1
2

Kinh Phật Nói Về Công Đức Xuất Gia

Việt dịch: Thích Tâm Nhãn

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong nước Tỳ-xá-ly, đến giờ thọ trai đức Phật vào thành khất thực.

Bấy giờ, trong thành Tỳ-xá-ly có một Lê-xa tên Tỳ-la-tiễn-na (ý dịch Dũng quân); ví dụ như trời và các tiên nữ đồng nô đùa, thì vương tử này và các thể nữ ở trên lầu vui chơi, đắm đuối trong sắc dục cũng như vậy. Khi ấy, đức Thế Tôn dùng Nhất thiết trí nghe âm thanh ấy rồi bảo A-nan:

– Ta biết người này tham đắm ngũ dục lạc, sau bảy ngày nữa thì mạng chung. Như vậy, anh ta sẽ xa lìa hạnh phúc bên người thân, nhất định phải chết. A-nan! Nếu người này không bỏ dục lạc, không xuất gia thì khi mạng chung có thể bị đọa địa ngục.

Bấy giờ, vâng lời chỉ dạy của Phật, muốn lợi ích cho vương tử này, nên A-nan đi đến nhà anh ta. Vương tử nghe A-nan ở bên ngoài liền đi ra nghinh đoán, với lòng tôn kính thỉnh A-nan vào nhà an tọa. A-nan vừa an tọa thì vương tử khởi tâm cung kính thưa với A-nan:

– Quí thay, người bạn tốt đã đến đây! Hôm nay, thật đúng lúc, tôi gặp được tôn giả hết sức vui mừng. Nếu tôn giả hoan hỷ có thể dạy bảo cho tôi về giáo pháp của Phật, giúp cho tôi được an lạc.

Vương tử thưa thỉnh như vậy ba lần. A-nan muốn vương tử được nhiều lợi ích nên im lặng không nói. Vương tử lại thưa:

Tỳ-na-a-mâu-ni-đại-tiên, lợi ích cho tất cả chúng sanh, có hiềm hận gì mà mặc nhiên không nói? Không thấy nói gì đến lần thứ ba. Thầy là người giữ Phật Pháp lợi ích cho thế gian.

A-nan đau buồn nói:

– Hãy lắng nghe đây, sau bảy ngày nữa bạn sẽ chết. Nếu bạn ở trong ngũ dục không giác ngộ, không xuất gia, thì mạng chung bạn sẽ đọa địa ngục. Phật là bậc Nhất thiết trí, chánh ngữ chánh thuyết đã nói về bạn như thế. Ví như ngọn lửa thiêu đốt mọi vật, thảy đều không sai. Bạn nên suy nghĩ cho kỹ.

Vương tử nghe nói vậy quá lo sợ, buồn rầu, sầu muộn không vui nói: “Theo lời chỉ dạy của A-nan tôi phải xuất gia nhưng tôi muốn thọ hưởng khoái lạc thêm 6 ngày nữa, đến ngày thứ 7 tôi sẽ giã từ người thân quyết định xuất gia”. A-nan hài lòng. Đến ngày thứ 7 Tỳ-la-tiễn-na sợ sinh tử cầu Phật xuất gia, đức Phật liền đồng ý. Qua một ngày một đêm Tiển-na tu trì tịnh giới rồi mạng chung. Sau khi hỏa thiêu hương khói xong, A-nan cùng họ hàng của Tiển-na đến hỏi Phật:

– Kính thưa Thế Tôn! Tỳ-kheo Tỳ-la-tiễn-na ấy nay đã mạng chung thần thức sinh về đâu?

Đức Phật Thế Tôn thầy của chư thiên, nhân loại, bậc Nhất-thiết-trí dùng đại phạm-âm vang dội hơn tiếng trống sấm, hơn âm thanh vi-diệu chúng chim Ca-lăng-tần-già. Ngài đem tám loại âm thanh bảo A-nan:

– Này A-nan! Tỳ-kheo Tỳ-la-tiễn-na ấy sợ chết sinh vào địa ngục khổ nên đã xả dục xuất gia, trong một ngày một đêm trì tịnh giới xả bỏ cõi đời này sinh về trời Tứ thiên vương, làm con Tỳ-sa môn Thiên-vương ở phương Bắc. Tâm phóng túng thọ ngũ dục khoái lạc, tham thọ ngũ dục với các thể nữ, cùng chung vui chơi thọ 500 tuổi; khi Tiển-na hết 500 tuổi mạng chung sinh về cõi trời 33 làm con Đế-thích hưởng thụ đầy đủ ngũ dục, sung sướng nhất cõi trời. Tiển-na cùng thể nữ đẹp trên trời tuổi thọ kéo dài 1000 tuổi, tận số sinh về Diệm-thiên làm vương tử Diệm-thiên, tự phóng túng thọ hưởng sắc, thanh, hương, vị, xúc trên trời, tâm khoái dục lạc, thọ 2 ngàn tuổi trên trời, mạng chung sinh về cung trời Đâu-suất làm vương tử. Tâm thoải mái thọ ngũ dục khi mắt thấy tướng dục, tâm tự nhàm chán, thường nói pháp ngữ, trí tuệ giải thoát. Ở trong cõi trời tuổi thọ hơn hết, mãn 4 ngàn tuổi mạng chung sinh lên Tự-tại-thiên làm con Thiên-vương, thọ hưởng đủ loại ngũ dục khoái lạc ở trong các thể nữ, ứng hóa kéo dài 8 ngàn tuổi thọ. Hết 8 ngàn tuổi mạng chung sinh về trời Tha-hóa-tự tại, làm con Thiên-vương. Cõi trời thứ 6 này, dục lạc trong đó năm tầng trời phía dưới không thể so sánh. Sinh vào trong đó rồi, trong những cái vui thọ cái vui tối diệu. Khi thọ dục lạc ở đó tâm quá say mê, hưởng đầy đủ dục lạc thắng diệu thọ một vạn sáu ngàn tuổi. Thọ lạc như vậy qua lại 7 lần trong 6 cõi trời dục. Tỳ-la-tiễn-na này do một ngày một đêm xuất gia nên mãn 20 kiếp, không đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh; thường sinh thiên, nhơn, thọ phước tự nhiên. Trong loài người kiếp cuối cùng sinh vào nhà giàu có sung sướng, tài sản phong phú, chân bảo đầy đủ. Khi tuổi tráng niên đã qua, các căn đau yếu lo sợ họa hoạn sinh lão bệnh tử nên Tiển-na nhàm chán ở đời, xuất gia cạo bỏ râu tóc, thân khoác pháp phục, siêng tu tinh tấn, giữ 4 oai nghi, thường hành chánh niệm, quán ngũ-âm, Khổ, Không, Vô ngã, hiểu pháp nhân duyên, thành Bích-chi Phật hiệu là Tỳ-lưu-đế, lúc ấy Ngài phóng hào quang lớn có nhiều chư thiên, nhân loại sinh thiện căn và giúp các loài chúng sanh trong ba thừa được giải thoát.

Bấy giờ, A-nan chắp tay bạch Phật:

Kính thưa Thế Tôn! Nếu có người độ người xuất gia, người ấy xuất gia gánh vác mọi việc thì được bao nhiêu phước đức? Nếu lại có người hủy phá chuyện người khác xuất gia thì thọ tội báo gì? Xin thỉnh Thế Tôn chỉ bảo cho con được tường tận.

Phật bảo:

Này A-nan! Nếu ông có sống đủ 100 tuổi để hỏi Ta việc này, thì Ta cũng lấy trí tuệ vô tận vì ông nói rộng theo đúng 100 năm, trừ giờ ăn uống. Người này công đức không thể nói hết, họ hằng sinh thiên, hay trong loài người thường làm quốc vương, thọ hưởng hạnh phúc nhơn, thiên. Nếu họ giúp người xuất gia vào trong pháp Sa-môn này, vì chuyện giúp đỡ cuộc sống xuất gia đó, thì họ dù ở trong sinh tử cũng hưởng khoái lạc. Dù Ta có đủ 100 tuổi để nói công đức người đó cũng không hết được. Như vậy, A-nan! Ông có mãn trăm tuổi kéo dài tuổi thọ để hỏi Ta, còn ta sống đến khi Niết-bàn, nói công đức này không bao giờ hết.

Phật lại bảo A-nan:

– Nếu lại có người phá hoại chuyện người khác xuất gia thì người đó bị cướp mất kho tàn vô tận thiện tài phước báu, và hủy hoại nhân 37 trợ Bồ-đề Niết-bàn. Nếu có ý muốn phá hoại nhân duyên xuất gia phải khéo quán sát chuyện như vậy. Vì sao, vì tội báo đó sẽ đọa địa ngục, thường bị mù mắt, thọ khổ cùng cực. Nếu làm súc sinh, khi sinh ra cũng bị mù mắt bẫm sinh. Nếu sinh trong ngạ quỉ, sinh ra cũng mù bẩm sinh, đọa trong 3 đường ác khổ không biết bao giờ giải thoát. Nếu sanh làm người, ở trong bụng mẹ thọ thai lại bị mù. Ông có sống một trăm tuổi thường hỏi nghĩa đó, còn Ta có đủ một trăm tuổi lấy trí tuệ vô tận giải thích tội báo cũng không thể hết. Người ấy ở trong tứ đạo sinh ra thường mù mắt. Ta cũng không biết được người này bao giờ mới giải thoát được. Vì sao, vì do phá hủy người xuất gia đã thành tựu vô lượng vô biên công đức. Do phá thiện duyên ngăn cản người xuất gia như vậy, nên thọ vô lượng tội. Nếu họ ở trong “kính trí tuệ” thanh tịnh này thì giúp họ được thiện pháp giải thoát vậy. Nếu thấy người xuất gia tu trì tịnh giới hướng đến chỗ giải thoát, phá công việc xuất gia của người ấy, làm việc ngăn cản, có nhân duyên đó sinh ra bị mù, không thấy Niết-bàn là do hủy hoại người xuất gia. Như quán vô-minh…12 nhân duyên sẽ được giải thoát. Do phá người xuất gia, hủy hoại con mắt trí tuệ của họ nên mắt tuệ của mình bị che mờ, từ đời này qua đời khác sinh ra bị mù mắt, không thấy tam-giới là do ngăn cản người xuất gia vậy. Người xuất gia đã thấy ngũ-ấm, 20 ngã-kiến, nhân gian, chánh-đạo, mà cái nhân phá xuất gia như là hủy hoại chánh-kiến, do đó sinh ra thường mù mắt, không thấy chánh-đạo. Người xuất gia đã thấy tất cả pháp tu thiện, pháp trú xứ, đã thấy pháp thân thanh tịnh chư Phật, mà phá chuyện người khác xuất gia nên sinh ra bị mù mắt, không thể trông thấy pháp thân Phật. Do người xuất gia đã đầy đủ tướng mạo Sa-môn, hạt giống Phước điền Phật đạo, và giữ gìn giới thanh tịnh, nên nguyên nhân phá người xuất gia thì ở trong thiện pháp bị đoạn tất cả hy vọng. Do tội duyên phá hủy người xuất gia, đời đời thường mù mắt. Người xuất gia đã khéo quán sát tất cả thân tâm đều khổ, vô-thường, vô-ngã, bất-tịnh, mà phá người xuất gia ấy, làm việc ngăn cản, thì như phá con mắt của người đó, phá con mắt ấy thì mình không thấy Tứ-đạo, Tứ-niệm-xứ, Tứ-chánh-cần, Tứ-như-ý-túc, Ngũ-căn, Ngũ-lực, Thất-giác-phần, Bát-chánh-đạo, và đường đến cung thành Niết-bàn, do tội duyên như vậy sinh ra thường bị mù, cho đến không thất Không, Vô-tướng, Vô-tác thanh tịnh, thiện pháp hướng đến cung thành Niết-bàn. Người có trí tuệ là biết người xuất gia sẽ thành tựu thiện pháp như thế, không nên phá hoại nhân duyên thiện pháp đó, như vậy sẽ không bị tội. Ai hủy phá chuyện người khác xuất gia là vị Sa-môn chánh kiến, thì mãi mãi không thấy cung thành Niết-bàn, sinh ra thường bị mù. Nếu có người nào trong một cõi khác xuất gia tu trì tịnh giới hơn 100 kiếp; lại có người khác ở trong cõi Diêm-phù-đề xuất gia trì giới một ngày một đêm, dù khoảnh khắc, thì được 16 phần. Còn người xuất gia trì giới kia chỉ bằng 1 phần 16 người xuất gia ở Diêm-phù-đề. Người nào điên đảo hành dâm chị em nữ, không phải chỗ hành dâm, bị chống cự rồi sinh ra căm ghét, thì tội báo đó không thể tính hết. Nếu lại có người tư duy đúng, có tâm xuất gia, có người khác phá hoại chuyện xuất gia người này không để họ mãn nguyện, thì nhân duyên tội báo đó bắt đầu tăng trưởng cho đến trăm kiếp.

A-nan bạch Phật:

Kính thưa Thế Tôn! Tỳ-la-tiễn-na này nhờ hạt giống thiện căn sinh chỗ tôn quí, thọ hưởng phước lạc vì quá khứ cũng có hành thiện. Hôm nay chỉ nhờ công đức xuất gia một ngày một đêm mà thọ hưởng nhiều phước như thế.

Phật bảo A-nan:

– Ông không cần quan sát nhân duyên quá khứ, đối với một ngày một đêm ấy thanh tịnh xuất gia được thiện căn, trong 6 cõi trời dục bảy lần qua lại thọ phước. Trong 20 kiếp thường chịu cảnh sanh tử. Trong loài người sau cùng ở thế gian hưởng cảnh hạnh phúc nhất, sinh trong nhà giàu có. Khi tuổi tráng niên qua, các căn yếu dần, thì sợ cái khổ sinh lão bệnh tử nên Tỳ-la-tiễn-na xuất gia trì giới thành Bích-chi Phật.

Phật lại bảo A-nan:

Ta sẽ nói ví dụ ông khéo lắng nghe. Thí như thiên hạ: Đông-phất-bà-đề, Nam-diêm-phù-đề, Tây-cù-da-ni, Bắc-uất-đan-việt, các bậc A-la-hán trong 4 cõi ấy nhiều như lúa cỏ rừng rậm. Nếu có người nào ở trong đó đủ 100 tuổi tận tâm cúng dường những vị A-la-hán này những thứ như: y phục, thức ăn, nước uống, thuốc thang trị bệnh, phòng xá, ngọa cụ; cho đến sau khi các vị ấy Niết-bàn, lại xây dựng tháp miếu, đủ loại chân bảo, hoa hương anh lạc, tràng phan, bảo cái, treo các loại chuông báu, quét rưới nước hương, dùng những câu kệ tụng tán thán, cúng dường thì đắc được công đức. Còn người nào vì Niết-bàn mà xuất gia thọ giới, chỉ một ngày một đêm tạo công đức, thì công đức này được 16 phần, công đức trước chỉ một phần. Theo nhân duyên như vậy, thiện nam tử nên xuất gia tu trì tịnh giới.

– Này các thiện nam tử! Những người cần công đức, cầu thiện pháp, tự thọ pháp thì không được ngăn cản chuyện người xuất gia ấy phải cầu phương tiện khuyến khích giúp họ thành tựu.

Khi ấy, cả đại chúng nghe Phật thuyết pháp không ai mà không nhàm chán cảnh đời. Họ xuất gia trì giới, có người đắc Tu-đà-hoàn, thậm chí có người đắc quả vị A-la-hán, có người gieo hạt giống Bích-chi Phật, có người phát tâm Vô-thượng Bồ-đề. Mọi người rất vui mừng đảnh lễ phụng hành.

    Xem thêm:

  • Kinh Nhân Duyên Xuất Gia - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 25 – Kinh Bẫy Mồi (Nivàpa sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Cư sĩ Tịnh Ý Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh Ngài Ma Ha Ca Diếp Độ Bà Lão Nghèo - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 15 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa 12 Tương Khế Với 108 Danh Hiệu Vô Cấu Của Thiên Nữ Đại Cát Tường - Kinh Tạng
  • Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác - Kinh Tạng
  • Kinh Nói Về Lễ Tắm Phật Sau Khi Đức Phật Đã Nhập Diệt - Kinh Tạng
  • Kinh Viên Giác - Kinh Tạng
  • Đại A La Hán Nan Đề Mật Đa La Sở Thuyết Pháp Trụ Kí - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Đại Ca Diếp Vấn Đại Bảo Tích Chánh Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Lầu Các Chánh Pháp Cam Lồ Cổ - Kinh Tạng
  • Phật Thuyết Công Đức Của Tu Lại - Kinh Tạng
  • Kinh Nhập Định Bất Định Ấn - Kinh Tạng
  • Kinh Bát Nhã Ba La Mật (Phẩm 31 đến 45) - Kinh Tạng
  • Kinh Bất Tất Định Nhập Định Nhập Ấn - Kinh Tạng
  • Kinh Na-Tiên Đàm Đạo - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Nói Về Tu Lại - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Dạy Về Đối Trị Bệnh Tật - Kinh Tạng
  • Kinh A Nậu Phát - Kinh Tạng