Kinh A Soa Mạt Bồ Tát
Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch
Bản Việt dịch của Tuệ Khai
***
Quyển thứ nhất
Nghe như vầy: Một thuở đức Phật ở tại vùng đất du cư của Như Lai với đạo tràng báu nghiêm tịnh lồng lộng. Chính là sự kiến lập của Chánh Giác, đại đức trang nghiêm mà nương theo tích lũy hạnh nghiệp thần diệu, là báo ứng thành Phật, cung của các Bồ tát, tuyên dương vô lượng biến hóa của Như, vào tuệ không đáy, dạo nơi thù thắng, lòng mang vui vẻ, phân tách đều khắp, đã tu hạnh Thánh, hỏi han đương lai, công huân không bờ cõi, danh xưng không giới hạn, bình đẳng Chánh Giác, đã thành Phật đạo, giỏi chuyển pháp luân, khai hóa vô số những môn đồ theo học mà đối với các pháp thường được tự tại, biết tính chúng sinh, hiểu rõ các căn, qua đến bờ kia, tùy lúc phương tiện, trừ các ngăn ngại, Phật sự không chỗ, trụ không chỗ trụ. Đức Phật cùng với chúng đại Tỳ kheo gồm sáu trăm vạn người. Họ đều là những người tâm hạnh an hòa, tiêu diệt trần lao, ân ái, mọi thứ tệ ác, chính là pháp vương tử của đức Như Lai đã tu pháp thâm áo, do chính pháp sinh ra, uy nghi, lễ tiết, tiến lùi sáng ngời, là thần hộ mệnh của đại chúng, thân cận theo về với Như Lai.
Đức Phật lại cùng với vô cực những Bồ tát, số ấy rất nhiều chẳng thể nói lên hạn lượng. Tất cả Đại Thánh thần thông đã đạt, chứng được Tổng trì, biện tài vô ngại, thần trí diệu đạt, chẳng thể nêu ví dụ, trong khoảnh khắc một niệm đi đến vô lượng đất nước cúng dường những chúng Như Lai trong mười phương, phụng sự bậc minh thức, nghe pháp không chán, hỏi han thọ trì, tôn phụng, tuyên dương. Các vị ấy thường ôm lòng cần tu, dạy răn quần lê, đầy đủ trí quyền biến, đã độ vô cực, lập vô cái môn, đều vượt qua vọng tưởng, không ứng gì chẳng ứng, gần gũi Nhất thiết trí và các thông tuệ địa.
Những vị Bồ tát ấy tên là Thiên Minh Bồ tát, Tuyển Chiến Bồ tát, Chiếu Tạng Bồ tát, Trừ Mạn Bồ tát, Dũng bộ Bồ tát, Nhãn Căn (Quán) Bồ tát, Ly Ngôn Bồ tát, Trừ Minh (tối) Bồ tát…Những hạng Bồ tát như vậy tụ hội với phước đức chẳng thể nghĩ bàn mênh mông rực rỡ. Tất cả những vị Bồ tát đều như vậy.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhập vào sở nguyện thành hạnh của các Bồ tát. Pháp ấy gọi là Vô Cái môn. Pháp môn này làm tịnh các khai sĩ, nghiêm diệu đạo tràng, pháp lực chánh giác đủ vô sở úy, ở nhà Thánh tuệ dạo chơi các pháp mà được tự tại, nhiếp lấy ấn Tổng trì, hiểu rõ biện tài, đã vào cửa đạo, dùng đại thần thông, đến khắp nơi mở ra ánh sáng, giảng thông phân biệt pháp luân bất thoái, bình đẳng điều ngự các thừa, thông tất cả pháp, không bị phá hoại, ban tuyên các căn ý tính của chúng sinh, thông đạt điều kiên yếu, quyết định tất cả pháp, hàng phục ma trường, theo ứng thuận pháp đều có thể khai hóa. Trần lao kết chặc, mê hoặc tà kiến sáu mươi hai nghi, mở Vô ngại trí, minh giải vô tế, sự khuyến trợ nghiệp liền vi phân phát đi, vào đến đạo tuệ bình đẳng của chư Phật, không thí không mong không xứ sở môn, diễn nói các pháp như xét chân đế, bình đẳng xử sự với có tưởng và cùng vô tưởng, hiểu rõ thâm áo mười hai nhân duyên, tích lũy công đức chẳng thể nói lên hạn lường, trang nghiêm hạnh thân miệng ý của chư Phật, chí được sự biết vô tận do thân tu bốn thánh đế, giáo thọ thân tâm Thanh văn tịch tịnh, hóa độ Duyên giác thừa chứng Nhất thiết trí, đủ A duy nhan hưng khởi Đại thừa học, vào tất cả pháp mặc tình độc bộ, khen vịnh đức công huân của Như Lai, tùy thời mà tuyên dương, hiển thị, ủy thác, vỗ về, giúp đỡ, răn dạy dần dần, dẫn đường mở mang pháp tạng hiển bày xứ sở ấy, diệt trừ sự ngăn che nhỏ, khai thị ánh sáng. Đức Thế Tôn đào tạo, diễn giảng, giải thích lời pháp giáo khiến cho lưu bố cùng khắp mười phương.
Vào lúc ấy, phương Đông tự nhiên xuất hiện ánh sáng lớn màu vàng. Ánh sáng ấy soi đến đạo tràng Bảo Tịnh này và sáng chói cả ba ngàn đại thiên thế giới, không đâu chẳng cùng khắp. Ánh sáng rực rỡ che hết cõi này. Mặt trời, mặt trăng, Phạm vương, Đế Thích và Tứ Thiên Vương, ánh sáng oai thần của họ đều không thể hiện, làm cho ánh sáng của trời đại thần diệu, các đấng tôn quí lồng lộng, trời, rồng, quỉ, thần, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lâu la, Chân đà la, Ma hầu lặc đều tiêu tan. Ánh sáng của những ngọc Minh nguyệt, ngọc báu Diệm quang, lửa lớn đình liệu…cũng đều tiêu diệt. Chỉ riêng có ánh sáng lớn vô cực của đức Như Lai chí chân và ánh sáng thân những A duy nhan Bồ tát là hiển hiện, còn tất cả những ánh sáng khác đều biến mất. Cả ngàn nước này trở lại xa xăm sâu kín tối tăm. Ánh sáng mặt trời mặt trăng tuy là rộng lớn, nhưng chẳng thể đuổi kịp ánh sáng uy thần lồng lộng chiếu soi đến vùng đó. Ánh sáng ấy chẳng ngại cây cối, tường vách, núi đại Tu di, Tuyết sơn, Hắc sơn, núi Mục Lân, núi Đại Mục Lân, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, ánh sáng ấy đều thông qua, soi đến ba ngàn đại thiên thế giới, đến ngục Vô Trạch, soi lên đến cực cùng phương trên. Những người trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh thì thân họ nhờ ơn luồng ánh sáng này mà mọi nỗi khổ đều tiêu trừ, mọi đau đớn đều ngưng nghỉ, thân tâm được yên ổn, đều chúc mừng nhau tự cho là gặp thời. Ở đạo tràng Bảo Tịnh, phía bên trái đức Phật, liền tự nhiên sinh ra những sáu mươi ức hoa sen bảy báu. Hương thơm hoa ấy sực nức lan tỏa khắp nơi, ngửi được không ai chẳng vui mừng. Hoa ấy nhu nhuyến lớn như bánh xe, màu sắc rực rỡ, cánh hoa nhiều vô số ức. Hình dáng hoa ấy tròn trĩnh do trăm ngàn thứ báu tạo thành. Trên hoa ấy trưng bày trướng giao lộ, trang hoàng tàng che ngọc. Hoa ấy phô bày vẻ đẹp đẽ, tỏa hương thơm ngát khắp cùng ba ngàn đại thiên thế giới. Những hương thơm danh tiếng có trong chư thiên nhân dân của ba ngàn đất nước này gặp phải hương hoa ấy đều cũng tiêu tan. Những loài sống trên trời, ở thế gian nhờ ơn hương hoa này đều ưa pháp hương, chẳng ưa ái dục.
Đến đây, hiền giả Xá Lợi Phất nhìn thấy hiện tượng ánh sáng vô cực hoa sen thanh tịnh như vậy thì kinh ngạc vui mừng không lường, liền đứng dậy, đi đến chỗ đức Phật, quì dài, vòng tay, hỏi đức Thế Tôn rằng:
– Hiện tượng con thấy hôm nay là điềm ứng gì? Hiện ra hình tượng, hiển đại quang minh, hoa sen thanh tịnh chẳng thể xưng kể như vậy, từ xưa đến nay con chưa từng thấy nghe.
Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Có một vị Bồ tát tên là A Soa Mạt từ phương Đông đến cùng sáu mươi ức Bồ tát với quyến thuộc vây quanh. Những vị ấy sắp đến cõi này nên hiện trước điềm ứng!
Đức Phật nói chưa bao lâu thì Bồ tát A Soa Mạt tức thời hiện thân cùng với sáu mươi ức Bồ tát đồng tiến đến. Do dùng đại thần túc hiển hiện thần uy của Bồ tát, bậc khai sĩ biến hóa làm chấn động nước Phật, tuông ánh sáng chói lòa, mưa xuống mọi hương hoa, lại cũng tấu lên trăm ngàn kỹ nhạc. Đến đạo tràng Bảo Tịnh rộng rãi rồi, những vị ấy đi đến chỗ đức Phật, trụ trên hư không như ở dưới đất, vòng tay tự qui y, dùng một âm thanh mời gọi ba ngàn đại thiên thế giới, dùng nghĩa kệ khen đức Thế Tôn rằng:
Thánh hùng bỏ tham dục
Không nhiễm bẩn sạch trong
Tuệ ấy trừ u tối
Mắt thanh tịnh đem ban.
Đoạn ba cấu mệt nhọc
Mọi tỳ vết tiêu tan
Các trần lao diệt mãi
Nay cúi đầu Thế Tôn!
Khử bỏ việc phá hoại
Lưới ngu si xẻ tan
Thánh chủ có mười lực
Sợ hãi đều phục hàng.
Siêu việt ở chúng hội
Bỏ hết ba buông lung
Độc bộ như sư tử
Dạo bước không kinh hoàng.
Ánh sáng ly cấu ấy
Không đâu chẳng sáng thông.
Nghĩ đến khắp tất cả
Tế độ mọi lỗi lầm
Vô minh còn che kín
Tiêu diệt những tối tăm.
Ánh sáng ấy chiếu sáng
Như nhật xuất mây tan
Thấy mọi người cô khổ (cô độc)
Vì họ dấy xót thương.
Tiêu trừ già bệnh chết
Cứu hộ kẻ lỡ làng (người không ai cứu)
Đạo sư dụ sinh chúng
Hoằng từ thường xót thương.
Đã tu hạnh nghiệp ấy
Như thầy thuốc chữa bệnh
Ngài Xá Lợi ngự chúng
Hóa ngu xuẩn vô minh.
Nghe xong hoạn người khác
Độ họ như lái thuyền
Trần lao khởi vọng tưởng
Đã hóa độ không lường.
Chỗ du cư vị ấy
Không (nhiễm) trước như hoa sen
Rõ tất cả các pháp
Bản tịnh là lặng yên.
Âm thanh miệng đã diễn
Đều sinh từ nhân duyên
Không ngang ngạnh tạo tác
Đạt điều này do (tập) quen.
Mang từ ai mẫn thế
Hàng phục, dạy chúng sinh
Như hư không qui mạng
Thấy tất cả như trên (đấy).
Ở tại nơi pháp thế
Chẳng động như đại sơn
Chúng sinh do không biết
Quen làm nghiệp chẳng cầu (yếu).
Tuy sống tập cư xứ
Đều qua nạn tử sinh
Mắt đạo rất tươi sáng
Giống như hoa sen xanh.
Uy thần ấy lồng lộng
Như vầng trăng đầy tròn
Tất cả người thế gian
Đều chung hỏi han đức
Bỏ não (phiền) chẳng ưa tục
Nên con lễ Thế Tôn!
Đến đây, ngài A Soa Mạt cùng sáu mươi ức Bồ tát tung bài kệ này, khen ngợi đức Phật xong thì từ hư không hạ xuống, cúi đầu dưới chân đức Phật, nhiễu quanh đức Thánh bảy vòng, lui về ngồi lên hoa sen. Ngài Xá Lợi Phất thừa uy thần đức Phật mà hỏi rằng:
– Kính thưa đức Thế Tôn! Bồ tát A Soa Mạt từ đâu lại? Danh hiệu đức Phật ở đó? Đất nước loại gì? Thế giới xa gần? Cách đây bao xa?
Đức Phật đáp rằng:
– Ông tự đem việc này hỏi ông A Soa Mạt thì sẽ được tỏ bày!
Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài A Soa Mạt rằng:
– Thưa Tộc tính tử! Từ chỗ ngài đến cách đây xa gần? Hiệu đức Phật ấy và thế giới là gì?
Ngài A Soa Mạt bảo ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Trưởng lão còn tư tưởng khứ (đi) lai (lại) ư?
Ngài Xá Lợi Phất đáp rằng:
– Thưa Tộc tính tử! Tưởng tôi đã đoạn!
Ngài A Soa Mạt nói rằng:
– Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tưởng ấy đoạn rồi thì chí chẳng mang hai, vì sao ngài dấy niệm mà hỏi vấn đề từ đâu lại. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy là dấu vết của hợp hội. Giả sử đi là dấu vết của biệt ly. Nếu khiến cho chẳng hợp hội, không biệt ly thì đó không đi, lại. Không đi, lại ấy là hạnh Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy là tướng tự nhiên tạo. Nếu có đi là tướng tội phước hết. Kể ra tội phước là tướng tự nhiên. Nếu đối với những tướng tội phước tận thì không có tướng. Tướng không đến là hướng đến của Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy gọi là tướng sở nguyện (?). Nếu có đến (vãng) thì lìa khỏi sở nguyện. Tướng sở nguyện ấy lìa khỏi tướng sở vãng (đến) tức là tướng của Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy là tướng sinh khởi. Nếu có đến (vãng) thì tức là diệt tướng. Trừ diệt tướng sinh vãng, chẳng khởi, chẳng diệt, không sở trụ thì tức là tướng của Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tướng có lại ấy là cửa dạy răn (huấn hối môn). Nếu có đến (vãng) thì dạy trao tan hết. Sinh vào cửa vô tận không dạy trao tức là hướng đến Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nếu có vãng lai thì rơi vào Tục, không có khứ lai mới gọi là đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tiêu diệt khứ lai, trừ khỏi đương lai và các cảnh giới thì mới hướng đến Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy là tướng hiện tại. Nếu có đi thì chính là tướng biệt ly. Đến với hiện tại và bỏ tướng biệt ly tức là hướng đến Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy chính là tướng duyên khởi báo ứng. Nếu có đi thì hết tướng báo ứng. Không có báo ứng, chẳng khởi, chẳng diệt, đến với vô tướng thì mới hướng đến Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy là theo tục duyên hòa hợp mà đạt đến đường lối. Nếu có đi thì gọi đó là âm thanh. Ngôn giáo văn tự là đường tốt vậy. Giả sử loại trừ âm thanh, văn tự, nhân duyên, đường tắt thì hướng đến Thánh đạo.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài A Soa Mạt rằng:
– Thưa Tộc tính tử! Tôi nay do sự giảng giải này biết ngài có biện tài nên muốn hỏi nhau. Sở dĩ vậy là vì muốn được nghe và thâu thái những điều vốn chưa được nghe. Thưa Tộc tính tử! Giống như vị chúa trùm cửa ải nên được người đẩy cửa hỏi xin ra vào, qua lại. Giả sử có người mang nặng hàng hóa hoặc có người lại đi không. Muốn cầu được thuế ông ấy phải nạn vấn hạch hỏi: “Ngươi mang theo đồ gì thì phải nộp thuế!” Thưa Tộc tính tử! Tôi cũng như vậy, thuộc hạng thấp hèn, là giống Thanh văn nương cậy vào âm thanh người khác mà được giải thoát. Chúng tôi hợp cùng duyên âm hưởng nên thường phải hỏi han để thọ lấy. Các bậc Chánh sĩ…đem của dùng ủng hộ tách ra nuôi dưỡng Đại thừa. Từ đó sinh ra Thanh văn, Duyên giác. Do đó cho nên, hay thay! Thưa Tộc tính tử! Ngài vì chúng tôi phân biệt nói rõ chỗ ngài từ đó đến cách đây xa gần? Đức Như Lai và đất nước hiệu tự là gì?
Ngài A Soa Mạt nói rằng:
– Thưa ngài Xá Lợi Phất! Đức Như Lai ở trước mặt, ngài nên khải vấn, ngài sẽ được mở mang, những lưới nghi của chúng hội sẽ được giải quyết!
Ngài Xá Lợi Phất trước hỏi đức Phật rằng:
– Từ chỗ đến của Bồ tát A Soa Mạt cách đây xa gần? Hiệu của đức Phật ấy là gì? Đất nước loại nào? Vô ương số người vang danh cõi ấy đều phát ý đạo, mặc giáp đại đức?
Đức Phật dạy rằng:
– Xá Lợi Phất! Hãy lắng nghe và suy nghĩ cho tốt! Tên thế giới đó có nói lên công huân và hiệu của đức Như Lai nếu có người nghe thì chớ hoài nghi mà đều phải chung tin tưởng, đức Như Lai Chí Chơn không gì ngăn ngại cũng không ấm cái, tất cả mẫn đạt không gì chẳng thông suốt, đều xin thọ giáo – Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất – Phương Đông cách đây bằng một số cõi Phật nhiều như những bụi chứa trong mười hằng hà sa số các đức Phật. Qua khỏi ngần ấy cõi, có thế giới tên là A Ni Di Sa, ở đó có đức Phật hiệu là Tam Mạn Bạt Đà Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, ngài hiện tại đang nói pháp (A Ni Di Sa: Bất Tuần, Tam Mạn Bạt Đà: Phổ Hiền). Thế giới Bất Tuần không có tên của Thanh văn, Duyên giác. Thánh chúng của đức Thế Tôn thuần là các Bồ tát ở đời xa xưa tạo hạnh đã hoàn bị: Bố thí, điều ý, an tường, thánh triết, cấm giới, bác văn, tịch không phóng dật, công huân chỉ túc, kiến lập nhàn tịnh, do sức nhẫn nhục lòng chẳng ôm hại, tinh tấn kiên cố tích lũy công đức, thường sống khắc kỷ, khắp đều thiền tư (suy nghĩ) Thoát môn tam muội mà chánh thọ, lấy thần thông tuệ mà tự vui sướng, dùng ánh sáng vô cực trí quang minh để tùy lúc phân biệt, ban tuyên tất cả chương cú nghĩa lý, đã mang lòng từ bình đẳng như hư không. Tấm lòng ai của những vị ấy thương xót chúng sinh, biết chí tánh của họ mà khai hóa. Họ vui mừng thì vì họ mưa xuống pháp vị đạo cam lộ, trừ sạch tất cả sân hận oán kết. Họ hành hộ thì lìa khỏi hai thừa, dùng không, vô tướng lập nên pháp vô nguyện, cứu vớt hoạn nạn trần lao các ma, uế trược, nguy hại. Rõ biết căn bản chúng sinh mà hướng đến mười hai duyên khởi, quan sát bệnh tật của họ ứng bệnh cho thuốc, nắm chắc chế ngự lòng ấy bình đẳng luôn luôn là một như đất nước lửa gió, không có yêu ghét, hàng phục trừ khử tất cả mọi tà dị học. Ngần ấy pháp chiến đấu lập vững tràng phan giống như bậc dũng tướng thống soái đại quân bẻ gãy hàng phục quân địch, vào sâu sự giác ngộ chánh pháp của chư Phật, mười lực vô úy, lìa hai phẩm hội, thuận theo nghiệp nhân duyên hữu vô, siêu việt hạnh các kiến trung gian, ném bỏ ngô ngã và nhân, thọ mạng, xứ sở có không, phản chân, hướng ngụy vốn là đảo kiến. Những kinh điển môn, ấn pháp của Như Lai pháp vương in vào đó. Biện tài diễn nói không gì ngăn ngại, ở vô ương số ức trăm ngàn kiếp, âm từ thông suốt không thể ngăn chận (tắc nghẽn) chẳng cho thông lưu. Dùng thần túc của Phật cảm hóa vô lượng Phật quốc, qua lại giáp vòng, cuối rồi lại bắt đầu. Hiểu rõ tùy thời tiêu trừ tất cả sợ sệt, sân nhuế, kiêu mạn, tự đại, diễn nói âm thanh như tiếng rống sư tử, cũng như sấm rền. Quan sát hạnh thượng, trung, hạ của chúng sinh mà làm bạn bè bền vững, đặt họ đất diệt độ rốt ráo vĩnh viễn. Nổi dậy mây vô cực, cảm động rền sấm pháp, thông suốt chớp tuệ giải, mưa xuống nước cam lồ, tuyên dương đạo pháp trân (quí), chẳng đoạn tuyệt Tam Bảo, chí tánh thanh tịnh như ngọc Minh Nguyệt, thông đạt trong ngoài (lộ ra ngoài, gói ở trong). Chánh Giác chiếu sáng, tướng tốt thù thắng là do cấm giới mà tự trang nghiêm. Dùng trăm ngàn đức mà trang sức thân thể, dùng pháp chư Phật đến với A duy nhan nhất sanh bổ xứ, phụng tuân tu hành. Chúng sinh dốc lòng tin nghe lời giáo hóa giải thoát thì tùy theo chí tánh của họ mà khiến cho đều được cả. Giác ý, tổng trì là tòa sư tử nghiêm tịnh đạo tràng. Minh thức siêu nhập vào bốn vô sở úy đều hiện lên sự hưng tạo sự nghiệp, thánh thể chánh giác của chư Phật, lấy bỏ tiến lùi lòng ấy mạnh mẽ mà được tự tại, chuyển pháp luân báu Vô thượng.
Lúc bấy giờ, chúng hội nghe đức công huân của các Bồ tát, vui mừng nhảy nhót chẳng thể tự kiềm chế, phát sinh lòng sáng suốt. Họ lấy hoa sen xanh vàng đỏ trắng rất đẹp ở trên trời và các hoa ý để cúng dường đức Phật và tung lên trên Bồ tát A Soa Mạt rồi đồng cất tiếng khen ngợi uy đức rằng:
– Chúng con được lợi lắm! Vì thu hoạch được phước khánh (mừng) mới có thể gặp gỡ vị Chánh sĩ này, được nhìn thấy cuộc hội ngộ nhiều thiện lợi. Chúng con cúi đầu qui mạng mà cúng dường ngài. Nếu có chúng sinh được nghe tên của các Bồ tát công huân này thì đức chẳng thể lường và nhờ sự nghe ấy, đều sẽ hưng phát đại tâm Bồ đề.
Đến đây, ba vạn sáu ngàn những người đến hội đó đều phát ý đạo Vô Thượng Chánh Chơn. Đức Phật nói với ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Cõi A Ni Di Sa không có địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, mọi khổ, các ác, không phụng giới sắc (răn bảo) cũng không phạm cấm, chẳng nghe thấy nữ nhân. Sở dĩ vì sao? Vì đều do giao lộ hoa sen hóa sinh, không có xan tham cũng không dâm dục, sân nhuế, lìa khỏi ngu si sợ sệt…hết thẩy đều không có tên ba thứ độc này, huống là còn có ư? Nhân dân cõi ấy không có thượng, trung, hạ, đẹp, xấu sai biệt đều như nhau không khác, cũng không là ngã và chẳng phải ngã sở, lại chẳng ăn uống. Sở dĩ vì sao? Vì pháp hỉ (vui) là món ăn, hiểu nghĩa là nước uống, thường tự thản nhiên, tỏ rõ chẳng còn ý niệm khát, cũng không có tư tưởng đói, cũng chẳng phải ta, cũng không có người khác, cũng không hoạn nạn sợ ma chúng. Lại, cõi Phật ấy rất rộng lớn cùng cực, một mặt trời mặt trăng chiếu soi sáu mươi ức khu vực của bốn phương. Sở dĩ vì sao? Vì là sự đạt đến của bổn nguyện Bồ tát. Do đó nên chung một mặt trời mặt trăng. Lại nữa, cõi Phật ấy không có gò đống, cao thấp, nghiêng ngã, khắp nơi đều bằng phẳng, đều là lưu ly xanh biếc, dùng mọi thứ báu đặt xen lẫn vào. Đất cõi ấy mềm mại như xơ bông vải trời, dùng mười tám việc trang nghiêm quốc giới. Cây cối cõi ấy đều bằng báu hàng ngũ san sát, thường sinh ra hoa quả mà mùa đông mùa hạ luôn luôn sum suê. Ở cõi ấy không có cát, sỏi, đá, mọi tỳ vết dơ bẩn, Hắc sơn, Tuyết sơn…Những núi cõi ấy đều do các báu hợp thành giống như núi Tu di. Ở cõi Phật đó, trên trời dưới đất như nhau không khác, xả bỏ nghiệp ba đời lấy pháp làm của cải. Cõi đó không có vua, chỉ có đức Như Lai Phổ Hiền Chí Chơn làm Pháp vương. Lại nữa, pháp của cõi ấy chẳng dùng văn từ bảo răn. Các vị Bồ tát muốn hỏi han, thính thọ kinh điển thì đi đến chỗ đức Phật, quán tưởng ngài không chán, chẳng biết mệt mỏi. Vì sao vậy? Vì ngay khi lòng của các vị ấy mừng rỡ thì đã chứng được định ý Phật tâm, tức thời gần đến với pháp nhẫn Vô Sở Tùng Sinh. Do đó cho nên hiệu của cõi ấy là Bất Tuần vậy. Sao gọi là được định ý Phật tâm? Chẳng dùng sắc tướng, chẳng dùng cái đẹp, cũng lại chẳng dùng bổn hạnh đời trước mà đạt đến cái đức đó, cũng chẳng hy vọng làm thế, đạt đến thế. Sở dĩ vì sao? Vì chẳng nghĩ đến đời quá khứ, đương lai, cũng lại chẳng nghĩ đến đời hiện tại hôm nay, cũng chẳng do từ năm ấm, sáu bực mà đạt đến đó vậy.
Sao gọi là năm? Năm ấm ấy là nghĩ đến sáu căn. Sáu căn ấy là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý riêng biệt. Sáu lực ấy là biết sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chẳng dùng tâm thức thấy nghe mà đạt đến mọi nghiệp này. Chẳng dùng xảo ngụy mà đạt đến sinh diệt. Không ngang bằng, không tà vạy, cũng chẳng tạo ý, không điều hy vọng, cũng chẳng phải do phải, cũng chẳng phải do chẳng phải mà đạt đến. Cũng chẳng từ một, hai, ba mà đạt đến. Chẳng nhân tâm, ý thức, cũng chẳng do hiểu mọi ý niệm trong ngoài, việc vọng tưởng thi phi (phải trái) mà đạt đến đó. Cũng không do sắc thọ (thống dương) tưởng, hành, thức mà đạt đến. Cũng chẳng dùng giới, định, tuệ ý, giải thoát, độ tri kiến, mười lực, bất hộ, bốn vô sở úy, pháp của chư Phật, chẳng thể dùng ý tưởng biết điều đó. Chẳng dùng thấy nghe mà đạt đến điều đó. Chẳng dùng tướng tưởng, cũng không ngã tưởng, chẳng dùng năm ấm, sáu bực, chỗ sinh diệt, cũng không sở trụ, cũng không chẳng trụ, không chỗ sắc thọ tưởng hành thức, cũng chẳng nhãn sắc, nhĩ thanh, tỵ hương, thiệc vị, thân xúc, tâm pháp mà đạt đến điều đó, cũng chẳng được chỗ. Sở dĩ vì sao? Vì chẳng thể dùng mắt mà thấy mọi tướng, chẳng thể thấy chỗ tưởng. Chẳng thấy, chẳng khởi, chẳng diệt, chẳng cuối cùng ấy thì tức là không có bắt đầu. Chỗ trụ ấy là nhân duyên, đã làm mới đạt đến đó, tiêu trừ qui diệt bẩn trần lao. Sở dĩ vì sao? Vì dụng ái dục nên nói rằng phải diệt. Do cái cớ ấy nên đoạn với nhân duyên. Dụng ngô ngã nên do đó phải diệt. Tịnh ấy đều sáng chẳng tăng chẳng giảm, cũng lại chẳng nghĩ đó là an hay đó là khổ. Tác khởi sự tính toán thì chẳng lìa khỏi dục, cũng chẳng dùng ý nghĩ mà lấy làm phiền não. Các tưởng vốn giải thoát nên hành đủ hết. Đã có thể đủ hết, đạt được như không có thân thì sắc làm sao có thể được. Không có thống thì từ cái gì có dương (bệnh), thường trụ như pháp. Nếu chẳng tưởng đạo thì chẳng phải tục nghiệp. Giả sử không có điều nghe thì từ cái gì mà có thức, không sở kiến thì cũng không sở đắc. Không sở đắc thì sao gọi là giải thoát, cũng lại chẳng được ý niệm tư duy tâm sở pháp, cũng chẳng mang theo và không sở sanh vậy. Chẳng nhìn thấy đến thì chẳng thấy vãng sanh. Vốn chẳng thể được giống như các pháp đều ngang bằng không khác. Ví như có người hướng lên chiêm ngưỡng hư không thì sự nhìn thấy của mắt người ấy chẳng thể phân biệt đâu là không, đâu là chẳng phải hư không. Ý Phật như vậy, khi Bồ tát được định ý Phật tâm thì biết các Phật pháp, mọi thứ tướng tốt đều đầy đủ, thành tựu đạo tuệ hoàn bị. Nhưng điều Như Lai tuyên dương, các vị Bồ tát đều có thể hiểu thông suốt, tức thời khải thọ, phúng tụng, thông lợi. Khắp mọi người có thể hiểu đầy đủ các pháp của đức Phật.
Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Điều ban tuyên ấy của đức Như Lai Phổ Hiền, đầu tiên không có hai lời. Sao gọi là hai? Một là chẳng giảng chấp trước, hai là chẳng nói đoạn dứt, tu hành bình đẳng không có thích hay không. Sao gọi là không (vô)? – Chưa từng có ý nghĩ theo người hỏi han thính thọ, cũng chẳng tự nghĩ là mình có sự hiểu biết. Các vị Bồ tát ấy vừa thấy đức Phật xong liền đầy đủ sáu độ vô cực – Đức Phật dạy – Sao gọi là đầy đủ? Bỏ mọi sắc tưởng, không điều hy vọng thì đó là đầy đủ Thí độ vô cực. Chẳng tưởng thân Phật, đạt đến “bản vô” thì đã hoàn bị Giới độ vô cực. Sở dĩ vì sao? Vì chẳng tự tưởng nên đã được thành tựu ba mươi hai tướng. Kể ra các pháp giả có danh hiệu, tướng không có tận, trụ là chẳng khởi. Vậy nên gọi là Nhẫn độ vô cực. Tất cả các pháp đều chẳng thể thấy, cũng không có cái để nghe. Sở dĩ vì sao? Vì Bồ tát đại sĩ thấy thiện chẳng vui, thấy ác chẳng buồn, lòng không thích hay không. Vậy nên gọi là Tấn độ vô cực. Lòng chẳng tưởng niệm, chẳng thể tưởng mà lặng yên thì đó gọi là Tịch độ vô cực. Hiểu tướng sắc rỗng không, chẳng do tướng này mà mang lòng tự đại. Vậy nên gọi là Trí độ vô cực – Đức Phật dạy – Các vị Bồ tát ấy ở tại cõi đó nhân tiện đầy đủ sáu độ vô cực nên chứng được pháp nhẫn Vô Sở Tùng Sinh và quan sát khắp các đất nước Phật trong mười phương, một ít chúng học Bồ tát có thể theo kịp lời răn dạy các Bồ tát của đức Phổ Hiên ở đất nước Bất Tuần.
Ngài Xá Lợi Phất nói với ngài Bồ tát A Soa Mạt rằng:
– Khoái thay! Thưa ngài! Mọi công huân của các Bồ tát ở cõi Phật đó thật khó lường!
Ngài A Soa Mạt liền hỏi ngài Xá Lợi Phất:
– Hiền giả có muốn thấy đức Như Lai Phổ Hiền của đất nước Bất Tuần không?
Ngài Xá Lợi Phất đáp:
– Thưa, muốn thấy! Và chúng hội thì đều sẽ được nhờ ơn phước khánh mà công đức càng tăng!
Ngài A Soa Mạt liền ở trên tòa chánh thọ tam muội mà hiện thần túc. Ngài vào tam muội hiệu danh là Biến Kiến Chư Phật Thổ (Thấy khắp các cõi Phật) khiến cho những người trong hội và ngài Xá Lợi Phất đều được tận mắt thấy nước Phật Bất Tuần và đức Như Lai Phổ Hiền. Mọi người không ai chẳng mừng rỡ vì chưa từng có, đều cùng đứng dậy, đều vì đức Phật đó cúi đầu làm lễ. Thánh chỉ của đức Phật sai ngài Xá Lợi Phất và chúng hội, ở trên vạt áo tự nhiên có hoa hương trời, các vị liền lấy, hướng về phía đông, tung lên trên đức Phật đó. Những hoa ấy đến đó, ở trên đức Phật tại đất nước ấy và các vị Bồ tát khắp cùng cõi Phật. Các vị Bồ tát đó tự hỏi đức ấy rằng: “Hôm nay những thứ hoa đặc thù vi diệu này là từ đâu đến mà rực rỡ như vậy (nhường ấy)?” Đức Như Lai Phổ Hiền bảo các vị Bồ tát rằng: “Điềm ứng này chính là A Soa Mạt nay đã đến cõi Nhẫn phụng dưỡng, hỏi han, thính thọ đức Thích Ca Văn Phật và Bồ tát mười phương đều đi đến hội ở đó. Sở dĩ vậy là vì ở đó đang giảng nói đại thừa”. Các vị Bồ tát cõi đó lại hỏi đức Phật rằng: “Sự hiển biến nơi đây là điều ân hóa của thần uy đức Phật nào?” Đức Phật đó đáp rằng: “Của đức Phật Thích Ca Văn! Bồ tát của mười phương đều đến hội ở đó. Sở dĩ vì sao? Vì nơi đó giảng nói Đại thừa!” Các vị Bồ tát cõi đó lại hỏi đức Phật đó rằng: “Nơi đây được nghe gì?” Đức Phật đó bảo rằng: “Đức Phật Thích Ca Văn diễn nói thông suốt, phân biệt, phẩm Đại hội duyên!” Các vị Bồ tát đó lại hỏi đức Phật ấy: “Thế giới Nhẫn ấy cách đây xa gần?” Đức Phật đáp: “Phương tây cách đây như vầy: Những hạt bụi đầy trong những đất nước Phật nhiều bằng mười lần cát sông mà giả sử cứ một hạt bụi đặt vào một cõi Phật như vậy đến hết. Rồi lấy mỗi một những hạt bụi ấy xếp theo thứ tự như các thế giới Phật ở phương tây cho đến số bụi đó hết. Quá khỏi ngần ấy cõi mới đến cõi Nhẫn, chỗ giáo hóa, sinh sống của đức Phật Thích Ca Văn”. Bồ tát cõi đó lại bạch đức Phật ấy rằng: “Chúng con nguyện xin muốn thấy đấng Năng Nhân Đại Thánh hóa đạo hưng thịnh!” Đức Phật Phổ Hiền diễn phát ánh sáng của thân mình soi chiếu thông suốt mười phương. Các vị Bồ tát và chúng hội ở đó đều nhìn thấy cõi Ta Bà này. Những vị Bồ tát đó tức thời đều đứng dậy, tự qui mạng từ xa, vì đức Phật Thích Ca Văn nhất tâm đảnh lễ. Chúng Bồ tát đó từ xa thấy cõi Nhẫn đầy tràn Bồ tát, không còn một chỗ trống khuyết thì lấy làm lạ, kinh ngạc vui mừng mà hỏi đức Phật ấy. Đức Phật đó bảo rằng: “Các chúng Bồ tát của nước Phật mười phương nhiều chẳng thể kể xiết nghe nói nơi đây sẽ ban tuyên phẩm Đại hội duyên nên đi đến khải thọ”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi Bồ tát A Soa Mạt rằng:
– Ai cho ngài tự danh là A Soa Mạt? ( A Soa Mạt Hoa dịch là Vô Tận Ý).
Ngài A Soa Mạt đáp ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Do các pháp nên gọi rằng Chẳng thể tận. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả các pháp cũng chẳng thể tận.
Ngài Xá Lợi Phất nói rằng:
– Nguyện xin ngài đem pháp chẳng thể tận mà giảng nói cho!
Ngài A Soa Mạt nói rằng:
– Vốn khi phát ý cũng chẳng thể tận. Sở dĩ vì sao? Vì ở với khắp những dục, dâm, nộ, si, túy (say) mà không bị trói buộc. Sở dĩ vì sao? Vì chẳng cùng với A la hán và Duyên giác thừa mà đồng trần (đồng chung với trần lao) nên từ khi phát tâm đến nay luôn kiên cố chí ấy, chẳng thể chuyển dời. Sở dĩ vì sao? Vì chẳng bị sự mê hoặc của tà nghiệp, tất cả chúng ma chẳng thể hoại ý. Người có tâm này thì các công đức ấy đều được thành tựu, sống với vô thường mà một mình làm nguyên thủ nắm hết mọi người. Sở dĩ vì sao? Vì có kể là thường thì tức là nghiệp sinh tử. Sở dĩ ngài đặc biệt hiểu được đạo hữu thường nên gọi là ngài ra khỏi vô thường. Từ khi phát tâm trở lại đây, tâm ý thản nhiên không bị phược trước (ràng buộc chấp trước). Sở dĩ vì sao? Vì chẳng lìa khỏi nghiệp công đức của chư Phật, sự nghiệp tu hành không thể bị lỗi lầm. Sở dĩ vậy là vì tất cả mọi ác đều hết sạch, lòng ấy yên ổn mãi mãi, chẳng thể động nên tâm ấy không ai bằng. Sở dĩ vậy là vì ít có ai đuổi kịp nên tâm như Kim Cương. Sở dĩ vậy là vì biết hết nguyên cớ tất cả các pháp chẳng thể tận, nguyên cớ đạo tuệ các pháp trong ngoài, từ khi phát tâm trở lại cứng như kim cương. Bình đẳng với chúng sinh nên tâm ấy chân chất ngay thẳng mà không dua nịnh nên hiệu là Chánh mà không thiên lệch. Từ khi phát tâm đến nay thường mang lòng tươi sáng. Sở dĩ vậy là vì vốn thanh tịnh, đã trừ khử mọi cấu bẩn, tiêu diệt những tối tăm. Tuệ ấy hiển sáng nơi sâu kín đều sáng lên. Từ khi phát tâm đến nay đã tắm rửa mọi dơ bẩn. Sở dĩ vậy là vì niềm tin ấy kiên cố không bỏ được nên phát tâm rất lớn, không có bến bờ. Sở dĩ vậy là vì lòng như hư không, phát tâm sáng mênh mông. Sở dĩ vậy là vì đều nhận độ chúng sinh nên phát tâm vô tận. Sở dĩ vậy là vì tuệ ấy huyền diệu mênh mông không gì ngăn ngại ngay từ lúc phát tâm đầu tiên không có chỗ nào chẳng nhận. Sở dĩ vậy là vì Đại từ vô cực cũng không tận nên tâm hạnh phát ấy không thể đoạn. Sở dĩ vậy là vì công đức nguyện nên phát tâm rất yên ổn, rất đáng yêu kính. Sở dĩ vậy là vì được sự mừng vui của các chúng sinh nên phát tâm đặc biệt tôn quí, siêu dị với mọi người . Sở dĩ vậy là vì được sự phụng kính của tất cả ngoại học. Thanh văn, Duyên giác, sự phát tâm ấy không có thể biết ý. Sở dĩ vậy là vì chẳng phải là sự đuổi theo kịp của những kẻ phàm tục, giống như người nông phu chẳng thể biết thông việc của bậc Thánh Vương, phát khởi đủ thứ loại lòng. Sở dĩ vậy là vì mỗi mỗi đều từ cái nghiệp vốn đã gieo trồng kia mà thu hoạch kết quả ấy. Tất cả các pháp thường tồn tại nên từ lúc ban đầu phát tâm, lấy đạo làm gốc. Sở dĩ vậy là vì do sự đạt đến đó được yên ổn lớn nên từ khi phát tâm về sau mà tự trang nghiêm. Sở dĩ vậy là vì thành tựu công huân, từ khi phát tâm đến nay, cùng chúng sinh đặc biệt thù thắng. Sở dĩ vậy là vì đạt được Thánh tuệ nên từ khi phát tâm về sau là rất vi diệu. Sở dĩ vậy là vì dùng bố thí rộng rãi đến khắp chúng sinh, nên từ khi phát tâm về sau kiến lập được chí nguyện (đến nguyện, thỏa nguyện). Sở dĩ vậy là vì đầy đủ giới cấm nên từ khi phát tâm về sau mà không ai sánh bằng. Sở dĩ vậy là vì không có điều gì chẳng nhẫn nên từ khi phát tâm về sau không thể ức chế. Sở dĩ vậy là vì dùng hạnh tinh tấn không giải đãi phế bỏ nên từ khi phát tâm về sau không gì làm cho ham thích. Sở dĩ vậy là vì Tịch độ vô cực đạt đến định y nên từ khi phát tâm về sau không chỗ qui thú. Nhân hiểu rõ Trí độ vô cực nên từ khi phát tâm về sau vĩnh viễn không sở trụ. Sở dĩ vậy là vì dùng vô cực Từ nên từ khi phát tâm về sau gốc rễ kiên cường. Sở dĩ vậy là vì dùng hạnh bi ai nên từ khi phát tâm về sau thường mang lòng vui vẻ. Sở dĩ vậy là vì đối với các chúng sinh mang lòng bình đẳng nên từ khi phát tâm về sau tuy gặp khổ vui chẳng lấy làm dao động. Sở dĩ vậy là vì hộ tất cả nên từ khi phát tâm về sau vì các đức Như Lai đã diện kiến mà nuôi dưỡng. Sở dĩ vậy là vì áp dụng thuận theo lời dạy của chư Phật mười phương nên từ khi phát tâm về sau muốn độ mọi khổ nạn của tất cả năm đường. Sở dĩ vậy là vì dẫn đường hóa độ hưng thịnh nên từ khi phát tâm về sau chẳng bỏ Tam Bảo, không điều gì phế bỏ trái quấy. Sở dĩ vậy là vì thuận theo giới cấm của Phật mà thành tựu Thánh chúng.
Bồ tát A Soa Mạt lại nói với ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Tâm Nhất Thiết Trí chắc có thể tận ư?
Ngài Xá Lợi Phất đáp rằng:
– Chẳng phải vậy! Giống như hư không chẳng thể cùng tận tâm Nhất thiết trí chẳng thể tận cực cùng cũng lại như vậy. Cấm giới của đức Như Lai cũng chẳng thể tận. Sở dĩ vì sao? Vì Giới chính là căn nguyên nên chẳng thể tận. Định ý của đức Như Lai do không có tận thì trí tuệ giải thoát, độ tri kiến không căn nguyên nên chẳng thể tận. Kể cả mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng chư Phật…những thứ ấy tức là căn, đây cũng là gốc của tâm nên chẳng thể tận. Nói tóm lại tất cả pháp của chư Phật là đứng đầu. Do tâm hạnh ấy nên chẳng thể tận, Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt. Nhân cái tâm đó nên chẳng thể tận, giống như bốn đại của tất cả chúng sinh. Cái gì là bốn đại? Là đất nước lửa gió cũng chẳng thể tận. Kể ra dùng tất cả trí tuệ đó nên đều lại hiểu rõ chẳng thể nghĩ bàn tâm hạnh của chúng sinh. Bổn nguyện chẳng đoạn nên chẳng thể tận. Sở dĩ vì sao? Vì tu hành phụng sự đạo nguyện nên chẳng thể tận. Tất cả đều không sở sinh, không gì chẳng hoảng hốt, tất cả căn nguyên của các pháp vô cùng nên chẳng thể tận.