1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Quyển thứ chín

Phẩm Thứ Mười Tám: Tổng

I- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên thâm nghĩa kinh này mà nói kệ rằng:

Như mùa hạ cầm thú

Lòng mê thấy sóng tràn

Các cầm thú thích nước

Nước đó không thật chân.

Như vậy chủng tử thức

Thấy cảnh giới động lên

Các chúng sinh ngu dại

Thấy vật mắt có màn (che).

Suy nghĩ, được suy nghĩ

Hay suy nghĩ (năng tư duy) lìa luôn

Thấy Thật đế phân biệt

Biết được giải thoát liền.

Các pháp chẳng bền vững

Hư vọng phân biệt sinh

Hư vọng phân biết trống (không)

Phân biết đó theo nương.

Năm ấm, thức các pháp…

Như bóng cây nước lồng

Như thấy huyễn hóa, mộng…

Trong thức chớ biệt phân.

Huyễn khởi bày máy móc

Mộng, chớp, mây thường luôn

Dứt ba pháp tương tục

Giải thoát được chúng sinh.

Nương các pháp tà niệm

Vậy nên có thức sinh

Tám chín đủ thứ thức

Như sóng trong nước tràn.

Nương pháp huân (tập) chủng tử

Thường buộc thân chắc bền

Lòng lưu chuyển cảnh giới

(Như) Sắt theo từ thạch nương.

Y chỉ các sinh chúng

Lìa các giác, tính chân

Xa lìa các việc làm

Lìa tri, khả tri pháp.

Như huyễn tam muội hành

Sinh ra hạnh Thập địa.

Ông quán pháp tâm vương

Lìa tướng tâm, cảnh, thức

Thì biết lòng chuyển luôn

Liền trụ hằng bất biến.

Trụ cung điện hoa sen

Như tướng cảnh giới huyễn

Trụ thắng xứ đó xong

Ðược các hạnh tự tại.

Như Ma ni hiện lên

Tác độ chúng sinh nghiệp

Hữu vi, vô vi không (có)

(Diệt) Trừ những tâm phân biệt.

Ngu si vô trí dùng

Như thạch nữ mơ trẻ (con)

Tịch tịnh và vô sinh

Người năm ấm tương tục.

Các cảnh giới nhân duyên

Không hữu và phi hữu

Phương tiện ta nói lên

Không thật tướng như vậy.

Ngu si cho thật chân

Không năng tướng, khả tướng

Tất cả pháp ta thông

Mà tất cả chẳng thông.

Ta có Nhất Thiết Trí

Mà không Nhất Thiết Trí

Phàm phu ngu biệt phân

Tự nói trí thế gian.

Ta chưa từng giác biết

Cũng chẳng giác chúng sinh.

Tất cả pháp duy tâm

Như mao luân, các ấm

Luân tướng rốt ráo không

Chỗ nào có phân biệt?

Vốn vô thỉ sinh vật

Trong các duyên cũng không

Con thạch nữ, hoa không

Hữu vi nếu hay thấy.

Bấy giờ có thể thấy

Thấy pháp mê, trụ liền

Ta chẳng vào Niết Bàn

Chẳng diệt các nghiệp tướng.

Phân biệt thức diệt tan

Ðây là Phật Niết Bàn

Pháp tướng chẳng phải diệt

Ngu si vọng phân biệt.

Như nước dữ khô khan

Bấy giờ chẳng sinh sóng

Ðủ thứ thức diệt tan

Diệt mà chẳng sinh nữa.

Vô thức tướng và không

Vốn chẳng sinh như huyễn

Có không lìa có không

Các pháp này như mộng.

Ta nói một pháp chân (thật)

Lìa khỏi các giác quán

Cảnh giới diệu Thánh nhân

Lìa thể tướng hai pháp.

Như thấy tướng lửa huỳnh(đom đóm)

Ðủ thứ mà không thật

Thấy bốn đại thế gian

Ðủ thứ cũng như vậy.

Như nương đá, cỏ, cây

Thị hiện các tướng huyễn

Tướng huyễn kia là không

Các pháp thể như vậy.

Thủ trước khả thủ không

Không giải thoát, không buộc

Như huyễn như lửa hừng

Như mộng, màn trong mắt.

Nếu như vậy thấy thật

Lìa phân biệt cấu xong

Liền trụ định như thật

Thấy ta không ngờ vực.

Trong này không tâm thức

Như ngọn lửa, hư không

Như vậy biết các pháp

Mà chẳng biết một pháp.

Lìa có, không các duyên

Nên chẳng sinh các pháp

Ba cõi mê hoặc lòng

Vậy nên đủ thứ thấy.

Mộng và pháp thế gian

Hai pháp này bình đẳng

Khả kiến cùng tư sinh

Các xúc và cả lượng

Thế gian thân vô thường

Ðủ thứ sắc cũng vậy.

Tôn giả nói thế gian

Việc sở tác như vậy

Chủng tử ba cõi lòng

Mê hoặc chưa thấy hiện.

Biết phân biệt thế gian

Không thật pháp như vậy.

Thấy như vậy thế gian

Hay lìa khỏi sinh tử

Sinh và cùng chẳng sinh

Người tu trí tuệ thấy

Diệu cảnh A – ca – ni

Lìa chỗ các hạnh ác.

Thường hành không phân biệt

Lìa các số pháp tâm

Ðược lực thông tự tại

Ðến chỗ những tam muội.

Chỗ đó Chính giác thành

Trong này thành hóa Phật

Các pháp chẳng diệt, sinh

Thể các pháp như vậy

Ứng hóa ức không lường

Ra đời trong thể đó.

Người ngu nghe Phật lý

Như vang chẳng nghĩ bàn

Xa lìa đầu, giữa, cuối

Và lìa pháp có không.

Khắp chẳng động, thanh tịnh

Không các tướng hiện tướng

Thức tính che pháp thân

Tất cả có trong thân

Mê hoặc là huyễn có

Huyễn chẳng phải mê nhân(nhân của mê hoặc)

Mê hoặc pháp tâm không (có)

Chẳng phải chẳng ít có.

Hai pháp buộc tâm nương

A lê gia thức khởi

Thấy như vậy chỉ tâm

Pháp ta như nước bạo.

Như vậy quán thế gian

Bấy giờ các tâm chuyển

Mới là con ta chân

Thành tựu hạnh thật pháp.

Nóng, ướt và đồng, bền (chắc)

Ngu phân biệt các pháp

Phi thật (mà) nghĩ có luôn

Không năng tướng, khả tướng.

Tám thứ vật một thân (?)

Hình tướng và các căn

Ngu phân biệt có sắc

Mê hoặc lưới bao thân.

Các nhân duyên hòa hợp

Ngu si phân biệt sinh

Chẳng biết pháp như vậy

Trong ba cõi chuyển vần.

Các pháp và ngôn ngữ

Là phân biệt (của) chúng sinh

Mà các pháp là không

Như huyễn hóa, như mộng…

Các pháp như vậy xem

Chẳng trụ thế Niết Bàn

Tâm đủ thứ chủng tử

Hiện thấy cảnh giới tâm.

Khả kiến phân biệt sinh

Ngu si ưa hai pháp

Không trí, ái và nghiệp

Là tâm, tâm pháp nhân.

Pháp sinh nương tha lực

Nên nói, pháp tha lực

Nương pháp việc biệt phân

Lòng mê hoặc cảnh giới

Nên phân biệt chẳng thành

Mê hoặc tà phân biệt.

Tâm nương nhân duyên buộc

Vậy nên sinh các thân

Nếu lìa các nhân duyên

Ta nói, chẳng thấy pháp.

Lìa các pháp nhân duyên

Lìa khỏi các tướng pháp

Các pháp, chẳng trụ trong

Ta nói, chẳng thấy cảnh

Như trưởng giả, quốc vương…

Ðem đủ loại cầm thú

Tập họp trong đầm hoang

Ðể bày cho các con.

Ta như vậy các tướng

Ðủ pháp tượng trong gương

Nội thân trí là con

Nói lên pháp thật tế.

Như sóng dậy biển cả

Từ nhân duyên gió sinh

Hay khởi dậy hiện tiền

Mà không có đoạn tuyệt.

A – lê – gia thức thường

Nương gió cảnh giới khởi

Sóng nước thức đủ loại

Hưng khởi sinh chẳng dừng.

Tướng năng thủ, khả thủ

Chúng sinh thấy như thế

Các tướng khả kiến không (có)

Mao đạo thấy như vậy

A lê gia thức cùng

Ý và cả ý thức

Năng, khả thủ lìa xong

Ta nói tướng như vậy.

Trong năm ấm, ngã không

Không người, không sinh chúng

Sinh là các thức sinh

Diệt là các thức diệt.

Như trong họa (vẽ) thấp cao

Khả kiến không như thế

Như vậy các vật thể

Tướng như vậy thấy không(có).

Như Càn thát bà thành

Cầm thú khát thích nước

Thấy “Khả kiến” như trên

Trí quán không như vậy.

Lìa tưởng và khả lường (lượng)

Phi quả cũng phi nhân

Lìa năng giác, sở giác

Lìa năng kiến, khả kiến

Giác nương ấm nhân duyên

Không người thấy “Khả kiến”

Nếu chẳng thấy khả kiến

Làm sao tu pháp kia?

Nhân duyên, nhân, thí dụ

Lập ý và nhân duyên

Mộng, Càn thát bà, luân

Ngọn lửa và nhật, nguyệt

Ánh sáng, huyễn vân… vân…

Ta ngăn các pháp sinh.

Như mộng huyễn mê hoặc

(Trống) “Không” phân biệt chúng sinh

Chẳng nương vào ba cõi

Trong, ngoài cũng đều không.

Thấy các hữu chẳng sinh

Mới được Vô sinh nhẫn

Ðược tam muội Như Huyễn

Và cả Như Ý thân,

Các (thần) thông và tự tại

Lực, đủ thứ pháp tâm.

Các pháp vốn chẳng sinh

“Không”, không thể tướng pháp.

Người mê chẳng hiểu thông

Tùy nhân duyên sinh diệt.

Như ngu si phân biệt

Tâm thấy được tự tâm

Thấy đủ thứ ngoại tướng

Thật Không pháp khả kiến.

Thấy Phật tượng, tướng xương.

Và các Ðại lìa tan

Giỏi hiểu tâm hay biết

Trụ trì tướng thế gian.

Thân trụ trì tư sinh (của cải để sinh sống).

Chọn lấy ba cảnh giới

Thức chọn thức cảnh giới

Ý, thức, phân biệt ba.

Phân biệt, khả phân biệt

Cảnh giới có chữ thôi

Chẳng thể thấy pháp thật

Mê chẳng thấy giác kia.

Các pháp không tự thể

Kẻ trí thì giác ngộ

Người tu vậy mới ngưng

Trụ ở chỗ vô tướng.

Như bức vẽ về gà

Ngu quyết gà của ta

Nhu phàm phu dại lấy

Ba thừa là một vậy.

Không những người Thanh Văn

Cũng không Bích Chi Phật

Hình sắc thấy Thanh Văn

Và thấy các đức Phật

Các Ðại từ Bồ tát

Thị hiện là Hóa thân.

Ba cõi chỉ là tâm

Lìa hai thứ thể tướng.

Các tướng đó chuyển biến

Thì tức là Chân Như.

Pháp và hành tướng người

Nhật nguyệt quang, lửa rực

Những báu lớn ma ni

Làm việc không phân biệt.

Như vậy pháp Thế Tôn

Như mù thủ mao luân

Như vậy phân biệt pháp

Ngu si hư vọng thân.

Lìa khỏi sinh, trụ, diệt

Và lìa thường, vô thường

“Khả kiến” nhiễm, tịnh bỏ

Như vừng lông trong không.

Như người trúng Lang tảng (một loại cỏ làm thuốc)

Thấy trên đất, hình tượng

Tất cả sắc như vàng

Mà đó chẳng có vàng.

Như vậy người ngu dại

Vô thỉ, pháp nhiễm tâm

Huyễn, ngọn lửa sinh có

Người ngu cho là chân (thật).

Một con (tử) và không con

Biển cả là nhất tử (một con(?))

Cũng là vô lượng tử

Ông quán chủng tử lòng.

Nhất tử như sạch trong

Chuyển thành không chủng tử

Bình đẳng không biệt phân

Khởi tức là sinh tử.

Hay sinh đủ thứ con

Vậy chủng tử gọi tên.

Nhân duyên chẳng sinh pháp

Nhân duyên chẳng diệt pháp,

Sinh pháp chỉ nhân duyên

Tâm phân biệt như vậy.

Ba cõi chỉ giả tên

Thật sự không pháp thể

Quán các pháp thật thể

Mê hoặc ta chẳng ngăn.

Thật thể chẳng sinh pháp

Quán vậy giải thoát liền

Ta chẳng thấy huyễn không

Nói các pháp là có

Ðiên đảo như chớp nhanh

Vậy nên nói như huyễn.

Phi bản sinh, như sinh

Các nhân duyên vô thể (không hình thể)

Không có xứ và thể

Chỉ có lời ngữ ngôn.

Chẳng ngăn duyên sinh diệt

Chẳng ngăn hòa hợp duyên

Ngăn những ngu si kiến

Phân biệt nhân duyên sinh.

Thật không thức thể pháp

Sự việc, bản thức không

Ngu si sinh phân biệt

Như ác giác thây chết.

Ba cõi chỉ là tâm

Các Phật tử hay thấy (năng kiến)

Liền được chủng loại thân

Lìa làm hữu vi pháp.

Ðược Lực tự tại, thông

Và pháp cộng tương ưng

Hiện tất cả các sắc

Tâm pháp như vậy sinh

Mà không tâm và sắc

Tâm vô thỉ mê hoặc

Bấy giờ người tu hành

Ðược thấy đến vô tướng.

Trong trí tuệ xét xem

Chẳng thấy các sinh chúng

Tướng và việc giả danh

Ý thủ các động pháp.

Các con ta quá hơn

Tu hành không phân biệt

Huyễn, Càn thát bà thành

Vừng lông và ngọn lửa.

Không thật mà thấy chân

Thể các pháp như vậy.

Thấy các pháp như tâm

Không thể tướng như vậy.

Tất cả pháp chẳng sinh

Chỉ thấy pháp mê hoặc

Mao đạo mê phân biệt

Do trụ pháp nhị biên.

Sơ thức sinh phân biệt

Ðủ thứ chủng tử huân (tập)

Thức như nước bạo khởi

Cắt đứt thì chẳng sinh.

Ðủ thứ niệm quán pháp

Nếu chỉ sinh trong lòng

Như trong vách hư không

Vì sao chẳng sinh được?

Nếu có ít tương quan

Thì tâm từ duyên có

Nếu sinh từ nhân duyên

Duy tâm, chẳng được nói.

Tâm thủ ở tự tâm

Không pháp không nhân sinh

Pháp thể tâm thanh tịnh

Không huân (tập) trong hư không.

Thủ tự tâm hư vọng

Vậy nên tâm chẳng sinh

Ngoại pháp không thể thấy

Vậy nên nói duy tâm.

Bản thức chỉ là tâm

Ý hay niệm cảnh giới

Hay thủ các cảnh giới

Nên ta nói duy tâm.

Tâm thường vô ký pháp

Chọn tướng, ý nhị biên

Chọn hiện pháp là thức

Ðó là lành, chẳng lành (bất thiện).

Lìa hai thứ tướng thức

Là Ðệ Nhất Nghĩa môn

Nói ba thừa sai biệt

Tướng Tịch tịnh là không.

Nếu tâm trụ tịch tịnh

Ở Phật địa tu hành

Là lời Phật quá khứ

Hiện, vị lai cũng thế.

Sơ – thất địa là tâm

Tịch tịnh Ðệ Bát địa

Nhị địa là chỗ hành (hành xứ)

Pháp ta là địa khác (dư địa)

Tự nội thân sạch trong

Tự tại địa ta đó

Chỗ tự tại rốt cùng

Hiện A Ca Ni Sấc.

Như ngọn lửa vân… vân…

Mà phát ra ánh sáng

Ðủ thứ khả lạc tâm

Hóa làm ở ba cõi.

Hoặc Hữu trước hóa thành

Mà hóa làm ba hữu

Chỗ đó pháp tuyên dương

Tự Tại địa ta đó.

Các địa không thời gian

Ðất nước chuyển cũng vậy

Qua nhưng pháp địa tâm

Là trụ quả Tịch tịnh,

Thật không(có) gọi thật chân

Mà thấy được đủ thứ

Người ngu thủ đảo điên

Là đủ thứ điên đảo.

Như trí không biệt phân

Có việc chẳng tương ứng

Chẳng phải sắc do tâm

Vậy nên không phân biệt.

Các thiền và không lường

Và tam muội vô sắc

Các tướng rốt cùng diệt

Vậy nên trong tâm không.

Tu đà hoàn quả pháp

Vãng lai và Bất Hoàn

Và các quả la hán

Tất cả mê hoặc lòng.

Sát na, Không, Vô thường

Hữu vi, ngu phân biệt

Thí dụ, chủng tử, sông

Nghĩa sát na phân biệt

Sát na không phân biệt

Lìa những pháp đã làm

Tất cả pháp chẳng sinh

Ta nói sát na nghĩa.

Có, không nói đến sinh

Tăng – Khư… vọng tuyên nói

Tất cả pháp không nói

Cũng người đó nói lên.

Có bốn thứ nói pháp:

Vãng đáp, phản vấn đáp

Phân biệt sai biệt đáp

Mặc đáp, ngăn ngoại đạo.

Thế đế tất cả có

Ðệ Nhất Nghĩa đế không

Mà tướng thật thể không

Là Ðệ Nhất Nghĩa đế.

Thấy pháp hư vọng xong

Vậy nên nói thế đế

Nhân ở ngôn ngữ sinh

Không thật thể như vậy.

Không việc có ngữ ngôn

Trong thế đế thật không

Tức là việc điên đảo

Khả kiến cũng là không.

Nếu việc điên đảo có

Tịch tịnh rốt cùng không

Nương vào việc điên đảo

Và thấy các pháp sinh.

Rốt ráo định là không

Tức là không thể tướng

Những đủ thứ sở kiến

Huân tập não phiền sinh.

Tâm thấy ngoài mê hoặc

Hiện thủ cảnh hiện tiền

Phân biệt không phân biệt

Là pháp tướng thật, không (trống).

Các tướng như huyễn tượng

Như cây lá màu vàng

Là người thấy khả kiến

Huân tập tâm vô minh.

Thánh nhân chẳng mê thấy

Chẳng thấy thật trung gian

Mê hoặc tức là thật

Do thật tức trung gian

Xa lìa các mê hoặc

Các tướng nếu hay sinh

Tức là kia mê hoặc

Như màn (che) mắt chẳng trong (sạch)

Như mờ thấy vừng lông(mao luân)

Nương mê thủ các pháp.

Ở trong các cảnh giới

Ngu si thủ là pháp.

Các pháp như vừng lông

Ngọn lửa, nước mê hoặc

Ba cõi như huyễn mộng

Tu hành được giải thoát.

Phân biệt, khả phân biệt

Hay sinh ra phân biệt

Phược (buộc), khả phược và nhân.

Sáu thứ nhân giải thoát.

Không (có) Ðịa và các Ðế

Không đất nước và hóa

Phật Bích Chi, Thanh Văn

Chỉ là tâm phân biệt.

Thể người (nhân thể) và năm ấm.

Các duyên và vi trần

Thắng nhân (người thắng) tự tại làm.

Chỉ là tâm phân biệt

Mọi chỗ tâm khắp cùng

Mọi chỗ đều là tâm

Do tâm chẳng giỏi quán

Các tướng tâm tính không (có).

Trong năm ấm không ngã

Trong ngã, năm ấm không (có)

Phân biệt không là pháp

Mà pháp chẳng phải không.

Như ngu si phân biệt

Có tất cả các pháp

Như vậy thấy có thật

Tất có nên thấy thật.

Tất cả pháp nếu không

Không nhiễm, tịnh cũng không

Ngu si thấy như vậy

Pháp đó chẳng như vậy.

Tướng mê hoặc biệt phân

Là tha lực phân biệt

Tướng đó sẵn có tên

Tên là tướng phân biệt.

Tên tướng là phân biệt

Hòa hợp việc nhân duyên

Nếu chẳng sinh tâm đó

Là tướng Ðệ nhất nghĩa.

Báo tướng Phật thể chân(thật)

Và tướng Phật biến hóa

Bồ tát và chúng sinh

Cùng đất nước mười phương.

Pháp tập khí hóa Phật

Và tạo tác hóa Phật

Tất cả đều từ nước

A Di Ðà mà ra

Ứng, hóa Phật nói pháp

Và Báo Phật nói pháp

Kinh điển rộng tuyên dương

Ông nên biết mật ý.

Phật tử sẵn có nói

Và với các Thế Tôn

Là đều hóa Phật nói

Chẳng phải người thuần(thục) nói.

Là các pháp chẳng sinh

(Mà) Pháp đó chẳng phải không

Huyễn, Càn thát bà thành

Như mộng hóa tương tợ.

Ðủ thứ chuyển theo lòng

Chỉ tâm, phi pháp khác

Tâm sinh, đủ thứ sinh

Tâm diệt, đủ thứ diệt.

Chúng sinh vọng phân biệt

Không vật mà thấy vật

Không nghĩa chỉ là tâm

Không phân biệt được thoát.

Ðời vô thỉ luận suông(hí luận)

Y chỉ ở phiền não

Các phân biệt huân tu

Vậy nên sinh tà kiến.

Thứ không phân biệt nghĩa

Chân như là trí cảnh

Chuyển đó là tịch tịnh

Là cảnh giới Thánh nhân.

Quan sát nghĩa, suy nghĩ

Là phàm phu suy nghĩ.

Niệm Chân như suy nghĩ.

Là chư Phật suy nghĩ.

Phân biệt các pháp thể

Tất cả pháp chẳng sinh

Nương tha lực nhân duyên

Chúng sinh mê phân biệt.

Tha lực nếu sạch trong (thanh tịnh)

Lìa phân biệt tương ứng

Chuyển đó tức Chân như

Lìa phân biệt là hạnh.

Chớ phân biệt biệt phân

Phân biệt là không thật

Phân biệt pháp mê hoặc

Thủ, khả thủ chẳng cùng (tận).

Thấy ngoại cảnh phân biệt

Phân biệt là thể thật

Tâm phân biệt biệt phân

Pháp đó nhân duyên sinh.

Nghĩa ngoại đạo tà kiến

Vô nghĩa chỉ là tâm

Quan sát lượng tương ưng

Hay diệt thủ khả thủ(lấy).

Cảnh giới bên ngoài không(có)

Ngu si vọng phân biệt

Huân tập thêm lớn lòng

Tượng tợ sinh các pháp.

Hai phân biệt diệt tan

Cảnh giới Chân như trí

Vô pháp tướng phát sinh

Chẳng nghĩ bàn Thánh cảnh.

Phân biệt và tướng danh

Thật thể hai thứ tướng

Chánh trí và Chân như

Là thành tựu thật thể.

Cha mẹ hòa hợp nương(theo)

A lê gia thức hợp

Như chuột, váng sữa, bình…(?)

Chung trắng, đỏ tăng trưởng.

Mụt nhọt dày, thây cong

Chẳng sạch nương họa tiết

Gió nghiệp bốn đại tăng (trưởng)

Như những trái thành thục (chín mùi)

Năm và ở năm năm (ngũ cập ư ngũ ngũ(?))

Và có chín thứ lỗ

Những lông che khắp cùng

Tăng trưởng sinh như vậy.

Sinh như trùng trong phân

Như người thức trong ngủ

Mắt thấy sắc, niệm khởi

Sinh phân biệt lớn thêm.

Phân biệt và chuyên niệm

Rồi hòa hợp môi răng

Miệng bắt đầu nói năng

Như Anh vũ đùa tiếng (lộng thanh).

Các ngoại đạo nói định

Ðại thừa chẳng quyết định

Nương tâm chúng sinh định

Tà kiến chẳng thể gần.

Thừa ta, trí nội chứng

Vọng giác chẳng phải cảnh(giới)

Sau khi Phật Niết Bàn(Diệt độ)

Vị lai sẽ có kẻ

Này Ðại Tuệ! Lắng nghe!

Có kẻ trì pháp ta

Ở trong nước nam lớn (?)

Có Ðại đức Tỳkheo

Tên Long Thọ Bồ tát

Giỏi phá thấy có không (hữu vô kiến)

Pháp ta vì người nói

Pháp Ðại thừa không trên (Vô thượng).

Chứng được Hoan Hỷ địa

Vãng sinh nước Lạc An.

Trí tuệ quan sát pháp

Chẳng thấy pháp thể chân(thật)

Vậy nên chẳng thể nói

Và nói thể cũng không.

Nếu nhân duyên sanh pháp

Chẳng được nói có, không

Trong nhân duyên có vật

Ngu phân biệt có, không.

Tà kiến, hai tà pháp

Tà biết lìa pháp ta

Tất cả danh tự pháp

Thường học vô lượng kiếp.

Ðã học lại học thêm

Cùng chung nhau phân biệt

Nếu chẳng nói các tên

Thì thế gian mê hoặc.

Vậy nên tạo tự danh

Vì trừ nghiệp mê hoặc

Ba thứ phân biệt nương

Ngu si phân biệt pháp.

Mê phân biệt nương danh(tên)

Và nhân duyên hay sinh

Pháp chẳng sinh, chẳng diệt

Tự tính như hư không.

Pháp vô thể là thể

Tướng phân biệt tức thể

Huyễn hóa và bóng hình

Ngọn lửa, mộng, tiếng vang

Càn thát bà, vừng lửa…

Các pháp như vậy sinh

Chẳng hai, Chân như, không(trống không)

Thật tế và pháp thể.

Ta nói, phân biệt không (có)

Thành tựu pháp tướng đó

Cảnh giới rỗng miệng, lòng

Thật mới lập hư vọng (?)

Tâm rơi vào hai biên

Vậy nên lập phân biệt.

Có, không rơi hai biên

Do tại cảnh giới tâm

Xa lìa các cảnh giới

Bấy giờ chính diệt tâm.

Do lìa cảnh giới thủ

Ðó diệt, chẳng có, không

Như cảnh giới Thánh nhân

Người ngu chẳng thể biết.

Trụ Chân như có diệt

Kẻ trí có thể nhìn

Như các pháp đó trụ

Người trí có thể nhìn

Pháp thể chẳng như vậy

Do tướng các pháp không

Kẻ ngu si thấy sắt

Phân biệt cho là vàng.

Chẳng phải vàng (mà) thấy vàng

Ngoại đạo thủ pháp vậy.

Vốn không nói trước sinh(thỉ sinh).

Trước sinh sau hoàn(trở lại) diệt.

Từ nhân duyên có, không

Lời này ta chẳng dạy

Pháp vô thỉ vô chung

Không tướng trụ như vậy.

Do trụ tướng thế gian

Người tà giác chẳng biết

Pháp quá khứ chẳng không

Pháp vị lai là có

Pháp hiện tại cũng có

Chẳng nên nói pháp sinh.

Khi chuyển và hành tướng

Các đại và các căn

Hư vọng thủ “trung ấm”(phần còn lại sau khi chết)

Nếu thủ (lấy) phi giác thì

Tất cả Phật Thế Tôn

Chẳng nói nhân duyên sinh.

Nhân duyên tức cõi thế

Như Càn thát bà thành

Chỉ pháp duyên hòa hợp

Nương pháp này sinh pháp.

Lìa các pháp hòa hợp

Chẳng diệt cũng chẳng sinh

Gương và ở trong nước

Mắt và khí (đồ) ma ni

Mà thấy các cảnh tượng (hình dáng trong gương).

Các ảnh tượng là không

Như thú thích “không thủy”

Thấy đủ thứ sắc hình

Ðủ thứ tựa như có

Như mộng, con thạch mỡ.

Thừa ta phi Ðại thừa

Phi thanh cũng phi tự (chữ)

Phi giải thoát, phi đế

Phi cảnh giới tịch tịnh

Mà thừa ta, Ðại thừa

Các tam muội tự tại.

Thân như ý đủ thứ

Hoa tự tại trang nghiêm

Nhất thể và biệt thể

Không pháp trong nhân duyên.

Lược nói các pháp sinh

Rộng nói các pháp diệt.

Chẳng sinh, không là một

Mà sinh, không là hai.

Chẳng sinh, không là thắng

Sinh, diệt tức là không.

Chân như, không, thật tế

Pháp giới cùng Niết Bàn

Thân và ý đủ thứ

Ta nói pháp khác tên (dị danh).

Kinh, Tỳ Ni, Tỳ Ðàm

Phân biệt ngã thanh tịnh

Chẳng y nghĩa, y danh

Ðó chẳng biết vô ngã.

Phi Phật, phi ngoại đạo

Phi ngã cũng chẳng (phải) còn (phi dư)

Từ duyên thành có pháp

Thì sao các pháp không? (có)

Người nào thành tựu có

Từ nhân duyên nói không?

Nói pháp sinh tà kiến

Vọng phân biệt có, không.

Nếu người thấy chẳng sinh

Cũng thấy pháp chẳng diệt

Người đó lìa có, không

Thấy thế gian tịch tịnh.

Chúng sinh thấy biệt phân

Khả kiến như sừng thỏ

Phân biệt là hoặc mê

Như chim yêu ánh lửa.

Hư vọng phân biệt pháp

Nương thấy phân biệt kia

Không nhân duyên phân biệt

Không nhân chẳng nên chia.

Như nước mà lấy nước

Như thủ vọng sinh yêu.

Ngu si thấy như vậy

Thánh nhân không như vậy.

Thánh nhân thấy sạch trong

Do sinh ba giải thoát

Lìa các pháp tử sinh

Tu hành chỗ tịch tịnh.

Rất khoái diệu phương tiện

Biết việc diệu nước non

Ta vì các con nói

Chẳng vì những thừa nhỏ (tiểu thừa).

Ba cõi là vô thường

Không, vô ngã, lìa ngã

Tướng riêng (biệt tướng) và tướng đồng.

Ta nói vì Thanh Văn.

Mọi pháp chẳng chấp trước

Ðộc hành lìa thế gian

Ta nói quả Duyên Giác

Phi cảnh giới tư lương.

Phân biệt ngoài thật thể

Từ tha lực nên sinh

Thấy tự thân mê hoặc

Bấy giờ chuyển các tâm.

Thập địa tức Sơ địa

Sơ địa tức Bát địa

Cữu địa tức Thất địa

Thất địa tức Bát địa

Nhị địa tức Tam địa

Tứ địa tức Ngũ địa

Tam địa tức Lục địa

Tịch tịnh không thứ lớp

Các pháp tịch tịnh luôn

Người tu hành không pháp

Bình đẳng pháp có không

Bấy giờ Thánh được quả.

Thể tướng các pháp không

Làm sao ở không (có) pháp

Mà tạo tác ngang bằng (bình đẳng)

Tịch diệt không phân biệt.

Nếu chẳng thấy các tâm

Pháp trong và ngoài động

Bấy giờ diệt pháp xong

Thì thấy tâm bình đẳng.

Ngu vô thỉ lưu chuyển

Thủ pháp như ôm mang

Lừa (dối) phàm phu mà chuyển.

Như nhân quế, quế sinh.

Nương nhân đó mà quán

Ý thủ cảnh giới chung

Nương vào chủng tử thức

Có thể tạo tâm nhân.

Tu được và trụ giữ

Tùy chủng loại được thân

Và sở đắc trong mộng

Thông này có bốn giống (thứ).

Trong mộng sở đắc thông

Và với ân chư Phật

Thủ chủng loại thân được

Thông đó chẳng thật thông.

Huân tập tâm, chủng tử

Tựa có pháp chuyển sinh

Người ngu chẳng hay biết

Vì họ, nói pháp sinh.

Phân biệt ở ngoại vật

Các pháp tướng được thành.

Bấy giờ lòng buồn bực

Chẳng thấy tự mê hoặc.

Vì sao nói có sinh?

Vì sao nói không thấy?

Chẳng thể thấy mà thấy ?

Nguyện xin nói vì con!

Vì đối với những ai?

Nói những pháp nào có?

Vì đối với những ai?

Nói những pháp nào không?

Tâm thể tự thanh tịnh

Ý khởi vẩn đục chung

Ý và tất cả thức

Hay huân tập chủng tử

A lê gia xuất thân

Ý xuất cầu các pháp

Ý thức chọn cảnh giới

Mê hoặc kiến tham lấy.

Pháp sở kiến tự tâm

Ngoại pháp, không ngoại pháp

Quán như vậy mê lầm

Chân như luôn nhớ nghĩ

Cảnh giới người tu thiền

Nghiệp đại sự chư Phật

Ba (thứ) này chẳng nghĩ bàn

Là cảnh giới kẻ trí.

Quá khứ, hiện, vị lai

Niết Bàn và hư không

Ta nương thế đế nói

Chân đế không tự danh.

Nhị thừa và ngoại đạo

Ðều chấp trước tà kiến

Mê mất ở trong tâm

Phân biệt ở ngoại pháp.

Bích Chi Phật, Bồ tát

La hán thấy chư Phật

Chủng tử Bồ Ðề bền

Và trong mộng thành tựu.

Ở đâu? Vì những gì?

Tại sao? Vì nhân gì?

Việc làm vì nghĩa gì?

Nguyện xin nói vì con!

Tâm huyễn khử tịch tịnh

Bè đảng nói có, không

Trong lòng mê bền chắc

Nói huyễn có, huyễn không.

Tướng sinh diệt tương ứng

Tướng, khả tưởng có không,

Phân biệt chỉ là ý

Năm thứ thức cùng chung.

Bóng gương cùng sóng nước…

Từ tâm chủng tử sinh

Nếu tâm và cả ý

Mà các thức chẳng sinh

Thì được Như ý thân

Cho đến ngôi Phật địa.

Ấm, giới và các duyên

Là pháp tự thể tướng

Giả danh và nhân tâm

Như mộng như mao luân.

Thế gian như huyễn, mộng

Thấy y chỉ thật chân

Các tướng thật tương ứng

Lìa các nhân đo lường.

Nội cảnh các Thánh nhân

Thường quán các diệu hạnh

Mê che nhân đo lường

Khiến thế gian thật giải.

Lìa mọi luận bàn suông (hí luận)

Trí chẳng trụ mê hoặc

Thể tướng các pháp không (có).

Không và thường, vô thường.

Lòng trụ ở ngu dại

Mê hoặc nên biệt phân

Nói về những pháp đó

Chẳng phải nói vô sinh.

Một, hai và cả hai(?)

Bỗng nhiên tự tại có

Nương thời(gian) thắng vi trần.

Duyên phân biệt thế gian.

Hạt giống đời là thức

Y chỉ nhân đó sinh

Như nương vách vẽ tượng(hình dáng)

Biết thật là diệt tan.

Như người thấy ở huyễn

Cũng vậy, thấy tử sinh

Người ngu nương bóng tối

Trói buộc, giải thoát sinh.

Những đủ thứ nội ngoại

Các pháp và nhân duyên

Tu hành quán như vậy

Chỗ tịch tịnh trụ yên.

Vô tâm trong huân tập

Lòng chẳng huân tập chung

Lòng không tướng sai biệt

Huân tập trói buộc lòng.

Như cấu(cấu bẩn) thấy huân tập.

Ý từ ở thức sinh

Như lụa, tâm cũng thế

Nương huân tập chẳng rõ (rệt).

Như vật phi vô vật

Ta nói hư không vậy.

Trong A lê gia thân

Lìa khỏi vật có không

Ý thức chuyển diệt xong

Lòng lìa khỏi pháp bẩn.

Tất cả pháp biết thông

Nên ta nói tâm Phật.

Ỏ ba cõi đoạn tuyệt

Lìa khỏi pháp có không.

Thế gian bốn tương ứng

Các hữu đều như huyễn

Là hai pháp thể tướng

Thất địa từ tâm sinh.

Ðịa khác cũng viên thành

Nhị địa và Phật địa

Sắc giới, Vô sắc giới

Dục giới và Niết Bàn.

Tất cả tâm cảnh giới

Chẳng lìa khỏi trong thân

Nếu thấy các pháp sinh

Là sinh pháp mê hoặc.

Hiểu tự tâm mê hoặc

Là chẳng sinh các pháp,

Không sinh thể tướng pháp

Sinh tức chấp thế gian.

Thấy các tướng như huyễn

Như vậy pháp thể tướng

Thủ hư vọng tư tâm

Chớ phân biệt các pháp.

Vì si không trí nói

Ba thừa cùng một thừa

Và nói đến vô thừa

Các thánh nhân tịch tịnh.

Pháp ta có hai thứ

Tướng pháp và chứng nữa

Bốn thứ tướng châm lường

Lập lượng, pháp tương ứng.

Hình và tướng thắng chủng

Thấy mê hoặc biệt phân

Danh tự và hành xứ

Hạnh Thánh thật sạch trong (thanh tịnh).

Nương phân biệt (mà) phân biệt

Nên có tướng phân biệt

Lìa phân biệt (mà) biệt phân

Cảnh giới Thánh thật thể.

Chẳng biến (đổi) thật thường hằng

Tính sự và thật thể

Chân như lìa pháp tâm

Xa lìa khỏi phân biệt.

Nếu có pháp sạch trong (thanh tịnh)

Cũng không có nhiễm pháp

Do có thanh tịnh tâm

Mà thấy có nhiễm pháp.

Cảnh giới Thánh sạch trong

Vậy nên không thật sự

Là tướng các pháp thể

Cảnh giới của Thánh nhân.

Từ nhân sinh thế gian

Lìa khỏi các phân biệt

Như huyễn, mộng vân…vân..

Thấy pháp được giải thoát.

Huân tập nhiều não phiền (đủ thứ)

Chung tâm tương ứng sinh

Chúng sinh thấy ngoại pháp

Chẳng phải pháp thể tâm.

Tâm pháp thường thanh tịnh

Chẳng phải mê hoặc sinh

Mê từ phiền não khởi

Vậy nên tâm chẳng thấy.

Mê hoặc tức thật chân

Chỗ khác chẳng thể được

Chẳng ấm, chẳng chỗ khác

Quán ấm, hành thật chân.

Lìa thấy, giỏi thấy tướng

Nếu thấy pháp hữu vi

Thấy tự tâm thế gian

Người đó giỏi lìa tướng

Chớ thấy pháp duy tâm

Chớ phân biệt ngoại nghĩa

Trụ Chân như xét xem

Qua khỏi tâm cảnh giới

Qua cảnh giới tâm xong

Xa lìa các tịch tịnh

Tu hành trụ tịch tịnh

Hành giả trụ lặng yên (tịch tịnh).

Chẳng thấy Ma ha diễn (Ðại thừa)

Tịch tịnh là tự nhiên

Nương các nguyện tịch tịnh

Trí vô ngã tịch tịnh.

Nên quán cảnh giới tâm

Cũng quán cảnh giới trí

Trí tuệ quán cảnh giới

Ở trong tướng chẳng mê.

Cảnh giới tâm: Khổ đế

Tập là cảnh giới trí

Nhị đế và Phật địa

Là cảnh giới Bát nhã.

Ðắc quả và Niết Bàn

Và cả tám thánh đạo

Tất cả pháp, biết thông

Ðược Phật trí thanh tịnh.

Nhãn sắc và cả minh (ánh sáng)

Hư không cùng tâm ý

Như vậy hòa hợp lại

Thức từ Lê gia sinh

Năng thủ, khả thủ thọ (nhận)

Vô sự cũng vô danh.

Không có nhân phân biệt

Nếu thủ lấy ở giác

Thì trong nghĩa không danh

Trong danh, nghĩa cũng vậy.

Nhân không nhân mà sinh

Chớ phân biệt (mà) phân biệt

Tất cả pháp không thật

Cũng vậy lời ngữ ngôn.

Nghĩa vậy không, chẳng không.

Ngu si thấy pháp đúng

Vọng lấy mà trụ chân (thật)

Tà kiến nói giả danh.

Một pháp thành năm thứ (?)

Như thật giỏi lìa xa

Năm thứ là pháp ma

Có, không vượt qua khỏi.

Chẳng phải tu cảnh giới

Là pháp ngoại đạo mà!

Chẳng cầu có pháp tà

Cũng không tương kiến ngã.

Do là pháp mình thường

Chỉ từ ngôn ngữ sinh

Thật đế chẳng thể nói

Tịch diệt thấy pháp liền.

A lê gia y chỉ

Ý thức hay chuyển sinh

Nương hư, hư vọng thành

Chân như là tâm pháp

Như vậy người tu hành

Hay biết tâm tính thể

Phân biệt thường, vô thường

Ý tướng và sự việc

Sinh và cùng chẳng sinh

Hành giả chẳng nên thủ (lấy)

Hai pháp chớ biệt phân

Thức từ Lê gia sinh

Một nghĩa hai tâm pháp

Chẳng biết như vậy sinh.

Thủ (lấy) một pháp, hai pháp

Là cảnh giới người phàm

Không người nói và nói

Chẳng không do thấy tâm.

Chẳng thấy ở tự tâm

Nên sinh màn lưới thấy

Các nhân duyên chẳng sinh

Các căn cũng như vậy.

Giới và năm ấm không

Không hữu vi, không tham

Vốn không có tác nghiệp

Phi hữu vi, chẳng làm.

Không trừ, cũng không buộc

Không buộc, không giải thoát

Không vô ký, vô vật

Không pháp, không phi pháp

Không thời không Niết Bàn

Pháp thể cũng là không

Không Phật, không thật đế

Không nhân cũng không quả

Không diệt, không đảo điên

Không diệt cũng không sinh

Mười hai chi cũng không

Biên, vô biên cũng vậy

Các tà kiến lìa khỏi

Vậy nên nói duy tâm.

Phiền não, nghiệp và thân

Tác giả cùng quả báo

Như mộng và ngọn lửa

Như Càn thát bà thành…

Trụ ở trong tâm pháp

Các pháp tướng mà sinh

Trụ ở trong tâm pháp

Mà thấy pháp đoạn, thường.

Trong Niết Bàn không ấm

Tưởng vô ngã cũng không

Hay vào chỉ là tâm

Giải thoát chẳng chọn tướng.

Thấy lỗi gì tha nhân

Bên ngoài chúng sinh thấy

Tâm chẳng phải có, không

Do huân tập chẳng hiển (rõ rệt).

Trong bẩn chẳng thấy trắng

Trong trắng chẳng thấy bẩn

Như mây che hư không

Vậy nên tâm chẳng thấy.

Tâm hay tạo tác nghiệp

Trí ở trong phân biệt

Tuệ hay quán lặng yên (tịch tịnh).

Ðược pháp thể đại diệu.

Cảnh giới buộc, tâm nương

Trí nưong giác quán sinh

Cảnh giới thắng tịch tịnh

Tuệ hay hành ở trong.

Tâm ý và ý thức

Ở trong tướng biệt phân

Ðược thể không phân biệt

Nhị thừa chẳng (phải) các con.

Tướng thắng nhân tịch tịnh

Chư Phật trí tuệ tịnh

Với thắng nghĩa hay sinh

Ðã lìa các tướng hành

Phân biệt pháp thể có

Tha lực pháp là không

Mê hoặc thủ phân biệt

Chẳng phân biệt tha lực.

Phi các đại có sắc

Có sắc phi các đại

Mộng, huyễn, càn thát bà

Thú khát yêu không nước.

Ta có ba thứ tuệ

Ðược y chỉ Thánh danh

Tâm trong không pháp sinh

Vậy nên tâm chẳng thấy.

Trụ giữ thân tư sinh (của sinh sống của thân)

Chúng sinh nương huân (tập) kiến

Nương tướng phân biệt kia

Mà nói đến các pháp.

Lìa tương ứng nhị thừa

Tuệ lìa hiện pháp tướng

Hư vọng thủ (lấy) pháp nên

Thanh Văn nhìn thấy pháp.

Hay vào chỉ là Tâm

Trí Như Lai vô cấu

Hoặc thật và chẳng chân (thật).

Từ nhân duyên sinh pháp.

Một hai là thấy tà

Rốt ráo hay thủ trước

Ðủ thứ các nhân duyên

Như huyễn không thật có.

Tướng như vậy đủ thứ

Phân biệt chẳng thể thành

Nương vào tướng phiền não

Trói buộc từ tâm sinh.

Chẳng biết pháp phân biệt

Tha lực là phân biệt

Thể phân biệt có thành

Tức là pháp tha lực.

Ðủ thứ thấy phân biệt

Ở phân biệt tha lực

Nghĩa thế đế đệ nhất

Ðệ tam không nhân sinh (?)

Phân biệt nói tương tục

Ðoạn là cảnh thánh nhân

Người tu hành một việc

Thấy đủ thứ chỉ tâm.

Chỗ đó không thể tâm

Tướng phân biệt như vậy

Người trong mắt bị màn

Ngăn phi sắc phi sắc

Như ngu thấy tha lực.

Như vàng lìa bụi trần

Như nước lìa bùn đục

Như hư không lìa vân (mây)

Phân biệt tịnh như vậy.

Có ba thứ Thanh Văn

Ứng, hóa và nguyện sinh

Lìa các tham si bẩn

Tướng các Như Lai không(có).

Trong lòng chúng sinh tâm

Thấy tượng Như Lai Phật

Phân biệt không như vậy

Pháp thể tha lực có.

Thấy có, không hai biên

Thấy nên thấy phân biệt

Nếu không pháp phân biệt

Tha lực làm sao có?

Xa lìa có pháp thể

Thật có pháp thể sinh

Y chỉ ở phân biệt

Mà thấy ở tha lực.

Nương hòa hợp tướng, danh

Mà sinh ra phân biệt

Việc thành tựu thường không

Tha lực phân biệt sinh.

Bấy giờ biết thật thể

Ðệ Nhất Nghĩa sạch trong (thanh tịnh).

Phân biệt có mười thứ

Tha lực có sáu thứ

Chân như là nội thân

Vậy nên không tướng khác.

Năm pháp là pháp chân (thật)

Và ba thứ thật tướng

Như vậy người tu hành

Chẳng hoại Chân như pháp

Tinh tú, mây, dáng hình

Tợ như thể nhật, nguyệt

Các chúng sinh thấy tâm

Khả kiến huân tập sinh.

Các Ðại không tự thể

Phi năng kiến, khả kiến

Nếu sắc từ Ðại sinh

(Thì) Các Ðại sinh các Ðại.

Như vậy Ðại chẳng sinh

Trong Ðại không bốn Ðại

Nếu quả là bốn Ðại

Thì đất, nước… là nhân

Thật và giả Danh sắc

Cũng vậy mà huyễn sinh.

Càn thát bà và mộng

Thú thích nước thứ năm

Nhất xiển đề năm thứ

Các tính cũng như thế.

Năm thừa và phi thừa

Niết Bàn có sáu thứ

Ấm có hai mươi tư

Sắc lại có tám thứ.

Phật có hai mươi tư

Phật tử có hai thứ

Cửa độ có trăm thứ

Thanh Văn có ba thứ.

Nước chư Phật chỉ một

Mà Phật cũng có một

Giải thoát có ba thứ

Lòng nghĩ có bốn thứ

Ngã, vô ngã sáu thứ

Cảnh khả tri bốn thứ.

Lìa khỏi các nhân duyên

Cũng lìa lỗi tà kiến

Biết ly cấu nội thân

Pháp Ðại Thừa Vô thượng.

Sinh và cả chẳng sinh

Có tám thứ, chín thứ

Thứ lớp nhất thời thành (chứng)

Lập pháp chỉ là một.

Vô sắc có tám thứ

Thiền sai biệt sáu thứ

Duyên Giác và Phật tử

Năng thủ có bảy thứ.

Không có pháp ba đời

Thường, vô thường cũng vậy,

Nghiệp quả và việc làm

Như làm việc trong mộng.

Phật tùng lai (từ xưa đến nay) chẳng sinh

Phật tử và Thanh Văn

Lòng lìa khỏi khả kiến

Cũng thường như pháp huyễn:

Thai sinh, chuyển pháp luân

Xuất gia và Ðâu suất

Trụ trong những đất nước

Khả kiến và chẳng sinh

Khứ, hành và chúng sinh

Nói pháp và Niết Bàn.

Hiểu thật đế đất nước

Pháp sinh từ nhân duyên

Các rừng cây thế gian

Vô ngã ngoại đạo hạnh.

Thiền thừa A lê gia

Chứng quả chẳng nghĩ bàn

Tính trăng và tinh tú

Các vua A tu la

Dạ xoa, Càn thát bà

Nhân nghiệp mà phát sinh

Chẳng thể nghĩ bàn biến(biến đổi).

Lùi nương huân tập duyên

Ðoạn tuyệt các biến dịch

Thì tội phiền não diệt.

Tất cả các Bồ tát

Mà như thật tu hành

Chẳng chứa các của báu

Voi ngựa và bạc vàng

Trâu dê cùng nô bộc…

Lúa gạo với ruộng vườn…

Chẳng nằm “xuyên khổng sàn” (giường xuyên lỗ (?))

Chẳng được “nên đồ địa”(bùn trét đất (?))

Ðồng đỏ trắng, bạc, vàng

Ðồ dùng và chén, bát…

Người tu hành tịnh hạnh

Tất cả chẳng được chứa.

Quần áo Kiều-xa-gia

Tất cả chẳng được mặc.

Cà sa Khâm-bà-la

Phân trâu, cỏ, trái, lá

Nước bùn đất xanh, đỏ

Nhuộm hoại màu trắng đi.

Bát bằng đá, gốm, sắt

Ngọc kha và lưu ly…

Bát như vậy cho giữ

Ðủ đầy lượng Ma đà.

Vì cắt may quần áo

Cho giữ tứ thốn đao(dao bốn tấc)

Lưỡi cong như bán nguyệt

Chẳng được học kỹ thuật.

Người như thật tu hành

Chẳng ra chợ buôn bán

Chạy theo người thế gian

Và những ưu-bà-tắc

Thường hộ giữ các căn

Biết được nghĩa như thật

Kinh điển đọc tụng luôn

Những Tỳ ni học tập

Chẳng xen lẫn thế gian

Người tu hành như vậy.

Chỗ trống cùng nghĩa trang

Dưới cây rừng, trong hang

Rừng Thi đà trong cỏ

Cho đến đất ngoài đồng

Người tu hành như thật

Trụ những chỗ như trên.

Ba y thường tùy thân

Chẳng chứa của tiền khác

Vì thân cần áo quần

Người khác cho, được nhận.

Ra đi vì xin ăn

Cũng chẳng nhìn phải, trái

Sáu thước trước được nhìn

An tường mà thẳng tiến.

Như ong hút mật bông(hoa)

Xin ăn cũng như vậy.

Tỳkheo, Tỳkheo ni

Trong chúng xen lẫn chúng

Ta vì Phật tử xướng:

Ðây là “ác mạng họat” (cách kiếm sống xấu, ác)

Người như thật tu hành.

Chẳng được ăn chỗ ấy.

Vương tử, tiểu vương, vương

Ðại thần và trưởng giả

Vì cầu xin uống ăn

Tất cả chẳng được đến.

Nhà chết và nhà sinh

Nhà yêu thích, nhà thân (quen).

Chúng Tỳkheo tạp nhạp…

Người tu hành chẳng ăn.

Chùa, nhà khói chẳng dứt

Thường là đủ thứ ăn

Nên vì người tạo tác

Hành giả chẳng nên ăn.

Lìa bè đảng có, không

Năng kiến, khả kiến buộc

Hành giả xem thế gian

Lìa khỏi pháp sinh diệt.

Sức tam muội tương ưng

Và các thông tự tại

Phân biệt nếu chẳng sinh

Chẳng lâu được Như pháp.

Từ người thắng, vi trần…

Trong duyên chớ phân biệt

Hòa hợp các nhân duyên

Hành giả chẳng phân biệt.

Phân biệt các thế gian

Từ huân (tập) sinh đủ thứ

Hành giả như thật xem

Ba hữu như huyễn, mộng.

Ba hữu chớ biệt phân

Của nuôi thân trụ giữ

Lìa bài báng có, không

Cũng lìa thấy có, không.

Ăn uống như uống thuốc

Thân tâm thường chánh trực

Chuyên cung kính một lòng

Phật và các Bồ tát

Người như thật tu hành

Nên biết những tướng luật

Và cả những điển Kinh

Giản trạch (chọn lựa) các pháp tướng.

Năm pháp thể và lòng

Tu hành không ngũ tướng

Thanh tịnh nội pháp thân

Các Ðịa và Phật địa

Người như vậy tu hành

Trụ ở hoa sen lớn

Chư Phật đại từ bi

Tay Như ý xoa đầu.

Ở sáu đường đến, đi

Các hữu sinh lòng chán

Phát khởi hạnh thật chân

Ðến trong Thi Ðà lâm.

Tướng hình thể nhật nguyệt

Và với tướng biển hoa

Lửa hư không đủ thứ

Người tu hành thấy pháp.

Thấy các tướng như trên

Chọn lấy pháp ngoại đạo

Cũng theo đạo Thanh Văn

Và cảnh giới Duyên Giác.

Lìa như vậy vân… vân…

Trụ ở chỗ tịch tịnh

Thì Phật diệu quang minh

Ði đến các đất nước,

Xoa đỉnh đầu Bồ tát

Tướng diệu xoa đỉnh này

Thuận theo Chân như pháp

Bấy giờ được diệu thân.

Có không nhân pháp thể

Lìa khỏi pháp đoạn thường

Bài báng pháp có không

Là phân biệt trung đạo.

Phân biệt không các nhân

Không nhân là đoạn kiến

Thấy đủ thứ ngoại pháp

Là người diệt trung đạo.

Chẳng xả các tướng pháp

Sợ có tướng đoạn tuyệt

Có, không là báng pháp

Như vậy nói trung đạo.

Giác chỉ là nội tâm

Ở ngoại pháp chẳng diệt

Chuyển hư phân biệt

Tức là pháp trung đạo.

Duy tâm không thể thấy

Lìa khỏi tâm chẳng sinh

Tức là pháp trung đạo

Ta và chư Phật nói,

Sinh và với chẳng sinh

Hữu vật, vô vật không

Các pháp không tự thể

Chớ phân biệt hai pháp.

Phân biệt là có pháp

Ngu phân biệt giải thoát

Chẳng giác tâm phân biệt

Lìa khỏi hai tướng thủ.

Giác biết tự tâm kiến

Thì lìa khỏi hai kiến

Như thật biết xa lìa

Chẳng diệt phân biệt tướng.

Thật biết tâm khả kiến

Thì biết phân biệt sinh

Chẳng sinh các phân biệt

Là Chân như lìa tâm

Lìa các lỗi ngoại đạo

Các pháp nếu thấy sinh

Kẻ trí kia nên lấy

Mà chẳng diệt Niết Bàn

Biết pháp này là Phật

Ta nói và Phật khác

Nếu thấy khác các pháp

Là nói việc ngoại đạo.

Chẳng sinh hiện ra sinh

Chẳng thoái hiện ra thoái

Như trăng nước đồng thời

Vạn ức nước nhìn thấy.

Một thân và không lường

Rót mưa và đốt lửa

Tâm, tâm thể chẳng khác

Nên nói chỉ là tâm.

Trong tâm chỉ là tâm

Tâm không tâm mà sinh

Ðủ thứ tướng sắc hình

Cái thấy chỉ là tâm.

Thân Phật và Thanh Văn

Cùng thân Bích Chi Phật…

Lại đủ thứ sắc thân

Chỉ nói là nội tâm

Cõi Vô sắc không sắc

Cõi Sắc và địa ngục

Sắc hiện làm chúng sinh

Chỉ là nhân duyên tâm.

Pháp Như huyễn tam muội

Mà thân như ý sinh

Tâm Thập địa tự tại

Bồ tát chuyển được đó.

Tự tâm phân biệt danh

Hí luận mà lay động

Nương thấy nghe, biết sinh

Ngu si nương tướng biết.

Tướng là thể Tha lực

Nó nương danh phân biệt

Phân biệt là các tướng

Nương tha lực pháp sinh.

Trí tuệ quán các pháp

Không tha lực, tướng không

Rốt ráo không thành tựu

Trí nương đâu biệt phân?

Nếu có pháp thành tựu

Lìa khỏi pháp có, không

Lìa khỏi thể có, không

Hai thể làm sao có?

Phân biệt hai thứ thể

Hai thứ thể nên có

Phân biệt thấy đủ thứ.

Cảnh giới Thánh sạch trong.

Phân biệt là đủ thứ

Phân biệt là tha lực

Nếu phân biệt khác thì

Rơi vào ngoại đạo thuyết.

Phân biệt là phân biệt

Thấy là thể tướng (của) nhân

Phân biệt nói phân biệt

Thấy là nhân tướng sinh.

Lìa khỏi hai phân biệt

Tức là pháp viên thành

Ðất nước hóa thân Phật

Một thừa và ba thừa.

Không Niết Bàn tất cả

“Không” lìa tất cả sinh

Phật ba mươi sai biệt

Riêng lại có mười thứ.

Khí dụng của mọi nước

Nương vào lòng chúng sinh

Như phân biệt tướng pháp

Hiện thấy đủ thứ pháp.

Pháp đó không đủ thứ

Pháp Phật (pháp thân Phật) ở thế gian.

Pháp Phật là chân Phật

Còn thì nương đó sinh (hóa sinh ra)

Chúng sinh tự chủng tử

Thấy tướng Phật tất cả

Nương mê hoặc chuyển lòng

Có thể sinh phân biệt.

Phân biệt chẳng lìa chân

Và chẳng lìa khỏi tướng

Thọ lạc và thể chân (thật)

Hóa lại làm các hóa (biến hóa).

Phật chúng ba mươi sáu (?)

Là thể Phật thật chân

Như xanh, đỏ và muối

Sữa trắng và mật đường

Lá, quả, hoa vân… vân…

Như những ánh sáng trăng

Phi nhất cũng phi dị

Như sóng trong nước dậy.

Như vậy bảy thức cùng

Chung hòa hợp với lòng

Như biển cả chuyển biến

Vậy nên sóng dậy lên.

A lê gia cũng vậy

Danh thức cũng như vậy

Tâm ý và ý thức

Nghĩa ngoại tướng phân biệt.

Tám tướng không sai biệt

Chẳng phải năng, khả kiến

Như sóng nước biển lớn

Không có tướng sai biệt.

Các thức ở trong tâm

Chuyển biến chẳng thể được

Tâm hay tạo các nghiệp

Ý là hay phân biệt

Ý thức hay biết pháp

Năm thức hư vọng thấy

Ðủ thứ trắng, đỏ, xanh

Thức chúng sinh hiện thấy

Ðối pháp tướng sóng nước

Là ta nói tịch mặc (Mâu Ni).

Ðủ thứ trắng, đỏ, xanh

Trong sóng nước không vậy

Các tướng, ngu si thấy

Nói chuyển ở trong lòng

Trong tâm không là thể

Lìa tâm không thấy ngoài

Nếu có được khả thủ

Nên có được năng thủ.

Trụ giữ thân tư sinh(của cải thân sinh sống)

Nói sóng nước tương tợ

Hiện thấy thức chúng sinh

Sóng nước chung tương tợ.

Sóng biển cả khởi lên

Hiện thấy như múa chuyển

Bản thức như vậy chuyển

Biết chẳng thủ vì sao?

Ngu si không trí tuệ

Bản thức như sóng bể (biển)

Sóng nước đối tướng chuyển

Vậy nên nói thí dụ:

Mặt trời mọc thế gian

Bình đẳng soi sinh chúng

Như vậy đèn Thế Tôn

Chẳngvì ngu (mà) nói pháp.

Trụ ở Chân như pháp

Chẳng nói thật vì sao?

Nếu nói ra pháp thật

Trong lòng không pháp thật

Như trong mộng và gương

Như sóng nước trong bể

Như cảnh giới tự tâm

Ðều thấy không sau, trước

Cảnh giới nhất thời không

Vậy nên sinh thứ lớp.

Thức hay biết các pháp

Ý lại hay biệt phân

Năm thức hiện thấy pháp

Tịch tịnh không thứ lớp.

Như thầy vẽ thế gian

Và đệ tử thầy vẽ

Ở diệu pháp ta trụ

Nói vì thật tu hành.

Lìa phân biệt phân biệt

Là thật trí nội thân

Ta nói vì Phật tử

Chẳng vì những ngu nhân.

Cũng như huyễn đủ thứ

Khả kiến không như thế

Nói đủ thứ cũng vậy

Nói cũng vậy chẳng vậy.

Vì một người nói pháp

Chẳng nói vì người khác

Như người bệnh chẳng đồng

Thầy thuốc cho thuốc riêng.

Chư Phật vì sinh chúng

Nói các pháp tùy lòng

Nương chủng tử ngoại pháp

Phân biệt nói hiện pháp.

Tâm thủ (lấy) pháp tha lực

Khả thủ là phân biệt

Y chỉ chủng tử tâm

Quán lấy ngoại cảnh giới.

Hai thứ chuyển mê hoặc

Lại không đệ tam nhân

Do mê hoặc chẳng sinh

Nương pháp nào chẳng sinh?

Sáu mươi, mười tám pháp

Vậy nên chỉ nói tâm.

Tự tâm thấy ngoại pháp

Thấy kia lìa khỏi ngã

Nếu vào lòng biệt phân

Thì lìa các pháp tướng.

Nương vào A lê gia

Hay sinh ra các thức

Ngu si vào nội thân

Tâm thấy ở ngoại nhập.

Thủ (lấy) tinh tú, mao luân

Như trong mơ thấy sắc

Hữu vi, vô vi thường

Phân biệt không như vậy.

Huyễn, Càn thát bà thành

Như cầm thú thích nước

Không vậy mà thấy có

Pháp tha lực cũng thế.

Hình tướng ngã, các căn

Ta nói ba thứ tâm

Tâm ý và ý thức

Lìa khỏi tự thể tướng

Tâm ý và ý thức

Lìa khỏi tha thể tướng

Tâm ý và ý thức

Không ngã, không hai thể.

Tướng năm pháp tự thể

Là cảnh giới Thế Tôn

Về tướng có ba thử

Nương vào một huân (tập) nhân

Như màu sắc một thứ

Thấy đủ thứ trên tường.

Hai thứ tâm vô ngã

Ý và các thức tướng

Năm thứ pháp thể tướng

Tính ngã không như vậy.

Xa lìa các tướng tâm

Thức lìa khỏi ý tướng

Thể các pháp như thế

Là cảnh giới của Ngã.

Lìa khỏi các pháp thể

Là tính của Như Lai

Nghiệp thân, miệng và ý

Kia chẳng tạo bạch pháp.

Tính Như Lai sạch trong

Lìa khỏi các tu hành

Tự tại tịnh các thông

Trang nghiêm lực tam muội

Ðủ thứ ý sinh thân

Là tính Như Lai tịnh

Lìa bẩn, trí nội thân

Lìa khỏi các tướng nhân.

Bát địa và Phật địa

Là tính các Như Lai

Viễn Hành, Thiện Thệ địa

Pháp Vân cùng Phật địa

Là tính của chư Phật

Ðịa khác xem ba thừa.

Nương riêng thân chúng sinh

Và vì ngu phế tướng

Vì nói bảy thứ địa

Nên Phật nói tâm địa.

Các chướng thân, miệng, lòng

Trong Thất địa không thế

Trong Bát địa diệu thân

Như mơ tướng bạo thủy.

Bát địa và Ngũ địa

Học đủ thứ kỹ thuật

Tất cả các Phật tử

Trong ba hữu làm vua.

Sinh và cùng chẳng sinh

Chẳng phân không chẳng không

Thật và cả chẳng thật

Không như vậy trong lòng.

Ðây thật, đây phi thật

Chớ phân biệt thật này

Duyên Giác và Thanh Văn

Chẳng vì Phật tử nói

Có không có phi thật

Cũng không có tướng không

Giả danh và thật pháp

Trong lòng tất cả không.

Nương thế đế có pháp

Ðệ nhất nghĩa đều không

Không thật pháp mê hoặc

Là các pháp thế đế.

Tất cả pháp, không pháp

Ta nói đến giả danh

Ngôn ngữ và thọ dụng

Ngu si thấy thật chân (như thật).

Theo với pháp ngữ ngôn

Là thật có cảnh giới

Từ ngôn ngữ pháp sinh

Thấy pháp không như vậy.

Như lìa vách, vẽ không (có)

Cũng như ảnh lìa tượng

Bản tịnh thức cũng vậy

Vì sóng chẳng hiện lên.

Như huyễn, tâm cũng vậy

Ý như người giảo hoạt

Thức với năm thứ chung

Phân biệt thấy như thải (năm sắc xen lẫn).

Nói là tập (quen) pháp chân

Tập (gom) sở hữu hóa làm

Là chư Phật căn bản

Còn thì ứng hóa Phật.

Lòng mê trong khả kiến

Trong lòng khả kiến không

Của nuôi thân trụ giữ

A lê gia hiện liền.

Tâm ý và ý thức

Thật thể năm thứ pháp

Hai thứ vô ngã tịnh

Lời nói Phật Như Lai.

Hư vọng giác phi cảnh

Và cũng vậy Thanh Văn

Là cảnh giới nội thân

Lời nói Như Lai Phật.

Dài ngắn đợi chờ nhau

Ðó đây sinh nương nhau

Có có thể thành không

Không có thể thành có

Và phân biệt vi trần

Sắc thể chẳng phân biệt.

Nói chỉ là ở tâm

Tà kiến chẳng thể tịnh

Trong đó phân biệt không

Chẳng không cũng như vậy.

Chỉ phân biệt có, không

Khả thuyết không như vậy

Hợp công đức vi trần

Ngu si phân biệt sắc.

Mỗi một vi trần không

Vậy nên không là nghĩa

Tự tâm thấy tướng hình

Chúng sinh thấy ngoại hữu (có ở bên ngoài)

Pháp khả kiến ngoài không

Vậy nên không là nghĩa.

Tâm như huyễn, mao luân

Càn thát bà thành, mộng

Cầm thú yêu hỏa luân

Thật không mà người thấy.

Một và thường, vô thường

Hai và chẳng hai nữa

Lỗi vô thỉ buộc ràng

Ngu si mê phân biệt.

Ta chẳng nói ba thừa

Mà chỉ nói một thừa

Vì nhiếp lấy sinh chúng

Vậy nên nói một thừa.

Giải thoát có ba thứ

Cũng nó pháp vô ngã

Trí bình đẳng, não phiền

Nương giải thoát phân biệt.

Cũng như cây trong nước

Bị sóng cuốn lênh đênh

Như vậy si Thanh Văn

Vì các tướng phiêu đãng.

Họ không chỗ rốt cùng

Cũng lại chẳng hoàn sinh (sinh trở lại).

Ðược Tịch diệt tam muội

Chẳng hay (biết) kiếp không lường.

Ðịnh của Thanh Văn đó

Chẳng phải Bồ tát ta

Lìa các tùy phiền não

Buộc phiền não nương theo.

Say cảnh vui tam muội

Trụ cõi Vô Lậu kia

Như người say cõi thế

Rượu tan thì tỉnh ra.

Người đó nhiên hậu được

Thân thể Phật pháp ta

Như kẻ chìm bùn sâu

Thân vùng vẫy đây đó.

Như vậy Thanh Văn say

Tam muội, chìm cũng vậy.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Thừa Nhập Lăng Già - Kinh Tạng
  • Pháp Tùy Hành Niệm Tụng Đại Tì Lô Già Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh Lược Thị Thất Chi - Kinh Tạng
  • Pháp Môn Lược Thuật Kim Cang Đỉnh Du Già Phân Biệt Thánh Vị Tu Chứng - Kinh Tạng
  • Kinh Quan Trung Sáng Lập Giới Đàn Đồ - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác - Kinh Tạng
  • Đại Tì Lô Già Na Lược Yếu Tốc Tật Môn Ngũ Chi Niệm Tụng Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Sám Hối Lỗi Lầm Qua Lời Dạy Cho Tôn Giả Xá Lợi Phất - Kinh Tạng
  • Nghi Thức Tụng Niệm Đại Lạc Kim Cang Tát Đỏa Lược Trích Từ Kinh Kim Cang Đỉnh Thắng Sơ Du Già - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 145 – Kinh Giáo Giới Phú Lâu Na (Punnovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Phật nói Luận A Tỳ Đàm về Sự Thế Giới Thành Lập - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Lô Chí Trưởng Giả Nhân Duyên - Kinh Tạng
  • Ngữ Lục Của Thiền Sư Thụy Châu Động Sơn Lương Giới - Kinh Tạng
  • Kinh Lăng Già Tâm Ấn - Kinh Tạng
  • Pháp Bồ Tát Quán Tự Tại Đại Bi Trí ấn Chu Biến Pháp Giới Lợi Ích Chúng Sanh Huân Chơn Như - Kinh Tạng
  • Kinh Lầu Các Chánh Pháp Cam Lồ Cổ - Kinh Tạng
  • Những Kinh Do Tăng Già La Sát Tập Thành - Kinh Tạng
  • Phẩm Pháp Nghi Quỹ Niệm Tụng Cúng Dường Thánh Hạ Dã Hột Lí Phược Đại Oai Nộ Vương Lập Thành Đại Thần Nghiệm - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Nói Về Cảnh Giới Phật Không Thể Nghĩ Bàn - Kinh Tạng
  • Bảo Kinh Lăng Già A Bạt Đa La - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cang Đỉnh Nhứt Thiết Như Lai Chơn Thực Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Đại Giáo Vương - Kinh Tạng