1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

QUYỂN 10

PHẨM THỨ HAI MƯƠI SÁU : XẢ THÂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã vì đại chúng nói về nhân duyên thuở xưa của mười ngàn thiên tử này, rồi lại bảo thần cây Bồ Đề và các đại chúng rằng :

– Ta ở đời quá khứ, hành đạo Bồ tát, chẳng phải chỉ bố thí nước và đồ ăn cứu tế mạng sống của những con cá đó mà còn cho đến cũng xả bỏ tấm thân sở ái của mình nữa ! Những nhân duyên như vậy, các ông có thể cùng nhau quan sát !

Lúc bấy giờ, đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, bậc Thiên Thượng Thiên Hạ Tối Thắng Tối Tôn với trăm ngàn ánh sáng soi khắp cõi mười phương, đầy đủ Nhất Thiết Trí, công đức viên mãn… đem các Bí sô và đại chúng đến tụ lạc Bát Già La (Pancàla), vào trong một khu rừng. Đất rừng ấy bằng phẳng, không có gai góc, hoa đẹp, cỏ mềm trải khắp nơi ấy. Đức Phật bảo cụ thọ A Nan Đà rằng :

– Ông có thể ở dưới cây này vì ta bày tòa ngồi !

Ngài A Nan Đà thọ giáo, bày tòa xong, bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Tòa ngồi đã bày xong ! Xin báo đức Thánh biết !

Bấy giờ, đức Thế Tôn liền lên tòa, ngồi kiết già, thân ngay, niệm chính, bảo các Bí sô rằng :

– Này các ông ! Các ông có muốn thấy xá lợi cũ thuở xưa khi ta làm Bồ tát tu khổ hạnh không ?

Các Bí sô bạch rằng :

– Chúng con ưa thấy !

Đức Thế Tôn liền dùng tay tướng tốt trang nghiêm trăm phước vỗ xuống đất nơi ấy. Tức thời đất đai sáu thứ chấn động liền nứt toạt ra, một ngôi Chế Để (tháp) thất bảo vọt ra với lưới báu trang nghiêm ở bên trên. Đại chúng thấy vậy rồi, sinh lòng hy hữu. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền đứng dậy, làm lễ, đi nhiễu quanh bên phải, rồi trở lại tòa ngồi cũ, bảo ngài A Nan Đà rằng :

– Ông có thể mở cửa Chế để (tháp) này !

Ngài A Nan Đà liền mở cửa ngôi tháp ấy, nhìn thấy cái hộp thất bảo được trang sức trân kỳ mà bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Có cái hộp thất bảo được trang sức bằng mọi thứ báu !

Đức Phật dạy rằng :

– Ông hãy mở hộp ra !

Ngài A Nan Đà vâng lời dạy, mở ra, thấy có xá lợi trắng như ngọc kha tuyết, như hoa Câu vật đầu, liền bạch đức Phật rằng :

– Thưa trong hộp có xá lợi màu sắc đẹp lạ thường !

Đức Phật nói rằng :

– Này A Nan Đà ! Ông có thể mang xương xủa vị Đại Sĩ này lại !

Ngài A Nan Đà liền lấy xương ấy mà dâng trao lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhận rồi, bảo các vị Bí sô rằng :

– Các ông hãy quan sát xá lợi di thân của Bồ tát khổ hạnh đi !

Rồi đức Phật nói lời tụng rằng :

Thắng đức Bồ tát tương ứng tuệ

Tinh cần dũng mãnh lục độ tròn

Vì Bồ Đề thường tu chẳng dứt

Không mệt, chẳng xả kiên cố tâm.

Này các Bí sô ! Các ông đều nên lễ kính thân xưa của Bồ tát ! Xá lợi này mới chính là sự huân tập hương thơm của vô lượng giới hương, định hương, tuệ hương, là ruộng phước tối thượng rất khó gặp gỡ !

Các vị Bí sô và đại chúng đều chí tâm chắp tay cung kính đảnh lễ xá lợi, khen chưa từng có ! Ngài A Nan Đà trước lễ dưới chân đức Phật mà bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Đức Như Lai đại sư ra khỏi tất cả, được sự cung kính của các loài hữu tình thì vì nhân duyên gì mà làm lễ thân cốt này ?

Đức Phật dạy rằng :

– Này A Nan Đà ! Ta nhân cái xương này mà mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Vì báo ơn xưa nên nay ta làm lễ !

Đức Phật lại bảo ngài A Nan Đà rằng :

– Ta nay vì ông và các đại chúng đoạn trừ nghi hoặc mà nói về nhân duyên thuở xưa của xá lợi này. Các ông khéo suy nghĩ, phải một lòng lắng nghe !

Ngài A Nan Đà bạch rằng :

– Chúng con rất ưa nghe ! Nguyện xin đức Phật vì chúng con mà siển khai !

– Này A Nan Đà ! Thuở đời quá khứ có một vị quốc vương tên là Đại Xa, giàu to, nhiều của cải, kho tàng đầy ắp, quân binh dũng mãnh, mọi người khâm phục, thường dùng chánh pháp thí hóa lê dân (kiềm lê = dân đen), nhân dân đông đúc, không có oán địch. Đại phu nhân của nước (vợ vua) sinh ra ba người con, dung mạo đoan chính, mọi người ưa nhìn. Thái tử tên là Ma Ha Ba La, thứ tử tên là Ma Ha Đề Bà, người con nhỏ tên là Ma Ha Tát Đỏa. Lúc đó, vị đại vương vì muốn dạo chơi thưởng lãm núi rừng nên ba vị vương tử ấy cũng đều đi theo. Vì tìm hoa quả nên họ bỏ xa cha, đi lại cùng khắp, đến khu rừng trúc lớn, trong lúc dừng nghỉ, vị vương tử thứ nhất nói như vầy : “Ngày hôm nay ở trong rừng này, lòng ta rất kinh hoàng ! Sắp không thú dữ tổn hại đến ta”. Người vương tử thứ hai nói rằng : “Ta đối với thân mình không tham tiếc, chỉ sợ đối với sự yêu thương phải có khổ biệt ly !”. Vị vương tử thứ ba bạch với hai anh rằng :

Đây là chỗ ở của thần tiên

Ta không kinh sợ buồn ly biệt

Thân tâm sung biến sinh vui mừng

Sẽ được thù thắng các công đức.

Các vị vương tử đều nói việc suy nghĩ của lòng mình rồi tiếp tục đi về trước, thấy có một con hổ sinh sản bảy hổ con vừa trải qua bảy ngày, các hổ con vây quanh, đang bị đói khát bức bách, thân hình gầy yếu, sắp chết chẳng lâu nữa. Vị vương tử thứ nhất nói rằng : “Thương thay ! Con hổ này sinh đã bảy ngày, bảy con vây quanh không rỗi đi tìm đồ ăn, bị đói khát bức bách thì nhất định trở lại ăn thịt con”. Vương tử Tát Đỏa hỏi rằng : “Con hổ này thường ăn vật gì ?”. Vương tử thứ nhất đáp rằng :

Hổ, báo, sói, sư tử

Chỉ ăn máu thịt tươi

Không đồ ăn gì khác

Có thể đỡ yếu gầy.

Vị vương tử thứ hai nghe lời nói này rồi, nói rằng : “Con hổ này gầy yếu, đói khát bức bách, mạng còn không bao lâu thì chúng ta làm sao có thể vì nó tìm đồ ăn thức uống khó được như vậy. Ai lại có thể vì nó tự xả thân mạng mà cứu giúp sự đói khổ ấy ?”. Vị vương tử thứ nhất nói rằng : “Tất cả sự khó xả không gì qua thân mình !”. Tát Đỏa vương tử nói rằng : “Chúng ta hôm nay đối với bản thân mình đều sinh ra luyến ái, lại không trí tuệ nên chẳng thể đối với người mà dấy khởi lợi ích. Nhưng có bậc Đại Sĩ mang lòng đại bi thường vì lợi tha mà quên thân cứu giúp vật”. Ông lại nghĩ rằng : “Thân này của ta hôm nay đối với trăm ngàn chúng sinh là rỗng không, bỏ đi, hoại rữa, từng không ích lợi gì thì sao ngày hôm nay mà chẳng thể xả bỏ để cứu giúp đói khổ như nhổ bỏ nước dãi”. Các vị vương tử bàn luận vậy xong, đều khởi lên lòng từ, nghĩ ngợi xót thương, cùng nhau quan sát con hổ gầy yếu, mắt chẳng tạm rời, bồi hồi lúc lâu, rồi đều bỏ đi. Lúc bấy giờ, vương tử Tát Đỏa liền khởi lên ý niệm này : “Ta xả bỏ thân mạng, hôm nay chính là lúc ! Vì sao vậy ? Vì :

Ta giữ thân này từ lâu lắm

Bẩn hôi mủ chảy chẳng đáng thương

Cung cấp đồ dùng cùng y thực (ăn mặc)

Voi ngựa, xe cộ, của quí tràn

Thân thể vô thường, pháp biến hoại

Hằng cầu khó thỏa, khó giữ gìn

Tuy thường cung dưỡng (nhưng) ôm oán hại

Chung qui bỏ ta, chẳng biết ơn.

Lại nữa, thân này chẳng bền, đối với ta vô ích, đáng sợ như giặc, chẳng sạch như phân. Ngày hôm nay ta sẽ sai khiến thân này tu nghiệp quảng đại, ở trong biển sinh tử làm chiếc thuyền lớn, xả bỏ luân hồi khiến cho được xuất ly”. Ông lại nghĩ rằng : “Nếu ta xả bỏ thân này thì tức là xả bỏ vô lượng bệnh ác ung thư, trăm ngàn kinh sợ! Thân này chỉ có đại, tiểu tiện lợi, chẳng bền như bọt nước, chỗ tập trung của các loài trùng, do mạch máu, gân xương… chung nối liền nhau rất đáng chán ngại ! Vậy nên ta nay cần phải xả bỏ để cầu Vô Thượng cứu cánh Niết Bàn, vĩnh viễn lìa khỏi nạn lo vô thường khổ não, chấm dứt sinh tử, cắt đứt các trần lụy, dùng sức định tuệ viên mãn huân tu, trăm phước trang nghiêm thành Nhất Thiết Trí, được chư Phật khen ngợi pháp thân vi diệu, đã chứng được rồi thì thí cho các chúng sinh vô lượng pháp lạc”. Lúc đó, vương tử dấy lên sự dũng mãnh phát hoằng thệ nguyện do niệm đại bi tăng thêm tấm lòng xả bỏ ấy. Lo hai người anh kia, tình mang sợ sệt, bị lưu nạn chung mà chẳng đạt kết quả việc cầu phúc, vương tử liền bạch rằng : “Hai anh đi trước, còn em ở sau !”. Lúc bấy giờ, vương tử Tát Đỏa trở vào trong rừng, đến chỗ con hổ kia, cởi bỏ quần áo, mắc lên cành trúc, rồi thề rằng :

Ta vì pháp giới, các chúng sinh

Chí cầu chỗ Bồ Đề Vô Thượng

Chẳng khuynh động, khởi đại bi tâm

Sẽ bỏ thân phàm phu yêu thích

Bồ Đề không hoạn, không não phiền

Niềm vui của những người có trí

Chúng sinh ba cõi khổ mênh mông

Ta nay cứu vớt khiến an lạc.

Lúc đó, vương tử nói lời này rồi, phó mặc thân mà nằm trước hổ đói. Nhưng do uy thế từ bi của Bồ tát này nên con hổ không thể làm gì. Bồ tát thấy rồi liền lên núi cao gieo thân xuống đất, nhưng các thần tiên đỡ lấy vương tử nên không bị thương tổn. Vương tử lại nghĩ : “Hổ nay đã gầy yếu chẳng thể ăn thịt được ta !”. Ông liền đứng dậy tìm dao, rốt cuộc cũng chẳng thể được, nên liền dùng tre khô đâm vào cổ cho chảy máu, rồi xáp gần đến bên hổ. Lúc đó, đại địa sáu thứ chấn động như gió tuông, nước trào, chìm đắm chẳng yên, mặt trời không tinh minh như chướng la hầu (Ràhu), các phương bóng tối che phủ không còn ánh sáng nữa, trời mưa danh hoa và bột thơm vi diệu rơi xuống loạn xạ đầy khắp trong rừng. Lúc bấy giờ, trong hư không, có các thiên chúng thấy việc này rồi phát sinh lòng tùy hỉ, khen chưa từng có, đều cùng khen rằng : “Hay thay ! Bậc Đại Sĩ !”. Rồi liền nói lời tụng rằng :

Đại sĩ cứu hộ vận bi tâm

Nhìn chúng sinh bình đẳng như con

Dũng mãnh vui mừng tình không lận

Xả thân cứu khổ, phước khó bàn

Nhất định đến chỗ chân diệu thắng

Mãi lìa sinh tử các buộc ràng

Chẳng lâu sẽ chứng Bồ Đề quả

Lạc an tịch tịnh ngộ vô sanh.

Lúc đó, cọp đói đã thấy cổ Bồ tát chảy máu, liền liếm ăn thịt cho đến hết, chỉ lưu lại xương. Bấy giờ, vị vương tử thứ nhất thấy đất động rồi thì bảo người em thứ rằng :

Sông núi, đất đai đều chấn động

Các phương che tối, nhật không sáng

Hoa trời rơi loạn khắp không trung

Nhất định em ta xả thân tướng.

Vị Vương tử thứ hai nghe lời anh nói rồi, nói tụng rằng :

Ta nghe lời Tát Đỏa từ bi

Thấy hổ đói kia thân yếu gầy

Sợ nó ăn con vì đói khổ

Ta nghi em đã xả thân rồi.

Hai vị vương tử phát sinh đại sầu khổ, khóc lóc buồn than, liền cùng theo nhau đi trở lại chỗ con hổ, thấy quần áo của em ở trên cành trúc, hài cốt và tóc tại chỗ dọc ngang, máu chảy thành bùn thấm bẩn cả đất. Thấy rồi ngất đi, chẳng thể tự giữ gìn, gieo thân mình lên xương, hồi lâu mới tỉnh lại, họ liền đưa tay lên gào thương khóc lớn, đồng thời than rằng :

Dung mạo em đoan nghiêm

Cha mẹ dành yêu thương

Sao đều cùng ra dạo

Mà chẳng về, xả thân

Cha mẹ nếu khi hỏi

Chúng ta đáp sao tròn

Thà nên đồng tổn mạng

Đâu lại tự còn thân.

Hai vương tử buồn khóc áo não, bỏ mà đi. Những thị tùng đem theo của tiểu vương tử nói với nhau rằng : “Vương tử ở đâu ? Chúng ta phải cùng nhau tìm kiếm !”

Lúc bấy giờ, đại phu nhân của nước ngủ trên lầu cao ở trong mơ thấy tướng chẳng lành, bị cắt hai vú, răng cỏ rơi rụng, được ba con chim bồ câu mà một con bị chim ưng bắt, hai con bị kinh sợ. Khi động đất thì phu nhân liền thức dậy, lòng rất sầu não, nói lời như vầy :

Vì sao hôm nay đất đai động

Chấn động cả sông núi cây rừng

Nhật không tinh quang như che phủ

Khi mắt nháy, vú động lạ thường

Như tên bắn lòng, ưu khổ bức

Khắp châu thân rúng động chẳng yên

Giấc mơ của ta, điềm chẳng tốt

Ắt có việc tai biến phi thường.

Hai vú của phu nhân bỗng nhiên chảy ra sữa, nghĩ điều này nhất định có việc biến quái. Có thị nữ nghe người ngoài nói rằng, tìm kiếm vương tử đến nay còn chưa được, lòng rất kinh sợ, liền vào trong cung, bạch với phu nhân rằng : “Thưa Đại gia có biết không ? Bên ngoài nghe những người đi tứ tán tìm kiếm vương tử, tìm khắp mà chẳng được”. Vị phu nhân kia nghe lời nói đó rồi, phát sinh đại ưu não, nước mắt lưng tròng, đi đến chỗ vị đại vương mà bạch rằng : “Thưa đại vương ! Thiếp nghe người ngoài nói như vầy, đã mất đứa con yêu quí nhỏ nhất của thiếp rồi !”. Nhà vua nghe lời nói này rồi thì kinh hoàng, thất sắc, nghẹn ngào mà nói rằng : “Khổ thay ! Hôm nay đã mất đứa con yêu”. Nhà vua liền lau nước mắt an ủi dỗ dành phu nhân, bảo rằng : “Này Hiền thủ ! Nàng chớ lo buồn ! Ta nay cùng nhau ra đi tìm kiếm đứa con yêu !”. Nhà vua cùng đại thần và các dân chúng liền cùng nhau ra khỏi thành, mỗi mỗi đều phân tán đi khắp nơi tìm kiếm. Thời gian chưa lâu, có một đại thần bạch trước đức vua rằng : “Nghe nói các vương tử còn, nguyện xin vua chớ lo buồn. Vương tử nhỏ nhất ấy thì hiện nay còn chưa tìm thấy”. Nhà vua nghe lời nói đó, buồn than mà nói rằng : “Khổ thay ! Khổ thay ! Mất đứa con yêu quí của ta.

Khi mới có con, ít vui mừng

Sau khi con mất, nhiều ưu khổ

Nếu khiến con ta thọ mạng trùng (sống trở lại)

Dù mất thân ta chẳng làm khổ”.

Phu nhân nghe rồi, ưu não đeo bám như bị trúng tên mà ta thán rằng :

Con ta ba đứa theo thị tùng

Đều chúng đi dạo ở trong rừng

Con yêu nhỏ nhất chẳng trở lại

Nhất định có việc gặp tai ương.

Thứ đến, người bề tôi thứ hai đi đến chỗ nhà vua. Nhà vua hỏi người bề tôi rằng : “Con yêu của ta ở đâu ?”. Vị đại thần thứ hai khóc lóc áo não, miệng nghẹn ngào, lưỡi khô cứng chẳng thể nói lên lời đáp lại. Phu nhân hỏi rằng :

Con nhỏ nay đâu ? Hãy báo nhanh !

Thân ta nhiệt não cháy khắp cùng

Mê man buồn loạn, bản tâm mất

Chớ khiến ngực ta nay vỡ tan.

Vị đại thần thứ hai đem việc vị vương tử xả thân tâu cho nhà vua biết đầy đủ. Nhà vua và phu nhân nghe việc ấy rồi, chẳng thắng được bi thương nghẹn ngào, trông về chỗ xả thân, cho xa giá đi về phía trước. Đi tới chỗ rừng trúc, đến vùng đất xả thân của Bồ tát, nhìn thấy hài cốt lăn lóc khắp nơi, vua và phu nhân gieo mình xuống đất, ngất đi sắp chết như gió mạnh thổi ngã cây đại thọ, lòng mê loạn, mất hết đầu mối, không còn biết gì nữa. Các vị đại thần dùng nước tưới khắp người vua và phu nhân, hồi lâu mới tỉnh lại, đưa tay lên mà gào khóc, ta thán rằng :

Họa thay ! Con yêu tướng đoan nghiêm

Nhân đâu khổ chết đến trước tiên ? Nếu ta được thay ngươi chết trước

Đâu thấy việc khổ này cắt lòng.

Lúc bấy giờ, phu nhân hơi bớt mê man, đầu tóc rối bù, hai tay đấm ngực, lăn lộn dưới đất như cá lên mặt đất, như trâu mất con, buồn khóc mà rằng :

Con ta ai giết hại

Mà trên đất xương còn ?

Con ta yêu đã mất

Chẳng tự thắng lo buồn

Khổ thay ! Con ai giết ?

Đem đến việc ưu phiền

Lòng ta chẳng cứng rắn (chẳng phải Kim Cương)

Sao mà chẳng vỡ tan ?

Điều trong mơ ta thấy :

Hai vú bị cắt phân

Răng cỏ đều rơi rụng

Khổ đau nay tao phùng.

Ba chim câu mơ thấy

Một bị ứng bắt liền

Thì nay mất ái tử

Điềm ác, chẳng rỗng không !

Lúc bấy giờ, vị đại vương và phu nhân cùng hai con đau buồn gào khóc hết mực, chuỗi ngọc chẳng mang, cùng với mọi người cùng nhau thu nhặt xá lợi di thân của Bồ tát, vì cúng dường nên đặt trong Tốt đổ ba (tháp). Này A Nan Đà ! Các ông nên biết, đây tức là xá lợi của Bồ tát đó ! Này A Nan Đà ! – Đức Phật lại bảo – Ta thuở xưa, tuy đủ phiền não, tham, sân, si.v.v… nhưng có thể ở trong địa ngục, ngã quỉ, bàng sinh, năm đường tùy duyên cứu tế khiến cho được ra khỏi. Huống gì hôm nay, phiền não đều hết, không còn dư tập, hiệu Thiên Nhân Sư, đủ Nhất Thiết Trí mà chẳng thể vì mỗi một chúng sinh kinh qua nhiều kiếp ở trong địa ngục và những chỗ khác, thay cho chúng sinh chịu mọi thứ khổ, khiến cho họ ra khỏi sinh tử phiền não luân hồi ư ?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên ý nghĩa này mà nói lời tụng rằng :

Ta nhớ đời quá khứ

Vô số kiếp không lường

Hoặc khi làm vương tử

Hoặc lại làm quốc vương

Thường làm việc đại thí

Và xả thân yêu thương.

Nguyện ra khỏi sinh tử

Đến Bồ Đề diệu tràng.

Thuở xưa có nước lớn

Đại Xa làm quốc vương

Vương tử tên Dũng Mãnh (Sattva)

Lòng không lận, thí ban.

Hai anh của vương tử

Hiệu Đại Cừ, Đại Thiên

Ba người đồng ra dạo

Dần đến chỗ núi rừng.

Thấy cọp bị đói bức

Lòng như vầy sinh liền :

Hổ này lửa đói đốt

Không gì có thể ăn.

Đại Sĩ thấy như thế

Sợ hổ sắp ăn con

Xả thân không nuối tiếc

Cứu con chẳng tổn thương.

Đất đai và các núi

Nhất thời đều động rung

Sông biển đều bay nhảy

Sóng kinh, nước ngược dòng

Trời đất mất ánh sáng

Không thấy gì, tối tăm

Rừng hoang, các cầm thú

Bay, chạy mất chỗ nương.

Hai anh chẳng trở lại (nhà)

Sinh bi khổ, lo buồn

Liền cùng các thị vệ

Tìm kiếm khắp núi rừng

Anh em chung bàn bạc

Lại đến chỗ thâm sơn

Nhìn khắp (tứ cố) không sở hữu

Thấy cọp còn tại rừng.

Bảy con cùng cọp mẹ

Miệng chúng có máu loang

Xương tàn cùng với tóc

Ở trên đất lung tung,

Lại thấy có máu chảy

Lan khắp chỗ cây rừng.

Hai anh đã nhìn thấy

Lòng sinh đại kinh hoàng

Ngất xỉu lăn ra đất

Chẳng hay biết mê man.

Thân họ lấm bụi đất

Sáu tình, niệm tiêu vong.

Thị tùng các vương tử

Gào khóc lòng ưu phiền.

Dùng nước vảy cho tỉnh

Cất tay gào khóc than.

Khi thân Bồ tát xả

Thì từ mẫu trong cung

Cùng năm trăm thể nữ

Diệu lạc hưởng thụ chung.

Bỗng nhiên hai vú của

Phu nhân, sữa thành dòng.

Khắp thân như kim chích

Đau khổ chẳng thể yên

Phát sinh thất tử tưởng (ý tưởng mất con)

Ưu tiễn (mũi tên lo) tổn thương lòng.

Liền bạch đại vương biết

Trần tình việc khổ phiền

Buồn khóc chẳng nhịn nỗi

Ai thanh (tiếng bi ai) bạch vua rằng :

Đại vương nay phải biết,

Thiếp sinh đại khổ phiền (não)

Hai vú bỗng chảy sữa

Cấm chỉ chẳng tùy lòng

Như khắp thân kim chích

Sợ, phiền ngực vỡ tung.

Thiếp trước mơ điềm ác

Ắt sẽ mất con thương (ái tử)

Nguyện vua cứu mạng thiếp

Biết con tồn hay vong.

Ba chim câu mơ thấy

Chim nhỏ là con thương (ái tử)

Bỗng bị chim ưng bắt

Sầu bi khó trần tường (trình bày rõ đủ).

Thiếp nay chìm ưu hãi (biển âu lo)

Chẳng lâu, chết đến liền.

Sợ con chẳng toàn mạng

Nguyện ngài mau kiếm tìm !

Lại nghe người ngoài nói

Con nhỏ tìm chẳng thấy

Thiếp nay, ý chẳng yên

Nguyện vua xót thương thiếp !

Phu nhân bạch vua xong

Toàn thân lăn ra đất

Lòng buồn đau chất ngất

Chẳng hay biết, mê man.

Thể nữ thấy phu nhân

Ngất xỉu ở dưới đất

Cất tiếng khóc rống lên

Lo lắng mất chỗ dựa.

Vua nghe lời nói trên

Ôm lo chẳng tự thắng

Nhân đó lệnh quần thần

Đi tìm kiếm ái tử.

Họ đều ra ngoài thành

Theo mọi chỗ tìm kiếm

Khóc lóc, hỏi nhân dân :

Vương tử nay đâu vậy ?

Hôm nay mất hay còn ?

Chỗ ngài đi ai biết ?

Làm sao ta được nhìn

Thì lòng lo buồn giải ?

Mọi người đều cùng truyền

Đều nói vương tử chết.

Người nghe đều tiếc thương

Buồn than khổ khó cắt.

Bấy giờ, Đại Xa Vương

Buồn kêu khóc, đứng dậy

Liền đến chỗ phu nhân

Lấy nước vẩy thân ấy.

Nhờ vẩy nước phu nhân

Hồi lâu mới tỉnh ngộ

Buồn khóc mà hỏi vương :

Con thiếp còn không vậy ?

Vua bảo phu nhân rằng :

Ta đã sai người kiếm

Bốn hướng truy tìm con

Còn chưa có tin tức !

Vua lại bảo phu nhân :

Nàng chớ sinh phiền não

Vả tự an ủi mình

Nên cùng đi tìm kiếm !

Vua liền cùng phu nhân

Nghiêm xa giá tiến trước

Tiếng kêu gào thê lương

Lòng lo như lửa cháy.

Trăm ngàn vạn sĩ, dân

Cũng ra thành theo chúa

Muốn tìm con của vương

Tiếng bi thương chẳng dứt.

Vua tìm con yêu nên

Bốn phương mắt nhìn khắp

Thấy một người đi sang

Máu thấm tóc, quần áo

Toàn thân lấm bụi trần

Buồn khóc ngược hướng đến.

Vua thấy ác tướng xong

Bội phần sinh ưu não

Vua đưa hai tay lên

Kêu thương chẳng tự dứt.

Có một vị đại thần

Chỗ vua, vội vàng đến

Tiến bạch đại vương rằng :

Xin vua chớ buồn tiếc

Đứa con yêu của vương

Nay tuy tìm chưa được

Chẳng lâu sẽ tìm xong !

Nỗi lo vua cởi mở

Đường trước vua tiến lên

Tiếp thấy đại thần đến

Tới chỗ vua, đại thần

Rơi nước mắt tâu bạch :

Hai con nay hiện còn

Bị ưu hỏa (lửa lo) bức bách,

Con thứ ba của vương

Đã bị vô thường nuốt !

Thấy cọp đói mới sinh

Sắp muốn ăn con nó.

Vương tử Tát Đỏa nhìn

Mà lòng bi khởi lên

Nguyện cầu đạo Vô Thượng

Sẽ độ mọi chúng sinh.

Buộc tưởng Bồ Đề diệu

Như biển quảng đại thâm.

Liền lên trên đỉnh núi

Trước cọp đói gieo thân

Cọp yếu chẳng ăn được

Dùng tre cứa cổ mình

Cọp liền ăn vương tử

Chỉ còn lại phần xương !

Vua và phu nhân đã

Nghe rồi liền ngất luôn

Lòng chìm vào ưu hãi

Lửa phiền não cháy bừng.

Thần đem chiên đàn thủy(Nước hương chiên đàn)

Vẩy vua và phu nhân

Tỉnh dậy gào thương lớn

Cất tay đấm ngực mình.

Đại thần thứ ba đến

Tâu bạch đức vua rằng :

Thần thấy hai vương tử

Ngất xỉu ở trong rừng

Thần dùng nước lạnh vẩy

Vậy mới tỉnh lại xong.

Bốn phương quay nhìn khắp

Như lửa mạnh khắp cùng

Tạm đứng lên trở lại

Chẳng tự thắng, gào thương

Cất tay, lời bi thiết

Xưng : Hy hữu ! Khen em.

Vua nghe nói như vậy

Ưu hoa nung nấu thêm

Phu nhân gào khóc lớn

Cả tiếng nói lên rằng :

Con nhỏ mà ta yêu thương nhất

Đã bị nuốt bởi quỉ vô thường

Còn có hai con nay hiện tại

Lại bị đốt bằng lửa lo buồn

Ta nay mau đến dưới chân núi

An ủi khiến mạng chúng bảo toàn !

Liền dong duỗi xe, trông đường trước

Một lòng đến chỗ con xả thân.

(Trên) Đường, gặp hai con đi vừa khóc

Đấm ngực áo não mất nghi dung :

Cha mẹ thấy rồi ôm ưu não

Đều đến chỗ rừng núi xả thân.

Đã đến đất xả thân Bồ tát

Chung tụ bi thương, đại khổ sinh

Hết lòng thương, cởi bỏ chuỗi ngọc

Thâu nhặt xương cốt Bồ tát thân

Cùng mọi người xây tháp bảy báu

Để chung nhau lễ bái cúng dường

Đem xá lợi đó đặt trong hộp

Chỉnh xa giá buồn lo về cung (thành)

Phật lại bảo A Nan :

Ông Tát Đỏa thuở trước

Là chính ta hiện thân

Ông chớ sinh nghĩ khác !

Vua là Tịnh Phạn Vương

Hậu là Ma Gia mẹ

Thái tử là Từ Thị

Thứ : Mạn Thù Thất Lị

Cọp là Đại Thế chủ (Mahàprajàpati)

Năm con : năm bí sô

Một là Đại Mục Liên

Một là Xá Lợi Phất.

Ta vì các ông nói

Duyên thuở xưa lợi tha !

Như vậy Bồ tát hạnh

Phải học thành Phật nhân

Phát hoằng thệ như vậy

Nguyện xương thân ta còn

Đời sau ích sinh chúng.

Đây là chỗ xả thân

Ngôi tháp bằng thất bảo

Trải thời gian không lường

Nên chìm sâu trong đất.

Do lực xưa thề nguyền

Tùy duyên hưng tế độ

Vì lợi cho nhân thiên

Từ đất mà vọt lên.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khi nói nhân duyên xưa thì vô lượng a tăng xỉ gia người, trời, đại chúng đều rất bi hỷ khen chưa từng có, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức Phật lại bảo thần cây rằng :

– Ta vì báo ân nên làm lễ cung kính !

Đức Phật thu nhiếp thần lực thì ngôi tháp ấy trở lại biến mất vào trong đất.

PHẨM THỨ HAI MƯƠI BẢY : BỒ TÁT MƯỜI PHƯƠNG TÁN THÁN

Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, khi nói Kinh này thì ở thế giới mười phương có vô lượng trăm ngàn vạn ức những chúng Bồ tát đều từ cõi của mình đi đến núi Thứu Phong, tới chỗ đức Thế Tôn, năm vóc gieo xuống đất, làm lễ đức Thế Tôn, rồi một lòng chắp tay, khác miệng đồng thanh mà khen ngợi rằng :

Thân Phật vi diệu chân kim sắc

Ánh sáng soi khắp ngang kim sơn

Như hoa sen thanh tịnh nhu nhuyến

Mà nghiêm sức sáng đẹp không lường !

Ba mươi hai tướng trang nghiêm khắp

Tám mươi vẻ đẹp đều mãn viên

Luồng ánh sáng tỏa không ai sánh

Ly cấu giống như ánh trăng trong.

Tiếng Phật trong suốt rất vi diệu

Như sư tử rống tiếng rền vang

Tám thứ vi diệu, quần cơ (máy móc) ứng

Ca Lăng Tần Già (loài chim) cũng vượt hơn

Nghiêm dung bằng diệu tướng trăm phước

Ánh sáng đủ, không bẩn sạch trong.

Trí tuệ lắng sáng như biển cả

Công đức rộng lớn như hư không

Vòng sáng (viên quang) đầy khắp thập phương giới

Tùy duyên cứu khắp những hữu tình.

Phiền não, ái nhiễm… đều trừ hết

Hằng thắp đuốc pháp chẳng nghỉ ngưng

Xót thương, lợi ích các sinh chúng

Hiện tại, vị lai cho lạc an

Thường vì tuyên nói Đệ Nhất Nghĩa

Khiến chứng chân tịch tịnh Niết Bàn.

Phật nói pháp cam lộ thù thắng

Nghĩa cam lộ vi diệu hay ban (cho)

Dẫn vào thành Niết Bàn cam lộ

Vui vô vi cam lộ hưởng tràn.

Thường ở trong biển cả sinh tử

Giải thoát khổ tất cả chúng sinh

Khiến cho họ trụ đường yên ổn

Hằng cho vui như ý khó bàn !

Biển đức Như Lai rất sâu rộng

Chẳng phải thí dụ mà biết thông !

Với mọi người Đại Bi thường khởi

Tinh cần phương tiện luôn chẳng dừng.

Biển trí Như Lai không bờ cõi

Tất cả người trời chung đo lường

Giả sử trong ngàn vạn ức kiếp

Chẳng thể được biết một ít phần.

Con nay lược khen công đức Phật

Chỉ một giọt (trong) biển đức Thế Tôn !

Hồi hướng phước ấy thí sinh chúng

Nguyện quả Bồ Đề mau chứng thành !

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Bồ tát rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Các ông khéo có thể như vậy khen công đức đức Phật, lợi ích cho hữu tình, hưng khởi Phật sự rộng rãi, có thể diệt các tội, sinh ra vô lượng phước.

PHẨM THỨ HAI MƯƠI TÁM : BỒ TÁT DIỆU TRÀNG KHEN NGỢI

Lúc bấy giờ, Bồ tát Diệu Tràng liền đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay hướng về đức Phật mà nói lời khen rằng :

Tướng trăm phước Mâu Ni viên mãn

Vô lượng công đức dùng nghiêm thân

Quảng đại, thanh tịnh người ưa quán (quan sát)

Như ánh sáng ngàn mặt trời lên

Chói lọi vô biên, quang xí thạnh

Như gom diệu bảo, tướng đoan nghiêm

Ánh lên không như mặt trời mọc

Hồng, trắng phân minh, xen sắc vàng

Như ánh sáng núi vàng soi khắp

Có thể khắp cùng cõi trăm ngàn

Hay diệt chúng sinh vô lượng khổ

Cho đến thắng diệu lạc vô biên

Các tướng đầy đủ đều nghiêm tịnh

Chúng sinh ưa nhìn, không chán nhàm

Tóc đầu mềm mại màu xanh biếc

Như trên hoa đẹp gom ong đen

Tịnh trang nghiêm Đại hỷ, Đại xả

Đại từ, Đại bi đều hoàn toàn (đầy đủ)

Mọi diệu tướng tốt làm nghiêm sức

Pháp Bồ Đề phận đã hoàn thành.

Như Lai hay ban cho phúc lợi

Khiến họ thường được đại lạc an.

Chung trang nghiêm đủ thứ diệu đức

Ánh sáng soi khắp cõi ngàn muôn

Quang tướng Như Lai rất viên mãn

Như mặt trời sáng khắp không trung

Phật như Tu Di công đức đủ

Hay thị hiện khắp cùng mười phương.

Kim khẩu Như Lai trang nghiêm diệu

Răng trắng, bằng, kín ngọc tuyết nhường.

Diện mạo Như Lai không ai sánh

Hào tướng vùng mi xoắn phải thường

Sáng thuần tươi trắng, pha lê vậy

Giống như trăng tròn ở trên không.

Đức Phật bảo Bồ tát Diệu Tràng :

– Ông có thể như vậy khen công đức Phật, chẳng thể nghĩ bàn, lợi ích cho tất cả, khiến cho người chưa biết thì thuận theo tu học.

PHẨM THỨ HAI MƯƠI CHÍN : THẦN CÂY BỒ ĐỀ KHEN NGỢI

Lúc bấy giờ, thần cây Bồ Đề cũng dùng lời tụng khen đức Thế Tôn rằng :

Kính lễ Như Lai thanh tịnh tuệ !

Kính lễ Thường cầu Chánh pháp tuệ !

Kính lễ Năng ly phi pháp tuệ !

Kính lễ Hằng vô phân biệt tuệ !

Hy hữu bạch Thế Tôn vô biên !

Hy hữu khó thấy ! Ưu Đàm sánh !

Hy hữu như biển trấn sơn vương !

Hy hữu Thiện Thệ sáng vô lượng !

Hy hữu Điều Ngự từ nguyện hoằng !

Hy hữu họ Thích sáng hơn nhật ! (mặt trời)

Hay nói như vậy báu trong Kinh

Thương xót quần sinh đem lợi ích

Mâu Ni Tịch Tịnh, định các căn

Hay vào thành Niết Bàn tịch tịnh

Hay trụ Tịch Tịnh Đẳng Trì môn

Hay biết cảnh giới sâu tịch tịnh

Đấng Lưỡng Túc Tôn trụ Tịch Không.

Thân đệ tử Thanh Văn cũng rỗng (không)

Thể tính tất cả pháp đều không

Tất cả chúng sinh đều không tịch !

Con thường ức niệm các Thế Tôn

Con thường ưa thấy các đức Phật

Con thường phát khởi lòng ân cần

Thường được gặp gỡ mặt trời Phật

Con thường đảnh lễ đấng Thế Tôn !

Nguyện luôn khát ngưỡng, lòng chẳng xả

Buồn khóc rơi lệ, không đoạn tình (không gián đoạn)

Thường được phụng sự, chẳng biết chán !

Nguyện xin Thế Tôn khởi bi tâm

Dung nhan hòa nhã con thường thấy !

Phật và Thanh Văn chúng sạch trong

Nguyện ở trời, người thường cứu giúp !

Thân Phật vốn sạch như hư không

Như huyễn, ngọn lửa và trăng nước

Nguyện nói pháp cam lộ Niết Bàn

Có thể sinh tất cả công đức !

Cảnh giới tịnh của đức Thế Tôn

Chẳng nghĩ bàn Từ Bi, chánh hạnh

Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể lường

Đại tiên Bồ tát chẳng đo được !

Nguyện xin Như Lai thương xót con

Thân Đại Bi thường cho con thấy !

Ba nghiệp không mệt phụng từ tôn

Mau ra sinh tử, về chân tế (cõi chân như).

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nghe lời khen này xong, dùng âm thanh Phạm bảo thần cây rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nữ thiên ! Ngươi có thể đối với ta chân thật không hư dối, pháp thân thanh tịnh, tự lợi, lợi tha tuyên dương diệu tướng. Do công đức này nên khiến cho ngươi mau chứng Bồ Đề Vô Thượng. Tất cả hữu tình đồng chỗ tu tập nếu được nghe thì đều vào cửa pháp Vô Sinh Cam Lộ.

PHẨM THỨ BA MƯƠI : THIÊN NỮ ĐẠI BIỆN TÀI KHEN NGỢI

Bấy giờ, thiên nữ Đại Biện Tài liền đứng dậy, chắp tay cung kính, dùng ngôn từ chính trực, khen đức Thế Tôn rằng :

– Nam mô Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ! Thân chơn kim sắc, yết hầu như loa bối (vỏ ốc xoắn), mặt như trăng tròn, mắt là loài hoa sen, miệng môi đỏ đẹp như màu pha lê, mũi cao, dài, thẳng nhe cắt đĩnh vàng, răng trắng, bằng, kín như hoa Câu đầu vật, ánh sáng thân soi khắp như trăm ngàn mặt trời, tia sáng ánh lên như vàng Chiêm Bộ, lời nói của ngài không lầm lẫn, bày ba cửa giải thoát, mở ba đường Bồ Đề, lòng thường thanh tịnh, ý lạc cũng vậy; chỗ trụ xứ và hành cảnh của đức Phật cũng thường thanh tịnh, lìa khỏi chẳng phải oai nghi, tiến, dừng không sai lầm, sáu năm khổ hạnh, ba chuyển pháp luân độ chúng sinh khổ khiến cho họ về đến bờ kia, thân tướng viên mãn như cây Câu Đà, sáu độ huân tu, ba nghiệp không lỗi, đủ Nhất Thiết Trí, tự lợi, lợi tha viên mãn, lời nói ra thường vì chúng sinh, nói chẳng bịa đặt hư dối, ở trong dòng họ Thích là Đại Sư Tử, kiên cố dũng mãnh đủ tám giải thoát ! Con nay theo sức mình xưng tán một phần ít công đức của đức Như Lai giống như con muỗi uống nước của biển cả ! Con nguyện đem phước này rộng phổ cập đến loài hữu tình, vĩnh viễn lìa khỏi sinh tử, thành đạo Vô Thượng !

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo trời Đại Biện Tài rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Ngươi tu tập đã lâu, đủ đại biện tài, nay lại đối với ta rộng trần tình khen ngợi, khiến cho ngươi mau chứng pháp môn Vô Thượng, tướng tốt viên minh, lợi khắp tất cả.

PHẨM THỨ BA MƯƠI MỐT : PHÚC CHÚC

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khắp bảo với vô lượng Bồ tát và những trời, người, tất cả đại chúng rằng :

– Các ông phải biết, ta đã ở vô lượng vô số đại kiếp, siêng tu khổ hạnh, được pháp thậm thâm, chánh nhân Bồ Đề mà ta đã vì các ông nói rồi ! Các ông, ai có thể phát tâm dũng mãnh cung kính thủ hộ ? Sau khi ta Niết Bàn, đối với pháp môn này, tuyên nói rộng rãi, lưu bố khắp nơi có thể khiến cho chánh pháp trụ lâu dài ở thế gian ?

Bấy giờ, trong chúng có sáu mươi câu chỉ những Đại Bồ tát, sáu mươi câu chỉ đại chúng chư thiên, khác miệng đồng âm mà nói lên lời như vầy :

– Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con đều có lòng hân hoan đối với đức Phật Thế Tôn ở vô lượng đại kiếp siêng tu khổ hạnh, đã được pháp vi diệu thậm thâm, chánh nhân Bồ Đề, chúng con cung kính hộ trì, chẳng tiếc thân mạng. Sau khi đức Phật Niết Bàn đối với pháp môn này, chúng con tuyên dương rộng rãi, lưu bố cùng khắp, sẽ khiến cho chính pháp lâu dài trụ ở thế gian.

Lúc bấy giờ, các vị Đại Bồ tát liền ở trước đức Phật nói lời kệ tụng rằng :

Thế Tôn, lời thật chân

An trụ ở thật pháp

Do chân thật đó nên

Đối Kinh này trì hộ !

Đại bi là giáp, trụ (mũ, áo đi trận)

Với Đại từ trụ yên,

Do lực từ bi đó

Nên Kinh này giữ gìn !

Của cải pháp viên mãn

Sinh khởi trí tư lương (của cải trí)

Do tư lương đầy đủ

Nên Kinh này (được) giữ gìn.

Tất cả ma hàng phục

Các tà luận phá tan

Hộ Thế cùng Thích, Phạm

Cho đến A Tô La (A tu la)

Long thần và Dược xoa…

Hộ trì cho Kinh ấy.

Trên đất và hư không

Người trụ lâu ở đó

Vâng lời Phật dạy nên

Hộ trì cho Kinh ấy !

Bốn Phạm (hạnh) trụ tương ưng

Bốn Thánh đế nghiêm sức

Hàng phục bốn ma nên

Hộ trì cho Kinh ấy.

Hư không thành trở ngại

Trở ngại thành hư không

Sự hộ trì chư Phật

Không ai khuynh động được !

Lúc bấy giờ, bốn vị Đại Thiên Vương nghe đức Phật nói diệu pháp hộ trì này đều phát sinh lòng hoan hỷ hộ chánh pháp, nhất thời đồng thanh nói kệ tụng rằng :

Với Kinh này nay con

Và quyến thuộc nam nữ

Đều ủng hộ một lòng

Khiến được lưu thông rộng.

Nếu có người trì Kinh

Nhân Bồ Đề tạo tác

Con sẽ ở bốn phương

Vưng việc mà ủng hộ.

Bấy giờ, trời Đế Thích chắp tay cung kính, nói kệ tụng rằng :

Pháp này chư Phật chúng

Vì muốn đền ơn nên

Nhiêu ích chúng Bồ tát

Kinh ấy diễn thế gian

Con đối chư Phật đó

Thường cúng dường đền ơn

Hộ trì Kinh như vậy

Và cả người trì Kinh.

Bấy giờ, thiên tử Đổ Sử Đa chắp tay cung kính nói kệ tụng rằng:

Phật nói Kinh như vậy

Nếu có người giữ gìn

Sẽ trụ Bồ Đề vị

Sau sinh Đổ Sử Thiên

Thế Tôn ! Con vui sướng.

Bỏ báo thù thắng thiên (quả báo thù thắng của trời)

Mà xuống châu Chiêm Bộ

Đem Kinh này tuyên dương.

Bấy giờ, chủ thế giới Tác Ha, Phạm Thiên Vương chắp tay cung kính nói kệ tụng rằng :

Các Tịnh lự không lường

Các thừa và giải thoát

Đều xuất hiện từ Kinh

Vậy nên diễn Kinh ấy

Nếu có chỗ nói Kinh

Con bỏ vui trời Phạm

Được nghe như vậy Kinh

Cũng thường làm ủng hộ.

Bấy giờ, con của ma vương tên là

Thương Chủ chắp tay cung kính, nói kệ tụng rằng :

Nếu có người thọ trì

Kinh tương ứng chánh nghĩa

Chẳng theo việc làm ma

Trừ sạch nghiệp ma ác.

Chúng con đối kinh này

Cũng sẽ siêng thủ hộ

Phát ý tinh tấn ngay

Tùy chỗ lưu thông rộng !

Bấy giờ, ma vương chắp tay cung kính, nói kệ tụng rằng :

Nếu có trì Kinh này

Hay phục các phiền não

Loại chúng sinh như vầy

Ủng hộ khiến an lạc

Nếu có nói Kinh này

Các ma chẳng được tiện

Do lực Phật thần uy

Con sẽ ủng hộ họ.

Thiên tử Diệu Cát Tường cũng ở trước đức Phật nói kệ tụng rằng:

Chư Phật diệu Bồ Đề

Ở trong Kinh này nói

Kinh này nếu người trì

Là cúng dường chư Phật.

Kinh này con sẽ trì

Vì câu chỉ trời nói

Người cung kính lắng nghe

Khuyên đến Bồ Đề xứ.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Từ Thị chắp tay cung kính, nói kệ tụng rằng:

Nếu thấy trụ Bồ tát

Cùng là chẳng thỉnh bạn

Cho đến xả thân mạng

Vì hộ Kinh vương này

Con nghe pháp như vầy

Sẽ đến trời Đổ Sử

Do Thế Tôn gia hộ

Rộng nói vì người trời.

Bấy giờ, thượng tọa Đại Ca Diếp chắp tay cung kính, nói tụng rằng :

Phật ở thừa Thanh Văn

Nói trí tuệ con tốt

Con nay theo lực mình

Hộ trì Kinh như vậy.

Nếu có người trì Kinh

Con sẽ nhiếp thọ họ

Trao lực từ biện liền

Lời “Hay thay !” thường nói !

Bấy giờ, cụ thọ A Nan Đà chắp tay hướng về đức Phật nói kệ tụng rằng :

Con từng theo Phật nghe

Vô lượng những Kinh điển

Chưa từng như vậy nghe

Vua trong pháp Thâm diệu

Con nay nghe Kinh này

Gần ở trước Phật thọ

Những người ưa Bồ Đề

Sẽ vì họ tuyên rộng.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thấy các Bồ tát, đại chúng người trời, mỗi mỗi đều phát tâm lưu thông, ủng hộ đối với Kinh điển này, để khuyến tiến Bồ tát làm lợi chúng sinh rộng rãi, ngài khen rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Các ông có thể đối với Kinh Vương vi diệu như vậy, thành kính lưu bố, cho đến sau khi ta Bát Niết Bàn, chẳng cho tan diệt, tức là chánh nhân Bồ Đề Vô Thượng, mà công đức thu được nói đến hằng hà sa số kiếp chẳng thể hết. Nếu có Bí sô, Bí sô ni, Ổ ba tác ca, Ổ ba tư ca và thiện nam tử, thiện nữ nhân khác.v.v.. cúng dường cung kính, ghi chép cho lưu thông, vì người giải nói thì công đức thu hoạch được cũng lại như vậy. Vậy nên các ông phải siêng tu tập !

Lúc bấy giờ, vô lượng vô biên hằng hà sa số đại chúng nghe đức Phật nói rồi đều rất hoan hỷ tín thọ phụng hành.

KINH KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG

– Quyển thứ mười hết –

Chú thích:

1- Sách Phạm Kinh này tàng trữ ở hiệp hội Á Tế Á của vua nước Anh lập, so sánh với những bản đang dịch vả có chỗ khiếm khuyết như Đà la ni chẳng còn thì rất nhiều, liền nương theo bản dịch Tây Tạng của Tôn Giáo Đại Học Đồ Thư Quán mà đối chiếu so sánh rút ra. Trong số Kinh Kim Quang Minh cất giữ nhiều đó, có hai bộ mà một bộ thật nguyên là bản chữ Hán của ngài Nghĩa Tịnh. Chúng tôi cố hợp liền lạc những chỗ ấy rồi mà vẫn còn xen có khác chút ít xin độc giả biết cho vậy. (Theo bản của Đại Chính Tân Tu – Nhật Bản).

2- Những bài chú trong Kinh này chúng tôi có căn cứ theo Đại Chính Tân Tu ghi lại bằng tiếng Phạn theo mẫu tự La Tinh – (Người dịch)

    Xem thêm:

  • Hợp Bộ Kinh Kim Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Đà La Ni Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Như Lai - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Biến Chiếu Quang Minh Tạng Vô Tự Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Tổng Trì Bảo Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Nhất Thiết Chư Như Lai Tâm Quang Minh Gia Trì Bồ Tát Phổ Hiền Đà La Ni Diên Mạng Kim Cang Tối Thắng - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Vì Thiên Tử Thắng Quang Dạy Vương Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Phổ Biến Quang Minh Thanh Tịnh Sí Thạnh Như Ý Bảo Ấn Tâm Vô Năng Thắng Đại Minh Vương Đại Tùy Cầu Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Duyên Đồng Tử Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Thái Tử Đức Quang - Kinh Tạng
  • Kinh Nghi Quỹ Huyễn Hoá Võng Đại Du Già Giáo Thập Phẫn Nộ Minh Vương Đại Minh Quán Tưởng - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bảo Tạng Văn Thù Sư Lợi - Kinh Tạng
  • Giải Thích Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Kim Cang Bí Mật Thiện Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Tuệ Nhuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh A Di Đà (Văn Vần) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Bồ Tát – Thích Minh Lễ dịch - Kinh Tạng