Kinh Nại Nữ Và Kỳ Bà
Phật Thuyết Nại Nữ Kì Bà Kinh
Hậu Hán An Thế Cao dịch
Bản Việt dịch của Thích Tâm Nhãn
***
Khi Phật tại thế, bấy giờ ở nước Duy-da-ly trong vườn nhà vua tự nhiên mọc lên cây táo, cành lá sum suê, trái rất lớn màu sắc rực rỡ và hương thơm ngào ngạt khác thường. Nhà vua rất yêu quí cây táo này; ông ta cấm người trong cung từ bậc tôn quí đến mỹ nhân không được ăn trái cây táo. Trong nước có một cư sĩ Phạm-chí giàu có tài sản vô số. Ông ta lại thông minh uyên bác, tài trí siêu quần. Nhà vua trọng dụng yêu thương dùng ông làm đại thần. Một hôm, nhà vua mời Phạm-chí đến dùng cơm, ăn xong nhà vua lấy một trái táo thưởng cho ông. Phạm-chí thấy trái táo thơm ngon khác lạ bèn hỏi nhà vua:
– Tâu bệ hạ! Chắc ở dưới cây táo này có cây con, có thể cho phép hạ thần xin một cây được không?
Nhà vua nói:
– Cây nhỏ thì rất nhiều nhưng trẫm lo sợ phòng giữ cho cây lớn nên bỏ hết rồi. Nếu khánh muốn trẫm sẽ cho.
Nhà vua liền sai người đi lấy hạt giống cây táo cho Phạm-chí. Phạm-chí đem nó về trồng, sớm hôm tưới bón, ngày càng to lớn, cành lá xanh tốt, ba năm có trái, trái cây táo lớn nhỏ đủ loại màu sắc giống như cây táo nhà vua. Phạm-chí rất vui mừng tự nghĩ: “Tài sản của gia đình ta vô số không thua gì nhà vua, chỉ không bằng nhà vua là chưa có cây táo. Nay đã có nó thì đâu thua gì nhà vua nữa”. Liền hái một trái ăn nhưng ăn không được vì đắng và chát. Phạm-chí quá buồn rầu chán nản lại suy nghĩ: “Lẽ nào đất này không màu mỡ sao?” Rồi ông đi chọn một trăm con bò sữa, đem sữa một trăm con cho một con uống, rồi vắt sữa con bò ấy nấu thành đề-hồ tưới xuống gốc cây. Hàng ngày Phạm-chí tưới cây táo cho đến năm sau, quả nó ngon như cây táo nhà vua. Nhưng bên cạnh cây táo bỗng nhiên nhô lên khối u lớn như nắm tay, ngày càng lớn dần. Phạm-chí nghĩ ngợi: “Sao lại tự nhiên có khối u này ta lo cho cây táo quá”. Muốn chặt bỏ đi nhưng sợ bị thương cho cây táo, nhiều ngày suy nghĩ lưỡng lự chưa quyết định. Đột nhiên trong khối u lại sinh một nhánh cây chỉa thẳng lên trên, to lớn tốt tươi, cao hơn ngọn cây cũ cách mặt đất bảy trượng. Nhánh cây của nó phân chia nhiều nhánh che phủ khắp nơi, hình dáng như cái lọng chổng ngược, lá xanh tốt đẹp hơn cây trước. Phạm-chí lấy làm lạ: “Không biết cành cây mọc lên từ đâu. Bèn đóng thang gỗ leo lên xem thử, thấy bên trong cành cây giống cái lọng chổng ngược đó có vũng nước vừa trong vừa thơm, giống như chùm hoa màu sắc sặc sỡ. Phạm-chí vạch hoa ra xem, thấy một bé gái ở dưới vũng nước, ông ta bồng lên đem về nuôi dưỡng khôn lớn và đặt tên là Nại-nữ. Năm mười lăm tuổi Nại-nữ nhan sắc đoan chánh, đệ nhất thiên hạ tiếng đồn vang khắp cả nước.
Bấy giờ, có bảy quốc vương cùng một lúc đến nhà Phạm-chí xin cầu hôn làm chồng Nại-nữ. Phạm-chí quá lo sợ không biết phải chọn ai. Ông liền cất một căn lầu ở trong vườn để Nại-nữ ở trong đó. Phạm-chí tâu lại các quốc vương:
– Tâu các Đại-vương! Người con gái này không phải do hạ thần sinh, mà sinh ra từ trên cây táo, cũng không biết là nữ Thiên long, quỉ thần hay vật của ma quỉ chăng?! Hôm nay, bảy Đại-vương đến đây cầu hôn nàng, hạ thần thiết nghĩ nếu chọn một người, thì sáu vị kia sẽ phẫn nộ nên hạ thần không dám mến chọn ai. Hiện nay, Nại-nữ đang ở trên lầu trong vườn. Các Đại-vương tự ý nghị bàn phải chọn một người, rồi tự tiện đi còn hạ thần không dám ra điều kiện.
Lúc đó, bảy Đại-vương cùng nhau tranh luận, phân vân chưa quyết định, mãi cho đến tối Bình-sa-vương theo đường hầm đi vào, leo lên lầu ngủ với Nại-nữ một đêm. Sáng sớm, Bình-sa-vương chuẩn bị ra đi Nại-nữ thưa rằng:
– Tâu Đại-vương! Đại-vương đức hạnh cao quí đã tiếp đãi thần thiếp, nay lại chia tay ra đi. Nếu thần thiếp có con, đó là hạt giống của Đại-vương thì gửi gấm sao đây?
Nhà vua nói:
– Nếu là con trai phải đưa về cho trẫm, còn như con gái tiện thể nàng nuôi.
Nhà vua liền cởi ấn vòng vàng giao cho Nại-nữ để làm tin. Rồi nhà vua ra ngoài nói với quần thần:
– Trẫm đã được Nại-nữ và ngủ với nàng một đêm. Nàng không có gì lạ cũng như người phàm, vì thế không giữ làm gì.
Quân Bình-sa-vương tung hô:
– Vạn tuế! Đại-vương chúng ta đã được Nại-nữ.
Sáu vị vua kia nghe rồi, tất cả trở về nước. Nại-nữ sanh được một nam nhi. Lúc mới sinh trong tay đứa bé cầm nắm kim, đãy thuốc mà ra. Phạm-chí nói:
– Con vua nước này mà cầm khí cụ y dược chắc làm y vương.
Và đặt tên là Kỳ-bà. Năm lên tám tuổi Kỳ-bà rất thông minh tài giỏi. Về sự học vấn bình thơ thông suốt, đặc biệt “có một không hai”. Mỗi lần chơi đùa nó thường có tâm khinh khi những đứa bé làng giềng cho là không bằng mình. Chúng bạn cùng nhau mắng chửi nó và nói:
– Mày là thứ không cha, cái hạng dâm nữ sinh ra mày. Vậy mà sao dám khinh tụi tao?
Kỳ-bà ngạc nhiên lặng thinh không trả lời, trở về hỏi mẫu thân:
– Thưa mẹ! Những đứa bạn của con chúng đều không bằng con, mà dám mắng chửi con rằng: “Đồ cái thứ không cha”. Vậy hiện giờ cha con ở đâu?
– Cha con chính là Bình-sa-vương.
– Bình-sa-vương ở tại nước La-duyệt-kỳ cách 500 dặm, làm sao sinh ra con? Như lời mẹ nói lấy gì làm chứng?
Người mẹ lấy cái ấn vòng vàng ra nói:
– Cái vòng vàng này làm chứng Bình-sa-vương là cha con.
Kỳ-bà thấy ấn văn của vua Bình Sa mới hiểu rõ, kính cẩn thâu giữ cái vòng, và lên đường đến nước La-duyệt-kỳ. Kỳ-bà đi vào cung môn không thấy ai hỏi, thẳng đến trước nhà vua làm lễ, quì gối tâu với nhà vua:
– Tâu phụ vương! Con là vương tử mẹ Nại-nữ sinh ra con. Nay được tám tuổi con mới biết là dòng giống của Phụ vương, cho nên đem ấn vòng vàng để làm tin. Con từ xa đến đây.
Nhà vua thấy ấn văn nhớ lại lời thề thuở xưa, biết là con mình lòng buồn bả thương xót, phong Kỳ-bà làm thái tử. Thời gian thấm thoát hai năm, sau đó nhà vua sinh A-xà-thế. Kỳ-bà nhân tiện tâu lên nhà vua:
– Tâu phụ vương! Lúc con mới sinh tay cầm kim, đãy y dược ứng điềm con làm thầy thuốc. Tuy phụ vương phong vị cho con làm thái tử nhưng con không vui. Nay chánh hậu sanh được hoàng nam đã có người nói dõi tông tự. Vậy con xin học nghề y thuật mong phụ vương cho phép.
Nhà vua bảo:
– Con không làm Thái tử mà đòi học nghề thuốc thì không được hưởng bổng lộc của triều đình.
Nhà vua liền ban sắc lệnh cho các thầy thuốc thượng thủ trong nước, phải hết lòng dạy dỗ Kỳ-bà, nhưng Kỳ-bà đi rong chơi không chịu học. Các thầy thuốc trách than:
– Y thuật là nghề thô bỉ, tồi tàn chẳng phải nghề để Thái tử vương tôn học. Vì phụng mạng nhà vua không dám chống trái, sắc lệnh đã ban xuống, ngày tháng trôi qua, vậy mà từ trước đến giờ Thái tử chưa học được nữa lời của phương thuốc. Nếu nhà vua có hỏi chúng tôi phải trả lời sao đây?
Kỳ-bà nói:
– Khi tôi mới sanh tay đã có dụng cụ y dược và tôi đã xin phụ vương bỏ vinh hoa phú quí cầu học y thuật, đâu có biếng nhát mà để các thầy đốc thúc. Thật ra nghề thuốc các thầy không đủ để tôi học.
Kỳ-bà lấy rễ dược thảo theo phương thuốc châm cứu vài kinh mạch, hỏi các vị thầy thuốc những câu hỏi khó. Các thầy thuốc không trả lời được họ đều cúi mình đảnh lễ Kỳ-bà, quì gối chắp tay nói:
– Hôm nay, mới biết Thái tử là vị thần thánh y dược, chúng tôi chẳng dám so sánh cùng thái tử. Những điều Thái tử vừa hỏi đều là chỗ nghi ngờ, mà thầy chúng tôi trải qua nhiều năm nay không thể thông hiểu. Xin thái tử nói rõ điều đó, giải bày cho chúng tôi mà nhiều năm nay còn gút mắc.
Kỳ-bà liền giải thích ý nghĩa những điều đó. Các thầy thuốc hoan hỷ, tất cả đứng dậy đảnh lễ sát đất và ghi nhận lời dạy.
Bắt đầu Kỳ-bà hành nghề trị bệnh, hễ trị là lành, trong nước đều biết danh. Một hôm, Kỳ-bà đi vào cung, trước cổng cung gặp một đứa bé đang gánh củi. Kỳ-bà trông thấy rõ ràng từng bộ phận ngũ tạng của đứa bé: ruột, tỳ… Kỳ-bà suy nghĩ: “Sách thảo dược có nói hễ có cây dược vương là từ bên ngoài chiếu thấy bên trong bụng con người. Trong nội tạng đứa bé gánh củi này có cây dược vương sao?”.
Kỳ-bà đến hỏi đứa bé:
– Con bán gánh củi bao nhiêu tiền?
– Dạ, mười tiền.
Kỳ-bà trả cho đứa bé mười tiền. Đứa bé đặt gánh củi xuống đất thì trong bụng đứa bé tối om không thấy nữa. Kỳ-bà suy nghĩ: “Không biết vì sao trong bó củi có cây dược vương?” Liền tháo hai bó củi ra, lấy từng cây đặt lên bụng đứa bé, chiếu vào không thấy gì. Kỳ-bà cứ làm như vậy cho đến hết hai bó củi, chỉ còn một cây củi nhỏ cuối cùng dài hơn một thước, Kỳ-bà lấy lên thử chiếu một lần nữa, thì thấy toàn bộ trong bụng đứa bé. Đứa bé vừa được tiền vừa được củi như thế, hớn hở bỏ đi.
Bấy giờ, trong nước có gia đình cư sĩ có một người con gái mười lăm tuổi, gần đến ngày xuất giá bổng nhiên đau đầu chết. Kỳ-bà nghe tin đến gia đình ấy hỏi cha cô gái:
– Người nữ này thường bệnh gì mà dẫn đến tử vong?
Người cha đáp:
– Dạ, tiểu nữ thường có chứng bệnh đau đầu, tháng ngày nặng dần. Sáng nay phát khởi quá nặng hơn bình thường đến nổi tuyệt mạng.
Kỳ-bà đến lấy cây dược vương chiếu vào đầu, thấy vô số hàng trăm côn trùng lớn nhỏ, lúc nhúc đục khoét trong đầu. Chúng rúc rỉa não cô ta cho đến hết sạch nên phải chết. Kỳ-bà lấy dao vàng mổ đầu cô ta, gắp hết côn trùng trong đó ra, bỏ vào cái vò đậy nắp lại, lấy ba loại thuốc thần cao bôi lên vết thương. Một loại bổ vết thương chỗ xương trùng ăn. Một loại tái sinh bộ não. Một loại trị ngoài vết thương dao mổ. Kỳ-bà bảo cha cô gái:
– Tốt lắm rồi, để bệnh nhân nghỉ ngơi cẩn thận đừng kinh động. Bảy ngày nữa bệnh sẽ bình phục như cũ, đến ngày đó tôi sẽ trở lại.
Kỳ-bà cáo từ ra đi. Mẹ cô gái than khóc nói:
– Sao như thế! Chỉ vì sống lại mà để thầy thuốc mổ đầu não, làm cho con tôi chết một lần nữa. ông làm cha cớ sao nhẫn nhịn để người ta mổ con mình như vậy?
Cha cô gái ngắt lời:
– Kỳ-bà vừa sinh ra tay đã cầm kim y dược, từ bỏ ngôi vị, làm người thầy thuốc chỉ vì tất cả mạng người đó thôi! Đó là y vương của trời bà chớ nói càn. Kỳ-bà dặn tôi cẩn thận chớ ồn ào mà bà không nghe, khóc lóc than van, làm kinh động con mình khiến cho nó không sống lại được.
Bà vợ nghe chồng nói vậy không khóc nữa. Hai người cùng chăm sóc nuôi dưỡng con mình, giữ yên tĩnh trong bảy ngày. Sáng sớm ngày thứ bảy, cô con gái hắt xì thức dậy như người ngủ tĩnh giấc, hỏi:
– Hôm nay, sao con không còn đau đầu, thân thể lại khỏe mạnh. Ai giúp cho con vậy?
Người cha đáp:
– Lúc trước con đã chết. Kỳ-bà y vương đến đây giúp con, mổ đầu lấy trùng ra cho nên con được sống lại.
Người cha mở cái vò đựng côn trùng, đưa cho con gái xem. Cô thấy rất kinh sợ trong tâm tự nghĩ: “Mình quá may mắn nên mới có thần y Kỳ-bà đến cứu như vậy, lấy gì đền đáp công ơn này”.
Người cha bảo:
– Kỳ-bà hẹn với cha là hôm nay quay lại.
Chốc lát Kỳ-bà cũng vừa đến. Cô con gái quá vui mừng chạy ra cửa nghinh đón, đảnh lễ sát chân quì gối chắp tay thưa:
– Nguyện xin thầy cho con theo làm nô tỳ, trọn đời phụng dưỡng để đền ơn cứu mạng.
Kỳ-bà nói:
– Ta làm thầy thuốc đi khắp nơi trị bệnh, chỗ ở không nhất định làm sao nhận người hầu. Cô muốn đền đáp công ơn thì trả cho tôi 500 lượng vàng. Tôi cũng không dùng số vàng này. Sở dĩ tôi nhận vì: Phàm làm người học đạo đúng phép phải tạ ơn thầy. Tuy thầy tôi không dạy tôi nhưng tôi từng là đệ tử. Nay cô trả số vàng này tôi sẽ đem dâng thầy tôi.
Cô con gái đem 500 lượng vàng biếu cho Kỳ-bà. Kỳ-bà thọ nhận đem về dâng cho thầy và nhân tiện xin nhà vua về quê thăm mẹ. Kỳ-bà về đến nước Duy-la-ly. Trong nước có một gia đình cư sĩ có đứa con trai tinh thông võ thuật. Nó làm một con ngựa gỗ cao hơn bảy thước. Hàng ngày luyện tập, mới đầu leo lên tập ở trên lưng ngựa gỗ rất đắc ý. Luyện tập rất lâu bỗng nhiên nhảy qua mất thăng bằng té xuống đất chết. Kỳ-bà nghe tin đi đến lấy cây dược vương chiếu vào trong bụng, thấy gan lộn ngược ra sau nên bị bế khí không thông mà chết. Kỳ-bà lấy dao vàng mổ bụng, dùng tay dò xét sắp xếp cho gan về vị trí cũ, dùng ba loại thuốc mỡ thần cao. Một loại bổ chỗ vết thương đưa tay vào sửa bộ phận gan. Một loại giúp thông khí, hơi thở điều hòa. Một loại trị vết thương bị mổ. Kỳ-bà làm xong dặn dò cha cậu bé:
– Phải cẩn thận đừng kinh động, ba ngày bệnh sẽ lành. Người cha theo lời chỉ dạy yên lặng nuôi dưỡng chăm sóc, đến ngày thứ ba cậu con trai bắt đầu tỉnh, trạng thái như người ngủ vừa thức, liền ngồi dậy. Chốc lát Kỳ-bà cũng vừa đến. Cậu ta vui mừng ra ngoài cửa nghinh đón, đảnh lễ sát đất, quì gối chắp tay nói:
– Thưa thầy! Thầy cho con theo làm người hầu. Suốt đời phụng dưỡng hầu hạ để đền đáp công ơn cứu mạng.
Kỳ-bà nói:
– Ta làm thầy thuốc trị bệnh khắp nơi. Bệnh nhân nhiều gia đình xin theo ta làm người hầu, nhưng mẹ ta nuôi ta khổ nhọc, công ơn ấy chưa đền đáp được. Nếu ngươi muốn đền ơn thì trả cho ta 500 lượng vàng để ta đền ơn mẫu thân.
Thế rồi Kỳ-bà trở về nước La-duyệt-kỳ đem số vàng dâng cho mẹ là Nại-nữ. Kỳ-bà cứu sống hai người này tiếng đồn vang khắp thiên hạ, không ai mà không biết.
Lại ở phương nam có một nước rất lớn cách La-duyệt-kỳ tám ngàn dặm. Bình-sa-vương và các nước nhỏ đều lệ thuộc nước này. Vua nước này đau bệnh nhiều năm nay mà chưa hết, thường đau khổ sân hận. Ông ta luôn lăm le giết người. Người nào nhìn ngó là giết; người nào cúi đầu không ngẩn lên là giết; người nào đi chậm cũng giết; người nào đi nhanh cũng giết. Hầu cận tả hữu không biết liệu tính thế nào. Những lương y chế thuốc nghi kỵ có độc cũng giết. Trước sau giết sạch, tất cả cung nữ, cận thần, lương y không thể tính cho hết. Căn bệnh ngày càng trầm trọng chất độc tấn công vào tim, phiền não dãy đầy, hơi thở hổn hển, toàn thân như bị thiêu đốt. Ông ta nghe danh Kỳ-bà liền xuống chiếu chỉ, ra lệnh Bình-sa-vương triệu Kỳ-bà. Kỳ-bà nghe ông vua này giết nhiều thầy thuốc rất lo sợ. Bình-sa-vương lại thương cho Kỳ-bà tuổi còn nhỏ, e rằng sẽ bị giết không muốn cho đi, nhưng sợ ông ta đem quân chinh phạt. Cha con ray rứt, đêm ngày đau buồn không biết tính làm sao?! bấy giờ, Bình-sa-vương đưa Kỳ-bà đến chỗ đức Phật để tham vấn. Đức Phật bảo Kỳ-bà:
– Túc mạng đời trước con và ta cùng ước thệ là phải cứu giúp bệnh mọi người trong thiên hạ. Ta trị nội bệnh con trị ngoại bệnh. Nay ta đã thành Phật được như bổn nguyện, ý nguyện của ta đã đạt trước. Ông vua đó bệnh nặng ở xa mời con, vậy sao không đi? Hãy mau đi cứu ông ta đi! Dùng phương tiện khéo léo chữa trị mau lành thì nhà vua không giết con.
Kỳ-bà nương oai thần của Phật đến chỗ ông vua đó, chẩn đoán mạch lý, lấy dược vương chiếu vào, thấy ngũ tạng nhà vua trong trăm kinh mạch, khí huyết khắp thân thể chảy rần rần đều là chất độc mãng xà. Kỳ-bà tâu nhà vua:
– Tâu Hoàng thượng! Bệnh của Hoàng thượng có thể trị, trị bảo đảm là lành, nhưng cho phép hạ thần diện kiến Thái hậu để nghị bàn chế thuốc. Nếu hạ thần không gặp được Thái hậu thì thuốc khó thành.
Nhà vua nghe nói thế không hiểu ý Kỳ-bà, trong lòng muốn nổi giận nhưng sợ ảnh hưởng đến bệnh, lại trước kia đã nghe danh tiếng Kỳ-bà, từ xa nghinh đón nghĩ cũng có ích cho lòng mong mỏi. Xét ra, Kỳ-bà tuổi còn nhỏ chắc cũng không gian xảo gì, nhẫn nại lắng nghe. Nhà vua ra lệnh cho quan thái giám đưa Kỳ-bà đến gặp Thái hậu. Kỳ-bà thưa với Thái hậu:
– Bẩm Thái hậu! Bệnh của Hoàng thượng có thể trị. Nay phải hợp thuốc nhưng phương thuốc rất tối mật không thể tiếc lộ, dù là thân cận tả hữu.
Thái hậu liền đuổi quan Thái giám ra ngoài, nhân tiện Kỳ-bà mới hỏi Thái hậu:
– Bẩm Thái hậu! Khi hạ thần xem mạch bệnh của Hoàng thượng, thấy khí huyết trong thân Hoàng thượng đều là chất độc mãng xà, hình như chẳng phải loài người, xác định Hoàng thượng là con ai? Thái hậu thành thật kể cho hạ thần biết, hạ thần mới có thể trị cho Hoàng thượng. Còn nếu không cho hạ thần biết, thì hạ thần không trị, chắc chắn bệnh không lành.
Thái hậu kể:
– Trước kia vào một buổi trưa ta đang ngủ tại điện Kim-trụ, bổng nhiên có một vật đến đè lên thân ta. Lúc ấy, ta hốt hoảng nửa tỉnh nửa mơ, trạng thái như bị bóng đè trong mộng, rồi thỏa mãn thông tình. Bất chợt giật mình thấy một con mãng xà to lớn, dài hơn ba thước từ trên thân ta bò đi. Rồi biết được mình mang thai nhà vua đúng là con của mãng xà. Ta nghĩ quá xấu hổ chưa từng nói với ai. Đồng tử biết được việc này sao thần diệu vậy? Nếu bệnh này có thể trị ta xin phó thác mạng sống nhà vua cho Đồng tử. Giờ thì trị bệnh cho nhà vua bằng thuốc gì?
Kỳ-bà nói:
– Chỉ có đề-hồ thôi!
Thái hậu thốt lên:
– Chao ôi! đồng tử cẩn thận chớ chế loại thuốc đề-hồ này. Nhà vua rất ghét ngửi mùi đề-hồ, cũng ghét nghe nói đến tên đề-hồ. Tiếng trước tiếng sau là giết người nào làm đề-hồ. Con số lên đến hàng trăm hàng ngàn người. Nay Đồng tử chế thuốc ấy chắc bị giết, huống gì là cho vua uống càng không được. Xin hãy chế thuốc khác đi!
Kỳ-bà nói:
– Đề-hồ trị độc, trị bệnh độc mà căm ghét đề-hồ như thế, thì bệnh nhà vua tuy ít nhưng sẽ sanh thêm bệnh khác, chỉ có thuốc đó mới có thể trị lành. Chất độc mãng xà quá nặng nó đã lan tràn khắp thân thể. Nếu không phải đề-hồ thì không thể tiêu diệt được nó. Bây giờ đem nấu làm cho nó hóa thành nước không hơi không mùi vị. Hoàng thượng không biết chắc phải uống nó, thuốc thấm vào, bệnh sẽ lành. Thôi Thái hậu đừng lo lắng nữa!
Kỳ-bà ra ngoài tâu lại nhà vua:
– Tâu Hoàng thượng! Hạ thần đã gặp Thái hậu đưa ra phương thuốc, nghị bàn bào chế mười lăm ngày sẽ thành. Nay hạ thần có năm điều nguyện, nếu Hoàng thượng nghe hạ thần bệnh có thể lành, còn nếu không nghe lời hạ thần chắc bệnh không thể hết.
Nhà vua hỏi:
– Năm điều nguyện đó là những việc gì?
Kỳ-bà thưa:
Nguyện thứ nhất là xin một cái áo giáp mới chưa bao giờ mặc trong kho tàng của nhà vua, để hạ thần mặc.
Nguyện thứ hai là cho phép hạ thần một mình ra vào trong cung không được ngăn cấm.
Nguyện thứ ba là xin phép hàng ngày một mình vào diện kiến Thái hậu, vương hậu không được ngăn cấm hạ thần.
Nguyện thứ tư là xin Hoàng thượng khi uống thuốc phải uống một lần cho hết, không được ngưng nữa chừng.
Nguyện thứ năm là xin Hoàng thượng cho mượn con bạch tượng đi tám ngàn dặm, để hạ thần cỡi nó.
Nhà vua nghe thế quá giận hét:
– Thằng chuột con! Sao dám cả gan cầu xin năm điều nguyện đó, mau giải thích những việc ấy. Nếu không giải thích được ta đánh cho chết ngươi. Vì sao ngươi xin ta áo mới? Có phải muốn trá hình mặc áo ta để giết ta chăng?
Kỳ-bà đáp:
– Tâu Hoàng thượng! Chế thuốc phải nên trai giới thanh tịnh, mà hạ thần đến đây đã lâu y phục bị dơ bẩn, nên muốn xin áo mới của Hoàng thượng để chế thuốc.
Nhà vua hiểu rồi lại hỏi:
– Tốt lắm! Vì sao ngươi muốn tự ý ra vào cung môn mà không bị ngăn cấm, có phải thừa cơ hội đem binh tấn công giết ta chăng?
Kỳ-bà thưa:
– Tâu Hoàng thượng! Những vị thầy thuốc xung quanh, Hoàng thượng đều cơ hiềm nghi kỵ, không tin tưởng lại muốn tàn sát họ; Hoàng thượng cũng không dùng thuốc họ. Quần thần lớn nhỏ đều nói rằng: “Hoàng thượng cũng sẽ giết hạ thần” mà bệnh Hoàng thượng rất nặng e rằng người ngoài sanh tâm làm loạn. Nếu để hạ thần ra vào không bị ngăn cấm thì người ngoài lớn nhỏ đều biết Hoàng thượng tin tưởng hạ thần. Tất nhiên, Hoàng thượng dùng thuốc hạ thần thì bệnh sẽ lành. Lúc ấy, người ngoài không dám sinh nghịch loạn.
Nhà vua nói:
– Vậy thì tốt! Còn vì sao hàng ngày ngươi muốn một mình vào gặp mẹ và vợ ta, muốn dâm loạn sao?
Kỳ-bà thưa:
– Tâu Hoàng thượng! Từ trước đến giờ Hoàng thượng giết rất nhiều người. Quần thần lớn nhỏ ai cũng ôm ấp lo sợ, cũng không muốn Hoàng thượng yên ổn. Nên không thể tin tưởng họ, nếu hàng ngày cùng nhau chế thuốc nhân lúc hạ thần lơ là họ bỏ thuốc độc vào, hạ thần không biết thì chẳng phải chuyện nhỏ. Nhân đây nghĩ xem có thể tin ai và có ân tình không hai lòng, duy chỉ có Thái hậu và Hoàng hậu. Cho nên hạ thần muốn vào gặp Hoàng hậu và Thái hậu, cùng sắc chế thuốc trong vòng mười lăm ngày là xong. Nên hạ thần muốn hàng ngày vào thăm bệnh, nấu tể vậy thôi.
Nhà vua nói:
– Tốt lắm! Vì sao ngươi muốn ta uống thuốc một lần cho hết không dừng giữa chừng. Vì trong đó có độc sợ ta biết phải không?
Kỳ-bà thưa:
– Tâu Hoàng thượng! Thuốc có nhiều tể. Mùi vị và hơi phải tương tục với nhau, nếu dừng nữa chừng thì hơi không tương tục.
Nhà vua nói:
– Hay lắm! Còn vì sao ngươi muốn mượn bạch tượng của ta, con voi này là báu vật của nước ta, nó đi một ngày tám ngàn dặm. Sở dĩ ta chinh phục được các nước chính là nhờ nó. Ngươi muốn cởi nó vì muốn đánh cắp trở về quê hương, cùng cha ngươi tấn công nước ta chăng?
Kỳ-bà thưa:
– Tâu Hoàng thượng! Trong nước ở biên giới phía nam có thảo dược thần diệu, đi đến đó bốn ngàn dặm, chế thuốc cho Hoàng thượng phải lấy được thuốc đó, tuy khó khăn phải chế thuốc đó cho được. Cho nên hạ thần muốn mượn bạch tượng đến đó hái thuốc. Sáng đi chiều về để mùi vị thuốc vẫn còn.
Nhà vua nghe mọi chuyện hiểu rõ ràng. Thế là, Kỳ-bà nấu luyện đề-hồ mười lăm ngày xong, biến nó trong như nước. Tất cả được năm thăng liền đưa cho Thái hậu, Hoàng hậu bưng thuốc ra ngoài. Rồi Kỳ-bà tâu với nhà vua:
– Hoàng thượng có thể uống thuốc và cho bạch tượng đứng trước điện.
Nhà vua liền cho phép. Nhà vua thấy thuốc trong như nước không mùi vị, không biết là đề-hồ lại có Hoàng hậu, Thái hậu thân lâm chế thuốc, nên tin tưởng thuốc không phải độc. Như đã hứa nhà vua uống một lần hết sạch. Kỳ-bà lên voi đi thẳng quay về bổn quốc. Kỳ-bà tuổi còn nhỏ thể lực yếu đuối đi được ba ngàn dặm, thân thể dần dần mỏi mệt, hoa mắt, đau đầu nên dừng lại trong núi nằm nghỉ. Đến quá giữa trưa, nhà vua hắt xì đề-hồ trong mũi văng ra liền giận dữ hét:
– Thằng chuột con… dám lấy đề-hồ cho ta uống. Ta lấy làm lạ hèn chi nó mượn bạch tượng của ta, mục đích muốn bỏ đi mà!
Nhà vua có một cận thần dũng sĩ tên là Ô. Dũng sĩ Ô có thần túc đi bộ, tài năng bằng bạch tượng. Nhà vua gọi Ô tới bảo:
– Ngươi cấp tốc đuổi theo thằng chuột bắt sống đem về. Ta đích thân đánh nó chết trước mặt ta. Ngươi tánh thường không liên khiết, tham ăn uống nên gọi là Ô. Bọn thầy thuốc đó nhiều mẹo vặt dùng độc, nếu thằng chuột cho ngươi ăn cẩn thận đừng ăn.
Ô vâng lệnh ra đi gặp Kỳ-bà ở trong núi, Ô bảo:
– Vì sao ngươi lấy đề-hồ cho Hoàng thượng uống, mà nói là thuốc. Hoàng thượng sai ta đuổi theo gọi ngươi về. Ngươi mau theo ta quay lại tự thú tạ tội có thể hy vọng sống. Nếu ngươi muốn chạy bắt buộc ta giết ngươi, không bao giờ thoát được.
Kỳ-bà suy nghĩ: “Tuy ta dùng phương tiện mượn bạch tượng này nhưng cũng không thoát được. Bây giờ phải dùng mưu kế để làm sao thoát được” nghĩ thế rồi bảo:
– Từ sáng đến giờ ta chưa ăn đường nào cũng chết, vậy cho ta nghĩ ngơi chốc lát để vào trong núi, ăn chút trái cây, uống miếng nước cho no bụng chết cũng được.
Ô thấy Kỳ-bà còn nhỏ sợ chết khủng hoảng nói lời đau khổ, thương xót lời nói Kỳ-bà, nên bảo:
– Thôi! Đi ăn cho mau.
Không bao lâu, Kỳ-bà cầm một trái lê ăn khuyết một nữa, lấy thuốc độc bỏ vào móng tay bôi vào nữa phần còn lại, để xuống đất. Lại lấy một ly nước, trước tiên uống một nữa rồi dùng móng tay có độc búng vào trong nữa ly nước dư, cũng để xuống đất và than:
– Nước và lê đều là thần dược vừa trong sạch lại thơm ngon, ăn uống những thứ này thân thể an ổn, trăm bệnh tiêu trừ, khí lực gấp bội. Rất tiếc những thứ này sao không có tại kinh đô nhỉ? Trăm họ đang cần mà những thứ này lại ở trong núi sâu, đôi khi người ta không biết vào núi tìm kiếm gặp trái cây khác.
Ô tánh tham ăn đang đói và khát không thể nhịn được, lại nghe Kỳ-bà khen là thần dược, cũng thấy Kỳ-bà đã ăn, uống chúng nghĩ chắc không có độc. Ô liền lấy trái cây dư ăn và uống cạn phần nước còn lại bị ngay kiết lỵ, đi chảy như nước, khụy hai chân xuống đất nằm dài, rồi đứng dậy liền hoa mắt ngã xuống không cử động nữa.
Kỳ-bà liền đến nói với ông ta rằng:
– Hoàng thượng uống thuốc của tôi chắc chắn bệnh phải lành. Nhưng hiện nay sức thuốc chưa ngấm chất độc chưa hết, nếu tôi ở lại chắc sẽ bị giết. Vì ông không biết nên đuổi theo bắt tôi để giải về cho nhà vua, cho nên tôi phải làm cho ông bệnh. Bệnh này không nặng cẩn thận đừng cử động ba ngày sẽ lành, nếu đứng dậy đuổi theo tôi chắc chết không sai.
Kỳ-bà lên voi ra đi, đi ngang qua một ngôi làng nghèo bảo với trưởng làng:
– Đằng kia có sứ giả của vương quốc bổng nhiên lâm bệnh. Các ông cấp tốc đến khiên về nhà, nuôi dưỡng chăm sóc ông ta cho tốt, chuẩn bị giường chiếu chu đáo, cung cấp cháo thịt thận trọng đừng để chết. Nếu để ông ta chết nhà vua sẽ tiêu diệt làng của các ông.
Nói rồi lên đường trở về bổn quốc. Trưởng làng vâng lời nghinh đón ông ta về nuôi dưỡng. Ba ngày độc dứt hẳn Ô trở về diện kiến nhà vua, khấu đầu tường thuật lại: – Tâu Hoàng thượng! Hạ thần thật ngu si trái lời Hoàng thượng dạy, tin lời Kỳ-bà ăn uống trái cây nước dư, nên trúng độc bị kiết ba ngày đến nay mới khỏi.
Trong thời gian ba ngày đến khi Ô trở về nhà vua bệnh đã lành tự nghĩ lại: “Ta rất ăn năn đã sai Ô đi”. Thấy Ô trở về vừa thương vừa vui nói:
– Lúc trẫm giận sai khanh không được chậm trễ bắt thằng nhỏ đem về đánh cho chết. Nhưng trẫm mang ơn nó cứu mạng sống lại, mà lại giết nó thật tội lỗi không phải chuyện nhỏ.
Nhà vua hối hận đã giết nhiều người oan uổng từ trước đến giờ, lệnh tất cả được hậu táng và đến nhà họ cho tiền tài. Nhà vua nghĩ lại Kỳ-bà muốn đền đáp công ơn đó, liền sai sứ giả nghinh đón Kỳ-bà. Tuy Kỳ-bà biết nhà vua hết bệnh nhưng còn lo sợ không muốn đi. Kỳ-bà đến chỗ đức Phật đảnh lễ sát chân Phật và bạch rằng:
– Kính thưa Thế Tôn! Nước đó lại sai sứ giả đến thỉnh con có nên đến không?
Phật bảo Kỳ-bà:
– Túc mạng đời trước con đã thệ nguyện phải thành tựu công đức sao lại dừng nữa chừng? Nay nên đến đó, con đã trị ngoại bệnh Ta cũng phải trị nội bệnh cho ông ta.
Kỳ-bà theo sứ giả ra đi. Khi nhà vua thấy Kỳ-bà hết sứt vui mừng dẫn đến ngồi chung chỗ, vịn lên vai Kỳ-bà nói:
– Trẫm nhờ ơn nhân giả cứu mạng sống lại vậy lấy gì đền đáp đây?! Thôi thì, trẫm phân chia vương quốc mỗi người một nữa, thể nữ trong cung, kho tàng châu báu cũng chia làm đôi, tha thiết nhân giả nhận cho.
Kỳ-bà nói:
– Hạ thần vốn là Thái tử tuy nước nhỏ cũng có nhân dân, châu báu đầy đủ, nhưng không vui trị nước chỉ cầu làm thầy thuốc đi trị bệnh. Hoàng thượng cho đất đai, thể nữ, châu báu tất cả hạ thần không cần. Trước kia Hoàng thượng đã nghe năm điều nguyện của hạ thần ngoại bệnh đã trị lành, nếu nghe một điều nguyện quan trọng của hạ thần nữa thì nội bệnh của Hoàng thượng cũng có thể trị hết.
Nhà vua nói:
– Xin nhân giả chỉ dạy, nguyện muốn nghe sự việc của điều nguyện.
Kỳ-bà nói:
– Nguyện xin Hoàng thượng thỉnh đức Phật đến thọ chánh pháp cao minh. Đức Phật sẽ vì Hoàng thượng nói về công đức vời vợi tôn quí của đức Phật.
Nhà vua nghe quá vui mừng nói:
– Bây giờ, trẫm sai Ô đem bạch tượng đi nghinh đón đức Phật có được không?
Kỳ-bà thưa:
– Tâu Hoàng thượng! Không cần dùng bạch tượng. Dù ở xa, đức Phật biết tất cả tâm niệm của mọi người, miễn là một đêm trai giới thanh tịnh, dâng cúng đầy đủ hương trầm, quay về hướng Phật thỉnh nguyện, làm lễ quì gối bạch thỉnh tự nhiên đức Phật đến.
Nhà vua làm theo lời Kỳ-bà. Sáng ngày, đức Phật cùng đầy đủ 1250 vị Tỳ-kheo đi đến, thọ trai xong vì nhà vua đức Phật nói kinh. Ý vua khai giải liền phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn, hướng dẫn các nước lớn nhỏ đều thọ năm giới, tất cả cung kính làm lễ ra đi.
Lúc Nại-nữ sinh ra rất kỳ dị mau lớn lại thông minh, theo cha học vấn uyên bác kinh đạo. Thuật chiêm tinh toán số vượt hẳn hơn cha. Nại-nữ lại thông thạo âm nhạc tấu âm thanh như Phạm-thiên. Những đứa con gái gia đình cư sĩ, Phạm-chí tất cả 500 người đều theo học và tôn Nại-nữ làm đại sư. Nại-nữ thường cùng 500 đệ tử giảng nói kinh thuật, hoặc cùng nhau du ngoạn hoa viên, ao hồ hay chơi âm nhạc. Người trong nước không hiểu việc làm của họ sinh phỉ báng là dâm nữ, còn 500 đệ tử gọi là dâm đảng. Khi Nại-nữ sinh trong nước lại có Tu-mạn-nữ và Ba-đàm-nữ cùng sinh một lúc. Tu-mạn-nữ sinh trong hoa Tu-mạn. Trong nước có gia đình cư sĩ thường bện hoa Tu-mạn để làm hương cao. Bên chỗ bện thạch cao bổng nhiên mọc khối u to như hòn đạn, ngày ngày lớn dần bằng nắm tay. Rồi hòn đá bộc phá thấy trong kẻ đá rực sáng như lửa đom đóm, ánh sáng bắn ra ngoài rơi xuống đất. Ba ngày sinh ra cây Tu-mạn. Ba ngày nữa cây Tu-mạn nở hoa, hoa nở ra có một bé gái. Gia đình giữ bé gái ấy nuôi dưỡng đặt tên là Tu-mạn-nữ. Tu-mạn-nữ lớn khôn nhan sắc diễm kiều, tài trí vẹn toàn so với Nại-nữ, nàng là người thứ hai. Lại có gia đình Phạm-chí có ao nước tự nhiên mọc lên hoa sen xanh, đặc biệt hoa rất to. Ngày ngày lớn dần to bằng cái bình năm đấu. Khi hoa sen nở thấy có một bé gái; Phạm-chí bồng về nuôi dưỡng đặt tên Ba-đàm-nữ. Ba-đàm-nữ lớn khôn tài trí như Tu-mạn-nữ. Vua các nước nghe đồn hai nàng này dung nhan tuyệt thế, nên đến cầu hôn hai nàng. Hai nàng nói:
– Chúng tôi không phải sinh ra từ bào thai mà sinh ra trong hoa thì không giống với người phàm, vậy làm sao thích hợp theo người đời kết hôn được. Nghe Nại-nữ thông minh ở đời không ai bằng, lại sinh ra đồng thể với chúng tôi.
Hai nàng từ giã cha mẹ đến gặp Nại-nữ xin làm đệ tử; trí tuệ họ thông đạt hơn 500 đệ tử kia.
Khi đức Phật du hóa đến nước Duy-la-ly. Nại-nữ cùng 500 đệ tử ra ngoài thành nghinh đón đức Phật, đảnh lễ sát đất, quì gối bạch rằng:
– Kính thưa Thế Tôn! Ngày mai xin thỉnh Thế Tôn đến vườn của chúng con thọ trai.
Đức Phật mặc nhiên thọ nhận. Nại-nữ trở về chuẩn bị đầy đủ đồ cúng dường. Đức Phật đi vào thành, Quốc vương ra khỏi cung nghinh đón đức Phật, lễ xong quì gối thỉnh Phật:
– Ngày mai nguyện thỉnh Thế Tôn đến cung thọ trai.
Đức Phật nói:
– Nại-nữ đã thỉnh ta trước rồi.
Nhà vua không vui nói:
– Con làm vua một nước chí tâm thỉnh Thế Tôn hy vọng Thế Tôn thương xót đồng ý. Nại-nữ chỉ là dâm nữ, hàng ngày cô ta cùng 500 đệ tử dâm làm việc không đúng. Vậy sao Thế Tôn từ chối lời mời của con mà nhận lời thỉnh cầu của cô ta.
Đức Phật bảo:
– Người nữ đó chẳng phải dâm. Túc mạng đời trước của cô ta có đại công đức đã cúng dường ba đức Phật. Ngày xưa nại-nữ cùng Tu-mạn-nữ, Ba-đàm-nữ đều là chị em. Nại-nữ chị cả, Tu-mạn là thứ, Ba-đàm là út. họ sinh trong một gia đình dòng họ lớn tài sản giàu có. Chị em cùng nhau cúng dường 500 Tỳ-kheo ni, hàng ngày bày biện thức ăn, nước uống và may y phục, coi chỗ nào không có đều cúng dường suốt cả đời họ. Ba người thường thệ nguyện: “Nguyện đời sau chúng ta gặp được Phật”. Liền được hóa sinh, không do bào thai, xa lìa dơ bẩn. Nay được như bổn nguyện sanh vào đời của ta. Lúc đó tuy họ cúng dường Tỳ-kheo ni, nhưng làm con trong gia đình giàu có nên lời ăn tiếng nói kiêu hãnh buông lung, lúc nào cũng trêu chọc Tỳ-kheo ni: “Những người theo đạo ở trong đó lâu ngày chắc cũng muốn có chồng, ngặt vì nhờ chúng tôi cúng dường kiểm soát, nên không dám phóng ý tư tình vậy thôi!” Nên nay họ phải thọ nhiều tai ương, tuy hàng ngày tán tụng kinh đạo nhưng vẫn bị phỉ bảng. Còn 500 đệ tử cùng chung sức, tương trợ cúng dường, đồng tâm hoan hỷ cho nên sinh ra gặp nhau hưởng quả như vậy. Khi đó, Kỳ-bà làm con gia đình nghèo thấy Nại-nữ cùng dường ý rất vui mừng, mà không có tiền tài nên giúp đỡ Tỳ-kheo ni bằng công việc quét dọn cho sạch sẽ, rồi phát thệ nguyện: “Nhờ công việc quét dọn này ta có thể quét trừ thân bệnh cho thiên hạ, quyết định như vậy.”
Nại-nữ thương Kỳ-bà nghèo khổ lại siêng năng cần cù nhận làm con. Mỗi lần những vị Tỳ-kheo ni có bệnh thường nhờ Kỳ-bà đón thầy thuốc về bổ thuốc. Và nói: “Đời sau ngươi và ta cả hai đều được phước.” Kỳ-bà đón thầy thuốc về trị, hễ trị là lành. Kỳ-bà thề rằng: “Ta nguyện đời sau làm đại y vương luôn trị tất cả thân bệnh tứ đại, hễ trị là hết”. Nhờ nhân duyên đời trước, nay Kỳ-bà làm con Nại-nữ được như bổn nguyện.
Nhà vua nghe Phật nói quì gối sám hối lỗi, đồng ý chờ ngày hôm sau. Sáng ngày, đức Phật cùng hàng Tỳ-kheo đến vườn Nại-nữ. Vì tất cả đức Phật thuyết bổn nguyện công đức. Ba nàng nghe kinh tâm khai ngộ cùng 500 đệ tử một lượt vui mừng đều đắc quả A-la-hán.
Phật bảo A-nan:
– Ông phải thọ trì vì tứ chúng thuyết kinh đừng để đoạn tuyệt. Tất cả chúng sinh thận trọn thân, khẩu, ý chớ sinh kiêu mạng phóng dật. Chỉ vì xưa kia Nại-nữ trêu chọc Tỳ-kheo ni nay bị phỉ báng là dâm nữ. Ông phải tu hành nghiệp thân, khẩu, ý thường phát thiện nguyện, nghe kinh tùy hỷ tin vui, thọ trì chớ sinh phỉ báng mà bị đọa vào địa ngục dư báo làm súc sanh. Trải qua trăm ngàn kiếp, sau được làm người nghèo cùng khốn khổ, không nghe được chánh pháp, sinh và nhà tà kiến, thường gặp vua ác, thân không đầy đủ. Ông phải tu hành thọ trì đọc tụng cho đến tận vị lai, mãi mãi bất tuyệt.