1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

QUYỂN 3

PHẨM THỨ NĂM : DIỆT NGHIỆP CHƯỚNG

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn trụ ở Chánh phân biệt, vào với tịnh lự vi diệu thậm thâm. Từ lỗ chân lông của thân Phật phóng ra ánh sáng lớn với vô lượng trăm ngàn đủ thứ những màu sắc. Đất nước của các đức Phật đều hiện ra trong ánh sáng mà đem cát sông Hằng mười phương so lường ví dụ chẳng thể bì kịp. Đời ác năm trược được sự chiếu soi của ánh sáng thì các chúng sinh ở đây tạo tác mười nghiệp ác, năm tội vô gián, bài báng Tam Bảo, chẳng hiếu với tôn thân, khinh mạn sư trưởng, chứng Bà la môn… đáng đọa địa ngục, ngã quỉ, súc sinh… nhưng bọn họ nhờ ánh sáng chiếu đến chỗ trú xứ nên các hữu tình đó thấy ánh sáng ấy rồi, nhân lực của ánh sáng họ đều được an lạc, đoan chánh đẹp đẽ, sắc tướng đầy đủ, phước trí trang nghiêm, được thấy chư Phật. Lúc đó Đế Thích, tất cả thiên chúng và nữ thần sông Hằng cùng các đại chúng nhờ ánh sáng hy hữu, đều đến chỗ đức Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, lùi về ngồi một phía.

Bấy giờ, trời Đế Thích thừa uy lực của đức Phật, liền đứng dậy, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay hướng về đức Phật mà bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Làm sao mà thiện nam tử, thiện nữ nhân nguyện cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tu hành Đại thừa, nhiếp thọ tất cả loài hữu tình tà kiến điên đảo, đã từng tạo tác nghiệp chướng tội? Làm sao sám hối mà sẽ được trừ diệt ?

Đức Phật bảo trời Đế Thích rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông nay tu hành, muốn vì vô lượng vô biên chúng sinh, khiến cho họ được thanh tịnh, giải thoát, an lạc. Thương xót thế gian đem phước lợi cho tất cả. Nếu có chúng sinh, do nghiệp chướng nên tạo các tội thì cần phải sách tấn khuyến lệ, ngày đêm sáu thời, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay cung kính, một lòng chuyên niệm và miệng tự nói rằng : “Quy mạng đảnh lễ tất cả chư Phật hiện tại trong mười phương đã được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển pháp luân vi diệu, gìn giữ soi chiếu pháp luân, mưa xuống đại pháp vũ, đánh lên trống đại pháp, thổi vang loa Đại pháp, kiến lập Đại Pháp Tràng, thắp sáng đuốc Đại pháp… Vì muốn lợi ích an lạc cho các chúng sinh nên thường hành Pháp thí, dỗ dành sách tấn quần sinh, khiến cho họ được đại quả, chứng thường lạc. Như vậy đối với những đức Phật Thế Tôn.v.v… con đem thân, ngữ, ý cúi đầu qui y chân thành, chí tâm kính lễ ! Những vị Thế Tôn đó dùng chân thật tuệ, dùng chân thật nhãn, chân thật chứng minh, chân thật bình đẳng đều thấy đều biết nghiệp thiện, ác của tất cả chúng sinh. Con từ sinh tử vô thỉ đến nay lưu chuyển theo ác chung với các chúng sinh tạo tội nghiệp chướng, bị sự ràng buộc của tham sân si ! Khi chưa biết Phật, khi chưa biết Pháp, khi chưa biết Tăng thì chưa biết thiện, ác, rồi do thân, ngữ, ý tạo tội vô gián, ác tâm làm chảy máu thân Phật, bài báng chánh pháp, phá hòa hợp Tăng, giết hại A la hán, giết hại cha mẹ… Thân ba thứ, ngữ bốn thứ, ý ba thứ đã tạo tác mười nghiệp ác, tự mình làm, dạy người khác làm, thấy người ta làm mà vui theo. Đối với những người thiện thì ngang ngược sinh ra bài báng hủy hoại, cân đong gian dối, lấy ngụy làm chân, đem đồ ăn thức uống bất tịnh thí cho tất cả, cha mẹ sở hữu trong sáu đường lại não hại nhau, hoặc ăn trộm vật của Tốt đổ ba (của Tháp), vật của Tứ phương Tăng, vật của hiện tiền Tăng mà tự tại sử dụng, pháp luật của Thế Tôn chẳng ưa phụng hành, lời dạy bày của sư trưởng chẳng thuận theo, thấy người tu hành hạnh Thanh Văn, Độc Giác, Đại Thừa thì ưa sinh ra lời mạ nhục khiến cho lòng hành giả sinh ra hối não, thấy có người hơn mình liền mang lòng tật đố (ganh ghét), thí tài thí pháp thường sinh lòng xan tham hối tiếc, bị vô minh che phủ, tà kiến mê hoặc tâm, chẳng tu nhân thiện khiến cho ác tăng trưởng, ở chỗ chư Phật mà khởi lên sự bài báng, pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp… Mọi tội như vậy Phật dùng chân thật tuệ, chân thật nhãn, chân thật chứng minh, chân thật bình đẳng đều biết đều thấy. Con nay xin quy mạng ! Đối trước chư Phật đều phát lộ hết chẳng dám che giấu ! Tôi chưa làm lại chẳng làm nữa, tội đã làm nay đều sám hối ! Nghiệp chướng sở tác đáng đọa vào trong địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, a tô la và chỗ tám nạn! Nguyện xin nghiệp chướng có sẵn đời này của con đều được tiêu diệt ! Và ác báo sở hữu của con đời vị lai chẳng phải chịu ! Cũng như đời quá khứ, các Đại Bồ tát tu hạnh Bồ Đề, nghiệp chướng sở hữu của họ đều đã sám hối, nghiệp chướng của con hôm nay cũng xin sám hối, đều phát lộ hết chẳng dám che giấu ! Tội đã làm nguyện được trừ diệt, ác vị lai lại chẳng dám tạo ! Cũng như đời vị lai, các Đại Bồ tát tu hạnh Bồ Đề, nghiệp chướng sở hữu của họ đều sám hối hết, nghiệp chướng của con, hôm nay cũng xin sám hối, đều phát lộ hết chẳng dám che giấu ! Tội đã làm nguyện được trừ diệt, việc ác tương lai lại chẳng dám tạo ra ! Cũng như đời hiện tại, những Đại Bồ tát của mười phương thế giới tu hạnh Bồ Đề, nghiệp chướng sở hữu của họ đều đã sám hối, nghiệp chướng của con, hôm nay cũng xin sám hối, đều phát lộ hết chẳng dám che giấu ! Tội đã làm nguyện được trừ diệt, việc ác vị lai lại chẳng dám tạo !”.

Này thiện nam tử ! Do nhân duyên này nên nếu có tạo tội dù trong một sát na cũng chẳng được che giấu, huống gì là một ngày, một đêm cho đến một thời gian dài ? Nếu có người phạm tội muốn cầu thanh tịnh thì lòng mang hổ thẹn (tàm quí), tin vào vị lai nhất định có ác báo, sinh ra rất kinh sợ ! Nên sám hối như vậy ! Như người bị lửa đốt cháy đầu, cháy áo thì cấp cứu làm cho tắt ngay. Nếu lửa chưa tắt thì lòng chẳng được yên. Nếu người phạm tội cũng lại như vậy thì tức thời nên sám hối khiến cho mau trừ diệt. Nếu có người nguyện sinh vào nhà phú lạc, nhiều của báu mà muốn phát ý tu tập Đại Thừa thì cũng nên sám hối diệt trừ nghiệp chướng. Muốn sinh vào nhà giàu sang, Bà la môn, Sát đế lợi và vua Chuyển Luân với thất bảo đầy đủ thì cũng nên sám hối diệt trừ nghiệp chướng.

Này thiện nam tử ! Nếu có người muốn sinh lên trời Tứ Thiên Vương, trời Ba Mươi Ba, trời Dạ Ma, trời Đổ Sử Đa, trời Lạc Biến Hóa, trời Tha Hóa Tự Tại… Cũng cần sám hối diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn sinh lên trời Phạm Chúng, Phạm Phụ, Đại Phạm, trời Thiếu Quang, Vô Lượng Quang, Cực Quang Tịnh, trời Thiếu Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Biến Tịnh, trời Vô Vân, Phước Sinh, Quảng Quả, trời Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Hiện, Thiện Kiến, Sắc Cứu Cánh thì cũng cầu sám hối diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn cầu quả Dự Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Hoàn, quả A la hán thì cũng cần sám hối diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn nguyện cầu ba minh, sáu thông, Thanh Văn, Duyên Giác, tự tại Bồ Đề cho đến Cứu Cánh Địa, trí Nhất Thiết Trí, trí Thanh Tịnh, trí Bất Tư Nghị, trí Bất Động, trí Tam Miệu Tam Bồ Đề Chánh Biến thì cũng cần sám hối diệt trừ nghiệp chướng. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì tất cả các pháp từ nhân duyên sinh. Lời Như Lai nói, tướng khác sinh, tướng khác diệt khác nhân duyên vậy. Như vậy các pháp quá khứ đều đã diệt hết, nghiệp chướng sở hữu không còn sót lại. Các hành pháp này chưa được hiện sinh mà nay được sinh, còn nghiệp chướng vị lai lại chẳng khởi lên nữa. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì tất cả pháp rỗng không ! Lời Như Lai nói, không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, cũng không sinh diệt cũng không hành pháp. Này thiện nam tử ! Tất cả các pháp đều nương vào gốc, cũng chẳng thể nói. Vì sao vậy ? Vì qua khỏi tất cả tướng vậy ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân như vậy mà vào với chân lý vi diệu, sinh lòng tín kính thì đó gọi là không chúng sinh mà có được gốc. Do nghĩa này nên nói đến sám hối diệt trừ nghiệp chướng.

Này thiện nam tử ! Nếu người thành tựu bốn pháp thì có thể trừ nghiệp chướng, vĩnh viễn thanh tịnh. Những gì là bốn ? Một là, chẳng khởi lên tà tâm, thành tựu chánh niệm. Hai là, đối với lý thậm thâm chẳng sinh ra bài báng. Ba là, đối với Sơ hạnh Bồ tát khởi lên lòng Nhất Thiết Trí. Bốn là, đối với các chúng sinh phát khởi Từ vô lượng. Đó gọi là bốn pháp.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói lời tụng rằng :

Chuyên tâm hộ ba nghiệp

Chẳng bài báng thân pháp

Tác Nhất Thiết Trí tưởng

Lòng từ sạch nghiệp chướng.

Này thiện nam tử ! Có bốn thứ nghiệp chướng khó có thể diệt trừ. Những gì là bốn ?

Một là, đối với luật nghi của Bồ tát mà phạm ác rất nặng.

Hai là, đối với kinh Đại Thừa mà lòng sinh ra bài báng.

Ba là, đối với căn lành của mình mà chẳng thể tăng trưởng.

Bốn là, tham trước ba hữu, không có lòng ra khỏi.

Lại có bốn thứ đối trị nghiệp chướng. Những gì là bốn ?

Một là, đối với tất cả Như Lai của thế giới mười phương hết lòng thân cận nói lên tất cả tội.

Hai là, vì tất cả chúng sinh mà khuyến thỉnh chư Phật nói pháp thâm diệu.

Ba là, tùy hỷ công đức sở hữu của tất cả chúng sinh.

Bốn là, tất cả thiện căn công đức sở hữu đều đem hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con trai con gái có sẵn của thế gian, đối với hạnh Đại Thừa, có người có thể tu hành, có kẻ chẳng thể tu hành thì làm sao có thể được tùy hỷ thiện căn công đức của tất cả chúng sinh ?

Đức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh tuy đối với Đại Thừa chưa có thể tu tập nhưng ngày đêm sáu thời, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay cung kính, một lòng chuyên niệm, khi làm tùy hỷ được phước không lường và nên nói lên rằng : “Tất cả chúng sinh của thế giới mười phương hiện tại tu hành thí, giới, tâm, tuệ, con nay đều sinh ra tùy hỷ. Do tạo được phước tùy hỷ như vậy nên nhất định chứng được quả Tôn trọng thù thắng vô thượng vô đẳng tối diệu. Như vậy sở hữu thiện căn của tất cả chúng sinh quá khứ vị lai con đều tùy hỷ. Lại đối với công đức sở hữu của Sơ hành Bồ tát phát tâm Bồ đề hiện tại qua trăm đại kiếp hành hạnh Bồ tát có đại công đức, được Vô sinh nhẫn, đến Bất thoái chuyển Nhất Sinh Bổ Xứ. Sự tích chứa tất cả công đức như vậy con đều chí tâm tùy hỷ tán thán. Sở hữu công đức tùy hỷ tán thán của tất cả Bồ tát quá khứ, vị lai cũng lại như vậy. Lại đối với tất cả các đức Phật Ứng Chánh Biến Tri trong mười phương thế giới hiện tại đã chứng diệu Bồ Đề, vì độ chúng sinh nên chuyển pháp luân Vô thượng, làm pháp thí vô ngại, đánh trống pháp, thổi loa pháp, dựng pháp tràng, mưa pháp vũ, thương xót khuyến hóa tất cả chúng sinh đều khiến cho họ tín thọ, đều nhờ pháp thí được sung túc an lạc vô tận. Lại nữa, sở hữu công đức tích tập thiện căn của Bồ tát, Thanh Văn, Độc Giác, hoặc có chúng sinh chưa đủ những công đức như vậy thì đều khiến cho đầy đủ con đều tùy hỷ ! Như vậy công đức sở hữu của các đức Phật, Bồ tát, Thanh Văn, Độc Giác quá khứ, vị lai con cũng đều chí tâm tùy hỷ tán thán”. Này thiện nam tử ! Tùy hỷ như vậy sẽ được vô lượng công đức tụ. Như chúng sinh sở hữu của ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng đều đoạn phiền não, thành A la hán mà nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân trọn đời thường dùng y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược thượng diệu vì những A la hán trên cúng dường thì công đức như vậy chẳng bì kịp một phần ngàn của công đức tùy hỷ nêu ở trước. Vì sao vậy ? Vì công đức cúng dường có số có lượng, chẳng nhiếp lấy tất cả các công đức. Công đức tùy hỷ không lượng không số, có thể nhiếp lấy tất cả công đức của ba đời. Vậy nên nếu người muốn cầu tăng trưởng thắng thiện căn thì nên tu công đức tùy hỷ như vậy. Nếu có nữ nhân nguyện chuyển nữ thân làm nam tử thì cũng nên tu tập công đức tùy hỷ, nhất định tùy tâm hiện thành nam tử.

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con đã biết công đức tùy hỷ, công đức khuyến thỉnh ! Nguyện xin ngài vì con nói về việc, muốn khiến cho tất cả Bồ tát vị lai sẽ chuyển pháp luân, Bồ tát hiện tại tu hành chân chánh !

Đức Phật bảo trời Đế Thích rằng :

– Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nguyện cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì cần phải tu hành đạo Thanh Văn, Độc Giác, Đại Thừa. Người này ở trong ngày đêm sáu thời với uy nghi như đã nói ở trước mà một lòng chuyên niệm, nói lên như vầy: “Con nay quy y tất cả các đức Phật Thế Tôn khắp mười phương đã được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chưa chuyển pháp luân vô thượng, muốn xả thân vào Niết Bàn. Con đều chí thành đảnh lễ khuyến thỉnh chư Phật ấy chuyển Đại pháp luân, mưa Đại pháp vũ, thắp đèn Đại pháp, soi sáng đường chân lý, thí pháp vô ngại, không Bát Niết Bàn, trụ thế lâu dài, độ thoát an lạc tất cả chúng sinh… như đã nói ở trước…. cho đến an lạc vô tận ! Con nay đem công đức khuyến thỉnh này hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như những vị Đại Bồ tát quá khứ, vị lai và hiện tại đem công đức khuyến thỉnh hồi hướng về Bồ Đề, con cũng như vậy, công đức khuyến thỉnh hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề !

Này thiện nam tử ! Giả sử có người dùng thất bảo chứa đầy trong ba ngàn đại thiên thế giới để cúng dường Như Lại.

Lại nếu có người khuyến thỉnh Như Lai chuyển Đại Pháp Luân thì sở đắc công đức so ra người này hơn người kia. Vì sao vậy ? Vì phước người kia là phước tài thí, người này là phước pháp thí. Này thiện nam tử ! Vả lại gác bỏ việc cúng dường (bố thí) thất bảo đầy trong ba ngàn đại thiên thế giới mà nếu có người dùng bảy báu chứa đầy trong hằng hà sa số đại thiên thế giới cúng dường tất cả các đức Phật thì công đức khuyến thỉnh cũng thắng hơn người đó. Do pháp thí ấy có năm điều thắng lợi. Những gì là năm ?

Một là, pháp thí gồm lợi mình, lợi người, còn tài thí chẳng vậy.

Hai là, pháp thí có thể khiến cho chúng sinh ra khỏi ba cõi, phước của tài thí chẳng ra khỏi Dục giới.

Ba là, pháp thí có thể tịnh pháp thân, tài thí chỉ tăng trưởng được sắc thân.

Bốn là, pháp thí vô cùng, tài thí hữu tận. Năm là, pháp thí có thể đoạn trừ vô minh, tài thí chỉ điều phục tham ái. Vậy nên, này thiện nam tử! Công đức khuyến thỉnh thật là vô lượng vô biên khó có thể ví dụ. Như ta thuở xưa khi hành đạo Bồ tát khuyến thỉnh chư Phật chuyển Đại Pháp Luân. Do thiện căn đó vậy nên ngày hôm nay tất cả Đế Thích, các Phạm vương.v.v… khuyến thỉnh ta chuyển Đại Pháp Luân.

Này thiện nam tử ! Thỉnh chuyển pháp luân là muốn độ thoát an lạc cho các chúng sinh nên ta ở đời xưa, làm hạnh Bồ đề, khuyến thỉnh Như Lai trụ lâu ở thế gian, chớ Bát Niết Bàn. Nương vào thiện căn này ta được mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại biện, Đại từ, Đại bi, chứng được vô số pháp bất cộng. Ta sẽ vào với vô dư Niết Bàn, chánh pháp của ta trụ thế lâu dài, pháp thân của ta thì thanh tịnh không gì sánh với đủ thứ diệu tướng, vô lượng trí tuệ, vô lượng tự tại, vô lượng công đức khó có thể nghĩ bàn, tất cả chúng sinh đều nhờ lợi ích mà trăm ngàn vạn kiếp nói chẳng thể hết. Pháp thân nhiếp chứa tất cả các pháp mà tất cả các pháp chẳng nhiếp lấy pháp thân. Pháp thân thường trụ chẳng rơi vào Thường kiến, tuy lại đoạn diệt nhưng cũng chẳng phải đoạn kiến, có thể phá hoại đủ thứ dị kiến của chúng sinh, có thể sinh ra đủ thứ chân kiến của chúng sinh, có thể mở sự trói buộc của tất cả chúng sinh, không trói buộc gì mà chẳng mở được, có thể gieo trồng những căn bản thiện của chúng sinh, người chưa thành thục thì khiến cho thành thục, người đã thành thục thì khiến cho giải thoát, không tác không động lìa xa náo loạn, tịch tịnh vô vi, tự tại an lạc, qua khỏi ba đời mà có thể hiện ba đời, sinh ra cảnh giới của Thanh Văn, Độc Giác việc tu hành của các Đại Bồ tát, thể của tất cả Như Lai không có khác. Những điều này đều do sức thiện căn công đức khuyến thỉnh. Như vậy pháp thân thì ta nay đã được. Vậy nên, nếu có người muốn được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì ở trong các Kinh, một câu, một bài tụng, vì người giải nói được thiện căn công đức còn không hạn lượng, huống gì là khuyến thỉnh Như Lai chuyển Đại pháp luân, trụ thế lâu dài, không Bát Niết Bàn !

Trời Đế Thích lại bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân vì cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tu đạo Tam Thừa thì thiện căn sở hữu làm sao hồi hướng về trí Nhất Thiết Trí ?

Đức Phật bảo trời Đế Thích rằng :

– Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh muốn cầu Bồ Đề, tu đạo Tam thừa mà thiện căn sở hữu nguyện hồi hướng thì phải ngày đêm sáu thời ân cần trân trọng, chí tâm nói lời như vầy : “Con từ sinh tử vô thỉ đến nay, ở chỗ Tam Bảo tu hành thành tựu, sở hữu được thiện căn, thậm chí thí cho loài súc sinh một nắm đồ ăn, hoặc dùng lời nói tốt lành hòa giải tranh tụng, hoặc thọ Tam qui và các học xứ, hoặc lại sở hữu thiện căn sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ…. Con nay tác khởi ý đều nhiếp lấy, đem bố thí trở lại cho tất cả chúng sinh, không có lòng hối tiếc, là giải thoát phần thiện căn đã nhiếp lấy, như sự tri kiến của Phật Thế Tôn chẳng thể xưng lường, thanh tịnh vô ngại. Như vậy thiện căn công đức sở hữu đều đem bố thí trở lại cho tất cả chúng sinh mà chẳng trụ tướng tâm, chẳng xả tướng tâm. Con cũng như vậy, đem hết thiện căn công đức bố thí trở lại cho tất cả chúng sinh, nguyện xin thu hoạch được đôi tay như ý, khuấy đảo vào hư không tuông ra báu thỏa mãn nguyện của chúng sinh, phú lạc vô tận, trí tuệ vô cùng, diệu pháp biện tài đều không trì trệ, cùng chung với chúng sinh đồng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, được Nhất Thiết Trí. Rồi nhân thiện căn này lại sinh ra vô lượng thiện pháp cũng đem hồi hướng về Bồ Đề Vô Thượng.

Lại, như các Đại Bồ tát đời quá khứ khi tu hành, công đức thiện căn đều đem hồi hướng về Nhất Thiết Chủng Trí, Bồ tát hiện tại, vị lai cũng lại như vậy. Nhưng thiện căn công đức sở hữu của con cũng đều hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Những thiện căn này con nguyện cùng chung với tất cả chúng sinh đều thành Chánh Giác. Như các đức Phật khác ngồi dưới cây Bồ Đề Đạo Tràng, thanh tịnh vô ngại chẳng thể nghĩ bàn, trụ ở vô tận pháp tạng Đà la ni, Thủ Lăng Nghiêm định, phá hoại vô lượng binh chúng của ma Ba Tuần nên thấy hiểu biết, nên có thể thông đạt… Tất cả như vậy chỉ trong một sát na đều soi rõ hết. Rồi ở trong hậu dạ (gần sáng) chứng được pháp cam lộ, chứng được nghĩa cam lộ… Con và chúng sinh đều nguyện đồng chứng Diệu Giác như vậy ! Giống như :

Vô Lượng Thọ Phật – Thắng Quang Phật – Diệu Quang Phật – A Súc Phật – Công Đức Thiện Quang Phật – Sư Tử Quang Minh Phật – Bách Quang Minh Phật – Võng Quang Minh Phật – Bảo Tướng Phật Bảo Diệm Phật – Diệm Minh Phật – Diệm Thịnh Quang Minh Phật – Cát Tường Thượng Vương Phật – Vi Diệu Thanh Phật – Diệu Trang Nghiêm Phật – Pháp Tràng Phật – Thượng Thắng Thân Phật – Khả Ái Sắc Thân Phật – Quang Minh Biến Chiếu Phật – Phạm Tịnh Vương Phật – Thượng Tính Phật… Những đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri như vậy ở quá khứ, vị lai và cả hiện tại, thị hiện ứng hóa được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển Vô Thượng Pháp luân vì độ chúng sinh… Con cũng như vậy (rộng nói như trên)”.

Này thiện nam tử ! Nam tử, nữ nhân tịnh tín đối với Phẩm Diệt Nghiệp Chướng của Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này mà thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ chẳng quên, vì người khác giải nói rộng rãi thì được vô lượng vô biên đại công đức tụ. Vínhư chúng sinh sở hữu của ba ngàn đại thiên thế giới cùng một lúc đều được thành tựu thân người, được thân người rồi đều thành đạo Độc Giác.

Lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân, trọn đời cung kính, tôn trọng, tứ sự cúng dường cho mỗi một vị Độc Giác, đều cúng thí thất bảo như núi Tu Di. Sau khi những vị Độc Giác này vào Niết Bàn người đó đều dùng trân bảo khởi dựng tháp cúng dường. Tháp ấy cao rộng, mười hai dũ thiện na, người đó dùng những hoa hương, tràng phan, bảo cái cúng dường luôn. Này thiện nam tử ! Ý ông thế nào ? Người đó thu hoạch công đức có nhiều không ?

Trời Đế Thích bạch rằng :

– Rất nhiều ! Thưa đức Thế Tôn !

– Này thiện nam tử ! Nếu lại có người đối với Phẩm Diệt Nghiệp Chướng của Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này mà thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ chẳng quên, vì người khác giải nói rộng rãi thì công đức thu hoạch được của họ đối với công đức cúng dường nói ở trước trăm phần chẳng bằng một, trăm ngàn vạn ức phần cho đến tính lường, thí dụ cũng chẳng thể bì kịp. Vì sao vậy ? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân đó trụ ở trong Chính hạnh, khuyến thỉnh tất cả các đức Phật mười phương chuyển pháp luân Vô thượng, đều vì các đức Phật hoan hỷ khen ngợi. Này thiện nam tử ! Như lời ta nói, trong tất cả thí thì pháp thí là hơn hết. Vậy nên, này thiện nam tử ! Ở chỗ Tam Bảo thiết lập những sự cúng dường chẳng thể sánh được ! Khuyên thọ Tam Qui, giữ tất cả giới không có hủy phạm, ba nghiệp chẳng rỗng không chẳng thể sánh được ! Tất cả chúng sinh của tất cả thế giới tùy sức lực, tùy khả năng, tùy sở nguyện ưa thích, ở trong ba thừa khuyên phát tâm Bồ Đề, chẳng thể sánh được ! Chúng sinh sở hữu của tất cả thế giới ở trong ba đời đều được vô ngại, mau chóng khiến cho thành tựu vô lượng công đức, chẳng thể sánh được ! Tất cả chúng sinh của đất nước ba đời khiến cho không chướng ngại được Tam Bồ Đề, chẳng thể sánh được ! Tất cả chúng sinh của đất nước ba đời mà khuyên khiến cho mau chóng ra khỏi khổ của bốn đường ác, chẳng thể sánh được ! Tất cả chúng sinh của đất nước ba đời mà khuyên khiến cho họ trừ diệt nghiệp ác cực trọng, chẳng thể sánh được ! Tất cả khổ não mà khuyên khiến cho họ giải thoát, chẳng thể sánh được ! Tất cả bố úy, khổ não bức thiết đều khiến cho họ được giải thoát, chẳng thể sánh được ! Công đức sở hữu của tất cả chúng sinh, ở trước chư Phật ba đời, khuyên khiến cho họ tùy hỷ phát nguyện Bồ Đề, chẳng thể sánh được ! Khuyên trừ ác hạnh, nghiệp mạ nhục, tất cả công đức đều nguyện thành tựu, trong cuộc sống sở tại khuyến thỉnh cúng dường, tôn trọng, tán thán, tất cả Tam bảo, khuyến thỉnh chúng sinh tịnh tu phước hạnh, thành tựu viên mãn Bồ Đề, chẳng thể sánh được ! Vậy nên ông phải biết, khuyến thỉnh Tam Bảo trong ba đời của tất cả thế giới, khuyến thỉnh đủ đầy sáu Ba la mật, khuyến thỉnh chuyển pháp luân Vô thượng, khuyên thỉnh trụ thế trải qua vô lượng kiếp, tuyên nói vô lượng diệu pháp thậm thâm thì công đức không gì có thể so sánh được !

Bấy giờ, trời Đế Thích và Nữ thần sông Hằng, vô lượng Phạm vương, Tứ Đại Thiên Vương đứng dậy, trật ái vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay đảnh lễ, bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con đều được nghe kinh Kim Quang Minh Tối Thắng vương này, nay đều thọ trì, đọc tụng thông lợi,vì người khác giải nói rộng rãi và nương theo pháp này mà trụ. Vì sao vậy ? Thưa đức Thế Tôn ! Vì chúng con muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thuận theo nghĩa này đủ thứ thắng tướng, đúng như pháp tu hành !

Bấy giờ, Phạm Vương, trời Đế Thích.v.v… ở chỗ nói pháp đều dùng đủ thứ hoa Mạn đà la tung lên trên đức Phật, đất của ba ngàn đại thiên thế giới chấn động lớn, tất cả trống trời và các âm nhạc chẳng tấu mà tự kêu lên, phóng ra ánh sáng màu vàng cùng khắp thế giới, phát ra âm thanh vi diệu. Trời Đế Thích bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Những sự kiện này đều chính là lực uy thần của Kinh Kim Quang Minh, từ bi cứu hộ khắp, đủ thứ lợi ích, đủ thứ tăng trưởng thiện căn Bồ tát, diệt các nghiệp chướng !

Đức Phật dạy rằng :

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Đúng như lời ông nói ! Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở xưa, qua vô lượng trăm ngàn atăngkỳ kiếp có đức Phật hiệu là Bảo Vương Đại Quang Chiếu Như Lai Ứng Chánh Biến Tri xuất hiện ở thế gian, trụ thế sáu trăm tám mươi ức kiếp. Bấy giờ, đức Như Lai Bảo Vương Đại Quang Chiếu vì muốn độ thoát người, trời, Đế Thích, Phạm vương, Sa môn, Bà la môn… tất cả chúng sinh khiến cho được an lạc. Đang khi xuất hiện, hội thuyết pháp đầu tiên độ được trăm ngàn ức ức vạn chúng đều được quả A la hán, các lậu đã hết, ba minh, sáu thông tự tại vô ngại. Ở hội thứ hai, lại độ được chín mươi ngàn ức ức vạn chúng đều được quả A la hán, các lậu đã hết, ba minh, sáu thông tự tại vô ngại. Ở hội thứ ba, lại độ được chín mươi tám ngàn ức ức vạn chúng đều được quả A la hán, viên mãn như trên.

Này thiện nam tử ! Ta vào lúc ấy, làm thân nữ nhân tên là Phước Bảo Quang Minh, ở hội thứ ba, được gần gũi đức Thế Tôn, thọ trì, đọc tụng Kinh Kim Quang Minh này, vì người khác giải nói rộng rãi, cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Đức Thế Tôn đó vì ta thọ ký rằng : “Người con gái Phước Bảo Quang Minh này vào đời vị lai sẽ được làm Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn”. Sau khi xả bỏ thân nữ, từ đó về sau vượt khỏi bốn đường ác, sinh ra trong cõi người, trời, hưởng thọ thượng diệu lạc, tám mươi bốn trăm ngàn đời làm Chuyển Luân vương… cho đến ngày hôm nay được thành Chánh Giác, danh xưng vang khắp tràn đầy thế giới.

Đại chúng của pháp hội bỗng nhiên đều thấy đức Như Lai Bảo Vương Đại Quang Chiếu đang chuyển Pháp Luân Vô Thượng, nói pháp vi diệu.

– Này thiện nam tử ! – Đức Phật nói tiếp – Cách thế giới Tác Ha (Ta Bà) này về phương Đông, qua trăm ngàn hằng hà sa số cõi Phật, có thế giới tên là Bảo Trang Nghiêm, đức Như Lai Bảo Vương Đại Quang Chiếu ấy, nay đang ở tại cõi đó, chưa Bát Niết Bàn, nói pháp vi diệu, rộng hóa độ quần sinh. Người mà các ông thấy chính là đức Phật kia !

Này thiện nam tử ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe danh hiệu đức Như Lai Bảo Vương Đại Quang Chiếu này thì đối với Bồ tát địa được Bất Thoái Chuyển, đến Đại Niết Bàn. Nếu có nữ nhân nghe danh hiệu đức Phật này thì lúc sắp mạng chung được thấy đức Phật đó đến chỗ của người ấy, đã thấy đức Phật rốt ráo chẳng lại thọ thân nữ nữa. Này thiện nam tử ! Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này có đủ thứ lợi ích, đủ thứ thiện căn Bồ tát tăng trưởng, diệt các nghiệp chướng.

Này thiện nam tử ! Nếu có Bí sô, Bí sô ni, Ô ba tác ca, Ô ba tư ca (ưu bà tắc, ưu bà di), bất kỳ ở đâu mà vì người giảng nói Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này thì ở đất nước ấy đều thu hoạch bốn thứ thiện căn phước lợi. Những gì là bốn ? Một là, quốc vương không bệnh, lìa khỏi các tai ách. Hai là, thọ mạng lâu dài không có chướng ngại. Ba là, không các oán địch, binh chúng dũng kiện. Bốn là, yên ổn giàu thịnh vui sướng, chánh pháp lưu thông. Vì sao vậy ? Vì những nhân vương như vậy thường được Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, chúng Dạ xoa chung nhau bảo hộ.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo thiên chúng rằng :

– Này những thiện nam tử ! Việc này thật chăng ?

Lúc đó, vô lượng Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương và chúng Dạ xoa đều cùng lúc đồng thanh đáp đức Thế Tôn rằng:

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Nếu có đất nước giảng nói, đọc tụng diệu Kinh vương này thì đối với những quốc chủ đó, chúng con bốn vua thường đến ủng hộ, đi đứng chung cùng. Vua ấy, nếu có tất cả tai chướng và các oán địch thì bốn vua chúng con đều khiến cho tiêu diệt hết, ưu sầu dịch bệnh cũng khiến cho trừ khỏi, tăng thêm thọ mạng, cảm ứng điềm tốt lành, sở nguyện thỏa lòng, tâm luôn sinh ra vui mừng. Chúng con cũng có thể khiến cho trong nước ấy quân binh sở hữu đều dũng kiện !

Đức Phật khen rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Đúng như lời nói của ông ! Các ông phải tu hành ! Vì sao vậy ? Vì các quốc chủ này khi theo đúng như pháp hành sự thì tất cả nhân dân theo vua tu tập. Theo đúng như pháp tu hành thì các ông đều nhờ sắc lực thắng lợi, cung điện quang minh, quyến thuộc cường thịnh !

Đế Thích, Phạm Vương.v.v…. bạch đức Phật rằng :

– Đúng vậy ! Thưa đức Thế Tôn !

Đức Phật dạy rằng :

– Nếu có chỗ giảng đọc Kinh điển vi diệu này lưu thông thì Đại thần, Phụ tướng ở trong nước ấy có bốn thứ lợi ích. Những gì là bốn ? Một là, hòa mục thân nhau, tôn trọng ái niệm. Hai là, thường được sự ái trọng của nhân vương, cũng được sự tuân kính của Sa môn, Bà la môn, nước lớn, nước nhỏ. Ba là, khinh tài (của cải) trọng pháp, chẳng cầu thế lợi, danh tiếng tốt khắp truyền, được mọi người kính ngưỡng. Bốn là, thọ mạng kéo dài yên ổn khoái lạc. Đó gọi là bốn thứ lợi ích. Nếu có đất nước tuyên nói Kinh này thì Sa môn, Bà la môn được bốn thứ thắng lợi. Những gì là bốn ? Một là y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược không có gì thiếu thốn. Hai là, đều được an tâm suy nghĩ đọc tụng. Ba là, nương vào núi rừng được trụ ở an vui. Bốn là, theo sở nguyện của lòng đều được thỏa mãn đầy đủ. Đó gọi là bốn thứ thắng lợi.

Nếu có đất nước tuyên nói Kinh này thì tất cả nhân dân đều được giàu thịnh an vui, không có các dịch bệnh, thương buôn qua lại thu hoạch nhiều của cải báu, đầy đủ thắng phước. Đó gọi là đủ thứ công đức thắng lợi.

Lúc bấy giờ, Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương và các đại chúng bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ý nghĩa thậm thâm của Kinh điển như vậy, nếu hiện tại thì phải biết ba mươi bảy thứ trợ Bồ Đề pháp của Như Lai trụ thế chưa diệt. Nếu khi Kinh điển này diệt hết thì chánh pháp cũng diệt !

Đức Phật dạy rằng :

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Này thiện nam tử ! Vậy nên các ông đối với Kinh Kim Quang Minh này, một câu, một bài tụng, một phẩm, một bộ đều phải một lòng chánh đọc tụng, chánh nghe giữ, chánh tư duy, chánh tu tập và vì các chúng sinh tuyên nói, lưu bố rộng rãi thì (trường dạ) mãi mãi an vui, phước lợi vô biên !

Các đại chúng nghe đức Phật nói rồi đều nhờ ơn thắng đức, hoan hỷ thọ trì.

    Xem thêm:

  • Hợp Bộ Kinh Kim Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Đà La Ni Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Như Lai - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Biến Chiếu Quang Minh Tạng Vô Tự Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Tổng Trì Bảo Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Nhất Thiết Chư Như Lai Tâm Quang Minh Gia Trì Bồ Tát Phổ Hiền Đà La Ni Diên Mạng Kim Cang Tối Thắng - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Vì Thiên Tử Thắng Quang Dạy Vương Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Phổ Biến Quang Minh Thanh Tịnh Sí Thạnh Như Ý Bảo Ấn Tâm Vô Năng Thắng Đại Minh Vương Đại Tùy Cầu Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Duyên Đồng Tử Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Thái Tử Đức Quang - Kinh Tạng
  • Kinh Nghi Quỹ Huyễn Hoá Võng Đại Du Già Giáo Thập Phẫn Nộ Minh Vương Đại Minh Quán Tưởng - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bảo Tạng Văn Thù Sư Lợi - Kinh Tạng
  • Giải Thích Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Kim Cang Bí Mật Thiện Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Tuệ Nhuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh A Di Đà (Văn Vần) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Bồ Tát – Thích Minh Lễ dịch - Kinh Tạng