có tạp loạn vậy.
Hai là bất nhị bình đẳng môn, chẳng sai biệt vậy.
Ba là nhứt đạo thanh tịnh, chẳng khác gì cả.
Bốn là bất khởi bất động môn, lìa những việc làm vậy.
Năm là vô đoạn vô phược môn, chẳng có gì chướng ngại cả.
Sáu là vô khứ vô lai môn, chẳng có trên dưới.
Bảy là vi xuất thế gian môn, chẳng có bốn tướng.
Tám là tịch diệt tịch tịnh môn, chẳng trở lại vậy.
Chín là đại tổng tướng môn, chẳng có tướng riêng vậy.
Mười là Chơn Như môn, chẳng hư ngụy vậy.
Đó là 10 tên gọi. Mười tên như vậy tổng nhiếp chư Phật tất cả pháp tạng bình đẳng nghĩa lý pháp môn danh tự. Sanh diệt 10 tên của tướng nầy là gì?
Tụng rằng:
A Lê Ya Kiên Ma
Bà Già Bà Cu Xá
A Y Bà Na La
Kiền Ha Kiền Chỉ Ni
Kiền Già Kiền Thỉ Ya
Xoa Noa Phật Na La
La Nặc Bổ Đế Ni
Xà Phược Đa Niết Bàn
A Chỉ Già Na Thi
Đa Bạt Đa Kiền Xá
Như thế mười loại tên
Sanh diệt chẳng cùng gọi.
Luận rằng: Tâm sanh diệt môn có 10 loại. Thế nào là 10?
Một là Tạng Thức môn, nhiếp giữ tất cả nhiễm tịnh pháp.
Hai là Như Lai Tạng môn, che đậy Như Lai pháp thân thể.
Ba là Khởi Động môn, tương tục tạo nghiệp vậy.
Bốn là hữu đoạn hữu phược môn, có trị chướng vậy.
Năm là hữu khứ hữu lai môn, có trên dưới vậy.
Sáu là đa tướng phân vị môn, pháp sạch nhơ nhiều như cát.
Bảy là thế gian môn, do 4 tưởng chuyển đổi.
Tám là lưu chuyển hoàn diệt môn, đầy đủ sanh tử và Niết Bàn.
Chín là tướng đãi cụ thành môn, chẳng tự thành pháp vậy.
Mười là sanh diệt môn, biểu vô tướng vô thường.
Đây gọi là 10 tên. Mười tên như thế tổng nhiếp chư Phật, tất cả pháp tạng, các loại sai biệt pháp môn danh tự.
Đã nói qua nhị môn 10 loại tên gọi riêng biệt. Lần lượt nói về sự giống và khác nhau của tướng môn. Hai loại bổn pháp đồng dị sai biệt của tướng nầy là gì?
Tụng rằng:
Có 3 khác 2 giống
Mỗi nương môn cảnh khác
Mỗi mỗi biến giống nhau
Đồng tên khác nghĩa vậy.
Luận rằng: Hai loại bổn pháp có 3 dị 2 đồng. Những gì là 3 khác? Một là y dị, mỗi mỗi có chỗ nương vào Ma Ha Diễn. Hai là môn dị, mỗi mỗi đều có thể nhập vào chỗ sai biệt. Ba là cảnh dị, mỗi mỗi duyên vào nơi chính mình để làm cảnh giới. Cho nên đây gọi là 3 dị.
Thế nào là 2 đồng? Một là biến đồng, nghĩa là chu biến pháp giới so với lượng nầy. Hai là danh đồng, nghĩa là 10 loại danh tự thông qua hai pháp vậy. Đây gọi là hai đồng. Vì sao lại như thế? Đồng danh khác nghĩa. Hai loại pháp môn đồng dị sai biệt tướng nầy như thế nào?
Tụng rằng:
Có 7 khác 1 giống
Người, pháp nương hành thể
Cảnh giới dị biệt vậy
Tên khác nghĩa khác vậy
Luận rằng: Đây là hai loại môn, có 7 khác và 1 giống. Thế nào là 7 khác?
Một là nhơn chúng dị, trong chơn như môn có thanh tịnh giải thoát vậy. Trong sanh diệt môn đều gồm đủ 3 nơi của chúng sanh.
Hai là pháp môn dị. Trong chơn như môn chỉ có một hướng thanh bạch phẩm. Trong sanh diệt môn đều có tất cả nhiễm tịnh pháp.
Ba là sở y dị. Mỗi cái có chỗ nương vào Ma Ha Diễn.
Bốn là hành pháp dị. Trong chơn như môn nhứt tâm nhứt niệm sanh phược, chẳng sanh là việc làm nầy vậy. Trong sanh diệt môn lấy sanh diệt sanh, lấy diệt diệt diệt, lấy việc làm nầy vậy.
Năm là thể tướng dị, tâm chơn như môn cùng với việc làm căn bản nầy. Tâm sanh diệt môn cùng với căn bản riêng biệt nầy. Trong Lăng Già khế kinh nói như thế nầy: Tịnh diệt là tên của một tâm; nhứt tâm là tên của Như Lai tạng.
Sáu là cảnh giới dị. Mỗi cái duyên vào tự chính mình làm cảnh giới.
Bảy là vị địa dị. Trong chơn như môn, tương tạp trụ vậy. Trong sanh diệt môn, đến, lui và trụ lại.
Đây là 7 dị. Thế nào là một giống? Nghĩa là biến ra cho giống vậy. Vì sao lại như thế? Vì khác tên khác nghĩa vậy. Nhị môn vị địa có bao nhiêu sự phân chia rõ ràng trong khế kinh? Mỗi mỗi có bao nhiêu vị?
Tụng rằng:
Lăng Già cùng khế kinh
Chơn như có một loại
Sanh diệt môn có hai
Chỉ loạn ở trên dưới
Luận rằng: Nhị môn vị địa, trong Lăng Già cùng khế kinh đã nói rõ ràng rồi. Nghĩa là trong Đại Bổn Lăng Già Khế Kinh nói như thế nầy:
Hồi hướng tức tín tâm
Tín tâm tức Phật địa
Phật địa tức Phật địa
Thập địa tức phát tâm
Trong phần Lưu Lăng Già khế kinh nói như thế nầy:
Thập địa là Sơ địa
Sơ địa là Bát địa
Cửu địa là Thất địa
Thất địa là Bát địa
Nhị địa là Tam địa
Tứ địa là Ngũ địa
Tam địa là Lục địa
Tịch diệt có thứ lớp
Trong chơn tu khế kinh nói như thế nầy:
Có lúc mẹ một tuổi
Sanh con năm mươi tuổi
Con kia năm mươi tuổi
Hoài thai mẹ một tuổi
Sanh ra năm mốt tuổi
Đại trượng phu nam tử
Hoặc có như thế sao
Hoặc há chẳng có sao
Như vậy tất cả các kinh đều nương vào tâm. Chơn như môn tạo nên vị địa nầy. Đối với chơn như môn, duy chỉ có một hướng, tạp loạn trụ vị, chẳng có vị nào khác. Cho nên tụng rằng:
Trong các khế kinh lần lượt qua lại hướng đến các loại vị địa, nương vào sanh diệt môn, mà để an vị, hay để xem xét. Ở nơi sanh diệt môn có hai loại vị. Thế nào là hai? Một là hướng thượng môn; hai là hướng hạ môn. Như thế cả hai môn sanh diệt quyết chọn cho mình rồi sẽ nói rõ. Tâm sanh diệt môn, chánh trí sở chứng tánh chơn như lý và nhiếp ở môn nào? Nhiếp ở sanh diệt môn, chẳng phải chơn như môn, phân chia riêng biệt rõ ràng. Hai môn chơn như lại có những sai biệt gì? Chơn như môn, lý lý tự lý vậy. Sanh diệt môn, lý trí tự lý vậy. Nhị môn vị địa lấy nghĩa gì để phân biệt mỗi lý nầy? Lấy vô chướng, hữu chướng vậy. Đưa ra một tùy nghi để quán.
Đây đã nói qua sự kiến lập 4 loại pháp tướng môn. Đây là hai loại môn mà mỗi mỗi tổng nhiếp. Tất cả các pháp tức là pháp môn, lại nhiếp viên mãn môn. Nghĩa là chơn như môn nhiếp tất cả pháp. Chẳng có một pháp nào mà phi chơn như cả. Lấy sanh diệt môn nhiếp tất cả pháp. Chẳng có một pháp nào mà chẳng sanh diệt cả. Nên chơn như môn chẳng thể nhiếp sanh diệt môn, tất cả các pháp. Lại nữa sanh diệt môn, chẳng thể nhiếp chơn như môn tất cả các pháp. Lại nữa sanh diệt môn chẳng thể nhiếp chơn như môn tất cả các pháp, mà nói tổng nhiếp tất cả pháp. Tổng nhiếp sanh diệt tất cả pháp. Tổng nhiếp chơn như tất cả pháp. Vì sao vậy? Vì cả hai môn đều bình đẳng, mỗi mỗi riêng biệt vậy. Đã nói pháp môn hay nhiếp viên mãn môn rồi. Nghĩa nầy là gì? Đây là hai môn chẳng thể rời nhau vậy. Tức liền khởi lên sự hỏi đáp để làm rõ nguyên nhơn của môn. Nghĩa là nương thẳng vào câu hỏi và nương thẳng vào lời đáp vậy.
Đã nói qua phần tóm lược. Bây giờ nói phần nghĩa rộng.
Nói rằng: Tâm chơn như tức là một pháp giới, đại tổng tướng pháp môn thể. Cho nên tâm tánh chẳng sanh chẳng diệt. Tất cả các pháp, chỉ nương vào vọng niệm mà có sai biệt. Nếu lìa tâm niệm, tức chẳng có tất cả tướng của cảnh giới. Cho nên tất cả pháp từ trước đến nay, lìa tướng nói năng, lìa tướng danh tự. Lìa tâm duyên tướng cứu cánh bình đẳng, chẳng có thay đổi, chẳng thể phá hoại. Chỉ có nhứt tâm gọi là chơn như, mà tất cả những lời nói đều là giả danh vô thật. Hay tùy theo vọng niệm, chẳng thể được vậy. Nói rằng chơn như lại chẳng có tướng. Cho nên lời nói ấy là rốt. Cái nhơn của lời nói còn để lại lời nói, mà thể của chơn như nầy thì không thể để lại cái gì cả. Tất cả các pháp đều là chơn, lại chẳng thể lập được. Dùng tất cả pháp đều đồng như vậy. Nên biết tất cả pháp, chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ. Nên gọi là chơn như.
Hỏi rằng: Nếu nghĩa nầy thì các chúng sanh là thế nào tùy thuận để được nhập vào?
Đáp rằng: Nếu tất cả các pháp chỉ nói hữu vô, có thể nói và nói được. Chỉ nhớ nghĩ lại chẳng thể nhớ nghĩ, có thể nhớ nghĩ. Đây gọi là tùy thuận. Nếu lìa nói về nhớ nghĩ gọi tên là có thể nhập. Lại nữa chơn như có nghĩa là nương vào lời nói phân biệt có 2 loại nghĩa. Thế nào là hai? Một là như thật không, dùng chỗ hay cứu cánh để hiển bày sự thật. Hai là như thật chẳng không, lấy có tự thể đầy đủ tánh công đức vô lậu. Cho nên nói không là từ xưa đến nay. Tất cả các nhiễm pháp chẳng tương ưng vậy. Nghĩa là lìa tất cả pháp có tướng sai biệt. Lấy chẳng có hư vọng mà nhớ nghĩ đến. Nên biết rằng đó là chơn như tự tánh. Chẳng có tướng, chẳng không tướng; Chẳng phải chẳng có tướng, chẳng phải chẳng không tướng. Chẳng phải có, không đầy đủ. Chẳng phải một tướng, chẳng phải tướng khác. Chẳng phải chẳng một tướng, chẳng phải không là tướng khác. Chẳng phải tướng khác một cho đến nói tổng quát. Nương vào tất cả chúng sanh mà có vọng tâm, niệm niệm phân biệt, tất cả đều chẳng giống nhau. Cho nên nói là không. Nếu lìa vọng tâm, thật không thể là không. Cho nên nói là chẳng không vậy. Ở đây đã nói rõ pháp thể không vô vọng rồi, tức là chơn tâm thường hằng bất biến; tịnh pháp đầy đủ. Nên có tên là chẳng không. Lại chẳng có tướng để chấp, hay lìa sự nhớ nghĩ cảnh giới, chỉ chứng tương ưng vậy.
Luận rằng: Đây nói rộng ra, trong nầy có 3 môn. Thế nào là 3? Một là căn bản thể tánh chơn như môn. Hai là phát khởi vấn đáp quyết nghi môn. Ba là giả thuyết khai tướng chơn như môn. Trong đệ nhứt môn lại có 3 môn. Những gì là 3? Một là kiến lập danh tự môn. Hai là chơn thuyên chơn thể môn. Ba là giải thích danh tự môn. Tâm chơn như tức là một pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể. Tức là kiến lập danh tự môn. Nghĩa là tùy theo công năng lập nên tên nầy. Nhứt tâm chơn như mỗi mỗi có 10. Vì sao phải lập thêm cách gọi nầy? Vì chỗ làm vậy. Ở nơi những chúng sanh khác, tất chẳng phải như vậy; nên lược qua chẳng lập. Nghĩa nầy như thế nào? Nghĩa là tâm nầy tạo nghiệp lớn, pháp tạo ra tổng nghiệp, giới tạo ra tướng nghiệp. Nên pháp ấy là môn. Môn tức là thể. Cho nên nói pháp môn thể. Có nhiều tướng khác nhau để phán đoán.
Ở đây nói về kiến lập danh tự môn rồi. Lần nói đến Trực Thuyên Chơn Thể Môn. Nghĩa là tâm tánh bất sanh bất diệt vậy. Chơn Thuyên Chơn Như Môn, đơn giản nói sanh diệt môn. Nghĩa là pháp chơn như ấy chẳng sanh chẳng diệt vô sanh vô diệt, chẳng trụ chẳng khác, không trụ không dị, chẳng như pháp sanh diệt; là sanh là diệt; có sanh có diệt; là trụ là khác; có trụ có khác. Lấy tướng có không làm sai biệt. Lại nữa chẳng nói là không. Không ở đây nghĩa là không; nên nói chẳng là vậy. Vì sao thế? Pháp chơn như nầy trăm lần không không không; ngàn lần cũng là chẳng có. Chẳng chẳng chẳng có. Ở đó không hai lại chẳng có trụ lại. Tất cả các pháp chỉ nương vào vọng niệm mà có sai biệt. Chỉ giả danh có kia, làm hiểu rõ cái không nầy. Nghĩa là giả sanh diệt môn nên giả có. Để chỉ chơn như môn về thật không ấy. Nếu lìa tâm niệm tức chẳng có tất cả tướng của cảnh giới. Nếu lìa các sự hiểu biết hí luận thì chẳng có tất cả cảnh giới vọng. Cho nên tất cả pháp từ xưa đến nay lìa lời nói để nói về tướng, lìa danh tự tướng, lìa tâm duyên tướng. Hiển thị thẳng pháp chơn như, lìa tuyệt các tướng. Nên nói là danh tự, tâm lượng mỗi mỗi có bao nhiêu số? Tướng nầy như thế nào vậy?
Tụng rằng:
Lời nói có năm loại
Danh tự có hai loại
Tâm lượng có mười loại
Khế Kinh có nói khác
Luận rằng: Nói rằng có 5. Vậy 5 ấy là những gì? Một là Tướng ngôn thuyết. Hai là Mộng ngôn thuyết. Ba là Vọng Chấp ngôn thuyết. Bốn là Vô Thỉ ngôn thuyết. Năm là Như Nghĩa ngôn thuyết. Trong Lăng Già Khế Kinh nói như thế nầy. Nầy Đại Huệ! Tướng ngôn thuyết nghĩa là chấp trước sắc và các tướng mà sanh ra. Nầy Đại Huệ! Mộng ngôn thuyết nghĩa là sự nhớ nghĩ gốc gác việc thọ dụng hư vọng cảnh giới. Nương vào cảnh giới mộng. Khi rõ biết rồi thì nương vào cảnh giới hư vọng, chẳng thật mà sanh. Nầy Đại Huệ! Chấp trước ngôn thuyết nghĩa là, nhớ nghĩ chuyện nghe từ xưa về việc tạo nghiệp mà sanh. Nầy Đại Huệ! Vô Thỉ ngôn thuyết nghĩa là từ vô thỉ đến nay cứ chấp trước hí luận, phiền não chủng tử, huân tập mà sanh. Trong Khế Kinh Kim Cang Tam Muội nói như thế nầy:
Xá Lợi Phất hỏi: Tất cả vạn pháp đều nói thành lời và tướng của lời ấy tức không, lấy đó làm nghĩa. Nếu là nghĩa như thật thì chẳng thể nói được. Bây giờ Như Lai thuyết pháp như thế nào?
Phật bảo: Ta thuyết pháp là lấy chúng sanh các ngươi đang sống thì nói là sanh. Nói chẳng thể nói. Cho nên là nói. Chỗ ta nói nghĩa là chẳng thành văn tự. Chúng sanh nói văn tự là chẳng hiểu nghĩa. Phi nghĩa ngữ nên tất cả đều là không không. Lời nói không không ấy là nghĩa của lời nói. Chẳng nói nghĩa tất cả đều là vọng ngữ. Như nghĩa ngữ thì thật không chẳng không, không thật chẳng thật, lìa nơi 2 tướng, trong ấy chẳng có gì. Trong pháp không ấy lìa nơi ba tướng, chẳng thấy xứ sở, như như lời nói. Như thế trong 5 loại trước nói 4 rồi. Hư vọng nên chẳng thể nói chơn. Sau nói một lời, nói như thật nên được nói là chơn lý. Mã Minh Bồ Tát đã nương cậy y cứ vào 4 phía trước, nên nói như thế nầy; lìa ngôn thuyết tướng, tên có 2 loại. Thế nào là hai? Một là tự tự danh; hai là tự ảnh danh. Theo trong Lăng Già khế kinh nói như thế nầy. Nầy Đại Huệ! Lại nói về tên của thân. Đó là các chữ mà từ đó có tên khác nhau. Từ chữ A đến chữ Ha, gọi là danh thân. Trong Đạo Phẩm khế kinh nói như thế nầy: Trong tấm kính nói là có ảnh. Còn tự thì có hai loại. Những gì là hai? Một là y thanh tự. Hai là y không tự. Trong Lăng Già khế kinh nói như thế nầy. Nầy Đại Huệ! Lại cũng gọi là tự thân. Nghĩa là tiếng dài âm ngắn, giọng cao thấp nên gọi là tự thân. Trong Đại Hải khế kinh nói như thế nầy. Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: Như ngươi trước đã hỏi về thế nào là Hư Không luân tự. Giống như trong hư không chim bay. Giống như gặp lúc đẹp trời thì 10 loại tiếng cùng hòa nhau. Hãy quán về hư không luân tự như thế. Như vậy trong hai đây mỗi mỗi có một loại trước, chẳng thể giải bày sâu xa chơn lý được. Mỗi một loại sau được giải bày chơn lý nầy vậy. Bây giờ căn cứ vào môn trước mà nói như thế nầy. Lìa tâm tự tướng, tâm lượng có 10. Thế nào là 10?
Một là tâm thức của mắt. Hai là tâm thức của tai. Ba là tâm thức của mũi. Bốn là tâm thức của lưỡi. Năm là tâm thức của thân. Sáu là tâm thức của ý. Bảy là tâm thức của Mạt Na. Tám là tâm thức của A Lợi Ya. Chín là tâm thức của Đa Nhứt. Mười là tâm thức của mỗi một.
Trong 10 tâm ấy, chín loại tâm đầu chẳng duyên vào chân lý. Tâm sau cùng được duyên vào chơn lý mà tạo ra cảnh giới. Bây giờ nương vào 9 loại phía trước mà nói như thế nầy: Lìa tâm duyên tướng. Trong Bổn Hữu khế kinh nói như thế nầy: Thậm thâm chơn thể chẳng ngoài cảnh giới. Chỉ tự nương vào duyên mà làm cảnh giới vậy. Cứu cánh bình đẳng chẳng có thay đổi, chẳng thể phá hoại. Hiển thị tam ly công đức. Cho nên đây là tất cả những sai biệt lấy 4 loại vọng ngữ để mà nói, để làm căn bản mà chuyển. Tất cả ngoại đạo 9 loại biến luận 10 loại dị chấp. Duy chỉ lấy danh tự làm gốc mà chuyển. Tất cả những phiền não phá chướng; tất cả sở tri hoại chướng, chỉ lấy tâm pháp làm chỗ nương vào đó để chuyển, mà trong chơn thể, lìa 3 tướng vậy, đầy đủ 3 đức của lỗ tai. Chỉ với tâm kiên cố, gọi tên là chơn như. Tổng kết thể chơn như, lấy tất cả những lời nói, giả danh chẳng thật, hay tùy theo vọng niệm, chẳng thể được vậy. Hiển thị tam ly làm nhân duyên. Cho nên tất cả những lời nói đều chẳng thật. Tất cả đều giả danh chẳng thật. Tất cả những tâm thức thường theo các vọng niệm, chẳng thể được; chẳng thể nói cái lý chơn thật. Cho thấy chỗ lìa 3 tướng vậy. Tướng hư giả và pháp như thật, thật khác nhau lắm. Nói là chơn như lại chẳng có tướng.
Đệ nhị là lời nói lưu lại sự chấp trước sai trái. Nghĩa là gặp chúng sanh, tạo ra sự chấp nầy. Xa lìa 3 tướng, đầy đủ 3 đức, thể chơn như lý. Tuy vô giả tướng mà có thật tướng. Tự nhiên thường trụ, quyết định có thật. Do sự tính toán như vậy nên hay rơi vào chỗ thường biên, chẳng thể ra khỏi. Cho nên nói là thấy như thế ấy. Nói là chơn như, lại chẳng có tướng. Nghĩa là nói lời nói ấy là cái nhơn để lại. Đúng là chơn như là cái nhơn của vô tướng. Nghĩa là những lời nói ở chỗ chơn như, liền chưa hiện ra được; cho nên phải không còn lời nói. Há được hữu tướng vô ngôn? Do vậy được lời nói làm nhơn, rồi để lại lời nói mới xong. Ở nơi hay để lại lời nói như như như vậy. Ở chỗ để lại ấy có 4 loại lời nói hư vọng. Trong Đại Bổn Duy Ma Cật khế kinh nói như thế nầy. Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát nói Cưu Na A Phiệt Đà nhiều lời! Tất cả chúng ta mỗi mỗi đều từ theo chỗ mình mà tự lấy làm vui. Tuyên nói 8.001 loại hướng đến bất nhị môn. Như thế thì Duy Ma Cật vì chúng ta và Đại Chúng, lìa lời nói để nói, nói chẳng phải hai, chẳng hai. Trừ lời nói giả là hư cấu. Cho nên Duy Ma Cật yên lặng chẳng nói lời nào. Lúc ấy Văn Thù Sư Lợi tán thán Duy Ma Cật và nói rằng: Lành thay! Lành thay cư sĩ. Như lời nói ấy như như, lỗ tai nghe như vậy. Lành thay! Lành thay. Như vậy chơn thật, bất nhị pháp môn. Như vậy chơn thật, bất nhị pháp thể.
Đã nói xong phần giải thẳng Chơn Thể Môn. Bây giờ lần lượt giải thích về Danh Tự Môn. Chơn như thể nầy chẳng có thể để lại, dùng tất cả pháp, tất cả đều là chơn. Dùng chơn ấy để giải thích về tên gọi. Lại chẳng thể lập. Dùng tất cả pháp đều đồng với như vậy. Ước đoán như thế mà giải thích tên. Câu văn nầy muốn làm rõ nghĩa gì? Đó là việc hiển thị việc không có đoạn trừ của chướng trí. Nghĩa nầy là thế nào? Nghĩa là đoạn đạo khởi, tức là cái nhơn để trị những chướng. Chẳng thể tự khởi, mà ở trong chơn thể chẳng có nhiễm pháp, mà có thể ngoại trừ được. Không có thể trị mà đoạn đạo. Vì sao vậy? Lấy vô hữu mỗi mỗi pháp mà phi chơn thể vậy. Lại nữa nếu có chướng tri, tùy theo tâm cao thấp; nên có thể kiến lập tất cả địa vị, mà như trong thể ấy chẳng có phân vị, mà có thể kiến lập được. Chẳng có thể lập nên phương tiện. Vì sao vậy? Lấy có không mỗi mỗi pháp mà phi như thể vậy. Nên biết rằng tất cả pháp chẳng thể nói, chẳng thể nhớ nghĩ; nên gọi tên là chơn như. Tổng kết việc ấy đã nói như bên trên.
Đã nói căn bản thể tánh chơn như môn rồi. Bây giờ lần lượt nói về sự phát khởi vấn đáp quyết nghi môn vậy.
Hỏi rằng: Nếu như nghĩa nầy thì tất cả chúng sanh tùy thuận như thế nào mới có thể nhập được. Sanh nghi nên hỏi. Kẻ hỏi nương vào đâu mà phát ra câu ấy và nghi cái gì? Cho nên phải nương vào chỗ không thể nói, câu chẳng thể nghĩ bàn, phát sanh sự khó tùy thuận nên nghi. Nương vào lời nói thứ hai chuyển đổi, phát sinh khó khăn nên chẳng thể vào được, nên nghi. Câu văn ở nơi tùy thuận, liền lấy nhơn nầy mà nghi. Câu vào được vào, liền nghi là quả. Tại sao vậy? Vì đây là thiện xảo ngôn thuyết, sanh ra sự nghe biết lâu dài, tùy thuận phương tiện. Nghe ấy sẽ thành huệ, sanh trưởng tư huệ và tùy thuận phương tiện. Suy nghĩ thành huệ sanh trưởng tu huệ, tùy thuận phương tiện. Tất cả những lời dạy lành đã nói rõ ràng rồi. Tất cả tam huệ đều ở nơi niệm Pháp. Nếu chẳng dùng lời nói, tức chẳng có ba huệ. Nếu chẳng có 3 huệ, tức không có vạn hạnh, mà chơn như pháp chẳng thể nói; nên chẳng có lời dạy nào cả. Chẳng thể nhớ nghĩ tức chẳng có tam huệ. Chẳng có tam huệ nên khó thành tựu 10 địa vạn hạnh.
Các chúng sanh lấy cái gì để dần dần tiến tu? Nghi như vậy đó! Rồi hỏi rằng: Thế nào là tùy thuận? Cái nguyên nhơn việc làm hay khởi lên thì cái quả đức cũng sẽ khởi lên. Nếu cái nhơn chẳng khởi, tức chẳng thể nhập. Nếu chẳng thể nhập, tức chẳng được chỗ nhập. Hay nhập nghĩa là Kim Cang tâm. Sở nhập nghĩa là Kim Cang địa. Mà cái nầy thì không có nguyên nhơn, vậy lấy gì để làm môn? Chứng nhập nơi Như Lai Tát Bà như ở trong biển. Nghi như thế nên liền hỏi về chỗ có thể nhập. Như thế hai câu hỏi nương vào sanh diệt môn và nghi chơn như môn. Nghĩa là có chúng sanh tạo ra cái nghi như thế. Ví dụ như trong sanh diệt môn thì phải đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, giúp cho đầy đủ nhơn, hạnh và quả đức tròn đầy; trong chơn như môn lại cũng như thế. Há chẳng nói bỏ gia hạnh lành, chẳng thể nhớ nghĩ, bài bác ngũ đẳng vị. Nay nên thêm ý nầy phát ra nghi mà hỏi như thế!
Đáp rằng: Nếu như tất cả pháp tuy rằng nói rằng chẳng thể nói, chỉ có nhớ nghĩ lại cũng chẳng thể nhớ nghĩ; có thể nhớ nghĩ là tên gọi tùy thuận. Nếu lìa chỗ nhớ nghĩ tức có thể nhập. Như điều nầy lần lượt chắc chắn kia sẽ có 2 nghi. Cho nên việc tùy thuộc tự nó cũng có 2 loại. Thế nào là hai? Một là sinh diệt tùy thuận. Hai là chơn như tùy thuận. Trong sanh diệt tùy thuận lại có 2 loại nầy. Những gì là hai? Một là hướng thượng tùy thuận. Hai là hướng hạ tùy thuận. Hướng thượng tùy thuận nghĩa là từ niềm tin cho đến Kim Cang. Có thể vì quả Bồ Đề mà tùy thuận phương tiện. Hướng hạ tùy thuận nghĩa là từ tự tánh tịnh diệu tạng cho đến đệ nhứt niệm tín, hay vì Ya Ya địa mà tùy thuận phương tiện. Cho nên nói hướng thượng tùy thuận. Cái nhơn vô thường, nghe âm thanh, nói sanh trưởng vô thường là văn huệ. Cái nhơn vô thường văn huệ, sanh trưởng vô thường tư huệ. Cái nhơn vô thường tư huệ, sẽ sanh trưởng vô thường của tu huệ. Cái nhơn vô thường của tu huệ, sanh trưởng vô thường hạnh đức. Đây gọi là hướng thượng. Còn nói về chỗ hướng hạ tùy thuận nghĩa là cái nhơn là thường của hạnh đức sẽ sanh trưởng cái thường của tu huệ. Cái nhơn là thường của tu huệ sẽ sanh trưởng cái thường của tư huệ. Cái nhơn là thường của tư huệ sẽ sanh trưởng cái thường của văn huệ. Cái nhơn là thường của văn huệ sẽ sanh trưởng cái thường của lời nói. Đây gọi là hướng hạ. Như vậy 2 môn đồng thời đầy đủ có, không, trước, sau. Chướng tri biệt tướng cho đến nơi văn xứ, tự sẽ nói rõ. Trong Chơn Như Môn có nói như thế nầy: Bất khả thuyết. Lấy vô hữu thường, vô thường của âm thanh mà nói. Chẳng thể nhớ nghĩ, lấy vô hữu thường, vô thường của 3 huệ. Chẳng không phải tự môn mà nói và nhớ nghĩ, nên nói rằng: Chẳng thể nói, chẳng thể nhớ nghĩ. Đây là nghĩa nầy vậy. Lại cũng chẳng thể dị môn, nan dị môn. Có cái nầy cho nên có cái kia. Cái kia có nên có cái nầy. Nếu nói vậy thì trong chơn như môn lời nói và sự nhớ nghĩ ấy cái tướng như thế nào? Nghĩa là nó có lời nói. Âm thanh chẳng phải thường mà âm thanh cũng chẳng vô thường. Nghĩa là chẳng thể nói, có thể nói – như như như thuyết. Lại nữa có niệm, phi thường tam huệ, phi vô thường tam huệ. Nghĩa là chẳng thể nhớ nghĩ, có thể nhớ nghĩ, tịch diệt tịch tịnh nhớ nghĩ. Vì sao vậy? Trong chơn như môn chẳng có vãng hướng (lui tới). Ở nơi tạp loạn. Vì sao lại có tên là chơn như tùy thuận? Nghĩa là nếu rõ tất cả pháp để nói, chẳng có nói thường, chẳng có nói nói vô vô thường. Chẳng thể nói nói, chẳng thể nói nói. Đây có nghĩa là tùy thuận ở nơi chơn như âm thanh. Nếu so đây khác nhau thì tên nầy là điên đảo đối với chơn như âm thanh. Lại nữa nếu rõ tất cả pháp chỉ có sự nhớ nghĩ thì vô thường huệ niệm, vô vô thường huệ niệm. Chẳng thể niệm niệm, chẳng có thể niệm niệm. Đây gọi tên là tùy thuận đối với tịch diệt tịch tịnh niệm. Nếu việc nầy sai khác thì đây gọi là điên đảo đối với tịch diệt tịch tịnh niệm.
Đã nói qua về tướng tùy thuận rồi. Bây giờ đến quyết đắc nhập nghi. Ở trong đây có 2. Những gì là 2? Một là sanh diệt đắc nhập; hai là chơn như đắc nhập. Trong sanh diệt đắc nhập lại có 2 loại. Thế nào là hai? Một là hướng thượng đắc nhập; hai là hướng hạ đắc nhập. Nói rằng hướng thượng đắc nhập nghĩa là Kim Cang Địa. Nói là hướng hạ đắc nhập tức là Ya Ya Địa, liền tùy thuận theo câu và quan sát kỹ. Chơn như đắc nhập tức là tự nương vào nơi mình, dùng cái gì để được vào? Nghĩa là đây là tạp trụ. Làm sao có thể vào? Nghĩa là lìa sự nói năng nhớ nghĩ. Lìa những nói năng nhớ nghĩ gì? Nghĩa là chơn như môn chẳng có lời nói và cũng chẳng có nhớ nghĩ. Cho nên nói rằng lìa nói năng nhớ nghĩ; nên gọi tên là đắc nhập. Điều thứ nhứt là chuyển ngôn được thành tựu và điều thứ hai là chuyển nghi quyết đoạn lý đã rõ ràng.
Đã nói xong phát khởi vấn đáp quyết nghi môn. Bây giờ lần lượt nói về giả thuyết khai tướng chơn như môn. Trong nầy có nhị môn. Những gì là hai? Một là như thật không chơn như môn và hai là như thật bất không chơn như môn. Như thật không nghĩa là như như thể, qua khỏi hằng sa tất cả các nhiễm pháp. Tất cả đều không không, không chỗ có vậy. Như thật bất không nghĩa là như như thể, qua khỏi hằng sa tất cả tịnh pháp. Tất cả đều đầy đủ, chẳng chỗ ít vậy. Như thế nhị môn tùy theo mỗi mỗi, đều chẳng thể xa lìa. Cho nên phải tụng rõ nghĩa nầy. Như lời tụng kia rằng:
Xa lìa ba giả tướng
Đầy đủ ba thật đức
Đây chính là nhơn duyên
Kiến lập thể chơn như
Xa rời tứ cú tướng
Đầy đủ bốn pháp đức
Đây chính là nhơn duyên
Kiến lập tướng chơn như
Tất cả việc sai trái
Ba bốn tướng làm gốc
Tất cả công đức phẩm
Ba bốn đức làm gốc
Do nhơn duyên nầy vậy
Chẳng tăng lại chẳng giảm
Dừng nơi phần số lượng
Làm như thế an lập
Nay đọc tụng lên bài nầy để rõ chơn như môn. Hãy lìa sự nhớ nghĩ đến cảnh giới, chỉ chứng tương ưng. Đây là loạn trụ, chứng phi vãng hướng chứng (không tới lui).
Đã nói về tâm chơn như rồi, bây giờ lần lượt nói về tâm sanh diệt môn.
Nói rằng: Tâm sanh diệt nghĩa là nương vào Như Lai Tạng mà có tâm sanh diệt. Cho nên chẳng sanh chẳng diệt cùng với sanh diệt hòa hợp. Phi nhứt phi dị, tên là A Lợi Gia Thức. Thức nầy lại có 2 nghĩa. Đó là hay nhiếp tất cả pháp và hay sanh tất cả pháp. Thế nào là hai? Một là giác nghĩa; hai là chẳng giác nghĩa.
Luận rằng: Trong nầy có hai môn. Thế nào là hai? Một là chỗ nương tựa Tổng Tướng môn. Hai là có thể nương tựa biệt tướng môn. Trong đây lại có hai lần trụ tương ưng quan sát. Nghĩa là sanh diệt môn, nhứt tâm nương vào đó, sanh diệt môn nhiếp giác nghĩa chẳng giác nghĩa. Lợi Ya nương vào đó. Trước đó nói môn đầu, tâm sanh diệt vậy. Gọi là thượng vị. Nương vào Như Lai Tạng. Chỗ nương vào một tâm. Nhứt tâm của nhiều kia lại cũng có tên là Như Lai Tạng. Tức là thượng tâm tự, hạ lại kiến lập tên khác đi. Có tâm sanh diệt, hay nương vào pháp môn. Nghĩa là sanh diệt môn. Nay lại nương vào kinh Như Lai Tạng môn để phân minh hiển thị. Như Lai Tạng nầy có số lượng bao nhiêu? Như vậy Như Lai Tạng chỗ nhiếp là gì?
Tụng rằng:
Như Lai Tạng có mười
Khế Kinh nói cách khác
Trong nầy Như Lai Tạng
Cùng hành cùng tướng nhiếp
Luận rằng: Như Lai Tạng có 10 loại. Ở trong Khế Kinh nói mỗi mỗi riêng khác. Những gì là 10?
Một là Đại tổng trì Như Lai Tạng. Tận nhiếp hết tất cả Như Lai Tạng. Trong Khế Kinh Chư Phật Vô Tận Tạng nói như thế nầy: Phật bảo Ngài Văn Thù! Có Như Lai Tạng tên gọi là Đại Bảo Vô Tận Thù Thắng Viên Mãn Đà La Ni, nhiếp hết các tạng, chẳng có chỗ nào chẳng thông, không có chỗ nào chẳng bằng. Viên mãn viên mãn, bình đẳng bình đẳng. Tất cả chỗ có Như Lai Tạng. Chẳng có điều nầy, chẳng lấy làm căn bản. Vì sao mà là Như Lai Tạng nầy? Như Lai Tạng Vương, Như Lai Tạng Chủ, Như Lai Tạng Thiên, Như Lai Tạng Địa. Đây là nghĩa nầy vậy. Lại có tên là Đại Bảo Vô Tận Thù Thắng Viên Mãn Đà La Ni Tạng. Trong kinh nầy câu văn muốn làm sáng rõ nghĩa gì? Nghĩa là muốn hiển thị Đà La Ni Tạng Sở Y Tổng Tướng. Ngoài Khế Kinh ra các Như Lai Tạng hay nương vào biệt tướng. Như vậy thì cái nghĩa gì gọi là Như Lai Tạng? Nghĩa là nhiếp trì vậy.
Hai là Viễn chuyển viễn phược Như Lai Tạng. Một thanh một mãn vậy. Trong Thật Tế Khế Kinh nói như thế nầy. Phật Tử! Như Lai Tạng nghĩa là chỉ có người giác ngộ, chỉ có như như, lìa khỏi sự lưu chuyển. Cái nhơn lìa sự lo nghĩ, biết rõ sự trói buộc, mỗi mỗi rõ ràng. Vì đó cho nên gọi là Như Lai Tạng. Trong kinh nầy câu văn muốn nói rõ cái gì? Ở đây muốn hiển thị rõ ràng Chơn Như Môn nhứt tâm. Chẳng có cái nhơn của hoặc, cũng không có cái nhơn của giác ngộ. Chẳng có hoặc quả, chẳng có giác quả. Nhứt chơn nhứt như chỉ có tịnh diệu, Như Lai thể vậy. Nhưng sao gọi nghĩa ấy là Như Lai Tạng? Nghĩa là không có tạp vậy.
Ba là Dữ hành dữ tướng Như Lai Tạng. Cùng với lực lưu chuyển, pháp thân Như Lai làm cho che đậy vậy. Trong Lăng Già Khế Kinh nói như thế nầy. Như Lai Tạng nghĩa là: Làm thiện, chẳng thiện. Cái nhơn là thọ, khổ, lạc. Cùng với cái nhơn đầy đủ hoặc sanh, hoặc diệt. Giống như tay chân của đứa bé. Kinh nầy câu văn muốn làm rõ nghĩa gì? Ở đây muốn chỉ rõ sanh diệt môn nhứt tâm. Đối với hoặc cùng lực, đối với giác cùng lực. Xuất hiện pháp sanh tử Niết Bàn. Giống như chẳng phải huyễn, huyễn người, đối với các việc huyễn. Tùy ở nơi đây mà dùng đến sức mạnh. Ở đây với nghĩa gì mà gọi là Như Lai Tạng? Nghĩa là làm cho che mất vậy.
Bốn là Chơn như chơn như Như Lai Tạng. Duy chỉ có như. Trong khế kinh Chơn Tu nói như thế nầy. Như lý như lý Như Lai Tạng; chẳng tạo nên, chẳng phỉ báng, chẳng thường, chẳng vô thường, chẳng chánh thể trí mà chứng đắc được. Lại cũng phi ý, ý thức để duyên vào nơi cảnh giới. Vì sao vậy? Chỉ có lý lý, chẳng phải kia kia. Kinh nầy muốn nói rõ câu văn nghĩa gì? Muốn làm hiển thị Chơn Như môn, trong đó tánh chơn như lý. Chỉ lý tự lý, chẳng phải trí, tự mình rõ lý. Nghĩa là gì mà gọi là Như Lai Tạng? Nghĩa là Vô Tha vậy.
Năm là Sanh diệt chơn như Như Lai Tạng. Bất sanh bất diệt và bị nhiễm sự sanh diệt. Trong Lăng Già khế kinh nói như thế nầy: Nầy Đại Huệ! Kẻ ngu si phàm phu chẳng rõ chẳng biết, chấp trước các pháp, sát na chẳng giữ lại. Rơi vào tà kiến mà nói rằng: Pháp vô lậu lại cũng chẳng trụ ở trong sát na. Phá bỏ chơn như kia là Như Lai Tạng. Lại nữa nầy Đại Huệ! Kim Cang Như Lai Tạng Như Lai chứng pháp, chẳng có sát na nào mà chẳng trụ. Nầy Đại Huệ! Như Lai chứng pháp ở sát na chẳng trụ nầy vậy. Tất cả Thánh Nhơn chẳng thành thánh nhơn. Trong kinh nầy câu văn muốn làm rõ nghĩa gì? Đó là hiển thị sanh diệt môn trung, tánh chơn như lý. Xa rời tướng vô thường, là pháp bất sanh bất diệt vậy. Nghĩa gì gọi là Như Lai Tạng? Nghĩa bị nhiễm ô vậy.
Sáu là Không Như Lai Tạng. Tất cả các không, che đậy Như Lai Tạng. Trong Thắng Phát khế kinh nói như thế nầy: Thế Tôn! Không Như Lai Tạng là lìa, là thoát, là khác với tất cả phiền não tạng. Trong kinh nầy câu văn muốn làm rõ nghĩa gì? Ở đây muốn hiển thị sanh diệt môn trung, tất cả các nhiễm pháp. Ẩn nấp che đậy tự tướng, bổn giác vô lượng tánh công đức. Với nghĩa gì mà tất cả nhiễm pháp gọi là không? Đó là tất cả các pháp huyễn hóa sai biệt. Thể tướng vô thật, tác dụng phi chơn; nên tên gọi là không. Mà hay che đậy pháp thân Như Lai, thật đức chơn thể. Cho nên gọi tên là Như Lai Tạng. Từ nơi tạng nhiễm, lập nên tên nầy.
Bảy là Bất không Như Lai Tạng. Tất cả chẳng không, bị không nhiễm vậy. Trong Thắng Phát khế kinh nói như thế nầy: Thế Tôn! Bất Không Như Lai Tạng là qua khỏi hằng sa chẳng lìa, chẳng thoát, chẳng khác, bất tư nghì Phật Pháp. Trong kinh nầy câu văn muốn làm rõ nghĩa gì? Đó là muốn hiển thị sanh diệt môn trung, tự tướng bổn giác. Thêm hơn cả hằng sa, tất cả công đức, bị hơn hằng hà tất cả nhiễm pháp mà sở nhiễm. Với ý nghĩa gì mà tất cả tịnh pháp, có tên chung là bất không? Có nghĩa là tất cả tịnh pháp trong tự thể, thật tác dụng thắng diệu, xa lìa hư giả, siêu việt xảo ngụy. Cho nên có tên là bất không. Bị nhiễm ô che đậy; nên gọi tên là Như Lai Tạng. Lúc xuất hiện thì gọi là pháp thân. Lúc che đậy thì gọi là Như Lai Tạng. Cho nên từ chỗ tàng chứa đó, liền lập tên nầy.
Tám là Năng nhiếp Như Lai Tạng. Trong Vô Minh Tạng, tự tánh tịnh tâm, hay nhiếp tất cả các công đức. Trong khế kinh bất tăng bất giảm nói như thế nầy: Như Lai Tạng bổn tế tương ưng thể và thanh tịnh pháp. Pháp nầy như thật, chẳng hư vọng, chẳng lìa, chẳng ra khỏi trí, thật là pháp bất tư nghì. Từ vô thỉ đến nay có sự thanh tịnh nầy tương ưng với pháp thể. Trong kinh nầy câu văn muốn làm rõ nghĩa gì? Đó là hiển thị tất cả các chúng sanh tự tánh thanh tịnh tâm. Từ vô thỉ cho đến nay đầy đủ 3 trí, viên mãn 4 đức, chẳng có chỗ nào thiếu khuyết. Ở đây nghĩa gì mà gọi là Như Lai Tạng? Do tâm điên đảo, chẳng rõ chẳng biết vậy. Từ đây có thể tịnh lập nên tên nầy.
Chín là Sở Nhiếp Như Lai Tạng. Tất cả nhiễm pháp, vô minh địa tạng, liền làm cho xa lìa, viên mãn giác ngộ, rồi làm chỗ nhiếp. Trong khế kinh bất tăng bất giảm nói như thế nầy: Như Lai Tạng gốc ấy chẳng có thể tương ưng. Cùng với sự trói buộc của phiền não, chẳng thanh tịnh pháp. Chỗ vi tế ấy lìa thoát, chẳng tương ưng. Phiền não cột chặt chẳng được pháp thanh tịnh. Duy chỉ có Như Lai với trí Bồ Đề làm chỗ hay đoạn được. Trong kinh nầy câu văn muốn làm rõ nghĩa gì? Đó là muốn hiển thị thỉ giác mãn Phật (sự giác ngộ đầu tiên đã đầy đủ Phật), đoạn lìa tất cả chướng, đầy đủ tất cả trí, rõ biết những chướng bên ngoài, làm tối bên trong, tất cả nhiễm pháp, rõ biết chỗ nhiếp giữ lấy. Tại sao mà nghĩa là Như Lai Tạng? Nghĩa là nhiếp trì vậy.
Mười là Ổn phú Như Lai Tạng. Pháp thân Như Lai bị phiền não che đậy; nên gọi là phú ổn một tạng. Trong khế kinh bất tăng bất giảm nói như thế nầy: Như Lai Tạng ở thời vị lai bình đẳng hay cùng với pháp. Tức là các pháp căn bản, giúp tất cả pháp đầy đủ tất cả pháp. Trong pháp thế gian chẳng lìa chẳng thoát vậy. Trong kinh nầy câu văn muốn làm rõ nghĩa gì? Đó là hiển thị đa nhứt tâm thể, cùng với pháp giới khắp trong 3 thời; đầy đủ viên mãn, nhiễm tịnh các pháp. Chẳng có chỗ nào chẳng thông, chẳng có chỗ nào chẳng đến. Lại nữa hiển thị ở tùy duyên môn, tự tánh thanh tịnh. Đến với pháp nhiễm ô, ẩn tàng trầm mặc, pháp thân Như Lai chưa xuất hiện. Đây gọi là 10. Như thế trong 10 ấy, làm thành Như Lai Tạng. Cùng với Hành cùng với Tướng đã nói qua về Như Lai Tạng môn rồi. Lần lượt nói đến A Lợi Gia Thức môn. Đây nghĩa là bất sanh bất diệt, cùng với sanh diệt hòa hợp, chẳng một chẳng khác; nên gọi là A Lợi Gia Thức vậy. Lược nói tên rõ rồi, mới lập nên tên đầy đủ. Tuy nghĩa đầy đủ mà nói chưa đầy đủ. Trong nầy nói chẳng sanh chẳng diệt cùng với sanh diệt. Mỗi mỗi pháp ấy phân biệt rõ ra là những gì?
Tụng rằng:
Tổng nhiếp các vô vi
Tên là chẳng sanh diệt
Tổng nhiếp các hữu vi
Nên gọi tên sanh diệt
Luận rằng: Tổng nhiếp tất cả vô vi pháp; cho nên gọi là bất sanh bất diệt. Bất sanh bất diệt là tổng tướng của các pháp vô vi. Tổng nhiếp tất cả các pháp hữu vi. Cho nên gọi là sanh diệt. Sanh diệt là lời nói để nói về tổng tướng của ác pháp hữu vi. Như thế hữu vi vô vi hai pháp, mỗi mỗi có bao nhiêu số? Tên gọi là gì?
Tụng rằng:
Vô vi tuy vô lượng
Lược nói có 4 loại
Là chơn như bổn giác
Thỉ giác cùng hư không
Hữu vi tuy vô lượng
Lược nói có 5 loại
Nghĩa căn bản vô minh
Cùng với 4 tướng khác
Luận rằng:
Vô vi pháp có 4 loại. Thế nào là bốn? Một là chơn như vô vi. Hai là bổn giác vô vi. Ba là thỉ giác vô vi. Bốn là hư không vô vi. Đây gọi tên là 4.
Hữu vi có 5 loại. Những gì là 5? Một là căn bản vô minh hữu vi. Hai là sanh tướng hữu vi. Ba là trụ tướng hữu vi. Bốn là dị tướng hữu vi. Năm là diệt tướng hữu vi. Đây gọi tên là 5. Mà 4 vô vi ấy có thể là gì? Có dụng là gì?
Tụng rằng:
Nương mỗi có hai loại
Cho nên thông và biệt
Như thể dụng cũng thế
Tùy thích ứng quan sát.
Luận rằng: Chơn như vô vi có 2 chỗ sở y. Thế nào là hai? Một là thông sở y, phi hữu vi phi vô vi, nhứt tâm bổn pháp lấy làm thể. Hai là biệt sở ý. Sanh diệt môn nội, tịch tịnh lý pháp lấy làm thể. Bổn giác vô vi có 2 chỗ sở y. Những gì là hai? Một là thông sở y, phi hữu vi phi vô vi, nhứt tâm bổn pháp lấy làm thể vậy. Hai là biệt sở vô y. Sanh diệt môn nội, tự nhiên bổn trí lấy làm thể vậy. Thỉ giác vô vi có hai chỗ sở y. Những gì là hai? Một là thông sở y, phi hữu vi phi vô vi, nhứt tâm bổn pháp lấy làm thể vậy. Hai là biệt sở y. Sanh diệt môn nội, tùy kia khởi tri lấy làm thể vậy. Hư không vô vi có 2 chỗ sở y. Những gì là hai? Một là thông sở y, phi hữu vô phi vô vi, nhứt tâm bổn pháp lấy làm thể vậy. Hai là biệt sở y. Sanh diệt môn nội, không chỗ sở hữu lấy làm thể vậy. Đây có tên là 2 nơi nương tựa. Lại nữa chơn như vô vi có hai loại dụng. Những gì là hai? Một là thông dụng. Tất cả các pháp làm cho ra khỏi sự sanh. Hai là biệt dụng, tánh bình đẳng làm cho chẳng mất vậy. Bổn giác vô vi có hai loại dụng. Những gì là hai? Một là thông dụng, chẳng giữ tự tánh. Hai là biệt dụng, chẳng chuyển biến vậy. Thể giác vô vi có hai loại dụng. Những gì là hai? Một là thông dụng. Tùy theo vọng mà chuyển. Hai là biệt dụng, đối trị việc sai của chính mình. Hư không vô vi có hai loại dụng. Những gì là hai? Một là thông dụng, muốn có làm cho có. Hai là biệt dụng, tánh hư không làm cho chẳng mất vậy. Đây có tên là hai dụng. Trong nầy nói thông có nghĩa là nghĩa kia, còn biệt nghĩa là tự nghĩa. Nương vào đây nói hai; để rộng quan sát. Nhiều loại tướng riêng cho đến văn xứ, tự sẽ hiểu nói. Năm loại hữu vi lấy gì làm thể? Có dụng gì chăng?
Tụng rằng:
Y mỗi có hai loại
Đó là thông và biệt
Như thể dụng cũng vậy
Tùy giải nên quan sát
Luận rằng: Căn bản vô minh hữu vi có hai loại để nương vào. Những gì là hai? Một là thông y, phi hữu vi phi vô vi, nhứt tâm bổn pháp lấy làm thể. Hai là biệt y, sanh diệt môn nội, lực lớn giữ lại, lấy làm thể vậy. Sanh tướng hữu vi có hai loại nương vào. Những gì là hai? Một là thông y, phi hữu vi phi vô vi, nhứt tâm bổn pháp lấy làm thể vậy. Hai là biệt y. Sanh diệt môn nội, phần nhiễm pháp vi tế lấy làm thể. Trụ tướng hữu vi có hai loại nương vào. Những gì là hai? Một là thông y, phi hữu vi phi vô vi, nhứt tâm bổn pháp lấy làm thể vậy. Hai là biệt y. Sanh diệt môn nội, phần thô nhiễm pháp, lấy làm thể vậy. Dị tướng hữu vi có hai loại nương vào. Những gì là hai? Một là thông y, phi hữu vi phi vô vi, nhứt tâm bổn pháp lấy làm thể. Hai là biệt y. Sanh diệt môn nội, phần thô nhiễm pháp, lấy làm thễ. Diệt tướng hữu vi có 2 loại nương vào. Những gì là hai? Một là thông y, phi hữu vi phi vô vi, nhứt tâm bổn pháp, lấy làm thể vậy. Hai là biệt y. Sanh diệt môn nội, phần thô nhiễm pháp lấy làm thể. Đây gọi là 2 chỗ nương tựa.
Lại nữa căn bản vô minh có 2 loại dụng. Những gì là hai? Một là thông dụng, hay sanh tất cả các pháp nhiễm. Hai là biệt dụng, tùy nơi chỗ đến mà tạo ra chướng ngại. Sanh tướng hữu vi có hai loại dụng. Những gì là hai? Một là thông dụng, đối với giữa trên và dưới, cùng với lực nầy. Hai là biệt dụng, tùy chỗ nơi đến, tạo ra chướng ngại. Như nói: Sanh, tướng, trụ, dị cũng lại như vậy. Diệt tướng hữu vi có hai loại dụng. Những gì là hai? Một là thông dụng, đối với trên và tự mình cùng với lực nầy. Hai là biệt dụng, hay tạo ra chướng ngại vậy. Đây gọi tên là hai dụng. Nhiều loại tướng khác cho đến văn xứ, tự sẽ hiển nói. Lấy nghĩa gì để nói như vậy? Hữu vi vô vi tất cả các pháp, thông lấy nhứt tâm mà làm thể nầy. Trong khế kinh nói như vậy. Khế kinh nào như vậy? Đó là Đạo Trí kinh. Nói như thế nào? Trong kinh kia nói như thế nầy: Lúc bấy giờ Ngài Văn Thủ Sư Lợi bạch Phật rằng: Thế Tôn! A Lợi Gia Thức, đầy đủ tất cả pháp, gồm tất cả pháp, trải qua hằng hà, trải qua hằng hà, mà các pháp nầy lấy ai làm bổn sanh nơi xứ nào?
Phật bảo: Như thế! Hữu vi vô vi tất cả các pháp, sanh xứ thù thắng chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao vậy? Ở nơi phi hữu vi, phi vô vi xứ, pháp hữu vi nầy, pháp vô vi nầy mà hay sanh vậy.
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng:
Thế Tôn! Thế nào gọi là phi hữu vi, phi vô vi xứ?
Phật bảo: Phi hữu vi phi vô vi xứ nghĩa là nhứt tâm bổn pháp, phi hữu vi nên có thể tạo ra hữu vi. Phi vô vi nên có thể tạo ra vô vi. Cho nên ta nói sanh xứ thù thắng chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa Thiện Nam Tử! Giống như người vợ lẽ có hai chỗ tựa. Một là Đại Vương, hai là cha mẹ. Hữu vi vô vi tất cả các pháp đều cũng như thế. Mỗi cái đều có hai chỗ nương. Nghĩa là thông đạt y và chi phần y. Lại nữa Thiện Nam Tử! Giống như tất cả cỏ cây có hai chỗ nương vào. Một là đất, hai là hạt giống. Hữu vi vô vi tất cả các pháp lại cũng như vậy. Mỗi cái đều có hai chỗ nương nghĩa là thông đạt y và chi phần y. Cho đến nói rộng ra cùng với sự hòa hợp. Nghĩa là mở bày, hay huân chỗ huân sai biệt ấy. Khai mở như thế nào? Đó là hiển thị các pháp nhiễm tịnh. Có lực không lực, cùng có hơn thua. Bây giờ sẽ tạo ra hai môn để phân biệt hiển thuyết. Thế nào là hai? Một là hạ chuyển môn. Hai là thượng chuyển môn. Trong sanh diệt môn, chẳng ra khỏi hai loại nầy. Như thế hai môn có gì khác nhau?
Tụng rằng:
Các pháp nhiễm có lực
Các tịnh pháp không lực
Sau gốc dưới dưới chuyển
Gọi là Hạ chuyển môn
Các tịnh pháp có lực
Các nhiễm pháp không lực
Hướng lên thượng thượng chuyển
Gọi là Thượng chuyển môn
Luận rằng: Do nhiễm tịnh các pháp, mà có chỗ hơn thua. Hai loại chuyển môn được thành như vậy rồi nay sẽ nói trước về Sơ Hạ chuyển môn. Căn bản vô minh lấy những pháp gì mà làm chỗ huân tập và vào lúc nào thì làm việc huân tập ấy?
Tụng rằng:
Chỗ Huân có 5 loại
Nghĩa là một pháp giới tâm
Và bốn loại vô vi
Chẳng đầu chẳng giữa sau
Đầu tiên, giữa và cuối
Như khế kinh nói rõ
Luận rằng: Căn bản vô minh lấy 5 loại pháp làm chỗ huân. Nghĩa là một pháp giới và 4 vô vi. Huân một pháp giới, tướng nầy là gì?
Tụng rằng:
Một loại pháp giới tâm
Có hai loại tự tại
Nghĩa hữu vi vô vi
Đó căn bản vô minh
Nương nơi sơ tự tại
Mà hay tạo việc huân
Luận rằng: Một pháp giới tâm có hai loại tự tại. Những gì là hai? Một là hữu vi tự tại, có thể lấy hữu vi pháp mà tạo ra chỗ nương tựa. Hai là vô vi tự tại, có thể lấy vô vi pháp mà tạo ra chỗ nương tựa. Căn bản vô minh nương nơi sơ tự tại. Có thể tạo ra chỗ huân tập. Phi hậu tự tại, trong Thật Khế Kinh nói như vậy. Gốc của vô minh huân tự chỗ y phần tế lượng. Phi tha sở nương; nên huân pháp chơn như. Tướng nầy như thế nào?
Tụng rằng:
Chơn như vô vi pháp
Có hai loại tác dụng
Đó là thông và biệt
Như trước nói rõ ràng
Là căn bản vô minh
Nương nơi sơ tác dụng
Mà hay tạo huân sự
Ngoài vô vi cũng vậy
Luận rằng: Chơn như vô vi có hai loại dụng. Nghĩa là thông và biệt như trước đã nói. Căn bản vô minh nương nơi sơ tác dụng, có thể tạo ra huân sự. Phi hậu tác dụng. Như nói chơn như ngoài 3 vô vi cũng lại như vậy. Tất cả đều nương sơ dụng, phi hậu dụng vậy. Tạo huân sự thời lượng, chẳng phải đầu lại cũng chẳng phải giữa hay cuối, mà giữ cả đầu, giữa và cuối. Trong Bổn Trí Khế Kinh nói như vậy. Khi mà đại lực vô minh tạo ra huân sự thì đầu, và giữa, sau một thời đều giữ lấy, mà phi biệt thủ vậy. Ở trong đây nói là có thể huân chỗ huân lấy nghĩa gì mà nói là huân? Nghĩa là có thể hướng dẫn pháp kia, mà hợp tự thể, chẳng hề cho mất, đều hành đều chuyển; nên gọi là hay huân. Lại nữa có thể pháp kia chẳng tạo ra chướng ngại; hoặc tùy hoặc thuận mà chẳng nghịch lại. Nên gọi là sở huân. Nghĩa là có 5 pháp hữu vi, có thể huân 4 loại vô vi pháp và một số pháp giới tâm. Chỗ huân 5 pháp tùy đến mà cùng với 5 có thể huân, cùng đến hòa hợp, cùng làm việc chuyển đổi; nên nói rằng chẳng sanh chẳng diệt cùng sanh diệt hòa hợp. Như đại vô minh nhứt tâm bổn pháp làm chỗ thông y vậy. Y sơ tự tại tạo ra việc huân tập. Bốn tướng hữu vi, nên như thế mà biết. Như Đại Vô Minh nương nơi 4 vô vi, thông đạt tác dụng, có thể tạo ra việc huân tập. Bốn tướng hữu vi nên như thế mà biết. Như vậy những nghĩa ấy tự làm rõ và lý nầy phân minh. Chẳng một mà cũng chẳng khác vậy. Tức là khi thì hữu vi vô vi, đồng dị sai biệt vậy. Thế nào là khai thị? Đó là hiển thị nhứt pháp giới tâm vô vi tự tại, bốn loại vô vi biệt sự tác dụng cùng với một pháp giới tâm hữu vi tự tại, 4 loại vô vi thông đạt tác dụng, chẳng giống như lý vậy. Đây gọi là chẳng một, vì muốn hiển thị, thọ năng huân nhiễm pháp, nhứt pháp giới tâm hữu vi tự tại, 4 loại vô vi thông đạt tác dụng, cùng có thể tạo sự huân tập 5 loại hữu vi chẳng khác với lý vậy. Đây tên là phi dị. Lại nữa chỗ huân tịnh pháp cũng có thể huân nhiễm pháp. Mỗi mỗi sai biệt; nên có tên là phi nhứt, có thể huân chỗ huân, đều một tâm tạo tác, chẳng có cái khác vậy nên gọi là chẳng khác. Đây có tên là A Lợi Gia Thức. Tổng hết đầy đủ.
Đã nói về Hạ Chuyển Môn rồi. Bây giờ lần lượt nói về Thượng chuyển môn. Nếu muốn thành lập Thượng chuyển môn nầy nên cùng an trí lời trong kinh bổn. Đó là Lăng Già Vương khế kinh, trong đó nói như thế nầy. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đại chúng rằng:
Nầy các Phật Tử! Ta nhớ lại từ thuở xa xưa, khi mới ra khỏi, ta lại đến nương kia, khi vào đó, kia lại nương vào ta. Kinh nầy muốn nói rõ nghĩa gì? Nghĩa là muốn hiển thị hai chuyển vậy. Thế nào là hiển thị? Nghĩa là ở nơi ra khỏi đó ta đến nương với kia, tức là Hạ chuyển. Khi nhập vào trong thì kia đến nương với ta, tức là Thượng chuyển. Nghĩa nầy như thế nào? Ta đây có nghĩa là chơn như bản giác Như Lai Tạng Phật vậy. Đến ở đây có nghĩa là thọ nhận sự huân tập. Y tha có nghĩa là tự bản giác của mình nương vào vô minh kia. Chữ y nơi kinh văn nầy đã giải thích rồi. Cho nên nói rằng bất sanh bất diệt cùng với sanh diệt hòa hợp. Đây chính là Hạ Chuyển Môn. Nếu muốn thành lập Thượng Chuyển Môn có thể nói sanh diệt cùng với bất sanh bất diệt hòa hợp. Lấy nghĩa nầy nên trong huyền lý luận tức còn tồn đọng lại ý tứ. Mã Minh Bồ Tát Bổn A Thế Gia? Sự đến nầy sẽ lần lượt phân minh hiển thị. Đưa ra một với một ảnh thị đã qua. Cho nên chẳng có sai trái gì cả. Thượng Chuyển Môn nghĩa nơi đối trị, phân lý nầy ra tự rõ.
Đã nói về Thượng Chuyển Môn rồi. Thứ nói đến cai nhiếp an lập môn. Các thức sai biệt, số nầy có bao nhiêu? Trong khế kinh nói những gì và mỗi thuyết có bao nhiêu thức?
Tụng rằng:
Mâu Ni Đại Giác Tôn
Cả đời Thánh nói ấy
Tổng cả có 10 loại
Mỗi nói khác khế kinh
Nghĩa một loại làm đầu
Mười loại mà làm cuối
Quy bổn cùng khế kinh
Phân minh hiển nói vậy
Luận rằng: Phàm tập họp một đời các Thánh nói trong khế kinh khác, tổng cộng có 10 loại. Nghĩa là từ một loại thức, cho đến 10 loại thức. Những gì là 10 loại kinh khác nhau?
Một là lập một loại thức để nhiếp tất cả thức. Trong nầy có 4. Những gì là 4? Một là lập tất cả một tâm thức tổng nhiếp các thức. Cho nên lấy một tâm thức biến nơi hai loại tự tại chẳng chỗ bất an lập. Trong nhứt tâm pháp khế kinh nói như thế nầy.
Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi nương vào uy thần của Phật liền bạch Phật rằng: Thế Tôn nói có bao nhiêu thức? Thế tướng như thế nào? Xin nguyện vì con mà phân biệt khai thị.
Lúc ấy Đức Thế Tôn bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: Hay thay! Hay thay! Văn Thù Sư Lợi! Vì các Đại Chúng mà nay hỏi việc nầy. Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Ta sẽ vì ngươi mà phân biệt giải nói. Thế rồi Ngài Văn Thù lại bạch Phật rằng: Lành thay Thế Tôn con nguyện vui nghe.
Phật bảo Văn Thù Sư Lợi rằng: Ta chỉ kiến lập một loại thức. Còn những thức khác thì không kiến lập. Vì sao vậy? Vì một thức là nhiều một thức. Thức nầy có nhiều sức mạnh, hay làm tất cả những loại danh tự, mà chỉ có một thức chứ cuối cùng chẳng có pháp khác. Cho nên ta nói kiến lập một chủng thức là vậy. Còn các thức khác thì không kiến lập.
Hai là lập A Lợi Gia Thức tổng nhiếp tất cả thức. Vì sao A Lợi Gia Thức đầy đủ chướng ngại nghĩa, vô chướng ngại nghĩa, không có chỗ chẳng nhiếp vậy. Trong A Lợi Gia Thức khế kinh nói như thế nầy.
Lúc bấy giờ Đức Quán Tự Tại Bồ Tát liền bạch Phật rằng: Thế Tôn! Thế nào là thông đạt tổng tướng thức? Lấy nghĩa gì mà gọi là tổng tướng?
Phật bảo Quán Tự Tại Bồ Tát rằng: Nói rằng thông đạt tổng tướng thức tức là A Lợi Gia Thức. Thức nầy có ngại sự và phi ngại sự, đầy đủ tất cả pháp, bổ sung tất cả pháp; giống như biển lớn, làm nên sóng nước là tổng tướng vậy. Với ý nghĩa nầy; nên gọi là tổng tướng vậy.
Ba là lập Mạt Na Thức nhiếp các thức khác. Nghĩa là Mạt Na Thức đầy đủ 11 loại nghĩa, không có chỗ nào là chẳng nhiếp. Trong hiển liễu khế kinh nói như thế nầy: Nhiều loại tâm thức tuy có rất nhiều; nhưng chỉ có Mạt Na chuyển chẳng có phán khác. Vì sao vậy? Mạt Na Thức nầy đầy đủ 11 nghĩa, chẳng có chỗ nào là chẳng tạo tác.
Bốn là lập 4 loại thức, tổng nhiếp tất cả thức. Cho nên dùng ý thức có 7 loại chuyển biến tự tại. Tùy theo có thể tạo thành việc nầy. Trong Thất Hóa khế kinh nói như thế nầy: Giống như thầy ảo thuật tuy chỉ có một mình; nhưng nhờ thuật huyễn hóa có thể biến ra 7 người. Người ta thấy vậy cho là 7 người; nhưng kẻ trí thấy thế chỉ nói có một người mà không phải 7 người. Y thức huyễn sư cũng lại như vậy. Tuy chỉ có một thức, có thể làm 7 việc. Phàm phu thấy cho đó là 7 việc, mà kẻ giác ngộ thấy chỉ có ý thức, ngoài ra không có 7 việc. Cho nên gọi là kiến lập đồng một loại thức, 4 loại khế kinh. Hai là lập hai loại thức tổng nhiếp tất cả thức. Những gì là hai? Một là A Lại Gia Thức. Hai là Ý thức. A Lợi Gia Thức tổng cử nghiệp chuyển hiện 3 thức. Ý thức tổng cử 7 loại chuyển thức. Trong Lăng Già khế kinh nói như thế nầy: Nầy Đại Huệ! Nếu nói rộng thì có 8 thức. Lược nói thì có hai. Những gì là hai? Một là liễu biệt thức; hai là phân biệt sự thức. Cho đến nói rộng ra vậy. Ba là lập ba loại thức tổng nhiếp các thức. Những gì là ba? Một là A Lợi Gia Thức. Hai là Mạt Na Thức. Ba là Ý thức. A Lợi Gia Thức là tổng hợp của 3 tướng thức. Mạt Na Thức là trực ý căn. Ý thức là tổng nhiếp 6 loại chuyển thức. Trong kế kinh Từ Vân nói như thế nầy. Lại nữa nếu nói thật rộng ra thì có 10 loại thức. Tổng nói có 3. Những gì là ba? Một là tế tướng tánh thức. Hai là căn tướng tánh thức. Ba là phân ly tướng tánh thức. Cho đến nói rộng ra vậy. Bốn là lập 4 loại thức, tổng nhiếp tất cả thức. Những gì là bốn? Nghĩa là trước 3 và thêm một tâm thức. Trong Vô Tướng khế kinh nói như vầy: Thức pháp tuy vô lượng; nhưng chẳng ra khỏi 4 loại thức. Những gì là 4? Một là sở y bổn nhứt thức. Hai là năng y trì tạng thức. Ba là ý trì thức và bốn là biến phân biệt thức. Cho đến nói rộng ra vậy.
Năm là lập 5 loại thức tổng nhiếp tất cả thức. Những gì là 5? Nghĩa là trước 4 và thêm tùy thuận biến chuyển thức vậy. Trong Đại Vô Lượng khế kinh nói như thế nầy: Lại nữa có thức, chẳng nhiếp thức kia mà biến ra nơi kia. Cho nên nói là tùy thuận biến chuyển thức.
Sáu là lập 6 loại thức tổng nhiếp tất cả thức. Những gì là sáu? Đó là nhãn thức cùng với 5 loại biệt thức và đệ lục ý thức. Trong khế kinh Tứ Thánh Đế nói như thế nầy. Phật bảo Thụ Vương rằng: Ta vì các chúng sanh có gốc gác nhỏ, dùng mật ý mà xướng lên như thế nầy: Chỉ có 6 thức, không thức nào dư, mà thật ý chính là vì muốn làm cho rõ biết 6 loại thức ấy thì đầy đủ tất cả thức. Đối trước đại chúng xướng lên như vậy.
Bảy là lập 7 loại thức tổng nhiếp tất cả thức. Những gì là 7? Nghĩa là trước 6 và thêm Mạt Na Thức nữa. Trong Pháp Môn khế kinh nói như thế nầy: Lại nữa Văn Thù Sư Lợi! Thức pháp có 7 loại. Những gì là 7? Đó là 6 thức thuộc về thân và Mạt Na Thức. Như thế là 7 thức. Hoặc một lúc chuyển, hoặc chuyển trước sau. Lại nữa thức thứ 7 có lực thù thắng; hoặc lúc tạo tác trì tụng mà dùng; hoặc lúc tạo tác phân biệt mà nương.
Tám là lập 8 loại thức tổng nhiếp tất cả thức. Những gì là 8? Nghĩa là trước 7 và thêm A Lợi Gia Thức. Trong Đạo Trí khế kinh nói như thế nầy: Tâm Vương có 8. Những gì là 8? Một là nhãn thức tâm vương cho đến 8 là dị thục báo thức tâm vương. Các loại thức pháp chẳng thể ra khỏi số nầy.
Chín là lập 9 loại thức tổng nhiếp tất cả thức. Những gì là 9? Nghĩa là trước 8 và thêm Am Ma La thức. Trong khế kinh Kim Cang Tam Muội có nói như thế nầy: Lúc ấy Vô Trụ Bồ Tát bạch lên Phật rằng: Thưa Ngài! Lấy gì lợi chuyển, mà chuyển chúng sanh tất cả tình thức nhập Am Ma La? Phật bảo: Chư Phật Như Lai thường lấy một giác mà chuyển các thức nhập Am Ma La vậy.
Mười là lập 10 loại thức tổng nhiếp tất cả thức. Những gì là 10? Nghĩa là trước 9 và thêm vào nhứt thiết nhứt tâm pháp nữa. Trong Pháp Môn khế kinh nói như thế nầy: Tâm lượng tuy vô lượng mà chẳng ra khỏi 10 thức, cho đến nói rộng ra vậy.
Đây là 10 loại nói khác trong khế kinh. Như thế 10 loại ở nơi sách quý cai nhiếp những gì? Thế nào là an lập?
Tụng rằng:
Nơi bản thể tuy sáng
Làm cho tạo nặng thêm
Như câu văn khế kinh
Thuộc về nói tổng quát
Luận rằng: Nơi luận chính tuy đã nói rõ ràng mà làm cho thuận tiện, nên giải thích thêm. Trong Tương Khế Kinh Văn gởi gấm luận rằng: Nghĩa là một tâm pháp khế kinh tổng sở kiến lập tất cả nhứt tâm thức, Ma Ha Diễn luận nhứt pháp giới nhiếp; nghĩa như trước đã nói. Trong A Lợi Gia Thức khế kinh, tổng sở kiến lập A Lợi Gia Thức, Ma Ha Diễn luận tổng A Lợi Gia nhiếp. Tổng sở kiến lập A Lợi Gia thức, Ma Ha Diễn luận tổng A Lợi Gia nhiếp. Vì sao vậy? Ở trong luận chính nói như thế nầy: Sở dĩ chúng sanh chẳng diệt cùng sanh diệt hòa hợp, phi nhứt phi dị, tên là A Lợi Gia Thức. Thức nầy có 2 nghĩa, hay nhiếp tất cả pháp sanh tất cả pháp. Thế nào là hai? Một là giác nghĩa. Hai là bất giác nghĩa. Trong Hiển Liễu khế kinh nói tổng sở kiến lập Đại Mạt Na Thức, Ma Ha Diễn luận tổng Ma Na nhiếp. Vì sao vậy? Ở trong luận chính nói như thế nầy: Lại nữa sanh diệt nhơn duyên là vì chúng sanh nương tâm ý, ý thức chuyển. Nghĩa nầy như thế nào? Nghĩa là nương vào A Lợi Gia Thức nói có vô minh bất giác mà khởi, hay thấy hay hiện, hay giữ cảnh giới, khởi niệm tương tục nên nói là ý. Ý nầy lại có 5 tên gọi. Những gì là 5?
Một gọi là Nghiệp thức, nghĩa là vô minh lực bất giác tâm động.
Hai gọi là Chuyển thức, nghĩa là nương vào nơi tâm động, có thể thấy tướng vậy.
Ba gọi là Hiện thức, nghĩa là hay hiện tất cả cảnh giới; giống như cái kiếng sáng hiện màu sắc hình ảnh. Hiện thức cũng giống như thế. Tùy 5 trần nầy mà đối đãi, tức là hiện không có trước sau, lấy tất cả lúc mà thay đổi, khởi lên thường ở trước.
Bốn gọi là Trí thức, nghĩa là phân biệt pháp sạch dơ.
Năm gọi là Tương tục thức, dùng niệm tương ưng chẳng đoạn lìa vậy. Cho đến nói rộng ra.
Trong Thất Hóa khế kinh tổng sở kiến lập đồng nhứt ý thức, Ma Ha Diễn luận nhứt phân ý thức nhiếp. Nói tướng tuy khuyết mà đầy đủ ý kín. Ở nơi luận chánh nói như thế nầy: Lại nữa nói là ý thức tức là tương tục thức; nương vào những phàm phu thủ chấp rồi chuyển sâu thêm. Đo lường ngã và ngã sở, nhiều loại vọng chấp, tùy việc phan duyên mà phân biệt thành 6 trần. Tên gọi là Ý Thức. Cho đến nói rộng ra. Như vậy như vậy các kinh kia tùy theo từng nơi mà phối trí như vậy.
Đã nói về cai nhiếp an lập môn rồi. Bây giờ lần lượt nói đến Tạng Thức phẫu tự môn. A Lợi Gia Thức tên chữ sai biệt có bao nhiêu thứ? Khế kinh nói khác tướng nầy như thế nào? Nghĩa của những chữ ấy là gì? Để lại nơi nào?
Tụng rằng:
Ma Ha Kiền HằngTiều
Kiền A Thi Già La
Bạch bạch Am Ma La
Hắc bạch Am Ma La
Yết La La Kiền Ma
Phược đa đề Kiền Ma
Xà Ha Na Kiền Ma
Bà A Xoa Ni La
Bạch bạch Bà Tát La
Hắc bạch Bà Tát La
Như thế 10 loại thức
Trong Ma Ha Diễn luận
Phân minh nói rõ ràng
Tùy theo mỗi chia phân
Luận rằng: A Lợi Gia Thức tất cả có 10 loại. Vì sao thế? Đối với trong khế kinh nói riêng ra vậy. Những gì là 10?
Một là tên gọi Đại Nhiếp chủ A Lợi Gia Thức. Cho nên đây là tổng tướng đại thức, nghĩa như trước đã nói.
Hai gọi là căn bản vô minh A Lợi Gia Thức. Nghĩa là căn bản vô minh biệt lập, lấy làm A Lợi Gia. Trong khế kinh Thập Chủng Vọng Tưởng nói như thế nầy. Sát Xà Chỉ Đa Đề Vương Thức, trực thị vọng pháp, chẳng thể rõ biết một pháp giới thể. Tất cả nhiễm pháp A Lợi Gia Thức lấy làm căn bản, xuất sanh tăng trưởng, không có lúc nào đoạn tuyệt. Nếu không có Đề Vương Thức thì những quyến thuộc của loại đen không có chỗ nương vào và chẳng thể sanh trưởng. A Lợi Gia Thức nầy sẽ nhiếp cái gì riêng biệt? Đối với trong hiện chính có nói như thế nầy: Đó gọi là bất giác nghĩa. Nghĩa là chẳng như thật, rõ chơn như pháp một vậy. Bất giác tâm khởi, mà có niệm nầy. Cho đến nói rộng ra.
Ba gọi là thanh tịnh bổn giác A Lợi Gia Thức. Đó là tự nhiên bổn trí biệt lập, lấy làm A Lợi Gia Thức. Trong Bổn Giác khế kinh nói như thế nầy: Tự Thể Tịnh Phật A Lợi Gia Thức, đầy đủ vô lậu, tròn đầy công đức, thường hằng thanh tịnh, thường hằng quyết định, chẳng giữ lại tướng đen, không biến thành tướng khác. Trí thể bất động, đầy đủ loại trắng. Cho nên gọi tên là độc nhứt tịnh thức vậy. A Lợi Gia Thức nầy sẽ quyết trạch nhiếp cái gì? Ở trong luận chính nói như thế nầy: Lại nữa giác thể tướng có 4 loại nghĩa lớn cùng với hư không và dụ như kiếng sạch. Cho đến nói rộng ra vậy.
Bốn gọi là nhiễm tịnh bổn giác A Lợi Gia Thức. Nghĩa là chẳng giữ tự tánh Đà La Ni trí, biệt lập lấy làm A Lợi Gia vậy. Trong khế kinh Bổn Nhơn Duyên khởi nói như thế nầy: Lúc bấy giờ Quang Nghiêm Đồng Tử liền bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Dùng nhân duyên gì vậy mà trong nan nhập vị tổng hữu hội trong nói như thế nầy: Tùy theo tha duyên khởi kia, tên là Đà La Ni Trí; làm Lăng già Vương thức. Thế nào gọi là Lăng Già Vương? Lấy làm thí dụ cho rõ biết, duyên kia khởi lên Đà La Ni Trí. Ở đây Thế Tôn đã bảo với Quang Nghiêm Đồng Tử rằng: Lăng Già Vương nầy thường hay ở nơi biển lớn, trong núi Ma La, có đến 10 vạn 6 ngàn quỷ thần chúng làm quyến thuộc. Như vậy các quyến thuộc nầy tất cả đều lên trên hóa cung điện mà đi dạo chơi các nước khác. Tất cả đều là nhờ vào Lăng Già Vương kia; mới có thể du hành được. Rồi quỷ thần chúng mới nói lời như thế nầy: Chúng tôi, những thần chúng nầy không có uy đức, chẳng có khí lực, làm những việc như vậy chẳng có thể được, như hỏi Đại Vương trong chúng tôi đây cũng có năng lực chăng?
Lăng Già Vương kia liền theo lúc mà tạo nên lực thù thắng, chẳng có tướng xa rời, mà cùng chuyển vậy. Nghĩa là Lăng Già Vương tuy chẳng phân thân, mà có thể biến khắp ra các quỷ thần. Mỗi mỗi làm được toàn thân sức mạnh. Với tất cả lúc với tất cả nơi cùng chẳng chẳng lìa. Bất thủ tự tánh rõ biết cũng lại như vậy. Hay thọ tất cả vô lượng vô biên phiền não nhiễm pháp, quỷ thần chúng huân tập lại; nhưng chẳng có tướng xa lìa, mà đều chuyển đầy đủ vậy. Do nhân duyên nầy mà ta nói rằng: Khó vào, khó gặp là như thế. Tùy chuyển giác trí gọi là Lăng Già Vương thức vậy. A Lợi Gia Thức nầy sẽ quyết trạch nhiếp được những gì? Đối với luận chính nói như thế nầy: Tự tánh thanh tịnh tâm, nhơn vô minh gió động, tâm cùng với vô minh đều vô hình tướng chẳng hề xa lìa. Cho đến nói rộng ra vậy.
Năm là Nghiệp tướng Nghiệp thức A Lợi Gia Thức. Nghĩa là căn bản nghiệp tướng và cùng với nghiệp thức biệt lập lấy làm A Lợi Gia vậy. Trong Bổn Tánh Trí khế kinh nói như thế nầy: A Lợi Gia Thức không thể làm xong, không chỗ làm xong, không thể phân chia ra, không thể tách rời ra. Chỉ do động, yên, lưu chuyển vậy. Đây có tên là Kiền Ma vậy. A Lợi Gia Thức nầy sẽ quyết trạch được những gì? Đối với trong luận chính có nói như thế nầy: Lại nữa nương nơi bất giác nên sanh 3 loại tướng, cùng với kia chẳng giác tương ưng và chẳng lìa. Những gì là ba? Một là vô minh nghiệp tướng, lấy bất giác để nương tựa. Tâm động gọi tên là nghiệp. Giác tức chẳng động; động tức là có khổ, quả chẳng lìa nhân vậy.
Sáu gọi tên là Chuyển tướng nghiệp thức A Lợi Gia Thức. Nghĩa là có thể thấy tướng của cảnh giới và cùng với chuyển thức, riêng biệt dùng làm A Lợi Gia Thức. Trong Đại Vô Lượng khế kinh nói như thế nầy: A Lợi Gia Thức có thấy thấy chuyển, không thấy thấy khởi. A Lợi Gia Thức nầy sẽ quyết trạch nhiếp được những gì? Đối với luận chánh đã nói như vậy. Hai là có thể thấy tướng; dùng động để nương nên có thể thấy; bất động tức không thể thấy được.
Bảy gọi tên là Hiện tướng hiện thức A Lợi Gia Thức. Nghĩa là tướng của cảnh giới và cùng với hiện thức, biệt lập lấy làm A Lợi Gia Thức. Trong Thật Tế khế kinh nói như thế nầy: Biệt di biệt dị, hiện tiền địa chuyển, tướng vi tướng vị đầy đủ hành chuyển. Cho nên gọi tên là A Lợi Gia Thức. Lại nữa A Lợi Gia Thức nầy đúng là dị thục vô ký của các pháp; tướng sạch trắng nên gọi tên là thành thục. A Lợi Gia Thức nầy sẽ quyết trạch nghiệp những gì? Đối với luận chính nói như thế nầy: Ba là cảnh giới tướng, lấy chỗ nương tựa có thể thấy vậy. Cảnh giới vọng hiển ra, lìa sự thấy, tức chẳng có cảnh giới.
Tám gọi tên là Tánh Chơn Như Lý A Lợi Gia Thức. Nghĩa là chánh trí sở chứng thanh tịnh chơn như; biệt lập lấy làm A Lợi Gia Thức vậy. Trong khế kinh các Pháp đồng thể nói như thế ấy. Có thức là thức, phi thức thức nhiếp. Nghĩa là như như A Lợi Gia Thức vậy. A Lợi Gia Thức nầy sẽ quyết trạch nhiếp những gì? Đó là thanh tịnh bát nhã chất cảnh, chơn như nhiếp vậy.
Chín gọi tên là Thanh tịnh thể giác A Lợi Gia Thức. Nghĩa là gốc có sạch trắng, cái giác ban đầu là trí tuệ, biệt lập lấy làm A Lợi Gia Thức vậy. Trong Quả Viên Mãn khế kinh nói như vậy. Phật bảo Bồ Đề Thụ Vương rằng: Tự nhiên thể giác A Lợi Gia Thức sẽ thường chẳng lìa thanh tịnh bổn giác. Thanh tịnh bổn giác sẽ thường chẳng lìa thể giác tịnh thức. Tùy đây mà kia có. Tùy kia mà đây có. Hoặc chẳng cùng loại; hoặc chẳng khác loại. A Lợi Gia Thức nầy sẽ quyết trạch được những gì? Đối với luận chính nói như thế này: Bổn giác nghĩa là đối trị với giác để nói. Lấy thể giác tức đồng nghĩa với bổn giác.
Mười gọi tên là Nhiễm tịnh thể giác A Lợi Gia Thức. Nghĩa là tùy duyên thể giác bát nhã; biệt lập lấy làm A Lợi Gia Thức vậy. Trong Quả Viên Mãn khế kinh nói như thế nầy: Lại nữa Thụ Vương! Như thể giác tịnh thức và bạch tịnh bổn giác nói nhiễm tịnh thể giác A Lợi Gia Thức. Bất thủ tự tánh duyên khởi bổn giác lại cũng như vậy. A Lợi Gia Thức nầy sẽ quyết trạch nhiếp được những gì? Đối với luận chính nói như thế nầy: Thể giác nghĩa là nương vào bổn giác mà có bất giác. Nương vào bất giác nên nói là hữu thể giác. Lại nữa lấy giác tâm làm gốc nên tên là cứu cánh giác. Bất giác tâm ban đầu nên gọi là phi cứu cánh giác. Cho đến nói rộng ra vậy. Như thế nghĩa cho đến tự chọn lựa, tự sẽ góp thêm vào. Mười loại Mạt Na, 6 loại Ý thức.
Đối với những câu văn sau sẽ lần lượt tùy đó mà giải thích vậy. Bây giờ đã lược nói rồi và đã nói qua về Tạng Thức Phẫu Tự Môn (môn giải thích từng chữ về tạng thức), phần tướng môn. Lần lượt nói đến tổng thức nhiếp sanh viên mãn môn. Thức nầy có hai nghĩa. Hay nhiếp tất cả các pháp có thể sanh tất cả pháp. Những gì là hai? Một là nghĩa giác; hai là bất nghĩa giác, mà tổng hiển thị đại thức thù thắng viên mãn tướng vậy. Câu văn và chữ giác nghĩa có thể nhiếp tất cả vô lượng vô biên qua khỏi hằng sa, chẳng lìa chẳng đoạn các công đức vậy. Hay sanh tất cả vô lượng vô biên qua khỏi hằng sa chẳng lìa chẳng đoạn các công đức vậy; quá hoạn viên mãn vậy. Bất giác nghĩa tự cú có thể nhiếp tất cả vô lượng vô biên qua khỏi hằng sa hoặc lìa hoặc thoát những quá hoạn vậy. Hay sanh tất cả vô lượng vô biên hơn cả hằng sa hoặc lìa hoặc thoát những quá hoạn vậy. Như vậy nhiều loại nhiếp sanh ra huân tập tướng sai biệt. Cho đến biệt tướng kia quyết trạch phân ra, phân minh hiển thị rõ ràng.