Quyển thứ mười
Phẩm Thứ Mười Tám : Tổng
II- Nương chư Phật trụ giữ
Các nguyện lực sạch trong
Thọ chức và Tam muội
Công đức và Thập địa
Sừng thỏ và hư không
Và cùng con Thạch nữ.
Phân biệt pháp như trên
Thì không mà nói tên (tự danh)
Nhân thế gian huân tập
Chẳng phải chỗ có, không.
“Năng kiến” được giải thoát
Giải được “pháp vô ngã”
Thật thể phân biệt tên
Tha thể từ nhân sinh.
Ta nói là thành tựu
Các kinh thường nói thế
Tự cú và danh thân…
Với thắng pháp danh thân
Người ngu si phân biệt
Như voi sa vào bùn
Thiên thừa và Phạm thừa
Và với Thanh Văn thừa
Như Lai và Duyên Giác
Ta nói như vậy thừa.
Các thừa chẳng thể hết
Có tâm như vậy sinh
Tâm chuyển diệt cũng không
Không thừa, không kẻ thừa.
Tâm phân biệt và thức
Ý và với ý thức
Tam hữu A lê gia
Tâm tư duy danh khác.
Mạng và với Noãn thức (noãn :ấm)
Mạng căn A lê gia.
Ý và với ý thức
Là tên khác phân biệt.
Tâm trụ giữ ở thân
Ý thường hiểu các pháp
Biết cảnh giới tự tâm
Chung với thức phân biệt.
Ta nói, ái là mẹ
Vô minh lấy làm cha
Nhận thức biết cảnh giới
Vậy nên gọi là Phật.
Các sử là oán gia
Mọi hòa hợp là ấm
Không ở thể nối nhau
Ðoạn đó gọi vô gián.
Hai vô ngã não phiền
Và hai thứ vô ngã
Biến hóa chẳng nghĩ bàn
Không sinh tử là Phật.
Ý tương ứng pháp thể
Pháp ta là nội thân
Nếu hay thấy như vậy
Ðó chẳng theo vọng giác (hiểu biết hư vọng).
Thật không ở các pháp
Như ngu si biệt phân
Nương hư vọng không pháp
Làm sao được giải thoát ?
Sinh diệt hòa hợp buộc
Thấy ở pháp hữu vi
Tăng trưởng ở hai kiến
Chẳng mất pháp nhân duyên.
Cây chuối, mộng và huyễn…
Như vậy là thế gian
Chỉ một pháp là thật
Niết Bàn lìa ý thức.
Có tham và cùng sân
Và có si vô nhân (không người (?))
Từ ái sinh các ấm
Ấm có cũng như mơ.
Những đêm nào chứng pháp ?
Những đêm nào Niết Bàn ? (Nhập diệt)
Khoảng giữa hai việc ấy
Ta chẳng nói một chữ.
Chứng đến pháp Nội thân
Ta y như vậy nói.
Phật kia và thân ta
Không có nói thắng pháp,
Vật thần ngã thật có
Năm ấm lìa tướng đó.
Ấm thể là thật có
Trong ấm đó vô ngã
Mỗi mỗi thấy phân biệt
Tùy phiền não và sử.
Ðược thế gian tự tâm
Lìa khổ được giải thoát
Các nhân và nhân duyên
Thế gian sinh như vậy
Là bốn pháp tương ưng
Ðó chẳng theo ta dạy
Pháp phi hữu vô sinh
Lìa hữu vô chẳng sinh
Kẻ ngu sao phân biệt
Từ nhân và các duyên ?
Lìa bốn câu có không (?)
Nếu hay thấy thế gian
Bấy giờ chuyển tâm thức
Ðược pháp vô ngã liền.
Các pháp vốn chẳng sinh
Vậy nên nhân duyên sinh.
Các duyên tức là quả
Trong quả sinh ra có.
Trong quả sinh hai thứ
Trong quả ứng có hai
Mà trong hai không quả
Trong quả chẳng thấy vật.
Lìa khỏi quán, khả quán
Nếu thấy pháp hữu vi
Lìa tâm chỉ là tâm
Nên ta nói duy tâm.
Lượng, thật thể, hình tướng
Lìa khỏi thật thể duyên
Cứu cánh Ðệ nhất tịnh
Ta nói lượng như vậy.
Như giả danh là ta
Không pháp thật được thấy
Như vậy ấm, ấm thể
Là phi thật, giả danh.
Bình đẳng có bốn thứ
Tướng, nhân và cả sinh
Vô ngã cũng bình đẳng
Bốn pháp người tu hành.
Chuyển tất cả các kiến
Phân biệt, khả phân biệt
Bất kiến và bất sinh
Nên ta nói duy tâm.
Không pháp cũng chẳng (phải) không (pháp)
Lìa khỏi thể có không.
Chân như lìa khỏi tâm
Nên ta nói duy tâm
Chân như, Không, thật tế
Pháp giới và Niết Bàn
Ý sinh thân và tâm
Nên ta nói duy tâm.
Phân biệt nương huân tập
Ðủ thứ sinh đủ thú
Tâm chúng sinh thấy ngoài
Nên ta nói duy tâm.
Khả kiến không vật ngoài
Thấy tâm thấy đủ thứ
Của nuôi thân trụ giữ
Nên ta nói duy tâm.
Tất cả Bích Chi Phật
Không hòa hợp mà sinh
Không các sắc tướng ngoại
Tự tâm thấy ngoại pháp.
Giác biết ở tự tâm
Ngu phân biệt hữu vi
Người ngu chẳng biết ngoài
Tự tâm thấy đủ thứ.
Ví như ngăn người ngu
Bốn thứ pháp chấp trước
Không nhân, không phân biệt
Ví dụ năm thứ luận.
Tự tâm thể hình tướng
Giỏi biết là tuệ thông
Nương phân biệt, khả biệt
Phân biệt đến hiện sinh.
Mỗi một riêng hòa hợp
Là một chủng tử nhân
Mượn hai pháp là hai
Nên tâm người chẳng sinh.
Phân biệt tâm, tâm pháp
Hai(ba?) cõi trụ ở trong
Hiện sinh ở các pháp
Thể kia là hư vọng.
Nhân nương hiện hợp hòa
Nên có mười hai nhập
Nương nhân quán hợp hòa
Ta chẳng nói là pháp.
Như thấy tượng trong gương
Mắt mờ thấy vừng lông
Lòng người ngu thấy vậy
Là nương huân tập tâm.
Chung phân biệt khả biệt
Mà sinh ra phân biệt
Như ngoại đạo biệt phân
Không ngoại tướng như vậy.
Người chẳng nhận ra dây
Mà cho là con rắn
Chẳng biết nghĩa tự tâm
Phân biệt ở ngoại pháp.
Mà Thừa với thừa thể
Lìa khỏi một trong hai
Mà phân biệt ở thừa
Là tội lỗi tự tâm
Nương pháp nào ? Thế nào ?
Phân biệt chẳng thể thấy
Chẳng được nói, đó không
Các pháp thể như vậy.
Y có nên nói không
Y không nên nói có
Nên chẳng được nói không
Cũng chẳng được nói có,
Tức phân biệt biệt phân
Ðây chẳng phải pháp thể
Làm sao thấy vô thể
Mà phân biết sinh ra ?
Sắc thể không sắc thân
Như bình và vải trắng…
Khả kiến là pháp không
Làm sao có phân biệt ?
Nếu phân biệt là mê
Pháp hữu vi vô thỉ (thì)
Pháp nào mê chúng sinh
Mâu Ni (tịch mặc) là ta nói.
Các pháp, pháp thể không
Mà nói chỉ là tâm
Ở tự tâm chẳng thấy
Mà phân biệt khởi lên.
Nếu phân biệt là không
Như ngu si phân biệt
Pháp đó, thể khác không
Mà trí chẳng thể giác.
Nếu Thánh có pháp kia
Chẳng phải phàm (phu) phân biệt
Nếu Thánh vọng có kia (pháp kia)
Thánh, ngu si không biệt (không phân biệt) .
Thánh nhân không mê hoặc
Do được lòng sạch trong
Người ngu không tín tâm
Nên phân biệt phân biệt.
Như mẹ vì các con
Hư không đem quả đến
“Con lấy quả chớ khóc !”
(Ðứa) Trẻ lấy đủ thứ quả (trái cây).
Ta đối với chúng sinh
Phân biệt đủ thứ quả (quả chứng)
Vì họ nói đủ thứ
Khiến lìa nhóm có, không.
Nếu vốn không pháp thể
Phi nhân, phi tùng nhân
Vốn chẳng sinh, thỉ sinh (bắt đầu cuộc sống) Cũng không thân thể ấy.
Không thân cũng phi sinh
Lìa nhân duyên không chỗ
Sinh diệt các pháp thể
Lìa nhân duyên chỗ không.
Lược quan sát như vậy
Phi xứ khác có không
Từ nhân duyên sinh pháp
Người trí chớ biệt phân.
Thấy một thể, hai thể
Ngoại đạo ngu si nói
Thế gian như huyễn, mộng
Chẳng từ nhân duyên sinh.
Nương cảnh giới ngôn ngữ
Pháp Vô Thượng Ðại Thừa,
Ta y Liễu nghĩa nói
Mà ngu si chẳng hiểu.
Ngoại đạo và Thanh Văn
Nương tật đố nói pháp
Với nghĩa chẳng tương ưng
Do nương vọng giác (hiểu biết hư vọng) nói.
Thể tướng và tướng hình
Gọi là bốn thứ pháp
Quán pháp như vậy nên
Sinh ra sự phân biệt.
Phân biệt một, hai… nhiều
Kia tùy phạm thiên buộc
Nhật, nguyệt và chư thiên
Là thấy phi ngã tử (chẳng phải con của ta).
Thánh nhân thấy pháp chân (chánh)
Do tu hành như thật
Hay chuyển tướng hư vọng
Cũng lìa khỏi khứ lai (đi, lại).
Ðây là ấn giải thoát
Ta dạy các con Phật
Lìa khỏi pháp có không
Cũng lìa tướng đi, lại.
Chuyển đủ thứ sắc thức
Tất cả nghiệp nếu diệt
Chẳng nên thường, vô thường
Không pháp sinh thế gian.
Vào lúc chuyển nên diệt
Sắc lìa khỏi chỗ kia
Lìa khỏi không lầm lỗi
Nghiệp trụ A lê gia.
Sắc là diệt thể tướng
Hữu trong thức cũng vậy
Sắc thức hòa hợp chung
Mà chẳng mất các nghiệp.
Nếu đó chung hòa hợp
Mất các nghiệp chúng sinh
Nếu diệt nghiệp hòa hợp
Không buộc, không Niết Bàn.
Nếu chúng với đó diệt
Sinh ra trong thế gian.
Sắc cũng chung hòa hợp
Không sai biệt nên có
Có riêng cũng không riêng
Chỉ là tâm phân biệt.
Các pháp thể không diệt
Lìa bè đảng có, không
Pháp giả danh nhân duyên
Ðắp đổi không sai biệt.
Như trong sắc vô thường
Ðắp đổi sinh các pháp
Lìa khỏi tướng đây, đó
Phân biệt biết chẳng thể.
Không có, có sao thành ?
Như trong sắc vô thường
Nếu giỏi thấy phân biệt
Tha lực chẳng khởi lên.
Là ở pháp tha lực
Cũng chẳng khởi phân biệt
Phân biệt nếu diệt thì
Tức là diệt ngã pháp.
Tạo tác trong pháp ta
Cũng bài báng hữu, vô (có không)
Là những người báng pháp
Có ở trong lúc nào ?
Là diệt pháp luân ta
Chẳng được chung lời đó
Kẻ trí chẳng chung lời
Chẳng chung Tỳkheo pháp.
Ðã diệt phân biệt rồi
Lìa có, không vọng kiến
Thấy như huyễn, mao luân
Như mộng, Càn thát bà
Cũng thấy như ngọn lửa…
Thì thấy với có, không.
Người đó chẳng hiểu Phật
Nếu người nhiếp điều đó
Người đó rơi nhị biên
Cũng hoại đến người khác.
Nếu biết tịch tịnh pháp
Là người thật tu hành.
Lìa khỏi pháp có, không
Nên nhiếp lấy người đó
Như có chỗ cho ra
Vàng bạc các trân bảo
Không nghiệp làm đủ thứ
Mà chúng sinh thọ dùng.
Tính chân như chúng sinh
Chẳng do ở nghiệp có
Chẳng thấy nên nghiệp không (có).
Cũng phi tác nghiệp sinh.
Các pháp không pháp thể
Như Thánh nhân biệt phân
Mà có ở các pháp
Như ngu si phân biệt.
Nếu pháp không như vậy
Như ngu si phân biệt
Thì không có mọi háp
Chúng sinh cũng không nhiễm.
Các pháp nương tâm có
Phiền não cũng như thế
Sinh tử các thế gian
Tùy theo các căn chuyển.
Hòa hợp ái, vô minh
Mà sinh ra các thân
Người khác hằng không pháp
Như ngu si phân biệt
Nếu người, pháp chẳng sinh
Hành giả chẳng thấy căn
Nếu các pháp là không
Hay tác nhân thế gian
Người ngu lìa khỏi tác
Tự nhiên nên giải thoát
Ngu, Thánh không sai biệt
Có, không làm sao thành ?
Thánh nhân không pháp thể
Do tu ba giải thoát
Năm ấm và pháp nhân (pháp người).
Có đồng, có dị tướng.
Các nhân duyên và căn
Ta vì Thanh Văn nói
Không nhân chỉ ở tâm
Diệu sự và các địa,
Chân như tịnh nội thân
Vì các Phật tử nói.
Ðời vị lai có người
Bài báng pháp luân ta
Thân mặc áo cà sa
Nói có, không các pháp.
Không pháp nhân duyên có
Là cảnh giới Thánh nhân,
Phân biệt không pháp thể
(Là) Kẻ vọng giác biệt phân.
Ðời vị lai có kẻ
Ăn trấu, loại ngu si
Không nhân mà tà kiến
Phá hoại người thế gian.
Ra đời từ vi trần
Mà vi trần không nhân
Chín thứ vật là thường
Tà kiến nói như vậy.
Từ vật sinh ra vật
Công đức sinh công đức
Pháp này khác với pháp
Phân biệt là thể đó.
Nếu vốn vô thỉ sinh
Thế gian nên có gốc
Ta nói, ở thế gian
Không có được bản tế.
Ba cõi, các chúng sinh
Là vốn vô thỉ sinh
Chó, (lạc) đà, lừa không sừng
Ắt nên sinh không nghi.
Mắt vốn vô thỉ có
Sắc và thức cũng thế
Chiếu, mũ, vải vân… vân…
Trong bùn nên sinh ra.
Ở trong vải không bình (cái bình)
Trong cỏ bồ không vải
Một ở trong một thật
Vì sao nhân chẳng sinh ?
Là mạng tức là thân
Là vốn vô thỉ sinh
Pháp này người khác nói
Ta nói các pháp khác.
Ta thấu (hiểu) pháp nhân duyên
Nhiên hậu ngăn tha pháp (pháp người khác)
Ngăn người tà kiến kia
Sau nói đến tự pháp.
Lĩnh hội, ngoại đạo pháp
Nhiên hậu nói chánh pháp
Sợ đệ tử mê lầm
Lập ra pháp có, không.
Từ Thắng nhân xuất thế
Ca – Tỳ – La ác ý (?)
Vì đệ tử nói lên
Những công đức chuyển biến.
Phi thật, phi bất thật
Phi tùng duyên tức duyên
Do không các nhân duyên
Chẳng sinh pháp không thật.
Lìa khỏi pháp có không
Lìa nhân cũng lìa duyên
Lìa khỏi pháp sinh diệt
Tự pháp lìa khả kiến.
Thế gian như huyễn, mộng
Lìa các pháp nhân duyên
Lập nhân duyên thì thấy
Vậy nên phân biệt sinh.
Như cầm thú thích nước
Càn thát bà, mao luân
Lìa khỏi hữu vô pháp
Lìa nhân và lìa duyên.
Thấy ba Hữu không nhân
Như vậy tâm tịnh thấy
Những ai vô sự ấy
Chỉ có ở nội tâm.
Xa lìa khỏi tâm sự
Chẳng được nói duy tâm.
Nếu quan sát ngoại sự
Chúng sinh khởi ở tâm
Làm sao tâm không nhàn ?
Chẳng được nói duy tâm !
Chân như chỉ tâm có
Người nào pháp thánh không
Có và chẳng phải có
Ðó chẳng giải pháp ta.
Pháp năng thủ, khả thủ
Nếu tâm sinh như vậy thế
Ðây là tâm thế gian
Chẳng nên nói duy tâm.
Của nuôi thân trụ giữ
Nếu như trong mộng sinh
Nên có hai thứ tâm
Mà tâm không hai tướng !
Như dao chẳng tự cắt
Ngón tay chẳng tự chỉ
Như tâm chẳng tự thấy
Việc ấy cũng như vậy.
Phi tha, phi nhân duyên (chẳng phải người khác…)
Phân biệt việc phân biệt
Năm pháp và nhị tâm
Tịch tịnh không như vậy
Năng sinh và với sinh
Và hai thứ pháp tướng
Ý ta không năng sinh
Nói pháp không tự tướng.
Ðủ thứ thể tướng hình
Nếu sinh ra phân biệt
Sừng thỏ và hư không…
Thể đó không nên sinh.
Nếu có các pháp tướng
Nên có việc bên ngoài
Do không phân biệt ngoài
Lìa tâm lại không pháp.
Ở vô thỉ thế gian
Các pháp ngoài không có
Do tâm không sinh nhân
Mà thấy ở ngoại nghĩa.
Nếu sinh trưởng không nhân
(Thì) Sừng thỏ cũng nên sinh
Do không nhân tăng trưởng
Làm sao phân biệt sinh ?
Như hiện tại không pháp
Như vậy trước cũng không
Không thể thể hòa hợp (thể :hình thể)
Sao tâm có thể sinh ?
Chân như, Không, Thật tế
Pháp giới và Niết Bàn
Tất cả các pháp sinh
Là pháp Ðệ Nhất Nghĩa.
Phàm phu rơi có, không
Nhân và duyên phân biệt
Không nhân vốn chẳng sinh
Chẳng biết ở ba Hữu.
Lòng thấy ở khả kiến
Nhân vô thỉ dị kiến (thấy khác)
Vô thỉ pháp cũng không
Làm sao thấy sinh khác ?
Nếu không vật năng sinh
Người nghèo nên nhiều của
Làm sao sinh vật không ?
(Xin đấng) Mâu Ni vì con nói !
Ðây, tất cả không tâm
Mà chẳng không các pháp
Mộng, huyễn, Càn thát bà
Các pháp không nhân (mà) có.
Không thể tướng, không sinh
Không pháp (xin) vì con nói !
Pháp hòa hợp lìa khỏi
Là chẳng thấy các pháp.
Bấy giờ không vô sinh
Ta nói, không pháp tướng
Mộng, huyễn và mao luân
Càn thát bà, thích nước…
Không nhân mà thấy có
Cũng vậy pháp thế gian.
Như vậy hòa hợp một
Lìa khỏi khả kiến không
Chẳng phải ngoại đạo thấy
Hòa hợp không như vậy.
Hàng phục nương không nhân
Thành tựu với vô sinh
Nếu hay thành vô sinh
(Thì) Pháp luân ta chẳng diệt.
Nói đến tướng vô nhân
Ngoại đạo sinh kinh sợ
Làm sao ? Vì người nào ?
Các pháp đến từ đâu ?
Chỗ nào sinh ra pháp ?
Không nhân mà sinh pháp.
Sinh ở trong vô nhân
Mà không ở hai nhân
Nếu kẻ năng trí thấy
Bấy giờ, chuyển tà kiến.
Nói sinh tất cả pháp
Không sinh là không vật
Vì quán các nhân duyên
Bấy giờ chuyển tà kiến.
Vì có pháp có tên
Vì không pháp không tên
Mà không pháp chẳng sinh
Cũng chẳng (phải) đợi nhân duyên.
Gọi phi y ở pháp
Mà gọi phi vô thể
Phi cảnh giới Thanh Văn
Bích Chi Phật, ngoại đạo.
Bồ tát trụ Thất địa
Ðó là tướng vô sinh
Chuyển ở nhân duyên pháp
Nên năng nghĩa của nhân.
Chỉ nói y ở tâm
Nên ta nói vô sinh
Không nhân sinh các pháp
Lìa phân biệt phân biệt
Lìa lập ở có, không
Nên ta nói vô sinh.
Tâm lìa khỏi khả kiến
Cũng lìa khỏi nhị thể
Chuyển ở pháp y chỉ
Nên ta nói vô sinh.
Chẳng mất ngoại pháp thể
Cũng chẳng thủ nội tâm
Lìa tất cả tà kiến
Ðây là tướng vô sinh.
Như vậy không, vô tướng
Tất cả nên xét xem
Phi sinh không, không pháp
Vốn chẳng sinh là không.
Các nhân duyên hòa hợp
Diệt và cùng với sinh
Lìa khỏi pháp hòa hợp
Chẳng diệt cũng chẳng sinh.
Nếu lìa pháp hòa hợp
Lại pháp thể thật không
Nhất thể và dị thể
Như ngoại đạo biệt phân
Có, không chẳng sinh pháp
Phi thật sinh chẳng sinh.
Các nhân duyên lìa khỏi
Sinh và cùng chẳng sinh
Chỉ là ở danh tự
Ðó đây chung xích xiềng.
Thể khả sinh rốt không
Khóa nhân duyên sai biệt
Lìa khả sinh, vô sinh
Là lìa các ngoại đạo.
Ta nói, chỉ là khóa
Mà phàm phu chẳng thông
Mà pháp thể khả sinh
Lìa khóa lại không biệt.
Người đó nói không nhân
Phá diệt hoại các khóa
Rõ các vật như đèn
Khóa cũng nên tỏ rõ.
Biệt pháp nếu lại có
Lìa khỏi thể xích xiềng (câu móc)
Cũng chẳng sinh vô thể
Tự tính như hư không.
Lìa khỏi pháp câu móc
Ngu si phân biệt khác
Ðây là dị bất sinh
Pháp sở đắc Thánh nhân.
Pháp đó sinh chẳng sinh
Chẳng sinh là vô sinh
Nếu thấy các thế gian
Tức là nhờ câu móc
Ai câu móc thế gian ?
Bấy giờ tâm được định.
Ái nghiệp và vô minh…
Là nội pháp câu móc
Tràng, viên bùn và luân…
Bốn đại là ngoại pháp.
Nương vào pháp thể khác
Là từ nhân duyên sinh
Chẳng chỉ thể câu móc
Chẳng trụ lượng A hàm.
Nếu pháp khả sinh không
Pháp trí nào là nhân
Pháp đó chung nhau sinh
Chẳng phải là nhân duyên.
Nóng, ẩm, động và cứng
Ngu si phân biệt pháp
Câu móc này không pháp
Vậy nên thể tướng không
Như thầy thuốc nương bệnh
Nói phép trị sai biệt
Mà luận không sai biệt
Nương bệnh nên sai biệt.
Ta nương thân chúng sinh
Mà nói bẩn phiền não
Biết các lực và căn
Ta vì người ngu nói.
Sai biệt phiền não, căn
Ta dạy không sai biệt
Ta có thừa duy nhất
Tám Thánh đạo thanh lương.
Bình, vải, mũ và sừng…
Sừng thỏ không là nhân
Không nhân nương đó sinh
Mà không nhân pháp đó
Mà pháp đó là không
Ông chẳng được thủ không !
Nương có nhân nên không
Nương không chẳng tương ứng
Pháp có đối với không
Là pháp chung đối đãi.
Ít pháp có nếu nương
Thì thấy ít có pháp
Không nhân thấy ít pháp
Ít pháp là không nhân.
Nếu đi nương pháp khác
Thì đó, đây thấy chung
Như vậy lỗi vô cùng
Ít cũng không ít thể.
Nương sắc, cây vân… vân…
Như huyễn, pháp khả kiến
Như vậy việc nương dừng (y chỉ)
Người thấy có đủ thứ.
Huyễn sư chẳng phải sắc…
Cũng chẳng phải đá, cây
Ngu si thấy như huyễn
Y chỉ vào huyễn thân.
Y chỉ vào sự thật
Nếu thấy ở việc ít
Khi thấy pháp không hai
Thì sao thấy việc ít ?
Phân biệt, không phân biệt
Mà chẳng (phải) không phân biệt
Nếu phân biệt không pháp
Không buộc, không giải thoát
Do phân biệt không pháp
Nên phân biết chẳng sinh
Nếu chẳng sinh phân biệt
Chẳng được nói duy tâm !
Ðủ thứ tâm sai biệt
Trong pháp, pháp không thật
Do pháp không thật nên
Không giải thoát thế gian
Không vật ngoài khả kiến
Vọng phân biệt ngu đần
Như bóng gương lòng hiện
Huân tập nhân mê lòng.
Chẳng sinh tất cả pháp
Phi hữu tợ hữu sinh
Tất cả đây chỉ lòng
Lìa khỏi các phân biệt.
Nói các pháp từ nhân
Là người ngu, phi trí
Thật thể lìa khỏi tâm
Tâm Thánh nhân thì tịnh.
Tăng Khư tỳ thế sư
Lõa hình Bà la môn
Và cả trời Tự Tại
Theo tà kiến, không chân(thật).
Không sinh cũng không thể
Không bẩn như huyễn không
Chư Phật vì đâu nói ?
Ðức Phật nói vì ai ?
(Vì) Người tu hành thanh tịnh
Lìa giác quán tà kiến.
Chư Phật nói pháp chân
Ta nói cũng như vậy.
Nếu tất cả duy tâm
Chỗ nào thế gian trụ ?
Pháp nào khứ, lai nương ?
Làm sao thấy trong địa ?
Như chim trong hư không
Bay đi nương theo gió
Chẳng trụ, chẳng xét xem
Mà đi ở trên đất.
Như vậy các chúng sinh
Nương phân biệt gió động
Ði, lại trong lòng mình
Như chim bay trong không
Thấy của cải nuôi thân
Phật nói tâm như vậy
Làm sao thấy hiện nhân ?
Duy tâm vì con nói !
Trụ giữ thân tư sinh (của cải nuôi thân)
Hiện thấy nương huân (tập) sinh
Không tu hành là sinh
Hiện thấy sinh phân biệt.
Phân biệt thể cảnh giới
Lòng nương cảnh giới sinh
Biết đến tâm khả kiến
Phân biệt chẳng lại sinh.
Nếu hay thấy phân biệt
Thì lìa giác, sở giác
Danh chẳng tương hợp danh
Là nói hữu vi pháp.
Ðây chỉ là Khả giác
Danh chẳng tướng ly danh
Trụ, khả tri lìa khỏi
Là nói pháp hữu vi.
Ðây chỉ là khả giác
Danh trong danh chẳng lìa
Nếu người giác tri khác
Chẳng tự giác, tha giác.
Pháp bản thật năm pháp
Và với tám thứ thức
Hai thứ pháp vô ngã
Nhiếp lấy đến Ðại thừa.
Nếu thấy tri, khả tri
Tịch tịnh thấy thế gian
Danh trong danh phân biệt
Bấy giờ chẳng lại sinh.
Tạo danh tự phân biệt
Thấy đó chẳng lại sinh
Chẳng thấy ở tâm mình
Vậy nên sinh phân biệt.
Các tướng bốn ấm không
Ðó thì không tính pháp
Làm sao sắc nhiều thứ ?
Bốn đại khác tướng khác
Xả bỏ các tướng pháp
Không các đại và đại.
Nếu có sắc tướng khác
Làm sao ấm chẳng sinh ?
Nếu thấy tướng như vậy
Chẳng thấy các ấm, nhập
Nương cảnh, căn và thức
Nên sinh tám thứ thức.
Nương tướng có ba thứ
Tịch tịnh không như vậy
A lê gia, ý, ngã
Ngã sở và cả trí.
Nhân thủ lấy hai pháp
Biết pháp đó tức diệt
Lìa khỏi pháp đó, đây
Nếu thấy chẳng lìa nhau
Thế gian chỉ tâm phân (biệt)
(Xin) Thế Tôn vì con nói !
Chẳng lại phân biệt hai
Ngã và cả ngã sở
Chẳng tăng trưởng phân biệt
Cũng không ý thức nhân
Lìa khỏi nhân và duyên
Phi vật cũng phi sinh
Phân biệt chỉ là tâm
(Xin) Thế Tôn vì con nói !
– Lìa khỏi các nhân duyên
Lìa năng kiến, khả kiến
Thấy đủ thứ tự tâm
Khả kiến vọng phân biệt.
Chẳng biết thấy tự tâm
Chẳng giác nghĩa tâm khác
Không thấy tà kiến thành
Nếu ở trí chẳng thấy
Kia vì sao chẳng có
Tâm người đó thủ có
Phân biệt phi hữu vô (chẳng phải có, không)
Nên chẳng sinh tâm có
Chẳng biết thấy chỉ tâm
Vậy nên sinh phân biệt.
Không phân biệt phân biệt
Là diệt xong vô nhân
Ngăn bốn thứ bè đảng
Nếu các pháp có nhân.
Ðây khác tướng danh tự
Người đó làm chẳng thành
Ðó nên khác tự sinh
Chẳng vậy nên nhân sinh.
Nhân duyên nên hòa hợp
Do ngăn nhân sinh pháp
Ta ngăn chận lỗi thường
Nếu các duyên vô thường.
Là chẳng sinh chẳng diệt
Ngu si thấy vô thường
Diệt tướng pháp không pháp
Chẳng thấy tạo tác nhân
Nên vô thường sinh có
Làm sao người chẳng nhìn (thấy) ?
Ta nhiếp lấy chúng sinh
Nương trì giới hàng phục
Tà kiến, trí tuệ diệt
Nương giải thoát lớn thêm.
Tất cả các thế tục
Ngoại đạo nói vọng ngôn
Nương nhân quả tà kiến
Chẳng thể lập pháp mình (tự pháp).
Chỉ thành pháp tự lập
Lìa khỏi quả nhân duyên
Nói các chúng đệ tử
Lìa tục pháp thế gian.
Chỉ tâm khả kiến không
Tâm thấy ở hai thứ
Lìa khả thủ, năng thủ
Cũng lìa khỏi đoạn thường.
Chỉ có tâm chuyển động
Ðều là pháp thế gian (tục)
Chẳng lại khởi sinh chuyển
Thấy đời là tự tâm.
Ðến thì là việc sinh
Ði thì là việc diệt
Biết đi đi, đến như thật
Phân biệt chẳng lại sinh.
Thường, vô thường và tác
Ðó, đây cũng chẳng làm
Như vậy.. thì tất cả
Ðều là pháp thế gian (tục).
Trời, người, A tu la
Súc sinh, quỉ, dạ ma
Chúng sinh bỏ chỗ đó
Ta nói đến sáu đường.
Nghiệp nhân thượng, trung, hạ.
Chỗ đó hay sinh vào
Các thiện pháp giỏi hộ
Ðược giải thoát thắng xứ.
– Phật nói niệm niệm sinh
Sinh tử và cả thoái
Vì chúng Tỳkheo nói
Ý nào vì con nói ?
Tâm chẳng đến thứ hai(đến lần thứ hai)
Ðã diệt chẳng tiếp nối
Ta vì đệ tử nói
Niệm đắp đổi diệt, sinh
Sắc sắc phân biệt có
Sinh và diệt liền xong.
Phân biệt tức là người
Lìa phân biệt không người
Ta nói lên niệm pháp
Y lời ta rốt cùng.
Lìa khỏi thủ sắc tướng
Chẳng diệt cũng chẳng sinh
Nhân duyên từ duyên sinh
Vô minh và chân như…
Nương vào hai pháp sinh
Chân như không là thể
Nhân duyên từ duyên sinh
Nếu vậy không pháp khác.
Từ Thường mà quả sinh
Quả tức là nhân duyên
Không khác với ngoại đạo
Nhân quả chung nhau xen.
Phật và chư Phật nói
Ðại Mâu Ni vô dị (không khác).
Trong thân một tầm này
Khổ đế và Tập đế
Diệt đế và Ðạo đế
Ta vì các đệ tử
Lấy ba là thật thì
Thủ, khả thủ tà kiến.
Pháp xuất thế, thế gian
Người phàm phu phân biệt
Ta lĩnh hội pháp khác
Vậy nên nói ba pháp.
Vì ngăn tà kiến kia
Chớ phân biệt thật thể
Nói lỗi không định pháp
Cũng lại không tâm sinh.
Thật cũng chẳng hai thủ (lấy)
Chân như không hai thứ
Ái nghiệp và vô minh
Cùng thức… từ tà sinh.
Vô cùng lỗi chẳng tác
Các pháp bốn thứ diệt
Lời nói kẻ vô trí.
Phân biệt hai thứ sinh
Có vật, không có vật
Lìa khỏi bốn thứ pháp
Cũng lìa bốn thứ thấy.
Hai thứ sinh phân biệt
Thấy thì lại chẳng sinh
Các pháp vốn chẳng sinh
Khởi lên trí sai biệt.
Hiện sinh ở các pháp
Bình đẳng không phân biệt
Nguyện xin đấng Mâu Ni
Vì con và tất cả
Nói như Pháp tương ưng
Lìa hai thứ, hai kiến (thấy) !
– Ta lìa khỏi tà kiến
Và các Bồ tát khác
Thường chẳng thấy có, không
Do chẳng thấy pháp đó
Lìa hòa tạp ngoại đạo
Lìa Duyên Giác, Thanh Văn.
Phật chứng pháp các thánh
Vì ta nói chẳng mất
Ðiên đảo nhân không nhân
Không sinh và tất cả
Tên khác những hoặc mê
Kẻ trí đã xa lìa.
Ví như mây, mưa, lầu
Cung, các và cầu vồng
Ngọn lửa, vừng lông, huyễn
Có, không từ tâm sinh.
Các ngoại đạo phân biệt
Thế gian từ nhân sinh
Chẳng sinh Chân như pháp
Và cùng thật tế không…
Là tên các pháp khác
Chớ phân biệt không vật
Ở trên sắc đủ thứ
Chớ phân biệt không pháp.
Như móng, tay, thế gian
Tự tại, năng, phá vật
Như vậy tất cả pháp
Chớ phân biệt không pháp.
Lìa sắc, không chẳng khác
Cũng không sinh pháp thể
Chớ phân biệt không khác
Phân biệt trước tà kiến.
Phân biệt khả phân biệt
Nhiếp lấy ở các việc
Dài ngắn và vuông tròn…
Là nhiếp tướng phân biệt
Phân biệt là pháp tâm
Khả phân biệt là ý
Nếu hay như pháp biết
Lìa năng tướng, khả tướng.
Ngoại đạo nói chẳng sinh
Và thủ ở ngã, pháp
Phân biệt tướng như vậy
Hai kiến này không sai.
Ý gì nói như vậy ?
Nếu hay biết như vậy
Người đó vào với lường (?)
Hay giải pháp ta nói.
Nhân thấy là đắm chìm
Không sinh là chẳng nương
Biết hai thứ nghĩa đó
Nên ta nói vô sinh.
– Các pháp không có sinh
Mâu Ni vì con nói !
– Không nhân chẳng tương đương
Không có pháp có xen (lẫn)
Không nhân cũng không sinh
Nhân khác kiến ngoại đạo.
Lìa có, không không pháp
Vậy nên nói duy tâm
Sinh và với chẳng sinh
Lìa pháp là tà kiến.
Nói không, nhân không sinh
Nói có là chấp nhân
Tự nhiên không tác giả
Tác giả là tà kiến.
– Phương tiện và các nguyền…
Là thấy vì con nói !
Nếu các pháp là không
Làm sao sanh tam thế (ba đời) ?
Lìa khả thủ, năng thủ
Chẳng diệt cũng chẳng sinh
Từ vật thấy vật khác
Nương pháp đó sinh tâm.
Các pháp chẳng sinh hóa
Làm sao nói vì con ?
– Thật có mà chẳng biết
Vậy nên ta nói pháp !
– Mâu Ni trong các pháp
Trước sau tự trói nhau
Lìa lỗi các ngoại đạo
Lìa khỏi nhân điên đảo
Sinh và cùng chẳng sinh
Ðại sư vì con nói !
– Lìa có và với không
Chẳng mất đi nhân quả
Ðịa và theo thứ đệ
Vì nói một tướng không.
Thế gian rơi nhị biên
Vì các kiến mê hoặc
Không sinh ra vô sinh
Chẳng biết nhân tịch diệt.
Ta không tam thế pháp (pháp ba đời).
Ta cũng chẳng nói pháp
Có hai thì có lỗi
Chư Phật tịnh cả hai.
Các pháp, không, sát na
Không sinh cũng không thể
Nói tà pháp che tâm
Phân biệt phi Như Lai.
– Sinh và cùng chẳng sinh
Nguyện xin vì con nói !
Làm sao ? Những pháp gì ?
Lìa khỏi sinh cảnh giới ?
– Sắc đầy đủ hòa hợp
Từ ở hí luận tập (gom)
Tụ ở sắc tướng ngoài
Từ phân biệt mà sinh
Biết đến pháp đó thì
Như vậy giải nghĩa thật.
Thuận theo tính Thánh nhân
Mà tâm chẳng lại sinh
Lìa khỏi tất cả Ðại
Pháp sinh chẳng tương ưng.
Tâm hư vọng quán Ðại (quan sát các đại).
Quán vô sinh như vậy
Chớ phân biệt khả biệt (cái được phân biệt).
Kẻ trí chẳng phân biệt.
Phân biệt với phân biệt
Cả hai không Niết Bàn
Lập ở pháp vô sinh
Như huyễn chẳng thấy pháp.
Từ nhân của huyễn… sinh
Ðã lập các pháp phá
Thấy tâm như bóng gương(cảnh tượng).
Nhân vô thỉ huân tập.
Tợ nghĩa mà vô nghĩa
Quán các pháp cũng vậy
Như sắc tượng trong gương
Tướng một, hai lìa khỏi.
Khả kiến không phi không (chẳng phải không có)
Các tướng cũng như vậy
Huyễn, Càn thát bà thành…
Nương vào nhân duyên quán (quan sát).
Như vậy các pháp thể
Pháp sinh, phi bất sinh,
Phân biệt tựa như người
Hai thứ tướng mà hiện.
Nói ngã và với pháp
Mà người ngu chẳng biết
Trái nhau và không nhân
Thanh Văn các La hán
Tự thành và Phật lực
Là năm thứ Thanh Văn.
Nhiếp lấy và với diệt
Ðệ nhất lìa đệ nhất
Là bốn thứ vô thường
Ngu, vô trí phân biệt.
Ngu si rơi nhị biên
Công đức và vi trần
Chẳng biết nhân giải thoát
Do chấp pháp có không.
Ví như người ngu dại
Cho ngón tay là trăng
Như vậy ưa danh tự
Chẳng biết thật pháp (của) ta.
Các Ðại đều khác tướng
Thể tướng vô sắc sinh
Mà các Ðại hòa hợp
Không Ðại, không nương Ðại.
Các sắc lửa đốt cháy
Nước làm các vật tan (rữa)
Gió lay động các sắc
Làm sao tướng Ðại sinh ?
Sắc ấm và với thức
Là pháp hai không năm (?)
Là tên khác các ấm
Ta nói như Ðế Thích.
Tâm, tâm số sai biệt
Hiện chuyển các pháp sinh
Bốn Ðại đó, đây biệt (riêng biệt)
Sắc, tâm chẳng theo nương.
Nương vào xanh… có trắng
Nương vào trắng có xanh…
Nương nhân, quả khả sinh
Không, hữu và với không (có).
Năng tác, khả tác làm
Lạnh nóng thấy bằng thấy (kiến đẳng kiến)
Tất cả những như vậy
Vọng giác chẳng thể thành.
Tâm, ý và còn sáu
Các thức hòa hợp chung
Lìa khỏi một thể khác
Sinh tử hư vọng sinh.
Tăng Khư Tỳ thế sư
Lõa hình, trời Tự tại
Rơi bè đảng có, không
Lìa khỏi nghĩa tịch tịnh.
Hình tướng mạo thắng sinh
Bốn Ðại sinh phi trần (chẳng phải bụi)
Là ngoại đạo nói sinh
Bốn Ðại và bốn trần.
Còn thì không chỗ sinh
Ngoại đạo phân biệt nhân
Ngu si mà chẳng giác.
Do nương đảng có, không (bè đảng có không).
Sinh chung tâm tương ứng
Tử chẳng chung tương ứng
Pháp thật tướng sạch trong
Chung trí tương ứng trụ.
Nghiệp cùng với sắc tướng
Năm ấm cảnh giới nhân
Chúng sinh không nhân thể
Cõi Vô sắc chẳng trụ.
Phật nói pháp vô ngã
Vô sắc đồng ngoại đạo.
Nói vô ngã là đoạn
Thức cũng chẳng nên sinh.
Tâm có bốn thứ trụ
Vô sắc làm sao trụ ?
Các pháp tướng ngoài, trong
Mà thức chẳng thể hành.
Vọng giác thì kể có
Trung ấm có năm ấm
Như vậy vô sắc sinh
Có mà là vô sắc.
Tự nhiên nên giải thoát
Không chúng sinh và thức
Là ngoại đạo không nghi
Vọng giác chẳng thể biết.
Nếu đó ở vô sắc
Vậy nên thấy vô sắc
Ðó không chẳng (phi) lập pháp.
Phi thừa và vô thừa
Thức từ chủng tử sinh
Chung các căn hòa hợp
Tám thứ sắc một phần
Vào lúc niệm chẳng thủ (lấy).
Sắc chẳng trụ thời gian
Căn chẳng chung căn trụ
Vậy nên Như Lai nói
Các căn niệm chẳng trụ.
Nếu chẳng thấy sắc thể
Thức làm sao phân biệt ?
Nếu trí chẳng sinh thì
Làm sao sinh thế gian ?
Tức khi sinh liền diệt
Phật chẳng nói như vậy.
Nhất thời cũng chẳng nghĩ (niệm)
Hư vọng phân biệt lấy (thủ)
Cảnh giới và các căn
Ngu si chẳng phải (kẻ) trí.
Người ngu nghe danh thủ (lấy)
Biết như thật (là) Thánh nhân
Thứ sáu (?) không y chỉ
Do không nhân khả thủ.
Chẳng khéo biết đến ngã
Lìa khỏi lỗi pháp có
Ngu ở pháp có không
Người giác lìa thật trí.
Ngã hữu vi, vô vi
Ngu si chẳng thể biết
Trong một có bày pháp
Trong khác cũng như vậy.
Trong tâm một thể chung
Ý thức hay giác biết
Nếu bày là tấm lòng
Tâm số là danh tự.
Làm sao lìa năng thủ
Phân biệt với một khác
Chung nhân y chỉ thấy
Nghiệp, sinh và tác nghiệp…
Như lửa, như vậy nói
Tương tợ pháp tương tợ
Như lửa một thời gian
Khả thiêu (đốt) năng thiêu khác.
Như vậy Ngã nương nhân
Vọng giác sao chẳng vậy ?
Sinh và cùng chẳng sinh
Mà tâm thường thanh tịnh.
Vọng giác thì lập Ngã
Vì sao chẳng nói dụ
Mê ở rừng rậm thức
Lìa khỏi pháp thật chân.
Vọng giác chạy tây đông (đây đó)
Tìm thần Ngã cũng vậy
Tu thật hạnh nội thân
Ngã là tướng thanh tịnh.
Cảnh Phật, Như Lai tạng
Vọng giác chẳng phải cảnh (giới)
Khả thủ và năng thủ
Sai biệt năm ấm ngã.
Nếu hay biết đến tướng
Bấy giờ sinh trí chân
Ngoại đạo nói ý thức
Tạng thể A lê gia
Chung tương ứng với ta
Pháp ta nói chẳng vậy.
Nếu biết pháp như thật
Chắc chắn được giải thoát
Tu hành đến thấy đạo
Ðoạn phiền não sạch trong.
Tự tính tâm thanh tịnh
Như Lai tịnh pháp thân
Là pháp nương sinh chúng
Lìa khỏi biên, không biên.
Như vàng cùng với sắc
Tính đá cùng chân kim
Người nhào nặn hay thấy
Chúng sinh với ấm vậy.
Phi ấm cũng phi nhân
Phật là trí vô lậu
Vô lậu thường Thế Tôn
Vậy nên ta về nương.
Tự tính tâm thanh tịnh
Ý tác và não phiền
Chung năm ấm tương ứng
Kẻ thắng trong thuyết nói.
Tự tính tâm thanh tịnh
Ý… chính là nhân duyên
Ðó hay làm các nghiệp
Nên đó hai thứ nhiễm.
Ý… là pháp khách trần
Phiền não, ngã thanh tịnh
Ðó nương phiền não nhiễm
Như cấu nương thanh tịnh.
Như áo lìa khỏi nhơ
Cũng như vàng lìa cấu
Có mà chẳng thể thấy
Ngã lìa lỗi cũng vậy.
Như đàn và trống da
Ðủ thứ tiếng mỹ diệu
Ngã trong ấm cũng vậy
Ngu si tìm một, khác.
Trong đất, các bảo tàng
Cùng với nước thanh tịnh
Trong ấm, ngã cũng vậy
Thật có chẳng thể thấy.
Tâm và tâm số pháp
Công đức, ấm hòa hợp
Trong ấm ngã cũng vậy
Vô trí chẳng thể thấy.
Như thai tàng nữ nhân
Tuy có mà chẳng thấy
Ngã ở trong năm ấm
Vô trí nên chẳng thấy.
Trong tất cả các pháp
Vô thường cùng với không
Trong ấm, ngã cũng vậy
Vô trí, có chẳng thấy.
Các địa, tự tại, thông
Và đối với thọ vị (nhận địa vị)
Các pháp diệu vô thượng
Và các tam muội khác
Và các thắng cảnh giới
Nếu trong ấm không ngã
Mà những thứ pháp này…
Cũng nên không tất cả.
Có người phá hoại rằng :
Nếu có nên bày ngã !
Người trí nên đáp rằng :
Tâm ông nên bày Ngã !
Nói không Chân như ngã
Chỉ là hư vọng nói.
Người tác nghiệp Tỳkheo
Chẳng nên chung hòa hợp
Là người lập có, không
Tùy theo hai bè đảng
Phá hoại pháp chư Phật
Ðó chẳng trụ pháp ta.
Lìa lỗi các ngoại đạo
Thiêu đốt kiến vô ngã
Khiến ngã kiến bừng lên
Như lửa cháy kiếp tận.
Như quả nho, tảng đường
Sữa, dầu, cao, váng sữa…
Từng thứ có vị riêng
Người chẳng nếm chẳng biết.
Trong năm thứ thủ lấy
Năm ấm, ngã cũng vậy
Người ngu si chẳng thấy
Trí thấy được giải thoát.
Sáng tỏ những thí dụ
Tâm pháp chẳng thể thấy
Chỗ nào? Nhân duyên gì ?
Hòa hợp chẳng thể thấy ?
Các pháp khác thể tướng
Một lòng chẳng thể dùng
Không nhân cùng không sinh
Lỗi kẻ giác hư vọng.
Người thật hành thấy tâm
Trong tâm chẳng thấy tâm
Khả kiến từ thấy sinh
Năng kiến nhân nào sinh ?
Ta họ Ca Chiên Diên
Thủ Ðà Hội thiên xuất (hiện)
Nói pháp vì chúng sinh
Ði đến thành Niết Bàn.
Là đường đi quá khứ
Ta và chư Phật đó
Ba ngàn Tu-đa-la (Kinh)
Nói về pháp Niết Bàn.
Dục giới và Vô sắc
Ở đó Phật chẳng thành (Phật)
Lên trời trong cõi Sắc
Lìa dục Bồ Ðề thành
Cảnh giới phi nhân buộc (chẳng phải nhân buộc)
Nhân cảnh giới buộc ràng
Nương trí đoạn phiền não
Tu hành là gươm bén
Có ngã và có huyễn…
Pháp có, không ra sao ?
Ngu chẳng thấy như vậy
Làm sao có vô ngã ?
Do có tác, chẳng tác
Không nhân mà chuyển sinh
Tất cả pháp chẳng sinh
Ngu si chẳng giác biết.
Các nhân chẳng thể sinh
Các duyên cũng chẳng tác
Hai đó chẳng thể sinh
Làm sao phân biệt duyên.
Trước, sau và một lúc
Vọng giác thì nói nhân
Hư không, bình, đệ tử…
Tất cả các vật sinh.
Phật phi hữu vi tác
Các tướng, tướng trang nghiêm
Là chuyển luân công đức
Chẳng phải Phật được danh.
Chư Phật là trí tướng
Lìa các lỗi tà kiến
Nội thân là trí kiến
Lìa tất cả lỗi lầm
Ðiếc, mù lòa và câm
Già, trẻ mang người ác
Tất cả người như trên
Gọi là không phạm hạnh.
Thể thắng diệu rộng lớn
Là tướng Chuyển luân vương
Xuất gia hoặc nhất, nhị (?)
Còn lại là buông lung.
Tỳ Gia Ta Ca Na
Và với Lê Sa Bà
Ca Tỳ La Thích Ca
Sau khi ta diệt độ(nhập Niết Bàn)
Ðời vị lai sẽ có
Những như vậy ra đời
Sau trăm năm ta diệt
Tỳ Gia Ta Vi Ðà
Cùng với Bàn Trà Ba
Cưu La Bà Thất La.
Nhiên hậu rồi lại có
Và đều ở mao ly.
Kể Mao Ly Quật Ða
Tiếp có vị vua vô đạo
Kế đó loạn gươm dao
Tiếp gươm dao (là) mạt thế
Kế tiếp đời mạt thế
Không pháp, không tu hành.
Cứ qua đi như vậy
Như thế gian chuyển vần
Nhật hỏa (lửa mặt trời) chung hòa hợp.
Thiêu đốt cõi Dục tan.
Lại thành diệu thế giới
Khí dụng thế gian sinh :
Quốc vương và tứ tính (bốn dòng họ theo Ấn Ðộ). Pháp và các tiên nhân
Cúng dường, đại hội thí
Pháp trở lại như cũ.
Vốn như vậy nói cười
Trường Hàng và Tử Chú (con giải thích)
Tử Chú lại Trùng tác (làm lại y vào cái đã có).
Ðủ thứ nói không lường.
“Ta đã nghe như vậy”…
Mê đắm các thế gian
Chẳng biết Chân như pháp
Cái gì là thị, phi ?
Quần áo nhuộm đúng pháp
Giặt đập khiến sạch trong
Phân trâu và bùn đất…
Hoại sắc mà thọ dùng.
Những hương bôi thân, áo
Lìa khỏi tướng ngoại đạo
Pháp luân ta lưu thông
Là các Như Lai tướng.
Nước chẳng lọc chẳng uống
Dây thắt lưng, áo trong
Nương lúc đi khất thực
Lìa khỏi xuống nhà giặc
Sinh vào cảnh diệu thiên
Thắng xứ trong nhân gian.
Các tướng báu thành tựu
Tự tại trong nhân, thiên.
Người tu hành y pháp
Sinh bốn thiên hạ thiên
Nhiều thời gian thọ dùng
Nương tham trở lại diệt.
Chính thời và tam tai
Và ở hai đời ác
Ta và còn chính thời
Thích Ca lúc đời mạt
Tất Ðạt Tha họ Thích.
Bát Tý và Tự Tại,
Những ngoại đạo như vậy
Ta diệt thì ra đời.
Ta đã nghe như vậy…
Sư tử Thích Ca nói
Từng có việc như vậy
Là lời Tỳ Gia Ta.
Bát Tý Na La Diên
Và Ma Ê Thủ La
Nói lời như vầy rằng :
Ta hóa làm thế gian
Mẹ ta tên Thiện Tài
Cha tên Phạm Thiên Vương
Họ ta Ca Chiên Diên
Lìa khỏi các phiền não.
Sinh ở Chiêm Ba thành
Cha ta và tổ phụ
Cha tên là Nguyệt Hộ
Từ nơi Nguyệt chung sinh
Xuất gia tu thật hạnh
Ngàn thứ câu nói lên
Thọ ký vào Niết Bàn
Phó tuệ chuyển pháp luân.
Ðại Tuệ cùng pháp Thắng
Thắng cùng Di-Khư-Lê
Di Khư không đệ tử
Thời gian sau pháp diệt
Ca Diếp, Câu Lưu Tôn
Câu Na Hàm và ta
Lìa khỏi các phiền não
Tất cả gọi chánh thời.
Qua sau chánh thời đó
Có Phật tên Như Ý
Ở đó thành Chánh Giác
Vì người nói năm pháp.
Không hai trong ba tai
Qua cuối đời cũng vậy
Chư Phật chẳng ra đời
Chánh thời ra ở đời.
Không người đoạt, có tướng
Quần áo chẳng cắt may
Áo nạp xen rách rưới
Như màu vẽ chim công.
Hai tấc hoặc ba tấc
Mà vá nạp lẫn xen
Nếu chẳng như vậy thì
Người ngu đã tham đoạt.
Thường diệt lửa tham dục
Nước trí tắm gội luôn
Ngày đêm trong sáu thời
Như thật tu hành pháp.
Như ném đá, phóng tên
Hết đà rơi xuống lại
Phóng một xuống lại một
Giỏi, chẳng giỏi cũng vậy.
Trong một không nhiều thứ
Vì tướng không như vậy
Như gió thủ (lấy) tất cả
Như ruộng đất bị cháy.
Nếu một làm ra nhiều
Tất cả không tác giả
Chẳng vậy tất cả mất
Chính vọng giác là pháp.
Như hạt giống và đèn
Làm sao nhiều tương tợ ?
Một có thể sinh nhiều
Chính vọng giác là pháp.
Như mè chẳng sinh đậu
Lúa gạo chẳng sinh lúa mì
Hạt tiểu mạch vân… vân…
Thì sao một sinh nhiều ?
Ba ni ra thanh luận (luận về âm thanh)
A xoa ba thái bạch
Ðời mạt có Phạm tạng
Nói về thế tục luận.
Ca Chiên Diên làm Kinh (kinh điển)
Dạ Bà Già (Ca) cũng vậy
Phù Chu Ca thiên văn
Là luận sau mạt thế.
Bà Lê nói thế phước
Người đời nương phước đức
Hay hộ đến các pháp
Vua Bà Ly thi địa.
Di Ca Ma tu la
A Thự La… đã nói
Mê hoặc và vương luận
Ðời mạt các tiên hiện.
Tất Ðạt Tha họ Thích
Phù Ðơn Ðà năm sừng
Khẩu lực và thông tuệ
Sau ta diệt ra đời
A-Thị-Na ba hang (tam quật)
Di-Khư-La tắm tưới
Ta trụ A la nhã
Phạm thiên thí cho ta.
“Ông vào đời vị lai
Tên Ðại Ly Trần Cấu
Hay nói giải thoát chân
Là những Mâu Ni Tôn”.
Phạm Thiên cùng Phạm chúng.
Và những thiên chúng khác
Da nai… đem cho ta
Biến về Tự Tại thiên.
Những quần áo xen tạp
Và bát đi xin ăn
Vua bốn trời, Ðế Thích
Chỗ nhàn thí cho ta.
Nói vô sinh và nhân
Sinh cùng với chẳng sinh
Muốn thành được chẳng sinh
Là chỉ nói ngôn ngữ.
Nếu nhân là vô minh…
Có thể sinh các tâm
Khi chưa sinh ra sắc
Trung gian làm sao trụ ?
Tức thời tiêu diệt tâm
Mà lại tâm khác sinh
Sắc chẳng một niệm trụ
Quán pháp gì thì sinh ?
Nương vào nhân duyên gì
Tâm là nhân đảo điên ?
Ðó chẳng thể thành pháp
Làm sao biết diệt sinh ?
Tu hành thì hợp định
Kim an xà na tính (?)
Cung điện trời Quang Âm
Pháp thế gian chẳng hoại.
Trụ ở pháp sở chứng
Là tất cả Thế Tôn (Phật).
Trí tuệ của Như Lai…
Tỳkheo chứng đến pháp
Và pháp sở chứng khác
Pháp đó thường chẳng hoại.
Làm sao hư vọng thấy
Các pháp niệm chẳng trụ
Sắc huyễn, Càn thát bà
Vì sao niệm chẳng trụ ?
Các sắc không bốn đại
Các đại làm cái gì ?
Nhân vô minh có tâm
Thế giới vô thỉ tập (quen)
Nương sinh diệt hòa hợp
Vọng giác thì phân biệt.
Tăng Khư có hai thứ
Theo thắng và chuyển biến
Trong thắng có được quả
Quả lại thành tựu quả.
Thắng là tướng đại thể
Nói công đức sai biệt
Nhân quả hai thứ pháp
Ở trong chuyển biến không.
Như gương nước thanh tịnh
Chẳng nhiễm các bụi trần
Chân như tịnh như vậy
Y chỉ vào chúng sinh.
Như hứng cầu và vội
Thai tạng nữ nhân mang
Muối và vị trong muối
Chủng tử làm sao có ?
Thể khác, chẳng thể khác
Hai thể lìa hai pháp
Pháp có không nhân duyên
Chẳng phải không hữu vi
Như trong ngựa không trâu
Trong ấm, ngã cũng vậy.
Nói hữu vi, vô vi
Là pháp không thể nói
Ác kiến lường A hàm
Nương tà giác cấu nhiễm.
Chẳng giác nói có ngã
Phi nhân chẳng lìa nhân
Trong năm ấm không ngã
Thủ (lấy) ngã là lỗi lầm.
Trong một và trong khác
Vọng giác thì chẳng giác
Gương nước và trong mắt
Như thấy(hình) tượng trong gương.
Xa lìa khỏi một, khác
Ngã cũng vậy trong ấm.
Khả quán và năng quán
Thiền đạo thấy chúng sinh
Quan sát ba pháp đó
Lìa khỏi pháp tà kiến.
Tức diệt được tri kiến
Như trong lỗ thấy không
Các pháp chuyển biến tướng
Người ngu vọng phân biệt.
Niết Bàn lìa có, không
Trụ chỗ thấy như thật
Xa lìa pháp diệt, sinh
Cũng lìa thể có, không.
Lìa năng kiến, khả kiến
Quan sát pháp chuyển biến
Lìa các thuyết ngoại đạo
Lìa tướng danh, thể hình.
Nương tà kiến nội thân
Quan sát pháp chuyển biến
Ðịa ngục và chư thiên
Xúc cùng với bức não.
Không có pháp trung ấm
Làm sao nương thức sinh ?
Noãn, thai, thấp và hóa…
Ở trong Trung ấm sinh.
Ðủ thứ thân chúng sinh
Nên quan sát đi, lại
Lìa lượng và A hàm
Hay sinh giống phiền não.
Các ngoại đạo nói xằng (nói bậy)
Người trí tuệ chớ thủ (lấy)
Trước quan sát về Ngã
Sau xem đến nhân duyên.
Chẳng biết có, nói có
Nên con thạch nữ hơn
Bát nhã lìa nhục nhãn
Diệu nhãn thấy chúng sinh.
Lìa khỏi hữu vi ấm
Diệu thân thể chúng sinh
Trụ trong sắc xấu, đẹp
Giải thoát lìa buộc ràng.
Hữu vi, diệu thể trụ
Hay thấy diệu pháp thân
Trụ ở trong sáu đường
Vọng giác phi cảnh giới.
Ta qua ở nhân đạo
Chẳng phải vọng giác còn
Mà không sinh ngã tâm
Nhân gì sinh như vậy ?
Như hạt giống, đèn, sông
Sao chẳng nói như vậy
Mà khi thức chưa sinh
Thì chưa có vô minh…
Lìa khỏi vô thức tối
Làm sao nối nhau sinh
Tam thế và vô thế (thế :đời)
Chẳng thể nói thứ năm.
Là cảnh giới chư Phật
Vọng giác là quán hành
Trong hành chẳng thể nói
Do trong hành lìa trí.
Thủ(lấy) ở trong các hành
Trí lìa khỏi hành pháp
Nương pháp này, này sinh
Hiện thấy là không nhân.
Các duyên chẳng thể thấy
Lìa khỏi, tác giả không
Nương gió, lửa hay đốt
Nhân gió động hay sinh.
Gió hay thổi động lửa
Gió trở lại diệt lửa
Người ngu chẳng biệt phân
Làm sao sinh chúng sinh ?
Nói hữu vi, vô vi
Lìa khỏi y, sở y (nương)
Làm sao thành pháp đó ?
Ngu phân biệt lửa, gió.
Ðó, đây lực lớn thêm
Ðó, đây pháp chẳng kịp
Làm sao mà lửa sinh ?
Chỉ ngôn ngữ vô nghĩa.
Chúng sinh là ai làm
Mà phân biệt như lửa ?
Hay làm (năng tác) ấm, nhập thân
Ý… nhân có thể sinh
Như thường vô ngã nghĩa
Chung tâm thường chuyển sinh.
Hai pháp thường thanh tịnh
Lìa khỏi các quả, nhân
Lửa chẳng thể thành đó
Vọng giác thì chẳng rõ(biết).
Tâm, chúng sinh, Niết Bàn
Thể tự tính thanh tịnh
Nhiễm vô thỉ lỗi lầm…
Không sai như hư không.
Bẩn tà kiến ngoại đạo
Như voi trắng, giường, thành (?)
Nương ý, ý thức phủ
Lớn… có thể sạch trong.
Người đó thấy như thật
Thấy rồi phá não phiền
Bỏ rừng rậm ví dụ
Thánh cảnh, người đó thủ (lấy).
Tri, năng tri sai biệt
Kia phân biệt thể khác
Kẻ đần độn chẳng biết
Lại nói chẳng thể nói.
Ví như trống Chiên Ðàn
Người ngu làm dị thuyết.
Như trầm thủy Chiên đàn
Trí chư Phật cũng vậy.
Giữa, sau chẳng thọ ăn
Dùng bát y lượng lấy
Lìa lỗi miệng vân… vân…
Ăn món ăn thanh tịnh.
Ðây là như pháp hành
Chẳng thể biết tương ứng
Nương theo pháp hay tin
Chớ phân biệt tà hạnh.
Chẳng đắm (trước) vật thế gian.
Hay thủ lấy chính nghĩa
Người đó thủ chân kim
Hay thắp lên đèn pháp.
Si nhân duyên có không
Lưới tà kiến phân biệt
Tất cả bẩn não phiền
Lìa kỏi tham, sân, nhuế.
Bấy giờ chẳng lại sinh
Do không tất cả nhiễm
Các Như Lai đích thân
Trao cho địa vị Phật.
Ngoại đạo mê nhân quả
Người khác mê nhân duyên
Và không nhân có vật
Ðoạn kiến không thánh nhân.
Thọ với quả chuyển biến
Thức cùng với ý thức
Ý từ bản thức sinh
Thức từ ở ý sinh.
Tất cả thức từ gốc
Hay sinh như sóng biển
Tất cả từ huân nhân(nhân huân tập).
Theo nhân duyên mà sinh.
Niệm sai biệt câu móc
Buộc tự tâm thủ cảnh
Tợ với tướng thể hình
Ý nhãn… thì thức sinh.
Lỗi từ vô thỉ buộc
Nương huân (tập) thủ cảnh sinh
Thấy ngoài các pháp tâm
Ngăn các kiến ngoại đạo.
Nương đó lại còn sinh
Và nương đó quán sinh (quan sát sinh)
Vậy nên sinh tà kiến
Và sinh tử thế gian.
Các pháp như mộng, huyễn
Như Càn thát bà thành
Ngọn lửa, trăng trong nước
Quan sát là tự tâm.
Làm sai phi Chân như
Chánh trí huyễn tam muội
Nương định Thủ Lăng Nghiêm
Và các tam muội khác.
Vào đến Sơ Ðịa được
Tam muội và các thông.
Trí và Như ý thân
Thọ vị vào Phật địa.
Bấy giờ, tâm chẳng sinh
Do thấy đời hư vọng
Ðược quán Ðịa, địa khác
Và được đến Phật địa.
Chuyển ở y chỉ thân
Như những sắc Ma ni
Cũng như trăng trong nước
Làm các nghiệp chúng sinh.
Lìa bè đảng có, không
Lìa hai và chẳng hai
Ra khỏi Nhị Thừa địa
Và ra Ðệ Thất địa.
Nội thân thấy các pháp
Ðịa trong địa sạch trong
Lìa ngoại đạo, ngoại vật
Bấy giờ nói Ðại Thừa.
Chuyển đến phân biệt thức
Lìa khỏi biến dịch diệt
Như sừng thỏ, ma ni
Người được giải thoát nói.
Như nương kết tương ưng
Nương pháp cũng như vậy
Nương tương ưng tương ưng
Chớ phân biệt với khác.
Nhãn thức nghiệp và thọ
Chánh kiến và vô minh
Nhãn, sắc cùng với ý
Ý thức nhiễm như vậy.
Phật nói Diệu Kinh này
Thánh giả Ðại Tuệ Sĩ
Bồ tát Ma ha tát
La Bà Na đại vương
Thúc Ca Bà La Na
Úng Nhĩ Ðẳng La Xoa
Trời, Rồng và Dạ xoa
Càn thát bà, Tu la
Chư thiên, Tỳ kheo tăng
Rất hoan hỷ phụng hành.