1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

QUYỂN 9

PHẨM THỨ HAI MƯƠI MỐT : THIỆN SINH VƯƠNG

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì các đại chúng nói Vương pháp chính luận rồi, lại bảo đại chúng rằng :

– Các ông nên lắng nghe ! Ta nay vì các ông nói về nhân duyên phụng pháp thuở xa xưa ấy.

Đức Phật liền khi đó nói bài tụng rằng :

Ta xưa từng làm Chuyển Luân Vương

Bỏ đại địa này cùng đại hải

Bốn châu trân bảo đều đầy tràn

Đem đi cúng dường các đức Phật.

Ta vào thuở xưa, kiếp không lường

Vì cầu chân pháp thân thanh tịnh

Những vật yêu thích đều bỏ buông

Cho đến thân mạng lòng không tiếc.

Lại, quá khứ kiếp khó nghĩ bàn

Có đấng Chánh Biến Tri Bảo Kế.

Sau khi Như Lai đó Niết Bàn

Có vua tên Thiện Sinh xuất thế

Hóa bốn châu, làm vua Chuyển Luân

Tận bờ biển cả đều qui phục.

Có thành tên là Diệu Âm Thanh

Vua Chuyển Luân đó, trụ nơi ấy

Đêm mơ nghe Phước trí Thế Tôn

Thấy có pháp sư tên Bảo Tích

Ngồi tòa đoan nghiêm như nhật luân (vừng mặt trời)

Diễn nói Kim Quang vi diệu điển.

Bấy giờ, từ mơ tỉnh vua liền

Khắp châu thân sinh đại hoan hỷ

Đến trời sáng ra khỏi vương cung

Nhằm chỗ tăng Bí sô đi tới

Cung kính cúng dường thánh chúng xong

Liền hỏi những đại chúng ở đó :

Có pháp sư Bảo Tích lừng danh

Hóa chúng sinh, công đức thành tựu.

Bấy giờ, pháp sư Bảo Tích đang

Ở trong một thất (nhà) mà dừng trụ

Chánh niệm tụng trì vi diệu kinh

Thân thẳng chẳng động, lòng an lạc.

Có Bí sô dẫn đường quốc vương

Đến chỗ ở của ngài Bảo Tích

Thấy ở trong thất ngồi thẳng thân

Quang minh diệu tướng khắp thân ấy

Bạch vua : Đây Bảo Tích lừng danh

Hay trì chỗ thậm thâm Phật hạnh.

Gọi là vi diệu Kim Quang Minh

Trong các Kinh là vua đệ nhất.

Vua làm lễ ngài Bảo Tích liền

Cung kính chắp tay mà cầu thỉnh :

Nguyện xin đấng mãn nguyệt đoan nghiêm

Nói pháp Kim Quang Minh vi diệu !

Pháp sư Bảo Tích nhận thỉnh vương

Hứa nói Kinh Kim Quang Minh ấy.

Khắp cùng trong thế giới ba ngàn

Chư thiên, đại chúng đều hoan hỷ

Vua chọn chỗ rộng rãi sạch trong

Trang sức thêm trân bảo kỳ diệu

Nước thơm thượng diệu vẩy bụi trần

Xen đủ loài hoa tung rải khắp

Đem cao tòa bày chỗ thắng hơn

Trang nghiêm bằng tràng phan, bảo cái

Hương bột, hương xoa… đủ thứ hương

Mùi hương sực nức lan cùng khắp.

Tu la, Khẩn na la, trời, rồng

Mạc hô lạc dà, dạ xoa nữa…

Chư thiên mưa hoa mạn (đà) không ngừng

Đều đến cúng dường tòa cao đó

Lại có ngàn vạn ức chư thiên

Ưa nghe chánh pháp đều kéo đến.

Pháp sư từ tòa cũ đứng lên

Tắm gội sạch rồi mặc áo mới

Đến chỗ pháp tòa đại chúng đông

Chắp tay bền lòng mà lễ kính

Chúa trời chúng thiên và nữ thiên

Hoa mạn đà chung nhau tung rải

Trăm ngàn nhạc trời chẳng nghĩ bàn

Trụ tại không trung vang tiếng diệu.

Bấy giờ, pháp sư Bảo Tích liền

Thăng lên tòa cao Dà phu tọa (ngồi kiết già)

Niệm vạn ức đấng Đại Từ Tôn

Trong mười phương những đất nước đó.

Và khắp tất cả khổ chúng sinh

Đều khởi niệm từ bi bình đẳng

Rồi vì thỉnh chủ Thiên Sinh nên

Diễn nói Kim Quang Minh vi diệu.

Vua đã được nghe pháp như trên

Chắp tay một lòng xướng tùy hỷ

Nghe pháp hy hữu lệ rơi tuông

Đại hỷ thân tâm đều đầy khắp.

Đến đây, quốc chủ Thiện Sinh vương

Vì muốn cúng dường cho Kinh ấy

Ngọc Mạt ni Như ý tay nâng

Phát nguyện đều vì những sinh chúng :

Nay nên ở châu Chiêm Bộ tuông

Mưa xuống chuỗi ngọc thất bảo khắp,

Người thiếu thốn của cải bần cùng

Đều được tùy tâm thọ an lạc.

Trời liền mưa thất bảo khắp cùng

Trong bốn châu đều thành sung túc

Theo nhu cầu, chuỗi ngọc nghiêm thân

Áo quần, ăn uống đều không thiếu.

Bấy giờ, quốc chủ Thiện Sinh Vương

Thấy bốn châu này mưa trân bảo

Đem cúng dường những bí sô tăng

Di giáo sở hữu Phật Bảo Kế.

Nên biết quá khứ Thiện Sinh Vương

Là ta, Thích Ca Mâu Ni đó.

Vì thuở trước bỏ đại địa cùng

Bốn châu đầy ắp những trân bảo.

Pháp sư Bảo Tích thuở xưa từng

Vì vua Thiện Sinh nói diệu pháp

Nhân ông khai diễn nói Kinh Vương

Hiện phương đông thành Phật Bất Động.

Do ta đã từng nghe Kinh Vương

Chắp tay một lòng xưng tùy hỷ

Thí thất bảo, công đức không lường

Thu được thân Kim Cương tối thắng.

Tướng Kim Quang trăm phước trang nghiêm

Mà có người thấy đều hoan hỷ

Mọi hữu tình không ai chẳng thương

Câu chỉ thiên chúng cũng đồng vậy.

Quá khứ từng làm Chuyển Luân Vương

Trải chín mươi chín câu chỉ… kiếp

Cũng ở nước nhỏ làm nhân vương

Lại trải vô lượng trang nghiêm kiếp.

Làm Đế Thích trải kiếp không lường

Cũng lại từng làm vua Đại Phạm

Cúng dường Thập Lực Đại Từ Tôn

Số lượng đó khó mà cùng tận.

Ta xưa khéo tùy hỷ nghe Kinh

Mà có phước tụ khó lường biết

Do phước ấy nên Bồ Đề thành

Thu được pháp thân chân diệu trí.

Lúc bấy giờ, đại chúng nghe đức Phật nói thế xong, khen ngợi chưa từng có, đều nguyện phụng trì Kinh Kim Quang Minh, lưu thông chẳng đoạn tuyệt.

PHẨM THỨ HAI MƯƠI HAI: CHƯ THIÊN, DƯỢC XOA HỘ TRÌ

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo thiên nữ Đại Cát Tường rằng :

– Nếu có tịnh tín thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn đối với các đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại, dùng đồ cúng dường vi diệu rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn để mà dâng hiến và muốn giải rõ hành xử thậm thâm của các đức Phật ba đời thì người đó cần phải quyết định hết lòng theo chỗ sở tại của Kinh này, hoặc tại thành ấp, tụ lạc, hoặc trong núi đầm… rộng vì chúng sinh phô diễn, lưu bố. Những người nghe pháp ấy nên trừ bỏ loạn tưởng, lắng tai, dụng tâm !

Đến đây đức Thế Tôn liền vì vị trời kia và các đại chúng mà nói bài tụng rằng :

Nếu muốn đối chư Phật

Cúng dường chẳng nghĩ bàn

Lại muốn rõ cảnh giới

Thậm thâm các Thế Tôn

Nếu nghe thấy diễn nói

Tối Thắng Kim Quang Minh

Nên đi đến phương đó

Đến trú xứ của Kinh.

Kinh này nghĩ bàn khó

Mà công đức phát sinh

Vô biên biển khô lớn

Giải thoát các hữu tình

Ta xem vua Kinh ấy

Trước, giữa, sau tốt lành

Rất sâu, to chẳng được

Ví dụ không sánh bằng.

Giả sử cát sông Hằng

Bụi đại địa, nước biển

Đá các núi, hư không…

Không thể ví phần ít.

Muốn vào pháp giới thâm

Nên trước nghe Kinh đó

“Chế để” pháp tính còn

Thậm thâm khéo an trụ.

“Chế để” ấy bên trong

Thấy ta Mâu Ni Phật

Diệu âm thanh vui lòng

Diễn nói Kinh điển ấy.

Do câu chỉ kiếp trải

Số lượng khó nghĩ bàn

Sinh ra trong thiên, nhân

Thường thọ thắng diệu lạc.

Người nghe Kinh Kim Quang

Lòng như vầy nên khởi :

“Ta được chẳng nghĩ bàn

Vô biên công đức uẩn”.

Giả sử đám lửa lớn

Cả trăm dũ thiện na

Vì nghe Kinh vương đó

Thẳng qua không lời khổ.

Đã đến trú xứ kia

Được nghe Kinh như vậy

Có thể diệt nghiệp tội

Và ác mộng trừ tan.

Ác tinh, những biến quái

Độc, tà mị vân vân…

Khi được nghe Kinh đó

Các ác lìa bỏ liền.

Nên bày tòa cao thắng

Tịnh diệu như hoa sen

Pháp sư ở trên ấy

Ngồi giống như đại long.

An tọa xong trên đó

Nói Kinh này thậm thâm

Ghi chép và trì tụng

Vì người giải nghĩa Kinh.

Tòa này pháp sư bỏ

Chỗ phương khác đi sang

Còn tại trong tòa cũ (đến)

Phi nhất tướng thần thông :

Hoặc thấy pháp sư tượng

Trên tòa cao vẫn còn

Hoặc khi thấy Thế Tôn

Và cả các Bồ tát.

Hoặc làm tượng Phổ Hiền

Hoặc như Diệu Cát Tường.

Hoặc thấy đấng Từ Thị

Ở tòa cao hiện thân

Hoặc thấy tướng hy hữu

Và cả tượng chư thiên…

Tạm được nhìn nghi dung

Bỗng nhiên lại biến mất.

Thành tựu những cát tường

Sở tác đều tùy ý

Công đức đều mãn viên

Thế Tôn nói như vậy.

Tối Thắng có danh xưng

Hay diệt các phiền não

Giặc nước khác trừ tan

Lúc chiến luôn được thắng.

Giấc mơ ác đều không

Và tiêu các độc hại

Việc làm ba nghiệp tội

Sức Kinh hay diệt tan

Ở tại châu Chiêm Bộ

Đều sung mãn danh xưng.

Các oán kết sở hữu

Đều bỏ nhau lìa tan

Giả sử oán địch đến

Nghe danh liền lùi tan

Ví phong động binh lửa

Hai trận sinh vui mừng.

Phạm Vương, Đế Thích chủ,

Hộ Thế Tứ ThiênVương,

Chánh Liễu Tri đại tướng,

Và dược xoa Kim Cương

Vô Nhiệt Trì Long vương,

Và Ta Yết La nữa,

Khẩn na la nhạc thần,

Tô la, Kim Sí chủ,

Đại Biện Tài thiên nữ,

Cùng Đại Cát Tường thiên…

Những trời ấy thượng thủ (đứng đầu)

Lãnh đạo chúng chư thiên

Thường cúng dường chư Phật,

Pháp bảo chẳng nghĩ bàn

Hằng sinh lòng hoan hỷ

Khởi cung kính với Kinh.

Những chúng chư thiên ấy…

Đều cùng suy nghĩ chung,

Xem khắp người tu phước

Rồi chung nói lên rằng :

Nên xem loài hữu tình

Đều là đại phước đức

Lực tinh tấn thiện căn

Trời ta sẽ sinh đến.

Vì nghe kinh thậm thâm

Đi đến đây lòng kính

“Chế để” pháp cúng dường

Và tôn trọng chánh pháp.

Thương xót đến quần sinh

Mà làm đại nhiêu ích.

Với Kinh điển thậm thâm

Hay làm pháp bảo khí.

Người vào cửa pháp ấy

Thì pháp pháp tính liền

Với Kim Quang Minh ấy

Nên thính thọ hết lòng.

Người đó từng cúng dường

Vô lượng trăm ngàn Phật

Do căn lành cúng dường

Mà được nghe Kinh điển (ấy).

Như vậy các thiên vương

Đại Biện Tài thiên nữ

Và thiên nữ Cát Tường

Cùng Tứ thiên vương chúng

Vô số dược xoa thần

Có thần thông, dũng mãnh

Đều ở khắp bốn phương

Thường đến mà ủng hộ.

Nhật, Nguyệt, Đế Thích thiên

Các thần gió, nước, lửa

Phệ Suất, Nô, Đại Kiên

Diệm la vương, Đại Biện (tài)….

Tất cả hộ thế gian

Dũng mãnh uy thần đủ

Ủng hộ người trì Kinh

Ngày, đêm chẳng lìa khỏi.

Đại Lực dược xoa vương

Na la diên, Tự Tại,

Chánh Liễu Tri lãnh đạo

Hai mươi tám dược xoa

Trăm ngàn dược xoa khác

Có đại lực thần thông

Luôn ở nơi khủng bố

Thường đến hộ người đó.

Vua dược xoa Kim Cương

Cùng năm trăm quyến thuộc

Chủ dược xoa Bảo Vương

Và cả Mãn Hiền Vương

Kim Tỳ La, Khoáng Dã.

Tân Độ La, Sắc vàng (Hoàng sắc : Kapila)

Những vua dược xoa ấy

Đều năm trăm bà con

Thấy người nghe Kinh ấy

Đều đến ủng hộ chung.

Kiền thát bà, Thải quân (Citrasena)

Vi vương (Jinaràja), Thường Chiến Thắng (Jinarsabha)

(Manikànta) Châu cảnh và Thanh cảnh (Nìakanta)

Cùng Bột Lý Sa Vương (Varsàdhipati)

Đại Tối Thắng (Mahàgrasa) Đại Hắc (Mahàkàla)

Tô bạt Noa Kê Xá (Suvarnake‘sin)

Bán Chi Ca (Pàncika), Dương Túc (Chagarapàda)

Tiểu Cừ Tinh (Pranàli) Hộ Pháp (Pharmapàla)

Và cả Nhĩ Hầu Vương (Markada)

Châm Mao (‘Suciloma) và Mục Chi (Sùryamitra)

Bảo Phác (Ratnake‘sa) đều đến hộ.

Đại Cừ (Mahàfrànàli), Nặc Câu La (Nakula)

Chiên Đàn (Candana), Dục Trung Thắng (Kàma‘sresta)

Xá La (Nagaya‘sas) và Tuyết Sơn (Hemavanta)

Và ca Ta đa sơn (Sàtagiri)…

Đều có đại thần thông

Hùng mạnh đủ đại lực

Nhìn thấy người trì Kinh

Đều đến mà ủng hộ.

A Na Bà Đáp Đa (Anavatapta)

Và cả Ta Yết La (Sàgara)

Mục Chân (Mucilinda) Ế La Diệp (Erapata)

Nan Đà (Nanda), Tiểu Nan Đà (Upananda)

Ở trong trăm ngàn rồng

Thần thông đủ uy đức

Chung hộ người trì Kinh

Ngày đêm chẳng rời khỏi.

Bà Trỉ (Vali), La Hầu La (Ràhu)

Tỳ Ma Chất Đa La (Vemacitra)

Mẫu Chi Thiêm Bạt La (Samvara)

Đại Kiên (Kharaskanda) và Hoan Hỷ (Prahlàda)

Và A Tô la vương

Cùng vô số thiên chúng

Sức lớn, có dũng cường

Đêu đến hộ người đó.

A Lợi Để mẫu thần (Hàliti)

Năm trăm dược xoa chúng

Với người đó ngày đêm (thức hay ngủ)

Thường đến mà ủng hộ.

Chiên Trà (Candà) Chiên Trà Lợi (Candàlikà)

Dược xoa Chiên Trỉ nữ (Candikà)

Côn Đế (Danti) Câu Thác Xỉ (Kutadantà)

Hấp Chúng Sinh Tinh Khí (Sarvasattvojaharini)

Như vậy những chúng thần

Có thần thông, đại lực

Thường hộ người trì Kinh

Ngày đêm chẳng rời khỏi.

Thượng thủ Biện Tài thiên

Vô lượng các thiên nữ,

Thượng thủ Cát Tường thiên

Cùng với các quyến thuộc,

Cả Đại Địa nữ thẫn,

Thần vườn rừng quả trái

Thần cây, thần dòng sông

Các vị thần Chế Để….

Như vậy những thiên thần

Lòng sinh đại hoan hỷ

Đều đi đến ủng hộ

Người đọc tụng trì Kinh

Thấy có người trì Kinh (thì)

Thêm thọ mạng, sắc lực

Phước đức và uy quang

Trang nghiêm cho diệu tướng.

Tinh tú hiện tai biến

Khổn ách người này đương (chịu)

Mơ thấy dữ, ít lành…

Đều khiến cho trừ diệt.

Vị đại địa nữ thần

Kiên cố có uy thế

Do lực Kinh này nên

Pháp vị luôn sung túc.

Đất mầu mỡ lan tràn

Quá trăm dũ thiện na

Địa thần khiến vị trên

Thấm nhuần vào đại địa.

Đất này dày sáu mươi

Tám ức dũ thiện na

Cho đến Kim Cương tế

Vị đất đều trồi lên.

Do nghe vua Kinh ấy

Được công đức chứa chan

Hay khiến các thiên chúng

Đều nhờ lợi ích Kinh.

Lại khiến các thiên chúng

Uy lực có quang minh

Hoan hỷ thường an lạc

Tướng suy bỏ lìa tan.

Ở châu Nam Chiêm Bộ

Thần lúa gạo, trái rừng

Do uy lực Kinh ấy

Lòng thường được vui mừng.

Mùa lúa đều thành tựu

Nơi nơi hoa đẹp xinh

Quả trái đều nhung nhúc

Khắp đất đai đầy tràn

Những cây trái sở hữu

Và cả mọi vườn rừng

Đều sinh ra hoa đẹp

Luôn sực nức mùi hương.

Mọi loài cỏ, cây cối

Đều trổ hoa đẹp xinh

Và sinh trái ngon ngọt

Tùy chỗ đều lan tràn.

Ở châu Nam Chiêm Bộ

Nhiều long nữ không lường

Lòng sinh đại hoan hỷ

Đều vào trong ao chung.

Gieo trồng Phân Đà Lợi

Và hoa Bát Đầu Ma

Hai loài sen xanh trắng

Trong ao đều lan tràn

Do uy lực Kinh ấy

Nên hư không sạch trong

Mây, mù đều trừ hết

Tối tăm đều quangminh.

Mặt trời ngàn tia sáng

Không bẩn, sáng sạch trong

Do lực Kinh vương ấy

Tỏa sáng quanh tứ thiên.

Lực uy đức Kinh ấy

Với thiên tử đỡ đần

Đều dùng vàng Chiêm Bộ

Mà tạo tác điện cung.

Nhật thiên tử (mặt trời) vừa mọc

Thấy châu này vui mừng

Thường dùng ánh sáng lớn

Đều soi sáng khắp cùng.

Ở trong đại địa ấy

Có những ao hoa sen

Nhật quang soi kịp lúc

Không đâu chẳng nở bông

Ở châu Chiêm Bộ ấy

Các quả dược, ruộng đồng

Đều khiến cho thành thục

Khắp đất đai mãn sung.

Do uy lực Kinh ấy

Sự soi sáng trời, trăng (nhật, nguyệt)

Và sao chẳng mất độ

Gió mưa thuận thời tuông.

Khắp cùng châu Chiêm Bộ

Đất nước đều thịnh phong

Theo chỗ có Kinh ấy

Thù thắng hơn mọi phương.

Nếu Kim Quang Minh ấy

Nơi Kinh điển lưu hành

Mà có người giảng, tụng

Đều được phước như trên.

Bấy giờ, thiên nữ

Đại Cát Tường và chư thiên.v.v… nghe lời nói của đức Phật, đều rất vui mừng. Đối với Kinh Vương này và người thọ trì, họ đều nhất tâm ủng hộ, khiến cho những người ấy không có ưu não, thường được an lạc.

PHẨM THỨ HAI MƯƠI HAI : THỌ KÝ (Vyàkarana)

Lúc bấy giờ, đức Như Lai, ở trong đại chúng, rộng nói pháp rồi, muốn vì Bồ tát Diệu Tràng và hai đứa con ông ấy là Ngân Tràng (Rupyaketu) và Ngân Quang (Rupyaprabha), trao cho lời ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Có mười ngàn vị thiên tử mà ông Tối Thắng Quang Minh (Jvalanàntarataja) làm thượng thủ, đều từ Tam Thập Tam Thiên đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui về ngồi một phía, nghe đức Phật nói pháp. Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ tát Diệu Tràng rằng :

– Ông vào đời sau, qua vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức na du đa kiếp, rồi ở thế giới Kim Quang Minh, sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hiệu là Kim Bảo Sơn Vương Như Lai Ứng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn sẽ xuất hiện ở đời. Sau khi đức Như Lai này Bát Niết Bàn và giáo pháp sở hữu cũng đều diệt hết thì người con lớn kia tên gọi là Ngân Tràng liền ở cõi này được bổ Phật xứ tiếp theo. Thế giới này bấy giờ đổi tên là Tịnh Tràng, ông ấy sẽ được làm Phật hiệu là Kim Tràng Quang Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Sau khi đức Như Lai này Bát Niết Bàn và giáo pháp sở hữu cũng đều diệt hết thì người con thứ Ngân Quang liền được bổ Phật xứ. Trở lại cõi này ông ấy sẽ được làm Phật hiệu là Kim Quang Minh Như Lai Ứng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn.

Lúc đó, mười ngàn thiên tử nghe ba vị Đại Sĩ được thọ ký rồi, lại được nghe Kinh vua Tối Thắng như vậy, lòng họ phát sinh vui mừng, thanh tịnh không cấu bẩn giống như hư không. Bấy giờ, đức Như Lai biết thiện căn của mười ngàn vị thiên tử này đã thành thục nên liền trao cho lời ký Đại Bồ Đề rằng :

– Thiên tử các ông vào đời đương lai, qua vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức na du đa kiếp, ở thế giới Tối Thắng Nhân Đà La Cao Tràng sẽ được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đồng một chủng tính (dòng họ), lại đồng một danh hiệu là Diện Mục Thanh Tịnh Ưu Bát La Hương Sơn với thập hiệu đầy đủ. Cứ như vậy theo thứ lớp mười ngàn những đức Phật xuất hiện ở đời.

Lúc bấy giờ, thần cây Bồ Đề bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Mười ngàn thiên tử này từ ba mươi ba tầng trời vì nghe pháp nên đi đến chỗ đức Phật, vì sao đức Như Lai liền trao cho họ lời ký sẽ được thành Phật ? Thưa đức Thế Tôn ! Con chưa từng nghe những thiên tử này tu tập đầy đủ sáu Ba la mật đa, hạnh khó, hạnh khổ, xả bỏ tay chân, đầu, mắt, tủy não, quyến thuộc, vợ con, voi ngựa, xe cộ, nô tỳ, bộc sứ, cung điện, vườn rừng, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, bích ngọc, kha bối (ngọc), ẩm thực, y phục, ngọa cụ, y dược…. Như vô lượng trăm ngàn Bồ tát khác dùng những đồ cúng dường mà cúng dường vô số trăm ngàn vạn ức na du đa đức Phật đời quá khứ. Như vậy Bồ tát đều phải kinh qua vô lượng vô biên kiếp số rồi nhiên hậu mới được thọ Bồ Đề ký. Thưa đức Thế Tôn ! Những thiên tử này do nhân duyên gì ? Tu hành thắng hạnh nào ? Gieo trồng thiện căn gì ? Mà từ cõi trời kia đến, tạm thời nghe pháp, liền được thọ ký ! Nguyện xin đức Thế Tôn vì con giải nói, đoạn trừ lưới nghi hoặc ?

Đức Phật bảo rằng :

– Này Thọ thần thiện nữ thiên ! Đúng như lời nói của ngươi ! Họ đều từ nhân duyên thiện căn thắng diệu, cần khổ tu hành, rồi mới được thọ ký. Những thiên tử này, ở thiên cung vi diệu, xả bỏ niềm vui năm dục nên đến nghe Kinh Kim Quang Minh này. Đã nghe được pháp rồi, đối với Kinh này, lòng họ sinh ra ân cần, tôn trọng, sạch như lưu ly, không có những tỳ vết (lỗi lầm). Họ lại còn được nghe việc thọ ký của ba vị Đại Bồ tát này và cũng do nhân duyên thề nguyền tu chánh hạnh đã lâu trong quá khứ. Vậy nên hôm nay ta đều thọ ký cho họ vào đời vị lai sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác !

Vị thần cây đó nghe đức Phật nói rồi, hoan hỷ tín thọ.

PHẨM THỨ HAI MƯƠI BỐN : TRỪ BỆNH (Vyàdhipra‘samana)

Đức Phật bảo thần cây Bồ Đề rằng :

– Này thiện nữ thiên ! Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Khéo suy nghĩ điều đó ! Hôm nay ta vì ngươi nói về nhân duyên bản nguyện của mười ngàn thiên tử đó. Này thiện nữ thiên ! Thuở quá khứ, vô lượng chẳng thể nghĩ bàn a tăng xí gia kiếp, bấy giờ có đức Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Bảo Kế Như Lai Ứng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Này thiện nữ thiên ! Sau khi đức Thế Tôn đó Bát Niết Bàn và chánh pháp diệt rồi, ở trong đời Tượng pháp, có vị vua tên Thiên Tự Tại Quang, thường dùng chánh pháp giáo hóa nhân dân giống như cha mẹ. Trong vương quốc này có một vị trưởng giả tên là Trì Thủy giỏi lý giải phương thuốc, diệu thông tám thuật bệnh khổ của chúng sinh, bốn đại chẳng điều hòa đều có thể cứu chữa trị liệu. Này thiện nữ thiên ! Bấy giờ, trưởng giả Trì Thủy chỉ có một người con trai tên là Lưu Thủy, dung nhan đoan chính, mọi người ưa nhìn ngắm, bẩm thọ tính thông minh, giỏi thông các luận, thư, họa, toán, ấn không gì chẳng thông đạt. Bên trong vương quốc có vô lượng trăm ngàn những loài chúng sinh đều gặp phải dịch bệnh, mọi khổ bức bách, thậm chí không có chút lòng hoan lạc. Này thiện nữ thiên ! Bấy giờ, ông trưởng giả Lưu Thủy thấy vô lượng trăm ngàn chúng sinh chịu các bệnh khổ, khởi lên lòng đại bi mà nghĩ như vầy : “Vô lượng chúng sinh bị sự bức bách của những cực khổ mà ông trưởng giả cha ta tuy giỏi phương thuốc, diệu thông tám thuật có thể trị liệu mọi bệnh tứ đại tăng tổn, nhưng ông đã suy nhược, già cả, ốm yếu, cần sự nâng đỡ mới có thể tiến bước, chẳng còn có thể đi đến những thành ấp, tụ lạc để cứu những bệnh khổ được nữa. Nay lại có vô lượng trăm ngàn chúng sinh đều gặp phải bệnh nặng không ai có thể cứu được. Ta nay phải đến chỗ vị Đại y cha ta mà hỏi học pháp bí truyền của phương thuốc trị bệnh. Nếu được thông giải rồi, ta sẽ đi đến chỗ thành ấp, tụ lạc, cứu chữa đủ thứ bệnh tật của các chúng sinh, khiến cho họ mãi mãi được hưởng thọ an lạc !” Ông trưởng giả tử nghĩ vậy rồi, liền đi đến chỗ cha, cúi đầu lễ dưới chân, chắp tay cung kính, lùi về đứng một phía, liền dùng lời tụng thỉnh xin cha mình rằng :

Từ phụ phải xót thương

Con muốn cứu sinh chúng

Nay thỉnh hỏi y phương

Nguyện nay vì con nói !

Làm sao suy hoại thân

Các đại có tăng tổn ?

Tại lúc nào chúng sinh

Có thể sinh tật bệnh ?

Làm sao việc uống ăn

Để được thọ an lạc ?

Hay khiến trong nội thân

Lửa nóng chẳng suy tổn ?

Có bốn bệnh chúng sinh :

Bệnh phong hoàng, bệnh nhiệt,

Bệnh tổng tập, đàm âm

Làm sao mà trị liệu ?

Khi nào khởi bệnh phong (gió)

Lúc nào bệnh nhiệt phát ?

Khi nào động đàm âm ?

Lúc nào sinh tổng tập ?

Ông trưởng giả đó nghe con nói rồi, lại dùng lời tụng mà đáp rằng :

Ta nay y cổ tiên

Sở hữu pháp liệu bệnh

Lần lượt nói cho con

Lắng nghe cứu sinh chúng !

Ba tháng là mùa xuân

Ba tháng gọi là hạ

Ba tháng gọi thu phân

Ba tháng gọi đông tiết (mùa đông)

Đây cứ (căn cứ) trong một năm Ba, ba mà chia nói.

Hai, hai một tiết phân

Thì một năm sáu tiết.

Giêng, hai là mùa bông (hoa)

Ba, tư gọi nhiệt tế

Năm, sáu mùa mưa tuông

Bảy, tám gọi thu tiết

Chín, mười là tiết hàn (lạnh)

Hai tháng cuối băng tuyết.

Đã biết như vậy rành

Trao thuốc chớ lầm lẫn !

Theo thời tiết này nên

Điều chỉnh việc ăn uống

Vào bụng khiến tiêu tan

Mọi bệnh chẳng sinh được.

Tiết khí nếu biến thiên

Bốn đại có dời đổi

Lúc này không thuốc men

Nhất định sinh bệnh khổ.

Thầy thuốc bốn thời thông

Lại biết sáu tiết ấy

Sáng rành bảy giới thân (bảy thành phần của thân)

Ăn, thuốc không sai sót :

Là vị giới, cao, xương

Máu thịt và não, tủy.

Khi bịnh nhập vào trong

Biết có trị được không ?

Bệnh có bốn thứ khác

Là phong, nhiệt, đàm âm

Và cả bệnh tổng tập

Nên biết lúc phát lên

Trong xuân đàm âm động

Mùa hạ bệnh phong sinh

Mùa thu tăng hoàng nhiệt

Đông cả ba khởi lên.

Xuân ăn chất cay nóng

Hạ nóng mặn, chua thêm

Mùa thu lạnh, ngọt, béo

Chua, béo, ngọt… mùa đông

Ở trong bốn thời ấy

Phục dược và uống ăn

Nếu y vị như vậy

Mọi bệnh không đâu sinh.

Do âm, ăn rồi bệnh

Ăn tiêu do nhiệt lừng

Tiêu rồi khởi do gió (phong)

Định bịnh phải biết thông.

Đã biết nguồn bệnh xong

Tùy bệnh mà cho thuốc

Như bệnh trạng lạ lùng

Trước phải trị liệu gốc (bệnh).

Dầu, mỡ trị bệnh phong

Bệnh nhiệt lợi là mát

Bệnh âm cho mữa liền

Tổng tập phải ba (thứ) thuốc.

Có đủ âm, nhiệt, phong

Đó gọi là tổng tập.

Tuy biết bệnh khởi lên

Nên xem bản tính ấy.

Như vậy xem biết xong

Thuận lúc mà trao thuốc

Không sai thuốc, uống, ăn

Ấy gọi thầy thuốc giỏi.

Tám thuật phải biết thông

Tổng nhiếp các phương thuốc

Đến đây nếu minh nhàn (sáng biết rành rẽ)

Bệnh chúng sinh trị được.

Gọi châm, chích vết thương

Bệnh thân cùng thần quỉ

Ác độc và hài đồng (trẻ con)

Kéo dài thêm khí lực

Thì trước xem sắc hình

Ngôn ngữ và tánh hạnh

Rồi hỏi giấc mơ đêm

Biết phong, nhiệt, âm lạ.

Đầu ít tóc, héo hon

Thì tâm không định trụ.

Nói nhiều, mơ phi hành

Người ấy là phong tính.

Thiếu niên, tóc trắng sinh

Nhiều mồ hôi, sân lắm

Mơ thấy lửa, thông minh

Người ấy là nhiệt tính.

Định tâm, bình chỉnh thân

Tư lự đầu thấm mướt

Mơ thấy vật trắng nước (thủy bạch vật)

Nên biết là tính âm

Tính Tổng tập đều có

Hai hoặc ba thứ đủ.

Cứ có một lệch tăng

Nên biết là tính ấy.

Đã biết bản tính xong

Định bệnh mà trao thuốc.

Tướng chết nghiệm ra không

Mới là người đáng cứu.

Cảnh đão lộn các căn

Người đâm nhờ thầy thuốc

Bạn bè sinh hận sân

Nên biết là tử tướng.

Mắt trái đổi màu trắng

Sống mũi lệch, lưỡi đen

Vành tai so cũ khác

Môi dưới trể xuống luôn.

Ha lê lặc một món

Có sáu vị đủ tròn

Có thể trừ mọi bệnh

Không sợ dược trung vương (vua trong các thứ thuốc).

Ba vị cây, ba trái (quả)

Trong các thuốc dễ tìm (được)

Đường cát, mật, tô (váng sữa), sữa

Trị mọi bệnh dễ dàng.

Từ những vị thuốc khác

Tùy bệnh nên gia tăng

Trước khởi lòng từ mẫn

Tài lợi chớ mưu toan.

Ta đã vì con nói

Việc cần trong chữa trị

Lấy đây cứu chúng sinh

Sẽ được quả vô biên.

Này thiện nữ thiên !

Bấy giờ, ông trưởng giả tử Lưu Thủy thân mật hỏi cha mình điều cốt yếu của tám thuật, bốn đại tăng tổn, thời tiết chẳng đồng, phương pháp ăn thuốc. Đã rõ biết giỏi thì tự nghĩ có thể đủ sức, có thể cứu chữa trị liệu mọi bệnh, ông liền đến khắp thành ấp, tụ lạc… Tùy theo chỗ sở tại có trăm ngàn vạn ức chúng sinh khổ bệnh ông đều đi đến chỗ ấy, khéo lời an ủi dỗ dành mà nói lời như vầy: “Tôi là thầy thuốc ! Tôi là thầy thuốc ! Tôi giỏi biết phương thuốc! Hôm nay vì các người trị liệu mọi bệnh, đều khiến cho trừ khỏi”. Này thiện nữ thiên ! Bấy giờ, mọi người nghe ông trưởng giả tử nói lời khéo an ủi dỗ dành và hứa vì họ trị bệnh. Có vô lượng trăm ngàn chúng sinh gặp bệnh rất nặng nghe lời nói này rồi, thân tâm hớn hở, được điều chưa từng có. Do nhân duyên này nên bệnh khổ sở hữu của họ đều được tiêu trừ, sức lực sung túc, bình phục như cũ. Này thiện nữ thiên ! Bấy giờ, lại có vô lượng trăm ngàn chúng sinh bệnh khổ thâm trọng khó trị liệu thì liền cùng nhau đi đến chỗ ông trưởng giả tử, một lần nữa thỉnh trị liệu bệnh. Ông trưởng giả tử liền dùng diệu dược cho uống, đều nhờ ơn khỏi bệnh. Này thiện nữ thiên ! Ông trưởng giả tử, ở bên trong nước này, trị bệnh khổ của trăm ngàn vạn ức chúng sinh đều được trừ khỏi.

PHẨM THỨ HAI MƯƠI LĂM : TRƯỞNG GIẢ TỬ LƯU THỦY (Jalavàhanasya-matsya-vaineya)

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo thần cây Bồ Đề rằng :

– Này thiện nữ thiên ! Bấy giờ, ông trưởng giả tử Lưu Thủy, vào thuở xa xưa, ở bên trong nước của vua Thiên Tự Tại Quang, trị liệu bịnh khổ sở hữu của các chúng sinh, khiến cho họ được bình phục, hưởng thụ niềm vui yên ổn. Các chúng sinh do bệnh được khỏi nên tu nhiều phước đức, hành huệ thí rộng rãi. Do tự vui sướng nên họ liền chung nhau đi đến chỗ ông trưởng giả tử, đều sinh lòng tôn kính mà nói lên rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Ngài Đại trưởng giả tử khéo có thể làm lớn thêm việc phước đức ! Tăng thêm cho chúng con yên ổn, thọ mạng ! Ngài nay quả thật là bậc Đại Lực Y Vương, bậc Từ bi Bồ tát, bậc Diệu Nhàn y dược giỏi trị liệu vô lượng bệnh khổ của chúng sinh !” Cứ như vậy, họ xưng dương, tán thán cùng khắp các thành ấp. Này thiện nữ thiên ! Vợ của ông trưởng giả tử tên là Thủy Kiên Tạng (Jalàmbugarbhà), có hai người con, một tên là Thủy Mãn (Jalàmbara), hai tên là Thủy Tạng (Jalagarbha). Lúc đó, ông Lưu Thủy đem hai đứa con ấy lần lượt dạo qua các thành ấp, tụ lạc, đi qua chỗ thâm hiểm trong đầm trống thấy các cầm thú thuộc loài ăn thịt như chó sói, chồn, diều hâu.v.v… đều chạy, bay về một hướng mà đi. Ông trưởng giả tử nghĩ rằng : “Những loài cầm thú này vì nhân duyên gì mà bay, chạy về một hướng ? Ta phải theo sau đến để quan sát !”. Ông liền đi theo thì thấy có cái ao lớn tên là Dã Sinh, nước trong ấy sắp hết. Ở trong ao này có nhiều những cá, ông Lưu Thủy thấy rồi, phát sinh lòng đại bi. Có vị thọ thần thị hiện bán thân nói rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông có thật nghĩa tên là Lưu Thủy thì hãy thương xót những con cá này, nên cho chúng nước ! Có hai nhân duyên đặt tên là Lưu Thủy, một là có thể chảy nước ra, hai là có thể cho nước. Ông nay cần phải theo tên mà làm !”. Lúc đó, ông Lưu Thủy hỏi thần cây rằng : “Số đầu cá này có bao nhiêu ?”. Thần cây đáp rằng : “Số tròn mười ngàn !”. Này thiện nữ thiên ! Ông trưởng giả tử nghe con số này rồi thì lòng bi thương bội phần. Cái ao lớn này bị sự thiêu đốt của mặt trời, nước còn không bao nhiêu, mười ngàn con cá đó sắp vào cửa chết, uốn thân uyển chuyển (đắp đổi), thấy ông trưởng giả này thì lòng có điều hy vọng nên đuổi theo ngắm nhìn, mắt chưa từng rời bỏ. Ông trưởng giả tử thấy việc vậy rồi, chạy đi bốn phương tìm kiếm dòng nước, nhưng rốt cuộc chẳng thể được. Lại trông về một bên, thấy có cây đại thọ, ông liền leo lên chặt lấy cành lá để làm bóng mát. Ông lại tìm kiếm nguồn nước trong ao này từ đâu đến ? Tìm kiếm mãi chẳng thôi thì thấy một dòng sông lớn tên là Thủy Sinh (Jalàgamà). Bên bờ sông này có những người đánh cá, vì bắt cá nên ở chỗ hiểm trở cheo leo của thượng lưu dòng sông họ tháo bỏ nước chẳng cho chảy xuống ao. Ở chỗ đã tháo, rốt cục rất khó tu bổ, ông trưởng giả tử liền nghĩ rằng : “Ven núi cao sâu này, giả sử có trăm ngàn người, trải qua ba tháng làm việc cũng chưa có thể xong, huống là một mình thân ta mà đủ sức hoàn thành ư ?” Ông trưởng giả tử mau chóng trở về thành cũ, đến chỗ vị đại vương, đầu mặt lễ dưới chân, lui về đứng một phía chắp tay cung kính mà bạch rằng : “Tôi vì nhân dân trong đất nước của đại vương trị liệu đủ thứ bệnh đều khiến cho yên ổn, rồi lần lượt du hành đến cái đầm trống kia, thấy có một cái ao tên là Dã Sinh, nước ao ấy sắp khô cạn, có mười ngàn con cá bị sự thiêu đốt của mặt trời sắp chết chẳng lâu nữa. Nguyện xin Đại Vương từ bi mẫn niệm cho hai mươi con voi lớn tạm đến đó chở nước cứu mạng những con cá đó như tôi đã đem lại mạng sống của những người bệnh !”. Bấy giờ, vị đại vương liền sai vị đại thần mau chóng cho vị y vương này voi lớn. Vị đại thần đó vâng theo sắc vua rồi bạch với ông trưởng giả tử rằng : “Hay thay ! Hay thay! Thưa Đại Sĩ ! Nay ngài có thể tự đến trong chuồng voi, tùy ý tuyển chọn lấy hai mươi con voi lớn để làm lợi ích chúng sinh, khiến cho đươc an vui”. Lúc đó, ông Lưu Thủy và hai người con đem hai mươi con voi lớn, lại mượn từ nhà bán rượu nhiều túi bằng da, đi đến chỗ tháo nước, dùng túi da đựng nước cho voi chở đến ao, đổ vào trong ao, nước liền đầy khắp trở lại như cũ. Này thiện nữ thiên ! Ông trưởng giả tử, ở bốn bờ ao, đi giáp vòng mà nhìn. Những con cá kia cũng lại theo đuổi men theo bờ mà đi. Ông trưởng giả tử lại nghĩ rằng : “Những con cá vì sao theo ta mà đi ? Nhất định chúng bị sự bức não của lửa đói nên lại muốn theo ta cầu tìm thức ăn, ta nay phải cho chúng !”. Bấy giờ, ông trưởng giả tử Lưu Thủy bảo con mình rằng : “Con chọn lấy một con voi mạnh nhất, mau chóng về trong nhà, trình bày với trưởng giả cha ta là, những đồ vật ăn được có ở trong nhà, cho đến phần ăn của cha mẹ và cả phần của vợ con, nô tỳ nữa đều thâu lấy hết mang ngay đến đây liền !”. Bấy giờ, hai người con chịu lời dạy bảo của cha rồi, cưỡi con voi mạnh nhất, mau chóng về trong nhà, đến chỗ vị tổ phụ nói lại những việc như trên và thu lấy những đồ vật ăn được trong nhà đặt trên lưng voi, mau chóng trở lại chỗ cha, đến bờ ao đó. Lúc đó, ông Lưu Thủy thấy con mình đến thân tâm vui mừng hớn hở, liền lấy thức ăn tung rải khắp trong ao. Cá được ăn rồi, đều no đủ. Ông liền nghĩ rằng : “Ta nay bố thí đồ ăn khiến cho cá được toàn mạng, nguyện đến đời sau sẽ bố thí pháp thực (món ăn pháp) cứu tế sung túc vô biên !”. Ông lại nghĩ suy : “Ta trước đã từng ở chỗ rừng không nhàn, thấy một vị Bí sô đọc Kinh Đại Thừa, nói pháp yếu thậm thâm của mười hai duyên sanh. Lại nữa, trong Kinh còn nói, nếu có chúng sinh khi sắp mạng chung mà được nghe danh hiệu của đức Bảo Kế Như Lai thì liền được sinh lên trời. Ta nay phải vì mười ngàn con cá này diễn nói mười hai duyên khởi thậm thâm và cũng sẽ xưng nói danh hiệu đức Bảo Kế Như Lai. Tuy nhiên châu Chiêm Bộ có hai loại người, một là người thâm tín Đại Thừa, hai là người chẳng tin, chê bai Đại Thừa, nhưng ta cũng phải vì những con cá kia tăng trưởng tín tâm !”. Ông trưởng giả tử lại nghĩ như vầy : “Ta vào trong ao, có thể vì mọi con cá nói pháp thâm diệu !”. Nghĩ thế rồi, ông liền vào trong nước xướng lên rằng : “Nam mô quá khứ Bảo Kế Như Lai Ứng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn ! Đức Phật này thuở xưa khi tu hạnh Bồ tát đã phát nguyện : Chúng sinh sở hữu của cõi mười phương, khi sắp mạng chung nghe da
nh hiệu của ta thì sau khi mạng chung được sinh lên Tam Thập Tam Thiên !”. Bấy giờ, ngài Lưu Thủy lại vì cá trong ao diễn nói diệu pháp thậm thâm như vầy : “Đây có nên đó có, đây sinh nên đó sinh ! Đó gọi là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử ưu bi khổ não ! Đây diệt nên đó diệt ! Đó gọi là vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục xứ diệt, lục xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử diệt, lão tử diệt thì ưu bi khổ não diệt. Như vậy là thuần cực khổ uẩn đều trừ diệt hết”. Nói pháp này rồi, ông lại vì cá nói Thập Nhị Duyên Khởi Tương Ứng Đà la ni rằng :

Đát điệt tha – Tỳ chiết nỉ – Tỳ chiết nỉ – Tỳ chiết nỉ – Tăng tắc chỉ nỉ – Tăng tắc chỉ nỉ – Tăng tắc chỉ nỉ – Tỳ nhỉ nỉ – Tỳ nhỉ nỉ – Tỳ nhỉ nỉ – Tá ha – Đát điệt tha – Na nhị nỉ na nhị nỉ – Na nhị nỉ – Sát trỉ nỉ – Sát trỉ nỉ – Sát trỉ nỉ – Táp bát lí thiết nỉ – Táp bát lí thiết nỉ – Táp bát lí thiết nỉ – Tá ha – Đát điệt tha – Bệ đạt nỉ bệ đạt nỉ – Bệ đạt nỉ – Thất lí sắt nỉ nỉ – Thất lí sắt nỉ nỉ – Thất lí sắt nỉ nỉ – Ổ ba địa nỉ – Ổ ba địa nỉ – Ổ ba địa nỉ – Tá ha – Đát điệt tha – Bà tỳ nỉ – Bà tỳ nỉ – Bà tỳ nỉ – Xà để nỉ – Xà để nỉ – Xà để nỉ – Xà ma nỉ nỉ – Xà ma nỉ nỉ – Xà ma nỉ nỉ – Tá ha (Tadyathà vicani vicani vicani sam‘scani sam‘scani sam‘scani bhi‘sini bhi‘sini bhi‘sini svàhà, tadyathà nàmini nàmini nàmini svàhà, ‘satini‘satini‘satini svàhà, spr‘sani spr‘sani spr‘sani svàhà, tadyathà vedani vedani vedani svàhà, trsni trsni trsni upàdhini upàdhini upàdhini svàhà, tadyathà bhavini bhavini bhavini svàhà, tadyathà jatini jatini jatini svàhà, jammanini jammanini jammanini svàhà).

Bấy giờ, khi đức Thế Tôn vì các đại chúng nói về duyên xưa của ông trưởng giả tử thì những chúng người, trời khen chưa từng có. Bốn Đại Thiên Vương đều ở chỗ của mình, khác miệng đồng âm nói lên như vầy :

Hay thay ! Thích Ca Tôn

Nói diệu pháp, minh chú

Mọi ác trừ, phước sinh

Mười hai chi tương ứng

Chúng con nói chú xin

Ủng hộ pháp như vậy.

Nếu có trái ngược sinh

Mà chẳng khéo tùy thuận

Thì đầu vỡ bảy phần

Như lan hương tiêu vậy (Anjaka-mànjalicti)

Chúng con ở Phật tiền (trước Phật)

Cùng chung nói chú rằng :

Đát điệt tha – Tứ li mê – Yết đệ kiện – Đà lí – Chiên trà lí địa lệ – Tao phạt lệ – Thạch tứ phạt lệ – Bổ la bố lệ củ củ mạt để – Kỳ la mạt để – Đạt địa mục khế – Cũ lỗ ba – Mẫu lỗ bà – Cụ trà mẫu lỗ kiện đề – Đỗ lỗ đỗ lỗ – Tỳ lệ – Y nê tất tất nê đạp – Côn đạt đạp côn – Ổ tất đát lí – Ô suất tra la phạt để – Át lạt ta phạt để – Bát đổ ma phạt để – Câu tô ma phạt để – Tá ha (Tadyatha hirini gate gandàri dhiri jamvare ‘shibhare pure pure gugumati khiramati dadhimukhi laurubha murubha kucamurukante duru duru duru virya aidhisi dadheve dadhave ustri ustravati arsaprahati padmavati kusumavate [usumavati] ‘svàhà)

Đức Phật bảo rằng :

– Này thiện nữ thiên ! Bấy giờ, ông trưởng giả tử Lưu Thủy và hai người con vì cá trong ao đó, cho nước, cho đồ ăn cùng nói pháp xong, đều cùng nhau trở về nhà. Ông trưởng giả tử Lưu Thủy này, thời gian sau lại nhân có tụ họp tổ chức vui chơi kỹ nhạc, rồi say rượu mà nằm. Mười ngàn con cá đồng thời mạng chung sinh lên cõi trời Ba Mươi Ba. Chúng dấy khởi ý nghĩ như vầy : “Chúng ta do nhân duyên nghiệp thiện gì mà sinh lên trong cõi trời này ?”. Chúng liền nói với nhau rằng : “Chúng ta trước ở bên trong châu Chiêm Bộ, đọa trong loài bàng sinh, cùng chịu thân loài cá. Ông trưởng giả tử Lưu Thủy cho chúng ta nước và cả đồ ăn, lại vì chúng ta nói pháp thậm thâm, mười hai duyên khởi và Đà la ni, lại xưng danh hiệu đức Bảo Kế Như Lai. Do nhân duyên này mà khiến cho chúng ta được sinh lên cõi trời này. Vậy nên chúng ta hôm nay đều nên đi đến chỗ ông trưởng giả tử đó mà báo ơn cúng dường !”. Bấy giờ, mười ngàn vị thiên tử liền biến mất ở cõi trời, hiện đến chỗ của vị Đại Y Vương ở châu Chiêm Bộ. Ông trưởng giả tử yên ổn nằm ngủ ở trên lầu cao, mười ngàn thiên tử cùng nhau đem mười ngàn chuỗi ngọc chân châu đặt bên mặt ông ấy, lại đem mười ngàn chuỗi đặt ở chân ông ấy, lại đem mười ngàn chuỗi đặt ở hông phải, lại đem mười ngàn chuỗi đặt bên hông trái. Rồi mưa xuống hoa Mạn đà la, hoa Đại Mạn đà la ngập đến đầu gối, ánh sáng soi khắp, đủ thứ nhạc trời phát ra âm thanh vi diệu khiến cho ở châu Chiêm Bộ có người ngủ nghỉ đều tỉnh giấc. Ông trưởng giả tử Lưu Thủy cũng thức dậy. Lúc đó mười ngàn thiên tử cúng dường xong, liền ở không trung bay đi. Ở bên trong nước của vua Thiên Tự Tại Quang, đâu đâu cũng đều mưa xuống hoa sen đẹp nhà trời. Các thiên tử đó lại đi đến nơi ở cũ, trong cái ao nơi đầm trống mà mưa xuống mọi thứ hoa trời. Rồi các thiên tử biến mất ở đây, trở về cung điện trời, tùy ý tự hưởng thụ niềm vui ngũ dục. Vua Thiên Tự Tại Quang đến sáng sớm, đã hỏi các đại thần rằng : “Đêm qua vì nhân duyên gì mà bỗng nhiên hiện tướng điềm hy hữu như vậy ? Còn phóng ra ánh sáng lớn ?”. Đại thần đáp rằng : “Thưa Đại vương ! Ngài phải biết, có các thiên chúng ở trong nhà của ông trưởng giả tử Lưu Thủy, mưa xuống bốn mươi ngàn chuỗi ngọc chân châu và hoa thiên mạn đà la ngập đến đầu gối !”. Nhà vua bảo vị đại thần rằng : “Hãy đến nhà ông trưởng giả mà gọi con ông ấy đến cho ta !” Vị đại thần nhận sắc vua, liền đi đến nhà ấy, phụng tuyên vương mệnh gọi con ông trưởng giả. Ông trưởng giả tử liền đi đến chỗ vua. Nhà vua nói rằng : “Vì duyên gì mà đêm qua thị hiện tướng điềm hiếm có như vậy ?”. Ông trưởng giả tử đáp rằng : “Như suy nghĩ của tôi thì nhất định là ứng với những con cá trong cái ao kia. Như Kinh đã nói, sau khi mạng chung, chúng được sinh lên cõi trời Ba Mươi Ba, chúng đến đền ơn nên hiện tướng kỳlạ hiếm có như vậy”. Nhà vua nói rằng : “Làm sao được biết ?”. Ông Lưu Thủy đáp rằng : “Đức vua nên sai sứ cùng với hai con của tôi đi đến chỗ cái ao kia kiểm nghiệm việc ấy hư hay thật. Mười ngàn con cá kia đã chết hay là còn sống !”. Nhà vua nghe theo lời nói đó, liền sai sứ và con ông trưởng giả tử đi về bên bờ ao đó. Họ thấy trong ao ấy có nhiều hoa Mạn đà la gom thành một đám lớn, các con cá đều chết. Thấy rồi, họ vội vàng trở về tâu hết với nhà vua. Nhà vua nghe vậy rồi, lòng phát sinh vui mừng khen là việc chưa từng có.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo thần cây Bồ Đề rằng :

– Này thiện nữ thiên ! Ngươi nay phải biết, ông trưởng giả tử Lưu Thủy thuở xưa tức là thân ta đó; ông trưởng giả Trì Thủy tức là Diệu Tràng đó; hai người con kia, con lớn Thủy Mãn tức là Kim Tràng đó, con thứ Thủy Tạng tức là Ngân Quang đó, vua Thiên Tự Tại Quang kia tức là thần cây Bồ Đề đó; mười ngàn con cá tức là mười ngàn thiên tử đó. Nhân thuở xưa ta dùng nước cứu giúp cá, cho ăn khiến cho chúng no đủ, vì chúng nói mười hai duyên khởi thậm thâm cùng chú tương ứng Đà la ni này, lại còn vì chúng xưng danh hiệu đức Phật Bảo Kế kia. Nhân thiện căn này được sinh lên trời, hôm nay chúng đến chỗ của ta, hoan hỷ nghe pháp. Ta đều sẽ vì họ trao lời ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nói ra danh hiệu của họ. Này thiện nữ thiên ! Như thuở xưa, ta ở trong sinh tử, luân hồi trong các hữu, rộng vì lợi ích, khiến cho vô lượng chúng sinh và đều khiến cho họ theo thứ lớp thành Vô Thượng Giác cùng trao lời ký cho họ. Các ngươi đều nên siêng cầu xuất ly, chớ làm buông lung !

Bấy giờ, đại chúng nghe nói vậy rồi đều ngộ giải hết, theo đại từ bi cứu hộ tất cả, siêng tu khổ hạnh, mới có thể chứng được Vô Thượng Bồ Đề, đều phát thâm tâm tín thọ hoan hỷ.

    Xem thêm:

  • Hợp Bộ Kinh Kim Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Đà La Ni Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Như Lai - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Biến Chiếu Quang Minh Tạng Vô Tự Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Tổng Trì Bảo Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Nhất Thiết Chư Như Lai Tâm Quang Minh Gia Trì Bồ Tát Phổ Hiền Đà La Ni Diên Mạng Kim Cang Tối Thắng - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Vì Thiên Tử Thắng Quang Dạy Vương Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Phổ Biến Quang Minh Thanh Tịnh Sí Thạnh Như Ý Bảo Ấn Tâm Vô Năng Thắng Đại Minh Vương Đại Tùy Cầu Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Duyên Đồng Tử Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Thái Tử Đức Quang - Kinh Tạng
  • Kinh Nghi Quỹ Huyễn Hoá Võng Đại Du Già Giáo Thập Phẫn Nộ Minh Vương Đại Minh Quán Tưởng - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bảo Tạng Văn Thù Sư Lợi - Kinh Tạng
  • Giải Thích Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Kim Cang Bí Mật Thiện Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Tuệ Nhuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh A Di Đà (Văn Vần) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Bồ Tát – Thích Minh Lễ dịch - Kinh Tạng