Kinh Đà La Ni Thanh Tịnh Quán Thế Âm Phổ Hiền
Thanh Tịnh Quán Thế Âm Phổ Hiền Đà La Ni Kinh
Đường Trí Thông dịch
Bản Việt dịch của Huyền Thanh
***
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Bạc Già Phạm ngự tại núi Kỳ Xà Quật, thuộc thành Vương Xá cùng Chúng Đại Tỳ Khưu gồm 500 người đến dự, cùng với vô lượng vô số Bồ Tát.
Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm cùng ngồi với 92 câu đê Bồ Tát. Thời, Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong buổi sáng sớm, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo chắp tay cung kính, cúi lầu lễ Phật, rồi bạch với Đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nói Phổ Hiền Đà-la-ni, vì xót thương và muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Vào thời quá khứ, con ở chỗ Đức Phật Nguyệt Quang nhận được Chú này. Nay trước Đức Phật nói, con muốn Đà La Ni này. Nguyện xin Đức Thế Tôn hãy cho con nói”.
Liền nói Chú rằng: Đây là Chú Căn Bản:
– Na mô hạt la đát-na đá-la dạ gia (1) Na mô a lợi gia bà lô chỉ đế nhiếp bàn la gia (2) Bồ đề tát đỏa gia (3) Ma ha tát đỏa gia (4) Ma ha ca lô ni ca gia (5) Đá điệt tha (6) Khư già bệ (7) Khư già bệ (8) Khư già bệ (9) Giả sô khư bệ (10) Thâu-lỗ đá-la khư bệ (11) Già-la noa khư bệ (12) Thị ha-bàn khư bệ (13) Ca gia khư bệ (14) Ma na khư bệ (15) Tát la khư bệ (16) Bệ ma khư bệ (17) Thâu nhạ khư bệ (18) Nễ nhĩ đá khư bệ (19) Bà-la ni đà na khư bệ (20) Sa ma địa khư bệ (21) Bà la nhĩ đa khư bệ (22) Bồ đề khư bệ (23) Sa la, sa la, sa la (24) Tát bà bột đà địa sắt-xỉ đề (25) Bà la, bà la, bà la (26) Đạt la-ma địa sắt-xỉ đề (27) Ca la, ca la, ca la (28) Tăng già địa sắt-xỉ đề (29) Na mô a lợi gia bà lộ chỉ đế nhiếp bàn la gia (30) Bồ đề tát đỏa gia (31) Ma ha tát đỏa gia (32) Ma ha ca lỗ ni ca gia (33) Na mô tát đỏa gia bàn địa nẫm (34) Bồ để tát đỏa câu đê nẫm (35) A địa sắt-xỉ hán đô ma (36) A dụ la-bàn lam giả (37) Đà đát đô (38) Đá điệt tha (39) Tố la tỳ, tố la tỳ (40) Ma ha tố la tỳ (41) Mẫu nễ, mẫu nễ (42) Ma ha mẫu nễ (43) Ma để, ma để (44) Ma ha ma để (45) Na mô a lợi gia bà lộ chỉ đế nhiếp bàn la gia (46) Bồ đề tát đỏa gia (47) Ma ha tát đỏa gia (48) Ma ha ca lỗ ni ca gia (49) Tất điền đô-sa man tá phạt đà-la đà la ni (50) sa ha (51)
* Chú Kết Giới Đà La Ni là:
– Na mô hạt la đát-na đá la dạ gia Na mô ha lê gia bà lô chỉ đê thất-bàn la gia Bồ đề tát đỏa gia Ma ha tát đỏa gia Ma ha ca lô ni ca gia Đá điệt tha: Chỉ lý bát đà nhĩ Nhĩ lý bàn đà nhĩ Chí lý, nhĩ lý bàn đà nhĩ Tự ma bàn đà nhĩ Tự ma, ma mê ca thất-hệ đà đề mạt yết-la ma đô Tóa ha.
(NAMO RATNATRAYÀYA. NAMAH ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA MAHÀSATVÀYA MAHÀ KARUNIKÀYA TADYATHÀ: KILI BANDHA ME MILI BANDHA ME KILI MILI BANDHA ME SIMA BANDHA ME SIMA ME KÀSTHA NATI KRÀMAT SVÀHÀ ).
Chú vào nước 21 biến, rưới vảy mười phương liền thành Kết Giới. Chú Đà La Ni này, trước tiên nên thọ trì, chuẩn bị trước khi Kết Giới. Như Ta kết giới, liền được thành tựu.
* Đà la-ni Phụng Thỉnh là:
– Nạp mô la đát-na đá-la dạ gia. Na mô ha lê gia bà lộ chỉ đê nhiếp bàn la gia Bồ đề tát đỏa gia Ma ha tát đỏa gia Ma ha ca lỗ ni ca gia Đá điệt tha: Chí lý, chí lý Nhĩ lý, nhĩ lý Chí lý lê Yên hê, bà già bạn A lê gia bà lô chỉ đê nhiếp bàn la Sa ha.
(NAMO RATNATRAYÀYA. NAMAH ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA MAHÀSATVÀYA MAHÀ KARUNIKÀYA TADYATHÀ: KILI KILI MILI MILI CILI CILI EHI BHAGAVAN ÀRYA AVALOKITE’SVARA SVÀHÀ).
Nếu muốn thỉnh Ta, như Ta đã nói. Chí tâm thỉnh xong, sau đó từ ngày 8 cho đến ngày 15 của tháng Bạch Nguyệt, mỗi ngày ba thời dùng nước thơm (Hương dịch) tắm gội, mặc áo sạch mới. Mỗi ngày ba thời, mỗi thời đều tụng 108, cho đến ngày 15 thì gấp nhiều hơn, tác Thắng Cúng Dường, tụng không có biến số, tức nửa đêm của ngày đó, Bồ Tát Quán Thế Âm tự đến, hiện thân màu vàng ròng với tướng tốt đẹp trang nghiêm, đủ các thứ hào quang, tỏa ra một ngàn loại ánh sáng. Khi ấy Chú Sư, tâm đừng sợ hãi. Khi nhìn thấy xong, liền được Thắng Địa Đà La Ni Tam Ma Địa. Liền thấy Phật A Súc Bệ ở phương Đông, Phật Bảo Tướng ở phương Nam, Phật A Di Đà ở phương Tây, Phật Vi Diệu Thanh ở phương Bắc. Khi nhìn thấy tướng tốt đẹp và ánh hào quang của vô lượng chư Phật Như Lai ở mười phương của chư Phật như vậy, thì lúc xả bỏ thân này sẽ sanh về cõi Phật thanh tịnh, tất cả nơi mà chư Phật đã khen ngợi”.
Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm nói Chú này xong, thì 92 câu đê Bồ Tát đều được trụ nơi Địa A Tỳ Bạt Trí, được thấy tất cả chư Phật, được nghe Chánh Pháp, được diệt tất cả tội nặng của ba Chướng, được công đức to lớn. Như cõi Diêm Phù Đề đè lên số hạt bụi nhỏ của mặt đất, Hành giả tự thân được mọi thứ công đức trang nghiêm, thì tất cả bệnh khổ với các nghiệp ác thảy đều tiêu diệt. Lại được biện tài nhanh chóng, lại được tâm tự tại, tùy theo nguyện đều thỏa mãn, được đầy đủ tất cả Ba La Mật, tùy ý vãng sanh về mười phương Tịnh Thổ, thấy tất cả chư Phật, nghe nói Chính Pháp, được tất cả Tam Muội của Bậc Thủ Lăng Nghiêm, lại được Thất Bảo Tam Ma Đề, Phóng Quang Tam Ma Đề, Đại Hải Thủy Tam Ma Đề, Đằng Không Tam Ma Đề, Xuất Một Tam Ma Đề, được hằng hà sa đẳng Tam Muội của các bậc như vậy. Lại được vô lượng Môn Đại Lực Đà La Ni. Công đức của Chú này và công đức của 80 vạn Đà La Ni không sai khác.
Do sức của Chú này, khiến cho ta được thành Pháp Thân như vậy. Lại hay làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, mau được mọi thứ: thông minh, biện tài, Pháp Thân thanh tịnh.
Do sức của Chú này, một lần nghe Tổng Trì thì vĩnh viễn chẳng quên mất. Do sức của Chú này mà đối với nơi: Sở Tán, Phóng Tố, Sở Trước của ta, thì tất cả trọng tội của chúng sanh đều được tiêu diệt, tự nhiên giáng phục, tiêu trừ tất cả người ác, Quỷ ác, Thần ác. Tất cả chúng sanh nghe tên Chú này và thọ trì thì vĩnh viễn chẳng bị đọa vào Địa Ngục, Ngã Quỷ, Súc Sanh”.
Đức Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Lực Chú của ông. Nếu có bốn Chúng hay thọ trì, thì công đức và uy lực có được đều như Ta không sai khác”.
Lúc Bồ Tát Quán Thế Âm nói Chú này, thời ba ngàn Đại Thiên Thế Giới chấn động theo sáu cách, bên trên đến Trời A Ca Nị Tra (Sắc Cứu Cánh Thiên), trong đó tất cả Trời, Rồng, Dạ Xoa, tất cả Quỷ Thần, Nhân, Phi Nhân đều sợ hãi chẳng yên, lông trên thân đều dựng đứng và đồng ca ngợi rằng: “Lành thay! Thần lực của Chú này, chẳng thể nghĩ bàn! Tất cả chúng sanh đều nương nhờ lợi ích”.
Thời Bồ Tát Quán Thế Âm lại bạch Phật rằng: “Nguyện xin Đức Phật chứng tri!”.
Đức Phật bảo: “Lành thay! Ông đã nói Chú ở chỗ nầy, thì bốn Chúng thảy đều dùng tâm cung kính, thọ trì, cúng dường”.
Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm bạch Phật rằng: “Nay con thọ trì Chú này, thì tất cả Đại Địa chấn động theo 6 cách, tất cả chúng sanh cùng với các Trời Rồng thảy đều lo sợ. Thần lực của Chú này chẳng thể luận bàn được. Do Nhân Duyên nào khiến cho con và tất cả chúng sinh, cứ có người thọ trì thì được Kim Cang Tam Muội. Khiến cho người đó với tất cả chúng sinh, cứ có người thọ trì thì tâm được an ổn, gặt được công đức với thần lực như con không khác?
Công năng của Chú này, con sẽ nói ngay: Sáng sớm, khởi tụng Chú 21 biến, hằng trì chẳng quên thì hay trừ tội nặng Ngũ Nghịch và được thành tựu tất cả Tam Muội của bậc Thủ Lăng Nghiêm, cũng được thành tựu tất cả Đà La Ni, lại được thành tựu tất cả Phật Pháp. Nếu có thể hằng thường dùng Tâm tụng niệm chẳng quên, thì thường thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Quán Thế Âm và gặp Thiên Nữ xin thọ Phật Pháp.
Nếu muốn tạo Tượng, thì nên vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa Hoa sen, thân màu vàng rực, mặc áo năm màu. Gian phòng nhỏ bên trái vẽ Bồ Tát Phổ Hiền ngồi trên núi Tu Di, bên trái núi đó có con Rồng 7 đầu quấn quanh núi, ở bên trái ló ra 7 cái đầu, hướng nhìn Bồ Tát. Vị Bồ Tát ấy ngồi Kiết Già, hai tay cầm quyển Kinh để đọc, mặc áo năm màu. Đức Phật ấy, tay phải tác Ấn Văn, tay trái nắm áo Cà Sa đè đầu gối, nói Pháp.
Gian nhỏ bên phải, vẽ Bồ Tát Quán Thế Âm ngồi trên Tòa Hoa, mặc áo trắng, quỳ dài chắp tay hướng về Đức Phật, lắng nghe Đức Phật nói Pháp. Bên trái có ba tay: Một tay cầm bông hoa, một tay cầm bình Táo Quán, một tay cầm Kinh Giáp. Bên phải có ba tay: Một tay Thí Vô Úy tuôn vật báu, một tay cầm sợi dây, một tay cầm trái châu. Trên đỉnh đầu của Bồ Tát có một Đức Phật.
Lại hướng xuống dưới, vẽ Hành Giả quỳ dài đốt hương, cầm trái Châu hướng nhìn Bồ Tát. Bên dưới Bồ Tát Phổ Hiền, vẽ Thiên Nữ Tỳ Đà ngồi theo thế quỳ dài, nâng cái mão hoa, mặc áo trắng, hướng nhìn Bồ Tát đang ngồi ở trên Tọa Cụ. Tượng đó nên vẽ thanh tịnh, không được dùng keo nấu bằng da thú. Vẽ y theo Tịnh Pháp.
Tiếp nói về Pháp Vào Đàn Thọ Trì. Khởi đầu ngày thứ tám của tháng Bạch Nguyệt vào Đạo Trường, dùng phân bò xoa tô mặt đất rồi mới làm Đàn: từ 4 khuỷu tay cho đến 8 khuỷu tay, làm 5 màu. Nên có 16 cái bình (Quán Tử) chứa nước với hoa, quả trái. Nên có 16 lò hương, 16 cái chén nhỏ thắp đèn, thức ăn uống, mọi loại quả trái, tô mật, thạch mật, đốt mọi thứ hương trong 6 thời chẳng dứt.
Hành Giả tắm gội, mặc áo mới như Pháp. Chỉ được ăn gạo nếp, cháo nhừ, sữa, lạc, tô mật, quả trái, thạch mật, càn cương, hồ tiêu, tất bát, ngoài ra chẳng được ăn uống. Từ ngày thứ 8 hiến Phật cho đến ngày thứ 15, chẳng được thu dọn. Qua ngày 16 mới dọn dẹp, ném vứt vào nước và dùng lửa thiêu đốt.
Trở lại, từ ngày mồng tám mới vào Đạo Trường, đối trước Phật Đàn, liền dùng phân bò xoa đất, làm Đàn rộng một khuỷu tay. Lấy gỗ cây khô với cây Dâu, rồi lấy một miếng, chú một biến phóng vào trong Đàn, cho đến 21 biến thì xong. Sau đó, lấy 7 loại Cốc Tử (Hạt lúa nếp), dùng tay lấy, chú một biến rồi ném vào trong lửa cho đến 21 biến. Ban ngày cũng được, đêm tối cũng được. Mỗi ngày một lần cho đến ngày 15, đừng quên thiêu đốt. Đến ngày 15, chẳng được ngủ nghỉ, nhất tâm tụng chú. Đêm đó, hoặc có lúc đất rung động hoặc có lúc nghe được âm thanh to lớn, Hành giả đừng sanh kinh quái, cứ an tâm tụng chú, niệm hai vị Bồ Tát. Bấy giờ Phổ Hiền, Quán Thế Âm liền hiện thân nói với Hành Giả rằng: “Ngươi tu cầu nguyện gì? Tùy theo sự mong cầu, đều được đầy đủ”.
Nếu chẳng được hiện Tướng xứng tâm, thì từ ngày 16 trừ bỏ Đàn, liền làm Đàn mới, dựa theo Pháp lúc trước. Hành Đạo tụng Chú, cho đến khi được thấy mãn nguyện làm giới hạn. Hành Giả liền vào Đàn Trường, chỉ được gặp và nói chuyện với người phụ giúp, ngoài ra không được nói không được gặp người khác. Hành Giả ở trong Đạo Trường, cũng đừng nói chuyện, muốn nói gì phải đợi ra khỏi Đạo Trường.
Pháp Quán Thế Âm – Phổ Hiền Đà La Ni đã đầy đủ.