1
2
3
4
5

Luận Bồ Tát Bổn Sanh Man

Tống Thiệu Đức Huệ Tuân Đẳng dịch

Bản Việt dịch của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

***

Đảnh lễ Nhất Thiết Trí

Đức viên dung lặng diệu

Tướng mạo Thánh chi phần

Vô tác đồng chân như.

Tâm con tĩnh không tranh

Quên xưng tán bố thí

Do bổn đại là gốc

Sinh thanh tịnh không đổi.

Thuở xưa trong cõi người

Thường tu hạnh tịch tĩnh

Đem hoa Câu-tô-ma

Chắp tay mà rải cúng.

Xa lìa các tội ác

Giải thoát các phiền não

Được trời, người yêu thích

Giảng nói đạo Vô thượng.

Vì tâm ý vắng lặng

Đạt được pháp thanh tịnh

Tướng thế giới thường trụ

Vô tận, không tạo tác.

Chúng sinh nơi thế gian

Nghe công đức tương ứng

Khởi quyết định tin hiểu

Trụ tạng mật Như Lai,

Dứt hành nghiệp lưu chuyển

Diệt điên đảo hư vọng

Công năng của Thắng trí

Như đèn luôn chiếu khắp.

Các loài hữu tình ấy

Tự tánh vốn không nhiễm

Nương tựa Phật Thế Tôn

Dốc tu nghiệp chân, tịnh,

Tức nghe tên Tam bảo

Cùng Sư trưởng chỉ dạy

Tùy thuận học hạnh thiện

Trừ sạch tâm ngã mạn.

Thuở trước, Bậc Điều Ngự

Siêng tu đạo Bồ-tát

Theo Bố thí, Ái ngữ

Cùng Đồng sự, Lợi hành,

Tóm giữ nơi Thắng tuệ

Thoát cấu nhiễm trói buộc

Tạo lợi lạc chúng sinh

Tăng trưởng các pháp lành.

Do lực thí viên mãn

Sinh chủng tộc Phạm thiên

Chỉ dốc tăng nghiệp tịnh

Mà lấy đó làm gốc.

Nếu dấy khởi ngã mạn

Cùng không lực Thắng tuệ

Ở trong chủng loại mình

Lại sinh điều kiêu mạn,

Nơi trăm ngàn vạn thứ

Lìa hỷ lạc nơi sinh

Do điên đảo chấp giữ

Nên chẳng thể chứng đắc.

Lại chôn tịch tĩnh kia

Phước đức càng thù thắng

Đủ sắc tướng rộng lớn

Nhân nhỏ đâu đạt được,

Chính bỏ tục xuất gia

Bậc Đại Bồ-tát ấy

Đầy đủ trí tuệ lớn

Nên đảm đương gánh vác.

Ở nơi đời quá khứ

Luôn tu tập sáu độ

Đã đoạn trừ nhiễu, chướng

Lìa dứt khỏi luân hồi,

Tâm từ bi lớn rộng

Luôn thương xót muốn loài

Tự tánh thường chân thật

Thông thạo nhân nhiễm ô.

Bấy giờ trời Đế Thích

Quan sát nơi thế gian

Đến thử nghiệm hành tu

Tâm ấy không nghiêng, động.

Nên dứt lời ca ngợi:

Nay bậc Thiện nam này

Xuất hiện nơi thế gian

Là Đấng Tối Thù Thắng,

Nơi vô thường dời đổi

Tâm an trụ như thế

Đem thức ăn tịnh diệu

Cung kính dâng cúng dường.

Chư Thiên và người đời

Thảy đều được thiện lợi.

Nhớ xưa tu nhân tịnh

Hợp chân trí vô tướng

Hành giả tu như vậy

Trị diệt bệnh phiền não.

Trụ học xứ thanh tịnh

Chân thật không hư dối

Quan sát Thắng nghĩa đế

Lìa nhiễm, không tạo tác.

Mở cửa phương tiện Từ

Thí bình đẳng an lạc

Thắng giải được phát sinh

Không tà mạng mong cầu.

Dứt bỏ mọi hữu vi

Lên thẳng nơi cõi thật

Đạo thanh tịnh thành tựu

Mọi công đức tương ứng.

Nơi nhân duyên tạp nhiễm

Đều đoạn trừ rốt ráo

Luôn tôn trọng, kính tin

Tạng bí mật Như Lai.

Lìa vọng chấp phân biệt

Dứt trừ sân, phiền não

Chớ thuận chủng tộc hơn

Mà sinh tâm tham đắm.

Như bóng luôn theo hình

Như mẹ sinh nơi con

Lực bi nguyện Bồ-tát

Thương xót khắp muốn loài

Dũng mãnh bỏ thân mình

Chẳng sinh tưởng sầu khổ.

Con nay đem chút thiện

Xin quy kính tán dương

Mong Thánh chúng gia hộ

Bồ-đề thảy thành tựu.

***

Duyên Khởi 1: GIEO MÌNH HIẾN THÂN CHO CỌP

Thuở ấy, Đức Thế Tôn cùng đại chúng đi đến tận khu rừng thuộc một làng lớn tên là Bát-già-la. Ngài bảo Tôn giả A-nan:

-Tôn giả sắp đặt cho Như Lai một tòa ngồi ở đây!

Công việc xong xuôi, Đức Phật thăng tòa bảo chư Tỳ-kheo:

-Các thầy muốn thấy xá-lợi của Như Lai nơi đời quá khứ trong khi tu hành khổ hạnh không?

Đại chúng đáp:

-Bạch Đức Thế Tôn, chúng con nguyện muốn được trông thấy.

Đức Thế Tôn khi ấy dùng tay ấn vào đất, tạo nên sáu thứ chấn động, bỗng nhiên từ dưới đất vọt lên tòa tháp bằng bảy báu hiện ra trước mặt đại chúng. Đức Thế Tôn rời tòa đảnh lễ tháp, nhiễu quanh bên phải rồi bảo Tôn giả A-nan:

-Tôn giả hãy đến mở cánh cửa tháp này, sẽ thấy một chiếc hộp làm bằng bảy báu, cẩn bằng các ngọc quý, lại mở nắp hộp đó sẽ thấy xá-lợi màu trắng như ngọc kha tuyết. Hãy đưa linh cốt của bậc Đại sĩ ấy lại cho ta.

Khi Đức Thế Tôn đã cầm linh cốt, bèn bảo đại chúng hãy xem kỹ và Ngài đọc kệ:

Bồ-tát công đức vượt Siêng tu hạnh sáu độ Dũng mãnh cầu Bồ-đề Xả thân, tâm không tiếc.

Đức Phật bảo:

-Này các Tỳ-kheo, các thầy đều phải tỏ lòng kính lễ, vì xá-lợi này là do sự huân tập tu trí từ vô lượng hương Giới, Định, Tuệ.

Tất cả đại chúng đều kính lễ, tán thán là điều chưa từng có.

Khi ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:

-Thưa Thế Tôn, Như Lai là Bậc Đại Sư vượt ra khỏi ba cõi, vì nhân duyên gì Ngài lại đảnh lễ nắm xương này?

Đức Phật đáp:

-Này A-nan, Như Lai từ nắm xương này nên nay mới thành Phật. Để báo đáp ân xưa nên hôm nay Ta kính lễ. Để dứt bỏ tâm còn nghi ngờ của các thầy, Như Lai sẽ nói về nhân duyên kiếp trước của Ta. Đại chúng phải chí tâm lắng nghe:

Này A-nan, vào thời quá khứ vô lượng kiếp về trước, có một Quốc vương tên là Đại-xa, nhà vua có ba người con: Vương tử thứ nhất tên là Ma-ha-ba-la, vương tử thứ hai tên là Ma-ha-đề-bà và vương tử thứ ba tên là Ma-ha Tát-đỏa. Bấy giờ, nhà vua tổ chức đi du ngoạn các cảnh núi non, đem ba vương tử theo, cùng tạm dừng nơi rừng tre lớn. Ngày sau, ba vương tử tiếp tục trên đường dạo chơi, thấy một cọp mẹ sinh bảy cọp con đã trải qua bảy ngày. Vương tử thứ nhất nói:

-Bảy cọp con mãi quây quần bên cọp mẹ, khiến cọp mẹ không rảnh thời giờ đi tìm mồi được, e cơn đói khát bức xúc ắt ăn thịt con. Vương tử thứ hai nghe lời nói ấy bèn than:

-Ôi! Mẹ con đám cọp này chẳng bao lâu sẽ chết hết, ta có cách nào cứu được mạng sống của chúng nó chăng?

Vương tử thứ ba thầm nghĩ: “Thân này của ta, trải qua trăm ngàn đời xả bỏ một cách phung phí, tàn tạ, hư hoại chưa từng có được chút lợi ích gì. Hôm nay, ta sao chẳng thể xả bỏ?” Các vương tử nói, nghĩ như vậy, rồi tâm trạng bồi hồi, nấn ná bên mẹ con cọp đói giây lâu thì trở về.

Vương tử Tát-đỏa lại suy nghĩ: “Thân ta cần phải thành tựu được thiện nghiệp lớn, ở nơi biển sinh tử làm chiếc thuyền lớn. Nếu xả bỏ thân này, tức dứt bỏ trăm ngàn nỗi sợ hãi của vô lượng thứ ung nhọt bệnh dữ, vì thân này chỉ là nơi chứa những thứ bất tịnh, chỉ là gân xương kết hợp duy trì, thật đáng nhàm chán. Do vậy, ta nay nên từ bỏ nó, để cầu nẻo giải thoát rốt ráo vô thượng, vĩnh viễn xa lìa mọi thứ sầu, buồn, khổ não, vô thường, đạt được trăm phước trang nghiêm, thành tựu Nhất thiết trí, ban cho chúng sinh vô lượng pháp lạc.”

Lúc ấy, vương tử dấy lên đại dũng mãnh lớn lao, dùng nguyện lực từ bi tăng thêm nơi tâm mình, e ngại hai vương huynh có thể gây trở ngại cho chí nguyện, nên xin hai anh về cung trước, em sẽ về sau.

Bấy giờ, vương tử Ma-ha Tát-đỏa vội trở vào rừng tre, đến chỗ mẹ con cọp đói, cởi bỏ y phục vắt lên cành cây, rồi đặt thân mình nằm trước miệng cọp đói. Bồ-tát với tâm Từ bi nhẫn chịu, sẵn sàng xả thân. Nhưng cọp mẹ không thể làm gì được. Bồ-tát suy nghĩ: “Cọp mẹ nay đang đói, yếu chẳng thể vồ được thân ta liền dùng cành tre khô chọc vào cổ mình cho máu chảy ra, rồi trèo lên gộp đá cao, gieo mình xuống đất. Ngay lúc ấy, đại địa hiện đủ sáu thứ chấn động, như cuồng phong làm dậy sóng biển, nhô lên lặn xuống chẳng yên, mặt trời bỗng tối sầu như bị A-tu-la che mất ánh sáng. Trời tuôn mưa các loại hoa cùng hương bột vi diệu, lớp lớp rơi xuống phủ khắp rừng tre, nơi không trung, chư Thiên cùng xưng tán.

Lúc đó cọp đói liếm máu nơi cổ Bồ-tát rồi ăn hết thịt, chỉ để lại những khúc xương. Khi ấy, hai vương huynh lòng sinh sầu muộn, nên cùng chạy lại chỗ cọp đói, không giữ được cảm xúc, liền gieo mình trên đống xương còn lại của em, chết giấc hồi lâu mới tỉnh, buồn thương khóc lóc, bịn rịn mãi rồi mới trở về.

Bây giờ, vương phu nhân đang ngủ trên lầu cao, trong giấc mộng chợt thấy điềm chẳng lành: Răng rụng, hai vú bị cắt lại thấy ba chim bồ câu non, trong đó một con bị chim ưng bắt mất. Phu nhân thức giấc, thấy hai vú mình còn chảy sữa. Một tỳ nữ nghe người bên ngoài nói: “Tìm kiếm vương tử vẫn chưa có!”, liền chạy vào cung cho phu nhân hay. Phu nhân nghe qua, lo âu buồn khóc, mắt đầy lệ, vội đến nơi vua đang ngự, tâu:

-Đại vương, chúng ta đã mất đứa con út yêu dấu!

Nhà vua nghe qua buồn nghẹn than:

-Ngày nay mất đứa con yêu quý, đau khổ biết bao!

Rồi dùng lời an ủi phu nhân:

-Khanh chớ âu sầu, ta nay ra lệnh tập trung các đại thần, dân chúng cùng nhau ra khỏi thành phân tán tìm kiếm.

Lát sau, một đại thần trở về tâu vua: Theo tin nhận được, mới tìm thấy hai vương tử lớn, còn vương tử út thì vẫn chưa tìm ra.

Tiếp sau, vị đại thần thứ hai dáng sầu khổ, khóc lóc, đến chỗ vua cha, đem tất cả việc xả thân của vương tử xét tâu lên cho vua hay.

Nhà vua và phu nhân đau buồn không sao tự kìm chế được, liền cùng đến chỗ Bồ-tát xả thân, chỉ thấy để lại đống xương, liền ngã nhào lên trên ấy, vật vã, rồi cả hai cùng chết giấc không còn hay biết, quần thần vội lấy nước rưới khắp châu thân, giây lâu mới tỉnh. Khi ấy, phu nhân đầu bù tóc rối, lăn lộn trên đất, như cá phơi mình trên cạn, như bò mẹ lạc mất con, cùng hai vương tử buồn thương kêu khóc, rồi tâu vua ra lệnh làm lễ trà-tỳ, thâu lượm xá-lợi từ nhục thân của Bồ-tát an trí trong bảo tháp, để cúng dường.

Đức Phật bảo:

-Tôn giả A-nan nên biết, xá-lợi Ta đang cầm đây chính là xá- lợi của Ma-ha Tát-đỏa. Ta lúc ấy, tuy còn nhiều phiền não tham, sân, si… thường ở trong các cõi ác như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, tùy duyên cứu giúp chúng sinh khiến thoát khỏi các nẻo ấy. Huống chi ngày nay, tất cả phiền não đều đã dứt hết, lại không còn các tập khí, được gọi là bậc Đạo sư của cõi trời, người, đầy đủ Nhất thiết trí, mà lại không thể vì tất cả chúng sinh ở trong mọi cảnh hiểm nạn thay thế chịu các đau khổ sao?

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

-Vương tử Ma-ha Tát-đỏa khi xưa đâu phải là người nào xa lạ, chính là thân Ta ngày nay đang ở trong hội này. Quốc vương lúc đó, nay là phụ vương Tịnh Phạn, hậu phi bấy giờ nay là Ma-da phu nhân. Vương tử lớn nay là Bồ-tát Di-lặc, vương tử thứ hai nay là Bồ-tát Văn-thù. Cọp đói khi xưa, nay chính là di mẫu của ta. Đảy cọp con nay là: Đại-mục-kiền-liên, Xá-lợi-phất và năm Tỳ-kheo nhóm ông Kiều-trần-như.

Khi Đức Thế Tôn nói về nhân duyên đời trước của mình như vậy, thì vô lượng a-tăng-kỳ đại chúng trời, người thảy đều buồn vui lẫn lộn, đồng phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Đức Phật thu nhiếp thần lực, ngôi tháp nhiệm mầu bằng bảy báu hiện ra lúc trước, giờ này hốt nhiên biến mất.

***

Duyên Khởi 2:VUA THI-TỲ CỨU MẠNG CHIM BỒ CÂU

Đức Phật bảo với các vị Tỳ-kheo:

-Ta nhớ thuở xa xưa cách nay vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, trong cõi Diêm-phù-đề có vị Đại quốc vương tên là Thi-tỳ, thành chọn làm kinh đô tên là Đề-bà-để, đất đai trong nước phì nhiêu, dân chúng sống cảnh sung túc, an lạc. Đại vương thống lãnh tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, phu nhân, thể nữ tổng cộng hai vạn, có năm trăm thái tử và một vạn quần thần. Nhà vua đầy lòng từ bi, thi hành chính sách: nhân từ, khoan dung, độ lượng, thương yêu muốn dân như mẹ hiền thương con đỏ.

Bấy giờ Đế Thích, chủ cõi trời thứ Ba mươi ba, năm tướng suy kém hiện rõ, sắp bị thoái đọa. Thiên chủ có vị cận thần tên Thiên tử Tỳ-thủ, thấy dung mạo của Đế Thích như vậy nên tâu:

-Cớ gì tôn nghi của Thiên chủ có vẻ ưu sầu?

Đế Thích đáp:

-Ta sắp mãn kiếp, lại nghĩ đến thế gian Phật pháp đã diệt, các vị Đại Bồ-tát lại không ứng hiện, tâm ta lo lắng không biết nương tựa vào đâu!

Thiên tử Tỳ-thủ lại tâu:

-Tâu Thiên chủ, nay tại cõi Diêm-phù-đề, có vua Thi-tỳ là người tinh tấn, ý chí kiên cố mong cầu Phật đạo, Thiên chủ nên đến đó xin quy y, quyết sẽ được thoát nạn.

Đế Thích nghe qua, không rõ hư thực thế nào: Nếu vua Thi-tỳ đúng là Bồ-tát, ta sẽ thử thách. Liền bảo Tỳ-thủ:

-Ngươi hóa thành chim bồ câu, ta biến làm chim ưng. Chim ưng đuổi bắt bồ câu, bồ câu chạy vào vương cung xin vua che chở, như vậy mới có thể xét biết nhà vua có phải là Bồ-tát đích thực hay không?

Tỳ-thủ tâu:

-Ngày nay, đối với Bồ-tát ta phải cung kính cúng dường, chớ nên quấy nhiễu, không được đem tai vạ bức não làm người khổ sở.

Khi ấy trời Đế Thích nói kệ:

Ta tâm vốn không ác Như đem lửa thử vàng

Thử nghiệm Bồ-tát này

Rõ là bậc chân thật?

Nói kệ rồi, Thiên tử Tỳ-thủ bèn hóa làm chim bồ câu, Đế Thích thì biến làm chim ưng rượt đuổi gấp, suýt bắt được bồ câu, bồ câu hoảng sợ nên bay nấp vào dưới nách nhà vua Thi-tỳ xin cứu giúp che chở. Chim ưng đậu trước mặt nhà vua nói tiếng người:

-Nay chim bồ câu này là món ăn của tôi, hiện tôi quá đói, xin nhà vua trả lại chim bồ câu cho tôi.

Nhà vua đáp:

-Bản nguyện của ta là nhằm cứu độ tất cả chúng sinh, chim bồ câu này đã chui vào áo ta, dứt khoát ta không thể trả lại cho ngươi.

Chim ưng nói:

-Tâu đại vương, đại vương nói ngày nay ngài luôn thương xót, nhớ, nghĩ đến tất cả chúng sinh, nếu ngài dứt mất phần ăn của tôi, thì mạng sống của tôi lâm nguy sao ngài không cứu?

Nhà vua đáp:

-Nếu thay thế cho ngươi bằng các thứ thịt khác, ngươi có thể ăn được chăng?

Chim ưng thưa:

-Chỉ có thịt còn máu tươi nóng thì tôi ăn được.

Nhà vua thầm nghĩ: “Nếu giết một mạng để cứu một mạng thì chẳng đúng lý. Chỉ có thịt của thân ta mới có thể thay cho thịt kia, ngoài ra bao nhiêu mạng sống khác đều phải được bảo tồn.” Suy nghĩ như vậy rồi, nhà vua liền cầm dao bén cắt thịt nơi bắp vế mình, đem thịt ấy đưa cho chim ưng để đổi lấy mạng sống cho chim bồ câu.

Chim ưng nói:

-Vua là nhà thí chủ, nay đem thịt nơi thân mình để thay cho thịt chim bồ câu, thì thịt ngài phải cân xứng với thịt của bồ câu mới được.

Nhà vua sai lấy cân, hai đầu đòn để hai đĩa cân, chính giữa treo móc cân điều chỉnh cho bằng, rồi đem chim và thịt đặt vào mỗi đĩa. Nhà vua đã cắt hết thịt nơi bắp vế mà đòn cân vẫn lệch về phía bồ câu. Cho đến cắt thịt nơi cánh tay, thịt nơi hông… rốt cuộc nơi toàn thân vua không còn một chút thịt mà vẫn không cân bằng so với thân hình nhỏ nhẹ của chim bồ câu. Nhà vua muốn đem cả thân mình đặt trên đĩa cân, nhưng sức khỏe không như ý muốn, nên quỵ chân ngã nhào, chết giấc trên đất, không còn hay biết, giây lâu mới tỉnh. Vua dùng sức dũng mãnh, tâm tự trách: “Từ vô số kiếp đến nay ta bị cái thân này làm khổ lụy, luân hồi trong sáu nẻo chịu đủ muốn nỗi sự đau khổ, chưa từng đem lại phước lợi gì cho chúng sinh, nay chính là lúc tạo được phước lợi, sao lại biếng trễ như thế?” Đại vương suy nghĩ như vậy, tự gượng mình đứng dậy, leo vào trong đĩa cân, tâm rất hoan hỷ, được điều chưa từng có. Lúc ấy, đại địa hiện đủ sáu thứ chấn động, tất cả cung điện của chư Thiên đều bị lay chuyển. Chư Thiên nơi cõi Sắc trụ trong hư không ca ngợi, thấy Bồ-tát tu khổ hạnh, làm được việc khó làm ai nấy đều buồn cảm rơi lệ như mưa, rồi lại rải các loại hoa trời để bày tỏ sự cúng dường. Lúc đó, trời Đế Thích và Thiên tử Tỳ-thủ đều hiện nguyên hình, đứng trước nhà vua nói:

-Công đức tu hành khổ hạnh của đại vương thực khó có thể nghĩ bàn! Ở trong ba cõi, đại vương đem công đức ấy nhằm mong cầu quả vị Chuyển luân vương, Phạm vương, Đế Thích, hay muốn làm những gì?

Nhà vua đáp:

-Bản nguyện của ta chẳng phải cầu phước báo tôn vinh nơi thế gian, chỉ nguyện đem công đức này để cầu thành Phật đạo.

Đế Thích lại hỏi:

-Ngày nay thân nhà vua đau nhức đến xương tủy, có sinh tâm hối hận chăng?

Nhà vua đáp:

-Không chút-hối hận. Ta thấy nơi thân ông có khổ nạn hết sức lớn.

Đế Thích nói:

-Nhà vua nói không hối hận, vậy lây gì làm bằng chứng?

Nhà vua bèn phát nguyện:

-Ta từ khi phát tâm cho đến lúc này, không có chút mảy may hối tiếc. Nếu chỗ mong cầu quyết định thành Phật của ta là chân thật không hư dối đúng như bản nguyện thì xin khiến cho các chi phần nơi thân thể của ta hiện nay tức khắc bình phục như cũ.

Phát lời thệ nguyện xong, chỉ trong khoảnh khắc, thân thể nhà vua trở lại như trước. Chư Thiên, người đời đều ca ngợi là điều chưa từng có, không thể tự kìm chế được lòng vui mừng vô hạn.

Đức Phật bảo đại chúng:

-Vua Thi-tỳ thuở xưa đâu phải là người xa lạ, chính là thân Ta ngày nay.

Lúc ấy, chúng hội nghe lời Phật nói, thảy đều khác miệng cùng lời thưa hỏi:

-Thuở xưa, Đức Thế Tôn nhằm cứu độ chúng sinh, tu các hạnh xả bỏ thân mạng để cầu đại pháp lớn, đến khi thành đạo, biển pháp đã viên mãn, cờ pháp đã dựng, trống pháp đã đánh, đuốc pháp đã thắp, chính là lúc căn cơ của chúng sinh đã thuần thục, nhân duyên thích hợp, vì sao Như Lai lại lìa bỏ tất cả chúng sinh, muốn nhập Niết-bàn mà chẳng thuyết pháp? Đến khi trời Phạm thiên tán thán tiền thân của Như Lai vì dốc cầu pháp đã xả bỏ ngàn đầu, lúc ấy, Ngài mới nhận lời, đến vườn Nai thuộc nước Ba-la-nại, ba lần chuyển xe chánh pháp, cùng quán pháp Tứ diệu đế. Tam bảo từ đấy mới xuất hiện tại thế gian.

***

Duyên Khởi 3:NHƯ LAI KHẤT THỰC

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngự tại giảng đường Trùng các trong tinh xá Trúc lâm, thuộc nước Ma-kiệt-đà. sắp đến giờ thọ trai, Phật cùng Tôn giả A-nan đắp y mang bình bát vào thành khất thực, thấy một cặp vợ chồng già yếu, hai mắt bị mù, lại thêm nghèo khổ, chỉ có một đứa con duy nhất tuổi vừa lên bảy. Người con này thường đi xin về nuôi dưỡng song thân, khi nào xin được thức ăn ngon, trái cây tươi tốt thì dâng cho cha mẹ ăn trước còn đồ ăn không ngon, trái cây bầm héo thì tự ăn.

Lúc ấy, Tôn giả A-nan thầm nghĩ: “Đứa bé này tuổi còn thơ ấu mà có hạnh chí hiếu, sớm hôm lo lắng ân cần không để cha mẹ thiếu thốn”.

Đức Phật khất thực xong trở về tinh xá, thọ trai xong thì rửa chân trải tòa ngồi, vì đại chúng sắp diễn nói kinh pháp.

Tôn giả A-nan đến trước Đức Phật, chắp tay bạch:

-Bạch Đức Thế Tôn, chính trong khi con hầu Thế Tôn vào thành khất thực, thấy một em bé dắt cha mẹ mù lòa xin ăn đây đó, phụng dưỡng cha mẹ hết lòng hiếu thảo. Hằng ngày làm được mãi như thế thì thật là khó.

Đức Phật bảo:

-Này A-nan, chẳng những chỉ kẻ tại gia, mà hàng xuất gia đều phải lây hiếu hạnh làm việc trước tiên. Xét về công đức, thì công đức của sự hiếu thảo đối với cha mẹ là không thể lường tính. Vì sao?

Ta nhớ vào thời quá khứ, vô lượng kiếp về trước, lúc ấy Ta là đồng tử tuổi cũng lên bảy. Vì lòng hiếu thuận, nên từng cắt thịt thân mình để cứu mạng sống của cha mẹ trong cơn nguy cấp. Từ đó đến nay, Ta nhờ công đức này thường làm Đế Thích hay vua cõi người, cho đến hiện tại, thành Phật đều do phước đức ấy.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

-Bạch Đức Thế Tôn, con muốn được nghe nguyên nhân việc cứu mạng sống cho song thân vào đời trước của Ngài, việc ấy như thế nào?

Đức Phật bảo:

-Này A-nan, hãy nên lắng nghe, Ta sẽ vì Tôn giả mà kể lại chuyện ấy.

Về thời xa xưa, tại cõi Diêm-phù-đề này có một nước lớn tên là Đắc-xoa-thi-la, nhà vua tên là Đề-bà, có mười vị thái tử, mỗi người trị vì một tiểu quốc. Thái tử út tên là Thiện Trụ. Đất nước của vua ấy sung túc, yên ổn, dân chúng sông trong cảnh thái bình. Lúc ấy có vua hung ác ở nước láng giềng tên La-hầu, muốn xâm chiếm đất nước của vua Thiện Trụ. Vua La-hầu kết giao với đám hung bạo, cử binh tướng đến tấn công. Vua Thiện Trụ binh lực thua sút, nên phải bỏ chạy về nước của cha mình để lánh nạn.

Vua Thiện Trụ có một thái tử rất yêu quý tên là Thiện Sinh, tuổi còn thơ ấu không thể xa lìa, nến nhà vua vừa dắt vợ vừa dìu con vội vã chạy trốn khỏi nước. Đường về cố hương có hai ngả: Một ngả chỉ đi bảy ngày thì đến quê nhà, còn một ngả nữa đường sá chật hẹp hẻo lánh quanh co, phải trải qua mười bốn ngày mới tới. Nhà vua cố gắng mang theo lương thực dự trữ đủ bảy ngày, nhưng trên đường chạy trốn kẻ địch, tâm thần hoảng loạn, nên đi nhầm ngả đường quanh co hẻo lánh, thành ra mới đi được một nửa thì lương thực đã cạn, những ngày kế tiếp cả ba người đều đói khát mỏi mệt, xem khắp chung quanh hầu như không còn gì để sống. Vì sự cấp bách cùng kế phải hy sinh một người để bảo tồn mạng sống cho hai người, nên nhà vua mới bảo vợ dẫn con đi trước, còn mình thì đi sau rút gươm sắp chém thân vợ dùng để nuôi thái tử và mạng sống của thân mình. Thái tử Thiện Sinh lúc ấy bỗng nhiên nhìn lại phía sau thấy cha mình đang giơ kiếm sắp chém mẫu hậu nên vội vã tâu:

-Xin phụ vương chớ giết mẫu thân con, thà cắt thịt thân con dùng làm lương thực! Con chưa từng nghe có người con nào lại ăn thịt mẹ mình.

Thiện Sinh ân cần, thành khẩn khóc lóc van xin để mẫu hậu được toàn tánh mạng.

Thiện Sinh lại tâu với vua cha:

-Nguyện đem thịt của thân con cứu sống song thân, nếu cắt thịt thì xin chớ cắt hết một lượt, có thể cắt ăn từ từ, đủ kéo dài số ngày theo đường đi còn lại. Nếu cắt hết một lần, mạng con chết rồi thì thịt kia sẽ thối rữa, ắt phải bỏ đi, đối với việc cứu đói như thế chẳng thành.

Khi ấy, vua cha cùng mẫu hậu đồng nói với Thiện Sinh:

-Ngày nay cha mẹ làm điều tội lỗi này thật không phải là bản ý của chúng ta. Nhưng hai ta sao nhẫn tâm cầm dao trực tiếp cắt thịt con mình.

Lúc ấy, vương tử đã định ý sẵn, bèn cầm dao bén tự cắt thịt thân mình, quỳ dâng cho cha mẹ. Nhà vua và phu nhân thấy việc như vậy, buồn khóc thảm thiết, hồi lâu mới đành lòng ăn thịt con. Trải qua mấy ngày, thịt trên thân con đều hết mà chưa đến nơi, cơn đói khát lại càng bức bách khó chịu đựng được. Ở khoảng giữa những đốt xương chỉ còn chút ít thịt, đủ để duy trì mạng sống thoi thóp của vương tử vào những giờ phút cuối cùng. Thiện Trụ và phu nhân đều dùng lời thương yêu an ủi con mình, gục đầu vào nhau lưu luyến, rồi đành phải bỏ đi.

Khi đó, vương tử thầm nghĩ: “Ta đã đem thịt mình cứu sống song thân, mong cho cha mẹ về đến quê cũ, thân được an ổn, hưởng cảnh thái bình. Nguyện đem thiện căn này mau chứng Bồ-đề nhằm cứu độ tất cả chúng sinh trong mười phương, xa lìa các khổ, hưởng được niềm vui chân thường.” Lúc vương tử phát nguyện ấy, Tam thiên đại thiên thế giới hiện đủ sáu thứ chấn động, tất cả chư Thiên nơi cõi Dục, cõi sắc đều kinh ngạc, liền dùng Thiên nhãn quán sát thế gian, mới biết Bồ-tát tu hiếu hạnh như thế. Các vị Thiên tử ở trong hư không chắp tay tán dương công đức, nước mắt rơi xuống như mưa.

Bấy giờ, trời Đế Thích biến làm cọp, sói muốn đến ăn thịt để thử tâm Bồ-tát. Vương tử tự nghĩ: “Các loài thú dữ ấy muốn đến ăn thịt ta, ta hiện chỉ còn nắm xương thừa này, xin đem tâm hoan hỷ bố thí tất cả không chút hối tiếc buồn rầu.”

Tức thì, Đế Thích liền hiện nguyên hình ca ngợi vương tử:

-Thật là ít có! Đã có thể dùng thịt nơi thân mình để cứu mạng sống cho cha mẹ, tâm hiếu thảo như vậy, không ai sánh kịp! Ngài cầu mong những gì, xin nói cho chúng tôi biết.

Vươn? tử đáp:

-Ta chỉ dốc cầu đạt được Phật đạo vô thượng.

Thiên đế lại hỏi:

-Tôi nay thấy thân ngài, vì hiếu dưỡng đối với cha mẹ mà da thịt đều hết, sự đau khổ đó thật khó nhẫn chịu, ngài có hối hận chăng?

Vương tử đáp:

-Nếu đúng như thật là tâm ta không chút hối hận, cùng nhất định vào đời vị lai ta sẽ thành Phật, thì xin khiến cho thịt trên thân ta đầy đủ lại như cũ.

Nói lời thệ nguyện ấy xong, tức khắc thân thể được bình phục như trước. Khi ấy, Đế Thích và chư Thiên cùng hết lời tán thán:

-Hay thay! Hay thay!

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

-Vua Thiện Trụ thuở xưa nay chính là phụ vương Tịnh Phạn, vương phu nhân khi đó nay là phu nhân Ma-da, còn vương tử Thiện Sinh là thân Ta.

***

Duyên Khởi 4:THẦN THÔNG BIẾN HÓA TỐI THẮNG CỦA NHƯ LAI

Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị đệ tử đều là bậc Đại A-la-hán, du hành giáo hóa, dừng nghỉ nơi thành Vương xá thuộc nước Ma-kiệt-đà. Vua nước ấy tên là Bình-sa vương, bẩm tánh nhân từ, hiền hòa, từ lâu đã vun trồng đạo đức, chứng được Sơ quả, lòng tin không thoái chuyển, tâm kính tín Tam bảo càng thêm sâu dày, thường đem các thức ăn thượng diệu, y phục, đồ nằm, thuốc men… cúng dường Đức Như Lai và chúng Tỳ-kheo.

Từ trước, cả nước Ma-kiệt-đà cũng như nơi kinh đô là thành Vương xá đã có nhóm Phú-lan-na là một trong sáu phái ngoại đạo, truyền bá tà giáo, làm mê hoặc dân chúng, số người tin theo cũng khá nhiều. Nhà vua có người em rất sùng tín ngoại đạo này, kính thờ bốn việc gọi đó là có đạo.

Khi mặt trời Phật xuất hiện nơi đất nước này, pháp bảo liền được hưng thịnh. Nhà vua ân cần khuyên nhủ người em quy y Tam bảo, nhưng người ấy vẫn cố chấp, tin vào tà thuyết, không nghe lời khuyên, lại còn nói với vương huynh:

-Em đã có thầy của em, chẳng cần phải kính lễ ông Cù-đàm nữa!

Nhà vua lại bảo:

-Phước điền khó gặp, em nên sắm sửa đủ các thức ăn uống thượng vị để cúng dường Đức Như Lai.

Vì lời nói của nhà vua hợp lý, nên người em không dám trái ý, liền tổ chức đại trai đàn, không hạn cuộc người đến dự, nếu người nào tự ý đến ông ta đều đón tiếp.

Ông ta sắp đặt, bố trí bàn ghế, tòa ngồi, bày biện đủ các món ăn hết sức thịnh soạn, rồi sai kẻ hầu âm thầm mời đám Lục sư ngoại đạo. Bọn này nhận lời liền đến ngồi vào vị trí quan trọng.

Đức Phật và chúng Tăng vì chưa có sự cung thỉnh nên không tự đến. Nhà vua nói với người em:

-Em tuy không đích thân đến thỉnh Đức Phật, nhưng cũng phải cho một người đến thưa mời.

Khi có người mời, Đức Phật nhận lời rồi cùng đại chúng đầy đủ oai nghi đồng đến dự hội. Đức Phật thấy đám ngoại đạo đã ngồi sẵn nơi những tòa cao, bèn dùng thần thông dời họ xuống hàng dưới thấp. Chúng nhìn nhau, cùng bảo đứng dậy dời tòa lên, nhưng tòa vẫn cố định, vẫn thấy ngồi dưới thấp. Cứ như vậy ba phen, cuối cùng họ phải gắng gượng mà ngồi.

Đến lượt rửa tay, Đức Phật bảo thí chủ mời thầy của ông rửa tay trước, nhưng nắp bình nước cứ đậy kín, phải đem đến mời Đức Phật rửa trước, lúc này nước trong bình liền chảy ra.

Tiếp theo là chú nguyện, Đức Phật cũng bảo thí chủ mời thầy mình chú nguyện trước, nhưng đám Lục sư miệng như cứng lại nói không ra lời, phải đến mời Phật, ngài dùng Phạm âm chú nguyện, âm thanh trong lành vang rộng khiến người nghe đều vui thích.

Kế đến giờ thọ thực, sự việc cũng được tiến hành như trước, nhưng đồ ăn đem đến cho đám Lục sư liền bay lên hư không. Lúc đem dâng cho Đức Phật và chúng Tăng, thì các thức ăn kia từ trên không hạ xuống. Đức Phật và chúng Tăng thọ trai xong, rửa tay, súc miệng, xỉa răng, trải tòa an tọa.

Đến lượt thuyết pháp, Đức Phật cũng bảo mời thầy của thí chủ giảng nói trước, nhưng cũng như lúc chú nguyện, đám Lục sư đều như bị cấm khẩu. Tới phần Đức Phật, lúc này Đức Như Lai dùng Phạm âm, vì khắp chúng hội diễn nói pháp vi diệu, đại chúng lắng nghe thảy đều thấu đạt. Người em của Bình-sa vương tâm được thanh tịnh, tin hiểu Phật pháp, nên quy y Tam bảo chứng được Sơ quả. Ngoài ra trong chúng hội có người chứng được Nhị quả, cho đến dứt hết các lậu, chứng quả A-la-hán.

Mưu đồ của đám ngoại đạo hôm ấy bị thất bại, nên ôm lòng buồn bực, tức giận, tâm không lúc nào an ổn. Sau đó mỗi người tự tìm nơi vắng lặng để mong học các thuật lạ. Thiên ma Ba-tuần sợ đám ngoại đạo này khiếp nhược, không thể giữ nổi các thứ tà đạo mà Thiên ma đã trao, nên mới hiện xuống biến thành tướng của vị Lục sư, ở trước một người ra năm người phô diễn pháp thuật. Bay đi trong hư không, thân phun ra nước, lửa, một thân phân làm nhiều thân, biến hiện đủ cách. Do đó đám ngoại đạo càng thêm tin cậy, bao nhiêu tâm niệm tủi nhục lúc trước đều tiêu tan. Nay tự xét mình có thể hơn Sa- môn Cù-đàm, liền cùng nhau đến trước nhà vua khoe khoang về phép lạ, lại xin nhà vua mời Phật đến đấu phép mới thấy ai cao thấp.

Bấy giờ, Bình-sa vương mỉm cười nói:

-Ta thấy đám tà thuật các ông thật hết sức mê muội. Uy đức của Phật rộng lớn, lời nói không thể diễn tả hết! Các ông quả là muốn đem ánh sáng của đom đóm so với ánh sáng mặt trời, đem nước đọng nơi dấu chân thú, sánh với nước nơi biển cả, đem ụ đất của kiến đùn so với núi Tu-di, đem thân thấp hèn của loài dã can mà sánh với tướng của SƯ tử… Chỗ cao thấp, lớn nhỏ đã quá rõ ràng có thể tự biết.

Lục Sư tâu:

-Đại vương chưa tận mắt chứng kiến sự biến hóa thần diệu của chúng tôi, do đâu mà ngài đem tâm xem rẻ chúng tôi như vậy!

Nhà vua chấp nhận, hẹn bảy ngày sau mời nhóm ngoại đạo này đến thí trường đấu phép.

Nhà vua thân hành đến chỗ Phật, trình bày mọi sự việc như trên, rồi thưa:

-Cúi mong Đức Thế Tôn dùng phương tiện thể hiện uy lực để hàng phục tà đảng, đem chúng trở về với chánh đạo.

Đức Phật nói:

-Này đại vương, Như Lai tự biết đúng lúc!

Nhà vua nghe lời nói ấy, cho rằng Đức Phật đã chấp nhận, liền ra lệnh đám quần thần tìm một vị trí thật rộng rãi, sửa sang bằng phẳng sạch sẽ, treo cờ phướn, bày biện tòa ngồi. Đúng ngày khai hội, dân chúng đều trông ngóng Như Lai đến. Nhưng ngày hôm đó, Đức Như Lai cùng đại chúng từ thành Vương xá đi tới nước Tỳ-da-ly. Nhà vua đang trị vì nước ấy tên là Lật-tha liền dẫn các quan cùng dân chúng ra khỏi hoàng cung nghinh đón Phật và chúng Tăng. Đám Lục sư ngoại đạo cùng lớn tiếng nói rằng đã biết từ lâu, trí thuật của Sa- môn Cù-đàm cạn cợt ít ỏi, nay bắt buộc phải so tài hơn thua nên sợ mà lánh đi.

Khi ấy, Bình-sa vương nghe tin Đức Phật đã rời khỏi nước, nên sắm đầy đủ vật cúng dường chất đầy năm trăm xe, vua cùng các quan, dân chúng gồm đến mười vạn người, đem đầy đủ vật cần dùng, tất cả đều đi theo Đức Phật.

Lục sư ngoại đạo liền đến trước đại vương Lật-tha tâu:

-Tâu đại vương, cho phép chúng tôi cùng Sa-môn Cù-đàm so tài về thần thông biến hóa.

Đại vương nói:

-Thật là kẻ ngu si! Tự cho mình là có đạo đức, tài ba! Chỉ lo cho các ông tự chuốc lấy sự tủi nhục đó thôi.

Rồi nhà vua đến bạch Phật:

-Bạch Đức Thế Tôn, đám Lục sư ngoại đạo háo hức muốn so tài phép lạ với Ngài. Cúi xin Đức Như Lai hàng phục đám tà ác kia.

Đức Phật nói:

-Này đại vương, Như Lai tự biết đúng lúc!

Nhà vua nghe Phật nói như vậy, tưởng rằng Đức Phật đồng ý, nên về ra lệnh sắp đặt tổ chức giống như Bình-sa vương. Đúng ngày hẹn, dân chúng chen chúc chờ xem thi phép. Nhưng hôm đó Đức Như Lai lại từ nước Tỳ-da-ly hướng dẫn đại chúng đến nước Câu-thiểm- di. Vua của nước này tên là Ưu Điền, nghe tin, bèn tập hợp tất cả các quan lớn nhỏ, đông đảo dân chúng cùng đến đón rước Đức Thế Tôn và đại chúng.

Dân chúng thành Tỳ-da-ly sáng hôm đó sớm không thấy Phật, nên hỏi nhau:

-Vì sao Phật lại sang nước Câu-thiểm-di?

Đám Lục sư thấy vậy lại càng huênh hoang, nói với các môn đồ của họ:

-Rõ là Sa-môn Cù-đàm không dám gặp chúng ta.

Lúc ấy, vua Lật-tha nghe Đức Phật đã rời khỏi nước mình, cũng sắm sửa vật cần dùng, chở đầy năm trăm xe theo để cúng dường. Vua, đông đảo các quan và dân chúng gồm bảy vạn người, đem đầy đủ vật cần dùng, tất cả cùng theo sau Đức Phật.

Đức Phật từ nước Câu-thiểm-di đi sang nước Việt kỳ, từ nước

Việt kỳ, Đức Phật lại đến nước Đặc-xoa-thi-la, rồi tới các nước Ba- la-nại, Ca-tỳ-la-vệ, sau cùng thì dừng chân ở nước Xá-vệ.

Trong lúc Đức Thế Tôn đi qua các nước trên, đều có ngàn vạn ức dân chúng, trăm quan, vua tất cả cùng đón rước trọng thể, cung kính cúng dường. Nơi mỗi nước Đức Phật đi qua, đám Lục sư ngoại đạo luôn đuổi theo sau, mời Đức Phật đấu phép và khoe khoang tài năng của mình.

Các quốc vương đem theo các quan, dân chúng gồm đến vô lượng trăm ngàn vạn ức người, chật ních trên các con sông và đồng nội, đang đổ xô về nước Xá-vệ. Vua nước Xá-vệ lúc đó là Thắng Quân, là một vị vua có uy đức lớn được mọi người tôn kính, tiếng đồn khắp mọi nơi.

Đám Lục sư ngoại đạo lại đến chỗ Thắng Quân tâu:

-Tâu đại vương, Sa-môn Cù-đàm đã lánh mặt chúng tôi, bôn ba qua khắp các nước ý muốn trốn tránh. Chúng tôi cùng đám môn đệ quyết chí đuổi theo, nay đến nơi đây, xin đại vương cho phép chúng tôi cùng Sa-môn Cù-đàm đấu phép hơn thua.

Vua Thắng Quân nói với đám ngoại đạo:

-Thánh đức của Như Lai khó có thể nghĩ bàn, đám các ông là hàng phàm phu ngu si sao dám tranh hơn thua?

Nhà vua đến chỗ Đức Phật, thưa lại đủ mọi sự việc như trên và cúi xin Đức Thế Tôn thể hiện một ít thần thông biến hóa, nhằm khiến cho dân chúng khắp các nước thấy được thần lực của Phật, phân biệt tà chánh.

Đức Phật nói với vua Thắng Quân:

-Này đại vương, đây chẳng phải là duyên nhỏ, nay chính là đúng lúc, như lời đại vương thỉnh.

Nhà vua liền ra lệnh các quan trực thuộc sửa soạn, bố trí hội trường, bày biện tòa ngồi, dùng đủ các thứ hoa hương. Tất cả vua quan, dân chúng khắp nước đều tề tựu.

Nhằm ngày đầu tháng, vào lúc ban mai, Đức Phật và đại chúng đến hội trường trước nhất. Hôm ấy đại vương Thắng Quân đem tâm thanh tịnh thiết trai cúng dường, tự tay mình bưng dâng các thức ăn uống, nước rửa, tăm xỉa răng… cho Đức Phật.

Đức Phật nhận tăm xỉa răng xong rồi vứt xuống đất, từ nơi tăm xỉa răng ấy mọc lên một mầm cây xanh tốt phát triển rất nhanh, lần lần cao lớn tới ba trăm do-tuần, tàng cây bao trùm hai trăm do-tuần, cành, lá, hoa, quả bằng bảy báu, có nhiều màu sắc khác nhau; theo mỗi màu sắc phát ra mỗi hào quang, ăn trái cây này mùi vị như cam lộ.

Tất cả dân chúng trông thấy thần thông của Đức Phật biến hóa như vậy, đều sinh tâm kính trọng, ca ngợi là điều chưa từng có. Đức Phật tùy theo căn cơ của đại chúng vì họ thuyết giảng diệu pháp. Thính giả lãnh hội tâm được giải ngộ, chứng đắc pháp Bất thoái chuyển.

Qua ngày thứ hai, vua Ưu Điền nước Câu-thiểm-di thỉnh Phật cúng dường. Đức Phật, nơi giữa biên giới hai nước, hóa hiện hai hòn núi lớn, cao rộng đẹp đẽ, núi do bảy báu tạo thành, đủ màu sắc chói sáng.

Một núi ở trên đỉnh tuôn ra vô số cơm canh, mùi vị thơm tho, ngon ngọt như vị Tô-đà. Vô lượng chúng sinh trong các nước cùng nhau đến thọ dụng đều được đầy đủ.

Hòn núi thứ hai tuôn ra đầy dẫy các loại cỏ thơm non mềm mại, ăn không đắng không nhám, các loài súc sinh như bò, ngựa, voi, dê… đều được no nê.

Tất cả dân chúng các nước thấy thần thông biến hóa của Đức Phật như thế, đều sinh tâm kính tín, hết lời ca ngợi là điều chưa từng có. Đức Phật vì họ mà thuyết pháp, mọi người đều tỏ ngộ, chứng quả Tu-đà-hoàn.

Qua ngày thứ ba, vua Thuần-chân-đà nước Đại Việt-chi thỉnh Đức Phật cúng dường. Nhà vua dâng nước trong sạch để Đức Phật súc miệng, rửa tay, Đức Phật dùng xong đổ nước xuống đất thì chỗ đất ấy hóa thành ao bảy báu, mỗi mặt rộng hai trăm dặm, nước tám công đức chứa đầy ắp trong ao, hoa sen bốn màu mọc khắp xa gần, mùi thơm tinh khiết. Tất cả chúng hội thấy Đức Phật hiện bày thần thông biến hóa như vậy, đều sinh tâm tín kính. Đức Phật lại vì họ thuyết pháp, tâm ý khai ngộ, xa lìa trần cấu đều chứng Sơ quả.

Qua ngày thứ tư, vua Đà-bà-di nước Đặc-xoa-thi-la thỉnh Đức Phật cúng dường. Lúc ấy, Đức Phật đối nơi bốn mặt ao báu kia biến thành tám dòng sông lớn, nước trong xanh, sóng đập dồn dập vào nhau tuôn chảy liên tục. Tiếng nước chảy diễn nói pháp tám giải thoát và các pháp Ba-la-mật, người nghe đều phát tâm Bồ-đề.

Qua ngày thứ năm, vua Phạm-ma-đạt nước Ba-la-nại thỉnh Phật cúng dường. Khi đó, từ kim khẩu Đức Như Lai phóng ra hào quang màu vàng ròng chiếu khắp cõi Tam thiên đại thiên, chúng sinh nhờ hào quang chiếu soi, thân tâm được thư thái, giống hệt như sự an lạc nơi đệ Tam thiền, Đức Phật vì họ thuyết pháp, chúng hội đều đạt được pháp nhãn thanh tịnh.

Qua ngày thứ sáu, vua Lật-tha nước Tỳ-da-ly thỉnh Phật cúng dường. Diệu lực từ bi của Đức Như Lai gia hộ bình đẳng cho tất cả chúng sinh trong hội, khiến tất cả họ đều hiểu rõ về nghiệp báo thiện ác xen lẫn của hành động và tư tưởng khác nhau nơi mỗi người, nên đều kinh sợ và sinh tâm hoan hỷ, ca ngợi công đức của Như Lai. Đức Phật vì họ mà thuyết pháp, mỗi người được tỏ ngộ một cách thấu suốt, phát tâm thanh tịnh an trụ nơi pháp nhẫn vô sinh.

Đến ngày thứ bảy, các người thuộc dòng họ Thích nước Ca-tỳ-la-vệ thỉnh Đức Phật cúng dường. Đức Phật dùng thần lực khiến mọi người trong hội đều thấy thân mình làm Chuyển luân thánh vương, đầy đủ bảy thứ báu, một ngàn người con quây quần, các tiểu vương, trăm quan, dân chúng đều cung kính thừa hành, ai nấy đều hoan hỷ, ca ngợi công đức của Như Lai, Đức Phật vì họ thuyết pháp, mọi người đều phát tâm cầu quả vị Bồ-đề Vô thượng.

Qua ngày thứ tám, trời Đế Thích biết Phật Thế Tôn dùng thần lực để thu phục hóa độ đám tà đảng, nên hiện xuống nhân gian thỉnh Đức Phật cúng dường, vì Đức Phật, Đế Thích tôn tạo tòa sư tử bằng bảy báu. Khi Đức Phật thăng tòa, hào quang từ tòa chiếu sáng rực rỡ, Đế Thích, Phạm thiên cùng chư Thiên đứng hầu hai bên, tất cả chúng hội đều ngồi im lặng lẽ. Bấy giờ, Đức Như Lai đưa cánh tay màu vàng ròng, dùng bàn tay ấn vào tòa ngồi, bỗng nhiên có âm thanh phát ra như tiếng gầm của voi chúa, ngay lúc đó, có năm đại Dược- xoa, xô dẹp mọi người rồi đến tóm đám Lục sư kéo tới trước pháp tòa, thần Mật Tích cầm chày Kim cang trên đầu đang bốc lửa, tất cả Lục sư thảy đều kinh hãi vội vàng tẩu thoát lấy làm xấu hổ, vì quá nhục nhã. Môn đồ của đám Lục sư đến chín vạn người đều quy y Phật xin làm đệ tử. Đức Phật nói: “Thiện lai”, tức thì râu tóc tự rụng,

thành Sa-môn, đều chứng quả A-la-hán.

Lúc ấy Bình-sa vương lại bạch Phật:

-Thưa Đức Thế-Tôn, ngày nay đám Lục sư ngoại đạo sinh ra tuy gặp Phật mà không được nhờ ân tế độ, con nguyện muốn nghe nguyên nhân nơi kiếp trước của họ.

Đức Phật nói:

-Này đại vương, nên hết sức để ý lắng nghe! về thời quá khứ, vô lượng, vô số kiếp về trước, tại cõi Diêm-phù-đề này có một vị vua tên là Xa-câu-lợi, trị nước đã lâu mà không có người nối giữ ngôi báu. Một khi nghĩ đến việc ấy, lòng vua luôn Ưu sầu, nên phát tâm rộng rãi làm việc phước lợi để cầu mong cho sở nguyện kia được thành tựu. Trời Đế Thích thấy vậy bèn hiện làm một lương y, đến cung điện vua hỏi về nguyên do sầu muộn, nhà vua đem mọi sự như trên trình bày cho lương y nghe. Thầy thuốc nói:

-Tôi sẽ vì đại vương lên Tuyết sơn hái linh dược về cho hậu phi uống, sau đó sẽ có con.

Nhà vua hết sức vui mừng.

Sau khi thầy thuốc hái linh dược về nội cung, dùng sữa sắc thuốc dâng lên hoàng thượng cho hậu phi uống. Vương hậu nghe mùi hôi khó chịu, lại thêm không tin nên chẳng chịu uống. Lương y cáo biệt ra về. Phần thuốc ấy các cung tần tranh nhau chia uống, uống xong chẳng bao lâu đều cám thấy mình có mang. Khi ấy, vương hậu nghe vậy nên hối tiếc, buồn rầu than thở, cho người lục kiếm linh dược lúc trước, may chỉ còn được một ít bã, bèn dùng sữa sắc uống, sau đó vương hậu có mang. Các phu nhân khác đến ngày lâm bồn, ai ai cũng sinh được hài nhi dung mạo tuấn tú, nhà vua hết sức vui mừng. Cuối cùng vương hậu mới sinh được một hoàng tử, khuôn mặt hết sức xấu xí, thân hình như gốc cây, nhà vua và hoàng hậu thấy vậy đều chẳng vừa ý, nhân đó đặt tên cho thái tử là Châu Ngột. Thái tử Châu Ngột qua năm tháng đã trưởng thành, võ nghệ, sức mạnh hơn người.

Bây giờ giặc thù từ trước láng giềng xâm lấn biên cương, nhà vua sai thái tử đánh dẹp, thái tử đẩy lui được quân địch. Nhà vua nhân đấy mà lòng yêu thương con dâng lên, mới lo việc lứa đôi cho thái tử.

Vua Xa-câu-lợi từng nghe vua Lê-sắt-bạt-tha trị vì nơi nước xa xôi, có một công chúa dung nhan vô cùng xinh đẹp. Vua bèn sai người đến cầu hôn cho thái tử mong được vua Lê-sắt-bạt-tha nhận lời. Sáu nước khác nghe danh công chúa đều đem tâm ưa thích nên tranh nhau tới cầu hôn, do đó sáu nước cử quân đánh nhau. Vua Lê-sắt-bạt-tha lúc này mới nói rõ ý mình: Nếu ta chấp nhận gả công chúa cho một nước nào thì các nước kia sẽ đem tâm oán giận ta. Vậy nước nào đánh lui được các nước khác, chính nước đó sẽ đón công chúa của ta.

Thái tử Châu Ngột nghe lời bày tỏ của vua kia, mới rõ sự thực là đang có các nước tranh nhau, nên sử dụng các thứ binh khí sắc bén, đám quân binh là hàng trai trẻ khỏe mạnh, hăng hái xông ra trận địa nên kết quả là thắng, đem sáu thủ cấp của các vua kia dâng cho vua Lê-sắt-bạt-tha, nhà vua hết sức vui mừng, nhận thái tử làm chàng rể. Thái tử Châu Ngột thông lãnh tướng sĩ sáu nước cùng phu nhân trở về bổn quốc.

Công chúa thấy thái tử Châu Ngột diện mạo xấu xí, thường tỏ vẻ sợ sệt. Thái tử tủi phận, tâm chẳng được yên ổn nên lẻn vào rừng sâu tính bề tự tử. Trời Đế Thích biết được ý định của thái tử nên hiện xuống nơi rừng sâu kia, khéo léo đem lời an ủi và cho một viên ngọc quý, bảo thái tử đem viên ngọc ấy giấu kín tại đảnh đầu, sẽ được tướng mạo như mình không khác. Thái tử quỳ nhận viên ngọc rồi vui vẻ trở về hoàng cung, người vợ thấy, chẳng biết là ai mới hỏi:

-Ngươi là người nào?

Thái tử bèn kể lại đầy đủ về nguyên do có được viên ngọc.

Thái tử từ đây khổng còn tên Châu Ngột nữa, lại được thay bằng tên Tu-đà-la-xá.

Đức Phật nói với vua Bình-sa vương:

-Vua Xa-câu-lợi lúc ấy nay là phụ vương Tịnh Phạn, vương phu nhân thời đó nay là Ma-da phu nhân. Thái tử xấu xí chính là Ta, còn người vợ xinh đẹp thuở ấy nay là phu nhân Da-du, sáu vị vua bấy giờ nay là đám Lục sư như Phú-lan-na…

    Xem thêm:

  • Đại Thừa Khởi Tín Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Trượng Phu - Luận Tạng
  • Luận Thành Duy Thức Bảo Sanh - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 1) - Luận Tạng
  • Thiền Tông Khảo Luận - Luận Tạng
  • Tịnh Độ Luận - Luận Tạng
  • Thiền Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Phân Biệt Công Đức - Luận Tạng
  • Luận Phật Thừa Tông Yếu - Luận Tạng
  • Luận Về Tịnh Độ Sanh, Vô Sanh - Luận Tạng
  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Thiền Lâm Bảo Huấn - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận - Luận Tạng
  • Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận - Luận Tạng
  • Tây Phương Hiệp Luận - Luận Tạng
  • Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận - Luận Tạng