Quyển thứ hai
Bồ tát A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Phát tâm Bồ tát vĩnh viễn không cùng tận. Sở dĩ vì sao? Vì chẳng văn vẻ, cũng chẳng dua nịnh. Tâm ấy chất trực nên gọi là đặc thù. Chẳng làm lời thêu dệt mà dùng thanh tịnh nên bình chánh không tà vậy. Tâm ấy nhu nhuyến mà không thô ác, dốc lòng tin chơn yếu chưa từng biến đổi. Tạo lập kiên cường mà không chuyển động, chánh trụ chẳng lay, không ai có thể ganh ghét mà nhiễu hại. Do những gì nên không thể nhiễu hại? Do hạnh ấy sửa trị nghiệp không gì có thể đuổi kịp. Có sự kiến tạo thì không ai có thể bài báng. Sở dĩ vì sao không ai có thể chê bai? Vì dám hưng tạo không căn nguyên. Sở dĩ không căn nguyên sử dụng trung chính nên lời nói chí thành nhất định không có khác. Có sự hưng khởi công đức thì không hy vọng điều gì, chẳng cầu danh xưng, được mọi người khen, đều chung kính ngưỡng thì không thể được kém cỏi (lỗi lầm). Sở dĩ không thể được sự kém cỏi ấy là vì có sự tạo tác yên ổn lâu dài. Sở dĩ vì sao tự đạt đến sự yên ổn vĩnh cữu? Vì sự hưng khởi công đức không lười biếng mệt mỏi. Sở dĩ chẳng chán là vì do thương xót tất cả chúng sinh vậy. Sở dĩ vì sao thương nghĩ đến chúng sinh? Vì sử dụng Vô cực từ. Vì người lười biếng mệt mỏi mà hưng khởi tinh tấn. Sở dĩ vì sao? Vì muốn dùng nuôi dưỡng chúng sinh. Sở dĩ vì sao nuôi dưỡng chúng sinh? Vì do phương tiện ấy mà thành tựu công đức và hiệu lực của việc tu hành chẳng hy vọng phước. Sở dĩ không cầu là vì tâm ấy thanh tịnh nên đều nhờ ơn pháp. Người không sở cầu cũng có lực. Sao gọi là lực? Đó là Phật lực. Dùng nghĩa đó hộ tất cả. Sở dĩ hộ là vì muốn khiến cho quần lê đều được chỗ ấy. Sở dĩ muốn khiến cho đều được chỗ là vì khiến cho không hận. Sở dĩ không hận là vì tạo tác sự nghiệp rất yên ổn chắc chắn. Sở dĩ chắc chắn là do những điều đó không thể chế chỉ, không thể ngăn cản, áp đặt khiến cho dừng tịch nhiên giống như vàng tía mà không lấm bẩn. Sở dĩ ví dụ nó như màu vàng tía vì không có bẩn. Sở dĩ không bẩn là do bản tịnh. Sở dĩ là tịnh vì bản hạnh trừ khử dơ bẩn. Sở dĩ trừ khử dơ bẩn là vì bên trong thanh tịnh. Sở dĩ tiêu trừ lầm lỗi mà lỗi lầm đã hết nên do đó thanh tịnh – Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất – Tâm đã tịnh thì tham dục chuyển tiêu. Không tham dục ấy chính là chẳng thể tận. Những ác tâm ấy chẳng thể lại loạn. Lại tâm ấy hộ trì sáng suốt đối với ác ý. Do đó cho nên gọi là chẳng thể tận. Tâm ấy sân nộ sở hữu mọi tham, miệt mài với dục, cống cao, tự đại thì những điều chẳng thể đều hết sạch (?). Vì Bồ tát thường hộ tâm này, phải hiểu tâm này mà chẳng thể tận. Bỏ thế lực không xem và các cấu bẩn, phải đạt tâm ấy chẳng khiến cho giải đãi thì biết tâm ấy là chẳng thể tận. Nếu người rối loạn thì tùy lúc bảo hộ. Kẻ vô trí ấy thì nuôi dưỡng khiến cho thành thục. Đối với tất cả chúng sinh có pháp công đức hay không pháp công đức đều muốn độ thoát đến với đại an thì biết tấm lòng ấy mà chẳng thể tận. Dạy răn tất cả chúng sinh…, những người ở chỗ ách nạn đều khiến cho hưng lập công đức vô cực thì biết tấm lòng này mãi mãi chẳng thể tận.
Ngài Bồ tát A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Sở tập của Bồ tát cũng chẳng thể tận. Sở dĩ vì sao? Vì sử dụng việc Bố thí nên chẳng thể tận. Những sự có thể ban cho thì đó gọi là tập Thí độ vô cực. Đối với tất cả vật nhiều ít lấy đủ, chẳng dùng miệt mài thì đó gọi là Giới độ Ba la mật. Tất cả sự nhiễu loạn đối với thân Bồ tát mà chẳng khởi lên lòng sân dù chỉ như một sợi lông một cọng tóc thì đó gọi là tập Nhẫn độ vô cực. Sự tích lũy công đức thường ở trước chúng mà chẳng ở sau chúng thì đó gọi là tập Tấn độ vô cực. Tất cả sở học đều siêng dụng tâm thì đó gọi là tập Tịch độ vô cực. Những điều nghe học đều muốn thông đạt thì đó gọi là tập Trí độ vô cực. Bồ tát thường tu học với Đại từ. Sao gọi là Đại từ? Nếu có người nguy nạn đến qui y mình, muốn cầu cứu tế thì thà mất thân mạng chẳng phụ lời yếu thệ. Đó gọi là tập Từ. Người hành ai ấy như được khen ngợi hoặc có thêm lợi ích chẳng lấy làm vui vẻ, giả sử có người bài báng chẳng lấy làm lo buồn thì đó là Bồ tát tùy thời xót thương bình đẳng. Sở học của Bồ tát thì do ba việc. Tịnh thân miệng ý, nhất định chẳng truyền bá điều ác, chưa từng nghĩ đến nghiệp tà ngu xuẩn. Bồ tát tuy tự học một mình, không thầy mà cũng chẳng tự đại. Ý sở học ấy chẳng bỏ các thông mẫn tuệ của Phổ trí, nắm cả pháp của chư Phật và nghiệp của Bồ tát, ở tại sở cầu của con người chẳng đi ngược lại lòng của họ, không có sự thiếu thốn, đạt đến tất cả pháp mà được tự tại. Bồ tát lại tập hối lỗi. Thân có tội ác chưa từng che giấu, dùng vô lượng phước khuyến trợ công đức. Bồ tát tu học, khen ngợi, khuyến thỉnh các đức Phật ban tuyên đạo nghĩa, siêng năng tuân phụng học tập pháp của bậc Chánh sĩ. Sở dĩ học pháp Chánh sĩ này là vì muốn thành Chánh giác. Lòng ấy kiên cố chẳng xả bỏ giáp đức Hoằng Thệ vô cực. Sở dĩ chẳng xả bỏ là vì muốn hóa độ tất cả chúng sinh – Ngài Bồ tát A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất – Bồ tát có bốn việc làm chẳng thể tận. Sao gọi là bốn? Một là khai thị mọi tâm. Hai là pháp thí. Ba là răn dạy chúng sinh. Bốn là tích lũy công đức. Đó là bốn.
Lại có bốn nữa. Một là tu tập tại nơi nhàn cư, núi non, chỗ riêng một mình, có được bố thí ít nhiều lấy đủ mà thôi. Hai là đối với mọi công đức thì không chán đủ. Ba là học rộng chẳng mệt mỏi. Bốn là sở nguyện, trí tuệ chẳng lấy làm nhọc nhằn. Đó là bốn.
Lại có bốn nữa. Một là tính toan khuôn phép đo lường. Hai là tư duy gốc ngọn. Ba là trí suy ngẫm thông đạt. Bốn là việc suy nghĩ đủ khắp. Đó là bốn.
Lại có bốn nữa. Một là lìa khỏi mọi ác mà tu giải thoát vô thượng. Hai là giải thoát vô thượng ấy chính là Bồ tát giáo. Ba là mở các gốc ác. Bốn là nghĩ đến giải thoát vi diệu Vô thượng. Đó là bốn.
Lại có bốn việc nữa. Một là hiểu được năm ấm. Hai là hiểu thấu bốn đại, đất nước lửa gió. Ba là tỏ rõ căn nguyên sáu suy. Bốn là sự nhìn thấy mười hai nhân duyên ấy không có biên tế (bờ cõi). Đó là bốn.
Lại có bốn việc nữa. Một là lời nói sinh tử vô thường mà chẳng thể tận. Hai là lời dạy khổ đau. Ba là lời dạy bảo không ngô ngã. Bốn là nghiệp vô vi tịch mịch cũng không thể tận. Đó là bốn
– Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất – Nói tóm lại, những học tập của Bồ tát đều gần với Phật đạo. Do đó cho nên phân biệt đạo và tục đều chẳng thể tận.
Ngài Bồ tát A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Bồ tát tu hành tâm chẳng thể tận. Sở dĩ vì sao? Vì đối với mọi công đức mà chẳng giải đãi. Theo thứ tự chuyển dần lên mà thành tựu những chỗ ấy. Cái gọi chỗ ấy là thập địa của Bồ tát. Sự tu hành ấy giống như biển cả tu mãi không chán. Sở dĩ vậy là vì trong nhiều việc cứu độ tất cả chúng sinh thì sự tu hành ấy là đứng đầu. Sở dĩ vậy là vì vượt lên trên sự tu hành ấy thì có thể nắm lấy tổng quát sự tu hành tôi thượng. Những người ở dưới khiến cho chuyên tu hành tất cả pháp, hoặc thọ trì mọi thiện căn. Sở dĩ vì sao? Vì do tối tôn vậy. Sở dĩ tu nhân độ thì thọ quyết (ký), đều nhờ chuyên tinh sử dụng bất thoái chuyển, tự mình đạt đến đầy đủ. Nhân sự chuyên tinh ấy mà sở nguyện liền thành. Đã thành Đại nguyện thì sự tu hành ấy mãi mãi không sự cậy nhờ. Đó là Định ý. Nương sự tạo hạnh mềm dẻo tu hành mà chẳng khuyết lậu. Tu hành điều phục ý, chính đạo nghiệp tu hành ấy phải tự giữ gìn. Sở dĩ vì sao? Vì do chẳng cùng với mọi ác tùng sự nữa. Chuyên tinh bố thí, Bồ tát chẳng để cho thân tâm có sự tham ái càng tăng lên. Chuyên tinh phụng giới cũng là rất khó. Sở dĩ vậy là vì dạy người phạm giới khiến cho chẳng làm ác. Chuyên tinh nhẫn nhục cũng là rất khó. Sở dĩ và là vì tuy ở địa vị tôn quí, của cải giàu có cực vui mà chẳng khinh kẻ nghèo hèn, gầy yếu, liệt nhược. Đó là Nhẫn nhục. Việc chuyên tu hành tinh tấn là khó và ngồi dưới gốc cây Phật. Nếu có người đến nói rằng, dậy tránh đi cho ta ngồi chỗ ấy, thì trước chọn lấy Phật đạo, rồi nhường chỗ cho người ấy. Đó là tinh tấn. Chuyên tinh thiền tư sở dĩ khó là vì không thể đuổi theo kịp. Việc tu chuyên tinh liền có thể thành tựu đầy đủ, không điều gì hy vọng. Đó gọi là Thiền tư. Chuyên tinh trí tuệ là khó. Sở dĩ vì sao? Vì tích lũy công đức chẳng lấy làm nhọc nhằn, phiền nhiễu. Đó là trí tuệ. Ra vào, bước đi an tường, hòa nhã, uy nghi đầy đủ. Sở dĩ vậy là vì người ấy công đức phước lộc mạnh không thể nguy hại. Tu vô sở úy hiểu rõ pháp sâu, câu kết lẽ huyền vi, đạt đế cao xa nên phụng tu lòng tôn quí. Sở dĩ vậy là vì ánh sáng ấy rất vi diệu, không gì chẳng đạt nên hành chẳng thể tận. Sở dĩ vì sao? Vì sự trụ ở kiên cố. Sao gọi là chuyên tinh? – Ý ấy thản nhiên luôn nghĩ tất cả. Người không chỗ nương thì khiến cho họ được nương. Nếu có người tối tăm thì khiến họ nhìn thấy ánh sáng đạo. Người không chỗ về thì đều nhân được nơi về của họ. Kẻ ấy không bạn lành thì làm bạn lành của họ. Người dua nịnh thì khiến họ tu chất phác. Thấy người kia thô ác thì hiển thị nhẫn nhục, nhu nhuyễn, hòa nhã. Sở dĩ vì sao? Vì dùng đức giáo hóa nên tại trong dối trá lọc lừa (quỉ quyệt) mà vì họ lộ bày nghĩa chân chánh, ở trong trang sức mà chẳng thêu dệt lớn, tại nơi không đáp lại mà hành báo ân đức, tại chỗ mọi ác mà làm thiện, tại chỗ phế bỏ thoái lui mà tu phúc đức, tại chỗ khinh mạn thường hành cung kính, tại chỗ cống cao chẳng mang lòng tự đại, tại chỗ cầu phương tiện không thể được lầm lỗi, chẳng nghĩ cái ác của người, chẳng tuyên dương khuyết lậu. Nếu tại nơi bất chánh thì liền đi đến nuôi hộ khiến họ vào với chánh đế. Tất cả chúng sinh đi đến được thấy chánh đế thì vui mừng, lòng không sân nhuế. Nếu có can ngăn dẫn dụ thị hiện tiến lùi nên phải vậy hay chẳng vậy thì lòng không thêm bớt, thuần tín việc làm họa phước sẽ về với thân. Hoặc ở tại chỗ đồng trống, núi non thì cũng theo đúng như pháp không khác, chẳng tham lợi hại, chẳng tiếc thân mạng. Vì tâm thanh tịnh ban đầu chẳng tăng giảm, thường thủ hộ miệng mình chẳng dối truyền lời nói, chẳng cầu phụng kính. Sở dĩ vì sao? Vì luôn luôn biết tiết chế hạn lượng, chỉ túc mà thôi. Tâm ấy nhu hòa, chẳng theo tệ ác mất lễ nghĩa thì có công đức, qua khỏi sinh tử, dứt mọi khổ hoạn. Sở dĩ vì sao? Do đó cho nên tuệ ý Bồ tát vĩnh viễn chẳng thể tận, sinh tử qua lại cũng chẳng thể tận. Dùng quyền phương tiện, sáng tỏ tùy lúc dạy răn chúng sinh, mê muội đến cuối rồi lại bắt đầu. Chẳng thể tận là khiến cầu ánh sáng Phật đạo chẳng thể tận.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài A Soa Mạt rằng:
– Vả có cái chẳng thể tận khác ư?
Ngài A Soa Mạt đáp rằng:
– Có!
Hỏi rằng:
– Cái đó là gì?
Ngài A Soa Mạt đáp rằng:
– Bồ tát Bố thí lại chẳng thể tận. Sở dĩ vì sao? Vì lục độ vô cực chẳng thể tận nên Bồ tát bố thí đều không có giới hạn. Cái gọi là hạn là cái này phải, cái này chẳng phải, phải thí cho người này, chẳng thí cho người này…Bố thí mà chẳng cứu giúp đều khắp thì chẳng nên làm bố thí.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi rằng:
– Theo pháp Bồ tát phải bố thí ra sao?
Ngài A Soa Mạt đáp rằng:
– Người đói thì cho ăn! Sở dĩ vì sao? Con người nương vào ăn mặc mới được còn mạng, có thể sống lại, ngồi, đứng, nói năng được yên ổn, thân thể khang ninh, khí lực cường thịnh. Kẻ khát cho họ uống nước thì tiêu trừ cái khát. Sở dĩ vì sao? Vì nếu đời sau Bồ tát xoay vần trong sinh tử thường chẳng khao khát thiếu thốn. Có người cầu xe thì liền theo ý họ mà cho. Do quả báo này mà chỗ sinh đời sau, đi đến sở tại bằng thần túc phi hành. Kẻ không áo ấy nhờ được ban cho áo nên cuộc sống đời sau chẳng đường đột mạo phạm mà thường ôm giữ tàm quí. Nếu ở chỗ tối tăm thí cho đèn lửa thì được đạo nhãn thấy thông mười phương. Nếu ở trước Thế Tôn, sư phụ, tự xá, hai thân (cha mẹ) trưởng lão mà tấu xướng kỹ nhạc để làm vui họ thì cuộc sống đời sau được đạo nhĩ (tai đạo) nghe suốt, nghe không cùng cực. Nếu người không hương thơm mà thí cho hương thơm thì cuộc sống đời sau đạt được giới hương, huệ hương, định hương, giải thoát hương, độ tri kiến hương, thân này được phủ hương đức huân. Nếu lại có người danh huân đủ loại hương liền cho sự ưa thích thì thân thể đời sau hương thơm thanh khiết, không ai chẳng vui mừng. Nếu có mùi vị khác lạ ngon ngọt mà người đến xin liền cho theo ý của họ thì cuộc sống đời sau thường được ăn uống món ngon. Hoặc miếng ăn chẳng ngọt mà vào miệng liền trở thành ngon là do sự gieo trồng đời trước nên được cái tướng này. Nếu người không có khăn tay mà nhân đó ban cho thì cuộc sống đời sau thanh tịnh không bẩn, được sự ủng hộ của người. Với kẻ không có người hộ mà vì họ nuôi hộ giống như nhà cửa. Sở dĩ ví như nhà cửa che chở con người là vì tùy theo sự thiếu thốn của họ mà thí cho. Cuộc sống đời sau của người hành thí này đều thu hoạch xứng đáng, liền được chu cấp. Người bệnh cho thuốc thang thì thân thể trong cuộc sống đời sau thường không bệnh, chẳng sinh, chẳng chết, không có mọi hoan nạn, luôn luôn được yên ổn, tất cả đầy đủ, không chỗ nào chẳng là chủ. Với người không kẻ sai khiến mà cấp cho nô tỳ thì cuộc sống đời sau tự nhiên đầy đủ, vua chúa muôn cỗ xe, chế trên, ngự dưới, không có gì thiếu thốn. Với kẻ cầu chúng bảo mà có thể ban cho thì cuộc sống đời sau đầy đủ hết, thành tựu ba mươi hai tướng của bậc đại nhân. Bố thí đủ thứ vật, ngần ấy chủng loại thì cuộc sống đời sau được tám mươi thứ vẻ đẹp. Bố thí voi ngựa thì đời sau được ý Đại thừa vô cực. Đem ruộng thí cho thì nhân đó được đầy đủ Tịch độ vô cực. Đem vợ con thí cho, ban cho của yêu quí mà đời sau lòng không khác thì sẽ được Phật đạo. Sở dĩ vì sao? Vì Phật là đấng cực thượng tôn, không ai sánh bằng. Giả sử có người theo Bồ tát ấy cầu đầy kho lúa, Bồ tát có thể cho chưa từng tham lận (gian lận) thì đời sau đạt được pháp tạng, đầy tràn đạo tuệ, không thiếu thốn gì. Giả sử Bồ tát được làm vua Chuyển Luân, chúa bốn thiên hạ, bảy báu tràn đầy. Nếu có người đến xin mà chẳng yêu tiếc, liền có thể đem cho hết thì cuộc sống đời sau chứng được Nhất thiết trí, các thông Thánh tuệ, tế độ rộng rãi tất cả. Đem kỹ nhạc vi diệu mà thí cho thì đời sau được niềm vui Kinh điển. Do niềm vui pháp nên không gì chẳng vui vẻ. Nếu vì người có thế lực địa vị có lòng trung thành giúp đỡ hành pháp Bồ tát giống như bề tôi trung của bậc vương giả. Có người đến cầu sự giúp đỡ cai trị của mình thì liền có thể thí cho. Do đó cho nên đời sau đối với Phật pháp giáo, Bồ tát muốn ngồi đạo tràng ở dưới gốc cây Phật, hàng phục ma binh. Dùng tay thí cho người thì đời sau đứng đầu tất cả đạo pháp. Người bố thí tai, mũi thì thân đời sau đầy đủ, không một khuyết lậu. Người dùng mắt bố thí thì đời sau chứng được Pháp nhãn, đứng đầu tất cả mắt đạo pháp. Người dùng đầu bố thí thì chỗ sinh ra đời sau, được ba đời đặc biệt tôn trọng, độc bộ không bạn bè với những thông mẫn tuệ. Người bố thí da thịt thì đời sau thành Phật đạo người đến nghe Kinh xả bỏ những bất thiện, đều thu hoạch Bồ tát chân chính. Người phá xương đem tủy bố thí thì đời sau được Phật đạo, thân như kim cương, không thể lay động.
Ngài A Soa Mạt nói rằng:
– Bồ tát chẳng dùng sắc, mà có sự bố thí là do tu chánh. Nếu người đến cầu nhiều, người sau cầu ít thì đều cho khắp, khiến cho đều được đủ. Hoặc khi thí cho chẳng khủng, chẳng bố, chẳng úy, chẳng cụ, không kham, hành khí chẳng ôm lòng hối hận, chưa từng biến đổi. Bồ tát bố thí không khinh mạn, chuyên tâm mà cho. Bố thí không dua nịnh, chẳng đem vật ác, đồ không đúng yêu cầu để cho người. Bồ tát bố thí chưa từng quan sát người này có phúc lộc, người kia có tội ương, không có hồ nghi, chẳng phân biệt tốt xấu, chẳng giữa chừng đoạn dứt và sót lọt việc bố thí. Sao gọi là giữa chừng đoạn dứt và sót lọt sự bố thí? Ở trong đại hội riêng cho một người, chẳng cho một người mà đều muốn tế độ khắp cùng. Sở dĩ vì sao? Vì việc bố thí của Bồ tát thường mang lòng thuần tín, chẳng nghĩ đến mệt mỏi, giải đãi, không cho bố thí là hoạn nạn, phiền não. Bồ tát bố thí chẳng kêu gọi người đến trước mà mắt tự thấy mặt mới thí cho. Bồ tát cũng chẳng suy nghĩ người này thiện, người này ác, chẳng nhất định chọn tìm được người thành đạo đến mới cho. Sau khi cho người chẳng nghĩ rằng người này đã được đạo, người này chẳng được đạo. Bồ tát thí cho mà thấy người phụng trì giới đến nhận vật ấy chẳng lấy làm vui mừng, thấy người không giới cũng không dị tâm (khác lòng). Việc thí cho ấy, Bồ tát chẳng mong được đền đáp lại. Có được người để bố thí, Bồ tát cũng chẳng cầu danh xưng, khiến cho xa gần đều nghe, chẳng tự kể lễ, chẳng ghét, bài báng sự thí cho của Bồ tát, chẳng gây phiền não, nhiễu loạn, bố thí chẳng mang lòng hối hận, bố thí không sân nhuế, bố thí không vui mừng. Bồ tát bố thí chẳng nghĩ đời sau sẽ được phước ấy, chẳng khởi lòng giận dữ mắng chửi bố thí ngu dại. Có người đến cầu xin Bồ tát chẳng khước từ người đó trước rồi mới thí cho, chẳng khinh dễ bố thí, chẳng nhờ người khác đem vật đến cho. Sở dĩ vì sao? Vì phải tự tay mình châm chước. Bồ tát cũng chẳng nghĩ rằng, người ở trước mặt ta thì được cho, kẻ chẳng ở trước mặt ta thì ta chẳng thí cho. Bồ tát bố thí không ngăn ngại, bố thí hết lòng mình, chẳng bố thí làm cho nổi bật, tự tay trao cho, chẳng bố thí trầm ngâm, khi cho, khi chẳng cho. Bồ tát chẳng nghĩ rằng, công việc bố thí của ta mệt mỏi và cực nhọc. Bố thí cho người theo đến xin chẳng nhiều, chẳng ít, chẳng chọn lựa vật xấu đem cho, vật tốt để lại. Nếu có người đến cầu xin thì Bồ tát theo đúng lời yêu cầu của họ chưa từng giảm bớt. Việc bố thí của Bồ tát là thương nghĩ chúng sinh rộng rãi không có thiên lệch, muốn khiến cho người nhận thường được yên ổn. Hoặc thi khí cho thì nghĩ người ấy là người ở trong đất nước của mình. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả đều là đất đạo (đạo địa) của Bồ tát vậy. Lại, người đã thí, ít chẳng khinh mình, nhiều chẳng vui mừng, Bồ tát tuy bố thí nhiều người mà chẳng tự xét rằng, ta nay bố thí rộng rãi đã cho đúng như pháp, không hy vọng. Bồ tát bố thí chẳng nghĩ đến phước này thì sẽ có cuộc sống nhận được quả báo của công đức ấy. Sở dĩ vì sao? Vì bố thí thì đối với tất cả chúng sinh được nhờ ơn mà người đã thí cũng chẳng nghĩ đến. Bồ tát nghĩ rằng, ở trên trời dưới trời, trong loài người ta riêng đạt đến thế lực tôn quí, việc thí cho ấy là khắp vì chúng sinh. Ta chẳng dùng phước ấy mà mưu cầu địa vị Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương. Ta cũng lại chẳng tham địa vị Chuyển Luân Thánh Vương, chẳng tập theo lòng của hàng Thanh văn, Duyên giác. Bồ tát thí cho, lòng chẳng nghĩ rằng, việc bố thí đầy đủ, cũng chẳng nghĩ thiếu. Đủ cùng chẳng đủ mà có người được thí thì khiến cho tất cả mọi người chẳng lìa khỏi các thông mẫn tuệ của Phật. Người đã thí cho thường cho ngay lúc ấy, không có ai chẳng được đáp ứng, chẳng đem binh khí, thuốc độc thí cho, đem yên ổn thí cho người, chẳng gia thêm nhiễu hại. Bồ tát bố thí theo pháp giáo của đức Phật, những cái có thể ban cho thì biết tất cả đều rỗng không. Sở dĩ vậy là vì nhân duyên có sự hưng phát. Do vậy cho nên mà chẳng thể tận. Người đã thí cho đều hiểu vô tướng, vì các tưởng kiến lập nhân duyên ấy nên chẳng thể tận. Người đã bố thí đều đạt vô nguyện, vì các nguyện tạo tác nhân duyên lành, do đó cho nên chẳng thể tận. Do ý đạo pháp mà có sự bố thí. Tâm ấy kiên cường đầy đủ, rất yên ổn, không gì phá hoại. Việc bố thí của Bồ tát nếu ở tại ba cõi không thể đạt được thì việc có thể thí cho muốn khiến cho phước ấy chảy về tất cả nghiệp của Bồ tát. Chí ấy thường kiến lập tâm Nhất thiết trí. Do đó cho nên là chẳng thể tận. Người đã thí cho do thoát khỏi các tưởng, nắm hết mọi ma khiến cho chúng chẳng tự tại, lìa khỏi các phiền hà nên chẳng thể tận. Bồ tát đã thí cho mọi sự siêu dị, sáng tỏ Nê Hoàn. Đã có thể bố thí thì giải quyết mọi lòng hồ nghi nên chẳng thể tận. Người đã thí cho là chánh trụ ở Phật đạo, chẳng mang tấm lòng khác. Việc bố thí ngang bằng với nguyện nên chẳng thể tận. Việc bố thí của Bồ tát là ngồi dưới gốc cây Phật, được thành Chánh giác. Người đã thí cho và vô ương số chẳng thể xưng kể các loài chúng sinh đều nhờ ơn tế độ nên chẳng thể tận. Ngài đã thí cho chẳng thể tận, việc ấy rộng lớn. Người đã thí cho vì được đạo xứ nên không thể lay động, không thể vượt qua, huống lại là người bố thí nên chẳng thể tận. Người đã thí cho thì lòng họ thản nhiên như Nhất thiết trí nên chẳng thể tận.
Ngài Xá Lợi Phất nói rằng:
– Hay thay! Hay thay! Thưa ngài A Soa Mạt! Ngài đã khen sự bố thí và sự chẳng thể tận của Bồ tát. Khoái thay! Đến vậy! Tôi nguyện muốn thính thọ cấm giới chẳng thể tận!
Ngài A Mạt Soa nói rằng:
– Giới thanh tịnh của Bồ tát cũng chẳng thể tận, có sáu mươi bốn việc. Những gì là sáu mươi bốn? Bồ tát hành động thương người, chẳng ôm lòng độc hại thêm cho chúng sinh. Thân cũng chẳng giết hại, chẳng lấy vật của người, chẳng xâm phạm vợ người khác. Nếu thấy Bồ tát kịp hướng đến chúng sinh thì thường hành chí thành, chưa từng nói hai lưỡi. Có người tranh tụng thì Bồ tát thường hòa giải họ, nhất định không mắng chửi, chẳng nói lời ác khẩu. Sở dĩ vì sao? Vì Bồ tát thường có xấu hổ, nói năng giữ miệng, chẳng nói dối sự việc. Đối với tất cả mọi người chẳng có ý niệm ganh ghét, chẳng hưng khởi lòng sân nhuế hướng đến chúng sinh. Sở dĩ vì sao? Vì nhờ sự có thể nhẫn này mà đời sau được đoạn chính. Tâm ấy thường chân chính chẳng phụng sự học phái khác, luôn luôn mang lòng vui thích tại nơi Phật đạo. Sở dĩ vì sao? Vì tâm ấy thanh tịnh không có trần cấu, yêu thích Phật pháp. Sở dĩ vậy là vì lý giải pháp không có khác mà có thể vượt lên, hết lòng tại đạo, dụng tâm nhân từ vậy. Nếu thấy Sa môn, phạm chí liền dùng năm vóc mà tự qui y lễ bái. Cái gì là năm? – Hai tay, hai gối và đầu cổ cúi xuống dưới chân. Sở dĩ vì sao? Vì nhân được Phật đạo mà tất cả qui y, tâm thường nhu nhuyến, thấy người vi phạm điều sai trái, răn dè mình chẳng vì việc chẳng khiếm khuyết giới. Không có tâm Thanh văn, Duyên giác nên đối với các phạm giới mà không có gì để phạm. Sở dĩ vì sao? Vì đời sau con người chẳng muốn sinh ra ở tại gia đình đánh cá, săn bắn ngu tối nên thường tu tinh tấn mà chẳng giải đãi. Sở dĩ vì sao? Vì chẳng tùng sự chung với lũ tà ác. Giới cấm đầy đủ chưa từng khuyết lậu, thân cận kẻ trí đức hiểu được thâm pháp, chẳng vi phạm, dốc lòng tin cấm giới, phụng trì chân chính, thuận theo giới đúng như pháp tất cả chúng sinh đều khen ngợi. Sự hộ trì giới cấm ấy trong suốt chí chơn. Bản tâm khoái lạc nên hành trì giới, không thể truyền đạt lời nói sai quấy lỗi lầm ấy. Lòng không tà vậy nên giới ấy đầy đủ, chẳng lại mê hoặc theo sáu suy. Giới hạnh đã phụng trì không điều gì chẳng tuyên dương, nghe hết những hiểu biết của các đức Phật Chánh Giác. Giới không có cái để cầu như điều mình ưa thích, Giới là biết dừng đủ, không cái để tham lam. Giới ấy thuần khiết trong trẻo, chẳng xen tạp các ác, thân ý thản nhiên không điều ưa thích, thường ưa nhàn cư, chưa từng vui thích theo mọi náo loạn. Giới có thể hoàn bị đúng như lời dạy của đạo pháp, chẳng theo người khác thọ nhận. Cẩn thận cấm giới chẳng lấy quần áo đẹp mà làm đức trang sức, không thể đạt được lời thề đúng như bản nguyện. Cấm giới chẳng lấy ngon ngọt mà làm loạn ý được. Sở dĩ vì sao? Vì có đạo lực chế ngự mọi ác. Việc làm đúng như Giới thì chư thiên, nhân dân không ai chẳng vui mừng. Hành giới từ tâm ủng hộ chúng sinh. Tu giới bi ai nhẫn nhịn mọi khổ. Tuân theo giới Hộ chẳng giải đãi. Dùng giới tâm bình đẳng (đẳng tâm giới) vì tất cả chúng sinh, mặc cho thiện ác, không hai lòng. Thường xem xét cấm giới chẳng làm tổn hao, chẳng nghe theo lòng ấy mà vì nó ruổi dong. Giới chẳng nghĩ đến ác, chẳng truyền cái sai quấy của người mà ủng hộ tất cả. Nắm giữ cấm giới kiên cố chẳng nghe theo sự ham muốn của ý ấy. Thuận theo giới bố thí mà nuôi dưỡng tất cả chúng sinh. Vì giới nhẫn nhục mà chẳng dấy lòng. Để tâm vào giới tinh tấn thì chẳng hồi chuyển. Giới thiền tư thì được an định. Phụng giới trí tuệ thì rộng nghe chính nghĩa không chán đủ. Tu giới nghe rộng (học rộng) thì giác ngộ pháp cốt yếu. Theo giới thầy lành thì đạt các pháp. Bỏ giới thầy ác thì lìa khỏi mọi tà học, những con đường chẳng chân chính. Giới không cậy thân thì biết những vạn vật đều vô thường. Giới chẳng tham mạng thì nghiệp công đức ấy như vàng ròng tía. Giới không hối hận thì ý ấy thanh tịnh. Giới không hư sức (trang sức rỗng) thì học thanh tịnh. Giới chẳng phiền hà thì ý ấy tươi sáng không cấu bẩn. Giới chẳng đốt cháy thì chẳng thiêu thân. Giới chẳng mê hoặc thì chẳng theo dục. Giới chẳng nguy hại thiêu đốt thì không sự nguy hại. Giới không xúc chạm thì lòng chẳng loạn. Giới phục tâm thì ý không lầm. Giới thông tịch tịnh thì chẳng bị sự dấy lên của nghiệp thế tục. Giới thuận chân chính thì trí đúng như lời dạy. Giới đủ các nguyện là gốc thanh tịnh như giới của Như Lai. Sở dĩ vì sao? Vì tùy theo điều cần yếu căn bản. Như đức Phật định giới thường mang lòng bình đẳng độ chúng sinh, theo giới Nhất thiết trí vào cửa đạo. Sở dĩ vì sao? Vì chẳng ôm hận. Đó là sáu mươi bốn việc của Bồ tát để thanh tịnh cấm giới mà chẳng thể tận.
Ngài A Soa Mạt Bồ tát lại nói với ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Bồ tát lại có tịnh giới, chẳng tự tham thân, chẳng nghĩ tất cả, chẳng tưởng ngã nhân, chẳng kể thọ mạng, chẳng nghĩ sắc thọ tưởng hành thức, chẳng cậy bốn thứ đất nước gió lửa, mỗi thứ đều có giới bốn đại. Chẳng có nhãn sắc, nhĩ thanh, tỵ hương, thiệc vị, thân xúc, tâm pháp, không thân miệng tâm…giới ấy hướng về thanh tịnh, tướng này một lòng mà chẳng mê man. Giới quan sát kỹ các pháp đã qua khỏi không, không tướng, chẳng nguyện, cũng không hình tượng, qua khỏi ba cõi, chẳng chấp trước, chẳng trói buộc. Giới ấy chẳng nghĩ vậy nên chẳng bị đã sinh ra. Sở dĩ vì sao? Vì không chỗ sinh. Sở dĩ vậy là vì giới không việc làm gì chẳng làm mà vốn không tạo tác. Do đó cho nên giới không có giới hạn bộ phận, việc dừng giữa chừng cũng không chỗ dừng. Sự thanh tịnh của ý là nhận thức của giới cũng không chỗ trụ. Sở dĩ vì sao? Vì không tưởng niệm. Giới không có sự câu thúc. Sở dĩ vậy là vì không có dục lực, cũng chẳng trụ ở sắc, cũng chẳng trụ vô sắc mà đều đồng trần (đồng chung với thế gian). Đó gọi là Giới. Lìa khỏi cái nhân dâm nộ si, thoát khỏi ngu tối nên gọi là Giới. Chẳng chấp trước, chẳng đoạn tuyệt, xả bỏ mười hai duyên nên gọi là Giới. Chẳng nghĩ ngã sở trừ ngã chẳng ngã, chẳng trụ ở dục nên đó gọi là Giới. Không tác, chẳng cầu, chẳng trụ sắc tưởng, cũng chẳng ở tại tất cả danh sắc nên đó gọi là Giới. Chẳng theo nhân duyên, không phiền, không hà, vô ngã, phi ngã, chẳng cùng với nghi hoặc hòa hợp, vậy nên gọi là Giới. Cũng chẳng tham phước, chẳng không công đức vì vượt qua các ác, việc phi pháp. Sở dĩ vì sao? – Vì ngu là phi pháp nên gọi là Giới, không có ưu não, thân tâm ấy dừng (chỉ) nên gọi là Giới. Người phụng trì trọng giới thì như bệnh được hết bệnh, chẳng đoạn tuyệt sách vở chân chánh, kinh điển của chư Phật. Thân Pháp thản nhiên nên chẳng đoạn đứt thân pháp. Sở dĩ vì sao? Vì không hai nghiệp: Một là chẳng chấp trước, hai là chẳng đoạn tuyệt. Chẳng đoạn cái nhân dùng để giải thoát của Thánh chúng, chẳng đoạn các học. Sở dĩ vì sao? Vì thuận theo cấm giới.
Ngài A Soa Mạt Bồ tát nói với ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Cái nhân vốn thanh tịnh nên chẳng thể tận. Sao gọi là tục giới? Đó gọi là chỗ sinh tử cũng có tận vậy. Sở dĩ vì sao? Vì tại nơi năm đường nên gọi là tận. Sở dĩ tận là vì có qua lại nên chẳng trụ một chỗ. Ngoài giới của thần tiên ngũ thông, trí của thế tục cầu mạng tận thần túc sống lâu hơn. Sở dĩ vì sao? Vì giới cấm tận. Giới của người, mười thiện cũng có tận nữa. Sở dĩ vì sao? Vì trái bỏ giới. Giới của các thiên tử cõi dục cũng có tận. Sở dĩ vì sao? Vì công đức hết. Định giới của các thiên tử cõi Sắc cũng tận. Sở dĩ vì sao? Vì định ấy loạn. Tịch giới của các thiên tử cõi Vô Sắc cũng tận. Sở dĩ vì sao? Vì định ý mê man. Giới của bậc học, bậc vô học, bậc A la hán…những đạo tích ấy cũng tận. Sở dĩ vì sao? Vì nương cậy vào Nê hoàn. Giới của Duyên giác ấy cũng lại có tận. Sở dĩ tại sao? Vì không Đại ai vậy.
Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Chỉ có riêng một mình giới Bồ tát là không thể tận.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi:
– Vì những gì mà giới Bồ tát chẳng thể tận?
Ngài A Soa Mạt đáp rằng:
– Giới ấy tận thì ấy đều chẳng phải giới. Sở dĩ giới Bồ tát chẳng thể tận là vì tâm ấy chẳng xả Nhất thiết trí, là giới chính chân, vì chẳng đoạn tuyệt chủng tử nên chẳng thể tận. Sao gọi là đạo quả quả thật không tận? Cái gọi chủng tử là gọi tâm Bồ tát. Cái gọi quả thật là thập lực của đức Phật…Đến chẳng thể tận nên gọi là Giới của Bồ tát chẳng thể tận.
Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất rằng:
– Nhẫn nhục của Bồ tát cũng chẳng thể tận. Chúng có ba mươi hai việc. Những gì là ba mươi hai việc vô tận? Chẳng đắm trước dục thì chẳng dấy khởi ý niệm này: Là thân của vợ con ta đều chẳng xâm phạm, chẳng khiến cho người khác xâm phạm. Vậy nên nhẫn nhục cũng chẳng thể tận. Chẳng nghĩ mọi ác, chẳng hận tất cả, chẳng sân giận chúng sinh, chẳng nghĩ đến cái ác của người, chẳng cùng người tranh tụng, chẳng quên trợ giúp người. Có sự hủy báng kích bác cũng chẳng che dấu đùa cợt, tự hộ thân hành, nuôi hộ mọi người, thận trọng tâm mình chẳng buông theo, thường nghĩ đến đức lành, không có ý ái dục, đức trang nghiêm thân, tin làm thiện hay ác sẽ được báo ứng, miệng chẳng nói dối, tâm ấy thanh tịnh. Tâm Bồ tát mạnh mẽ chẳng bỏ tất cả, tự suy tính kỹ càng tà niệm trong lòng mà hiểu biết chúng. Lòng hòa thuận nhu nhuyến nuôi hộ lòng ấy khiến cho việc ác chẳng sinh. Bồ tát tu hạnh thanh tịnh sinh lên cõi Phạm thiên, rồi từ trên trời xuống trở lại nhân gian, đầy đủ tướng đức, tám mươi vẻ đẹp, đạt đến hòa âm giống như Phạm thiên thoát dâm nộ si. Chẳng dùng dung nhan ác sân hận hướng về con người, việc làm công đức chưa từng quên mất, hàng phục ngoại học và mọi thuật tà khác, bỏ hết mọi bệnh, chẳng gặp ách nạn, thuận theo đầy đủ đạo pháp của chư Phật. Đó là ba mươi hai việc nhẫn nhục đều chẳng thể tận, chính là nhẫn nhục của Bồ tát. Sao gọi là nhẫn nhục? – Như bị mắng chửi mà thân lặng lẽ chẳng hòa theo họ. Như bị người đánh đập mà chẳng nghĩ đánh trả lại họ. Đó gọi là Nhẫn nhục. Sở dĩ vì sao? Vì chẳng thấy người đánh, chẳng nhìn thấy thân mình và cây gậy vốn không. Như có người sân giận cũng chẳng ôm hận. Lời nói như huyễn hóa. Người kia khởi ý đến mà ta chẳng sinh lòng đối nghịch thì có thể hàng phục được ý. Nếu người nghĩ ác thì lòng như chẳng biết, tự nghĩ suy rằng, người ấy mang theo ác, ta chẳng nên bắt chước. Có người khen ngợi thì chẳng cảm động vui mừng. Sở dĩ vì sao? Vì chẳng phát sinh ý niệm này thì được ích lợi vậy. Hàng phục tâm nên nếu có suy hao, chẳng lấy làm lo buồn, mình tự biết đủ. Thấy người khen chẳng lấy làm tốt đẹp. Nếu có người bài báng chẳng lấy làm xao động. Sở dĩ vì sao? Vì trí rộng lớn. Có người cung kính chẳng tự cống cao, sửa tính yên ổn. Người bày lễ bái chẳng lấy làm vui vẻ, cũng chẳng nói rằng, ông nên phải vậy. Nếu được địa vị thế lực chẳng lấy làm tự đại. Sở dĩ vì sao? Vì lòng chẳng động vậy. Vì thương xót chúng sinh nên tuy ở tại cần khổ mà chẳng cho là hoạn nạn chán nản. Ở tại chỗ vui chẳng lấy làm vui mừng. Hiểu rõ việc thế tục đều là vô thường, chẳng vì tám việc đời (tám nạn) mà thấy khuynh động. Sở dĩ vì sao? Vì sống trong đó mà chẳng bị sự quấy nhiễu của con người, nhất định chẳng đáp trả lại. Người không dám phạm thì giả sử có người chia xẻ thân mình thành từng đốt từng đốt mà đều có thể nhẫn được. Nhân muốn đầy đủ nghiệp của Bồ tát nên nếu có người hại thân thì nhất định không có ý khác, rõ thân tứ đại hợp thành, tan diệt thì có thể tham bao nhiêu cho đủ? Sở dĩ vì sao? Vì nhờ nhẫn này nên sẽ được thân Phật. Nhẫn hết mọi não hại chẳng thể kể là khó. Sở dĩ vì sao? Vì nhờ đó được đạt đến sự kiến lập yên ổn lớn đến đạo lực. Bồ tát nếu ở tại trong Phạm Chí học thì hiện thân vào lửa không bị thương hại. Nếu muốn khiến cho người ấy biết lòng thanh tịnh, hóa ý nghi hoặc khiến cho chí phản lại cái nhân chân thật thì được lên trời. Phạm chí học ấy ưa thích đền thờ lửa thì sự hiện vào của Bồ tát, không gì chẳng biến đổi, đạo đức siêu việt thù thắng không ai có thể theo kịp. Sở dĩ vì sao? Vì những Phạm vương, Đế thích, vua trời bốn phương đều cúi đầu trước Bồ tát và vì ngài làm lễ. Nhẫn nhục của Bồ tát không có biên để (bờ, đáy). Do đó cho nên gọi là chẳng hết. Bị người mắng chửi mà nhẫn nhịn, chẳng lấy làm hận, cũng chẳng nghĩ là ai mắng chửi ta. Nhân sự tịch nhiên đó liền vào pháp nhẫn. Bồ tát chẳng suy nghĩ người đó mắng chửi mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của ta. Còn nếu mắng chửi tâm ư? Thì mắng chửi ở đâu vậy? Thông qua các suy liền đạt được pháp nhẫn chẳng nghĩ tất cả những ai đến mắng chửi thì liền có thể được vào Nhẫn không người. Các nhẫn đó, thì đều chẳng là nhẫn. Sở dĩ vì sao? Vì là giả có hiệu vậy. Chắc chắn kể ra nhẫn ấy giống như tiếng vang trong núi. Có hiểu được vấn đề này thì vào được nhẫn vô thường. Chẳng nghĩ được ngã và được người khác, đạt đến nhẫn trung hòa cũng chẳng tự nghĩ: Thân theo lời pháp giáo, người nào đó (mỗ) chẳng trụ ở pháp. Đó gọi là nhẫn. Ta, một mình trụ ở đạo, còn người khác thì chẳng kiến lập đạo, chẳng dấy khởi ý niệm ấy. Ta nghĩ không chẳng nghĩ thật, nghĩ không tư tưởng chẳng nghĩ có tưởng, nghĩ nhẫn không còn chẳng nghĩ nhẫn khác, nghĩ nhẫn không nguyện chẳng nghĩ nhẫn có nguyện, không sinh tử, chẳng có chung thỉ. Nhẫn là có thể, không chẳng có thể. Nhẫn là có đức, chẳng là không đức. Nghĩ nhẫn không sinh, chẳng nghĩ có sinh. Nhẫn qua khỏi đời chẳng cùng đời hòa hợp. Nhẫn là vào đạo, chẳng là không đạo. Nghĩ nhẫn là giải thoát, chẳng là không thoát. Lý giải nhẫn là Nê hoàn chẳng là sinh tử. Nhẫn nhục của Bồ tát chẳng sinh ý niệm này. Sở dĩ vì sao? Vì chẳng bình đẳng vậy. Sao gọi là nhẫn bình đẳng của Bồ tát? Lý giải vào rỗng không, không có gì đoạn dứt, không có gì chấp trước. Đó là nhẫn của Bồ tát. Cũng chẳng nghĩ sinh, chẳng nghĩ chẳng sinh, chẳng nghĩ hóa sinh. Nếu không hóa sinh thì chẳng dấy niệm nói có cùng không. Hiểu rõ ý nghĩa này, đến chẳng thể tận. Do đó gọi là chẳng thể tận. Nhẫn đều không sở tác, chẳng nghĩ đương nhiên và cùng chẳng đương nhiên, không có hiện thì không trói buộc, không cởi mở, cũng không cái sinh ra, không có tạo khởi. Đã không cái sinh ra thì chẳng thể tận. Nhẫn ấy như vậy thì chính là chứng được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh. Như kể từ được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh cho đến lúc Như Lai ngồi dưới gốc cây Phật thì người nhẫn này ứng được thọ quyết (thọ ký) nói chẳng thể tận.
Khi nói phẩm pháp Nhẫn này thì người ở tại đại hội ấy đều khen rằng:
– Hay thay! Hay thay! Quả thật như lời nói của ngài A Soa Mạt không có khác!
Mười vạn trời đều dùng hoa trời, danh hương, tràng phan, bảo cái tung lên trên thân ngài A Soa Mạt và các vị Bồ tát để cúng dường. Kỹ nhạc của chư thiên tự nhiên kêu lên để cho các vị vui vẻ. Lòng họ đều sáng suốt, mang ý nghĩ rộng lớn, tất cả đều nói lên rằng:
– Nguyện khiến cho các chúng sinh đều được sáng. Như nhẫn của đức Như Lai mà họ nghe âm thanh này chẳng khủng, chẳng cụ, lòng chẳng ở trong sự lo lắng thì những hoa, danh hương, tràng phan, bảo cái sẽ tràn đầy khắp ba ngàn đại thiên cõi Phật.