1
2
3
4
5
6
7
8

QUYỂN 8

Giới thứ 47 CẤM CHẾ KHÔNG ĐÚNG PHÁP

Là Phật tử, những người đã có lòng tin thọ giới của Phật, hoặc Quốc vương, Vương tử, bá quan, bốn bộ đệ tử, tự ỷ mình thế lực cao quí, phá diệt giới luật Phật pháp, lập ra điều luật chế, hạn chế bốn bộ đệ tử của Phật không cho xuất gia hành đạo, cũng không cho lập hình tượng Phật và Bồ Tát, cùng tháp thờ và kinh luật. Lại lập ra chức quan Đổng lý, hạn chế tứ chúng và lập sổ sách ghi số Tăng. Tỳ kheo Bồ Tát đứng dưới đất, còn Bạch y ngồi tòa cao, làm nhiều việc phi pháp, như binh nô thờ chủ. Bồ Tát này đáng ra được mọi người cung kính cúng dường, mà trái lại bắt làm tay sai cho các quan chức, là phi pháp, phi luật. Nếu Quốc vương và bá quan có lòng tốt thọ giới của Phật chớ làm những tội phá Tam bảo ấy. Nếu cố làm, Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Giải thích:

Trái bổn nguyện mà làm càn, ỷ quyền thế mà làm bừa, cấm chế một cách phi pháp, phá hoại Tam bảo, tội ấy tày trời, đâu thể gọi là người có tâm tốt thọ chánh giới của Phật.

Những người đã có tín tâm thọ giới của Phật, là nêu chung người hạn chế và pháp hạn chế. Người hạn chế, tức là người chế ra pháp luật. Pháp hạn chế, tức là quan lại bị sai sử, cả hai đều mắc tội.

Bốn bộ đệ tử, xét trong các kinh luật, bốn bộ đệ tử là: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hoặc Sa-di, Sa-di ni. Căn cứ Nghĩa Sớ thì có Cư sĩ, nữ Cư sĩ. Nếu Tăng Ni đã xuất gia mà hoàn tục thì cũng liệt vào hai chúng tại gia, không cho xuất gia trở lại, nên nói bất thính.

Hỏi: Vua, quan có thể chế ra pháp luật, lẽ đâu bốn bộ cũng có thể chế bốn bộ ư?

Đáp: Nếu Cha mẹ, anh em, con cái cùng cấm chế phi pháp để ngăn chướng ngại, thì không cho.

Như kinh Phó Pháp Tạng ghi: “Tôn giả Xà Dạ Đa vào thành khất thực thấy một con quạ liền mỉm cười, đệ tử ngài liền hỏi vì sao?” Ngài đáp: “Vào kiếp quá khứ, Ta muốn xuất gia, Cha mẹ không cho, cưỡng ép cưới vợ. Sau khi sanh được đứa con sáu tuổi, Ta lại muốn đi. Cha mẹ Ta dạy nó ôm chân Ta, khóc lóc thưa rằng: Nếu Cha bỏ con, con biết nương ai mà sống, trước hết cha hãy giết con, rồi sau Cha đi. Do đứa trẻ này, Ta không được xuất gia. Từ đó trải qua 91 kiếp, trôi lăn trong sáu nẻo, chưa từng được gặp Phật pháp. Nay Ta dùng đạo nhãn quán thấy con quạ này, chính là đứa con ngày trước của Ta, vì thương nó ngu si, ở mãi trong đường sanh tử, vì thế Ta mỉm cười.”

Nếu ngăn người xuất gia tội báo phải đọa vào ác đạo, sau sanh được làm người, đui mù không có mắt, cho nên người trí thấy người khác xuất gia, phải tùy hỷ tạo phương tiện cho họ thành tựu ý nguyện, chớ làm trở ngại họ.

Hơn nữa kinh Lão Nữ Nhân ghi: “Khi ấy có một bà lão nghèo, nghe Phật nói pháp, được tâm khai ý giải. Thấy thế, A Nan bạch Phật rằng: Bà lão này do trí tuệ gì mà được như vậy? Phật đáp: Đó là mẹ Ta trong đời trước, lúc ta phát tâm tu đạo, A Nan lại hỏi: Vì sao mẹ Ngài nghèo cùng đến thế? Phật đáp: Trong thời Phật Câu Lưu Tôn, Ta muốn làm Sa môn, mẹ Ta quá thương yêu con không cho Ta xuất gia, Ta buồn rầu cả ngày không ăn, do thế bà bị năm trăm đời phải nghèo cùng. Đời này mệnh chung, bà sẽ sanh vào cõi nước Phật Di Đà.”

Như Kinh đã nói, con cái làm chướng ngại Cha mẹ, Cha mẹ chướng ngại con cái, đều phải chịu báo như thế, huống gì vợ chồng, anh em, bạn bè làm chướng ngại cho nhau, tội sẽ như thế nào? Nếu cản trở người khác không cho xuất gia là diệt mất ngôi Tam bảo. Không cho kiến tạo hình tượng tháp thờ Phật, là diệt Phật bảo. Không cho biên chép ấn loát kinh luật là diệt Pháp bảo. Lập quan đổng lý, lập sổ bộ để hạn chế Tăng chúng, lập sổ sách để ghi số Tăng, giống như thế tục, tức là quan lại quản lý Tăng.

Bạch y ngồi trên cao, Tỳ kheo đứng dưới đất, chẳng khác gì bọn binh nô thờ chủ. Bồ Tát là thầy mẫu mực của trời, người, giảng thuyết kinh pháp, giới luật, khiến cho mọi người sanh Diệu huệ, thọ nhận của cúng dường để gieo hạt giống phước điền cho thí chủ đàn việt, như con thờ Cha, như bề tôi tôn kính vua, mà trái lại tự hạ mình, làm tay sai cho các quan chức thực là phi pháp phi luật như thế sao?

Giả sử bị vua quan cưỡng bức, ép ngặt, thà rằng chịu chết để bảo tồn chánh pháp, chứ không nhẫn nhục phi pháp, phi luật, nỡ nào cầu sống để bại hoại pháp môn ư? Chớ tạo tội phá Tam bảo như thế, nghĩa là vua quan đã từng phát tâm tốt thọ chánh giới của Phật, lẽ ra phải hưng, long ngôi Tam bảo, đem tâm hộ pháp mới không quên những lời dặn dò phó chúc của Đức Thế tôn trong hội Niết bàn, trên Linh sơn, nhưng trái lại tạo tội hủy diệt Tam bảo, không phải tội ngỗ nghịch thì là cái gì?

Hỏi: Đã nói là nghịch, sao chỉ phạm tội khinh cấu?

Đáp: Vì vua quan còn ở tại gia, chưa kham nổi trọng giới, mắc tội kia chịu tội báo rất nặng.

Kinh Nhân Vương chép: “Phật bảo Vua Ba Tư Nặc, về sau đời ngũ trược ác thế, Quốc vương, Vương tử, Đại thần, tự ỷ mình cao quí, phá diệt giáo pháp của Ta, tự tung tự tác lập ra pháp chế phi pháp, không y vào lời Phật dạy, cấm chế đệ tử Ta không cho họ xuất gia, không cho dựng lập chùa tháp thờ Phật, lập ra quan đổng lý, lập ra sổ sách quản lý việc của Tăng. Tỳ kheo đứng dưới đất, Bạch y ngồi tòa cao.” Lại nói: “Đời vị lai, bốn bộ đệ tử Phật, Thái tử của các nước nhỏ chính là người hộ trì Tam bảo, trái lại hủy diệt Tam bảo thì chẳng khác nào trùng trong thân sư tử, ăn thịt của sư tử. Chẳng phải ngoại đạo phá diệt được pháp của Ta mà chính là đệ tử Ta phá hoại Phật pháp, mắc tội rất lớn. Chánh pháp suy vi, dân không hành thiện, trái lại ngày càng làm ác, tuổi thọ giảm dần, không còn những đứa con hiếu thảo, lục thân không hòa thuận, thiên thần không giúp đỡ, tật bệnh, ác quỉ ngày càng xâm nhập. Những chúng sanh như thế ấy, chết rồi đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.” Như kinh đã nói, rõ ràng đồng với pháp chế thời nay, người có tâm tốt thọ giới của Phật cần nên cẩn thận.

Giới thứ 48 PHÁ PHÁP

Nếu Phật tử đã do lòng tốt mà xuất gia, lại vì danh tiếng và tài lợi, giảng thuyết giới của Phật cho Quốc vương và các quan, làm các việc gông trói các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, người thọ giới Bồ Tát như cách của ngục tù và binh nô, như trùng trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử chứ chẳng phải trùng ở ngoài vào ăn được. Cũng thế, các Phật tử tự hủy phá Phật pháp, chẳng phải ngoại đạo hay thiên ma phá được. Người đã thọ giới của Phật, nên hộ trì giới luật như ấp yêu con một, như kính thờ Cha mẹ, không được hủy phá.

Người Phật tử, khi nghe ngoại đạo hoặc người ác dùng lời xấu hủy báng giới pháp của Phật, chẳng khác nào như ba trăm cây giáo nhọn đâm vào tim mình, hay cả ngàn lưỡi dao, cả vạn cây gậy đánh bổ vào thân mình. Thà tự cam chịu vào địa ngục cả trăm kiếp, chớ không muốn nghe lời hủy báng giới pháp của Phật, do bọn người ác xúc phạm, huống gì không có lòng hiếu thuận, tự mình hủy phá giới pháp của Phật, hay làm nhân duyên bảo người khác hủy phá. Nếu cố tâm phá giới pháp của Phật, thì Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Giải thích:

Trước do tâm tốt xuất gia thọ chánh giới của Phật, nên được vua, quan tôn trọng, sau bị danh lợi lôi kéo làm mê hoặc, tự đánh mất tâm chí tốt đẹp. Trong tâm đã hủy khuyết giới thể, bên ngoài giả tuồng hiện tướng oai nghi, cho nên phàm nói ra lời nào, vua, quan cũng không ứng dụng lại khiến cho vua, quan trị phạt như thế gian, làm cho đệ tử không may phải chịu tội, tay chân bị trói buộc, tù tội cầm cố, nên nói như pháp ngục tù. Hoặc vô lễ khinh rẻ, quở trách, nên nói như pháp của binh nô. Trong chúng chịu các thứ nhục hình, đâu có thể trong lòng nhẫn được, tuy không nghĩ đến tai ương đời sau, ngay hiện tại lẽ đâu lại không hổ thẹn? Thế thì tại sao để những danh lợi tự bại hoại đức hạnh của mình, ỷ vào thế lực vua quan để bại hoại thiện tâm sẵn có, nương gá vào Phật pháp cầu lợi, mà không nghĩ đến việc báo ân, trái lại còn gia hại Phật pháp, phá hoại pháp môn? Đó gọi là “ác ma Tỳ kheo”.

Trùng trong thân sư tử, sư tử là vua trong các loài thú, vì không có cầm thú nào ăn thịt được sư tử, chỉ có trùng trong thân sư tử mới ăn được thịt sư tử, chẳng phải trùng ở ngoài ăn được. Chánh pháp của Như Lai, Thiên ma còn phải lắng nghe, ngoại đạo còn phải quy hướng, nên không thể phá hoại được, chỉ có người xuất gia ở trong Phật pháp, không y theo giáo pháp của Phật, đó chính là nguyên nhân phá hoại Phật pháp. Nếu năm chúng xuất gia có lỗi, phải dùng pháp luật của Phật trị phạt, hoặc khiến cho người sai phạm biết hối lỗi, thành tâm lễ sám, hoặc tác pháp yết ma như tẩn xuất, v.v… lẽ nào lại đem pháp luật thế gian để lăng nhục, khiến cho vua quan tổn phước, thiện thần tránh xa, thế thì chẳng những chỉ Phật pháp mà còn khiến cho đất nước khởi nạn. Trong kinh văn nói rõ, lẽ nào lại không sợ?

Pháp thân nhờ giới thanh tịnh mà hiển lộ, bổn nguyện độ sanh nhờ giới mà thành, nên phải hộ giới như lòng thương yêu Cha mẹ dành cho đứa con. Niệm niệm để lòng, cũng như con thờ kính Cha mẹ, mỗi việc không bao giời trái nghịch, tâm từ thừa sự kính giới như thế, sẽ không có tâm hủy phá giới pháp của Phật.

Bồ Tát đã nguyện thà chịu ba trăm muôn kiếp bị đao trượng đâm vào thân thể chịu khổ thống thiết, cũng không chịu nghe một lời hủy báng giới pháp của Phật. Vì sao? Vì tuy bị trăm ngàn nỗi thống khổ, chỉ khổ một thân ta mà thôi, còn nghe tiếng phỉ báng phá hoại chánh pháp, hoại pháp thân Phật, khiến cho vô lượng chúng sanh mất tín tâm, phải chìm đắm trong biển khổ, không được giải thoát, theo kẻ hủy báng, mãi đọa trong địa ngục A tỳ. Nghe hủy báng còn như vậy huống gì tự mình phá hoại Phật pháp, lại khiến cho vua quan tạo nhân duyên phá hoại Phật pháp, xử trị lăng nhục Tăng chúng, tự mình đã không biết hộ trì Phật pháp, mà trái lại còn gây việc phá pháp, do mắc tội ngỗ nghịch với Tam bảo, không tâm hiếu thuận, nên mắc tội.

Kinh Đại Tập chép; “Phật bảo nếu có chúng sanh nào, vì tin ưa giáo pháp của ta mà xuất gia học đạo tu hành, cạo tóc, mặc áo Ca sa, dù không trì cấm giới, nhưng họ đã được ấn chứng Niết bàn.” Nếu đem tâm phỉ pháp mà não loạn, khen chê hủy nhục, dùng tay chân đánh đập, trói buộc hoặc đoạt lấy y bát và vật dụng tùy thân, thì người này phá hoại chơn thật báo thân ba đời chư Phật, móc lấy con mắt của trời, người. Khi ấy trời Đại Phạm Thiên Vương bạch Phật rằng: “Nếu người ngưỡng mộ Phật pháp xuất gia đắp mặc Ca sa, không thọ giới pháp hoặc thọ rồi lại hủy phạm, Quốc vương nước đó, đánh đập, trói buộc nhục mạ khiến họ não loạn thì người đó mắc bao nhiêu tội?” Phật bảo: “Này Đại Phạm Thiên vương, Ta nay sẽ vì ông lược nói, nếu có người nào đã ở nơi muôn ức Phật, làm thân Phật bị thương, chảy máu, ý ông nghĩ như thế nào, người này mắc tội nhiều hay ít?” Đại Phạm Thiên Vương bạch Phật rằng: “Giả sử có người chỉ làm thân Phật chảy máu, mắc tội vô gián, tội vô lượng không thể tính kể, còn phải đọa trong địa ngục Đại A tỳ, huống gì làm cho muôn ức thân Phật chảy máu, trọn không thể nói cho hết tội báo của người kia, chỉ trừ đức Như Lai mới có thể nói hết được.” Phật bảo: “Nếu có người nào não loạn, mắng nhiếc hủy nhục chỉ một chút hay thời gian chốc lát đối với người cạo tóc, đắp mặc Ca sa, người đó không thọ giới hoặc thọ giới lại hủy phạm, còn mắc tội nhiều gấp bội người kia, vì sao? Vì người này còn có thể vì trời, người, chỉ bày đạo Niết Bàn, vì người này đã ở trong Tam bảo, tâm đã kính tin, hơn tất cả 96 thứ ngoại đạo. Người ấy ắt sẽ mau vào cõi Niết bàn, hơn tất cả người thế tục tại gia, chỉ trừ tại gia được pháp Nhẫn. Thế nên trời, người phải cúng dường, huống gì người hay giữ gìn cấm giới không sai phạm, ba nghiệp được tương ưng. Nếu có vua quan thấy người ở trong Phật pháp xuất gia, tạo tội rất nặng, chỉ đuổi ra khỏi nước, không được đánh đập, trói buộc, huống gì người xuất gia trì giới.

Kinh Thập Luân chép: “Phật bảo: “Nếu có Tỳ kheo phá giới, như phá thân thể, máu mủ chảy tràn, thối thất thánh đạo, bị các phiền não, kiết sử làm bại hoại, vẫn có thể khai thị tất cả trời, người, phi nhân, v.v… vô lượng công đức, trân bảo phục tàng. Vì thế người xuất gia nếu trì giới hoặc phá giới, Ta đều không cho Quốc vương, đại thần tể quan, trách phạt, trị tội, trói buộc, đánh đập cho đến giết chết họ, huống gì người phạm chút oai nghi, hoặc tội khinh cấu. Tỳ kheo phá giới, tuy như người đã chết, nhưng năng lực của giới vẫn còn. Giống như con bò tuy chết, nhưng người ta vẫn lấy, vẫn có tác dụng có thể làm lợi ích tất cả chúng sanh. Tỳ kheo có hạnh ác tuy phạm cấm giới, nhưng năng lực của giới khác, cũng còn lợi ích vô lượng trời người. Thí như đốt hương, thể của hương tuy hoại, nhưng thấm vào vật khác khiến cho nó thơm. Tỳ kheo phá giới, cũng lại như thế, tự sa rớt vào đường ác, có thể khiến cho chúng sanh tăng trưởng căn lành. Do nhân duyên này, tất cả bạch y không nên xâm hủy, khinh miệt Tỳ kheo phá giới mà phải nên tôn trọng và thủ hộ.”

Kinh Tâm Địa Quán chép: “Có một loại Phước điền Tăng, đối với Xá Lợi của Phật và hình tượng, các pháp của Tăng, các giới Phật chế, tự mình sanh tâm tín kính, không có tà kiến, khiến cho người cũng vậy, hay tuyên dương chánh pháp, khen ngợi pháp Nhất thừa, tin chắc chắn nhân quả, thường phát nguyện lành. Tùy theo lỗi sai phạm, sám hối nghiệp chướng, phải biết người này, tín lực đối với Tam bảo, vượt hơn ngoại đạo, gấp trăm ngàn lần, cũng vượt hơn bốn loại Chuyển Luân Thánh Vương, huống gì các loại chúng sanh ư? Như hoa Uất kim, tuy đã khô héo vẫn còn hơn các loại hoa khác. Tỳ kheo chánh kiến cũng lại như thế, vượt hơn các chúng sanh gấp trăm ngàn muôn lần. Mặc dù cấm giới đã hủy nhưng không hoại chánh kiến, do nhân duyên này, nên gọi là Phước Điền Tăng. Nếu cúng dường Phước Điền Tăng ấy, thì phước đức cúng dường không thể cùng tận.

Kinh Đại Tập ghi: “Lúc bấy giờ tất cả trời, rồng, bát bộ, v.v…được tâm tín tăng thượng rồi bạch Phật rằng: Tất cả chúng con từ nay về sau xin hộ trì chánh pháp, nếu các bậc Quốc vương thấy người nào vì mến mộ Phật pháp mà xuất gia, thọ trì cấm giới, hoặc không thọ giới, hoặc thọ rồi phạm, những người như vậy, nếu bị đánh đập bằng roi, chúng con không hộ trì, vị Quốc vương ấy rời xa cõi nước kia, do vì rời xa nên khiến nước ấy có các thứ tật dịch, đói khát, binh đao đều khởi lên, mưa gió trái mùa, kéo dài hạn hán, tổn hại lúa mạ, khiến cho đệ tử xuất gia của Phật đều đi đến nước khác, khiến cho cõi nước đó không có ruộng phước. Nếu có đệ tử Phật xuất gia, chỉ đắp mặc một miếng Ca sa, nếu có các vị Tể quan dùng roi đánh đập người xuất gia, vua nước đó không ngăn cản và hộ trì, chúng con cũng sẽ ra khỏi nước đó.”

Hỏi: Thật như kinh Phật đã nói: “Trời, rồng, bát bộ còn ủng hộ Phật pháp như vậy, lẽ nào vua, quan lại không hộ trì? Sao lại có những người nghèo cùng tránh nạn, lén vào trong pháp môn, không giữ giới pháp, mạo phạm Quốc pháp, can gián nhưng họ không nghe, đuổi cũng không đi, dùng kinh luật nội điển xử trị cũng không được, thì phải làm sao?”.

Đáp: Nếu thật như có tội lớn ấy, điếm nhục Tam bảo, thà trừ một người để bảo tồn Tam bảo, không nên vì một người mà gây họa cho Tam bảo.

Như kinh Đại Tập chép: “Thà xả bỏ thân mạng để hộ trì vì Tỳ kheo như pháp, không ủng hộ ác Tỳ kheo. Vị vua này xả thân sẽ sanh về cõi Tịnh độ. Nếu theo người ác, vị Vua này trong vô lượng kiếp không được làm thân người, không trị phạt người ấy thì dứt một hột giống Tam bảo, đoạt mất con mắt huệ của chúng sanh. Tỳ kheo phạm tội cần phải trị phạt, hoặc không cùng nói chuyện, cùng ngồi chung, hoặc đuổi đến một nước, cho đến 4 nước. Nơi có Phật pháp, trị phạt các ác Tỳ kheo như thế, để cho các thiện Tỳ kheo được an vui thọ pháp, khiến cho Phật pháp được trụ lâu nơi đời, không bị hoại diệt.”

Trong kinh Niết Bàn, Phật nói: “Thí như Quốc vương, nếu có các quần thần sai phạm pháp luật nhà vua, tùy theo tội giết, không bỏ qua.” Pháp của Như Lai không như thế, đối với người hủy pháp, cho tát pháp Yết ma khu tẩn (đuổi đi) hoặc Yết ma quở trách, vì muốn cho người đó thấy các hạnh xấu, có báo quả. Tỳ kheo trì giới hộ trì chánh pháp, thấy người phá hoại Phật pháp, có thể đuổi đi hoặc trị phạt nhẹ, phải biết người như thế được phước vô lượng không thể tính kể.

Kinh Thắng Man ghi: “Phật bảo hằng hà sa số vô lượng hạnh nguyện mà Bồ Tát vốn có, đều nằm trong một Đại nguyện. Nói hộ trì chánh pháp, nghĩa là Đại cảnh giới, nhẫn đến thiếu tâm hộ trì chánh pháp, khiến cho ma Ba Tuần có dịp nhiễu loạn, Ta không thấy một pháp thiện nào có thể khiến ác ma sanh nhiễu loạn, mà chỉ có người thiếu tâm hộ trì chánh pháp thôi.

Xét trong Đường Thư, vào tháng 5 niên hiệu Hiển Khánh năm đầu, vua ra sắc lệnh cho Tăng Ni trong thiên hạ, nếu người nào vi phạm pháp luật thì đem luật của Tăng Ni ra trị phạt, không được đem luật trị nhân dân để áp dụng cho Tăng Ni. Đây thật là Thánh vương hiền thần, không quên lời dặn dò của Phật trên hội Linh Sơn. Vua tôi tôn trọng Tam bảo, hộ trì pháp môn như thế, ngược lại người xuất gia làm những việc phá pháp, thật là đại giặc trong Tăng chúng, là ác ma của pháp môn.

Trong Khế Kinh, Phật nói: “Người hủy phạm cấm giới, còn có thể vì chúng trời người chỉ bày cảnh giới Niết Bàn.” Nghĩa là người đó tuy bị phiền não ép ngặt nhưng khi hủy phạm giới cấm, không biết mình đã hủy phạm thường nói chánh pháp, khi biết ra ôm lòng xấu hổ, nên nói người đó đã ở trong Tam bảo, có tâm tín kính, lại còn biết khen ngợi pháp Nhất thừa, tin chắc lý nhân quả.

Nên trong Kinh Anh Lạc, Phật nói: “Xả giới nhưng không xả Đại nguyện, phá giới nhưng không phá chánh kiến, người này cuối cùng cũng trở lại thanh tịnh.”

Kinh Ưu Ba Ly Vấn Phật nói: “Bồ Tát trụ pháp Đại thừa, trong ngày chia làm 3 thời, nếu đầu ngày có phạm tội hủy phá giới cấm, mà giữa ngày không xả hạnh Nhứt Thiết Trí tâm, như thế Bồ Tát được đầy đủ giới uẩn. Nếu giữa ngày có phạm tội hủy phá, mà cuối ngày không xả Nhứt thiết Trí tâm, thì giới của Bồ Tát cũng lại đầy đủ.” Không giống với người thời nay, không có trí tuệ Bát nhã, nhưng tự cho rằng mình có trí tuệ, thường tạo ác nghiệp, không sợ quả báo đời sau, bác không nhân quả, không tâm hổ thẹn như bọn tà kiến không khác.

Thời nay lại có kẻ đua tranh xem đất đai, nhà cửa chỗ ở, đích thân cầm tờ trạng đến nơi cung đình, khép mình cầu xin, cam tâm quỳ gối. Nếu thắng thì vẫn hận trách người khác, còn thua thì chính mình chịu nhục, làm ô nhục chúng Tăng, lòng không chút xấu hổ, thế mà vẫn cho mình là người thọ nhận Đại giới của Bồ Tát, thật xấu hổ thay !

Chín giới như thế, cần nên học hết lòng kính trọng phụng trì.

3. Tổng kết

Này chư Phật tử ! Đây là 48 giới khinh, các ông phải thọ trì. Chư Bồ Tát quá khứ đã tụng, chư Bồ Tát vị lai sẽ tụng, chư Bồ Tát hiện tại đang tụng.

Giải thích:

Các đoạn trước đều khuyên thọ trì, đoạn này tổng kết, nêu chung việc đọc tụng của chư Bồ Tát trong ba đời để khuyên hành giả thọ trì. Có thể nói, Thế Tôn đại từ tâm dặn đi dặn lại, từ tâm giáo huấn không biết mỏi mệt. Chúng ta dù đập nát gân xương, chặt nhỏ thân mình cũng không đủ để báo đền ân Phật.

C. LƯU THÔNG

1. PHÓ CHÚC LƯU THÔNG

Chư Phật tử lóng nghe, 10 giới trọng và 48 giới khinh, ba đời chư Phật đã tụng, đang tụng, sẽ tụng, Ta nay cũng tụng như thế. Tất cả đại chúng các ông dù là Quốc vương, Vương tử, bá quan, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, tín nam, tín nữ, người thọ giới Bồ Tát, nên thọ trì đọc tụng giải nói, biên chép Phật tánh thường trú giới, lưu thông cho tất cả chúng sanh trong ba đời, trao truyền, thuyết hóa không dứt, được thấy ngàn Phật, được ngàn Phật trao tay, đời đời không đọa vào bát nạn tam đồ, thường được sanh vào cõi trời, cõi người.

Nay Ta ở dưới cội Bồ đề, chỉ bày sơ lược giới pháp của bảy Phật, đại chúng các ông phải nhứt tâm học Ba-la-đề-mộc-xoa, hoan hỷ phụng hành, như trong phẩm Vô Tướng Thiên Vương khuyến học, mỗi mỗi rộng nói ba ngàn vị học sĩ, khi ngồi nghe, nghe Phật tự tụng, tâm tâm đảnh thọ, hoan hỷ phụng trì.

Lúc bấy giờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói phẩm Tâm Điạ Pháp Môn, phẩm Thập Vô Tận Giới Pháp mà Phật Lô Xá Na đã diễn nói trong Thế giới Liên hoa Đài tạng xong, ngàn trăm ức Thích Ca cũng nói như thế.

Từ trong cung trời Ma Hê Thủ La, đến dưới cội Bồ đề này, có mười chỗ nói pháp. Tất cả Bồ Tát, bất khả thuyết đại chúng thọ trì, đọc tụng, giải nói nghĩa đó, cũng lại như thế. Ngàn trăm ức thế giới, thế giới Liên hoa Đài tạng, vi trần thế giới, tất cả Phật Tâm tạng, Địa tạng, Giới tạng, Vô lượng hạnh nguyện tạng, Nhân quả Phật tánh thường trụ tạng. Tất cả Phật như thế thuyết Vô lượng tất cả pháp tạng đã xong, trong ngàn trăm ức thế giới, tất cả chúng sanh thọ trì, hoan hỷ phụng hành. Nếu muốn hiểu rộng tướng tâm địa tướng, như trong phẩm Thất Hạnh Phật Hoa Quang Vương đã nói rõ.

Giải thích:

Đây là đức Như Lai Thích Ca dặn dò đại chúng Tăng tục tại tòa, khiến cho lưu thông giới pháp này. Vì 58 giới này là cội nguồn tâm địa của chư Phật, là nền tảng cội gốc để Bồ Tát và chúng sanh thành Phật, nên ba đời chư Phật và Phật hiện nay đều tụng. Các ông, tất cả đại chúng trong đại hội, người đã thọ trì giới cấm của Bồ Tát, hành 5 việc:

1. Thọ trì chớ quên mất

2. Đọc tụng cho thông suốt

3. Tụng rõ khiến cho người khác, bát bộ nghe được lợi ích.

4. Hiểu rõ, tỏ ngộ nghĩa lý, diễn nói cho tất cả mọi người

5. Biên chép lưu thông để làm lợi ích tất cả.

Đại sĩ trao tâm địa giới cho chúng sanh, khi giới tử được giới rồi, lại biên chép giới kinh này đem truyền trao cho tất cả chúng sanh. Khi các chúng này được giới rồi, cũng lại biên chép thêm ra, truyền trao cho chúng sanh mãi mãi đến vị lai. Như thế ba đời lại chuyển hóa, lần lần tiếp nối nhau, như đèn sáng liên tục không tắt. Đó chính là gánh vác pháp Phật ba đời, dẫn dụ khuyến hóa tất cả, như đốt đèn vô tận. Như vậy, tất cả chúng sanh trong ba đời y vào giới này tu hành, nên được thấy ngàn Phật bổn nguyên, được Phật trao tay, xoa đầu thọ ký, từ nay về sau không đọa vào ba đường ác, bát nạn, cho đến thành Đẳng chánh giác.

Phật tánh thường trú giới, giới này là tâm địa của Xá Na. Phật tánh thường trú bất biến, bất di, một khi thọ giới này, quyết đi đến thành Phật, không đồng với giới Thanh văn chỉ tu trong một đời.

Đời đời là lìa khổ. Thường sanh là được vui. Do giới này, dứt trừ lỗi quấy của ba nghiệp thân, khẩu, ý, không đọa vào đường ác, sanh ra muôn pháp lành, nên thường sanh về cõi trời, cõi người. Phật tánh tâm địa đại giới này, nhân gồm thâu cả biển quả, quả xuyên suốt cả nguồn nhân, ngay phàm thành thámh, thì đâu chỉ lìa tâm ác đạo, sanh về cõi trời, người thôi sao? Phải biết lúc Như Lai chưa xuất thế, người nước Thiên Trúc, phần nhiều tu, cầu sanh về cõi trời, Phật phương tiện tạm mượn phương thức này giáo hóa phàm nhơn sơ cơ học đạo, chưa khế hợp tâm nguyên đại giới này, để cho họ ham mộ quả lành, phước báu ở cõi trời, để thú hướng tiến tu thế thôi. Khi có tâm thú hướng rồi thì họ sanh tâm nhàm chán cảnh khổ ở ác đạo, do đó Phật vì họ nói pháp.

Nay pháp hội đầu tiên Phật thuyết pháp, nếu chỉ ngay về cực quả, e rằng họ sanh tâm nghi hoặc, gây nên nạn trở ngại, thối thất chánh giới, mất lợi ích lớn. Hoặc cho năng lực giới này không đọa ác đạo, thường sanh vào thế gian ở cõi người, cõi trời gặp Phật, nghe pháp, mau chứng được quả vị bật thối.

Khai sơ lược, nghĩa là giới pháp của bảy Phật, không chỉ 58 giới, những giới mà nay nói, chỉ là nêu sơ lược giáo pháp của bảy Phật mà thôi.

Như chừng đầu sợi lông, là giúp cho người sơ cơ mới học dễ hiểu, để hoan hỷ phụng hành, như muốn biết sự và lý trong giới, ngay phẩm Vô Tướng Thiên Vương trong kinh này nói rõ.

Ba ngàn vị học sĩ, chưa vào ngôi Diệu giác, còn ở vị học Địa, nên gọi là học sĩ. Khi ấy đức Như Lai khuyến trăm ngàn vạn ức đại chúng, phải nhất tâm học. Ở trong pháp hội, ba ngàn vị đại Bồ Tát, nghe Phật tự tụng, nên hết lòng tôn trọng, đê đầu đảnh lễ thọ trì. Đây cũng là nêu vấn đề học ở trước để nhiếp hóa các vị sơ cơ, trăm vạn ức người mới học.

Trước nói rõ thế giới một mặt trời, một mặt trăng, một đức Thích Ca Như Lai nói Giới pháp Tâm địa Thập Vô Tận của đức Xá Na Như Lai. Sau nói rõ trong thế giới có ngàn trăm ức mặt trời, mặt trăng, ngàn trăm ức Thích Ca Như Lai đều nói Giới pháp Tâm địa Thập Vô Tận của Xá Na, nên nói cũng như thế.

Nay chỉ nêu mười giới trọng, không nói 48 giới khinh, vì 10 giới này bao gồm hết thảy các giới, huống gì 48 giới, nên nói Vô tận giới pháp.

Trước nói rõ tâm địa giới, Thập vô tận giới, đức Lô Xá Na đã nói, ngàn trăm ức Phật Thích Ca cùng đồng nói.

Nay nói rõ mười trụ xứ nói các pháp môn. Đoạn sau tổng kết ngàn trăm ức Phật Thích Ca và tất cả Chư Phật, thuyết các pháp môn cũng giống như vậy.

Thế giới thì nhiều, không thể kể hết, nên lấy vi trần để thí dụ. Một hạt vi trần dụ một thế giới, nên nói thế giới nhiều như vi trần. Thế giới Liên hoa Đài tạng đầy đủ vô lượng vi trần thế giới. Như thế trăm ngàn ức thế giới, vi trần thế giới, nói chung không ngoài một thế giới Liên hoa đài tạng. Trong thế giới như thế, tất cả chư Phật đầy đủ hàm tàng tâm bình đẳng, nên đồng thuyết chư tạng. Tạng có nghĩa là bao hàm.

1. Nhứt tâm tạng, chỉ cho Nhứt Chơn Như Tâm Thể, bao hàm cả hư không, đầy đủ muôn pháp, vô lượng diệu dụng, nên gọi là Tạng.

2. Địa tạng, vì tâm thể vốn không phân biệt, bình đẳng như đất, sanh ra vô lượng công đức lành, nên gọi là Tạng.

3. Giới tạng, tâm thể vốn không, nhưng đầy đủ vô lượng giới pháp, dung nạp vô lượng biển phước, nên gọi là Tạng.

4. Hạnh nguyện tạng, tâm làm việc lành gọi là Hạnh, tâm đã nguyện khắc kỳ thủ chứng gọi là Nguyện, biển hạnh vô biên, nguyện môn vô tận nên gọi là Tạng.

5. Nhơn quả Phật tánh thường trụ tạng, mới bắt đầu phát tâm tu gọi là Nhân, cuối cùng đạt sở chứng gọi là Quả, vậy thì nhân gồm thâu cả biển quả, quả xuyên suốt cả nguồn nhân, nhân quả tương dung chứng đắc pháp thân, nên gọi là Phật tánh. Pháp thân vốn tịch diệt vắng lặng thường trú, không biến hoại, không dời đổi, bao gồm pháp giới, thể đồng thái hư, nên gọi là Tạng.

Tâm tạng, Điạ tạng, Giới tạng, rõ ràng chẳng phải Ba-la-đề-mộc-xoa của Tiểu thừa, mà chính là bổn nguyên tâm địa chánh pháp giới của Bồ Tát vậy.

Tất cả chư Phật, chính là ngàn trăm muôn ức chư Phật trong thế giới của Liên hoa Đài tạng. Như vậy, vô lượng chư Phật diễn nói vô lượng Nhứt thiết pháp tạng. Vậy năm tạng đây bao gồm không còn sót, mà giới tạng là quan trọng nhất trong năm tạng. Hiểu được chỗ quan trọng này, thì đầy đủ muôn hạnh, Thánh quả tròn đầy, thế nên tất cả chư Phật ba đời đồng nói, tất cả chúng sanh trong ngàn trăm ức thế giới, đều tôn kính thọ trì, hoan hỷ phụng hành.

Tướng tâm địa tướng, tâm địa vốn vô tướng, mà giới có trì có phạm, đây là tướng của Tâm địa. Tướng có tướng chung, tướng riêng, 10 giới trọng là tướng chung, 48 giới khinh là tướng riêng. Tướng chung có vô lượng, tướng riêng cũng vô cùng, lớp lớp vô tận, giống như lưới châu của trời Đế Thích. Nếu muốn mở rộng tướng sự và lý của tâm địa này, thì ngay trong phẩm Thất Hạnh của kinh này nói rõ. Nhưng phẩm này, Quốc độ ta không có.

II. KẾT TỤNG HỒI HƯỚNG LƯU THÔNG

Kệ tụng này tuy chẳng phải là Phật nói, nhưng văn nghĩa thảy đều đầy đủ, hoặc do các bậc Hiền, Thánh cõi Tây Trúc để lại, hoặc là các bậc triết nhân phương này đặt ra, nhằm tán thán sự trì giới, khuyên học, độ sanh, phát nguyện hối hướng. Như trong Tỳ Kheo Giới Bổn, đầu tiên thuật lời tán tụng, phần kế nêu bày giới tướng, phần sau kết tụng hồi hướng, mới hợp với ba lần khải thỉnh. Nay thiếu phần tán tụng đầu tiên, vì bộ kinh này chẳng đủ cả quyển, chỉ có phẩm Thượng và phẩm Hạ.

Kệ rằng:

Đủ thấy Nhẫn Tuệ mạnh

Nay trì pháp như thế

Dù chưa thành Phật đạo

Được năm lợi ích lớn.

Giải thích:

Mạnh ở đây là kiên cố, bền vững. Nhẫn chính là Sanh pháp nhẫn, Huệ là trí tuệ Bát nhã. Do sanh ra pháp nhẫn nên tâm chẳng động, dùng trí tuệ Bát nhã mà dứt trừ mê hoặc, chứng đắc chơn thật đế lý, để biết tâm địa đại giới này. Bởi vậy, chẳng phải ngu phu, Tiểu thừa trí tuệ nông cạn có thể kham thọ nỗi, mà người trí thấu đạt, mới có thể thọ trì. Dù chưa thành Phật, nhưng người hay thọ trì giới pháp này thì nhất định sẽ thành Phật ở tương lai.

Nay tuy chưa thành Phật, nhưng trong thời gian đó, đời đời trước hết được năm thứ phước đức lợi ích của Phật.

Một là Phật mười phương

Thương xót thường thủ hộ

Hai là lúc mệnh chung

Chánh kiến tâm hoan hỷ

Ba dù sanh ở đâu

Thường làm bạn Bồ Tát

Bốn là muôn công đức

Nhờ giới đều thành tựu

Năm từ nay về sau

Phước tuệ tánh giới đầy

Mới là con chư Phật.

Giải thích:

1. Do giữ gìn kiên cố giới pháp tâm địa của chư Phật, nên được chư Phật thương tưởng, mẫn niệm thường được thủ hộ, khiến cho họ an ổn tu hành đạo nghiệp, thành tựu tự hành, khiến cho không thối thất và không khiến cho ma chướng có dịp quấy phá. Nên kinh Bát Nhã ghi: “Như Lai khéo hộ niệm chư Bồ Tát.”

2. Do tự mình đầy đủ chánh kiến, biết nhân quả thiện ác rõ ràng, nếu hủy giới cấm phải sa đọa vào đường ác, nên luôn sanh tâm lo sợ, trì giới thì được sanh về cõi Phật, nên tâm lúc nào cũng hoan hỷ. Tỳ Kheo Giới Bổn ghi: “Như người tự soi gương đẹp xấu sanh vui buồn” ấy vậy.

3. Nghĩa là giới pháp này ba đời Bồ Tát cung kính tôn trọng mến mộ giữ gìn bảo hộ, đồng học, đồng thọ trì, đời đời kiếp kiếp bất cứ ở đâu thường được làm bậc Tam Hiền, Thập Thánh, được chư đại Bồ Tát dắt dẫn, cùng làm bạn hữu.

4. Nghĩa là thực hành pháp lục độ vạn hạnh, được vô lượng công đức, nếu có thể hành trì một giới trong giới phẩm này, thì các công đức khác thảy đều thành tựu.

5. Nghĩa là giới này là bổn nguyên giới của Phật tánh, tánh tự vốn thiện, thân nghiệp, khẩu nghiệp thanh tịnh, tự nhiên dứt ác, tự nhiên sanh thiện, dứt ác là tuệ, sanh thiện là phước, đời nay kiên trì giới cấm, thì phước đức trí tuệ tự nhiên tăng trưởng, đời sau phước trí đầy đủ (phước trí nhị nghiêm) thành tựu Phật quả, với hiệu là Lưỡng Túc Tôn. Tất cả Phật tử từ giới này mà sanh, hiện tại hay thọ trì cấm giới, thì phước tuệ dần dần đầy đủ, đó mới là Phật tử chơn chánh, tiếp nối quả Phật ở tương lai.

Người trí khéo nghĩ lường

Kẻ trước tuớng chấp ngã

Không thể được pháp này

Người đốt thân thủ chứng (Nhị thừa )

Cũng không gieo giống được

Muốn nảy mầm Bồ đề

Trí tuệ soi thế gian

Phải nên quan sát kỹ

Thật tướng của các pháp

Không sanh cũng không diệt

Không Thuờng cũng không Đoạn

Chẳng đồng cũng chẳng khác

Chẳng đến cũng chẳng đi

Trong thể nhứt tâm ấy

Siêng tu tập trang nghiêm

Điều Bồ Tát phải làm

Là tuần tự học tập

Dù Học hay Vô học

Chớ móng tưởng phân biệt

Đấy là Đệ nhất đạo

Cũng gọi pháp Đại thừa

Hết thảy lỗi hý luận

Đều từ đây dứt sạch

Vô thượng trí của Phật

Đều do đây mà thành.

Giải thích:

Quyết định liễu tri gọi là Trí, tức là dùng trí tuệ Bát nhã quán sát, tư duy xét kỹ, biết rõ ngoại đạo phàm phu mê mất chơn tâm bản tánh, lầm chấp thần ngã, vọng chấp tứ đại làm tướng của mình, lục trần duyên ảnh làm tâm của mình, nên không phát sanh tâm địa giới pháp này.

Người đốt thân thủ chứng, hàng Nhị thừa đốt thân diệt trí, thủ chứng Niết bàn Thiên không, nên không gieo hạt giống Bồ đề. Nếu muốn tăng trưởng mầm đạo Bồ đề, tương lai thành chánh giác, phải dùng mặt trời trí tuệ chiếu phá thế gian, phá nhà si ám phiền não của chúng sanh, ngay trong lúc này, dùng trí tuệ Bát nhã quán chiếu thật tướng chân thật của tất cả pháp. Tất cả các pháp đều từ nhơn duyên sanh, duyên sanh thì không có tự tánh, ngay nơi thể tức Không. Không chính là Chân không. Chân không thì vô tướng, nên gọi là Thật tướng, chính là tâm thể bổn nguyên. Chân không thật tướng, không thuộc về thân tâm hữu vi, nên chẳng sanh chẳng diệt, không thuộc về Nhị biên, nên không có Đoạn, Thường, không rơi trong suy lường, nên chẳng phải một chẳng phải khác, vốn lìa động tĩnh, nên không có đến đi. Như vậy, các pháp chỉ là nhứt tâm. Bồ Tát muốn chứng đắc Tâm địa bản nguyên trang nghiêm này, phải từ tâm khởi dụng, dùng trí phương tiện chiếu rõ cảnh giới của tâm, cảnh giới tức là Thật tướng, nên nói vắng lặng mà quán sát.

Điều phải làm, nghĩa là Bồ Tát nên thứ lớp tập học giới, định, tuệ và tấn tu lục độ vạn hạnh. Không giới nào mà không trì, không Thiền nào mà không tu, không có chúng sanh nào mà không độ. Đó gọi là: “Trong cửa ngõ muôn hạnh, chẳng bỏ pháp nào cả” nên gọi là Học. Quán sát một niệm không sanh, trước và sau đều dứt, vạn pháp đều bặt. Đó gọi là: “Trên đầu cây kim, chẳng lập mảy trần” nên gọi là Vô học.

Nếu khởi niệm phân biệt, chính là tâm thức hữu vi, chẳng phải trí tuệ Bát nhã, tức không thể nhập Đệ nhất Trung đạo được.

Ma Ha Diễn, Trung Hoa dịch là Đại thừa, móng khởi niệm phân biệt tức là Có và Không của phàm phu, là Thiên kiến của Nhị thừa hữu vi, không phải Đại thừa Trung đạo, nếu thú nhập vào lý trung đạo, thì ác kiến hý luận, hoặc có, hoặc không, hoặc chẳng phải có, chẳng phải không, theo đây mà diệt.

Tát Bà Nhã, Trung Hoa dịch là Nhứt thiết trí tướng. Trong nhơn thì gọi là Bát mhã, tại quả thì gọi là Tát bà nhã, tức là Nhứt thiết trí của chư Phật. Chủng trí của chư Phật, đều do không khởi phân bỉệt, diệt các hý luận, vào thẳng lý Trung đạo, rồi lại lưu xuất ra diệu dụng.

Vì thế các Phật tử

Phải phát tâm dõng mãnh

Nghiêm trì giới của Phật

Tròn sáng như minh châu

Chư Bồ Tát quá khứ

Đã từng học giới này

Hàng vị lai sẽ học

Người hiện tại đương học

Đây là đường Phật đi

Là điều Phật khen ngợi.

Giải thích:

Vì thế, nghĩa là thừa văn trước, khởi lời sau, muốn chứng đắc Tát bà nhã của chư Phật thì phải phát tâm dõng mãnh, tinh tấn tu tập, giữ gìn kiên trì tịnh giới của chư Phật như giữ hạt minh châu. Nhưng thể của minh châu vốn tự thanh tịnh, sáng suốt, tròn đầy, bậc Đại sĩ trì giới nghiêm mật không để mảy may nhiễm ô nên Tịnh, không khuyết phạm nên Viên, si ám tối tâm phá hết nên Minh, đó là khéo hộ niệm hành trì.

Giới này Bồ Tát ba đời cùng hành trì mà chứng quả Đại Bồ đề, mười phương chư Phật đã cùng hành trì, để thú hướng Niết bàn. Phật là Thánh trong Thánh, nên xưng Thánh chủ, Phật tử nên dõng mãnh tu hành như thế, hộ trì tịnh giới, nên được tất cả chư Phật đồng khen ngợi.

Ta đã giảng giới xong

Hồi hướng cho chúng sanh

Đồng đến Nhứt thiết trí

Nguyện ai nghe pháp này

Đều được thành Phật đạo.

Giải thích:

Ta là người sáng tác bài tụng tự xưng, nay người tụng giới cũng có thể tự xưng như vậy.

Tùy là không trái với văn kinh, Thuận là không trái với ý chỉ của giới, nghĩa là ta nay nói Tâm địa đại giới này, là vô lượng phước đức tích tụ, tâm không tham tiếc đem tất cả hồi hướng cho chúng sanh thảy đồng thú hướng Nhứt thiết trí của Phật, không hướng đến tiểu quả nhân thiên Nhị thừa. Lại nguyện, ai được nghe giới pháp này, tất cả đều thành vô thượng đạo. Bởi từ giới này, một chữ, một lời đều từ Lô Xá Na tâm địa lưu xuất. Đây là bổn nguyên chư Phật, là cội gốc của Bồ đề, nên một khi ai được nghe giới pháp này rồi là hột giống thành Phật, lẽ đâu không thành Đẳng chánh giác ư?

Nhưng căn cơ có lợi, có độn, người tu có người tinh tấn, có người giải đãi, nên thành ra có mau có chậm, nếu được một niệm tương ứng, niệm trước không sanh, niệm sau đâu có mà diệt, chúng sanh và Phật không hai, xưa nay hợp nhứt, lẽ đâu lại có chậm có mau ư?

    Xem thêm:

  • Luận Kim Cương Bát Nhã - Luận Tạng
  • Kim Cương Bát Nhã Luận - Luận Tạng
  • Giảng Giải Kinh Viên Giác - Luận Tạng
  • Thiền Tông Khảo Luận - Luận Tạng
  • Luận Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận - Luận Tạng
  • Luận Phân Biệt Công Đức - Luận Tạng
  • Sớ Giải Kinh A Di Đà - Luận Tạng
  • Thiền Lâm Bảo Huấn - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Bồ Tát Bổn Sanh Man - Luận Tạng
  • Luận Bồ Đề Tư Lương - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh - Luận Tạng
  • Tây Phương Hiệp Luận - Luận Tạng
  • Luận Kim Cang Đỉnh Du Già Trung Phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề - Luận Tạng
  • Luận Đại Trượng Phu - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 4 - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận - Luận Tạng
  • Trung Luận – Thích Viên Lý - Luận Tạng
  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 1) - Luận Tạng