Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 11 Đến Phẩm 20

Tùy Xà Na Quật Đa dịch

Bản Việt dịch của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

***

Phẩm 11: TẬP HỌC KỸ NGHỆ

Khi Thái tử tuổi vừa lên tám, Đại vương Tịnh Phạn nhóm họp bá quan, quần thần tể tướng, rồi ngài hỏi:

-Ngày nay trong nước trẫm, các khanh có biết ai là người trí tuệ bậc nhất, ai là người đầy đủ tài năng thông thạo các ngành nghề, đủ khả năng làm thầy dạy lịch sử, văn học và tất cả các kinh luận cho Thái tử?

Quần thần tâu:

-Xin Đại vương biết cho, hiện giờ có Đại sư Tỳ-xa-bà Mật-đa-la rất giỏi các kinh luận, là kẻ tài năng trong thiên hạ, người có thể dạy các kinh luận cho Thái tử.

Đại vương liền cho sứ giả triệu đại sư Tỳ-xa-bà Mật-đa-la về triều, rồi Đại vương lại bảo:

-Này Tôn giả Đại sư, khanh có thể vì trẫm dạy tất cả sách vở kỹ nghệ, kinh luận cho Thái tử được không?

Tỳ-xa-bà Mật-đa-la đáp:

-Kẻ hạ thần này xin phụng mạng Đại vương, có thể làm được việc này.

Đại vương hết sức vui mừng, rồi chọn ngày lành tháng tốt, cùng các vị Đại đức kỳ cựu trong hoàng tộc, sắp đặt đầy đủ các lễ nghi. Lại triệu tập năm trăm đồng tử xếp hàng theo thứ lớp trước sau hai bên tả hữu, trông buổi lễ thật trang nghiêm. Ngoài ra có rất đông nam đồng tử tùy tùng, hộ vệ Thái tử đồng đến học đường.

Đại sư Tỳ-xa-bà Mật-đa-la từ xa trông thấy Thái tử có oai đức thế lực quá lớn, nên hoảng hốt đứng dậy cúi mình lễ dưới chân Thái tử. Lễ rồi đứng dậy, Đại sư thấy mọi người đưa mắt nhìn mình nên sinh tâm hổ thẹn. Đang khi ấy trên hư không xuất hiện một Thiên tử tên là Tịnh Diệu, từ cung trời Đâu-suất cùng với vô lượng vô biên chư Đại vương Thiên thần thường ủng hộ bên Thái tử, ẩn thân trong hư không nói kệ:

Các nghề trong thế gian,

Cùng các thứ kinh luận,

Thái tử đều biết rõ,

Ngài dạy cho mọi người.

Bậc Tối Thắng chúng sinh,

Vì tùy thuận thế gian,

Quá khứ đã học tập.

Nay giả theo thầy học,

Bao nhiêu trí xuất thế,

Các đế cùng các lực,

Các pháp nhân duyên sinh,

Sinh ra và tiêu diệt.

Biết hết trong một niệm,

Danh sắc hiện chẳng hiện,

Như trên đều chứng biết,

Huống nữa là văn tự.

Thiên tử nói kệ, lại dùng các thứ hoa rải trên mình Thái tử rồi liền trở về cung trời Đâu-suất.

Khi ấy Đại vương Tịnh Phạn dùng vô số ngọc ngà quý giá cung cấp cho các Bà-la-môn, lại dọn đủ thức ăn trăm vị thết đãi họ. Rồi ngài đem Thái tử phó chúc cho Đại sư Tỳ-xa-bà Mật-đa-la, chỉ để lại các dưỡng mẫu, còn bao nhiêu trở về vương cung.

Đây là buổi học đầu tiên của Thái tử, dùng gỗ ngưu đầu chiên-đàn loại tốt nhất làm bảng viết, bớn học cụ đều làm bảy báu, dùng các loại hương thơm đặc biệt của chư Thiên thoa trên mặt bảng. Rồi Thái tử cầm bảng đến trước Quỹ phạm sư Tỳ-xa-bà Mật-đa-la thưa:

-Ngày nay Tôn giả Quỹ phạm dạy cho tôi sách gì? (Bản Phạn vốn thiếu một đầu sách). Sách của Phạm Thiên (Nay chính là sách mười bốn âm của Bà-la-môn) hay sách Khư-lô-sắc-tra (dịch Lô Thần). Hoặc sách của Tiên nhân Phú-sa Ca-la (Tùy dịch: Liên hoa), hoặc sách A-la-ca (Tùy dịch: Tiết phần), hoặc sách Mộng-già-la (Tùy dịch: Kiết tường), hoặc sách Da-mị-ni (Tùy dịch: sách nước Đại Tần), hoặc sách Ương-cù-lê (Tùy dịch: sách ngón tay), hoặc sách Da-na-ni-ca (Tùy dịch: Đà Thừa), hoặc sách Ta-già-bà (Tùy dịch: Trâu cái), hoặc sách Ba-la-bà-ni (Tùy dịch: lá cây), hoặc sách Ba-lưu-sa (Tùy dịch: lời nói ác), hoặc sách Tỳ-đa-đồ (Tùy dịch: Thây chết đứng dậy), hoặc sách Đà-tỳ-đồ-quốc (Tùy dịch: Nam Thiên-trúc), hoặc sách Chỉ-la-đê (Tùy dịch: người lõa hình), hoặc sách Độ-kỳ-sai Na-bà-đa (Tùy dịch: xoay bên hữu), hoặc sách ưu-già (Tùy dịch: Rực rỡ), hoặc sách Tang- khư (Tùy dịch: Kế toán), hoặc sách A-bà-vật-đà (Tùy dịch: Ngược), hoặc sách A-nậu-lô-ma (Tùy dịch: Thuận), hoặc sách Tỳ-da-mị-xa-la (Tùy dịch: Tạp), hoặc sách Đà-la-đa (Núi Điểu-tràng-biên), hoặc sách Tây Cù-da-ni (Nhà Tùy không dịch), hoặc sách Kha-sa (Sớ-lặc), hoặc sách Chỉ-na-quốc (Đại Tùy), hoặc sách Ma-na (Đấu-thăng), hoặc sách Vị-đồ-xoa-la (Chữ trung), hoặc sách Tỳ-đa-tất-để (Xích), hoặc sách Phú-số-ba (Hoa), hoặc sách Đề-bà (Trời), hoặc sách Na-già (Rồng), hoặc sách Dạ-xoa (Tùy không dịch), hoặc sách Càn-thát- bà (Âm thanh cõi trời), hoặc sách A-tu-la (không uống rượu), hoặc sách Ca-lâu-la (Chim cánh vàng), hoặc sách Khẩn-na-la (Phi nhân), hoặc sách Ma-hầu-la-già (Rắn lớn), hoặc sách Di-già Giá-ca (Tiếng các thú), hoặc sách Ca-ca-lâu-đa (Tiếng chim), hoặc sách Phù-ma-đề- bà (Trời địa cư), hoặc sách An-đa Lê-xoa Đề-bà (Trời trên hư không), hoặc sách uất-đa-la Câu-lô (Bắc Tu-di), hoặc sách Bô-lâu Bà-tỳ Đề-ha (Đông Tu-di), hoặc sách Ố-sai-ba (Cử), hoặc sách Nị-sai-ba (Ném), hoặc sách Ta-già-la (Biển), hoặc sách Bạt-xà-la (Kim cang) hoặc sách Lê-già Ba-la-để-lê-già (Qua lại), hoặc sách Tỳ-khí- đa (Đồ ăn thừa), hoặc sách A-nậu Phù-đa (Vị tằng hữu), hoặc sách Xa-ta Đa-la Bạt-đa (Như phục chuyển), hoặc sách Già-na-na Bạt-đa (Toán chuyển), hoặc sách Ưu-sai Ba-bạt-đa (Cử chuyển), hoặc sách Ni-sai Ba-bạt-đa (Trịch chuyển), hoặc sách Ba-đà Lê-khư (Túc), hoặc sách Tỳ-câu Đa-la Ba-đà-na-địa (Từ hai câu Tăng thượng), hoặc sách Da-bà-đà Thâu-đa-la (Thêm mười câu trở lên), hoặc sách Vị-đồ-bà Sái-ni (Trung lưu), hoặc sách Lê-sa-da Ta-đa-ba Di-tỷ-đa (Khổ hạnh của chư Tiên), hoặc sách Đà-la-ni Ty-xoa-lê (Quán đất), hoặc sách Già-già-na Ty-lệ-xoa-ni (Quán hư không), hoặc sách Tát-bổ-sa-địa-ni Sơn-đà (Hạt quả tất cả thuốc), hoặc sách Sa-la-tăng-già Hà-ni (Tổng lãm), hoặc sách Tát-bà-lâu-đa (Tất cả tiếng)…

Thái tử trình bày tên các sách rồi, lại thưa hỏi Quỹ phạm sư:

-Thưa Tôn sư, có sáu mươi bốn tên sách như vậy, không biết Tôn sư dạy cho tôi sách nào?

Tỳ-xa-bà Mật-đa-la nghe Thái tử kể tên sách, trong lòng hoan hỷ vui mừng hớn hở, nhưng thầm nghĩ hổ thẹn, dẹp bỏ được tánh cống cao ngã mạn, đến trước Thái tử đọc kệ ca ngợi:

Bậc trí tuệ thanh tịnh ít có,

Khéo tùy thuận các pháp thế gian.

Chính thân ngài uyên thâm các luận,

Lại trở vào lớp học của ta.

Sách như vậy ta chưa từng học,

Nhưng Thái tử lại thông tất cả.

Đại đạo sư cho cả trời người

Nay ta lại theo ngài học hỏi.

Bấy giờ có năm trăm đồng tử của quần thần thuộc dòng họ Thích đồng vào lớp học với Thái tử. Họ tập viết và tập đọc các mẫu tự, do oai đức của Thái tử cộng với thần lực của chư Thiên, nên trong khi năm trăm đồng tử tập đọc các mẫu tự, lại lồng vào đó những âm thanh khác, như:

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ A thì phát ra tiếng “Các hành vô thường”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Y thì phát ra tiếng “Tất cả các căn đều phòng hộ”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Ưu thì phát ra tiếng “Tâm được tịch định”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Yết thì phát ra tiếng “Các pháp lục nhập phải chứng biết”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Ô thì phát ra tiếng “Phải ra khỏi biển lớn phiền não”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Ca thì phát ra tiếng “Phải thọ các nghiệp báo đã tạo”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Khư thì phát ra tiếng “Dạy nhổ tất cả cội gốc phiền não”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Già thì phát ra tiếng “Mười hai nhân duyên rất khó vượt qua”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Hàng thì phát ra tiếng “Các vô minh che lấp dày đặc phải trừ sạch”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Nga thì phát ra tiếng “Khi Như Lai thành Phật, đối với chúng sinh sợ sệt ở các phương khác, ngài bố thí vô-úy.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Giá thì phát ra tiếng “Cần phải chứng biết bốn pháp chân lý”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Xa thì phát ra tiếng “Phải biết ngày nay có bao tâm mê hoặc tà vạy dua nịnh đều phải trừ diệt”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Xà thì phát ra tiếng “Phải vượt qua biển sinh tử”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Xã thì phát ra tiếng “Phải xổ ngã, và bẻ gãy cây cờ ma phiền não”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Nhã thì phát ra tiếng “Phải dạy bốn chúng thuận tu giáo pháp”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Tra thì phát ra tiếng “Tất cả chúng sinh phàm phu khắp tất cả mọi nơi kinh sợ lời nói vô thường này”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Trá thì phát ra tiếng “Cần phải nhớ nghĩ chữ Trá này, nếu các căn thuần thục không còn đắm các pháp, tức được chứng biết”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Đồ thì phát ra tiếng “Phải chứng được bốn pháp Như ý túc, tức bay được trên hư không”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Trà thì phát ra tiếng “Làm hoa búp hoan hỷ, như lời nói chữ Trà, tiêu diệt các hành và mười hai pháp nhân duyên vô thường hiển hiện”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Noa thì phát ra tiếng “Người đắc đạo khi thọ lợi dưỡng, không có một vi trần phiền não nào không tiêu diệt mà thọ sự cúng dường của kẻ khác”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Đa thì phát ra tiếng “Nên hướng về khổ hạnh”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Tha thì phát ra tiếng “Phải quán như thế này: Tâm của tất cả chúng sinh như chiếc búa, các cảnh giới bên ngoài như tre gỗ”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Đà thì phát ra tiếng thế này: “Phải đồng tu hạnh bố thí và khổ hạnh”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Tha thì phát ra tiếng “Phải có tiếng pháp”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Na thì phát ra tiếng “Cần phải dùng ẩm thực để sống”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Bá thì phát ra tiếng “Chân như thật đế”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Phả thì phát ra tiếng “Phải thành đạo, chứng diệu quả”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Bà thì phát ra tiếng “Mở tất cả các trói buộc”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Bà thì phát ra tiếng “Không còn thọ thân đời sau”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Ma thì phát ra tiếng “Tất cả sự khủng bô của sinh tử đáng sợ”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Da thì phát ra tiếng “Vì người diễn nói rõ tất cả các pháp môn”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Ra thì phát ra tiếng “Phải có Tam bảo”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ La thì phát ra tiếng “Đoạn các ái”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Bà thì phát ra tiếng “Đoạn tất cả chủng tử căn bản của thân”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Xa thì phát ra tiếng “Chứng được chỉ quán”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Sa thì phát ra tiếng “Phải biết sáu cõi”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Ta thì phát ra tiếng “Phải chứng các trí”.

Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Hà thì phát ra tiếng “Phải đánh tan các phiền não”.

Khi năm trăm đồng tử xướng các tự mẫu, do sức oai thần của Thái tử cùng với sự hộ trì của chư Thiên; do đó mới phát ra âm thanh diễn tả các pháp môn vi diệu bí mật sâu xa như vậy.

Rồi sau đó, Đại vương Tịnh Phạn nhóm họp các quần thần cùng thảo luận:

-Này các khanh, tất cả quần thần ai biết ở đâu có võ sư võ thuật cao cường, có tài sử dụng các binh khí, trí lược hơn người, có thể làm thầy dạy Thái tử Tất-đạt-đa ta.

Quần thần tâu:

-Đại vương phải biết, ở xứ này có chàng sằn-đề Đề-bà (Nhà Tùy dịch: Nhẫn Thiên) con của Thiện Giác thuộc dòng họ Thích, người võ nghệ cao cường, thông thạo hai mươi chín kỹ năng, kỹ thuật tinh vi, động tác uyển chuyển nhẹ nhàng, song hết sức lanh lẹ và rắn chắc, người có thể làm thầy dạy Thái tử.

Hai mươi chín kỹ năng đó là: Phóng lên lưng voi, vọt lên xe, lao qua hầm, nhảy lên ngựa, bắn tên giỏi, chạy nhanh, ý chí kiên cường, thân cử động nhẹ nhàng lanh lẹ. Nhận định thận trọng, có tài huấn luyện, có tài dùng móc câu điều khiển voi, hiểu biết rành rẽ, thi hành chu đáo, vãi lưới bắt voi, lại khéo nuôi dưỡng súc vật, xử đoán nghiêm minh, có tài chỉ huy mã binh, lão luyện am tường địa thế núi sông, tay nắm chắc chắn, chân đứng vững vàng, chải đầu búi tóc, bền vững chắc chắn, có thể phá có thể mở, có thể xẻ có thể bửa, bắn không lạc đích, có tài trương cung sắt vô song, xa nghe âm thanh bắn tên liền trúng, bắn nhằm tên vết thương rất sâu. Sáng suốt thông minh, lời nói tao nhã, biện luận mẫn tiệp, hiểu biết rõ ràng, sách lược đa mưu, bàn cổ luận kim, tùy thời uyển chuyển.

Bao bí quyết võ thuật, sử dụng binh khí người đều thông đạt, nên chỉ một mình sằn-đề Đề-bà mới có khả năng dạy tất cả võ thuật sử dụng binh khí cho Thái tử.

Đại vương Tịnh Phạn nghe lời nói này, hết sức vui mừng, liền ra lệnh quần thần mời Nhẫn Thiên (sằn-đề Đề-bà).

Khi Nhẫn Thiên đến, nhà vua ra lệnh:

-Khanh có thể dạy tất cả võ thuật sử dụng các binh khí cho Thái tử Tất-đạt-đa chăng?

Nhẫn Thiên đáp:

-Kẻ hạ thần này có thể đảm trách.

Đại vương lại nói:

-Nếu khanh chấp nhận, phải dạy con ta đạt được kết quả hết sức tốt đẹp.

Lúc ấy, vua Tịnh Phạn vì Thái tử cho lập một hoa lâm viên tên là Cần cù, để cho Thái tử du ngoạn vui chơi, hoặc luyện tập võ nghệ. Cùng lúc ấy, có năm trăm quần thần hoàng gia cũng vì con mình đều lập hoa viên để cho các đồng tử dạo chơi, hay tập võ nghệ trong hoa viên cửa mình.

Bấy giờ võ sư Nhẫn Thiên đem Thái tử và năm trăm đồng tử vào hoa viên cần cù để dạy cách thức sử dụng các binh khí. Khi võ sư sằn-đề Đề-bà đem các thứ binh khí để chuẩn bị dạy cho Thái tử, Thái tử thấy rồi đều không sử dụng, nói với Nhẫn Thiên:

-Võ sư hãy dạy các thứ binh khí này cho năm trăm đồng tử, còn ta biết rồi chẳng cần tập học.

Nhẫn Thiên liền vì năm trăm đồng tử dạy cách sử dụng các binh khí ấy. Các đồng tử học chẳng bao lâu, mỗi người đều được thành tựu hai mươi chín kỹ năng một cách thông thạo.

Hai mươi chín kỹ năng đó là: Nhảy vọt lên xe, ngựa và voi trắng, cho đến chỉ thế lực trương cung sắt… năm trăm đồng tử đối với các pháp này đều thành tựu một cách hết sức lão luyện, trí tuệ sáng suốt, sử dụng lanh lẹ.

Nhẫn Thiên lại dạy các kỹ thuật mà một vị vua cần phải có, hết sức siêu việt, như các sách kế toán, hiểu biết sử dụng toán số, điêu khắc ấn loát, phân biệt rõ các âm: “Cung, thương, luật, lữ”, ca múa vui chơi, cách nói năng hoạt bát, hoặc chế tạo các vòng cong bằng ngọc quý kỳ lạ, nhuộm các màu sắc y phục, hội họa tranh ảnh, hay các việc hòa hợp hương liệu, hoặc hoa tay viết chữ chân chữ thảo, hoặc sáng tác văn chương, hoặc có thể nhào lộn trên lưng bạch tượng, hoặc xoay tròn trên yên ngựa, yên lạc đà, hoặc có thể uốn quanh nơi đầu, cổ, đuôi, chân ngựa voi và lạc đà một cách tài tình. Tất cả những kỹ thuật như vậy, năm trăm đồng tử đều được điêu luyện. Hoặc ở trên xe cũng có tài sử dụng các binh khí như múa đao, phóng lao, trương cung bắn tên sử dụng đều được toại ý, hai khuỷu tay vung múa một cách uyển chuyển, sức đánh thích hợp với búa đao, khi tấn khi thoái, nắm lấy ông chân, chụp lấy cánh tay, có tài ném đá, có tài chạy nhanh, cho đến các môn võ thuật tay có khí cụ, và nghe tiếng bắn tên, liền trương cung sắt, bắn lại như mưa, Thái tử đôi với tất cả các thứ này đều cho qua không học, lại nói:

-Ta đã am tường các loại ấy, võ sư chẳng cần phải dạy.

Nhẫn Thiên muốn dạy các pháp yếu của một vị vua, như là: Xem thiên văn, pháp cúng tế, xem tướng tốt xấu, suy tìm những việc đã qua, khéo quở trách lời nói sai lầm, biết rõ tiếng các loài cầm thú, thông đạt thinh luận, tạo tác các nghề, giải đáp nguyên nhân các nghề, các môn chú thuật. Ngoài ra còn mười thứ danh tự, các pháp chánh trị của bậc tiền bối… Tất cả các kinh điển, Nhẫn Thiên đều đem dạy cho Thái tử cùng cắc đồng tử hoàng gia. Đối với những kẻ khác, học các kinh luận này phải trải qua nhiều năm tháng, mà có người thành công, có người không thành công. Các kinh luận và kỵ thuật ấy, đối với Thái tử chỉ học trong bốn năm là thành công một cách dễ dàng. Ngoài ra các đồng tử hoàng gia cũng thông đạt một cách tự tại.

Lúc ấy Nhẫn Thiên liền làm kệ ca ngợi Thái tử:

Thái tử còn tuổi thơ,

Học tập rất dễ dàng,

Chẳng dừng nhiều trí lực,

Chốc lát tự thông đạt.

Thời gian học tập ít,

Hơn kề học nhiều năm.

Kỹ năng ngài học qua,

Tài giỏi hơn mọi người.

***

Phẩm 12: DU NGOẠN

Thuở Thái tử còn tuổi thơ ấu sống trong cung vua, chỉ biết dạo chơi vui đùa, không quan tâm về việc học tập. Đến năm lên tám tuổi mới bắt đầu rời cửa cung đến trường học tập, trải qua bốn năm học tập văn chương, kinh luận và tất cả võ thuật cũng như cách sử dụng binh khí nơi hai Đại sư văn võ: Tỳ-xa-bà Mật-đa-la và Nhẫn Thiên. Đến năm Thái tử mười hai tuổi, đối với tất cả môn văn võ, ngài đều uyên thâm quảng bác, thông thạo một cách điêu luyện; rồi từ đó mặc tình đuổi theo thú vui thinh sắc thế tục.

Một hôm nọ, Thái tử dạo chơi, vui thú trong nghệ thuật bắn tên nơi lâm viên cần cù, còn năm trăm đồng tử hoàng gia cũng đang du hý trong vườn của họ. Bỗng nhiên có một bầy nhạn bay qua trên không, lúc ấy đồng tử Đề-bà-đạt-đa trương cung bắn nhằm một chim nhạn, chim nhạn mang luôn mũi tên sa vào vườn cần cù. Thái tử thấy chim nhạn bị thương còn dính mũi tên rơi nằm trên mặt đất, ngài dùng đôi bàn tay nhẹ nhàng nâng lấy chim nhạn, rồi ngồi xếp bằng, để chim trên bắp vế, dùng bàn tay có vằn chữ vạn hình tròn, trơn láng mềm mại mịn màng chứa đầy phước đức vi diệu, dịu dàng như tàu lá chuối non, tay trái giữ lấy chim nhạn, tay phải từ từ nhổ mũi tên, rồi dùng tô mật băng lấy vết thương.

Lúc ấy, đồng tử Đề-bà-đạt-đa cho người đến thưa Thái tử:

-Bẩm Thái tử, đồng tử Đề-bà-đạt-đa của chúng tôi vừa bắn trúng một con chim nhạn sa vào vườn của ngài, xin ngài vui lòng trao chim nhạn cho Đề-bà-đạt-đa, không được giữ lấy.

Thái tử bảo người hầu cận của Đề-bà-đạt-đa:

-Như chim nhạn chết thì ta trao lại cho chủ ngươi, nếu chim còn sống thì điều đó hoàn toàn không được.

Đề-bà-đạt-đa lại cho người qua đòi một lần nữa, thưa:

-Dù chim nhạn sống hoặc chết, nhất quyết phải trả lại cho ta, do vì tay ta có tài bắn trúng chim trước, rồi sau đó chim mới rơi nhằm vào vườn Thái tử, tại sao người ngang nhiên giữ lại?

Thái tử bảo:

-Sở dĩ ta giữ lấy chim nhạn như vậy, là do ta trước đã phát tâm Bồ-đề, tất cả chúng sinh thảy đều được ta tiếp độ, huống nữa là con chim nhạn này mà không thuộc về của ta hay sao!

Vì lý do này mà hai người đi đến tranh chấp, nhà vua liền cho triệu tập các vị trưởng lão kỳ đức trí thức trong hoàng tộc để xử đoán. Lúc ấy có một chư Thiên cõi trời Tịnh cư biến dạng làm vị trưởng giả kỳ túc lẫn vào trong hội đưa ra ý kiến:

-Người nào nuôi dưỡng chim nhạn thì người đó tiếp nhận chim nhạn, còn kẻ nào bắn chim nhạn thì người đó dĩ nhiên xa cách chim nhạn.

Tất cả các vị trưởng lão kỳ đức trong hội đều tán thành, đồng thanh hô lên:

-Đúng như vậy, đúng như vậy, y như lời nhân giả vừa nói.

Đây là nguyên nhân đầu tiên đưa đến mối oán thù giữa Thái tử và Đề-bà-đạt-đa.

Lại một hôm nọ, Đại vương Tịnh Phạn và Thái tử cùng các đồng tử hoàng gia đi du ngoạn vùng thôn dã ở ngoại ô để xem mức sinh hoạt của dân chúng. Lúc ấy trong cánh đồng có một nông dân thân thể sạm nắng, hết sức cực nhọc chăm lo từng luống cày, với đôi trâu trên vai mang chiếc ách đi trước, được buộc bởi dây dàm choàng qua dưới cổ, mỗi khi trâu chậm bước thì chiếc roi trên tay bác nông phu quất mạnh vào thân, dưới ánh nắng mặt trời ngày càng trưa, nóng như thiêu như đốt, miệng trâu thở hổn hển, mồ hôi tuôn chảy, người và vật đều bị bức xúc bởi cơn đói khát, lại thêm thân thể ốm gầy, da bọc lấy xương, và dưới những luông cày vừa mới lật lên đều có những loài trùng dế… xuất hiện, người vừa cày qua khỏi thì bầy chim đáp xuống tranh lấy miếng mồi. Thái tử thấy trâu cày quá ư mệt mỏi lại thêm roi vọt đánh đập, chiếc ách đè nặng nghiến trên vai, và sợi dây dàm choàng qua cổ cọ xát làm cho lở da nát thịt, máu chảy ròng ròng. Lại thấy bác nông phu cày ruộng trần mình thân đầy đất bụi, lại thêm ánh nắng mặt trời thiêu đốt nên làn da đen sạm, cộng với cảnh mạnh được yếu thua của loài chim quạ bay đến giành ăn từng miếng mồi. Thái tử thấy vậy tâm rất ưu sầu, giống như có người thấy thân quyến của mình bị kẻ khác bắt trói dẫn đi, sinh tâm rất âu sầu khổ sở. Thái tử thương tất cả chúng sinh cũng lại như vậy.

Thái tử sinh lòng đại Từ bi, liền từ trên lưng ngựa chúa Kiền-trắc nhảy xuống, ung dung tản bộ nhưng trong tâm thầm nghĩ: “Tại sao chúng sinh lại có những việc như vậy?” Rồi lại than.

-Ôi thôi! Ôi thôi! Tất cả chúng sinh chịu rất nhiều sự đau khổ, các khổ đó nào là sinh, lão, bệnh, tử và biết bao nhiêu sự khổ não khác, mà chúng sinh xoay vần trong đó không chịu thoát ly. Tại sao không mong cầu xả bỏ các khổ? Tại sao không nhàm chán các khổ để mong cầu trí tuệ tịch tĩnh? Tại sao không nghĩ đến việc thoát khỏi các nguyên nhân sinh, lão, bệnh, tử? Ta nay làm sao tìm được chỗ vắng vẻ để tư duy những điều khổ não!

Đại vương Tịnh Phạn và các đồng tử sau khi tham quan sự sinh hoạt nơi đồng nội, rồi cùng nhau trở về nghỉ mát trong một hoa lâm viên. Trong lúc ấy Thái tử một mình tản bộ đó đây, mắt luôn luôn quán sát tìm một nơi yên tĩnh, chợt trông thấy xa xa có bóng cây Diêm-phù, thân cây trơn láng, cành lá sum suê tươi tốt thu hút mọi người. Thái tử, liền bảo các người hầu cận:

-Tất cả các người đều đi nơi khác cách xa ta, ta chỉ muốn đi một mình. Khi đám người hầu cận đi khuất, Thái tử lần lần hướng về đại thọ, đến nơi ngài lấy cỏ làm tòa, rồi ngồi trên đó lắng tâm tư duy: “Chúng sinh bị khổ sinh già bệnh chết, rồi phát tâm từ bi, tâm được an định, lúc đó liền xả bỏ các dục vọng và tất cả các pháp bất thiện trong thế gian, liền dứt lậu nghiệp dục giới, chứng được Sơ thiền. Thân ta cũng có các pháp như vậy, nếu chưa vượt qua các pháp này, thì chưa thoát khỏi vòng luân hồi.”

Đang khi Thái tử ở dưới gốc cây tư duy như vậy, có năm vị Thần tiên phi hành trên hư không một cách tự tại, các vị này có đại oai đức, có thế lực lớn, thông hiểu các luận Tỳ-đà, biết rành các phép thuật. Họ đang đằng vân từ phương Nam đến phương Bắc định vượt qua khu rừng này, nhưng khi gần đến trên tàng cây Diêm-phù thì không thể vượt qua được. Các Thần tiên cùng nhau thảo luận:

-Chúng ta thuở trước xuất hiện các phép thần thông, bay qua một cách tự tại, cho đến bay tới cung Tỳ-sa-môn của Đại Thiên vương, hoặc thành A-la-ca-bàn-đa cũng có thể bay qua được, ta cũng từng bay qua trên các nơi có nhiều ác thần Dạ-xoa, mà chính trên cây này chúng ta cũng đã từng bay qua lại vô số lần không mất thần thông, không có gì chướng ngại, mà ngày nay do sức oai lực gì khiến chúng ta thoái mất thần thông không thể bay qua được?

Các Tiên nhân này liền quán sát cây Diêm-phù, thấy Thái tử ngồi dưới tàng cây, oai quang sáng rực chói lọi, khó có thể thấy một cách rõ ràng. Thấy như vậy rồi, họ suy nghĩ: “Người ngồi là ai? Phải chăng là vua trời Đại phạm chủ cõi nhân gian? Hay là trời Ngật-sa-na chủ thế giới cõi Dục? Hay trời Đế Thích? Hay Tỳ-sa-môn chủ kho tàng lớn? Hay Nguyệt Thiên tử, Nhật Thiên tử? Hay vị ấy là Chuyển luân thánh vương? Hoặc là Phật xuất thế? Mà có oai đức quá lớn như vậy!” Bấy giờ vị thần trông coi khu rừng nói với các Tiên nhân:

-Này các Tiên nhân, người này chẳng phải là Đại phạm chủ cõi thế gian, cũng chẳng phải Ngật-sa-na chủ cõi Dục, cũng chẳng phải Đế Thích và Tỳ-sa-môn chủ kho tàng, cũng chẳng phải Thiên tử chưởng quản mặt trời mặt trăng. Vị Đồng tử này là Thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn thuộc dòng họ Thích. Này các Tiên nhân phải biết, bao nhiêu oai đức của tất cả vua trời Đại phạm, chúa trời Ngật-sa-na, Đế Thích, vua Tỳ-sa-môn chủ kho tàng, Nguyệt Thiên tử, Nhật Thiên tử và Chuyển luân thánh vương… so với oai đức một mảy lông của Thái tử Tất-đạt-đa, không bằng một phần mười sáu. Do thần thông của các ông có hạn, các ông muốn bay qua trên rừng cây này hoàn toàn không thể được.

Các Tiên nhân nghe vị thần hộ lâm nói như vậy liền từ hư không hạ xuống, đứng trước mặt Thái tử nói kệ tán thán:

Tiên nhân thứ nhất nói kệ:

Lửa phiền não thiêu đốt thế gian,

Ngài sinh ra ao nước pháp mầu,

Khi chứng đắc pháp mầu vi diệu,

Lửa phiền não hoàn toàn tiêu diệt.

Tiên nhân thứ hai nói kệ:

Hắc ám vô minh lấp thế gian,

Ngài làm đuốc tuệ tỏa hào quang,

Nhiệm mầu pháp tuệ là như vậy,

Soi sáng kẻ mù khắp trần gian.

Tiên nhân thứ ba nói kệ:

Đồng nội ưu sầu trong đầm rộng,

Ngài làm thuyền lớn khéo vượt qua,

Pháp thuyền mầu nhiệm là như vậy,

Thoát ra ba cõi cứu chúng sinh.

Tiên nhân thứ tư nói kệ:

Đây phiền não ràng buộc thế gian,

Phương tiện Ngài khiến cho giải thoát,

Do pháp nhiệm mầu là như vậy,

Cởi mở mọi ràng buộc thế gian.

Tiên nhân thứ năm nói kệ:

Bao nhiêu trọng bịnh ở thế gian,

Ngài đại lương y đều chữa khỏi,

Pháp được nhiệm mầu là như vậy,

Chữa lành tất cả bệnh trầm kha.

Năm vị Tiên nhân đều nói kệ ca ngợi Thái tử, kế đến đầu mặt đảnh lễ sát đất, nhiễu quanh bên hữu ba vòng rồi cùng nhau đằng vân mà đi.

Khi ấy, Đại vương Tịnh Phạn không thấy Thái tử ở đâu, trong tâm buồn rầu lo ngại chẳng yên, liền hỏi quan cận thần:

-Bỗng nhiên Thái tử con ta vắng bóng, không biết hiện giờ ở đâu? (Câu này bản tiếng Phạm lặp lại hai lần).

Bấy giờ quần thần bôn ba chạy tìm Thái tử, đi khắp Đông, Tây, Nam, Bắc mà chẳng thấy Thái tử ở đâu cả. Sau đó có một đại thần xa xa trông thấy Thái tử thiền tọa tư duy dưới tàng cây Diêm-phù, lại thấy bóng mát của tất cả tàng cây trong rừng đều di chuyển theo ánh nắng mặt trời, chỉ riêng tàng cây của Thái tử đang ngồi là bóng mát không di chuyển. Đại thần thấy Thái tử có việc quá ư đặc biệt không thể nghĩ bàn như vậy, nỗi vui mừng tràn ngập châu thân không thể tự chế, vội vã chạy nhanh về chỗ Đại vương, quỳ gối trình bày đầy đủ những việc mình đã mục kích. Rồi nói kệ:

Thái tử Đại vương hiện nay đang,

Đoan thân ngồi dưới cội Diêm-phù,

Nhập chánh định kiết già quán tưởng,

Tỏa hào quang sáng tợ mặt trời,

Đây chân thật bậc Đại Trượng phu.

Bóng tàng cây đứng yên không chuyển,

Nguyện Đại vương giá lâm quan sát,

Thái tử ngồi tướng mạo thế nào,

Giống Đại phạm, Thiên vương không khác,

Cùng Đê Thích, vua trời Đao-lợi,

Sức oai thần sáng tỏ chói lòa,

Chiếu cùng khắp rừng cây rực rỡ.

Đại vương Tịnh Phạn vừa nghe, liền đi thẳng đến cây Diêm-phù, xa xa trông thấy Thái tử ngồi kiết già dưới tàng cây, ví như trong đêm tối thấy khối lửa khổng lồ đỏ rực trên đỉnh núi, ánh sáng chói lọi chiếu sáng khắp mọi nơi; do công đức vĩ đại mới phát sinh ánh sáng chói lọi như vậy, ví như giữa bầu trời mây đen nghịt, bỗng xuất hiện ánh trăng vằng vặc của đêm thu, cũng như căn nhà đen tối bỗng xuất hiện ngọn đèn sáng lớn. Khi nhà vua thấy việc quá ư đặc biệt, trong tâm lấy làm kinh ngạc, toàn thân rúng động dựng chân lông, rồi Đại vương chí thành đảnh lễ đầu mặt sát đất dưới chân Thái tử, vui mừng hớn hở thốt lời thế này:

-Hay lắm! Hay lắm! Thái tử ta có oai đức lớn và nói kệ tán thán:

Như đêm tối lửa hồng đỉnh núi,

Tợ trăng thu vằng vặc bên mây,

Thấy Thái tử tư duy an tọa,

Toàn thân ta dựng ngược tóc lông.

Đại vương Tịnh Phạn nói kệ tán thán rồi, lại đảnh lễ dưới chân Thái tử và tiếp tục nói kệ:

Ta nay lại cúi thân đảnh lễ,

Dưới chân thiên bức rất nhiệm mầu.

Ta từ lúc sơ sinh mới gặp,

Thái tử bỗng ngồi lặng tư duy.

Lúc ấy có một tốp thiếu nhi vác dụng cụ đi săn theo sau Đại vương, chúng cười nói ồn ào. Có một đại thần quở trách bọn thiếu nhi:

-Này các cháu, các cháu không được nói chuyện ồn ào.

Đám thiếu nhi lại hỏi:

-Tại sao ông không cho chúng tôi tự do nói chuyện?

Vị đại thần trả lời qua bài kệ:

Ánh mặt trời chói chang gay gắt,

Không tài nào di chuyển bóng cây,

Ánh hào quang một tầm vi diệu,

Ai sánh kịp bậc phước đức này,

Dưới tàng cây tư duy an tọa,

Như Tu-di sừng sững an nhiên,

Nhập sâu vào nội tâm cảnh gỉới,

Vì thích bóng cây không xả bỏ.

***

Phẩm 13: TRANH TÀI KẾT HÔN

Trải qua năm tháng Thái tử đã trưởng thành, tuổi vừa mười chín, nhà vua vì Thái tử cho xây dựng cung điện thích hợp thời tiết ba mùa: Thứ nhất là cung điện ấm áp để Thái tử sử dụng khi trời giá lạnh của tiết mùa đông, thứ hai là cung điện mát mẻ để Thái tử sử dụng vào mùa hạ nóng bức, và cung điện thứ ba để Thái tử nghỉ ngơi trong hai mùa xuân, thu. Cung điện nghỉ tránh mùa đông giá thì xây cất theo xứ ấm, cung điện nghỉ mát tránh mùa hạ thì xây cất theo xứ mát mẻ, còn cung điện nghỉ trong hai mùa xuân, thu thì xây cất theo xứ khí hậu ôn hòa thích hợp, không lạnh không nóng.

Lại sau mỗi cung điện đều có một hoa viên, có khe ngòi đắp đập ngăn nước dẫn vào các ao hồ, và trong mỗi ao hồ đều thả các loại hoa quý như: hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và hoa sen trắng lớn. Lại có vô số người hầu hạ phục dịch cùng mua vui cho Thái tử, quan chức các ty đều phái người đến phục vụ, người thì đấm bóp, người thì xoa dầu, có người kỳ rửa khi Thái tử tắm, khi Thái tử tắm gội có người dâng nước nóng hương thơm, có người lo việc nhuộm tóc, chải đầu và búi tóc cho Thái tử, có người phụ trách việc xông hương y phục, có nhiều người đứng cầm ngưu hoàng, tràng hoa và y phục nhiều màu sặc sỡ, toàn bằng loại Ca-thi-ca, luôn luôn đứng khom lưng cúi đầu hầu cận bên Thái tử, khi nào Thái tử cần thì liền đến dâng. Phụ vương Thái tử là Thâu-đầu-đàn, nếu mặc áo trong bằng Ca-thi-ca thì áo ngoài bằng chất khấc, còn y phục của Thái tử thì trong ngoài đều là Ca-thi-ca.

Các đồng nam, đồng nữ hầu hạ hai bên Thái tử, cùng người phục dịch, họ đều dùng thứ cơm thơm ngon, các thứ nước thịt, hoặc tái giấm hoặc nấu canh, họ đều chọn lựa các thức ăn đặc biệt: Cơm canh thơm ngon, sơn hào hải vị, trăm thứ trân tu cùng các thứ bánh trái thượng hạng… dâng lên Thái tử. Vô số những thức ăn như vậy, luôn luôn thay đổi hằng ngày. Ngày đêm đều cung cấp toàn là thức ăn mới lạ vừa làm.

Ngày đêm đều dùng lọng trắng che trên mình Thái tử vì khi dạo chơi ban đêm thì sợ sương gió mưa phùn, còn ban ngày thì sợ bụi bặm và nắng chiếu vào thân Thái tử.

Đại vương Tịnh Phạn thấy Thái tử đã đến tuổi trưởng thành, trong tâm lại lo nghĩ đến lời tiên đoán của Tiên nhân A-tư-đà, nên tập hợp các đại thần kỳ cựu, nói:

-Này các vị thân tộc, có lẽ các ngài đã từng biết khi Thái tử ta sơ sinh, lúc ấy ta mời các tướng sư Bà-la-môn và Tiên nhân A-tư-đà, họ đều dự đoán: Nếu Thái tử tạo gia thì làm Chuyển luân thánh vương, còn nếu xuất gia thì thành đạo Vô thượng. Mà ngày nay tuy chúng ta đã tạo các điều kiện để cho Thái tử khỏi xuất gia, mà ta vẫn còn lo sợ!

Các vị thân tộc thưa cùng Đại vương:

-Tâu Đại vương, ta nay mau lập gia đình cho Thái tử, để Thái tử vui chơi với thể nữ, thì chắc chắn người sẽ không xả tục xuất gia.

Liền nói kệ:

A-tư-đà dự đoán

Quyết định không có sai.

Hoàng tộc khuyên cưới vợ

Hy vọng khỏi xuất gia.

Rồi lại nghĩ: “Phương pháp này có thể làm cho dòng họ Thích ta hưng thịnh, khiến cho các nước chư hầu sinh tâm kính nể, không dám xem thường”.

Đại vương lại hỏi các vị quý tộc trong hoàng gia:

-Các ngài quán sát xem thử có nàng con gái nào trong dòng họ Thích, có thể sánh đôi với Thái tử Tất-đạt-đa ta chăng?

Năm trăm vị kỳ đức trong dòng họ Thích đều nói:

-Con gái tôi có thể sánh đôi với Thái tử. (Câu này bản tiếng Phạm lặp lại hai lần, nay bản nhà Tùy dịch giảm bớt).

Đại vương Tịnh Phạn suy nghĩ: “Nếu ngày nay ta không cùng Thái tử trao đổi việc trăm năm, bỗng nhiên đơn phương rước dâu về, nếu Thái tử không bằng lòng người con gái ấy thì có thể đưa đến việc ly hôn; còn nếu bàn thẳng với Thái tử thì sợ Thái tử tánh e dè không chịu nói. Ta nay do dự không biết tính lẽ nào đây!” Ngài lại suy nghĩ tiếp: “Ta có thể đem nhiều ngọc quý làm món quà vô ưu đưa cho Thái tử, rồi bảo Thái tử tặng cho các nữ nhân, trong khi ấy ta cho người bí mật theo dõi Thái tử, xem thử cặp mắt Thái tử sẽ chú ý đến nàng con gái nào, rồi sau đó ta mới cưới nàng ấy vì làm vợ Thái tử.”

Sau khi suy nghĩ như vậy, Đại vương tiến hành theo kế hoạch, cho người làm các món đồ vô ưu bằng những thứ ngọc quý. Đó là những thứ nữ trang bằng vàng, bạc… Khi làm xong, nhà vua đích thân đứng nơi cửa thành Ca-tỳ-la, tay rung chuông, miệng ban sắc lệnh: “Bảy ngày sau kể từ hôm nay, Thái tử ta muốn gặp mặt tất cả nữ nhân trong dòng họ Thích; sau đó Thái tử sẽ trao tặng cho các người món quà vô ưu bằng các ngọc quý giá đẹp đẽ. Vậy tất cả mỹ nhân nội thành hãy tập trung về trước cửa cung điện.”

Mãn ngày thứ sáu, bước sang sáng ngày thứ bảy, Thái tử ra trước cửa cung ngồi nơi dịch đình. Khi ấy tất cả nữ nhân trong thành đều dùng chuỗi anh lạc trang sức hết sức lộng lẫy, cùng nhau tề tựu trước cửa cung, trong tâm họ trước là muốn chiêm ngưỡng dung nhan Thái tử, sau là nhận tặng vật vô ưu bằng ngọc quý giá.

Tất cả mỹ nhân khắp bốn phương nội thành tuần tự đi ngang qua trước mặt Thái tử, do oai đức của ngài, tất cả mỹ nhân không một ai dám nhìn chính diện, chỉ cúi đầu nhận tặng vật rồi chân vội bước nhanh.

Khi Thái tử đã trao hết tặng vật, lại còn một mỹ nữ đến sau cùng tên là Da-du-đà-la, con gái của vị đại thần dòng họ Thích tên Ma-ha Na-ma thuộc họ Bà-tư-tra, nàng được nhiều tỳ nữ hầu hạ trước sau, hộ vệ chung quanh từ từ tiến đến. Từ xa, nàng nhìn Thái tử với cặp mắt trong sáng, đẹp đẽ hiền hòa nhưng đầy mãnh lực nên đôi mắt nàng không nháy, nhìn thẳng vào mặt Thái tử không một chút e ngại thẹn thùng, như người bạn cũ đã từng quen biết từ lâu. Khi đã đến gần, nàng thưa Thái tử:

-Hôm nay Thái tử tặng cho tôi vật gì?

Thái tử đáp:

-Nàng đến quá muộn nên các tặng vật đã hết sạch.

Nàng ta lại thưa:

-Thưa Thái tử, tôi có tội lỗi gì mà ngài khi dễ không tặng bảo vật cho tôi?

Thái tử đáp:

-Ta không có tâm khi dễ một ai, do vì nàng đến trễ, không đúng lúc ta tặng báo vật mà thôi! Khi ấy Thái tử cởi chiếc nhẫn đang đeo trên ngón tay, giá trị gấp trăm ngàn vạn lần so với các tặng vật khác, trao cho Da-du-đà-la.

Da-du-đà-la lại thưa với Thái tử:

-Tôi đến với Thái tử để chỉ nhận có bấy nhiêu vậy sao?

Thái tử nói:

-Đối với tất cả chuỗi anh lạc đang đeo trên thân ta, tùy ý nàng muốn lấy thứ gì thì lấy.

Nàng lại tâu:

-Tôi nay đâu lại cởi lấy đồ trang sức của Thái tử, mà chỉ có thể trang sức cho người thì có.

Nói những lời như vậy rồi nàng liền lui về, tâm không được vui.

Đoạn nói về nguyên nhân Da-du-đà-la không vui. Vào một hôm nọ sau khi Đức Thế Tôn thành đạo, Tôn giả Ưu-đà-di bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn, vì cớ gì ngày xưa ngài ở trước cửa cung điện đem tất cả chuỗi anh lạc quý giá trên thân tặng cho Da-du-đà-la, mà không làm cho tâm nàng sinh hoan hỷ?

Phật bảo ưu-đà-di:

-Này ưu-đà-di, ông phải chú ý lắng nghe, Ta sẽ nói lý do đó:

Da-du-đà-la không chỉ một đời này được Ta cho nhiều chuỗi anh lạc mà nàng chẳng vui, nhưng đã trải qua nhiều đời như vậy. Do vì trong quá khứ Ta đã gây một nhân duyên nhỏ làm cho nàng sân hận, tuy Ta đã đem rất nhiều châu báu tặng cho nàng mà nàng vẫn không hoan hỷ.

Ưu-đà-di hỏi:

-Bạch Thế Tôn, sao lạ như vậy? Việc này như thế nào? Xin Ngài kể cho con nghe.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Ưu-đà-di:

-Ta nhớ thời quá khứ cách đây vô lượng kiếp tại thành Ba-la-nại thuộc nước Ca-thi. Vị vua thuở ấy đem tà kiến điên đảo cai trị dân chúng. Nhà vua hạ sinh một Thái tử, Thái tử lỡ phạm một ít lỗi lầm, nhà vua quá khắt khe đuổi Thái tử ra khỏi biên cương. Thái tử cùng vợ lang bạt đó đây, lần lần đến một đền thờ Thiên thần, lấy nơi đây làm chỗ ẩn náu. Một hôm, tất cả lương thực Thái tử mang theo đều hết sạch, nên Thái tử phải đi săn bắn, mà thậm chí bắt các loài rắn rít… để độ nhật.

Một hôm, Thái tử đi săn, gặp một con kỳ đà, người rượt theo giết được, liền lột bỏ lớp da, lấy thịt cho vào trong nồi nước bắc lửa nấu, thịt kỳ đà sắp chín, mà nước trong nồi lại gần khô cạn, lúc ấy Thái tử bảo vợ:

-Thịt chưa chín lắm mà nước lại cạn khô, nàng nên đi múc nước thêm.

Sau khi người vợ đi múc nước, Thái tử ở nhà vì cơn đói cào ruột, không thể chờ vợ về được, nên đã ngon miệng ăn hết thịt kỳ đà không thừa còn một miếng.

Khi người vợ múc nước trở về, hỏi chồng:

-Thịt trong nồi biến đâu cả?

Thái tử đáp:

-Kỳ đà bỗng nhiên sống lại, hiện giờ nó chạy đi mất.

Người vợ không tin, trong tâm thầm nghĩ: “Cớ gì bỗng nhiên như vậy? Kỳ đà đã bị nấu chín làm sao chạy được?” Nàng không tin, ý cho rằng người chồng quá đói nên ăn hết thịt, trở lại gạt mình là kỳ đà sống lại chạy mất. Rồi từ đó nàng ôm lòng oán giận chẳng vui.

Sau đó vài năm phụ vương băng hà, các đại thần rước thái tử về triều làm lễ quán đảnh tấn phong lên ngôi cửu ngũ. Sau khi thái tử lên làm vua, có bao nhiêu tài vật vô giá, ngọc ngà y phục quý giá đều trao cho chánh phi. Chánh phi nhận lễ mà sắc mặt vẫn không tươi vui như trước.

Nhà vua mới hỏi:

-Trẫm đã đem vô lượng bảo vật tặng cho ái phi, vì cớ gì mà sắc mặt ái phi không hoan hỷ tươi vui? vẫn như cũ không thay đổi?

Lúc ấy phu nhân trả lời qua bài kệ:

Đại vương tôi thắng nghe

Thuở xưa đi săn bắn,

Thiếp theo cầm tên đao,

Vua bắn kỳ đà chết,

Lột da nấu sắp chín,

Sai thiếp múc nước thêm,

Ăn thịt không để dành,

Dối thiếp nói nó chạy.

Phật bảo Ưu-đà-di:

-Ông phải biết, nhà vua lúc đó là ta ngày nay, vương hậu lúc ấy là Da-du-đà-la ngày nay. Thuở ấy ta xúc phạm đến nàng một việc nhỏ, rồi nhiều đời sau đó ta đem vô số của cải quý giá cho nàng để mong cầu hòa hợp mà nàng vẫn ôm lòng sầu hận chẳng vui, cho đến ngày hôm nay cũng vậy, ta đem nhiều lụa là vàng bạc ban cho nàng mà tâm nàng vẫn không hoan hỷ.

Nói về việc Đại vương Tịnh Phạn âm thầm cho người theo dõi Thái tử. Mật sứ chăm chú theo dõi đôi mắt Thái tử nhìn vào đối tượng nào. Khi Thái tử cùng nữ nhân nói chuyện với nhau thì mật sứ để ý nên biết một cách tường tận.

Mật sứ liền trở về tâu Đại vương:

-Bạch Đại vương phải biết, trong số nữ nhân này, có người con gái của Ma-ha Na-ma, đại thần của Đại vương, là người đến sau cùng. Thái tử cùng nàng ta nói chuyện trao đổi qua lại trải qua thời gian khá lâu, bốn mắt nhìn nhau, đôi môi mỉm cười, vẻ mặt cả hai tươi vui, kẻ đối người đắp trò chuyện trông có vẻ đắc ý.

Đại vương nghe lời diễn tả của mật sứ như vậy, trong tâm suy nghĩ: “Có phải Thái tử muốn cầu hôn với nàng ấy chăng?”

Rồi nhà vua chọn ngày lành tháng tốt cho mời quốc sư Bà-la-môn đến bảo:

-Khanh làm vị sứ đến nhà đại thần Ma-ha Na-ma của dòng họ Thích mà đọc thánh chỉ thế này: ‘Trẫm biết khanh có người con gái, nay có thể cùng với Thái tử của trẫm kết nghĩa trăm năm”.

Quốc sư nhận sắc lệnh của Đại vương rồi, liền đến nhà Ma-ha Na-ma, vị đại thần của dòng họ Thích, nói với đại thần:

-Xin đại thần Ma-ha Na-ma nghe Thánh chỉ… (như trên).

Đại thần trả lời Quốc sư:

-Theo phép tương truyền chọn nhân tài kén rể của dòng họ ta như thế này: “Nếu chàng trai nào thắng tất cả những người khác, ta sẽ gả con gái về làm vợ chàng trai ấy. Nếu chàng trai nào không tài năng thì ta không gả con gái”. Thái tử của Đại vương sinh trưởng trong thâm cung, ham đắm thú vui chưa từng học tập, không có nghề nghiệp tài năng, đối với các nghề như: Bắn cung, thiên văn, địa lý, trương cung, cử tạ… hết thảy đều trống không. Ngày nay vì cớ gì ta đem con gái gả cho kẻ bất tài không nghề nghiệp như vậy.

Quốc sư nghe nói như vậy, liền trở về hoàng cung đem bao nhiêu lời của đại thần Ma-ha Na-ma trình lên vua Tịnh Phạn một cách trung thực.

Nhà vua vừa nghe qua tâm sinh buồn rầu áo não, suy nghĩ thế này: “Lời nói của đại thần Ma-ha Na-ma đúng như lý, đối với ta nói lời thành thật không một chút dối trá khinh khi.” Tuy suy nghĩ như vậy, mà trong lòng âm thầm ôm lấy nỗi bực tức, buồn rầu đau khổ, ngồi bất động không còn biết cảnh vật chung quanh, giống trạng thái người đang thiền tọa tư duy.

Khi ấy Thái tử thấy gương mặt Phụ vương thất sắc, mang đầy vẻ buồn rầu áo não không vui, giống như người đang tịnh tọa tư duy không khác liền nhẹ nhàng bước đến khẽ hỏi Phụ vương:

-Tâu Phụ vương, hôm nay không biết lý do gì khiến phụ vương một mình ngồi sững, trông vẻ mặt kém vui như vậy?

Đại vương nghe Thái tử hỏi lời như vậy liền bảo:

-Con chẳng cần hỏi ta việc như vậy!

Thái tử lại hỏi lần thứ hai.

Nhà vua vẫn im lặng.

Thái tử hỏi như vậy đến ba lần, rồi ngài tha thiết tâu:

-Xin Đại vương nói cho con biết để tâm con khỏi nghi ngờ.

Khi ấy Đại vương Tịnh Phạn thấy Thái tử thiết tha hỏi ba lần như vậy, nên nhà vua đem mọi việc nói với Thái tử một cách chán nản.

Thái tử hiểu ý liền thưa Phụ vương:

-Xin Phụ vương cho con cùng tất cả nhân tài trong thành Ca-tỳ-la so tài đủ các bộ môn có được chăng?

Đại vương nghe vậy, trong tâm hết sức vui mừng niềm hớn hở tràn ngập châu thân không kềm chế được, liền gạn hỏi Thái tử:

-Hay thay Thái tử! Con thật muốn so tài phải không?

Thái tử đáp:

-Xin Đại vương nghe cho, con nay thật muốn như vậy. Xin Đại vương chỉ cần tập trung gấp tất cả các vương tử trong dòng họ Thích để cùng con thi đủ các bộ môn.

Đại vương Tịnh Phạn liền ban sắc lệnh, cho người xuống tận các ngã tư đầu đường nội thành Ca-tỳ-la, rung chuông cao giọng đọc sắc lệnh: Từ nay đến ngày thứ bảy, nơi dinh thự nhà vua, Thái tử Tất-đạt-đa muốn thi thố tài năng; nếu ai là người tài giỏi, tất cả hãy tập trung cùng nhau so tài thử xem”.

Sáu ngày trôi qua, đến rạng ngày thứ bảy, năm trăm đồng tử thuộc dòng họ Thích mà Thái tử là người dẫn đầu cùng nhau hội họp, rồi đoàn người kéo ra khỏi thành, tìm một khoảng đất rộng lấy làm nơi các đồng tử thi thố tài năng.

Bấy giờ đại thần Ma-ha Na-ma cho trang sức nàng Da-du-đà-la thật kiều diễm, là bậc tuyệt thế giai nhân, rồi đại thần cao giọng tuyên bố giữa thí trường: “Kẻ nào thông thạo các nghề, là bậc đứng nhất trong thiên hạ, sẽ cùng đứa con gái yêu dấu của ta kết làm phu phụ”.

Lúc ấy Đại vương cùng các vị kỳ cựu trưởng đức là đoàn người đi trước tiên, và sau đó có vô số bá quan văn võ, thứ dân, nam nữ lão ấu… tất cả đều tập trung nơi thí trường là một khoảng đất rộng mênh mông, họ cố ý quan sát sự thi tài của Thái tử với các đồng tử trong hoàng gia, xem thử ai là người tài năng bậc nhất.

Đầu tiên là cuộc thi văn chương. Các đồng tử hoàng gia học văn chương tỏ ra hào hứng, họ cùng với Thái tử thi nghề văn. Các vị trong dòng họ Thích cùng nhau thảo luận: Bây giờ ta nên mời đại sư Tỳ-xa Mật-đa làm vị chủ khảo, rồi ra lệnh cho chủ khảo: Đại sư nên quán sát cuộc thi văn chương của các đồng tử trong hoàng tộc, chấm vị nào đứng nhất trong các môn, hoặc xem ai viết chữ đường nét linh hoạt, ai viết nhanh, ai viết chữ đẹp và ai là người uyên thâm nhiều môn kinh điển.

Khi đó, đại sư Tỳ-xa Mật-đa biết trước Thái tử đối trong các kinh điển, là người giỏi nhất không ai hơn. Rồi đại sư vui vẻ tươi cười nói kệ:

Tất cả nhân gian và Thiên giới,

Càn-thát, Tu-la, Ca-lâu-la.

Bao nhiêu văn tự và kinh điển,

Thái tử xem qua đều am tường.

Tất cả đồng tử cho đến ta,

Chẳng biết kinh điển tên như vậy.

Mọi người đều rõ, ta xem thử,

Biết chắc các ông không sánh lại.

Bấy giờ đồ chúng họ Thích tập họp đồng đến trước vua Tịnh Phạn thưa:

-Bạch Đại vương, ngày nay chúng tôi biết Thái tử của Đại vương đối với môn văn chương kinh điển, là người giỏi vượt trên hết. Kính bạch Đại vương, bây giờ xin cho thi môn toán số, mới biết ai là người thông minh hơn hết.

Nhà vua nghe qua liền chấp nhận. Lúc bấy giờ, trong hội trường có một đại sư hết sức giỏi toán số tên là Át-thùy-na, đối với tất cả môn toán số trong thế gian, là người uyên thâm bậc nhất. Các vị trong dòng họ Thích cho mời đại sư Át-thùy-na đến và nói:

-Xin Tôn giả vui lòng làm vị chủ khảo trong môn thi toán số. Đại sư hãy quán sát thật tốt, xem trong số các đồng tử ai là người giỏi toán số bậc nhất.

Trước tiên Thái tử ra một bài toán, rồi bảo một đồng tử trong hoàng gia rành toán nhất giải bài toán này, khi ấy đồng tử không giải ra; lại hai đồng tử cùng giải cũng không ra, rồi ba đồng tử giải cũng không ra, cho đến mười đồng tử giải cũng không ra, rồi cho đến hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi… một trăm đồng tử đồng giải mà cũng không ra, cho đến hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm đồng tử cùng tính một lúc mà vẫn không làm ra. Khi ấy Thái tử nói thế này:

-Này các người, bây giờ ta sẽ giải bài toán này cho. Khi ấy có một đồng tử xướng lên:

-Bài toán của Thái tử đang làm không thể tính được.

Thái tử lại nói:

-Hai người các ông đồng giải làm cũng không ra.

Thái tử lại nói tiếp:

-Cho đến một trăm người các ông đồng một lúc tính cũng không ra, rồi ngài lại nói: Các ông dựa vào quy tắc nào mà cùng với ta tranh đề toán sai đúng như vậy?

Nhưng tất cả các đồng tử đồng một lúc đều tính, rồi nói rằng: ta sẽ làm được. Rồi tất cả năm trăm đồng tử đồng xướng nhất loạt:

-Thái tử đồng một lượt làm bài toán này với chúng tôi.

Thái tử lúc bấy giờ thong thả chậm rãi suy tính kỹ càng theo thứ lớp mà làm, đối bao nhiêu số như trong đề, từ số đầu tiên Thái tử đặt bút cho đến số cuối cùng Thái tử ngừng bút, không có một số nào sai lầm hay sửa chữa.

Tất cả đồng tử hoàng gia nỗ lực cùng làm mà không bằng một phần vạn của Thái tử Tất-đạt-đa.

Lúc ấy, Quốc đại toán sư trong tâm rất lấy làm kinh ngạc, hết sức vui mừng mà nói kệ:

Biết nhiều, lanh lợi thật đại tài

Nói, làm phân biệt không lẫn sai.

Thích tử năm trăm khoe toán giỏi,

Nỗ lực tranh tài không tranh lại.

Trí ngài thông minh tâm nghĩ đúng,

Tính toán lanh lẹ rất cao sâu.

Này các toán sư trong thiên hạ,

Phải biết môn toán rất mênh mông,

Im hơi lặng tiếng chớ đặt điều.

Không nên so tài cùng Thái tử,

Ngài đã uyên thâm thuật tính toán,

Tranh tài cao thấp chỉ có ta.

Bấy giờ, mọi người dòng họ Thích đều hoan hỷ, thấy việc chưa từng có, rời khỏi tòa chắp tay đảnh lễ Thái tử Tất-đạt-đa và đồng thanh ca ngợi:

-Thái tử Tất-đạt-đa thật sự đại thắng! Đại thắng!

Rồi lại bạch Đại vương Tịnh Phạn:

-Hay thay! Đại vương, ngài được lợi ích tốt đẹp rất lớn, ngài khéo ở trong nhân gian, đã sinh được Thái tử thông minh trí tuệ đầy phước đức như vậy! Có tài ăn nói lưu loát, giọng nói đầy truyền cảm khôn ngoan như vậy!

Đại vương vui mừng tươi cười nói với Thái tử:

-Hay thay! Thái tử, hôm nay người có thể cùng với đại toán sư Át-thùy-na là bậc trí tuệ tài giỏi toán số ở thế gian so tài chăng?

Thái tử đáp:

-Bạch Đại vương, con có thể cùng với Đại sư tranh tài.

Đại vương nói:

-Nếu được, thì tùy ý Thái tử.

Lúc ấy Đại kế toán Át-thùy-na hỏi Thái tử:

-Thưa Nhân giả, ngài có biết tính các số trên số ức chăng?

Thái tử đáp:

-Tôi biết rõ cách tính các số này.

Toán sư Át-thùy-na lại nói:

-Ngài biết như thế nào? Xin trình bày cho tôi nghe.

Thái tử đáp:

-Hễ bắt đầu vào việc tính số ức, xin các người để ý lắng nghe, ta nay sẽ nói:

Một trăm trăm ngàn bằng một Câu-trí (số nhà Tùy là ngàn vạn), một trăm Câu-trí bằng một A-do-đa (số nhà Tùy là mười ức), một trăm A-do-na bằng một na-do-tha (số nhà Tùy là một ngàn ức), một trăm Na-do-tha bằng một Ba-la-do-tha (số nhà Tùy là mười vạn ức), một trăm Ba-la-do-tha bằng một Đát-ca-la (số nhà Tùy là một ngàn vạn ức), một trăm Đát-ca-la bằng một Tần-bà-la (số nhà Tùy là mười triệu), một trăm Tần-bà-la bằng một A-sô-bà (số nhà Tùy là một ngàn triệu), một trăm A-sô-bà bằng một Tỳ-bà-sa (số nhà Tùy là mười vạn triệu), một trăm Tỳ-bà-sa bằng một uất-tằng-già (số nhà Tùy là một ngàn vạn triệu), một trăm uất-tằng-già bằng một Bà-ha-na (số nhà Tùy là mười kinh), một trăm Bà-ha-na bằng một Na-già-bà-la (số nhà Tùy là một ngàn kinh), một trăm Na-già-bà-la bằng một Đế-trí-bà-la (số nhà Tùy là mười vạn kinh), một trăm đế-trí-bà-la bằng một Tỳ-bà-sa Tha-na-ba-nhã-đế (số nhà Tùy là ngàn vạn kinh), một trăm Tỳ-bà-sa Tha-na-ba-nhã-đế bằng một Ê-đâu Hề-la (số nhà Tùy là mười kỳ), một trăm Ê-đẩu Hê-la bằng một Ca-la-bô-đa (số nhà Tùy là một ngàn cai), một trăm Ca-la-bô-đa bằng một Ê-đô-nhân Đà-la-đà (số nhà Tùy là vạn cai), một trăm Ê-đô-nhân Đà-la-đà bằng một Tam-mạn-đa-la-bà (số nhà Tùy là ngàn vạn cai), một trăm Tam-mạn-đa-la-bà bằng một Già-na-na Già-ni-đa (số nhà Tùy là mười bổ), một trăm Già-na-na Già-ni-đa bằng một Ni-ma-la-xà (số nhà Tùy là một ngàn bổ), một trăm Ni-ma-la-xà bằng một Mục-đà-bà-la (số nhà Tùy là mười vạn bổ), một trăm Mục-đà-bà-la bằng một A-già Mục-đà (số nhà Tùy là một ngàn vạn bổ), một trăm A-già Mục-đà bằng một Tát-bà Bà-la (số nhà Tùy là mười nhương), một trăm Tát-bà Bà-la bằng một Tỳ-tát-xà-ba-đế (số nhà Tùy là một ngàn nhương), một trăm Tỳ-tát-xà-ba-đế bằng một Tát-bà Tát-nhã (số nhà Tùy là mười vạn nhương), một trăm Tát-bà Tát-nhã bằng một Tỳ-phù-đăng-già- ma (số nhà Tùy là ngàn vạn nhương), một trăm Tỳ-phù-đăng-già-ma bằng một Bà-la Cực-xoa (số nhà Tùy là mười giản). Áp dụng vào các toán số như vậy, ngay cả núi Tu-di muốn tính biết bao nhiêu cân, lượng, thù, phân đều có thể tính được cả. Từ số này trở lên lại có pháp toán số tên là Đà-bà-xà Già-ni-dân-na, trên số này lại có phép toán số tên là Xa-bàn-ni, trên phép toán số này lại có phép toán số tên là Ba-la-na-đà. Trên phép toán số này tên là Y-tra, trên số này lại có phép toán số tên là Ca-lâu-sa Tra-ty-đa, lại trên số này có phép toán số tên là Tát-ba-ni-sai-ba, đến số này có thể tính số cát sông Hằng… Nó gồm thâu tất cả các số khác. Trên số này có toán số tên là A-già-sa-bà, con số này có thể tính số cát một sông Hằng, hoặc tính số cát trăm ngàn vạn ức sông Hằng, tất cả đều thuộc trong số này. Mà trên số này lại có phép toán số tên là Ba-la-ha-nậu Tỳ- bà-xa.

Đại sư toán kế Át-thùy-na nói với Thái tử:

-Những số như vậy tôi biết rồi, còn con số để tính số vi trần lại là số như thế nào? Nay Thái tử cũng cho tôi biết.

Thái tử đáp:

-Này tất cả thính giả chú ý lắng nghe, ta sẽ nói toán số đó: Hơn bảy Vi trần bằng một Song trần, hợp bảy Song trần bằng một Thố trần, gồm bảy Thố trần bằng một Dương trần, hợp bảy Dương trần bằng một Ngưu trần, hợp bảy Ngưu trần bằng một Cơ, hợp bảy Cơ thành một Sắc, hợp bảy Sắc thành một Giới tử, hợp bảy Giới tử thành một Đại mạch, hợp bảy Đại mạch thành một Chỉ tiết, hợp bảy Chỉ tiết thành một Bán xích, hợp hai Bán xích thành một Xích, hai Xích thành một Trựu, bốn Trựu thành một Cung, năm Cung thành một Trượng, hai mươi Trượng thành một ức, tám mươi ức thành một Câu-lô-xá, tám Câu-lô-xá thành một do-tuần. Ở trong số này có ai biết bao nhiêu vi trần thành một do-tuần (theo số nhà Tùy tính được ba trăm tám mươi bốn lý một trăm ba ngàn bộ).

Đại sư toán kế Át-thùy-na nói với Thái tử:

-Thưa Đại đức Nhân giả, tôi còn không biết những số như vậy, hiện nghe ngài nói tâm tôi còn mê muội, huống là kẻ ngu si kém trí ít học. Tuy vậy, xin Thái tử vì bọn chúng tôi nói có bao nhiêu vi trần thành một do-tuần.

Bấy giờ, Thái tử nói với nhà toán học lớn Át-thùy-na:

-Các ông hãy lắng nghe, số vi trần trong một do-tuần có nhiều ít không nhất định. Số vi trần lần lần chứa đầy trong một a-sô-bà, như vậy lại có một na-do-tha, lại nữa, hai mươi trăm ngàn ức na-do-tha, sáu mươi ngàn ức, ba mươi hai ức, năm trăm ngàn, một trăm ngàn. Những số vi trần như vậy tính tổng cộng gồm đủ một do-tuần. Như vậy, theo thứ lớp tuần tự mà tính, thì do-tuần có lớn nhỏ không nhất định.

Cõi Diêm-phù-đề này cao rộng ngang nhau bằng bảy ngàn do tuần; cõi Tây Cù-da-ni rộng tám ngàn do-tuần; cõi Đông Phất-bà-đề rộng chín ngàn do-tuần; cõi uất-đơn-việt rộng mười ngàn do-tuần. Đây là số do-tuần cõi Tam thiên đại thiên thế giới cao rộng như vậy. Căn cứ vào thứ lớp do-tuần lớn nhỏ khác nhau như vậy, ta có thể tính được hoặc bao nhiêu trăm do-tuần, hoặc bao nhiêu ngàn do-tuần, hoặc bao nhiêu trăm ngàn do-tuần. Lại tùy theo mỗi loại do-tuần có bao nhiêu số vi trần, tính tổng cộng có thể biết. Vì sao người ta không biết được số vi trần trong cõi Tam thiên đại thiên thế giới? Do vì con số này vượt lên trên tất cả con số thế gian, nên họ cho con số này không thể đếm được, không thể tính biết được.

Nhà toán học lớn Át-thùy-na và tất cả các vị tôn tộc của dòng họ Thích vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân không thể kềm chế được, họ cởi vô lượng vô biên chuỗi anh lạc và tất cả y phục, chỉ để lại trên thân một bộ, còn bao nhiêu đều đem hiến dâng cho Thái tử, đồng thời ca ngợi:

-Hay thay! Hay thay! Sự hiểu biết của Thái tử quá cao xa. Trong các phép toán số theo thứ lớp như vậy, Thái tử lại là bậc Tối thắng, nghĩa là đối với tất cả sách toán số, trí hiểu biết của ngài quả là uyên thâm không ai sánh kịp.

C ác vị trong dòng họ Thích nói tiếp:

-Chúng ta ngày nay đã biết Thái tử đối với tất cả sách toán số là người bậc nhất không ai sánh bằng, kế tiếp theo đây xin ngài thi môn võ nghệ bằng cách sử dụng các binh khí, để xem ai là người đứng nhất, ai là người trên hết.

Lúc ấy các vị tôn tộc trong hoàng gia suy cử một đại thần trong dòng họ tên là Sa-ha Đề-bà giữ chức vụ chủ khảo cuộc thi võ, và nói với đại thần chủ khảo.

-Đại đức tôn quý khéo dụng tâm xem trong số đồng tử, vị nào đứng đầu về môn võ thuật. Các môn thi gồm có: sử dụng vũ khí, nghe âm thanh, bắn xa, bắn trúng đích, và sức mạnh giương cung…

Bấy giờ, nơi thí trường đồng tử A-nan-đà để một chiếc trống sắt cách xa hai Câu-lô-xá làm mục tiêu để bắn. Đồng tử Đề-bà-đạt-đa để một chiếc trông sắt cách xa bốn Câu-lô-xá làm mục tiêu bắn. Cho đến đồng tử Nan-đà để một chiếc trống sắt cách sáu Câu-lô-xá làm mục tiêu bắn. Vị đại thần họ Bà-tư-tra tên là Ma-ha Na-ma để một trông sắt cách xa tám Câu-lô-xá làm mục tiêu bắn. Tuần tự theo thứ lớp, mỗi đồng tử đều để trống sắt hoặc xa hoặc gần làm mục tiêu bắn. Còn Thái tử Tất-đạt-đa để chiếc trống sắt rất dày cách xa mười Câu-lô-xá làm mục tiêu bắn.

Lúc ấy đồng tử A-nan-đà trương cung bắn chiếc trống cách xa hai Câu-lô-xá, mũi tên vừa trúng mặt trống cách xa điểm đích và không xuyên qua được. Đồng tử Đề-bà-đạt-đa bắn chiếc trống sắt cách xa bốn Câu-lô-xá, mũi tên găm vào mặt trống mà không xuyên qua được. Đại thần Ma-ha Na-ma bắn chiếc trống sắt cách tám Câu-lô-xá, mũi tên cũng găm vào mặt trống nhưng cách đích không bao xa và cũng không xuyên qua được. Các đồng tử họ Thích, mỗi người đều để trống sắt hoặc xa hoặc gần làm mục tiêu bắn, các mũi tên của họ đều trúng mặt trống mà không xuyên qua được. Bấy giờ đến lượt Thái tử Tất-đạt-đa, khi sắp bắn có vị quan dâng chiếc cung cho Thái tử, Thái tử tiếp lấy, rồi dùng tay đè nhẹ thanh cung và kéo dây cung xem thử mạnh yếu thế nào, ngay khi đó cung bị gãy và dây bị đứt, nên Thái tử hỏi cả hội trường:

-Ai biết trong nội thành này có chiếc cung nào tốt, đủ sức cho ta sử dụng khỏi phải giới hạn?

Đại vương Tịnh Phạn hết sức vui mừng, liền đáp:

-Hoàng gia mình có.

Thái tử thưa:

-Tâu Đại vương, ngài nói có, nay chiếc cung ấy ở đâu?

Đại vương đáp:

-Tổ phụ của Thái tử quý danh là Sư Tử Giáp. Ngài có một chiếc cung hiện giờ đang để nơi Thiên miếu, ngày đêm luôn luôn hương hoa thờ cúng. Nhưng chiếc cung này, tất cả quyến thuộc họ Thích trong nội thành không một ai trương được dây cung, huống nữa là trương ra để bắn.

Thái tử thưa:

-Xin Đại vương mau mau cho người đến thỉnh mang về đây.

Liền sau đó có sứ giả mang chiếc cung đến, trước tiên trao cho các đồng tử hoàng gia, họ cầm lấy mà không một ai kéo dãn được dây cung, huống nữa là trương cung để bắn. Kế tiếp đó, đại thần Ma-ha Na-ma cố dốc toàn sức mạnh mà cũng không kéo dãn được dây cung, huống nữa là trương cung để bắn. Cuối cùng sứ giả mới dâng cho Thái tử. Thái tử cầm lấy chiếc cung, rồi an tọa trên đất thân không lay động, chỉ dùng một ít sức, tay trái cầm lấy thanh cung, tay mặt nắm lấy dây cung, các ngón tay vừa kéo nhẹ dây cung, phát ra âm thanh vang dội khắp cả thành Ca-tỳ-la, lúc ấy tất cả dân chúng nội thành đều kinh hãi, họ hỏi nhau: “Tiếng gì vậy?” Hoặc có kẻ nghe người khác nói lại: ‘Thái tử Tất-đạt-đa đang sử dụng chiếc cung của Tổ phụ Sư Tử Giáp, ngài vừa trương dây cung nên phát ra âm thanh như vậy.”

Đại vương Tịnh Phạn thấy vậy, đem vô lượng vô biên bảo vật tặng cho Thái tử.

Thái tử giương cung lên, tay phải cầm mũi tên dùng sức mạnh như thần, kéo dây cung đưa mũi tên đến giữa ngực rồi mới buông tay. Mũi tên vượt qua các chiếc trống của ba người: A-nan-đà, Đề-bà-đạt-đa và đại thần Ma-ha Na-ma, bay thẳng đến chiếc trống sắt cách mười Câu-lô-xá, xuyên qua cả hai mặt trống, rồi mũi tên biến mất trong hư không.

Lúc ấy chư Thiên ở trên không trung nói kệ ca ngợi:

Đấng Thiện Tối thắng ở cõi này,

An tọa trên tòa Phật quá khứ,

Ma-già-đà tất cả dân chúng,

Nay thấy tài bắn tên tuyệt diệu.

Sức trí tuệ lục độ viên thành,

Các giặc thù thảy đều hàng phục,

Ấm, Thiên ma, phiền não tiêu trừ

Sẽ được nhân thường lạc ngã tịnh,

Chân thật đạo Bồ-đề bất thoái,

Khổ sinh tử rễ kia dứt hẳn,

Khổ già bệnh ưu sầu quét sạch,

Trí nhiệm mầu chứng đắc Niết-bàn.

Chư Thiên nói kệ xong, đem các loại hoa trời vi diệu rải trên mình Thái tử, rải rồi bỗng nhiên ẩn thân trong hư không. Lúc ấy chúa trời Đế Thích ở trong hư không, bắt lấy mũi tên Thái tử đem về cung trời Đao-lợi, ở đây đặt ngày lễ cho mũi tên, thường vào những ngày lễ chư Thiên nhóm họp dùng hương hoa cúng dường, cho đến nay chư Thiên còn ngày lễ mũi tên này.

Bấy giờ mọi người thuộc dòng họ Thích lại nói:

-Thái tử Tất-đạt-đa có tài bắn tên rất xa, đã vượt lên trên tất cả mọi người, xin Thái tử thử bắn thân cây, xem tên nào xuyên qua được. Lúc ấy cách thí trường chẳng bao xa, bỗng nhiên xuất hiện hàng cây Đa-la. Trong số năm trăm đồng tử này, hoặc có người bắn một mũi tên xuyên qua được một thân cây Đa-la, hoặc có người bắn xuyên qua hai cây Đa-la, hoặc có người bắn xuyên qua ba cây Đa-la, hoặc có người bắn xuyên qua bốn cây Đa-la, hoặc có người bắn xuyên qua năm cây Đa-la. Lúc bấy giờ Thái tử cầm mũi tên bắn xuyên qua bảy cây Đa-la, mũi tên sau khi xuyên qua cây thứ bảy, lại chạm vào mặt đất gãy làm một trăm đoạn.

Các vị trong dòng họ Thích lại làm hình con heo bằng sắt. Trong số các đồng tử có người bắn xuyên qua một con heo sắt, hoặc có người bắn mũi tên xuyên qua hai con, hoặc ba con, hoặc bốn con, hoặc năm con. Còn Thái tử cầm mũi tên bắn xuyên qua bảy con heo sắt, khi mũi tên xuyên qua con thứ bảy rồi găm sâu trong lòng đất, chỗ đất mũi tên găm vào phá thành cái giếng, cho đến ngày nay dân chúng còn gọi chỗ ấy là “Giếng mũi tên”.

Quyến thuộc trong hoàng gia đặt bảy cái chum bằng sắt, rồi đựng đầy nước. Trong số các đồng tử có người dùng mũi tên đầu nung đỏ để bắn, mà mũi tên chỉ xuyên qua một chum, hoặc có đồng tử bắn xuyên qua hai chum, hay xuyên qua ba chum, hay xuyên qua bốn chum, cho đến xuyên qua năm chum. Còn tên lửa nung đỏ của Thái tử bắn một phát xuyên qua bảy chum sắt đầy nước; khi mũi tên qua khỏi chum thứ bảy, xuyên qua cánh rừng cây Đại-ba-la cách đó chẳng bao xa, khi mũi tên qua rồi rừng này liền thiêu hủy trong nháy mắt.

Các vị quyến thuộc trong dòng họ Thích lại nói:

-Đối với nghệ thuật bắn tên, Thái tử là người giỏi hơn tất cả. Nay lại xin tiếp tục thi chặt cây, mà chỉ được chặt một nhát. Trong số các đồng tử, có người tay cầm thanh kiếm chỉ đưa qua một nhát thì cây đứt làm hai đoạn, hoặc có người chặt một nhát ngã hai cây, hoặc ngã ba cây, hoặc ngã bốn cây, hoặc ngã năm cây. Đến lượt Thái tử tay cầm thanh kiếm chặt một nhát, thì bảy cây Đa-la đứt một lượt, bảy gốc cây Đa-la tuy đứt mà thân cây chưa ngã. Các đồng tử hoàng gia hô reo lên:

-Thái tử không thể chặt đứt một cây nào cả! Liền khi ấy chư Thiên cõi trời Tịnh cư sắc giới, hóa làm ngọn gió mạnh thổi ngã bảy cây Đa-la.

Kế đến đồng tử Nan-đà ôm một bó trúc, mà ruột cây trúc đã luồn sẵn những thanh sắt, đến dâng lên trước mặt Thái tử. Thái tử thấy bó trúc rồi, không cho là trong ruột có sắt, nên không cần phải dùng sức mạnh, tay trái nắm lấy thanh gươm chặt một nhát bó trúc liền đứt làm hai, giống như cánh tay lực sĩ cầm thanh đao chặt một cây trúc hay chặt một mũi tên. Đúng như vậy! Đúng như vậy! Thái tử chặt bó thanh sắt được luồn trong cây trúc, cho là bó trúc, tay trái cầm thanh gươm để nhẹ, thanh gươm liền lướt qua bó thanh sắt.

Bấy giờ các vị trong dòng họ Thích nói:

-Thi chặt cây, Thái tử là người vượt lên trên hết. Bây giờ tiếp tục thi cỡi voi, với kỹ thuật nhảy lên nhào xuống, xem thử ai là người có tài năng. Trong số các đồng tử, có người từ trước vòi voi nhảy vọt lên lưng, hoặc có đồng tử từ dưới chân nhảy vọt lên lưng, hoặc có đồng tử từ dưới đuôi nhảy vọt lên lưng. Trong khi đang nhảy lên có người tay cầm thiết bản to lớn, hoặc có người cầm thiết luân, hoặc có người cầm thiết bài, hoặc cầm giáo mác, trường kiếm. Tay tả cầm khí giới nhảy lên. Khi lên rồi tay phải tiếp lấy ném xuống đất. Còn Thái tử khi nhảy lên lưng voi, hoặc đứng hoặc chạy, hoặc hai chân khi thì đứng lên hai ngà, khi thì đạp trên đầu, tay tả nắm các khí cụ, hoặc thiết bản, hoặc thiết luân, hoặc thiết bài, hoặc giáo mác cho đến trường kiếm. Tay tả cầm lấy thì tay phải phóng xuống đất, hay tay phải cầm lấy thì tay tả phóng xuống đất.

Tất cả đồng tử trong hoàng gia không tài nào sánh kịp, lại nói:

-Ta nay cùng nhau thi cỡi ngựa.

Trong số các đồng tử, có người cầm mác hay cung tên, từ nơi một con ngựa nhảy qua cỡi con ngựa thứ hai, vừa cỡi vừa khai mác, múa kiếm, hoặc bắn tên điểm đích bằng vòng chiếc nhẫn, có người bắn trúng đích, có người bắn không trúng đích. Hoặc có đồng tử phóng mình qua hai con ngựa cỡi con thứ ba, cho đến bắn trúng đích hay bắn không trúng đích. Hoặc có đồng tử lao mình vượt qua ba con ngựa cỡi con ngựa thứ tư, bắn trúng đích hay không trúng đích. Hoặc có đồng tử lao mình qua bốn con ngựa, rồi cỡi con ngựa thứ năm, bắn trúng đích hay không trúng đích. Lúc bấy giờ Thái tử tay cầm mác, tay cầm cung tên, phóng mình qua sáu con ngựa, cỡi trên con ngựa thứ bảy, vừa cỡi vừa bắn tên cho đến mục tiêu bằng đầu sợi lông, sợi tóc đều trúng. Như vậy hoặc ở trên xe theo thứ lớp biểu diễn đủ các nghệ thuật, hoặc nhào trên hư không… nhẹ nhàng một cách tài tình. Hoặc thi âm thanh, hoặc thi ca múa, hoặc thi trào phúng, hoặc thi trò đùa hài hước, hoặc thi nhuộm y phục, hoặc thi nghề kim hoàn làm các đồ bằng ngọc quý giá… hoặc thi vẽ cảnh cây lá, hoặc thi hòa hợp các hương thơm, hoặc thi trò Bác dịch, hoặc thi trò: Xu bồ, vi kỳ, song lục, hoặc thi phóng lao, hoặc ném xa, nhảy vọt qua khỏi hầm… Tất cả các nghệ thuật như vậy đều biểu diễn một cách đầy đủ. Đối với tất cả các môn thi, Thái tử đều đứng nhất.

Các vị trong dòng họ Thích nói:

-Chúng ta ngày nay đều biết Thái tử đối với các nghề, người hoàn toàn đại thắng. Nay ta nên đấu sức với nhau, xem thử ai là người thắng cuộc.

Lúc ấy Thái tử lui về ngồi một bên, còn các đồng tử sắp hai hàng song song cùng nhau đấu sức, theo thứ lớp như vậy có tất cả ba mươi hai ban. Đồng tử nào đấu xong lui về đứng nghỉ một bên. Kế đến đồng tử A-nan-đà bỗng nhiên đến đứng trước mặt Thái tử, định đấu sức với ngài, nhưng nhờ oai đức và thần lực Thái tử, ngài vừa đưa tay nắm lấy Nan-đà, Nan-đà không tài nào ngăn được, liền bị ngã nhào xuống đất. Tiếp đó đồng tử Đề-bà-đạt-đa tiến đến trước mặt Thái tử với cử chỉ đầy tự cao ngã mạn, vì chưa từng so sức với Thái tử lần nào. Nay cùng Thái tử đấu sức, ý muốn ngang hàng, rồi người giương thân dõng dạc lao mình chạy quanh thí trường, rồi chạy nhanh hướng về phía Thái tử, ý định lao mình vào đánh.

Bấy giờ, Thái tử không hấp tấp cũng không chậm chạp, ngài từ từ dụng tâm, tay phải tóm lấy thân đồng tử Đề-bà-đạt-đa đưa lên cao khỏi mặt đất, đi chung quanh thí trường ba vòng, rồi xoay tròn thân Đề-bà-đạt-đa trên hư không; Ngài khởi lòng từ bi để hàng phục tâm cống cao ngã mạn của Đề-bà-đạt-đa, không muốn sát hại, nên Thái tử từ từ thả nhẹ Đề-bà-đạt-đa nằm trên mặt đất, để cho thân thể khỏi bị thương tích. Thái tử lại nói:

-Chao ôi! Này tất cả các ông, ta chẳng cần đấu sức từng người một, tập trung tất cả các người cùng một lúc đến đấu với ta.

Lúc ấy tất cả đồng tử sinh tâm kiêu mạn, nên cùng một lúc tất cả đồng tử vội vã chạy đến muốn đánh Thái tử, với những cú đấm chuẩn bị sẵn. Nhưng tất cả không sao đánh được dưới oai đức và sức mạnh của Thái tử, họ không chống cự lại, đều té nhào xuống đất.

Mọi người trong dòng họ Thích đều lấy làm ngạc nhiên, nói với nhau:

-Ít có thay! ít có thay! Từ sinh ra cho đến ngày nay Thái tử chưa từng học tập bao giờ, mà nay lại thể hiện đủ các thứ tài nghệ như vậy.

Lúc ấy tất cả khán giả trong thí trường, thấy sự việc chưa từng có như vậy, đồng thanh hô to:

-Hoan hô! Hoan hô! Hoặc la lên nhiều âm thanh vang dội, đồng thời tung chuỗi anh lạc và y phục cùng nhau vui mừng.

Lúc ấy, vô lượng chư Thiên trên hư không, đồng thinh nói kệ ca ngợi:

Các thế giới khắp cả mười phương,

Có bao nhiêu dũng sĩ anh hùng,

Sức mỗi người đều như Điều-đạt,

Chẳng sánh bằng sợi lông Thái tử,

Đức Vĩ nhân oai lực vô biên,

Vung cánh tay đụng nhằm đều ngã,

Sức oai thần Thánh giả không lường.

Làm thế nào các ông sánh lại,

Ví như núi Tu-di sừng sững,

Cùng Thiết Vi lớn nhỏ vững bền.

Với mười phương núi non tất cả,

Ngài đụng vào biến thành tro bụi,

Chất sắt cứng cùng ngọc Kim cương,

Cho đến cả bao nhiêu ngọc quý,

Gặp sức ngài thảy đều tan nát,

Huống đánh nhằm đồng tử các ông.

Chư Thiên nói kệ rồi, lại đem đủ các thứ hoa rải trên mình Thái tử, rồi liền lập tức ẩn thân biến mất trong hư không.

Như vậy đối với tất cả các kỹ nghệ, theo thứ tự đã so tài, Thái tử đều chiến thắng vượt lên trên tất cả.

Lúc ấy Đại vương Tịnh Phạn mới biết bao nhiêu kỹ năng của Thái tử đều thắng vượt lên trên tất cả mọi người, tự mắt mình trông thấy, tâm mình chứng biết, nên vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân, vô cùng thỏa mãn không thể kềm chế được. Vì lòng tôn kính, liền ra lệnh cho người về nội cung, dùng chuỗi anh lạc trang trí bạch tượng thật trang nghiêm, mọi việc phải chu đáo, và Đại vương nói:

-Bạch tượng này để đưa Thái tử, đứa con yêu quý của ta về hoàng cung.

Đại bạch tượng để rước Thái tử về nội thành, khi ra cửa thành gặp đồng tử Đề-bà-đạt-đa từ ngoài thành trở về, thấy bạch tượng trang nghiêm, liền hỏi kẻ quản tượng:

-Voi này sẽ đem cho ai và sẽ đi về đâu?

Kẻ quản tượng trả lời:

-Bạch tượng này ra khỏi thành để đón Thái tử về nội cung.

Lúc ấy Đề-bà-đạt-đa tỏ vẻ mình thuộc dòng hào tộc tôn quý, hết sức ngã mạn, lại ỷ vào sức mạnh của mình, nên ngang dọc tự thị không kiêng nể một ai, lại thêm tánh đố kỵ với Thái tử, nên đồng tử ở phía trước cách voi chẳng bao xa, chạy đến tay trái nắm lấy vòi, tay phải đập vào trán voi, rồi quật mạnh, voi liền té nhào lăn trên đất ba vòng rồi tắt thở. Thấy voi to lớn nằm lấp cả cửa thành, cản trở người qua lại, ra vào chẳng được, nên trên đường lần lần chật ních cả người.

Điều-đạt qua rồi, tiếp theo sau là đồng tử Nan-đà muốn bước vào thành, thấy bạch tượng chết nằm ngay ngang cửa, thấy voi to lớn bít cả lối đi, dân chúng qua lại không được, đồng tử liền hỏi các người chung quanh, ai gây ra sự việc thế này? Đám đông người đáp:

-Bẩm đồng tử, đại bạch tượng này bị đồng tử Đề-bà-đạt-đa giết chết, người dùng tay trái nắm vòi, tay phải đập vào trán, quật mạnh voi liền té nhào lăn xuống đất ba vòng rồi tắt thở.

Nan-đà suy nghĩ: “Đồng tử Đề-bà-đạt-đa thử sức mạnh mình, đã làm cho bạch tượng chết. Nhưng xác voi quá to lớn, chảy nước làm nhơ nhớp cửa thành, cản trở người qua lại, nên đồng tử dùng tay phải nắm lấy đuôi voi kéo tới cách xa cửa thành chừng độ bảy bước.”

Đi tiếp sau Nan-đà là Thái tử Tất-đạt-đa. Khi vào gần cửa thành, Thái tử thấy bạch tượng chết nằm trước cửa thành, ngài hỏi người đi đường:

-Ai giết con bạch tượng này?

Người đi đường đáp:

-Đồng tử Đề-bà-đạt-đa đập vào trán… voi chết.

Thái tử lại hỏi:

-Còn ai kéo voi ra khỏi cửa thành?

Các người đều đáp:

-Đồng tử Nan-đà dùng tay phải nắm lấy đuôi voi kéo khỏi cửa thành chừng khoảng bảy bước.

Thái tử nói:

-Hay thay! Nan-đà, người làm điều phước thiện.

Rồi Thái tử suy nghĩ: “Hai đồng tử tuy đã thi thố sức lực của mình, nay thân voi quá to lớn, sau khi tan ra mùi hôi thối bay vào làm ô nhiễm thành này.” Suy nghĩ như vậy rồi, tay tả nhấc thân voi, tay hữu đỡ phía dưới thân, đưa thân voi lên cao ném ra ngoài thành, vượt qua bảy lớp thành lũy, xác voi rớt xuống cách thành chừng khoảng một Câu-lô-xá, chỗ đất thân voi rớt xuống phá thành một hầm lớn. Cho đến ngày nay, dân địa phương còn tương truyền gọi trũng đất này là “hầm voi rớt”, tức do tích này mà ra vậy.

Lúc ấy có vô lượng vô biên trăm ngàn dân chúng đồng thanh xướng lên:

-Ít có thay! ít có thay! Sự việc như thế này thật hết sức kỳ lạ.

Mỗi người đều nói:

-Hay thay! Hay thay! Đại nhân lực sĩ thật là kỳ lạ ít có ở đời, chưa từng thấy nghe.

Rồi nói kệ ca ngợi:

Điều-đạt quật chết bạch tượng rồi,

Nan Đà kéo khỏi thành bảy bước,

Thái tử tay nâng bổng trên không,

Như cầm hòn đất ném ngoài thành.

Đại thần Ma-ha Na-ma thấy Thái tử đầy đủ tài năng trí tuệ, đối với tất cả các môn văn chương, võ nghệ, kỹ thuật… đều là người chiến thắng vượt lên trên thiên hạ, liền thưa Thái tử:

-Xin Thái tử nhận sự sám hối của tôi, vì trước đây tôi đã cho Thái tử là kẻ không có tài năng thiện xảo, đối với các nghề đều không biết, khiến tâm tôi nghi ngờ không gả con gái, giờ này tôi đã thấu rõ, mong ngài cùng con gái tôi kết nghĩa trăm năm.

Rồi Thái tử chọn ngày lành tháng tốt, cho người lấy của riêng sắm sửa một cách chu đáo, dùng oai quyền thế lực của một Đại vương để nghinh rước nàng Da-du-đà-la, Thái tử dùng chuỗi anh lạc trang sức trên thân cùng với năm trăm thể nữ tùy tùng rước nàng về nội cung, cùng nhau vui chơi hưởng thú ngũ dục.

Do vậy có kệ nói:

Da-du là con gái đại thần,

Tiếng trùm cả nước xa gần biết,

Thái tử chọn ngày cưới làm vợ.

Nghinh rước về triều nơi cung điện,

Thái tử cùng nàng hưởng lạc thú,

Mải mê dong ruổi nào biết chán,

Vui cũng Xá-chi đại phu nhân.

Một hôm nọ, sau khi Đức Thế Tôn thành đạo, Tôn giả ưu-đà-di bạch Phật:

-Thưa Thế Tôn Như Lai, tại sao thuở trước Thái tử còn tại triều, khi muốn cưới nàng Da-du-đà-la làm vợ, không dùng thế lực của một nhà vua, hay thế lực của một dòng họ cao sang, không dùng thế lực giàu sang phú quý, không dùng hình dung tuân tú sắc diện khôi ngô mà cưới nàng, lại chỉ thi thố tài năng trong các kỹ nghệ mà cưới nàng làm vợ?

Đức Thế Tôn bảo ưu-đà-di:

-Này Tôn giả ưu-đà-di, ông phải chú tâm lắng nghe, chẳng chỉ một đời này ta cưới nàng Da-du-đà-la không dùng thế lực của một dòng họ vua chúa đầy quyền uy cao sang, cho đến không dùng hình dung tuấn tú khôi ngô để cưới nàng, mà chỉ dùng tài năng trong các kỹ nghệ để cưới nàng, cho đến thuở xưa cũng vậy.

Tôn giả ưu-đà-di thưa:

-Bạch Đức Thế Tôn, việc này như thế nào? Xin Ngài nói cho con nghe.

Đức Phật bảo Tôn giả ưu-đà-di:

-Này Tôn giả, Ta nhớ thuở quá khứ trải qua vô lượng kiếp, lúc ấy tại nước Ba-la-nại, có một thợ rèn rất tinh xảo. Người có một đứa con gái dung nhan khả ái, thân hình đoan chánh, khuôn mặt đầy đặn, trong thế gian ít có người thứ hai, rất được nhiều người yêu mến. Cùng thuở ấy tại thành Ba-la-nại có một trưởng giả, sinh hạ một đồng tử hình dung đẹp đẽ khả ái như nàng con gái nói ở trên không khác.

Một hôm, con trai trưởng giả tình cờ bắt gặp nàng con gái của người thợ rèn từ bên trong cửa sổ trên lầu cao, đưa mắt ra ngoài ngắm nhìn phong cảnh, chàng công tử thấy rồi đem tâm yêu mến, trong tâm chàng luôn luôn mang hình bóng của nàng, nên vội vã trở về nhà thưa cùng cha mẹ:

-Kính thưa song thân, người thợ rèn tài giỏi kia có người con gái, con đem tâm thương mến muốn cưới nàng ta về làm vợ.

Vợ chồng trưởng giả đáp:

-Nay con không nên cưới con gái của người thợ rèn, vì làm như thế ô nhục gia môn của ta. Cha mẹ sẽ tìm một tiểu thơ của một trưởng giả, của một đại thần hay của một cư sĩ khác, cưới làm vợ cho con.

Chàng ta trả lời:

-Con quyết định không cưới con gái của các nhà đó về làm vợ, ý con chỉ muốn cưới con gái nhà thợ rèn; nếu không cưới được nàng ta làm vợ, con chắc phải tự tử kết liễu cuộc đời không cần phải sống.

Lúc bấy giờ vợ chồng trưởng giả hết sức lo rầu, sợ đứa con yêu quý tự sát, liền cho sứ giả mời người thợ rèn đến nhà, rồi nói:

-Ta nghe người có đứa con gái, nay có thể gả về làm vợ con trai ta chăng?

Bác thợ rèn đáp:

-Thưa ông bà trưởng giả, nay tôi không đồng ý cho con gái tôi kết hôn với kẻ trong tay không nghề nghiệp.

Ông bà trưởng giả lại đáp:

-Nhân giả sẽ chọn người giỏi tài nghệ gì để phối hợp hôn nhân, mà chẳng lo sợ con gái mình cơ hàn khổ sở thiếu thốn áo cơm hay sao?

Thợ rèn lại đáp:

-Tuy biết như vậy, nhưng nay tôi chỉ muốn tìm người đồng nghiệp. Nếu chàng trai nào có nghề nghiệp tài giỏi, tôi sẽ gả con gái, giả sử người này không giàu có của cải, tôi chỉ trọng tài giỏi nghề nghiệp, tùy theo khả năng họ sắm sửa, tôi liền gả con gái cho họ.

Ông bà trưởng giả nghe nói như vậy, đem mọi việc như trên nói lại cho con mình nghe. Nhưng lúc ấy con trai trưởng giả đã cùng nàng con gái kia tâm ý hòa hợp, lại thêm chàng giỏi công nghệ, chuyên tâm chú ý, có tài làm kim. Rồi một hôm chàng ta chế tạo nhiều cây kim, dùng dầu mỡ đánh bóng, sáng láng hết sức đẹp đẽ, gom các kim thành một bó lớn đựng trong ông tre, mang đến nhà thợ rèn tài giỏi kia, khi chàng đến gần cổng làng, đứng nơi đầu đường rao kệ bán kim.

Không nhám, sắt trơn láng,

Đánh bóng ánh trong sạch.

Sản phẩm người thợ khéo,

Có ai mua kim này?

Lúc ấy nàng con gái của bác thợ rèn kia, đang ở bên trong cửa sổ trên lầu cao, nghe con Trưởng giả rao kệ bán kim, nàng ứng khẩu thành kệ đáp:

Quái lạ! Kẻ điên cuồng,

Người thật không tâm ý,

Bỗng nhiên đến thợ rèn,

Mà rao muốn bán kim.

Con trưởng giả nói kệ đáp:

Mỹ nhân thật dễ thương,

Ta thật chẳng điên cuồng,

Ta thật người xảo trí,

Có tài làm kim tốt.

Cha nàng đến gặp ta,

Hiểu rõ việc thế này,

Chắc nàng làm vợ ta,

Lại đưa vô lượng của.

Nàng con gái của người thợ rèn tài giỏi, nghe chàng ta nói như vậy, vội vã đến trước cha mẹ thưa:

-Thưa cha mẹ, con vừa nghe bên ngoài có người to tiếng rao kệ bán kim… như trên, muốn đến gặp cha mẹ trình bày nghệ thuật làm kim tinh xảo.

Vợ chồng thợ rèn tài giỏi lập tức cho người kêu người bán kim đến, khi vào đến nơi, ông ta hỏi:

-Tốt thay! Này đồng tử, người thật biết rành nghề làm kim phải không?

Đồng tử đáp:

-Thưa hai bác, con có thể làm được.

Thợ rèn lại hỏi:

-Ông cho ta xem kim thử thế nào?

Đồng tử trút từ nơi ống tre ra một cây đưa cho thợ thiếc và nói:

-Xin bác xem nào!

Thợ rèn thấy kim, liền khen ngợi:

-Hay thay! Đồng tử, người có tài làm kim, có tài khoan lỗ.

Đồng tử nói với người thợ rèn:

-Thưa bác, có loại kim khác không phải như kim lấy ra từ ống tre, nó tốt hơn kim ấy nhiều.

Đồng tử liền đưa ra một cây kim khác cho thợ rèn xem, thợ rèn xem rồi lại ca ngợi:

-Có tài khoan trôn kim rất tốt.

Đồng tử lại nói:

-Thưa bác cây này chưa tốt, còn có cây khác tốt hơn.

Lần thứ ba này đồng tử lại đưa ra một cây kim khác cho người thợ rèn.

Người thợ rèn cũng như bao lần trước dùng lời tốt đẹp ca ngợi:

-Có tài khoan trôn kim rất tốt. Đồng tử lại nói:

-Thưa bác, cây kim đó chưa phải cây kim tinh xảo, lại có một cây khác tốt hơn.

Lần thứ tư đồng tử lại đưa một cây kim khác cho thợ rèn xem. Người thợ rèn xem rồi dùng lời khen ngợi:

-Rất khéo chế tạo! Có tài khoan lỗ hết sức tốt đẹp.

Đồng tử lại nói:

-Thưa bác, cây kim đó cũng chưa phải là cây kim tốt.

Rồi đồng tử lại đưa một cây khác cho thợ rèn xem. Người thợ rèn xem rồi, lại dùng lời khen ngợi:

-Chế tạo rất khéo, trôn kim rất tinh vi.

Đồng tử lại nói:

-Thưa bác, kim đó chưa phải sản phẩm tuyệt hảo.

Rồi đồng tử lại đưa ra cây kim thứ sáu cho thợ rèn xem.

Người thợ rèn xem rồi, lại khen:

-Đây mới thật là cây kim tối hảo, tối diệu, trôn kim hết sức sắc sảo.

Đồng tử gom tất cả các cây kim để theo từng loại trên bàn tay, rồi bỏ vào trong nước mà kim đều nổi.

Người thợ rèn thấy việc hy hữu, chưa từng thấy, chưa từng nghe như vậy, vui mừng hớn hở. Rồi nói kệ khen đồng tử:

Ta chưa từng nghe thấy,

Khéo tạo kim như vậy.

Nay đem tâm hoan hỷ,

Gả con gái cho người.

Lúc ấy Đức Phật bảo Tôn giả Ưu-đà-di:

-Này Tôn giả phải biết, con trai Trưởng giả thuở ấy là thân ta ngày nay; con gái của thợ rèn tài giỏi ấy nay là nàng Da-du-đà-la. Ngay lúc ấy ta cưới nàng làm vợ không dùng thế lực nhà tôn quý, cũng không dùng thế lực dòng họ cao sang, cho đến cũng không dùng hình dung đoan trang tuân tú, chỉ kiểm tra tài khéo léo mà được vợ. Ngày nay cũng lại như vậy, đối với Da-du-đà-la, ta cũng không dùng dòng họ tôn quý hay dung nhan tuấn tú khôi ngô, chỉ dùng việc tranh tài kỹ nghệ mà được nàng.

***

Phẩm 14: MẶC THƯỜNG PHỤC ĐƯỢC VỢ

Thuở ấy, tất cả các đồng tử trong dòng họ Thích hình dung tuấn tú đoan trang, đẹp đẽ lạ thường rất dễ yêu mến, thế gian ít ai sánh bằng, mọi người nhìn không biết chán. Tất cả đều tinh thông kỹ thuật không ai sánh lại. Những môn đó là kinh thư, hội họa, kế toán, điêu khắc, nghe tiếng, các môn bắn giỏi… Tất cả đều hiểu biết rành rẽ, trí tuệ xảo thuật, thông minh sáng suốt. Trong số các đồng tử này, Thái tử Tất-đạt-đa là người đứng nhất. Đồng tử Nan-đà là người thứ hai và thứ ba là Đề-bà-đạt-đa. Chỉ có ba người này, ngoài ra không ai hơn được.

Khi ấy trong thành Ca-tỳ-la, có một đại thần họ Đàn-đồ tên là Ba-ni, vị đại thần này hết sức giàu có, rất nhiều bảy báu, ngũ cốc, tiền bạc lụa là, tài sản đầy dẫy chất đầy như núi, đúng như pháp mà được, không do sự mưu cầu phi nghĩa. Người vật, tôi trai tớ gái, sứ giả lo việc ngoại giao, kẻ nội gia lo quản thủ, nào trâu ngựa voi dê, tất cả mọi thứ đều dư dật, lại có vô lượng vô biên vàng bạc, lưu ly, ma-ni, trân châu, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách. Tất cả những vật như vậy đều theo ý muốn, không thiếu một thứ gi. Khung cảnh trang trí trong nhà giống như cung điện Tỳ-sa-môn không khác. Thuở ấy đại thần có một tiểu thư tên là Cù-đà-di, dung nhan đoan chánh khả ái, dáng người không cao không thấp, không mập không gầy, làn da không đen không trắng, không thô kệch, không mảnh khảnh, tuổi đang độ thanh xuân, được xem như quốc bảo.

Đại vương Tịnh Phạn biết đại thần Đàn-đồ-ba-ni thuộc dòng họ Thích ở trong nước của mình, có một tiểu thư quốc sắc như vậy. Nhà vua biết rồi, chọn ngày lành tháng tốt ra lệnh các Quốc sư Bà-la-môn làm sứ giả đến nhà đại thần Ba-ni nói như thế này: “Trẫm nghe đại thần có một tiểu thơ, tên là Cù-đà-di, ngày nay tiểu thơ có thể cùng Thái tử trẫm kết nghĩa phu thê”.

Lúc ấy phụ thân của Nan-đà cũng nghe đại thần Đàn-đồ-ba-ni có người con gái rất đẹp, mà Đại vương muốn hỏi làm vợ cho Thái tử Tất-đạt-đa. Ông nghe như vậy, nhưng cũng cho người đến nói với đại thần Đàn-đồ-ba-ni: “Cù-đà-di con gái của đại thần, có thể cùng Nan-đà con trai của ta kết nghĩa trăm năm. Nếu đại thần không đồng ý, ta quyết sẽ làm cho ông bị tổn hại.”

Đồng tử Đề-bà-đạt-đa cũng nghe đại thần Đàn-đồ-ba-ni có người con gái sắp làm vợ Thái tử Tất-đạt-đa. Tuy biết vậy vẫn cho sứ giả đến nhà đại thần Đàn-đồ nói: “Nàng Cù-đà-di con gái của đại thần, nay có thể kết hôn với ta, nếu đại thần không gả, ta sẽ gây đại họa cho người.”

Khi ấy đại thần Đàn-đồ-ba-ni suy nghĩ: “Ba đồng tử họ Thích đều khôi ngô tuấn tú đẹp đẽ khá ái vô song, văn võ song toàn, đối với các kỹ năng đều tinh xảo, mà Thái tử Tất-đạt-đa là người đứng thứ nhất, kế đến là Nan-đà và thứ ba là Đề-bà-đạt-đa. Ta chỉ có một đứa con gái, nay nếu gả cho Thái tử, thì ta sẽ bị hai đồng tử kia oán thù; nếu gả cho Nan-đà thì ta sẽ bị Thái tử và Đề-bà-đạt-đa hiềm khích; còn nếu gả cho Đề-bà-đạt-đa, thì ta sẽ bị Thái tử và Nan-đà gây điều oan nghiệt!” Đại thần ôm lòng ưu sầu áo não, sắc mặt chẳng vui, ngồi yên tư duy tự nghĩ, ta phải giải quyết bằng cách nào đây!

Nàng Cù-đà-di thấy cha mình ngồi lặng thinh trông vẻ thiểu não, nàng bước đến gần bên đại thần thưa:

-Ôi! Vì cớ gì hôm nay trông cha không được vui, ngồi có vẻ ưu sầu?

Đại thần đáp:

-Cù-đà-di con gái yêu quý của cha, con không nên hỏi việc này, vì chẳng phải việc con cần biết.

Nàng lại hỏi lần thứ hai.

Đại thần cũng trả lời:

-Chẳng phải việc con cần biết.

Nàng lại hỏi lần thứ ba, cho đến lặp lại lời hỏi đến lần thứ tư, rồi nàng tiếp tục thưa:

-Cha ơi! Xin cha nói cho con biết, chẳng nên giấu con.

Lúc ấy đại thần Đàn-đồ-ba-ni vì sự ân cần nài nỉ, hỏi đến lần thứ tư của con gái mình, nên ông ta nói:

-Này Cù-đà-di, con đã hỏi cha ba lần, nay đến lần thứ tư, con phải lắng nghe, ta sẽ nói cho con biết:

“Ngày nay Đại vương Tịnh Phạn sai sứ đến nói: Trẫm nghe đại thần có một tiểu thơ, có thể cùng Thái tử trẫm kết nghĩa phu thê’.

“Rồi sau đó đồng tử Nan-đà cũng sai sứ đến nói: ‘Cù-đà-di con gái của đại thần, có thể cùng ta kết nghĩa trăm năm, nếu đại thần không đồng ý, ta sẽ làm cho người tổn hại.

Cuối cùng đến đồng tử Đề-bà-đạt-đa cũng cho sứ đến nói: ‘Nàng Cù-đà-di con gái của đại thần, nay có thể kết hôn với ta, nếu đại thần không gả, ta sẽ gây đại họa cho người.’

“Ba sứ giả đều yêu cầu con làm vợ cho chủ họ, cha nghe qua hết sức buồn rầu và suy nghĩ: ‘Nếu gả con cho Thái tử, thì hai đồng tử kia oán thù…cho nên cha ngồi yên buồn rầu suy nghĩ.’”

Nàng Cù-đà-di thưa với cha:

-Thôi, không có gì cha phải sầu não, con sẽ dùng trí tuệ xử lý việc này, sẽ chắc chắn chọn một người làm chồng con. Tuy nhiên cha phải dễ dãi cho con được tự do trong việc chọn lựa người bạn đường trăm năm của con.

Đại thần Đàn-đồ-ba-ni nghe con mình nói như vậy, nên trước tiên tâu lên cho nhà vua biết, rồi sau đó mới ở nơi đầu đường ngã tư trong thành Ca-tỳ-la, đại thần tay rung chuông, miệng cáo bạch:

-Kể từ nay cho đến ngày thứ bảy, có người con gái tên là Cù-đà-di thuộc dòng họ Thích, muốn tìm người bạn đời, vậy xin loan báo cho tất cả thanh niên khắp nội thành, ai muốn cưới nàng làm vợ, mãn ngày thứ sáu bước sang ngày thứ bảy, hãy tề tựu về trước cửa cung.

Được tin này qua ngày thứ bảy, năm trăm đồng tử Thích chủng, mà Thái tử Tất-đạt-đa là người đứng đầu, đều vân tập nơi cửa cung. Lúc này Đại vương Tịnh Phạn cùng các vị đại thần kỳ cựu trong hoàng gia cùng với vô số dân chúng, nam nữ lão ấu, đều tề tựu trước cung điện nhà vua. Khi ấy những kẻ hầu hạ Thái tử cùng với những người hầu hạ các đồng tử khác, cùng ngắm sắc đẹp nàng Cù-đà-di, họ thảo luận với nhau, không biết nàng sẽ chọn đồng tử nào làm chồng.

Ngày thứ sáu đã qua, bước sang rạng ngày thứ bảy, tiểu thư Cù-đà-di tờ mờ sáng dùng nước trong sạch tắm gội, rồi dùng các thứ hương vi diệu thoa lên thân với y phục nhiều màu sắc tuyệt đẹp, với các chuỗi anh lạc và các tràng hoa thơm trang điểm trên thân, nàng đem theo nhiều tỳ nữ hầu hạ hai bên, lại có nhũ mẫu và các vị cung giám có trách nhiệm hướng dẫn, theo thứ lớp trước sau chậm rãi tiến vào cửa cung.

Còn đồng tử Nan-đà và Đề-bà-đạt-đa, đều là bậc đứng đầu trong năm trăm đồng tử hoàng gia, cả hai sáng sớm ngày thứ bảy dùng nước nóng hương thơm tắm rửa, thoa vào mình bằng các loại dầu thơm, cũng như nàng Cù-đà-di nói ở trên. Chỉ có một mình Thái tử Tất-đạt-đa không trang sức, ăn mặc bình thường, chỉ đeo vòng tai và ba tràng hoa bằng vàng trang điểm trên đầu.

Lúc ấy nhũ mẫu hỏi nàng Cù-đà-di:

-Con muốn chọn đồng tử nào làm chồng?

Cù-đà-di tuần tự đưa mắt quán sát một lượt năm trăm đồng tử, rồi trả lời:

-Thưa mẹ, mẹ phải biết các đồng tử này có rất nhiều chuỗi anh lạc trang điểm trên thân, giống như phụ nữ. Theo ý nữ nhân của con thì người thanh niên trang điểm như vậy là tướng khiếp nhược, không phải tướng đại trượng phu của nam nhi; đây là kiểu phục sức lộng lẫy của phụ nữ để mê hoặc đàn ông. Bậc nam nhi không cần trang điểm trên thân như vậy, tướng đại trượng phu có đồ phục sức của nó. Thân Thái tử Tất-đạt-đa tự có oai quang không cần dùng chuỗi anh lạc tô điểm, chẳng cần dùng vật bên ngoài trang điểm dung nhan, nội thân tự nhiên đầy đủ vẻ tướng đại trượng phu, ý con muốn chọn Thái tử Tất-đạt-đa làm chồng.

Lúc ấy tay mặt của nàng Cù-đà-di cầm tràng hoa Tu-ma-na đi qua một vòng trước mặt đại chúng, rồi cuối cùng nàng hướng về Thái tử Tất-đạt-đa, đến nơi nàng đứng nghiêm chỉnh, hai tay kính cẩn nâng tràng hoa từ từ đeo vào cổ Thái tử, rồi đưa tay choàng lấy cổ mà nói: Này Thái tử Tất-đạt-đa, ngày nay thiếp cầu Thái tử làm người bạn trăm năm.

Thái tử đáp:

-Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời nàng vừa nói! Rồi Thái tử lấy một tràng hoa Tu-ma-na đeo vào cổ Cù-đà-di và nói: Ta nay nhận nàng làm vợ, nàng nay nên làm vợ ta.

Khi ấy Đại vương Tịnh Phạn thấy việc hy hữu như vậy, rồi vui mừng hớn hở tràn ngập tâm can, không thể chế ngự được. Bấy giờ vô số người yêu mến Thái tử ở trong đại chúng, hoặc nhảy tung lên cao, hoặc đứng co một chân xoay tròn, hoặc tung chuỗi ngọc hay áo mão, ca múa vui vẻ, đều cao giọng xướng lớn tiếng: Hoan hô! Hoan hô!

Còn năm trăm đồng tử kia cùng quyến thuộc hầu hạ của họ, xúm xít cùng nhau với vẻ mặt thiểu não âu sầu, không một ai có vẻ mặt tươi vui, họ cúi đầu hổ thẹn, ôm lấy tâm tư chán nản giải tán ra về.

Lúc ấy Thái tử Tất-đạt-đa hết sức toại ý, có bao nhiêu của cải ngọc ngà quý báu, cùng bao nhiêu mỹ phẩm khác, đều sắp đặt đầy đủ để làm sính lễ. Lại dùng rất nhiều chuỗi anh lạc tuyệt vời trang điểm cho Cù-đà-di, rồi cho năm trăm thể nữ hầu hạ chung quanh để rước nàng vào nội cung, cùng nhau mặc tình thọ hưởng thú vui.

***

Sau khi Phật thành đạo, Tôn giả ưu-đà-di bạch Phật:

-Con chưa rõ, cúi xin Thế Tôn chỉ dạy, thuở trước khi ngài còn tại gia, ngài có nhân duyên gì với nàng con gái dòng họ Thích Cù-đà-di, khiến nàng ta bỏ năm trăm đồng tử khác chỉ chọn lấy một mình ngài làm chồng với nỗi lòng hân hoan như vậy?

Đức Phật bảo Ưu-đà-di:

-Này Tôn giả ưu-đà-di, ông phải lắng nghe, chẳng phải một đời này nàng Cù-đà-di không ưa thích các đồng tử mà chỉ ưa thích ta, cho đến trong đời quá khứ cũng vậy.

Tôn giả ưu-đà-di liền bạch Phật:

-Cúi xin Thế Tôn vì con nói việc này, con rất muốn nghe.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo ưu-đà-di:

-Ta nhớ thuở quá khứ dưới chân núi Tuyết sơn, có vô lượng vô biên các đàn thú, cùng nhau quây quần đi kiếm mồi, trong bầy thú này có một con cọp cái, thân hình cân đối ít có con nào khác sánh bằng, khoác lên mình một bộ lông óng ánh tuyệt đẹp, trong bầy thú không có con nào sánh lại. Hổ cái ở trong vô số loài thú muôn tìm một con đực kết nghĩa bạn đời. Các thú đực biết vậy đều nói: Người gọi thì ta đến, người gọi thì ta đến. Lại có các con thú khác cùng nhau thảo luận: Các người phải chờ đợi không được tranh giành, để xem thử con hổ cái này chọn ai làm chồng, người đó sẽ là vua của chúng ta.

Lúc bấy giờ trong bầy thú có một con trâu chúa, hướng đến trước mặt hổ cái nói kệ cầu hôn:

Người đời đều lấy phẩn của ta,

Trát tô lên đất cho sạch sẽ.

Hiền thục đoan trang vì cớ ấy,

Cần phải lấy ta làm phu quân.

Hổ cái nói kệ trả lời:

Vai cổ của người thật cao lớn

Chỉ giỏi kéo xe và cày ruộng.

Thân hình xấu xí không biết phận.

Bỗng dưng lại muốn làm chồng ta.

Tiếp theo lại có một đại bạch tượng đến trước hổ cái nói kệ cầu hôn:

Bậc đại tượng vương nơi núi Tuyết

Sức ta chiến đấu thắng mọi loài.

Thế lực oai hùng to như vậy,

Nay nàng nào ngại kết hôn nhân.

Hổ cái nói kệ đáp:

Ngươi nếu thấy nghe sư tử chúa

Kinh hồn rớt mật bôn ba chạy,

Tung phân vãi tiểu cút một hơi

Tư cách nào đâu tác phu chủ.

Lúc ấy, trong đàn thú có một con sư tử chúa, hướng đến trước mặt hổ cái nói kệ cầu hôn:

Người nay quán sát dáng mạo ta,

Phần trước nở nang thân sau thon,

Sống đời ngang dọc tại sơn lâm,

Lại hay bảo vệ nòi giống khác.

Chúa tể các loài chính là ta,

Không có một ai dám địch lại,

Hễ ai thấy mặt và nghe tiếng,

Thảy đều bỏ chạy chẳng dám nhìn.

Ta nay dũng mãnh sức như thế,

Oai thần vĩ đại khó nghĩ bàn,

Như vậy thục nữ nên phải biết,

Nàng nay có thể làm vợ ta.

Hổ cái đối trước sư tử chúa nói kệ trả lời:

Hết sức dũng mãnh thật oai thần,

Thân thể hình hài đều đoan chánh,

Như vậy ta nay chọn được chồng,

Hết lòng tôn thờ và quý trọng.

Con sư tử chúa trong các loài thú thuở ấy, là thân ta ngày hôm nay; hổ cái lúc ấy, nay là nàng Cù-đà-di; còn bầy thú kia nay là năm trăm đồng tử. Lúc ấy hổ cái ghét các thú khác không ưa thích, nghe sư tử nói kệ liền xin làm vợ; đến ngày nay cũng vậy, nàng Cù-đà-di bỏ năm trăm đồng tử dòng họ Thích vì không ưa thích họ, chỉ nhận lấy ta làm chồng.

Bấy giờ Đại vương Tịnh Phạn vì Thái tử chia thể nữ làm ba hạng để hầu hạ trong khi Thái tử an nghỉ:

Hàng cung nữ thứ nhất, gồm các thể nữ hầu hạ Thái tử lúc đầu hôm.

Hàng cung nữ thứ hai, gồm các thể nữ cung phụng Thái tử lúc nửa đêm.

Hàng cung nữ thứ ba, gồm các thể nữ hầu hạ Thái tử lúc cuối đêm.

Hàng cung nữ thứ nhất, có tất cả hai vạn thể nữ đứng hầu hạ chung quanh, mà nàng Da-du là người đứng đầu.

Hàng cung nữ thứ hai, người đứng đầu là Ma-nô-đà-la (nhà Tùy dịch là Ỷ Trì, các Sư khác lại nói. Phi Ý Trì này chỉ nghe tên, trong hiện tại cũng như quá khứ không thấy các sự tích).

Hàng cung nữ thứ ba, nàng Cù-đà-di là người đứng đầu. Tổng cộng số thể nữ hầu hạ Thái tử là sáu vạn người. (Có Sư khác lại nói, tất cả số thể nữ hầu hạ Thái tử gồm có mười vạn người, chia làm ba cung. Trong đó hai vạn thể nữ thuộc giai cấp Sát-đế-lợi dòng họ Thích, tám vạn còn lại đều gồm con gái các dòng họ khác).

Đại vương Tịnh Phạn nhớ lại lời tiên đoán của Tiên nhân A-tư-đà, nên ở nội cung lại lập thêm một cung điện đặc biệt hết sức nguy nga, cao vút vượt lên trên các cung khác, tựa hồ như đám mây lơ lửng trong đêm trăng thu, được cấu trúc bằng các loại đá quý quá sức tưởng tượng. Lan can, lối đi đều hết sức bằng phẳng ngay ngắn không nghiêng lệch. Vì sao? Vì nhà vua sợ Thái tử dạo chơi mọi nơi, thấy điều bất như ý xảy ra. Cung điện thích hợp mọi thời tiết, để Thái tử ở trong đó vui chơi thọ hưởng khoái lạc.

Đại vương lại ra lệnh các thể nữ trong cung phải tạo đủ âm thanh xuất sắc, mỗi loại nhạc cụ phải đến hàng ngàn cái. Số nhạc cụ trong cung gồm có: Một ngàn đàn không hầu, một ngàn đàn tranh, một ngàn đàn cầm năm dây, một ngàn tiểu cổ, một ngàn đàn trúc, một ngàn trương cầm, một ngàn đàn tỳ bà, một ngàn trống cơm, một ngàn trống lớn, một ngàn ống địch, một ngàn ống sênh, một ngàn chụp chõa, một ngàn ống tiêu, một ngàn kèn loa, một ngàn ống sáo, một ngàn tù và.

Tất cả nhạc khí như vậy, mỗi loại phát ra một ngàn âm thanh khác nhau, hòa hợp với một ngàn giọng hát cùng với một ngàn điệu múa khác nhau. Ngày đêm trong cung điện, tiếng ca hát hòa lẫn âm nhạc cùng điệu múa luôn luôn tiếp tục không bao giờ dứt, giống như từ đám mây lớn phát ra âm điệu trầm bổng du dương.

Như vậy, Thái tử ở giữa trăm ngàn thế nữ tuyệt thế giai nhân luôn luôn hầu hạ kề bên, với sự hầu hạ cung phụng, cung cấp đủ mọi thứ, mặc tình thọ hưởng khoái lạc. Tất cả thế nữ dùng đủ thứ chuỗi anh lạc trang sức trên thân, lại dùng các vòng xuyến bằng vàng bạc bảy báu, đeo nơi cổ tay để tạo ra những âm thanh vi diệu, giống như vua trời Đế Thích vui chơi với ngọc nữ chư Thiên. Cùng nhau ca múa vui đùa, duyên dáng thùy mị, giọng nói ngọt ngào, cùng nói cùng cười, choàng nhau ca hát, đưa mắt tỏ tình, hoặc nghiêng mình liếc nhìn bốn phía, hoặc ngoảnh cổ nhìn lại sau lưng, khéo tô son kẻ mặt, uyển chuyển trông thật kiều diễm, phục sức toàn hàng the lụa đủ năm màu sặc sỡ. Bốn bên Thái tử đều là tuyệt thế giai nhân, có sức hấp dẫn quyến rũ vô cùng, làm cho Thái tử thích thú vui chơi, chẳng cần phải viễn du thưởng ngoạn cảnh vật bên ngoài, giống như trời Đế Thích vui đùa với ngọc nữ chư Thiên. Đúng như vậy! Như vậy! Thái tử ở trong lòng mỹ nữ thọ hưởng ngũ dục, thậm chí trong số thế nữ có những nàng rất rành tâm lý trong thú vui ngũ dục, đã làm cho Thái tử mải mê vui đùa, không còn thì giờ nghĩ đến việc du ngoạn ngoài thành.

Đại vương muốn tăng thêm phước đức cho Thái tử, thành lập pháp tu khổ hạnh, bài trừ tất cả ác pháp tà kiến, làm tất cả việc lành, như bố thí của cải, tu các pháp khổ hạnh, tạo đủ các phước nghiệp, để đem các thiện căn này hồi hướng cho Thái tử được tăng trưởng công đức, nguyện Thái tử đừng xuất gia.

Do vậy có kệ nói:

Đại vương tăng phước cho Thái tử,

Bởi lời tiên đoán A-tư-đà.

Điều phục khổ hạnh bỏ điều tà,

Thường cùng trí nhân ngồi suy nghĩ.

Như vậy, Thái tử ở trong cung Phụ vương mặc tình vui chơi thọ hưởng khoái lạc. Chỉ riêng một mình Thái tử hưởng đủ năm thứ dục lạc, thời gian dần dà trôi qua đã mười năm chưa từng ra khỏi thành.

Thuở ấy về phương Nam có một quốc gia tên là Ma-già-đà, Đại vương cai trị nước này thuộc họ Thiên-liên-ni tên Tần-bà-sa-la, trong tâm luôn luôn lo sợ giặc thù xâm chiếm, nên thường nhóm họp quần thần cùng nhau thảo luận, Đại vương tuyên bố:

-Này chư quần thần, khi các khanh ra vào đi về, nên thường quan sát trong ngoài cảnh giới quốc gia, chớ để một kẻ nào đến chiến thắng ta, nếu họ chiến thắng, e họ đoạt mất vương vị.

Liền khi đó quần thần phái hai người đi tuần canh biên phòng quốc gia. Khi hai người này nhận sắc lệnh nhà vua, liền đi quan sát trải qua từ trong nước cho đến địa đầu biên giới các lân bang, sự tuần hành đã gần giáp vòng, lúc ấy hai quan tuần biên giới nghe có người nói:

-Từ đây hướng về phương Bắc có một dãy núi hùng vĩ, thế núi cao vút tên là Tuyết sơn, dưới chân núi có một dòng họ Thích-ca là một chủng tộc hùng mạnh, rất nhiều quyến thuộc giàu có cao sang đầy đủ oai thế, cao quý nhất trong thiên hạ, vừa sinh được một Đồng tử, khi sinh ra xuất hiện nhiều điềm lành, hình dung tuấn tú khôi ngô, đầy đủ ba mươi hai tướng đại Trượng phu và tám mươi vẻ đẹp. Ngày sinh ra Đồng tử có nhiều quốc sư Bà-la-môn đến xem tướng, họ tiên đoán: “Đồng tử này có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp phân minh rõ ràng, ngày nay nếu Đồng tử ở tại gia sẽ làm Chuyển luân thánh vương, thống trị bốn châu thiên hạ, đem mười pháp lành giáo hóa dân chúng, vô số bảy báu, không dùng thế lực quân sự mà các nước quy phục; còn nếu xuất gia sẽ thành Phật đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác… Rồi Ngài sẽ thuyết diệu pháp phạm hạnh thanh tịnh cứu độ chúng sinh.”

Sau khi hai quan tuần hành đi giáp vòng rồi trở về triều, đến trước Đại vương Tần-bà-sa-la tâu đầy đủ mọi việc từ đầu… đến thuyết diệu pháp phạm hạnh thanh tịnh cứu độ chúng sinh, như đã nói ở trên. Do vậy hai vị ấy xin Đại vương, trên từ vua quan, dưới cho đến ấu niên phải mau mau khởi binh tiêu diệt Đồng tử, để dứt hậu hoạn đến chiếm vương vị của Đại vương.

Vua Tần-bà-sa-la nước Ma-già-đà nghe lời tâu như vậy rồi, liền bảo hai sứ giả:

-Hai khanh chớ nói lời như vậy, vì sao? Nếu đúng như lời hai khanh nói, dầu cho Đồng tử kia nhất định làm Chuyển luân thánh vương, đem chánh pháp cai trị giáo hóa dân chúng, ta chừng ấy tùy tùng tuân phục kính thờ, nương oai thần của ngài ta hưởng cảnh an vui, an ổn cai trị dạy dân; nếu Đồng tử xuất gia sẽ thành Phật, ngài đem lòng từ bi thương xót cứu độ chúng sinh, chừng ấy chúng ta thọ giáo pháp làm đệ tử Thanh văn, Nay ta xét hai nhân duyên quả báo phước đức, không nên khởi tâm hưng binh sát hại Đồng tử.

Bấy giờ, Đại vương Tịnh Phạn, đối với cung điện của Thái tử, cho xây dựng thêm thành lũy chung quanh chỉ chừa một cửa, mang tên là thành Dã thú, cánh cửa thành được đặt một chốt máy, khi mở hay đóng cửa, phải dùng đến năm trăm người cùng nhau hợp lực mới mở hay đóng cửa được, tiếng động đóng mở cửa vang dội nửa do tuần. Lớp thứ hai của cung điện cũng chỉ có một cửa và cũng có chốt máy để mở hay đóng, khi mở đóng phải cần đến ba trăm người, tiếng mở đóng cửa vang dội một Câu-lô-xá. Cho đến tọa điện của Thái tử ở trong cùng của cung điện cũng chỉ có một cửa và cũng đặt chốt máy, khi mở đóng cần đến hai trăm người, ở thế gian không có cửa nào sánh bằng, tiếng đóng mở cửa vang dội đến nửa Câu-lô-xá.

Bên trong, bên ngoài ba cửa đều có rất nhiều tráng sĩ, thân mặc áo giáp dũng mãnh tinh nhuệ, tay cầm nhiều loại binh khí khác nhau, như: Cung tên, búa, mác, trường kiếm, chĩa ba, côn sắt, thiết luân, đấu luân, giáo, xà mâu… đứng phòng vệ cẩn mật, trông thật oai hùng. Vì nhà vua sợ Thái tử xa lìa thê thiếp, vượt thành xuất gia, trốn vào trong rừng núi tu hành.

***

Phẩm 15: TIẾNG KÊU GỌI LÌA BỎ NĂM DỤC TRÊN HƯ KHÔNG

Bấy giờ, trên hư không có một Thiên tử tên Tác Bình, thấy Thái tử đã trải qua mười năm trong cung thọ hưởng thú vui ngũ dục, nên suy nghĩ: ‘Bồ-tát Hộ Minh đã buông thả nhiều năm trong cung điện, thọ hưởng thú vui ngũ dục, nhất định tham đắm ngũ dục, tâm tình phóng dật sa ngã hoang mê, thời gian một trăm năm mau chóng, nó chẳng đợi người, Bồ-tát Hộ Minh nay phải tỉnh giác, sớm xa lìa ngũ dục, xuất gia tầm đạo, nay ta trước chẳng chỉ các cảnh giới phải nhàm chán xa lìa, thì chắc chắn Thái tử đam mê, chưa chịu tỉnh ngộ phát tâm Bồ-đề. Ta nay phải tán trợ công đức xuất gia, để ngài thành tựu quả Bồ-đề, nên nửa đêm Thiên tử Tác Bình nói kệ:

Mình bị trói muốn mở trói người,

Như kẻ mù dẫn đám tối mắt.

Mình khỏi trói mới mở trói người,

Như kẻ sáng mắt mới dẫn đường.

Hay thay Tôn giả nay tráng kiện,

Mau phải xuất gia nguyện viên thành.

Đem lại lợi ích cõi trời, người,

Hành giả nếu chẳng lìa ngũ dục,

Lục trần chìm đắm cảnh khó qua,

Chỉ có xuất thế thành đại trí,

Mới hay lìa bỏ ngũ dục này,

Do vậy nhân giả nay nên tránh,

Phiền não chúng sinh nhiều đau khổ,

Nhân giả nên làm đại lương y,

Ban nhiều thần dược phép nhiệm mầu.

Mau đến Niết-bàn bờ giải thoát,

Bóng tối vô minh cảnh tối tăm,

Lưới tà quấn chặt lấy chúng sinh

Mau thắp ngọn đèn đại trí tuệ,

Sớm giúp tỏ mắt được trời người.

Thiên tử Tác Bình ở trên hư không nói kệ này rồi, do oai thần nhân duyên khuyến phát, cảm thông đến sức phước đức thiện căn đời trước của Thái tử, khiến cho tất cả tiếng ca hát và âm nhạc của thể nữ trong cung chẳng thuận với thú vui ngũ dục, lại phát ra Âm thanh tín giải vi diệu diễn tả cảnh Niết-bàn, tự nhiên phổ ra lời kệ:

Pháp thế gian vô thường

Thí như mây phát chớp.

Tôn giả nay đúng lúc,

Nên bỏ tục xuất gia.

Tất cả pháp vô thường,

Như đồ ngói bình chén,

Như đồ mượn của người,

Như đất khô đem đắp,

Chẳng bao lâu lại sập,

Như vách bùn mùa hạ,

Như cát hai bờ sông,

Duyên sinh chẳng mấy chốc,

Như lửa của ngọn đèn,

Sinh ra rồi lại diệt.

Như gió chẳng tạm dừng,

Vùn vụt chẳng đứng yên.

Luôn luôn không chân thật,

Ví như lõi cây chuối.

Huyễn thuật dối mắt người,

Tay không phỉnh con nít.

Tất cả pháp sinh ra,

Đều do nhân duyên hiện,

Mỗi pháp do nhân duyên,

Kẻ ngu không hiểu biết.

Ví như người se dầy,

Tay, cây làm nhân duyên.

Như hạt nẩy mầm non,

Bỏ hạt mầm chẳng có,

Lìa nhân duyên chẳng thành,

Chẳng thường chẳng vô thường.

Các pháp do si sinh,

Pháp chẳng trụ vô mình.

Vô minh chẳng phải pháp,

Xưa nay tánh vắng lặng,

Pháp sinh diệt vô thể,

Như ấn in thành dấu.

Chẳng pháp chẳng lìa pháp

Các hành cũng như vậy.

Như mắt chẳng lìa cảnh,

Nhờ mắt cảnh sinh thức,

Ba thứ chẳng lìa nhau,

Ba thứ cũng chẳng thật.

Pháp tịnh, pháp bất tịnh,

Do thức phân biệt sinh.

Phân biệt điên đảo thành,

Tất cả do thức hiện.

Nếu có người trí tuệ,

Tìm kiếm gốc sinh thức,

Biết nó không trụ xứ,

Biết ngã như huyễn mộng,

Hai củi cọ ra lửa,

Nhân thứ ba là tay,

Nếu không ba nhân này,

Thì không thể có lửa.

Nếu người trí suy tìm,

Lửa cũng không xứ sở.

Tìm lửa khắp mọi nơi,

Chẳng thấy nơi xuất hiện.

Tất cả ấm, giới, nhập,

Do nghiệp tham, si sinh

Chúng sinh nhân hòa hợp,

Chân như không chúng sinh.

Nhân yết hầu, môi, lưỡi

Mà phát ra tiêng nói

Tiếng không phải yết hầu

Cũng không lìa duyên ấy.

Do các duyên hòa hợp

Phát tiếng theo ý muốn

Tiếng không ở tại ý

Cũng không có hình sắc

Chỗ sinh và chỗ diệt

Người trí tìm chẳng được,

Sở quán đều vắng lặng

Tiếng nói như âm vang.

Nhân gỗ, nhân các dây

Trí người, ba duyên hợp,

Đàn không hầu phát tiếng

Ba chỗ tìm không thấy.

Nếu người có trí tuệ

Tìm chỗ có tiếng đàn

Tìm khắp các phương hướng

Không thấy chỗ của tiếng.

Do nhân và các duyên

Các pháp sinh như vậy.

Người thông hiểu đúng đắn

Nên quán Không như thế.

Ấm, nhập và các giới

Trong ngoài đều vắng lặng

Tìm Ngã khắp mọi nơi

Như hư không vô hình.

Tướng các pháp cũng vậy

Ngài nơi Phật Định Quang

Xưa kia đã chứng biết

Nay vì trời người dạy

Vì phân biệt điên đảo

Bị lửa dục thiêu đốt,

Nên nổi mây từ bi

Tuôn mưa pháp cam lộ.

Nhớ xưa trải ức kiếp,

Bố thí và trì giới,

Ngài đắc đạo Vô thượng

Thánh tài ban thế gian

Ngài nhớ đời quá khứ

Thánh tài cho kẻ nghèo

Vì dùng Thánh tài nhiếp

Điều Ngự không tham tiếc

Ngài xưa trì tịnh giới,

Dù nghèo, không trộm cắp

Nguyện mở cửa cam lộ,

Vì chúng sinh thuyết pháp.

Nhớ lại hạnh thuở xưa

Nên đóng cửa địa ngục,

Khéo mở đường giải thoát,

Tâm nguyện thành giới hạnh.

Quá khứ tu nhẫn nhục

Nghe tiếng người mắng chửi,

Vì lập hạnh nhẫn nhục

Quán các pháp đều không.

Vì nhớ lại hạnh xưa

Thế gian sân hận nhiều

Dạy trụ hạnh nhẫn nhục

Đừng bỏ nguyện lực ấy.

Ngài xưa hành tinh tấn

Chứng đắc trí vô ngã

Ở trong biển phiền não

Đưa chúng đến bờ kia.

Nhớ chí nguyện thuở xưa

Nhổ bốn khổ cho người

Ra sức đại tinh tấn

Độ thoát các ách nạn.

Quá khứ tu tập thiền

Vì dứt các phiền não

Người chưa điều phục căn

Dạy cho họ điều phục

Ngài nghĩ lại quá khứ,

Thương người còn phiền não.

Các tuệ đều vắng lặng,

Điều phục căn loạn động.

Ngài xưa tu trí tuệ,

Nguyện phá bóng vô minh.

Thương kẻ bị vô minh,

Mở bày mắt chân thật.

Ngài nghĩ lại thuở xưa,

Phiền não phủ chúng sinh.

Chiêu ánh sáng thanh tịnh,

Trí tuệ ngài tối thắng.

Vì thương các chúng sinh,

Phương tiện dạy giải thoát.

Lửa sinh lão bịnh đốt ba cõi,

Đói khát bức xúc chưa từng nghỉ,

Ngài vì thế gian làm cầu lớn,

Đưa người về đến bờ giải thoát.

Chúng sinh lưu chuyển biển phiền não,

Ví như mọt nọ trong ống tre,

Ba cõi luân hồi tợ mây thu,

Qua lại lên xuống không thôi dứt,

Cũng như ảo thuật nơi sân khấu,

Giống dòng nước chảy ngoài khe núi,

Chúng sinh lão bịnh chẳng khác nào.

Hoặc sinh trời, người, ba đường ác,

Si dục các cõi chẳng tự do,

Lăn lóc năm đường không hay biết,

Ví như thợ gốm xoay vòng lửa,

Ngũ dục nơi nơi buộc lấy mình.

Ví như chìm trời sa vào lưới,

Như thú mắc bẫy người thợ săn.

Kẻ tham tiền của không biết đủ,

Như cá đớp mồi dính lưỡi câu,

Cạnh tranh phẫn nộ kết oán thù,

Tiêm nhiễm phiền não thọ các khổ.

Tai họa ngũ dục như dao bén,

Cũng như bình đẹp chứa độc dược,

Cần nên xa tránh như phẫn uế,

Tham lam luyến ái mất chánh tâm,

Nguyên nhân tiếp tục sinh các cõi,

Ái dục tăng trưởng chưa từng dứt.

Cảnh giới sáu trần phừng phực cháy,

Khác nào cỏ khô gặp đống lửa,

Chóng tình xa lìa sớm xuất gia.

Người trí quán sát cảnh ngũ dục,

Đáng sợ dường như hầm lửa lớn,

Cũng như khối thịt trên dao thớt.

Người chìm đầm lầy cũng như vậy,

Như lưỡi liếm mật trên dao bén,

Như đụng đầu rắn và giặc thù,

Thánh nhân quán dục cũng như vậy.

Như tên như mác như dao kiếm,

Như thịt trúng độc chẳng dám ăn,

Tất cả oán thù, dục trên hết,

Ngũ dục giống như trăng đáy nước,

Như bóng trong gương, vang hang núi,

Như cảnh sân khấu của huyễn sư,

Như trong cảnh mộng thấy vui buồn,

Kẻ trí thấy dục cũng như vậy.

Các pháp thế gian giả dối luôn,

Sợ sệt không thể được tự tại,

Thí như sóng nắng nào có thật,

Cũng giống bọt nước nổi trên sông.

Các việc như thế do phân biệt,

Người trí quán sát như vậy cả.

Phàm người đời đang tuổi thanh xuân,

Thể lực dồi dào ưa ngũ dục,

Đến lúc tuổi già râu tóc bạc,

Bị chúng phụ bạc như sông khô.

Giàu sang phú quý nhiều phóng dật,

Những người như thế đầy tham dục,

Về sau hết của khổ bần cùng.

Không được thản nhiên bỏ ngũ dục,

Như cây nặng trĩu quả cùng hoa,

Mọi người đua nhau đến tranh hái.

Người thích phung phí cũng như vậy,

Bị người đến lấy không chán nhàm.

Đến lúc tuổi già của hết sạch,

Khất cầu người khác chẳng ai cho,

Giàu sang sắc đẹp thân tráng kiện,

Người thích kết giao cùng chơi bời

Của hết đi xin người chẳng đoái,

Tuổi già lưng gù tay chống gậy.

Như cây bị ngã không ai thích,

Đáng sợ như vậy cảnh già nua,

Ngài mau xuất gia cầu Chánh giác,

Sau khi thành đạo vì người nói,

Già bịnh ốm gầy hại chúng sinh.

Như dây sắn bám quanh đại thọ,

Thân già sức yếu hết siêng năng,

Khô gầy bại hoại như cây mục,

Cảnh già đoạt mất vẻ đẹp xinh,

Nhan sắc tươi hồng hóa nhãn nheo,

Già biến hoa tươi thành hoa héo.

Dục lạc cướp vui khiến mất vui,

Già chiếm sức lực đưa đến chết,

Các bệnh hiện như nai sa hầm,

Ngài thấy thế gian trăm thứ bệnh,

Mau dùng phương tiện pháp giải thoát.

Giống như trời đông mưa bão tuyết,

Cây nhào cành gãy thân tả tơi,

Người đời già bịnh nhiều thứ hiện,

Các căn suy thoái cũng thế thôi,

Già đến khiến người kho lẫm hết,

Người đời sợ già hơn các khổ,

Mạng chung thần thức quỷ dẫn đi.

Như mặt trời lặn không còn thấy

Mạng chung làm người rời ân ái,

Khiến người ghét sợ chẳng muốn nhìn,

Chỉ muốn cùng người ân ái hiệp,

Bỗng như lá rụng vào dòng nước,

Chết đến khiến người không tự chủ.

Thần thức như cỏ bị nước trôi,

Thác sinh cõi khác không bạn hữu,

Theo nhân tác nghiệp thọ báo thân,

Quỷ bắt nuốt hồn vô lượng chúng.

Như cá Ma-kiệt nuốt tàu buôn,

Như chim cánh vàng nuốt rồng lớn,

Như lửa hồng đốt đầm cỏ khô,

Khổ não như vậy bức xúc người.

Đại sĩ thuở trước phát nguyên lớn,

Nhớ lại bản nguyện nay đã đến,

Nên phải xả dục kíp xuất gia.

Nhớ xưa tu bố thí,

Giới nhẫn và tinh tấn,

Thiền định cùng trí tuệ,

Vì người chẳng vì mình.

Đến kiếp này nguyện mãn,

Xuất gia gấp cứu người.

Ngài xưa thí của quý,

Vàng bạc và anh lạc,

Thường lập hội Vô già,

Tùy theo nhu cầu thế.

Xin con ngài cho con,

Muốn cháu ngài cho cháu,

Xin vợ ngài cho vợ,

Xin vua ngài nhường ngôi,

Xin của không trái ý.

Khi xưa ngài làm vua,

Tên là Đại Văn Đức.

Lại vua đầy phước đức,

Tên Ni-dân-đà-la.

Lại vua A-tư-đà,

Lại vua tên Sư Tử,

Tất cả hàng vua này,

Bố thí ngàn của quý.

Xưa lại có Đại vương,

Tên Thường Tư Chư Pháp

Lại vua đầy phước đức,

Tên là Chân Thật Hạnh,

Các vua tư duy pháp.

Thuở xưa có Đại vương,

Siêng năng tên Văn Nguyệt,

Lại sinh một vương tử,

Quý danh Phước Nghiệp Quang

Bao nhiêu ân đức lớn,

Cho đến biết ân nghĩa.

Ngài xưa làm Đại vương,

Quý danh Nguyệt sắc Tiên

Lại tên Kiện Mãnh Tướng,

Rồi tên Thật Tăng Trưởng,

Lại tên cầu Thiện Ngôn,

Rồi tên Hữu Thiện Ý,

Lại tên Điều Phục Căn,

Tất cả vua như vậy,

Đức hạnh rất tinh tấn,

Xưa nay ngài thực hiện,

Ngài xưa làm Đại vương,

Quý danh là Nguyệt Quang.

Kế đến tên Thắng Hạnh

Rồi đến tên Liên Thổ,

Kế đến tên Phương Chủ

Rồi đến tên Kiện Thí,

Kế đến Ca-thi vương,

Rồi đến Bảo Kế vương.

Hàng Đại vương như vậy,

Tức ngài không ai khác.

Bao nhiêu của quý giá,

Đến xin đều tùy thuận.

Thuở nọ ngài thí của,

Nay xin ban pháp tài.

Ngài xưa ở quá khứ,

Gặp Phật như Hằng sa.

Chư Phật Thế Tôn đó

Ngài đã từng cúng dường

Vô lượng đồ cúng dường,

Hiến dâng không lẫn tiếc.

Chí cầu đạo không ngừng,

Mong chúng sinh giải thoát.

Nay chính thật đúng lúc,

Xuất gia chớ ở nhà.

Phật ngài gặp đầu tiên,

Tôn hiệu Bất Không Kiến.

Đem hoa Tỳ-xa-ca,

Hoan hỷ cúng dường Phật.

Quá khứ có Đức Phật,

Hiệu Tỳ-lô-giá-na,

Một đời vui chiêm bái.

Quá khứ có Đức Phật,

Danh hiệu Vi Diệu Âm,

Đem một A-lê-lặc,

Cúng dường Đức Thế Tôn.

Quá khứ có Đức Phật,

Danh hiệu Bạch Chiên-đàn,

Ngài đứng trước Đức Phật,

Lặng yên cúng cọng cỏ

Quá khứ có Đức Phật,

Danh hiệu là Liên Thố

Khi sắp vào đại thành,

Ngài rải nắm bột hương.

Kế Phật hiệu Pháp Chủ,

Khen Đức Phật thuyết pháp,

Nghe pháp ưa thảo luận.

Ngài khen vô lượng lời,

Tôn trọng thường cúng dường.

Kế đến gặp Đức Phật,

Tôn hiệu Phổ Thị Hiện,

Thấy Phật ngài ca ngợi.

Kế đến có Đức Phật,

Tôn hiệu Xí Thạnh Phần,

Do vì ngài hoan hỷ,

Chiêm ngưỡng thân Đức Phật,

Lại đem tràng hoa vàng,

Cúng dường Đức Phật này.

Nay nên nhớ lại Phật

Chớ để tâm lãng quên,

Kế đến có Đức Phật,

Tôn hiệu Quang Tướng Tràng,

Cầm một nắm đậu xanh.

Cúng dường Đức Phật này.

Quá khứ có Đức Phật,

Tôn hiệu là Trí Tràng

Ngài cầm hoa Thâu-ca

Hiến dâng cúng dường Phật.

Kế đến có Đức Phật,

Tôn hiệu Điều Phục Xa,

Ngài thấy Đức Phật rồi,

Đứng trước Phật khen ngợi.

Tiếp Phật hiệu Bảo Thắng.

Trước Phật thắp nhiều đèn

Cúng vô lượng diệu dược.

Phật hiệu Nhất Thế Thắng

Thường cúng chuỗi trân châu.

Kế gặp Phật Đại Hải,

Cúng dường các hoa sen.

Đến Phật Liên Hoa Tạng,

Cúng dường tàng lọng lớn.

Hầu hạ Phật Sư Tử,

Từng cúng tòa cỏ mềm.

Nơi Phật Sa La Vương,

Cúng dường các đồ dùng.

Đến trước Phật Phu Hoa,

Cúng dường sữa hảo hạng.

Nơi Phật Da-du-đà,

Cúng hoa Câu-đà-la.

Thấy Phật Thật Kiến rồi,

Hoan hỷ cúng ẩm thực.

Xưa Phật hiệu Trí Sơn,

Cúi thân lễ Đức Phật.

Có Phật hiệu Long Đức,

Dâng con mình cho Phật.

Phật Cao Phi Không Hành,

Thường cúng bột chiên-đàn.

Kế Phật hiệu Đế-sa,

Ngọc quý cùng hoa đỏ.

Từng cúng dường Phật này,

Gặp Phật Đại Trang Nghiêm.

Đem hoa hương Chiêm-bặc,

Cúng dường Đức Phật này.

Từng gặp Phật Quang Vương,

Đem ngọc quý cúng dường,

Xưa gặp Phật Thích-ca,

Đem nhiều hoa bạc tốt.

Cúng dường Đức Phật này,

Kế thấy tướng Đế Thích,

Thấy rồi ca ngợi khen.

Xưa Đức Phật tên là,

Quảng Đại Nhật Thiên Diện,

Cầm nhiều hoa tốt đẹp,

Cúng dường Thế Tôn này.

Kế tiếp lại có Phật,

Danh hiệu là Thắng Tôn,

Đem nhiều hoa bạc tốt,

Trang nghiêm trên thân Phật.

Thuở xưa có Như Lai,

Tôn hiệu là Long Thắng,

Thắp đèn cúng dường Phật.

Nơi Như Lai Phú-sa,

Từng cúng dường nỉ trắng,

Nơi Phật Dược Sư Vương,

Đem bảo cái cúng dường.

Phật hiệu Đại Mâu-ni,

Lại có tướng Sư Tử,

Thế Tôn công đức lớn,

Đem lưới ngọc cúng dường.

Có Phật hiệu Ca-diếp,

Cúng dường nhiều âm nhạc.

Xưa Phật hiệu Giải Thoát,

Cúng dường nhiều bột hương,

Phật Thế Tôn Bảo Tướng,

Cúng dường bằng hoa trời.

Chư Phật A-sô-bà,

Cung thỉnh ngồi kiệu voi.

Vua thế gian kính Phật,

Đem tràng hoa cúng dường,

Phật Thế Tôn Thi-khí,

Đem vương vị cúng dường.

Có Phật hiệu Nan Hàng,

Đem nhiều hoa cúng dường,

Nơi Phật Đại Nhiên Tôn,

Đem thân mình cúng dường.

Trước Phật Liên Hoa Thượng,

Cúng dường chuỗi anh lạc,

Trên mình Phật Pháp Tràng,

Rải các hương hoa tốt.

Nơi Thế Tôn Nhiên Đăng,

Cúng nấm hoa sen xanh.

Các Đức Phật như vậy,

Ngoài ra còn vô lượng,

Khó nói, khó nghĩ bàn,

Trong các kiếp quá khứ,

Ngài đã từng cúng dường,

Lại đem vô lượng thứ,

Đồ cúng dường tối diệu,

Cúng chư Phật quá khứ,

Không sinh tâm mỏi mệt.

Nay nghĩ cúng dường kia,

Suy tưởng Phật quá khứ,

Vì thương các chúng sinh,

Phát lòng từ giải thoát,

Tỉnh ngộ chớ mê đời.

Ngài ở trong quá khứ,

Nơi Đức Phật Nhiên Đăng,

Cúng dường Đức Phật rồi.

Sớm chứng Vô thượng sinh,

Và chứng năm thần thông,

Lại chứng Thuận pháp nhẫn.

Rồi Tôn giả sau đó,

Cúng nhiều Phật hơn trước.

Vô số a-tăng-kỳ,

Các kiếp số như vậy,

Các kiếp đó qua rồi,

Chư Phật cũng diệt độ.

Số thân Ngài thuở xưa,

Thọ trong các kiếp ấy,

Dòng họ và tên tuổi,

Tất cả đều diệt hết.

Các pháp biến chẳng thường,

Tướng thế gian thay đổi,

Mau bỏ cảnh giả dối,

Nên mau sớm vượt thành.

Sinh lão bệnh tử theo,

Nạn ấy thật đáng sợ.

Cũng như kiếp lửa đến,

Đốt cháy sạch thế gian,

Lửa vô thường cũng vậy,

Đốt sạch tất cả kiếp.

Các khổ não như thế,

Làm sao được tạm dừng,

Nên quán các chúng sinh,

Chìm trong tối phiền não,

Ngu si không mắt tuệ,

Không thể tự biết được,

Phát tâm đại tinh tấn,

Công đức được viên mãn,

Vì tất cả chúng sinh,

Nên xuất gia kẻo trễ.

Khi ấy, tất cả thể nữ trong cung ca hát trổi nhạc, trong các tiếng ca nhạc này lại diễn các pháp âm, muốn cho Thái tử nhàm chán dục lạc thế gian, tâm sinh giác ngộ.

***

Phẩm 16: THÁI TỬ DẠO CHƠI GẶP NGƯỜI GIÀ

Thiên tử Tác Bình muôn Thái tử ra khỏi thành hướng đến hoa lâm viên, để mục kích việc tốt xấu mà phát tâm nhàm chán thế gian, lần lần khuyến khích rời bỏ cung điện. Bấy giờ các thể nữ trong cung ca múa xướng hát, lần lần sinh mỏi mệt, muốn ca ngợi quang cảnh hấp dẫn nơi Lâm viên, nên họ xướng lên:

-Thánh tử lắng nghe, quang cảnh hoa lâm viên rất hấp dẫn, nào là mặt đất phủ bằng một lớp cỏ non xanh tươi mềm mại, cây cối cành lá rậm rạp, hoa quả sum suê tươi tốt khoe sắc, lôi cuốn du khách; lại đủ cắc loại chim quý ca hát líu lo âm thanh vi diệu, nào là: Hồng nhạn, khổng tước, anh võ, chim sáo, câu-si-la, uyên ương…

Thái tử nghe tiếng ca hát như vậy, ý muốn du ngoạn nên bảo người đánh xe:

-Nay khanh nên mau mau chuẩn bị xe cộ, trang hoàng thật đẹp đẽ trang nghiêm, ta nay muốn đến thắng cảnh Hoa lâm viên thưởng ngoạn mảnh đất an lành.

Người đánh xe nghe lời ấy rồi, liền tâu Thái tử:

-Hạ thần xin tuân giáo lệnh không dám trái ý.

Rồi vội vã đến yết kiến Đại vương Tịnh Phạn:

-Xin Đại vương biết cho, Thái tử ngày hôm nay muốn đến thắng cảnh Hoa lâm viên thưởng ngoạn mảnh đất an lành.

Đại vương Tịnh Phạn liền ban sắc lệnh, tất cả mọi nơi trong thành Ca-tỳ-la rưới nước quét dọn sạch sẽ, tẩy trừ các thứ phẫn uế, sỏi sạn ngói đá, những nơi gồ ghề hầm hố phải san bằng, rồi dùng nước thơm rưới lên không cho nổi bụi, tiếp dùng hồ thơm tô lên mặt đường, sau đó dùng các loại hoa rải khắp trên các đường, mọi nơi đều xông các danh hương vi diệu, ngã tư đầu đường khắp mọi nơi đều đặt những bình nước cắm đầy các thứ hoa, nơi nơi trưng bày các cây chuối, giữa các cây chuôi treo các phan lọng, đầy đủ các màu sắc sặc sỡ, lại dùng các tràng phan bằng nhung lụa cùng các vật quý giá treo trên những cây chuôi tăng thêm vẻ trang nghiêm, lại dùng các chuỗi anh lạc trân châu cũng treo nơi mỗi cây, và dùng lưới bảy báu mỗi mắt lưới có những chiếc chuông rung phát ra âm thanh vi diệu; hoặc dùng bảy báu làm hình mặt trời mặt trăng và hình chư Thiên được gắn thêm các chuỗi anh lạc, xen vào các mành lưới; lại treo đuôi trâu trắng và các loài thú khác.

Theo sắc lệnh nhà vua đã ban ra, tất cả nội thành Ca-tỳ-la dọn dẹp các thứ không đẹp mắt, trưng bày các thứ quý giá tốt đẹp, trang hoàng thành phố hết sức tráng lệ như thành Càn-thát-bà. Nội thành trang hoàng xong rồi nhà vua lại ra lệnh chỉnh trang viên lâm, dọn dẹp các thứ ô uế… Cho đến treo các chuông rung bằng chất liệu quý, như trang hoàng nội thành nói ở trên. Trong lâm viên có những cây mang tên nam nhi thì dùng các chuỗi anh lạc nam nhi để trang hoàng; cây mang tên nữ nhi thì dùng chuỗi anh lạc loại phụ nữ để trang sức. Lại cho người đánh trống rung chuộng loan báo khắp nội thành: Ngày nay Thái tử sắp ngự giá, nên tất cả những người già bệnh hay thây chết, các người đui điếc hay câm ngọng, sáu căn không đầy đủ, nói chung tất cả những điều không tốt đẹp, không vừa ý, tuyệt đối không được xuất hiện ngoài đường, chớ để khi Thái tử đi qua trông thấy.

Bấy giờ, người đánh xe trang hoàng xe ngựa, đâu đó đều được chu toàn, rồi đến tâu Thái tử:

-Nay tất cả xa-giá đều được chu toàn, chính là lúc khởi hành, xin Thái tử ngự giá xuất thành đến thắng cảnh hoa viên thưởng ngoạn mảnh đất an lành.

Thái tử từ tòa đứng dậy, ung dung tiến đến tay xe bước lên bảo xa, với tư cách oai thần của một Đại vương, thế lực hùng hậu trông thật oai vệ, phát xuất từ cửa thành phía Đông, hướng về phía thắng cảnh Hoa lâm viên để thưởng ngoạn mảnh đất phước lạc.

Lúc ấy Thiên tử Tác Bình ở trước Thái tử trên đường tiến về hoa viên, biến thành một ông già rách rưới, lưng còng, đầu gục xuống phía trước, răng rụng miệng móm, tóc trắng như tuyết, hình dung tiều tụy, da dẻ sần sùi đen sạm, da bọc lấy xương không còn một chút thịt, dưới cổ da dùn thòng xuống như yếm con bò, thân thể khô gầy chỉ nhờ vào sức cây gậy, hơi thở khó khăn, thở ra thành tiếng, nên lúc nào cũng nghe tiếng khò khè trong cổ họng như tiếng kéo cưa, tay chân run rẩy, tuy nhờ cây gậy làm điểm tựa nhưng vẫn nghiêng qua ngã lại, đi đứng chẳng vững, tướng mạo quá già nua như vậy, lụm cụm xiên qua ngả lại, đi đồng chiều trước mặt Thái tử.

Thái tử thấy ông già thân thể run rẩy, các tướng suy yếu có dấu hiệu không tốt, đi lòm khòm một cách khó khăn trước mặt… như trên đã nói… Thái tử thấy vậy liền hỏi quan ngự giá: Người này là người gì mà da bọc lấy xương, nhăn nheo đen đủi, cặp mắt đỏ ngầu, mũi dãi loang lổ hết sức xấu xí? Tại sao người này xấu tệ không giống một ai? Lại thêm đôi mắt sụp vào, răng rụng, miệng móm, so với mọi người hết sức kỳ lạ, không có cái gì có thể coi được.. Liền nói kệ hỏi người đánh xe:

Người đánh xe giỏi nay nghe rõ:

Kẻ trước mặt ta là người gì?

Thân hình không thẳng đầu hói tóc

Sinh đã vậy, hay già mới có.

Bấy giờ Thiên tử Tác Bình dùng thần lực khiến người đánh xe trả lời:

-Bạch Thái tử Đại Thánh, theo thế gian, người như thế gọi là già.

Thái tử lại hỏi:

-Trong thế gian, như thế nào là già?

Người đánh xe liền tâu:

-Thưa Thái tử, phàm gọi là già thì người ấy bị sức bức xúc của tình cảnh người lớn tuổi, cơ thể bị suy thoái, các giác quan lần lần bị hư hoại, không còn cảm giác hiểu biết như lúc trẻ, khí lực bạc nhược, thân thể tiều tụy; là lúc con người bước sang giai đoạn khổ sở, bị thân tộc xua đuổi, không biết lấy gì sinh sống, cũng không biết nương tựa vào đâu, vả lại những người nầy chẳng sống được bao lâu, mai chiều thâm nặng sẽ kết liễu. Vì tất cả những lý do như vậy nên gọi là già nua.

Rồi người đánh xe vì Thái tử mà nói kệ:

Cảnh già thật là đại khổ não,

Cướp đoạt sắc đẹp và thú vui,

Giác quan suy thoái tâm lú lẫn,

Thân thể sinh hoạt không chủ động.

Thái tử nghe bài kệ này, liền hỏi người đánh xe:

-Cảnh già này là chỉ theo quy luật riêng của một người nào khiến như vậy, hay tất cả tướng thế gian đều như vậy?

Người đánh xe trả lời:

-Thưa Thái tử phải biết, cảnh già này không phải quy luật riêng cho một người nào mà tất cả chúng sinh trong thế gian đều phải chịu.

Thái tử lại hỏi:

-Thân ta ngày nay, rồi cũng sẽ chịu quy luật già này chăng?

Người đánh xe đáp:

-Thưa Thái tử, đúng như vậy, như vậy. Sang hèn tuy khác nhau, nhưng cái gì đã sinh ra, đều không thoát khỏi quy luật này, ngay thân chúng ta ngày nay vẫn đầy đủ tướng trạng già nua, nhưng chưa hiện ra mà thôi.

Thái tử lại hỏi người đánh xe:

-Nếu thân này của ta không tách khỏi quy luật già, chưa vượt qua tướng suy thoái xâu xí ấy, ta nay chẳng cần đến Hoa lâm viên ngao du thưởng ngoạn, hãy lập tức hồi giá trở về nội cung, ta sẽ tư duy xem nên dùng phương pháp gì để thoát khỏi cảnh khổ này.

Người đánh xe đáp:

-Theo lời Thái tử dạy, hạ thần không dám trái lời.

Liền đánh xe quay về nội cung. Thái tử trở về nội cung, ngồi trên bổn tọa chánh niệm tư duy: “Ta cũng sẽ già, chưa vượt qua được quy luật ấy, tại sao ta buông lung phóng dật”.

Lúc Đại vương hỏi người đánh xe:

-Ngươi hầu Thái tử ra đi từ nội cung cho đến Hoa lâm viên, dạo chơi quan sát phong cảnh, Thái tử có được đẹp mắt vừa lòng, vui vẻ hay không?

Người đánh xe quỳ gối đáp:

-Tâu Đại vương, xin ngài biết cho, Thái tử ra đi du ngoạn mới đến giữa đường, ra lệnh dừng xe hồi giá, chưa đến Hoa lâm viên.

Đại vương lại hỏi:

-Tại sao Thái tử giữa đường trở về, không đến viên lâm?

Quan ngự giá đáp:

-Tâu Đại vương, xin ngài biết cho, Thái tử muốn đến hoa viên thưởng ngoạn vui chơi, nhưng mới đến giữa đường bỗng thấy một ông già nơi vệ đường, tay chống gậy, thân người run rẩy, té xuống ngồi dậy, không thể đi đứng vững vàng. Thái tử thấy người già này rồi, liền ra lệnh hồi giá trở về nội cung, ngài ngồi kiết già chánh niệm tư duy.

Đại vương Tịnh Phạn thầm nghĩ: “ít có thay! ít có thay! Hình tướng ông già như vậy. Lời thọ ký Tiên nhân A-tư-đà quyết định chân thật, e Thái tử nhất định xuất gia, ta nay nên vì Thái tử tăng thêm thú vui ngũ dục, nếu Thái tử gần gũi nhiều ngũ dục, thỏa mãn tâm mắt, tham đắm hoang mê, không xả tục xuất gia, thì đúng với tâm ta.” Liền khi ấy Đại vương vì Thái tử Tất-đạt-đa tăng thêm các thú vui ngũ dục cho thật nhiều, để tâm Thái tử say đắm không còn nghĩ đến chuyện xuất gia.

Có kệ nói:

Trong cung thọ hưởng nhiều dục lạc,

Xuất thành dạo chơi gặp người già,

Hồi giá về cung tâm lo nghĩ,

Than ôi ta chưa thoát cảnh già

Đại vương nghe qua lời ngự giá,

Tâm lo Thái tử bỏ vương triều,

Tăng thêm ngũ dục cùng thể nữ,

Khiến mê ân ái nối nghiệp vua.

Thuở ấy, Thái tử ở trong cung, đầy đủ năm thứ ngũ dục, mặc tình thọ hưởng thú vui, không còn nghi vấn cảnh già mà chỉ riêng mình Ngài là quý trọng hơn cả.

***

Phẩm 17: VUA TỊNH PHẠN THẤY ĐIỀM MỘNG

Bấy giờ Thiên tử Tác Bình muốn cho Thái tử phát tâm xuất gia nên một đêm nọ dùng thần lực làm cho Đại vương Tịnh Phạn thấy bảy điềm chiêm bao.

Khi ấy Đại vương Tịnh Phạn đang ngon giấc trên long sàng, mộng thấy các điềm chiêm bao:

-Điềm chiêm bao thứ nhất: Thấy một chiếc lọng lớn của trời Đế Thích, chung quanh chiếc lọng này có vô số người nâng đỡ, ra đi từ cửa Đông thành Ca-tỳ-la.

-Điềm chiêm bao thứ hai: Thấy Thái tử ngự giá trên chiếc xe mười con voi lớn, ra đi từ cửa Nam thành Ca-tỳ-la.

-Điềm chiêm bao thứ ba: Thấy Thái tử ngồi nghiêm chỉnh trên xe tứ mã, ra đi từ cửa Tây thành Ca-tỳ-la.

-Điềm chiêm bao thứ tư: Thấy một bánh xe, được trang hoàng bằng các ngọc quý, ra đi từ cửa Bắc thành Ca-tỳ-la.

-Điềm chiêm bao thứ năm: Thấy Thái tử đứng nơi ngã tư đại lộ trong thành Ca-tỳ-la, tay cầm dùi đánh chiếc tróng lớn.

-Điềm chiêm bao thứ sáu: Thấy Thái tử ngồi trên tầng lầu cao ở trung tâm thành Ca-tỳ-la, rải các vật quý giá xuống bốn mặt lầu, lúc ấy có vô số dân chúng đến lấy mang về.

-Điềm chiêm bao thứ bảy: Thấy có sáu người cách ngoài thành chẳng bao xa cất tiếng, kêu khóc rơi lệ, hai tay bứt lấy đầu tóc lăn lộn trên đất.

Trong cơn mộng, khi Đại vương thấy các điềm như vậy, tâm rất đỗi bàng hoàng lo sợ, lông tóc dựng ngược lấy làm quái dị, cả người run rẩy, giật mình thức dậy liền gọi các đại thần đang ở trong cung đến bảo:

-Này các khanh, đêm nay ta đương ngon giấc bỗng thấy các việc hết sức kinh sợ. Rồi nhà vua theo thứ tự kể bảy điềm chiêm bao như đã nói ở trên. Đại vương còn dặn: Các khanh phải nhớ rõ các điềm chiêm bao này, đừng để quên mất, sáng sớm khi ta lâm triều, ở giữa bá quan văn võ, các khanh sẽ kể lại cho ta nghe.

Các đại thần nghe điềm chiêm bao và lời căn dặn của Đại vương rồi liền tâu:

-Tâu Đại vương, chúng thần vâng lời Đại vương cố gắng ghi nhớ, thật chẳng dám quên.

Sáng sớm khi Đại vương lâm triều ở giữa bá quan văn võ, các đại thần đem việc chiêm bao của vua tâu lại một cách chi tiết cho nhà vua biết.

Vua Tịnh Phạn nghe đại thần tâu rồi liền triệu tập các Bà-la-môn giỏi bàn mộng trong nước đến bảo:

-Các khanh là những bậc đại trí, có thể biết được điềm chiêm bao của ta, như những gì ta kể vừa rồi, các khanh xem thử hậu quả như thế nào?

Các vị Bà-la-môn thông thái ấy, vâng lệnh nhà vua, mỗi vị đều suy nghĩ, nhưng vẫn không tìm được lời giải đáp. Họ mới tâu nhà vua:

-Xin Đại vương biết cho, chúng thần từ xưa chưa từng được nghe nói đến các điềm chiêm bao như thế. Nay được nghe qua, tâm ý mờ mịt, không biết các điềm chiêm bao này có hậu quả như thế nào.

Đại vương Tịnh Phạn nghe các tướng sư Bà-la-môn nói như vậy tâm lại lo sầu, sinh ra ý nghĩ:

-Hoặc Thái tử không còn làm Chuyển luân thánh vương sao, đâu có lẽ đã được làm Chuyển luân thánh vương rồi lại mất ngôi sao! Tâm ta hết sức lo âu, không biết ai giải mối nghi này cho ta!

Bấy giờ Thiên tử Tác Bình từ cung điện cõi trời Tịnh cư, xa trông thấy Đại vương Tịnh Phạn ưu sầu chẳng vui, liền ẩn thân nơi Thiên cung, đến thành Ca-tỳ-la hóa làm một vị Phạm chí Bà-la-môn, đầu búi tóc với chiếc mão bằng các loại hoa kết thành, thân hình đoan chánh trẻ trung, khoác trên mình bộ y phục da nai màu đen, dáng vẻ người thông minh trí tuệ, đứng ngoài cửa cung vua Tịnh Phạn xướng lên thế này:

-Ta biết rõ điềm chiêm bao của vua Tịnh Phạn một cách chắc chắn, không nghi ngờ.

Người gác cửa thành nghe Bà-la-môn nói như vậy vội vã chạy vào nơi bệ rồng, quỳ mọp tâu Đại vương:

-Tâu Thánh thượng phải biết, hiện giờ có một vị Bà-la-môn ở ngoài ngọ môn xướng lên thế này: “Ta biết rõ các điềm chiêm bao của vua Tịnh Phạn.”

Đại vương liền cho mời vị Bà-la-môn này đưa thẳng vào nội cung, nhà vua niềm nở hỏi:

-Này Đại Bà-la-môn, ngài có trí tuệ sáng suốt, hãy biết cho ta là vào lúc nửa đêm hôm qua, ta thấy bảy điềm chiêm bao: “Điềm chiêm bao thứ nhất thấy có vô lượng vô biên dân chúng vây quanh tả hữu đỡ lấy chiếc lọng lớn của trời Đế Thích ra đi từ cửa Đông thành Ca-tỳ-la… cho đến điềm chiêm bao thứ bảy thấy sáu người cách ngoài thành chẳng bao xa cất tiếng khóc vang, tay bứt đầu tóc.” Nay ta lo sợ tâm ý bàng hoàng, không biết điềm mộng như vậy tốt xấu lẽ nào, ngài có thể vì ta bàn giải từng chi tiết một. Nhà vua nói như vậy rồi đứng yên chờ nghe vị Bà-la-môn giải thích.

Thiên tử Tác Bình tâu Đại vương:

-Xin Đại vương lắng nghe lời giải về những điềm chiêm bao mà ngài mơ thấy.

-Điềm chiêm bao thứ nhất, ngài thấy vô lượng vô biên chúng sinh cùng nhau vây quanh, đỡ lấy chiếc lọng lớn của trời Đế Thích ra đi từ cửa Đông thành Ca-tỳ-la: Đây là Thái tử Tất-đạt-đa của Đại vương được vô lượng trăm ngàn chư Thiên hầu hạ chung quanh. Nghĩa là Thái tử sẽ bỏ cung điện này, vượt thành xuất gia. Đây là hiện tượng tốt đối với điềm chiêm bao nói trên.

-Điềm chiêm bao thứ hai: Đại vương lại thấy Thái tử ngự giá trên chiếc xe mười hương tượng ra đi từ cửa Nam thành Ca-tỳ-la. Nghĩa là sau khi Thái tử xuất gia rồi, chứng được Nhất thiết trí cho đến mười lực. Đây là hiện tượng tốt đối với điềm chiêm bao nói trên.

-Điềm chiêm bao thứ ba: Đại vương lại thấy Thái tử ngồi xe tứ mã, ra đi từ cửa Tây thành Ca-tỳ-la. Nghĩa là Thái tử sau khi xuất gia, chứng Nhất thiết trí đầy đủ bốn pháp vô úy. Đây là hiện tượng tốt đối với điềm chiêm bao nói trên.

-Điềm chiêm bao thứ tư: Đại vương lại thấy một bánh xe được trang hoàng bằng các ngọc quý, ra đi từ cửa Bắc thành Ca-tỳ-la. Nghĩa là sau khi xuất gia, Thái tử chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi sau đó ở ba cõi nhân thiên ngài chuyển pháp luân vi diệu. Đây là hiện tượng tốt đối với điềm chiêm bao nói trên.

-Điềm chiêm bao thứ năm: Đại vương lại thấy Thái tử ở ngã tư đại lộ trong thành Ca-tỳ-la, tay cầm dùi đánh chiếc trống lớn. Nghĩa là Thái tử sau khi xuất gia rồi chứng đạo quả Bồ-đề, đang khi ngài chuyển Pháp luân, hàng chư Thiên cất tiếng ca ngợi, âm thanh vang tới Phạm thiên rồi truyền âm thanh này vang khắp cõi sắc đều biết. Đây là hiện tượng tốt đối với điềm chiêm bao ấy.

-Điềm chiêm bao thứ sáu: Đại vương lại thấy Thái tử ngồi trên lầu ở trung tâm thành Ca-tỳ-la rải các vật quý xuống khắp bốn phía lầu. Nghĩa là Thái tử sau khi chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với tám bộ chúng: chư Thiên, dân chúng… Ngài ban ra các giáo pháp vi diệu như vậy. Các pháp đó là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Chánh đạo… Đây là hiện tượng tốt đối với điềm chiêm bao.

-Điềm chiêm bao thứ bảy: Đại vương lại thấy có sáu người cách ngoài thành chẳng bao xa miệng cất tiếng khóc vang, tay bứt lấy đầu tóc. Nghĩa là Thái tử xuất gia rồi, chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đương khi Ngài chứng quả Bồ-đề thì hàng lục sư ngoại đạo sinh ưu não. Lục sư đó là: Phú-lan-na Ca-diếp, Ma-bà-ca-la Cù-xa-tử, A-kỳ-na-chỉ-xa Cam-bà-la, Ba-la-phù-đa Ca-tra-da-na, San-xà-di-ty-da-tư-trí-chỉ-tử và Ni-càn-đà-nhã-để-tử. Đây là hiện tượng tốt đối với điềm chiêm bao nói trên Thiên tử Tác Bình hiện hình Bà-la-môn vì Đại vương giải thích giấc mộng rồi lại tâu:

-Đại vương nên sinh tâm hoan hỷ, chớ nên âu sầu, lo sợ, chẳng vui. Vì sao? Đây là giấc mộng tốt, đưa đến hậu quả an lành, phải lấy làm hân hạnh, chớ nên lo nghĩ. Thiên tử nói lời an ủi rồi liền biến mất.

Đại vương Tịnh Phạn nghe lời bàn mộng của Tướng sư Bà-la-môn nói giấc mộng này được quả báo an lành như vậy, lại vì Thái tử tăng thêm phương tiện ngũ dục khiến cho Thái tử say đắm hoang mê với kỳ vọng là Thái tử không xuất gia. Lúc đó Thái tử ở trong cung mặc tình thọ hưởng mọi thú vui.

***

Phẩm 18: DỌC ĐƯỜNG THẤY NGƯỜI BỆNH

Bấy giờ Thiên tử Tác Bình lại suy nghĩ về Bồ-tát Hộ Minh, vị Đại sĩ này ở trong cung buông lung phóng dật say đắm ngũ dục đã trôi qua thời gian khá lâu, thế gian vô thường, tuổi trẻ không dừng, Bồ-tát Hộ Minh nên phải sớm rời bỏ nội cung xuất gia, ta nay có thể vì ngài tạo phương tiện khuyến thỉnh để khiến ngài tỉnh ngộ sớm xa lìa ngũ dục. Tác Bình suy nghĩ như vậy rồi, do vì thần lực của Thiên tử mà cũng do nhân duyên phước đức đời trước của Bồ-tát nên Thái tử đang ngồi trong cung điện bỗng nhiên khởi ý muốn ra khỏi thành đến lâm viên thưởng ngoạn.

Thái tử liền gọi người đánh xe đến bảo:

-Này người đánh xe tài giỏi, khanh nên mau mau trang hoàng xe ngựa tốt đẹp, nay ta muốn xuất hành đến hoa viên ngắm cảnh dạo chơi.

Người đánh xe tâu:

-Y theo lệnh của Thái tử, hạ thần không dám trái ý.

Người đánh xe nhận lệnh của Thái tử rồi liền đến tâu Đại vương Tịnh Phạn:

-Xin Đại vương biết cho, nay Thái tử muốn rời thành hướng về thắng cảnh Hoa lâm viên để thưởng ngoạn mảnh đất an lành.

Đại vương liền ra lệnh tất cả dân chúng trong thành dọn dẹp mọi cỏ rác, sạn sỏi, gai góc, cây khô mục, gò nổng, phẩn uế, những nơi hôi thối đều được làm bằng phẳng, rưới nước quét dọn sạch sẽ, rồi trang hoàng thành Ca-tỳ-la hết sức tốt đẹp; cho đến những cây cối trong hoa viên mang tên phụ nữ hay nam nhi đều lấy chuỗi anh lạc của mỗi giới trang sức trên đó. Trên đường Thái tử đi qua không được xuất hiện các người già bệnh, đừng để Thái tử trông thấy sinh tâm chán nán.

Người đánh xe trang hoàng xe ngựa xong rồi đến tâu Thái tử:

-Xa giá hạ thần đã chuẩn bị hoàn tất, cúi xin Thái tử tùy ý ra đi.

Lúc ấy Thái tử ngồi trên bảo xa với tư cách một Đại vương, oai đức thần lực trông thật tôn nghiêm, ra đi từ cửa Nam thành Ca-tỳ-la, từ từ hướng về hoa viên để dạo xem phong cảnh.

Bấy giờ Thiên tử Tác Bình ở phía trước, trên con đường Thái tử đang đi qua, hóa làm một người bệnh, hình thể chỉ còn da bọc xương hết sức đau khổ, bụng trướng to, nước từ đó rỉ ra, thân hình tiều tụy, tay chân như ống sậy không còn khí sắc, nước da vàng vọt nhăn nheo, hơi thở hôi thối, mạng sống chỉ còn trong giây lát, nằm rên rỉ trăn trở lăn lộn trên phân dãi hết sức đau đớn, muốn ngồi dậy nhưng không đủ sức, nhép miệng nói thì thào:

-Cúi xin đỡ giùm tôi ngồi dậy.

Thái tử thấy người bệnh từ lúc đầu…cho đến câu đỡ giùm tôi ngồi dậy, liền hỏi người đánh xe:

-Này người đánh xe tài giỏi, đây là người gì? Bụng rất to như cái chõ lớn, khi thở thì cả người rung động, tay chân như ống sậy, thân thể tiều tụy, nước da vàng vọt nhăn nheo không còn khí sắc, ngồi dậy phải nhờ người khác nâng đỡ?

Rồi Thái tử cất tiếng thở dài:

-Ôi chao, buồn thương não ruột, không nỡ thấy nghe.

Thiên tử Tác Bình dùng thần lực khiến người đánh xe trả lời:

-Xin Thánh tử lắng nghe, kẻ này gọi là người bệnh.

Thái tử lại hỏi:

-Tại sao người này gọi là người bệnh?

Người đánh xe đáp:

-Tâu Thánh tử, thân thể người này không được an ổn khỏe mạnh, mất hết oai đức, ốm gầy khổ sở, khổng còn sức lực, giờ chết sắp đến nơi, cha mẹ đã qua đời, tứ cố vô thân, không nơi cậy nhờ, do vì không chỗ nương tựa người này chẳng bao lâu mạng chung, muốn sống hết sức khó khăn. Nếu không có ai chăm sóc mà mong có ngày lành bệnh, nhất định không có việc ấy xảy ra, chỉ chờ chết mà thôi. Thưa Thánh tử, vì những lý do đó, gọi là người bệnh.

Có kệ thế này:

Thái tử hỏi người đánh xe rằng Tại sao người này chịu khổ ấy Người đánh xe tâu lên Thái tử Tứ đại bất hòa bệnh phất sinh.

Thái tử lại hỏi:

-Chỉ riêng người này chịu quy luật ấy hay là tất cả chúng sinh trong thế gian đều phải chịu quy luật bệnh này?

Người đánh xe đáp:

-Quy luật bệnh này không dành riêng cho một người nào mà tất cả các loại chúng sinh đều không thoát khỏi.

Thái tử lại nói:

-Ta cũng chưa thoát khỏi quy luật này, rồi ta mắc bệnh giống như người này không khác, ôi thôi đáng sợ!

Thái tử liền bảo người đánh xe:

-Nếu thân này của ta không thoát khỏi quy luật bệnh, đủ thứ các bệnh không thể vượt qua được, nay cần gì phải đến viên lâm dạo chơi thọ hưởng vui thú, nên hồi giá trở về nội cung, ta sẽ tư duy về quy luật này.

Người đánh xe vâng lệnh Thái tử đánh xe quay về nội cung, Thái tử về đến nơi tĩnh tọa tư duy: “Ta sẽ bệnh, các bệnh chưa hiện khởi, tại sao ta buông lung.”

Đại vương Tịnh Phạn hỏi người đánh xe:

-Thái tử dạo chơi nơi hoa viên có được vui vẻ không?

Người đánh xe đáp:

Đại vương phải biết, Thái tử muốn rời hoàng thành hướng về hoa viên, ngắm quang cảnh hồ ao…, nhưng giữa đường gặp một người bệnh… cho đến miệng nói đỡ giùm tôi dậy. Thái tử thấy vậy liền ra lệnh đánh xe trở về, hiện giờ ngài đang tịnh tọa trong cung chuyên tâm quán tưởng.

Đại vương nghe lời nói như vậy rồi trong tâm nghĩ đến lời dự đoán của Tiên nhân A-tư-đà quyết định chân thật. Đại vương lại nghĩ: “Không lẽ ta để Thái tử xả tục xuất gia, nay ta sẽ vì Thái tử tăng thêm thú vui ngũ dục khiến cho Thái tử say đắm ngũ dục nhiều hơn mà chẳng xả tục xuất gia.” Nghĩ rồi Đại vương liền tăng thêm thú vui ngũ dục cho Thái tử gấp bội phần. Có bài kệ:

Thái tử ở lâu trong cung cấm

Muốn đến viên lâm hưởng thú vui

Trên đường gặp bệnh nhân tiều tụy

Nên sinh tâm ly dục trở về

Ngồi yên suy tư gốc lão bệnh

Ta nay chưa thoát có vui gì

Sắc thanh hương vị cùng các xúc

Rất tuyệt vời ngài chưa bỏ được

Thuở xưa ngài tu hành thiện nghiệp

Nay hưởng phước vui sướng ai bằng.

Như vậy thuở ấy Thái tử ở trong cung tuần tự thọ hưởng đủ thú vui của ngũ dục.

***

Phẩm 19: TRÊN ĐƯỜNG GẶP THÂY CHẾT

Thuở ấy, Thiên tử Tác Bình một hôm nọ phát sinh ý nghĩ: “Bồ-tát Hộ Minh đang ở trong cung thọ hưởng vui thú tuyệt đỉnh, nay đến lúc Bồ-tát phải xuất gia, ta sẽ vì Bồ-tát cố tâm khuyến thỉnh làm cho Thái tử xa lìa thu vui ngũ dục, xả tục xuất gia.” Thiên tử Tác Bình muốn Bồ-tát Hộ Minh sinh ý rời nội cung ra khỏi thành hướng về lâm viên thưởng ngoạn tham quan phong cảnh tuyệt đẹp.

Lúc ấy Thái tử bảo người đánh xe:

-Này người đánh xe tài giỏi, khanh nên trang hoàng bảo xa tứ mã, ta nay muốn ra khỏi thành đến lâm viên dạo chơi.

Người đánh xe nhận lệnh Thái tử liền đến tâu Đại vương:

-Xin Đại vương biết cho, nay Thái tử muốn rời khỏi cung thành đến lâm viên thưởng ngoạn quang cảnh.

Đại vương Tịnh Phạn liền ra lệnh trang hoàng thành Ca-tỳ-la, tất cả đường lớn nhỏ đều dọn dẹp. Gai góc, sỏi sạn gạch đá, cây mục, mô đất, phẩn uế đều được quét dọn sạch sẽ, bằng phẳng cho đến trong hoa viên các cây mang tên nữ nhi hay nam nhi lại dùng chuỗi anh lạc theo mỗi loại mà trang sức lên đó, rồi cho người rung linh đánh trống tuyên bố:

-Kẻ già yếu, người bệnh tật không được xuất hiện trên con đường Thái tử đi qua khiến cho Thái tử trông thấy sinh tâm chán nản.

Người đánh xe trang hoàng xe ngựa hết sức chu toàn tốt đẹp, rồi đến tâu Thái tử:

-Xin Thái tử nghe cho, hạ thần nay đã trang hoàng xa giá xong rồi, cúi xin Thái tử tùy thời xuất hành.

Thái tử ngồi trên xe đầy đủ oai đức thần lực, ra đi từ cửa Tây thành Ca-tỳ-la hướng về hoa viên để thưởng ngoạn.

Khi đó, Thiên tử Tác Bình ở phía trước Thái tử hóa thành một tử thi nằm trên giường được nhiều người khiêng đi, lại dùng áo bằng số nhiều màu tuyệt đẹp căng làm tấm màn nhỏ đắp trên mình tử thi, lại có vô số bà con nội ngoại quây quần hai bên trước sau kêu khóc, hoặc có kẻ bứt tóc, có người đấm ngực hoặc có kẻ vỗ đầu hay khoanh tay hoặc có kẻ hai tay hốt đất bùn bôi trên đầu trên mặt hoặc có kẻ thốt ra những lời buồn bã nghẹn ngào, nước mắt tuôn như mưa, kêu gào khóc lóc không thành lời. Thái tử thấy cảnh như vậy sinh lòng sầu thảm, hỏi người đánh xe:

-Kẻ nằm trên giường này là người gì vậy? Lại dùng hoa trang hoàng chung quanh… cho đến nhiều y phục bằng vải gai đầy màu sắc, làm tấm màn nhỏ đắp trên mình, được người ta khiêng đi, chung quanh lại có vô số người khóc than thảm thiết?

Lời kệ:

Thái tử trẻ đẹp thân tuấn tú

Hỏi người đánh xe đây là ai.

Nằm yên trên giường bốn người khiêng

Thân quyến chung quanh kêu gào khóc?

Lúc đó Thiên tử Tác Bình dùng thần lực khiến người đánh xe trả lời:

-Bẩm Đại thánh Thái tử, đây gọi là thây chết.

Thái tử lại hỏi:

-Thây chết nghĩa là gì?

Người đánh xe đáp:

-Tâu Đại thánh Thái tử, người này bỏ mạng sống nơi thế gian, không còn oai đức, nay đồng với cây đá, không có cảm giác như tường vách không hơn kém, vĩnh biệt thân tộc bạn bè, chỉ có thần thức đi đầu thai cõi khác, từ nay về sau không còn thấy cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc. Kẻ sống người chết, cảnh giới hoàn toàn khác nhau như vậy, không bao giờ gặp lại cho nên gọi là thấy chết.

Người đánh xe đến trước Thái tử nói kệ:

Giác quan tâm thức mất tác dụng,

Thi thể vô tri như cây đá,

Thân quyến vây quanh đều khóc than,

Ân ái từ đây hằng vĩnh biệt.

Thái tử lại hỏi người đánh xe:

-Này kẻ đánh xe tài giỏi, ta cũng phải chịu quy luật chết này chăng? Quy luật chết này, ta đã vượt khỏi hay chưa?

Người đánh xe Đáp:

-Tâu Đại thánh Thái tử, thân thể Thái tử tuy tôn quý nhưng đối với quy luật chết này cũng chưa thoát khỏi, tất cả những ai ở trong thế gian, hoặc là trời hay loài người, có bao nhiêu thân tộc quyến thuộc bạn bè, mỗi người đều chịu cảnh biệt ly như vậy, người kia không thấy người này, người này cũng không thấy người kia. Rồi nói kệ:

Tất cả chúng sinh mãn nghiệp này,

Thiên, nhân, quý, tiện đều bình đẳng,

Thế gian thiện ác tuy có khác,

Đến khi tắt thở lại như nhau.

Thái tử nghe lời trình bày như vậy rồi bảo người đánh xe:

-Nếu thân này của ta cũng phải chịu quy luật chết chóc quy luật cái chết ta chưa vượt qua, rồi đây ta sẽ không thấy chư Thiên và quyến thuộc và chư Thiên quyến thuộc cũng không thấy ta, vậy cần gì phải đến lâm viên dạo chơi thưởng ngoạn, mau mau hồi giá trở về nội cung để ta quán tưởng.

Người đánh xe vâng theo lệnh Thái tử liền quay xe trở về nội cung. Thái tử về đến nội cung, an tọa tư duy: “Thân ta nhất định rồi sẽ chết, chưa có năng lực vượt qua khỏi quy luật sự chết.” Ngài chú tâm yên lặng tư duy như vậy, biết quả báo thế gian rốt cuộc quy về vô thường vậy mà khi Thái tử sắp bước vào trong cung, có một tướng sư vô trí ngu si đứng bên ngoài cửa cung Đại vương, xem kỹ hình dung tướng mạo Thái tử từ đầu đến chân, thấy có tướng trượng phu rồi to tiếng xướng lên: “Này mọi người! Tất cả phải biết, từ ngày nay trở đi đến nội ngày thứ bảy, Thái tử sẽ được đầy đủ bảy thứ quý báu tự nhiên xuất hiện.”

Đại vương Tịnh Phạn hỏi người đánh xe:

-Này tên đánh xe tài giỏi, ngày nay khanh đưa Thái tử đến lâm viên, Thái tử có vừa ý, vui vẻ không?

Người đánh xe quỳ xuống cung kính thưa:

-Xin Đại vương phải biết, ngày nay Thái tử ra đi chưa đến lâm viên.

Đại vương Tịnh Phạn lại hỏi:

-Vì cớ gì Thái tử không đến lâm viên?

Người đánh xe tâu:

-Xin Đại vương nghe cho, Thái tử ra khỏi cung, trên con đường đến viên lâm, thấy một thây chết nằm trên giường có bốn người khiêng… cho đến quyến thuộc vây quanh kêu khóc. Thái tử thấy vậy liền ra lệnh hồi giá trở về nội cung, ngài ngồi tư duy không được vui vẻ.

Đại vương Tịnh Phạn nghe lời trình bày như vậy, trong tâm lo lắng, liên tưởng đến lời dự đoán của Tiên nhân A-tư-đà nhất định chân thật. Ta không lẽ để Thái tử bỏ ta xuất gia. Ngày nay ta sẽ tăng thêm thú vui ngũ dục cho Thái tử, khiến Thái tử say đắm không nghĩ đến chuyện xuất gia. Nghĩ rồi, lúc ấy nhà vua liền vì Thái tử tăng thêm y phục tốt đẹp và đầy đủ cấc thú vui ngũ dục.

Có bài kệ nói:

Biển công đức tu vô lượng kiếp.

Thái tử vì thấy kẻ mạng chung,

Tâm, rất buồn ôm lòng áo não,

Về nội cung tư duy cái chết,

Nơi thành này cung điện tuyệt vời,

Thái tử đẹp tuổi đầy nhựa sống,

Vui ngũ dục đắc ý lắm thay,

Như Đế Thích vui chơi thượng uyển.

Trải qua ngày tháng, Thái tử vẫn ỏ trong cung, vui chơi, thọ hưởng mọi thứ vui thích.

***

Phẩm 20: DA-DU-ĐÀ-LA THẤY ĐlỀM MỘNG

Thiên tử Tác Bình thấy Thái tử xuất thành đến lâm viên, giữa đường gặp tử thi sinh tâm chán nản ngũ dục thế gian, trở về nội cung tĩnh tọa tư duy. Qua sáu ngày sau, Thiên tử Tác Bình lại nghĩ và nói: “Bồ-tát Hộ Minh, vị Đại sĩ nay vì say đắm ngũ dục, tâm sinh phóng dật chẳng chịu xa lìa, ta nay sẽ vì Thái tử tạo nhân duyên khuyến thỉnh.” Suy nghĩ như vậy rồi, lúc ấy Thiên tử Tác Bình lại tạo điều kiện khiến Thái tử xuất gia, cảm động đến nhân duyên đời trước của Thái tử khiến Thái tử tự nhiên có ý muốn đến lâm viên du ngoạn. Thái tử gọi người đánh xe vào bảo:

-Người đánh xe tài giỏi, khanh mau mau sửa sang xe giá nghiêm chỉnh, nay ta muốn đến hoa viên thưởng ngoạn.

Người đánh xe nhận lệnh, liền đến tâu Đại vương Tịnh Phạn:

-Xin Đại vương biết cho, hôm nay Thái tử muốn đến viên lâm dạo chơi thưởng ngoạn.

Đại vương Tịnh Phạn liền ban sắc lệnh dân chúng nội thành Ca-tỳ-la dọn dẹp sạch sẽ và trang hoàng nghiêm chỉnh như bao lần trước không khác, cho đến rung chuông loan báo nội thành: Trên con đường Thái tử đi qua tuyệt đối không được xuất hiện các hạng người: già, bệnh, chết, tàn tật… khiến cho Thái tử thấy được sinh tâm chán nản thế gian.

Người đánh xe nhận lệnh, trang hoàng xe ngựa tốt đẹp, đến trước Thái tử tâu:

-Thưa Thái tử đã đến giờ xuất hành.

Thái tử liền ngồi trên xe, oai đức thế lực trông thật tôn nghiêm, ra đi từ cửa Bắc thành Ca-tỳ-la mà thẳng đến lâm viên.

Lúc ấy, Thiên tử Tác Bình dùng sức thần thông, cách trước xe Thái tử chẳng bao xa, biến thành một vị Sa-môn cạo bỏ râu tóc, thân đắp chiếc ca-sa đại y để hở vai bên phải, tay phải chống tích trượng, tay trái bưng bình bát đi ven lề đường.

Thái tử thấy rồi liền hỏi người đánh xe:

-Đây là người gì mà cung cách đàng hoàng, dung nghi tề chỉnh, ung dung tản bộ ở phía trước ta, mắt đăm đăm nhìn phía trước một tầm, không liếc ngó hai bên, chú tâm mà đi, không giống như bao nhiêu lữ hành khác, đầu cạo nhẵn không để râu tóc, sắc phục toàn một màu đỏ thẫm nhuộm bằng vỏ cây, không giống màu áo trắng thế tục, bát màu da cam giống như bằng đá xông khói.

Thiên tử Tác Bình dùng thần thông khiến người đánh xe đáp:

-Tâu Đại thánh Thái tử, người này gọi là kẻ xuất gia.

Thái tử lại hỏi:

-Sao gọi là kẻ xuất gia? Họ làm việc gì?

Người đánh xe đáp:

-Tâu Đại thánh Thái tử, người này thường làm các việc lành, bỏ các việc ác, đem tâm bình đẳng đối xử với mọi người, thích làm việc bố thí, khéo điều phục các căn, có tài hàng phục tự thân, đem lại sự an lạc cho mọi người, thường đối với tất cả chúng sinh phát tâm đại Từ bi không bao giờ làm cho một chúng sinh nào sợ sệt phiền não, hoàn toàn không sát hại chúng sinh, lại hay phát tâm giúp đỡ. Tâu Thái tử, do vì những việc như vậy, gọi là người xuất gia.

Thái tử lại hỏi:

-Này người đánh xe tài giỏi, do vì cớ gì khiến người này có thiện tâm làm các việc như vậy? Các việc đó, từ việc làm lành…cho đến hoàn toàn không sát hại tánh mạng chúng sinh. Vậy ngươi hãy đánh xe đến bên người xuất gia kia.

Người đánh xe vâng lệnh đáp:

-Tâu Thái tử, hạ thần sẽ tuân lệnh.

Người đánh xe liền cho xe hướng về người xuất gia.

Khi Thái tử đến bên người xuất gia, người liền thưa hỏi:

-Thưa Tôn giả Đại sĩ, ngài là người gì?

Lúc ấy, Thiên tử Tác Bình dùng thần lực khiến người xuất gia cạo bỏ râu tóc kia đáp:

-Tâu Thái tử, ngày nay người ta gọi tôi là kẻ xuất gia.

Thái tử lại hỏi:

-Thưa nhân giả, tại sao lại gọi là người xuất gia?

Người xuất gia đáp:

-Tâu Thái tử, tôi thây tất cả sự việc trong thế gian hết thảy đều vô thường, quan sát như vậy rồi tôi bỏ tất cả sự nghiệp ở đời, xa lìa thân tộc, chi cầu mong giải thoát nên xả tục xuất gia. Rồi tôi lại nghĩ: “Ta phải dùng phương tiện gì để có thể cứu vớt chúng sinh? Đối với thế gian ta phải sống biết đủ, làm các việc lành…cho đến hoàn toàn không sát hại sinh mạng tất cả chúng sinh.” Thưa Thái tử, vì những lý do đó, gọi là người xuất gia.

Thái tử lại nói:

-Thưa nhân giả, việc làm của ngài hết sức tốt đẹp vì ngài quán sát biết được tất cả sự việc thế gian là vô thường, biết như vậy rồi ngài lại đem lòng lành ban bố sự an lạc cho tất cả chúng sinh… cho đến không sinh tâm sát hại mà lại đem sự sống, bố thí sự an ổn cho chúng sinh.

Rồi nói kệ:

Quán biết thế gian pháp vô thường

Muốn cầu vô thượng đạo Niết-bàn

Oán thân bình đẳng tâm quán sát

Chẳng tạo thế pháp dục, tham, sân

Ở dưới gốc cây trong rừng núi

Hoặc nơi gò mả đất hoang vu

Các pháp hữu vi đều xa lánh

Sống đời khất thực quán chân như.

Thái tử vì kính pháp nên từ trên xe bước xuống đi bộ hướng đến người xuất gia đầu mặt đảnh lễ sất đất rồi đi quanh ba vòng; sau đó Thái tử lên xe ra lệnh người đánh xe hồi giá về cung.

Khi ấy, trong cung có một thể nữ tên là Lộc Nữ từ xa trông thấy Thái tử vào cung, do tâm ái dục nàng cất tiếng nói kệ:

Đại vương Tịnh Phạn hưởng thú vui

Ma-ha-ba-xà rất toại ý

Trong cung thể nữ thật tuyệt vời

Người nào sẽ được gần Thái tử.

Thái tử nghe bài kệ này khắp thân run sợ, lệ nhỏ như mưa, trong tâm chỉ ưa mến cảnh Niết-bàn, các căn thanh tịnh hướng về Niết-bàn mà nói thế này:

-Ta cần phải đeo đuổi cảnh giới Niết-bàn, ta nay cần phải chứng Niết-bàn, ta nay cần phải đi đến Niết-bàn và ta nay cần phải trụ vào Niết-bàn.

Một hôm, Đại vương Tịnh Phạn cùng bá quan văn võ tề tựu chung quanh nơi cung điện, Thái tử bỗng nhiên bước đến đứng bên cạnh Đại vương, chắp tay cúi đầu nói:

-Con nay muốn xuất gia, cúi xin Đại vương cho phép con được toại ý để cầu quả Niết-bàn. Phụ vương phải biết, tất cả chúng sinh rồi sẽ biệt ly.

Khi Đại vương Tịnh Phạn nghe Thái tử tâu như vậy, cả người run rẩy, tay chân rã rời, giống như cây bị voi lớn lay gốc, mắt đầy ngấn lệ, nghẹn ngào bảo Thái tử:

-Thái tử con yêu dấu của ta nên bỏ ý định ấy đi, nay chưa phải là lúc con xuất gia, ta cũng trải qua thời thiếu niên khi các căn buông lung theo thú vui, ta không tu các pháp hạnh cũng chưa từng thọ các khổ thế gian, lại ta không tu các khổ hạnh mà cũng chưa từng thấy các ái dục xấu xa. Con khởi ý như vậy, con thật rất khó có thể chịu đựng được. Này Đồng tử, con đang độ thanh xuân, tâm ý chưa ổn định, chưa hàng phục các căn mà muốn ở nơi vắng vẻ hẻo lánh, khi đó con không thể chịu nỗi khổ hạnh. Này Đồng tử, con nên đợi khi ta tuổi già, chừng đó nếu ta muốn xuất gia tu hành khổ hạnh, ta sẽ truyền ngôi và trao quốc gia lại cho con mà vào thâm sơn vắng vẻ tu hành khổ hạnh. Này Đồng tử, con không nên trái lời của ta, không thuận ý của cha mà xuất gia tu khổ hạnh, hiện tại ở đời con mang tiếng bất hiếu vì trái lời dạy bảo của kẻ bề trên. Do vậy con nên đem tâm tinh tấn này ở trong cung chớ vội xuất gia, an tâm ở lại nhà thực hiện các pháp thế tục. Này Đồng tử, phàm làm người thế gian, trước phải thọ hưởng thú vui ngũ dục, rồi sau đó mới nghĩ đến việc phát tâm xuất gia.

Thái tử đáp:

-Tâu phụ vương, ngày nay cha không nên ngăn cản chí xuất gia của con. Vì sao? Nếu ngày nay có người đang ở trong căn nhà bốc cháy ngùn ngụt, muốn chạy ra khỏi nhà thoát nạn, lúc đó người này rất dũng mãnh, không có một thế lực nào có thể ngăn cản được. Tâu phụ vương, cái gì có sinh thì có diệt, cái gì có hợp thì có tan. Nếu như có người biết tất cả pháp thế gian đều bị biệt ly mà không bỏ pháp biệt ly đó thì người này không phải là kẻ được lợi ích lớn. Lại như người đời có sự việc còn dở dang, giờ chết sắp đến mà không vội vã làm cho hoàn tất, thì đây không phải là người có trí tuệ sáng suốt.

Rồi Thái tử vì phụ vương mà nói kệ:

Nếu thấy tất cả đều vô thường

Các pháp hữu vi đều tiêu diệt

Đành lìa thân thuộc bỏ thế gian

Giờ chết đến, sự nghiệp phải thành.

Đại vương Tịnh Phạn lại ân cần nói với Thái tử:

-Này Đồng tử, con yêu dấu của ta, nhất định không được bỏ ta đi xuất gia.

Các đại thần cũng theo sự hiểu biết của mình qua các kinh điển đời xưa để lại đều can gián Thái tử:

-Kính bẩm Thái tử, lẽ nào ngài không nghe trong luận Vi-đà có nói từ kiếp ban sơ cho đến nay, các hàng vua chúa thuở xưa niên thiếu, mỗi vị tự cai trị nước của mình, giáo hóa dân chúng, khi đến tuổi già có con cháu chánh thống nối nhau. Các vua đem vương vị trao cho Thái tử, nhiên hậu mới vào trong núi tu hành các pháp hạnh. Vì lý do đó, ngày nay Thái tử không được riêng mình làm trái phép tắc của Tiên vương.

Đại vương nghe các đại thần nói như vậy nước mắt nhỏ như mưa, hai mắt không chớp, đăm đăm theo dõi sắc mặt Thái tử.

Lúc ấy, Thái tử sinh tâm lưỡng lự ưu sầu, gương mặt không được vui, trở về nội cung. Thái tử về đến cung điện, tất cả các thể nữ ở xa trông thấy hết thảy đều vui mừng liền rời chỗ ngồi hoặc có nàng chắp tay bái chào, hoặc có nàng tỏ vẻ duyên dáng, hoặc có nàng ca múa, hoặc có nàng đến hầu hạ. Thấy Thái tử ngồi rồi, chúng bị lửa ái dục thôi thúc nổi lên phừng phực nên vây quanh Thái tử cùng nhau cười cợt vui đùa, oai đức của Thái tử sáng ngời, các tướng tốt thể hiện rõ ràng, cùng nhau vui vẻ thọ hưởng dục lạc giống như ở cung trời Tự tại.

Lúc ấy các tướng tốt và vẻ đẹp của Thái tử đồng xuất hiện, luôn luôn tươi đẹp, ngày đêm Thái tử dạo chơi, thể nữ lại thấy các tướng tốt của Thái tử xuất hiện tốt đẹp như vậy trong tâm sinh ra ý tưởng đây là điều chưa từng có, phải chăng ngài là Nguyệt Thiên tử giáng xuống trần gian. Thể nữ thấy tướng mạo Thái tử tốt đẹp như vậy lại càng sinh tâm tham đắm nên có nàng liếc mắt đưa tình, hoặc có nàng nhìn không nháy mắt, hoặc có nàng xít xoa, hoặc có nàng vẫy tay gọi. Do vì thần lực của Thái tử, khiến tâm dục ngài không nổi lên, lại không cười giỡn.

Khi Thái tử rời phụ vương trở về nội cung, Đại vương Tịnh Phạn lập tức gọi người đánh xe vào hỏi:

-Này người đánh xe tài giỏi! Thái tử có đến lâm viên không?

Người đánh xe đáp:

-Bạch Đại vương xin ngài biết cho, Thái tử ý muốn đến trong viên lâm nhưng giữa đường thấy một người tóc râu đều cạo, thân đắp chiếc y nhuộm màu hoại sắc, tay bưng bình bát. Thái tử thấy người này rồi liền ra lệnh hồi giá, ngài về trong cung an tọa tư duy.

Đại vương nghe như vậy liền suy nghĩ: “Lời dự đoán của tiên A-tư-đà quả không sai, e rằng Thái tử xả tục xuất gia, ta nay phải tăng thêm thú vui ngũ dục khiến Thái tử say đắm, không nghĩ đến việc xuất gia.” Nghĩ rồi Đại vương liền ra lệnh tăng thêm thú vui ngũ dục, ra lệnh thể nữ trong cung làm cho tâm Thái tử thọ khoái lạc, mà không còn nghĩ đến việc xuất gia.

Liền lặp lại với bài kệ:

Giữa đường Thái tử gặp Sa-môn

Thân đắp y sồng nhuộm vỏ cây

Hoan hỷ chí cầu Vô thượng đạo

Thâm tâm chỉ thích hạnh xuất gia.

Thấy sinh già bệnh khổ vô cùng

Sa-môn trì bình đi khất thực

Nhàm chán thế giới ba độc lìa

Ái mộ vô vi cầu giải thoát.

Sinh lão bệnh tử các khổ đau

Thái tử muốn lìa các khổ đó

Trên đường gặp được bậc xuất gia

Chí chân vừa gặp lòng hớn hở.

Muốn bỏ tham sân các não phiền

Ta nên xuống tóc nhập sơn lâm

Thái tử chí cầu chân thật pháp

Gặp được Sa-môn rất vui mừng.

Ngồi xe tứ mã khéo điều hành

Muốn ra ba cõi, nhân ngắm cảnh

Giữa đường gặp kẻ mặc y sồng

Chí hướng bồ đề nay được thỏa.

Bấy giờ Đại vương lại vì Thái tử bày ra nhiều thứ ngũ dục, bao nhiêu những gì đã có, mỗi thứ đều được gia tăng, mặt thành bao quanh cung điện cũ của Thái tử đều được canh giữ nghiêm ngặt. Đặc biệt hơn nữa Đại vương cho xây thêm thành lũy cao lớn, chung quanh cung điện Thái tử cho đào hào thật sâu, trên đầu tường thành an trí lưới bảy báu, giữa các mắt lưới treo chuông rung, các cửa trong cung điện được tăng thêm phần canh giữ, sớm chiều mở cửa tiếng động vang dội đến khắp bốn cửa thành bên ngoài. Bố trí vô số binh xa tượng mã và quân lính mặc áo giáp, sát cánh bên nhau, họ đều được tổ chức theo đội ngũ chỉnh tề chặt chẽ.

Lại bên ngoài cung điện, nơi cửa thành trong ngoài bố trí trăm ngàn tráng sĩ hình dung đẹp đẽ oai hùng, rất dũng cảm, tất cả đều có khả năng đánh tan quân thù, thân mặc chiến bào, tay cầm chĩa ba, côn, trường kiếm, giáo mác, cung tên…, tất cả những thứ binh khí như vậy là để canh giữ Thái tử; lại tăng thêm sắc lệnh cho hàng thể nữ nội cung, ngày đêm ca nhạc múa hát, không được gián đoạn để phô bày tất cả thú vui. Các thể nữ có tài làm mê hoặc luôn luôn kề cận bên Thái tử, dùng ái dục ràng buộc, khiến Thái tử say đắm không nghĩ đến việc xả tục xuất gia.

Bấy giờ, quốc sư có một người con tên là ưu-đà-di (nhà Tùy dịch là Thông Biện) thông minh trí tuệ có tài biện luận, lúc ấy Đại vương Tịnh Phạn cho sứ đòi ưu-đà-di. Khi ưu-đà-di đến, Đại vương hỏi:

-Này ưu-đà-di, ngươi thông minh tài trí, nay có thể đến hầu Thái tử Tất-đạt-đa, ngươi hãy dùng đủ mọi cách khiến Thái tử tâm được an ổn, vui thích ở trong cung, chớ để Thái tử nhàm chán xa lìa cung điện xuất gia.

Đại vương cho mời tất cả quyến thuộc họ Thích cùng nhau hội họp, nhà vua nói:

-Này tất cả quý vị trong hoàng tộc, ý ta lo rằng Thái tử Tất-đạt-đa nhất định không ở nhà, ngày nay các vị có cách gì giúp đỡ ta, khiến Thái tử bỏ ý định xuất gia.

Đại vương cùng hoàng tộc bố trí bên ngoài cửa thành phía Đông năm trăm đồng tử dũng kiện đầy mưu lược, có tài dụng binh, đều rất dũng mãnh, những tráng sĩ này có sức mạnh ít ai địch lại. Mỗi đồng tử có năm trăm chiếc xe tự quay quanh mình, mỗi chiếc xe lại có năm trăm người khỏe mạnh vây quanh. Như vậy cho đến các cửa thành: Nam, Tây, Bắc theo thứ lớp, mỗi thành đều có năm trăm người phòng vệ như đã nói trên. Lại có các vị kỳ lão đại thần họ Thích đứng cảnh giác tại các ngã tư, đầu đường lớn nhỏ trong thành cùng nhau giữ gìn Thái tử. Đại vương Tịnh Phạn lại bố trí một đội quân đặc biệt gồm năm trăm tráng sĩ hết sức tinh nhuệ, thân mặc áo giáp, cỡi voi hay ngựa tuần hành chung quanh bốn mặt thành. Tất cả các cửa cung điện được bố trí canh giữ suốt cả ngày đêm.

Lúc Quốc đại phu nhân Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di tập trung tất cả thể nữ trong cung căn dặn:

-Này các khanh phải biết, từ ngày nay trở đi ngày đêm không được ngủ, đem ngọc phát quang treo lên đầu các cây phướn để ban đêm khỏi tối tăm, lại mọi nơi đều thắp đèn dầu tô hay đèn sáp, luôn luôn dùng lồng đòn chụp lại đừng để tắt. Các cửa cung cần phải đóng chặt thật kỹ lưỡng, ngoài giờ quy định không ai được mở cửa ra vào thân thể các ngươi phải trang sức thật lộng lẫy, đều mang chuỗi anh lạc, các ngươi nắm chuyền tay nhau thành vòng tròn bao quanh Thái tử, đừng để Thái tử vượt qua; khi các khanh cầm cung, đao, dao, mác… các khí cụ như vậy, hoặc đứng gác hay ngồi canh, ngày cũng như đêm luôn luôn lưu ý, không được lơ đễnh để Thái tử bỏ đi. Nếu Thái tử đi xuất gia rồi, thì cung điện chúng ta trống không, buồn tẻ mất hết thú vui.

Ưu-đà-di, con trai của Quốc sư được cử làm cận vệ Thái tử, khi ông ta bước vào trong cung điện, thấy Thái tử ngồi giữa chính điện đang tư duy, tất cả thể nữ đều im lặng. Ưu-đà-di thấy cảnh buồn tẻ như vậy, nói với các thể nữ:

-Các ngươi đều là những người có tài nói năng, khéo chiều ý người, biết biến điều buồn thành niềm vui, có hình dung đẹp đẽ dễ thương, thế gian không ai sánh bằng, mỗi nàng đều có tài hoa như vậy, tại sao ngày nay các nàng bỏ mất tài năng ấy mà đành đứng im như vậy? Các nàng phải làm cung điện sống động huy hoàng như cung điện Uất-đơn-việt ở phía Bắc. Lại nữa các nàng có thể làm chánh hậu hay chánh phi của Đại vương trời Hộ thế Tỳ-sa-môn ở phương Bắc, huống nữa là trong cung điện ở trần gian mà không làm được hay sao? Này các thể nữ, các nàng tại sao để Thái tử xa lìa ái dục? Giả sử như đối với hàng thánh nhân chân chánh, các nàng vẫn có thể làm cho họ đam mê ngũ dục, huống nữa là ngày nay đối với Thái tử Thích-ca nơi trần gian này, mà không khiến Thái tử say đắm hay sao? Này các thể nữ, các nàng có tài ăn nói dịu dàng khôn ngoan, có thể biến giận thành vui, khéo biết tâm lý đàn ông, các nàng có thân phụ nữ, có rất nhiều ưu điểm thuận lợi làm lung lạc tâm trí đàn ông, cùng phái nữ mà thấy các nàng còn sinh tâm ái dục, huống nữa là nam nhi mà không say đắm các nàng hay sao? Giả sử có người đàn ông trong thế gian sống chung với các nàng mà không sinh tâm ái dục, hoàn toàn không có việc như vậy. Rồi Đồng tử Ưu-đà-di nói kệ:

Này các nàng thể nữ,

Các nàng nhiều ưu điểm.

Có tài mê hoặc người,

Thân nàng khéo quyến rũ

Giả sử người ly dục,

Hay các Tiên chân chánh.

Thấy được sắc các nàng,

Nhất định sinh tâm dục.

Huống nữa Thái tử này,

Thấy các nàng đùa cợt.

Mà không sinh ngũ dục,

Thật không có việc ấy.

Như vậy các thể nữ tự ở trong khả năng quyến rũ của mình biết dùng ưu điểm sẵn có, ta thấy các nàng ai ai cũng sẵn có những ưu điểm như vậy, mà không làm cho Thái tử ở bên các nàng, tự sinh tâm ái dục, thì ta không vui lòng. Mỗi người trong các nàng hãy cố gắng dùng mọi cách làm cho Thái tử sinh tâm dục nhiễm, chớ để Thái tử nhàm chán xa lìa.

Này các thể nữ, lẽ nào các nàng không nghe: Xưa nước Ca-thi có một Tiên nhân tên là Đề-ba-đa-na (nhà Tùy dịch là Duyên Thượng Sinh) bị dâm nữ Tôn-đà-lê làm mê hoặc. Tiên nhân có oai đức như chư Thiên không khác, chư Thiên còn không dám làm gì được, mà bị dâm nữ Tôn-đà-lê làm mê hoặc nên đi bộ theo nàng ta vào thành Ca-thi.

-Lại thuở xưa có một Tiên nhân tên là Độc Giác, từ thuở ấu thời cho đến lớn chưa hề dâm dục, một hôm nọ có dâm nữ tên là Thương Đa (nhà Tùy dịch là Tịch Định) làm Tiên nhân mê hoặc, mất hết thiền định và năm phép thần thông.

-Lại thuở xưa có một Tiên nhân tên là Tỳ-thương-mật-đa (nhà Tùy dịch là Hóa Chi) trải qua nhiều năm tu khổ hạnh, đã từng không ăn đến mười năm, lúc bấy giờ có một dâm nữ tên là Di-ca-na (nhà Tùy dịch là Nhất giả) hết sức xinh đẹp, Tiên nhân cũng bị nàng ta làm mê hoặc.

Các Tiên nhân có thần thông như vậy, phần lớn đều bị các dâm nữ mê hoặc, Lôi cuốn vào các việc ái dục thế gian, huống nữa ngày nay Thái tử Tất-đạt-đa đang độ thanh niên sức lực cường tráng, thân thể dịu dàng, lại là con của một Đại vương, am tường mọi việc, vậy các nàng nên đem hết tâm lực cung phụng, khiến cho Thái tử ở bên các nàng sinh tâm tham đắm, chớ để ngôi vua bị tuyệt diệt.

Các thể nữ nghe lời cổ vũ của Ưu-đà-di con quốc sư như vậy, cùng nhau hướng đến Thái tử diễn đủ trò ủy mị mê hoặc để tâm Thái tử thêm hoang mê, hoặc có nàng biểu diễn điệu múa, hoặc có thể nữ ca hát ngâm vịnh tán thán thú vui ngũ dục âm thanh ngọt ngào, hoặc có nàng trổi nhạc, hoặc có nàng làm trò cười biến khuôn mặt thành hình kỳ dị, hoặc có nàng phát ra một trăm thứ tiếng nói câu văn khác nhau, hoặc có nàng ở trước Thái tử biểu diễn dáng đi kiều diễm, hoặc có nàng đem đủ các loại hoa tươi đẹp khác nhau dâng lên Thái tử, hoặc có nàng hòa hợp trăm thứ hương, xoa trên thân Thái tử, hoặc có nàng thổi ngón tay tạo ra đủ loại tiếng chim, hoặc có nàng lại thưa hỏi Thái tử:

-Thưa Thánh chủng vương tử, xin ngài nghe những lời trào phúng ân ái thế tục.

Thái tử ở trong cung nghe những lời vui đùa gợi tình như vậy sinh tâm suy nghĩ: “Chúng sinh trong thế gian bị các khổ bức bách, các khổ đó là: sinh, già, bệnh, chết… nó đã làm não loạn như vậy, mà không chịu xa lìa các khổ để tìm nơi nương tựa, ta nay phải làm phương tiện khéo léo gì để vượt các sinh, già, bệnh, chết ở thế gian.”

Lại các thể nữ bày đủ trò ca múa âm nhạc, hoặc những trò gợi tình, Thái tử thấy vậy tâm không sinh một chút ưa thích. Lúc đó trong hàng cung nữ có một nàng tự tay cầm lấy tràng hoa Mạt-lợi bước đến đeo vào cổ Thái tử, mà mắt Thái tử nhìn nàng chăm chăm không nháy, nhìn rồi tự tay cởi lấy tràng hoa Mạt-lợi, cầm nơi tay từ trong cửa sổ vứt ra bên ngoài.

Lúc ấy Ưu-đà-di con vị quốc sư thấy Thái tử ngồi ngay ngắn chánh niệm tư duy, không vướng mắc cảnh giới hữu vi thế gian, lại không tham đắm sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngọt… Thấy như vậy rồi, ưu-đà-di là người thông minh trí tuệ, lại dùng bao nhiêu lời lẽ can gián Thái tử:

-Tâu Đại thánh Thái tử, tôi được Đại vương sai đến đây làm bạn giúp vui Thái tử, nay tôi muốn hỏi Thái tử, xin ngài cho phép, vì tôi thấy Thái tử đối với việc đời tại sao tâm không vướng mắc? Rồi nói kệ:

Nói qua tình bạn hữu,

Ác can, thiện khuyên làm.

Ách nạn cứu giúp nhau,

Mới thật gọi bạn hiền.

Ưu-đà-di nói kệ rồi lại thưa tiếp:

-Thưa Đại thánh Thái tử, nay tôi đã là bạn của Thái tử rồi, các việc tốt xấu phải cùng nhau bàn bạc, nếu thấy việc bất thường xảy đến mà làm ngơ bỏ qua thì không thể gọi là bạn; do đó ngày nay tôi muốn cùng Thái tử trò chuyện tâm tư, với tấm lòng của một người bạn chân thành, xin Thái tử lãnh nạp: Ngày nay Thái tử đang độ thanh niên, sức khỏe cường tráng, tôi thấy Thái tử hình như không muốn hưởng sự vui sướng ở đời, mà muốn xa lìa các thể nữ, không muốn sông gần bên họ, họ có gì đáng ghét? Phàm tâm người thế tục đều thuận theo như vậy. Con đường tình ái là căn bản, thân người phụ nữ chỉ để hàng trượng phu quý trọng, lấy họ làm vui, nếu Thái tử quyết định xa lìa thú vui ngũ dục, thì đối với họ sự phú quý vinh hoa nơi cung điện chỉ là hình phạt, xin Thái tử đem lời dịu dàng tình cảm an ủi hàng cung nữ khiến họ sinh tâm vui mừng, Ưu-đà-di nói kệ:

Nữ được trọng làm vui,

Trọng là vui hơn hết.

Không trọng chỉ có sắc,

Như cây không có hoa.

Lúc ấy, Thái tử ở gần bên ưu-đà-di con của vị quốc sư, nghe những lời nói như vậy, ngài dùng những lời nói khéo léo với giọng điệu đầy buồn thương, như tiếng sấm rền rền được bao phủ bởi áng mây, như người nhạc sĩ tài giỏi phổ ra âm điệu thâm trầm trả lời Ưu- đà-di:

-Này ưu-đà-di, ta đã biết ông là lương bằng thiện hữu của ta, ông đem tâm tốt can gián mở mang tâm trí ta được sáng tỏ, ta cũng hiểu ý ông, đối với ta rất thân mật hậu trọng, ta nay cũng không trái ý ông, nay ông thấy ta có những lỗi như vậy, ta nay sẽ thuận theo ý ông, nhưng ta không phải không biết hưởng thú vui ngũ dục thế gian, ta quan sát tất cả sự việc trong thế gian, hiểu biết một cách rõ ràng, vì ta thấy thế gian vô thường bại hoại, do thế gian này đáng sợ, ta sinh tâm chẳng vui. Rồi nói kệ:

Vinh hoa tuy khoái lạc,

Bị sinh, già, bệnh, chết.

Bốn khổ này nếu không,

Tâm ta nào chẳng vui.

Thái tử nói kệ rồi, lại nói với Ưu-đà-di:

Ông nên quan sát những thể nữ này đã bị cảnh già đoạt lấy nhan sắc đẹp đẽ. Mỗi người tự thấy nhau tâm không vui vẻ, sẽ thấy chỉ có người ngu mới muốn ở trong đó sinh tâm mê đắm. Rồi ngài nói kệ:

Pháp sinh già bệnh chết,

Đối sinh lão bệnh này.

Nếu sinh tâm ưa đắm,

Đồng cầm thú khác gì.

Thái tử cùng với ưu-đà-di con vị quốc vương đối đáp đàm đạo qua lại, khi Thái tử thấy ánh sáng mặt trời khuất bóng liền vào trong cung cùng thể nữ thọ hưởng khoái lạc ngũ dục hết sức vui vẻ, thể nữ cùng nhau tụ tập đứng chung quanh. Trong đêm đó chánh phi của Thái tử là nàng Da-du-đà-la có cảm giác mang thai. Cũng trong đêm đó, di mẫu của Thái tử là Kiều-đàm Ma-ha Ba-xà-ba-đề trong giấc ngủ mộng thấy một con trâu trắng chúa ở trong thành cất tiếng rống vang, rồi chậm rãi ra đi mà không có một người nào cản lối. Lại trong đêm đó Đại vương Tịnh Phạn mộng thấy ở trung tâm thành dựng một cây lọng trời Đế Thích được trang hoàng bằng nhiều thứ quý giá và các chuỗi anh lạc, giống như núi chúa Tu-di, từ dưới đất vọt lên trụ trong hư không, lại trong chiếc lọng Đế Thích này chiếu ra ánh sáng chói lọi khắp bốn phương, lại bốn phương nổi lên những đám mây to lớn, kéo đến phủ trên cây lọng này rồi giáng xuống một trận mưa dữ dội, nước mưa xối xuống rửa sạch chiếc lọng; lại trong hư không tuôn xuống đủ thứ hoa đẹp chung quanh cây lọng Đế Thích; lại có vô lượng tiếng nhạc du dương, không có người sử dụng mà tự trổi lên; lại có một chiếc tán trắng tinh, các ngọc quý làm cán, vàng ròng làm kèo, trông thật xinh xắn đẹp đẽ, tự nhiên đến che bốn phía trên cây lọng trời Đế Thích; lại có bốn vị Đại thiên vương cùng quyến thuộc đến thành này, mở cửa thành rước chiếc lọng Đế Thích đi.

Cũng trong đêm đó Da-du-đà-la hết sức mỏi mệt ngủ say, trong giấc mộng thấy hai mươi điềm chiêm bao rất đáng kinh hãi, thân tâm run sợ chẳng an, lấy làm quái dị kinh hoàng, bỗng nhiên thức giấc.

Khi ấy Thái tử hỏi Da-du-đà-la:

-Vì cớ gì ái khanh đang ngủ bỗng nhiên thức dậy run rẩy, hơi thở hào hển kinh sợ như vậy? Này ái khanh, vì cớ gì, hiện giờ chúng ta không phải ở rừng tử thi, cũng không phải nằm giữa những tử thi, cũng không phải ở trong núi, cũng không phải ở giữa đồng hoang, mà ta đang ở vương cung nơi thành Ca-tỳ-la này, được vô lượng vô biên lực lượng mang khí giới bảo vệ, nơi đây thật an toàn, không sợ dã thú, lại cũng không lo giặc cướp đến nhiễu hại, nơi đây hết sức an vui, không có gì phải lo sợ, ta nay thấy tâm nàng hết sức sợ hãi, sinh tâm ưu sầu lo lắng, bỗng nhiên thức dậy là do nguyên nhân gì?

Da-du-đà-la, chánh phi của Thái tử lệ nhỏ như mưa, buồn rầu sợ sệt nghẹn ngào thưa Thái tử:

-Tâu Đại thánh Thái tử, hôm nay trong giấc mộng thiếp mộng thấy hai mươi điều biến đổi, cúi xin Thái tử lắng nghe, thiếp sẽ kể lại: Thưa Thái tử, thiếp ở trong mộng thấy tất cả chung quanh đại địa này chấn động.

Thưa Thái tử, tiếp đến, thiếp lại thấy cây lọng trời Đế Thích đổ nhào xuống đất.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp lại thấy mặt trời, mặt trăng và các tinh tú từ trên hư không rơi xuống.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp lại thấy một chiếc tán hết sức trong sạch tốt đẹp, lúc ấy thiếp theo núp dưới chiếc tán này, chiếc tán thương mến và che chở thiếp; bỗng nhiên Xa-nặc, con của mụ tỳ nữ dùng sức mạnh đến cướp lấy chiếc tán của thiếp mang đi.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp lại thấy các ngọc quý giá trang điểm trên búi tóc của thiếp bị một chiếc dao đến cắt mang đi.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp lại thấy bao nhiêu chuỗi anh lạc trên mình thiếp bị nước cuốn trôi.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp lại thấy dung nhan của thiếp đẹp đẽ tuyệt vời bỗng nhiên trở thành xấu xí.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp lại thấy tay chân của thiếp bỗng nhiên rời khỏi thân người.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp lại thấy thân hình thiếp bỗng nhiên lõa thể.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp lại thấy giường nằm của thiếp xưa nay, khi thiếp đang ngồi hầu hạ Thái tử, chiếc giường bỗng nhiên ngã nhào xuống đất.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp lại mộng thấy chiếc giường mà thiếp cùng Thái tử nằm ngủ thọ lạc, bỗng nhiên bốn chân giường gãy đổ.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp lại mộng thấy một hòn núi lớn toàn bằng các chất ngọc, bốn cạnh sắc bén, hết sức cao, bỗng nhiên bị thiêu đốt, núi kia sụp đổ xuống đất.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp mộng thấy trong cung của vua Tịnh Phạn có một cây hết sức tốt đẹp bỗng nhiên bị gió cuốn mất.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp mộng thấy vầng trăng tròn sáng ở giữa các ngôi sao trong cung này bỗng nhiên biến mất.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp mộng thấy vầng mặt trời ở trong cung điện này trong sáng tỏa chiếu ngàn vạn tia sáng xung quanh, bỗng nhiên biến mất, thế gian tối tăm không chút ánh sáng.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp mộng thấy trong cung điện thành này có một cây đuốc thắp sáng di chuyển ra ngoài thành.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp mộng thấy vị thần từ trước bảo vệ thành này, khắp minh được trang sức bằng chuỗi anh lạc, hình dung tuấn tú rất dễ cảm, đứng ngoài cửa thành bỗng nhiên buồn khóc kêu than.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp lại mộng thấy thành Ca-tỳ-la bỗng nhiên biến thành khoảng đồng trồng đáng sợ như ban đêm, tâm không thể vui được.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp mộng thấy nước các ao trong thành Ca-tỳ-la bỗng nhiên vẩn đục và tất cả cây cối hoa quả cành lá trong thành đều rơi rụng che kín khắp mặt đất.

Thưa Thái tử, kế đến, thiếp mộng thấy tất cả tráng sĩ thân mặc áo giáp, tay cầm dao gậy bao quanh khắp bốn mặt thành cùng nhau chạy đuổi theo Thái tử.

Thưa Thái tử, thiếp mộng thấy hai mươi việc như vậy, tâm rất lo sợ kinh hãi, nghi ngờ không an, không biết đây là điềm gì? Hậu quả lành hay dữ? Hay là mạng thiếp sắp lìa trần? Hay là sự ân ái với Thái tử sắp biệt ly? Do đó tim thiếp như trống đánh, rúng động sợ hãi không đủ sức chế ngự, nên ở trong giấc ngủ bỗng nhiên giật mình thức dậy.

Thái tử nghe nói như vậy, tâm suy nghĩ, ta nay chẳng bao lâu sẽ xả tục xuất gia, vì thế hôm nay Da-du-đà-la thấy điềm chiêm bao hết sức kinh hãi như vậy. Lúc ấy, Thái tử bảo Da-du-đà-la:

-Này ái phi Da-du-đà-la, nàng dầu có thấy một ngàn chiếc lọng trời Đế Thích ngã nhào xuống đất đối với nàng có thương tổn gì? Ví dầu nàng lại thấy một ngàn mặt trời mặt trăng và các tinh tú rơi rụng xuống đất, đối với nàng có ảnh hưởng đau khổ gì? Nàng dù thấy một ngàn chiếc lọng bị Xa-nặc con của tỳ nữ dùng sức mạnh mang đi, đây chỉ là sự cướp đoạt chỉ thấy trong giấc mộng, nào có quan hệ với sự thật ban ngày, mà có gì tâm nàng phải rối loạn? Nàng chẳng nên ưu sầu, nàng là đại phi quý nhất của ta, chớ nên suy nghĩ sinh ra sợ hãi, ở trong thế gian tự có những điềm chiêm bao hư vọng như vậy, nàng chẳng nên ôm lòng sợ hãi, chỉ nên an ổn bình thường mà ngủ. Nàng là chánh phi duy nhất của ta, đang độ thanh xuân, dáng điệu yêu kiều, ta e rằng sự sợ hãi như vậy làm tổn thương đến sức khỏe nàng. Này Da-du-đà-la, nàng chỉ thọ hưởng sự an vui, chưa từng bị đau khổ.

Nàng nghe Thái tử giải thích như vậy, yên tâm nằm ngủ trở lại. Thái tử vì muốn an ủi vỗ về Da-du-đà-la nên đồng nằm ngủ, cùng nhau hoan lạc hưởng thú vui ngũ dục. Đêm đó Thái tử cũng nằm thấy năm giấc mộng lớn:

Giấc mộng thứ nhất: Thái tử thấy nằm trên giường bằng cõi đại địa với chiếc gối bằng núi Tu-di lót trên đầu, tay trái gác trên biển cả phương Đông, tay phải gác trên biển cả phương Tây và hai chân gác trên biển cả phương Nam.

Giấc mộng thứ hai: Thái tử thấy một cọng cỏ tên gọi là “kiến lập” gốc mọc từ rún, ngọn tận cõi trời sắc cứu cánh.

Giấc mộng thứ ba: Thái tử thấy bốn con chim màu sắc rực rỡ từ bốn phương bay đến đậu dưới hai chân rồi tự nhiên biến thành thuần một màu trắng.

Giấc mộng thứ tư: Thái tử thấy có bốn con thú màu trắng, đầu toàn sắc đen, đến liếm từ gót chân cho đến đầu gối Thái tử.

Giấc mộng thứ năm: Thái tử thấy một ngọn núi phẩn rất cao lớn rộng rãi, Thái tử đi kinh hành trên ngọn núi phẩn này mà không bị dính phẩn uế.


Mục Lục Đầu trang

    Xem thêm:

  • Thiện ác nghiệp báo phần 16 – Phóng Sanh - Kinh Tạng
  • Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Căn Bổn Đại Giáo Vương Kinh Kim Sí Điểu Vương Phẩm - Kinh Tạng
  • Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Thiện Ác Nhơn Quả – Thích Giác Quả dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 51 Đến Phẩm 60 - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Tội Nghiệp Báo Ứng Giáo Hóa Địa Ngục - Kinh Tạng
  • Kinh Thiện Ác Nhơn Quả – Thích Trung Quán dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 31 Đến Phẩm 40 - Kinh Tạng
  • Kinh Tân Đầu Lô Đột La Xà Vì Vua Ưu Đà Diên Thuyết Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Vua Sư Tử Tố Đà Bà Không Ăn Thịt - Kinh Tạng
  • Kinh Năm Giới Tướng Của Ưu Bà Tắc - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 26 – Dối Trá - Kinh Tạng
  • Kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Thiểm Tử (Bản dịch 2) - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 27 – Lười Biếng Và Kiêu Mạn - Kinh Tạng
  • Pháp Mật Yếu Trị Bệnh Thiền - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 21 Đến Phẩm 30 - Kinh Tạng
  • Kinh Thái Tử Mộ Phách – Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Nguyệt Quang Đồng Tử - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Thiểm Tử (Bản dịch 1) - Kinh Tạng