1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Quyển 2

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo đồng tử Nguyệt Quang:

–Vào thời quá khứ lâu xa, hơn cả A tăng kỳ kiếp, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Khi ấy có một đức Phật hiệu là Thanh Ðức Như Lai, bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời.

Này đồng tử! Bấy giờ đức Như Lai Thanh Ðức, Ứng chánh biến, hội chúng đầu tiên của ngài tập hợp tám ức Thanh văn, đều là bậc A la hán, đã hết các lậu đã được tự lợi, sạch hết hữu kết, nương nơi chánh giáo, tâm khéo giải thoát, có thể đạt được tất cả tâm tự tại.

Hội chúng thứ hai gồm có bảy ức chúng, hội chúng thứ ba gồm có sáu vạn chúng. Tất cả những vị đó đều là Ðại A la hán, các lậu đã tận, đạt được tự lợi, sạch hết các kết, nương nơi chánh giáo, tâm khéo giải thoát, hay đạt đến tất cả tâm tự tại.

Này đồng tử! Khi ấy đức Phật thọ bốn vạn năm, bấy giờ cõi Diêm phù đề được an ổn, giàu có sung sướng, dân chúng phồn thịnh, khắp nơi sung mãn.

Này đồng tử! Bấy giờ ở Diêm phù đề có hai vị đại vương, một vị tên là Kiên Cố Lực, vị thứ hai tên là Ðại Lực. Hai vị đại vương này mỗi người thống lãnh một nửa cõi Diêm phù đề. Lãnh thổ của hai vua an ổn, giàu có sung sướng, dân chúng phồn thịnh, khắp nơi sung mãn.

Khi ấy đức Như Lai Thanh Ðức xuất hiện ở đời tại nước của vua Ðại Lực. Này đồng tử, bấy giờ vua Ðại Lực thỉnh đức Như Lai Thanh Ðức và Tỳ kheo tăng ngót cả ngàn năm, dùng tất cả y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc thang, không sai trái, tùy thuộc thanh tịnh để cúng dường.

Này đồng tử! Ðức Như Lai Thanh Ðức và tăng chúng Thanh văn được nhiều lợi dưỡng, cung kính tán thán. Lúc đó có các Bà la môn, trưởng giả, tịnh tín đối với đức Như Lai Thanh Ðức và Tỳ kheo tăng đã phát ý dõng mãnh, học với vua Ðại Lực cách cúng dường. Ðó là lấy tiền của thế gian làm vật cúng dường thù thắng. Người ấy không biết cách thực hành cúng dường. Vậy thực hành cúng dường bằng cách nào?

–Ðó là thọ trì năm giới, tám giới, xuất gia đi đến chỗ đức Phật, thân cận thưa hỏi để thấy pháp nhẫn sâu xa.

Này đồng tử! Lúc đó đức Như Lai Thanh Ðức nghĩ như vầy: “Các chúng sanh này ý chí hạ liệt, không thể thọ trì năm giới, tám giới, xuất gia đến chỗ Phật, thân cận thưa hỏi để thấy pháp nhẫn sâu xa, tu các phạm hạnh tịch tịnh, viễn ly, thọ giới cụ túc, được phần Tỳ kheo và dùng thọ hành, thiện căn rốt ráo. Tịch diệt như vậy, nhạc cụ, diệu lạc vô thượng thảy đều xa lìa, chỉ dùng của cải thế gian để cúng dường ta. Các chúng sanh này chỉ mong sự vui nhỏ mà cho là vui cùng tột. Các chúng sanh này chỉ trọng pháp hiện tại và pháp đời sau mà không thể yêu quý căn lành cứu cánh.

Sao gọi là coi trọng pháp hiện tại? Ðó là ưa thích ngũ dục.

Sao gọi là quý trọng căn lành đời sau? Ðó là ưa thích sanh lên trời.

Sao gọi là căn lành cứu cánh? Ðó là sự thanh tịnh cứu cánh, tốt đẹp cứu cánh, phạm hạnh cứu cánh, cùng tận cứu cánh, tối hậu cứu cánh, Niết bàn cứu cánh.

Nay ta muốn nói pháp như vậy khiến cho chúng này sanh hạnh bố thí, không vì sự cúng dường tối thắng cứu cánh, chỉ vì hạnh vô thượng mà cúng dường ta”.

Này đồng tử! Lúc ấy đức Như Lai Thanh Ðức muốn giác ngộ cho vua Ðại Lực và các trưởng giả Bà la môn đó … nên bài kệ:

Người muốn thực hành thí tài thực

Còn tâm bỉ thử không kính nhau

Việc làm như vậy không đáng khen

Chư Phật, bậc trí đã xa lìa

Nếu nói bậc trí huệ vô ngã

Thắng nhơn như vậy nên phụng sự

Nếu với Thánh đế tin bất động

Phụng kính như vậy Phật mới khen

Nếu đem tài thực mà dâng thí

Chỉ được ít lợi nơi hiện tại

Nếu hay viễn ly thí như vậy

Người ấy thành tựu hạnh xuất gia

Nếu ai hay khởi tâm không của

Lại hay hiển thị pháp không của

Cũng hay tịnh tín người không của

Người đó mau thành đạo vô thượng

Không có ở trong năm dục lạc

Với vợ và con sanh ái trước

Kẻ ngu mãi sống ở trong nhà

Người đó đâu hay được lậu tận

Nhàm chán ngũ dục như hầm lửa

Hay lìa ái nhiễm với vợ con

Sợ hãi cư gia cầu ra khỏi

Chứng đặng Bồ đề mới không khó

Không có chư Như Lai quá khứ

Cùng với hiện tại và vị lai

Thường ở cư gia sống trong dục

Ðâu hay đạt được thắng diệu đạo

Vất bỏ ngôi vua như nước miếng

Sống nơi viễn ly chỗ không nhàn

Ðoạn trừ phiền não hàng phục ma

Ngộ rõ đạo vô vi ly cấu

Nếu có hằng sa bậc Thế hùng

Ngàn vạn ức năm mà cúng dường

Người hay sợ hoạn ở tại gia

Công đức như vậy mới tối thượng

Chẳng phải ẩm thực và y phục

Các diệu hoa hương và hương xoa

Những thứ như vậy cúng dường Phật

Nếu hay xuất gia phụng hành Pháp

Nếu ai thích cầu đạo Bồ đề

Hay lợi chúng sanh chán thế gian

Hướng đến không nhàn đi bảy bước

Phước báu như vậy mới tối thượng.

Này đồng tử, khi vua Ðại Lực nghe đức Như Lai Thanh Ðức, bậc Ứng chánh biến tri nói về nghĩa lợi của sự xuất gia tu hành như vậy xong, lại suy nghĩ rằng: “Như ta đã hiểu ý nghĩa lời Phật dạy, đức Như Lai chẳng phải Như Lai nói Ðàn ba la mật để được thanh tịnh cứu cánh, tốt đẹp cứu cánh, phạm hạnh cứu cánh, cùng tận cứu cánh, tối hậu cứu cánh, Niết bàn cứu cánh.”

Vua Ðại Lực lại nghĩ như vầy: “Không phải sống tại gia mà có thể đắc vô thượng, tu được vô thượng, tu hành nghĩa lợi. Nhưng ta hiện nay xa lìa hạnh này. Nay ta nên phải cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa xuất gia hành đạo!”.

Này đồng tử! Khi ấy vua Ðại Lực cùng với quyến thuộc là tám vạn người trước sau vây quanh, đến chỗ đức Phật Thanh Ðức, đảnh lễ dưới chân ngài, nhiễu bên phải ba vòng, ngồi xuống một bên.

Này đồng tử! Bấy giờ đức Như Lai Thanh Ðức biết vua Ðại Lực cùng với quyến thuộc trong tâm có sự ưa thích, ngài liền tuyên nói Tam muội vô hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp ngài phân biệt hiển thị.

Này đồng tử! Khi vua Ðại Lực nghe Tam muội này hoan hỷ nhảy nhót trong lòng hết sức yêu thích, liền ở chỗ đức Phật Thanh Ðức xả bỏ ngôi vua, chánh tín xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y. Khi vua đã xuất gia, đối với Tam muội này có thể thính thọ rộng rãi, đọc tụng, nhớ nghĩ, gìn giữ, phân biệt ý nghĩa, tu hành tương ưng với Tam muội ấy. Nhờ thiện căn này, trong hai ức kiếp không đọa ác đạo, tuần tự lại gặp hai ức các đức Phật, ở trong Phật pháp thường được xuất gia, ở nơi mỗi mỗi đức Phật đối với Tam muội này, vua thính thọ, đọc tụng, phân biệt nghĩa lý, tu hành tương ưng. Nhờ thiện căn này nên tuần tự ngót một trăm ức kiếp được thành Phật đạo, hiệu là Như Lai Trí Dũng, bậc Ứng chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, làm lợi ích vô lượng vô biên chúng sanh sau đó mới nhập Bát Niết bàn.

Này đồng tử! Ngươi nên quán Tam muội này, có thần lực ấy hay khiến cho Bồ tát chiêu cảm được trí Phật.

Này đồng tử! Vua Ðại Lực ấy đã dẫn tám vạn quyến thuộc đến nghe Tam muội này, làm cho hoan hỷ, nhảy nhót, rất ưa thích. Họ cũng theo vua chánh tín xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp y. Các người xuất gia ấy nghe Tam muội này đọc tụng, thọ trì, phân biệt, giải thuyết, tu hành tương ưng. Nhờ thiện căn này nên đối với hai ức kiếp không đọa ác đạo. Trong mỗi mỗi kiếp họ gặp ngàn vạn đức Phật, ở chỗ các đức Phật ấy thường được xuất gia. Ðã xuất gia rồi nghe Tam muội này đọc tụng, thọ trì, ứng dụng trong sự tu hành. Nhờ thiện căn này nên sau đó ngót một trăm ngàn kiếp mỗi vị ở mỗi thế giới đều thành Phật đạo, đồng một danh hiệu là Như Lai Kiên Cố Dõng Kiện, bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, làm lợi ích vô lượng chúng sanh rồi sau đó các ngài mới nhập Vô dư Niết bàn.

Này đồng tử! Tam muội này có đại oai lực như vậy hay khiến cho các Bồ tát đạt đến A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Bấy giờ đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên nói bài kệ:

Ta nhớ đời quá khứ lâu xa

Bất tư nghì kiếp có đức Phật

Hay làm lợi lạc cho chúng sanh

Hiệu là Thanh Ðức Ðại Tiên Tôn

Hội đầu tập chúng ngót tám ức

Ðều là các đệ tử Thanh văn

Hội hai tập chúng số bảy ức

Hội ba sáu ức A la hán

Ðã sạch hết lậu không phiền não

Các sức thần thông đã rốt ráo

Ðức Phật sống đến bốn vạn tuổi

Thế giới quốc độ rất nghiêm tịnh

Cõi Diêm phù đề có hai vua

Tên là Ðại Lực, Kiên Cố Lực

Lãnh thổ của hai vị vua này

Mỗi vua thống lãnh nửa Diêm phù

Phật sanh trong nước vua Ðại Lực

Các Thắng nhân thiên dâng cúng dường

Nhà vua tịnh tín nơi đức Phật

Cung kính cúng dường ngót ngàn năm

Vô lượng dân chúng học theo vua

Cúng dường đức Như Lai các thứ

Chỉ vì thế tài phi pháp cúng

Phật và Thanh văn đều đầy đủ

Bấy giờ Thế Tôn mới nghĩ rằng:

“Ta nói pháp này để bỏ dục

Sẽ khiến nhà vua sanh nhàm chán

Ở trong pháp ta mà xuất gia”.

Khi ấy Nhân Tôn nói kệ rằng:

“Vất bỏ pháp ác là Phật giáo

Tại gia lỗi nhiều đủ các khổ

Tu hành như pháp là cúng Phật”.

Khi vua nghe nói kệ như vậy

Ðến chỗ không nhàn nghĩ như vầy:

“Nay ta không thể ở gia đình

Mà làm pháp cúng dường tối thắng”.

Liền bỏ ngôi vua như nhổ dãi

Cùng với tám vạn các quyến thuộc

Ðồng lúc đi đến chỗ đức Phật

Ðầu mặt đảnh lễ đứng trước ngài

Phật biết tâm họ đều ưa thích

Nên nói định tịch diệt khó thấy

Họ nghe ái kính và vui mừng

Mọi người hoan hỷ liền xuất gia

Khi xuất gia rồi với định này

Ðọc tụng, thọ trì rộng phân biệt

Thứ lớp trong số hai ức kiếp

Chưa từng đọa lạc ba ác đạo

Vị ấy nhờ các thiện nghiệp này

Ðược thấy trăm ức các Như Lai

Ở trong Phật pháp thường xuất gia

Tuyên thuyết thắng Tam muội như vậy

Về sau họ sẽ được thành Phật

Ðồng hiệu: Kiên Cố Ðại Tinh Tấn

Lợi ích vô lượng ức chúng sanh

Sau nhập Niết bàn như lửa tắt

Vào thuở xa xưa vua Ðại Lực

Thành Phật từ lâu hiệu Trí Dũng

Lợi ích vô lượng trăm ức chúng

Chứng Bồ đề rồi nhập Niết bàn

Ðã nghe lợi ích lớn như vậy

Mạt thế trì kinh Phật khen ngợi

Nếu hay phụng trì Phật pháp tạng

Họ sẽ mau thành nhân trung thượng.

Này đồng tử! Ðó là Bồ tát ma ha tát vì yêu thích định này nên phải tu tập định này trước tiên. Này đồng tử, vì sao Bồ tát đối với Tam muội này phải tu trước tiên?

Này đồng tử! Bồ tát ma ha tát dùng tâm đại bi làm đầu. Nếu Phật ở tại thế hay Phật đã diệt độ, thường xuyên cúng dường, đó là: vòng hoa, hương bột, hương xoa, dù lọng báu, âm thanh, ca múa, hát xướng, kỹ nhạc, y phục, ẩm thực, thuốc thang, chữa bệnh. Nhờ thiện căn này đều đem hồi hướng Tam muội như vậy. Lại không mong cầu các việc khác, mà để cúng dường Phật, không cầu sắc đẹp, không cầu tiền của, không vì sanh lên trời, không cầu quyến thuộc chỉ nhớ pháp Tam muội này. Bồ tát ấy vẫn ở trong pháp, không thấy có Phật, huống lại ngoài pháp mà thấy có Phật!

Cho nên, này đồng tử, đó là cúng dường Phật chân chánh mà cũng không thấy có Phật để thành, không chấp ngã tưởng, không cầu quả báo. Bồ tát ấy Tam luân thanh tịnh, dùng vòng hoa, hương bột, hương xoa, phan, lọng, dù báu, âm thanh, ca múa, hát xướng, kỹ nhạc, y phục, ẩm thực, thuốc thang, chữa bệnh … cúng dường đức Như Lai để hồi hướng A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề. Nhờ thiện căn này nên được công đức không thể nghĩ bàn, quả báo không thể nghĩ bàn. Ðược Tam muội này nên mau thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Nếu ai dâng hương Vô biên trí

Hay được vô lượng quả báo hương

Trong ngàn vạn kiếp lìa đường ác

Hoàn toàn không có các xú uế

Trong ngàn vạn kiếp hành thắng hạnh

Cúng dường trăm vạn ức Như Lai

Thành Phật đạt được thắng giới hương

Nếu lại hiểu rõ không chúng sanh

Thí hương, nhận hương không cả hai

Nếu hay khởi tâm thí như vậy

Sẽ được nhẫn thắng thuận nhu nhuyến

Nếu ai tiến lên tu nhẫn này

Bị người cắt thân giống như trước

Trong ngàn vạn ức hằng sa kiếp

Mà tâm kiên cố không thối chuyển

Vì sao mà được tên là Nhẫn?

Vì sao lại gọi là tùy thuận?

Vì sao được gọi Bất thối chuyển?

Vì sao lại gọi là Bồ tát?

Tự tánh hân hoan không ngã chấp

Vì không ngã tưởng không phiền não

Hay biết các pháp đều tận diệt

Do nhân duyên này gọi là Nhẫn

Ðiều chư Phật học, tùy thuận học

Người trí như pháp thường tu hành

Biết pháp chư Phật không nghi hoặc

Cho nên được gọi là tùy thuận

Nếu tu hành lúc đời có ma

Hiện làm thân Phật nói lời rằng:

–Phật đạo khó được làm Thanh văn

Không hẳn tín thọ gọi Bất thối

Giác ngộ các chúng sanh ác kiến

Họ không thể chứng đạo cam lồ

Khuyên bỏ ác đạo, trụ thiện đạo

Cho nên được gọi là Bồ tát.

Người nhẫn trụ nơi đạo tùy thuận

Nhờ không ngã pháp khiến khai ngộ

Cho đến trong mộng không khởi niệm

Há có tưởng chúng sanh, thọ mạng.

Nếu ma vô lượng như hằng sa

Hóa làm thân Phật đến chỗ ta

Ðều nói trong thân có “Hằng ngã”

Liền nói “Vô ngã” người phi Phật

Nhờ trí liễu đạt các pháp Không

Biết rồi không sống cùng phiền não

Do hý luận nên nói là Có

Thấy rồi tịch diệt sống thế gian

Thí như người đời đã sanh con

Tùy ý của mình đặt tên gọi

Tìm tên khắp nơi cũng không có

Nên biết tên ấy không chỗ đến

Vì đặt tên Bồ tát như vậy

Bồ tát khắp nơi không thể tìm

Cho đến thật tế cầu không được

Người biết tên Bồ tát như vậy

Giả như trong biển đốt lửa cháy

Bồ tát không hề khởi thân kiến

Bồ tát được trụ sơ phát tâm

Ðoạn sạch ác kiến, hết phiền não

Không thấy có các pháp sanh diệt

Gọi là “Chúng sanh” và “Thọ mạng”

Thể các pháp không giống như huyễn

Việc này ngoại đạo không thể biết.

Nếu sanh tham trước việc ăn uống

Khởi tâm yêu tiếc nơi y bát

Cùng với trạo cử và khinh tháo

Thì không thể biết Phật Bồ đề

Ham thích ngủ nghỉ và lười biếng

Gian ngụy, hung bạo không thu nhiếp

Không lòng tịnh tín nơi chư Phật

Thì không thể biết Phật Bồ đề.

Hủy phá giới cấm không hổ thẹn

Ở trong Phật pháp không uy tín

Không kính các phạm hạnh đồng tu

Thì không thể biết Phật Bồ đề.

Không hủy tịnh giới có hổ thẹn

Ở trong Phật pháp rất ưa thích

Hay cung kính người đồng phạm hạnh

Thì mới biết được thắng Bồ đề.

Niệm xứ chính là cảnh giới Phật

Hoan hỷ chính là giường, ngọa cụ

Lấy thiền làm cơm, định làm canh

Như vậy mới biết Phật Bồ đề.

Vô ngã, nhẫn là chỗ kinh hành

Ở trong rừng trống hành chánh niệm

Thất giác là hương hoa khả lạc

Ngửi xong liền thành đạo Vô thượng.

Thể đạo Bồ tát đã tu hành

Không phải việc làm của người khác

Gọi là Thanh văn và Duyên giác

Chỉ có người trí không tham đắm

Ví thọ mạng ta rất lâu dài

Như cát sông Hằng vô lượng kiếp

Ðức của Phật không thể nói hết,

Vì trí huệ Như Lai vô biên

Nếu nghe lợi ích lớn như vậy

Không sợ những điều Thế Tôn nói

Mau tự dạy người giữ định này

Ðược Bồ đề Vô thượng không khó.

Này đồng tử! Cho nên Bồ tát ma ha tát phải biết nhập vào ba pháp nhẫn một cách khéo léo. Ðó là biết nhẫn thứ nhất, nhẫn thứ hai và nhẫn thứ ba. Trong nhẫn này phải biết một cách khéo léo. Lại đối với trí ấy cũng phải biết một cách khéo léo. Vì sao vậy? Nếu Bồ tát ma ha tát đối với trong Nhẫn trí mà biết một cách khéo léo thì Bồ tát ma ha tát ấy mau được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Cho nên, này đồng tử, Bồ tát ma ha tát nếu cầu mau chứng A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề thì cần phải thọ trì ba môn pháp nhẫn này, thọ trì rồi phân biệt, nói rộng cho người khác nghe, làm lợi ích an lạc chư thiên và loài người.

Bấy giờ, đức Thế Tôn vì đồng tử Nguyệt Quang liền nói câu kệ tụng pháp môn nhập vào ba nhẫn này:

Ðối với chúng sanh không tranh cãi

Miệng không nói ta lời vô ích

Thường hay an trụ pháp lợi sanh

Gọi đó tên là Nhẫn đầu tiên.

Biết tất cả pháp giống như huyễn

Liền đối với tướng không nắm giữ

Hay ở trong trí không tăng giảm

Cho nên gọi là Thắng nhẫn đầu

Ðã tu học các Tu đa la

Trí và khéo nói hằng tương ưng

Không nghi trí vô lượng của Phật

Gọi đó tên là Thắng nhẫn đầu.

Nếu nghe tất cả, khéo thuyết pháp

Giống như Phật thuyết không có nghi

Hay tin tất cả, các pháp Phật

Gọi đó tên là Thắng nhẫn đầu.

Với kinh liễu nghĩa thường tuyên đọc

Như điều Phật nói mà diễn thuyết

Nếu nói: ngã, nhân và chúng sanh

Liền biết phương tiện mà tiếp dẫn

Các dị kiến của các ngoại đạo

Với họ, tâm Bồ tát không đọng

Lại đối vơi họ thêm xót thương

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai.

Các đà la ni đến trước mặt

Với môn tổng trì không nghi hoặc

Những lời nói ra đều chân thật

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai.

Giả sử tướng bốn đại chuyển biến

Ðó là đất, nước, gió và lửa

Với Bồ đề Phật vẫn không lùi

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai.

Có các nghề hay ở thế gian

Bồ tát thảy đều khéo tu học

Không thấy có người giỏi hơn mình

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Sức Xa ma tha được điều phục

Núi Tỳ Bà xá Na bất động

Tất cả chúng sanh không thể khinh

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Những lời nói ra thường tại định

Ði, dưng, nằm, ngồi hằng Tam muội

Chánh định kiên cố đến bờ kia

Gọi là tướng Thắng định thứ ba.

Trụ nơi chánh định được thần thông

Ðến nhiều cõi Phật để thuyết pháp

Bậc trí, sức thần túc không giảm

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Nếu khi tu tịch định như vậy

Ðối với tất cả quần sanh khác

Không thể biết ngằn mé tâm họ

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Giả sử các chúng sanh thế giới

Cùng lúc thành Phật diễn nói pháp

Người đó đều hay lãnh thọ hết

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Ðông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương phụ

Hai phương trên dưới cũng như vậy

Ở trong các phương đều thấy Phật

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Ðều hay biến hiện vô lượng thân

Tất cả đều có sắc vàng ròng

Ðến vô lượng cõi để thuyết pháp

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Các cõi Diêm phù thế giới Phật

Tất cả đều thấy hình Bồ tát

Chư thiên và người đều hay biết

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Trong các Phật pháp, chỗ Phật làm

Có các oai nghi của đạo sư

Bậc trí đều hay khéo tu tập

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Có các chúng sanh trong thế giới

Ðều đến khen ngợi Bồ tát này

Bồ tát với họ tâm hân hoan

Là với trí Phật chưa tu học.

Có các chúng sanh trong thế giới

Mắng nhiếc, hủy báng Bồ tát này

Với họ, nếu khởi tâm sân hân

Nên biết trí Phật chưa tu học

Nếu được lợi dưỡng tâm không mừng

Khi bị chống trái không buồn khổ

Tâm mình an trụ giống như núi

Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.

Một là: Nhẫn tùy thuận âm thanh

Hai là: Nhẫn tư duy tùy thuận

Ba là: Nhẫn tu tập vô sanh

Học ba Nhẫn này được Bồ đề

Nếu đối với Tam Thắng nhẫn này

Bồ tát nào có thể đắc được

Thiện Thệ khi thấy Bồ tát ấy

Liền thọ ký Vô thượng Bồ đề.

Nếu ai một mình nghe thọ ký

Số ức chúng sanh không nghĩ bàn

Ðều phát tâm Vô thượng Bồ đề

Ta cần phải làm Nhân trung tôn

Nghe nói tiếng thọ ký như vậy

Tức thời đại địa sáu chấn động

Hào quang chiếu khắp mười phương cõi

Mưa hoa thắng diệu nhiều vô lượng

Nếu đối ba thắng nhẫn như vậy

Chỉ có Bồ tát mới đạt được

Lại không còn thấy có chúng sanh

Nơi đó khởi diệt cũng như vậy

Nếu với ba thắng nhẫn như vậy

Chỉ có Bồ tát mới được vậy

Ðã già, hiện già đều không thấy

An trú trong pháp được như vậy

Bồ tát biết rõ các thứ pháp

Thể tánh không tịch giống như huyễn

“Không” ấy cũng lại chẳng sanh diệt

Vì thể các pháp vốn không tịch

Nếu có chúng sanh đến cung kính

Lễ bái, tôn trọng và cúng dường

Với họ Bồ tát không yêu riêng

Vì thâm đạt thể tánh thế gian

Nếu có chúng sanh lại đánh mắng

Với họ, Bồ tát không khinh ghét

Lại khởi lòng từ với người ấy

Vì muốn khiến mình được giải thoát

Nếu dùng dao gậy và ngói đá

Với họ trong lòng không tức giận

An trụ trong pháp nhẫn vô ngã

Bồ tát biết rõ các thứ pháp

Thể tánh không tịch, giống như huyễn

Nếu hay an trụ trong pháp này

Vì các nhân thiên đã cúng dường

Có người tay cầm dao bén nhọn

Cắt đứt từng phần cơ thể ta

Tâm hay nhẫn chịu không tức giận

Thêm lớn tình thương, trước không hoại

Khi dùng dao cắt từng chi tiết

Bồ tát liền sanh ý nghĩ này:

“Nếu ngươi chua chứng đạo Bồ đề

Ta nguyện chớ chứng được Niết bàn”.

Nhẫn lực như vậy rất vô thượng

Vì nhờ an trụ nhẫn vô ngã

Là đai danh xưng các Bồ tát

Tu tập vô lượng na do kiếp

Lại hơn số ấy như hằng sa

Vẫn chưa thể chứng được Bồ đề

Ngay trong lúc đó tu hạnh Phật

Huống lại giác trí đâu nói được

Dù nói ức kiếp bất tư nghì

Ðức hiệu của ngài vô cùng tận

Khéo an trụ nơi nhẫn vô ngã

Là đại danh xưng các Bồ tát

Nếu muốn hay biết được Bồ đề

Cần phải trụ nơi diệu trí tụ

Nếu tu pháp nhẫn chư Phật dạy

Ðược Thắng Bồ đề sẽ không khó.

Bấy giờ, đức Phật bảo đồng tử Nguyệt Quang:

–Vào thời quá khứ rộng lớn lâu xa vô lượng vô số không thể nghĩ bàn, vượt hơn A tăng kỳ kiếp, khi ấy có đức Phật tên là Vô Sở Hữu Khởi Như Lai, bậc Ứng chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời. Sao gọi là Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, bậc Ứng chánh biến tri?

Này đồng tử! Khi đức Phật này sanh ra, ngài bay trong hư không cao đến bảy cây đa la, bước bảy bước mà nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu! Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”. Tiếng ngài vang khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Khi ấy thần đất dần dần báo cho nhau đến trời Phạm thiên rằng: “Trong thế giới này có Phật ra đời, hiệu là Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, bậc Ứng chánh biến tri. Lúc ngài mới sanh, ở trên hư không, bước đi bảy bước nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”.

Này đồng tử! Do nhân duyên đó nên hiệu của Phật là Vô Sở Hữu Khởi. Khi đức Phật ấy thành chánh giác, tất cả cây cối, rừng rậm, dược thảo đều phát ra tiếng nói: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”.

Này đồng tử, thế giới lúc ấy đều phát ra các âm thanh cũng nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”.

Này đồng tử, bấy giờ đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi khi đang thuyết pháp có một vị vương tử tên là Tư Duy Ðại Bi, hình mạo đoan chánh, ai cũng yêu thích, tâm hành điều hòa, nhu nhuyến.

Này đồng tử, khi ấy Vương tử đi đến chỗ đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, đảnh lễ dưới chân ngài, nhiễu quanh ba vòng, lui về ngồi một chỗ. Bấy giờ đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi biết Vương tử Tư Duy Ðại Bi thâm tâm ưa thích. Ngài liền nói:

–Tam muội Vô hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp này.

Vị Vương tử nghe cong, được tâm tịnh tín, xuất gia hành đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa. Khi đã xuất gia, vương tử đói với Tam muội này đọc tụng, thọ trì, vì người khác phân biệt hiển thị rộng rãi. Nhờ thiện căn này nên vương tử ấy trong hai mươi kiếp không đọa ác đạo, cứ trong mỗi kiếp gặp được hai ức đức Phật, hơn hai mươi kiếp thì được thành Phật đạo, hiệu là Như Lai Tư Thiện Nghĩa, bậc Ứng Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời.

Này đồng tử, ngươi nên quán thấy Tam muội này có oai lực ấy, hay khiến cho Bồ tát chiêu cảm được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Này đồng tử, Bồ tát ma ha tát nên an trụ trong pháp Nhẫn sâu ấy. Vì sao Bồ tát ma ha tát hay an trụ trong pháp Nhẫn sâu?

–Này đồng tử! Bồ tát ma ha tát nên quán như vầy: tất cả pháp giống như huyễn hóa, như mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ánh nắng, như trăng dưới nước, như tánh của hư không. Nên biết như vậy.

Này đồng tử! Bồ tát ma ha tát nếu quán như thật về tất cả pháp như huyễn hóa, như mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ánh nắng, như trăng dưới nước, như tánh của hư không. Ðó gọi là Bồ tát ma ha tát an trụ Nhẫn sâu.

Nếu thành tựu được Nhẫn sâu, Bồ tát đối với pháp nhiễm thì không nhiễm, pháp sân thì không sân, pháp si thì không si. Vì sao vậy? Vì Bồ tát này không thấy nơi pháp, cũng vô sở đắc, không thấy người ô nhiễm, không thấy nghiệp ô nhiễm, không thấy người sân, không thấy việc sân, không thấy nghiệp sân, không thấy người si, không thấy việc si, không thấy nghiệp si.

Bồ tát ma ha tát đối với pháp như vậy đều vô sở hữu , cũng vô sở đắc. Ðó là hoặc nhiễm, hoặc sân, hoặc si. Bồ tát ấy nhờ vô sở kiến, liền không bị nhiễm, không sân, không si. Bồ tát ấy như thật không nhiễm, không sân, không si, nên tâm không điên đảo, được gọi là định, gọi là không hý luận, gọi là đáo bỉ ngạn, gọi là đất bằng, gọi là đến chỗ vô úy, gọi là thanh lương, gọi là trì giới, gọi là bậc trí, gọi là bậc huệ, gọi là phước đức, gọi là thần túc, gọi là nhớ nghĩ, gọi là thọ trì, gọi là trí huệ, gọi là người ra đi, gọi là người xấu hổ, gọi là người tín nghĩa, gọi là người công đức đầu đà, gọi là người không đắm trước nữ sắc, gọi là người không nhiễm trước, gọi là bậc ứng cúng, gọi là người lậu tận, gọi là người tự tại không phiền não, gọi là người tâm giải thoát, gọi là người huệ giải thoát, gọi là người điều phục, gọi là Ðại long, gọi là việc làm đã xong, gọi là không còn gì để làm nữa, gọi là xả bỏ gánh nặng, gọi là đã được tự lợi, gọi là sạch hết hữu kết, gọi là nương chánh giáo, tâm khéo giải thoát, gọi là đến tất cả tâm tự tại, gọi là Sa môn, gọi là Bà la môn, gọi là người tắm rửa, gọi là người đã qua sông, gọi là bậc minh liễu, gọi là người nghe, gọi là Phật tử, gọi là Thích tử, gọi là người vất bỏ gai góc, gọi là người vượt qua hầm hố, gọi là người nhổ tên độc, gọi là người không nóng, gọi là người không còn bụi bặm, gọi là Tỳ kheo không ngăn che trói buộc, gọi là trượng phu, gọi là thiện trượng phu, gọi là thắng trượng phu, gọi là đại trượng phu, gọi là sư tử trượng phu, gọi là Ðại long trượng phu, gọi là Ngưu vương trượng phu, gọi là khéo điều phục trượng phu, gọi là Dõng kiện trượng phu, gọi là trượng phu gánh vác, gọi là tinh tấn trượng phu, gọi là hung dữ trượng phu, gọi là Như hoa trượng phu, gọi là Liên hoa trượng phu, gọi là Phân đà lợi trượng phu, gọi là Ðiều ngự trượng phu, gọi là Mặt trăng trượng phu, gọi là Mặt trời trượng phu, gọi là tác nghiệp trượng phu, gọi là Lưỡng túc trung thượng, gọi là tận cùng bờ trí, gọi là hơn bậc đa văn tối thắng, gọi là đã tu phạm hạnh, gọi là việc làm rốt ráo, gọi là không nhiễm tất cả điều ác.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ tụng:

Như trước, sau cũng vậy

Dụ các pháp cũng thế

Khi tai hoại, kiếp tận

Thế giới trở thành không

Xem khởi tạo thế gian

Ðều trụ ở trên nước

Như dưới trên cũng vậy

Các pháp cũng như thế

Như bầu trời không mây

Bỗng nhiên nổi âm u

Biết nó từ đâu sanh

Các pháp cũng như thế

Như Lai Niết bàn rồi

Ý tưởng thấy hình Phật

Như trước sau cũng vậy

Các pháp cũng như thế

Giống như đống bọt nước

Bập bềnh trên dòng thác

Thấy nó không chắc thật

Các pháp cũng như thế

Như trời mưa trên nước

Bọt nước nổi nơi nơi

Sanh đâu liền diệt đó

Các pháp cũng như thế

Thí như trong ngày xuân

Ánh sáng chiếu rực rỡ

Bóng nắng giống như nước

Các pháp cũng như vậy.

Như cây chuối ẩm ướt

Nếu chặt tìm gỗ chắc

Trong ngoài đều không chắc

Các pháp cũng như vậy.

Như huyễn, tạo nhiều thân

Là nam, nữ, voi, ngựa

Tướng ấy chẳng chơn thật

Các pháp cũng như thế.

Thí như có đồng nữ

Ðêm nằm mộng sanh con

Sống mừng, chết ưu khổ

Các pháp cũng như vậy.

Như người mộng hành dâm

Tỉnh giấc chẳng thấy gì

Ngu si trọn chẳng được

Các pháp cũng như vậy.

Như trăng sáng bầu trời

Bóng hiện nơi ao sạch

Mặt trăng đâu vào nước

Các pháp cũng như vậy.

Như người tự ưa thích

Lấy kiếng soi mặt mình

Bóng gương bất khả đắc

Các pháp cũng như vậy.

Thấy ngựa hoang như nước

Người ngu muốn đến uống

Không thật, sao đỡ khát!

Các pháp cũng như vậy.

Như người ở hang núi

Tiếng ca khóc, nói cười

Tiếng vang bất khả đắc

Các pháp cũng như vậy.

Như bảng cấm các nước

Thiện ác theo đó làm

Ngôn giáo chẳng đến đó

Các pháp cũng như vậy.

Như người uống rượu say

Thấy mặt đất xoay chuyển

Kỳ thật đất chẳng động

Các pháp cũng như thế.

Pháp duyên khởi không có

Không có lại chẳng có

Phân biệt cái không có

Cho nên khổ không diệt.

Phân biệt sự có không

Tranh luận tịnh, bất tịnh

Xa lìa hai bên ấy

Bậc trí trụ trung đạo

Quán thân lúc ban đầu

Với thân tưởng không thân

Nếu hay biết như vậy

Chính là tánh vô vi

Mắt, tai, mũi vô hạn

Lưỡi, thân, ý cũng vậy.

Nơi căn mà phân biệt

Với thánh đạo vô dụng

Với các căn vô hạn

Thể ngoan, không, vô ký

Muốn mong vui Niết bàn

Phải tu nghiệp Thánh đạo

Diễn thuyết Tứ niệm xứ

Ngu bảo thân chứng mạn

Thân chứng không ngã mạn

Vì hay diệt các mạn

Diễn thuyết về Tứ thiền

Ngu bảo đắc thiền hành

Người diệt mê không mạn

Nhờ huệ quán đoạn mạn

Diễn thuyết bốn chơn đế

Kẻ ngu bảo thấy đế

Thấy thật thì không mạn

Thế Tôn nói như vậy.

Tuy đọc hết các kinh

Ý nghe nhiều, hủy giới

Nghe nhiều không thể cứu

phá giới, khổ địa ngục

Tự thị, ý trì giới

Mà không học Ða văn

Quả báo trì giới hết

Trở lại thọ các khổ

Ða văn cùng trì giới

Cả hai không ỷ lại

Khinh mạn người phước mỏng

Do đó sanh các khổ

Mạn là gốc các khổ

Các đạo sư đã nói

Có mạn, khổ tăng trưởng

Lìa mạn, khổ liền diệt.

Ðời tuy tu Tam muội

Mà không lìa ngã tưởng

Lỗi lầm lại khởi lên

Giống như ưu Ðiệt Ca

Nếu tu sự vô ngã

Trong đó sanh vui mừng

Là nhân vui Niết bàn

Chẳng do pháp thế gian

Như bị lũ giặc vây

Vì sống muốn chạy trốn

Không chân, không thể chạy

Liền bị giặc giết hại

Vậy, kẻ si phá giới

Muốn ra khỏi thế gian

Không giới, không thể đi

Bị già, bệnh giết chết

Như giặc mạnh cầm đao

Cướp giật hại khắp nơi

Phiền não cũng như vậy

Hại thiện căn chúng sanh

Nhiều người nói Ấm không

Không biết ấm vô ngã

Nếu hỏi Ấm có không?

Nhăn mày, giận đối đáp

Nếu biết Ấm vô ngã

Nghe chửi, tâm không giận

Có hoặc buộc, thuộc ma

Ngộ, không, không phẩn nộ

Như người bệnh, thân đau

Nhiều năm khổ bức não

Bệnh này qua nhiều năm

Tìm thuốc muốn chữa trị

Người ấy hỏi nhiều nơi

Liền gặp được thầy hay

Xót thương cho thuốc tốt

Bảo uống, bệnh không lành

Không phải lỗi thầy thuốc

Nên biết lỗi người bệnh.

Nơi pháp này xuất gia

Ðọc tụng Ðạo phẩm giáo

Nói và làm không giống

Làm sao được giải thoát?

Thể tánh chư pháp không

Con Phật quán việc ấy

Tất cả hữu đều không

Ngoại đạo không hề có

Trí không cạnh tranh ngu

Dũng mãnh nên lìa bỏ

Bị mắng không báo lại

Pháp ngu ngươi chớ ghét

Trí, không ngu, qua lại

Khéo biết do tánh tập

Tuy lại cùng thân nhau

Sau trở thành oán ghét

Trí không thân với ngu

Biết chí họ không bền

Thể tánh tự phá hoại.

Ðừng làm bạn với ngu

Nếu nghe lời như pháp

Người hủy giới không vui

Tự nhiên khởi sân hận

Nên biết là người ngu

Người ngu hợp người ngu

Như phân trộn với phân.

Trí với trí cùng ở

Như hợp hai đề hồ

Không quán lỗi thế gian

Nên không tin nhân quả

Không tin lời Phật dạy

Ở đời bị hoại ly

Bần cùng không của cải

Không sống, cầu xuất gia

Pháp ta, đã xuất gia

Lại tham trước y bát

Họ gần ác tri thức

Phá hủy cấm giới ta

Không tự quán việc mình

Trong tâm không an trú

Ngày đêm sống phi pháp

Làm ác không biết chán

Thân tâm luôn phóng dật

Miệng thường nói lời thô

Luôn rình mò lỗi người

Thất rồi nói người khác

Tự che lỗi của mình

Là tướng rất ngu si.

Người ngu ham ăn uống

Vẫn không tâm báo đền

Ðược món ăn thượng diệu

Mà không đúng với pháp

Lại ăn vào bị hại

Như voi ăn sen bùn

Tất cả món thượng vị

Người trí tuy ăn vào

Căn tịch tịnh không tham

Như pháp chọn món ăn

Tuy có người trí sáng

Hỏi ngu đến từ đâu?

Với họ, không thân luyến

Chỉ khởi lòng xót thương

Người trí lợi kẻ ngu

Kẻ ngu làm suy tổn

Ta thấy lỗi này rồi

Như nai ở chỗ trống

Người trí thấy lỗi này

Không ở chung với ngu

Nếu qua lại với ngu

Mất cả trời Bồ đề

Người trí thường từ bi

Từ bi hợp với hỷ

Thường xả tất cả hữu

Tu định, chứng Bồ đề

Ngộ đạo, trừ lo sợ

Thấy người già chết khổ

Nên khởi lòng xót thương

Nói lời hợp chân nghĩa

Nếu người biết Phật pháp

Lìa ngôn thuyết thánh đế

Nếu ai nghe pháp này

Lìa tham thực, thanh thương.

Này đồng tử, về ý nghĩa đó, muốn được thành tựu hạnh kiên cố, Bồ tát nên học như vậy. Vì sao? Này đồng tử, nhờ hạnh kiên cố nên Bồ tát đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề không khó khăn, huống gì là Tam muội này!

Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang bạch đức Phật:

–Hy hữu thay! Thế Tôn, Như Lai, bậc Ứng chánh biến tri đã khéo nói về hạnh kiên cố này để nhập vào pháp Tam muội ấy. Ngài đã khéo nói khéo kiến lập điều tất cả Bồ tát phải học. Ðó chính là tất cả hành xứ của Như Lai, không phải là địa vị của Thanh văn, Bích chi Phật làm được, huống chi là ngoại đạo!

Bạch Thế Tôn, nay con sẽ trụ hạnh kiên cố này. Vì sao? Vì con muốn như Phật đã học. Nay con muốn học vì con muốn biết A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề ấy. Con muốn phá hoại ma Ba tuần và quyến thuộc của chúng. Con muốn giải thoát tất cả khổ cho chúng sanh. Cúi mong đức Như Lai và Tỳ kheo tăng cùng các quyến thuộc chứng minh chấp nhận sự thỉnh cầu của con, thương xót con.

Bấy giờ đức Như Lai và Tỳ kheo tăng im lặng chấp nhận. Ðồng tử Nguyệt Quang thỉnh Phật và Tỳ kheo tăng sáng ngày mai đến thọ thực và được Phật chấp nhận.

Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang đã được đức Như Lai chấp nhận sự cúng dường nên vui mừng nhảy nhót, rất đổi hân hoan, liền từ tòa đứng dậy, trạch vai áo bên hữu, đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh bên hữu ba vòng rồi cáo từ ra về.

Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang hướng về thành Vương xá trở về nhà mình. Về đến nhà, liền ngay đêm ấy chuẩn bị các thứ ẩm thực thượng vị nhiều vô số. Tại thành Vương xá, nơi nơi đều treo lụa năm màu, rải các loại hoa, treo phướn lọng, đốt các hương thơm, bố thí các mùng màn, quét sạch đường sá, vứt bỏ ngói gạch. Tại ngã tư đường rưới nước làm cho sạch sẽ, rải tung bột chiên đàn và các loại quý báu khắp nơi. Lại tung các loại hoa, các thứ hao báu xen kẻ trên mặt đất giống như hình vẽ. Lại dùng vô lượng vật dụng chạm trổ, trang nghiêm các nẻo đường. Trong thành, khắp nơi đều có hoa Ưu bát la, hoa Câu vật đà, hoa Bát đầu ma, hoa Phân đà lợi. Ở trong nhà toàn dùng ngưu đầu chiên đàn rải quanh, dùng các thư trang nghiêm, trương các trướng báu. Vì đức Phật Thế Tôn, đồng tử đặt những món ăn thượng vị.

Khi đồng tử làm những việc trang nghiêm thành quách, đường sá, nhà cửa như vậy, bày các vật cúng dường suốt đêm đầy đủ, đến lúc sáng sớm, cùng với tám mươi na do tha Bồ tát, Bồ tát A Dật Ða làm thượng thủ. Các vị ấy là: Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Ðại Thế Chí, Bồ tát Hương Thượng, Bồ tát Bảo Tràng, Bồ tát Man Thắng, Bồ tát Ðồng Tử Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Dũng Kiện Quân, Bồ tát Diệu Tý, Bồ tát Bảo Hoa, Bồ tát Bất Hư Hiện. Các Bồ tát ma ha tát như vậy … đối với các Bồ tát khác là bậc thượng thủ, cùng các chúng Ðại Bồ tát như vậy, trước sau vây quanh, ra khỏi đại thành Vương xá, đến chỗ đức Như Lai, sửa lại y phục, đầu mặt đảnh lễ, nhiễu quanh bên hữu ba vòng, bạch đức Phật:

–Thưa Thế Tôn, đã đến giờ thọ thực, trai soạn đã dọn xong, mong ngài hạ cố vào thành Vương xá, đến nhà con, vì lòng xót thương, thọ nhận sự cúng dường của con.

Bấy giờ đức Thế Tôn, trước đó đã đắp y, cầm bát, cùng Ðại Tỳ kheo ngót đến trăm ngàn vị, vô lượng trăm ngàn ức na do tha Bồ tát ma ha tát, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già … vô lượng trăm ngàn vị đồng tử đã thiết lễ cúng dường, cung kính tán thán đại oai lực của Phật, đại thần túc của Phật, đại biến hiện của Phật, đại oai nghi của Phật, đã phóng ra trăm ngàn vạn ức na do tha ánh sáng, tấu lên trăm ngàn loại kỹ nhạc, mưa các thứ hoa trời. Vì thọ nhận sự cúng dường của đồng tử Nguyệt Quang, nên đức Phật vào thành Vương xá.

Ðức Phật với sự tích tập vô lượng thiện căn từ lâu, đưa bàn chân mặt có bánh xe ngàn căm bước vào thành. Khi ấy hiện ra vô số sự thần biến chưa từng có. Chư Phật Như Lai, nếu khi vào thành, pháp đều như vậy là hiện sự thần biến. Nay ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà nói.

Khi đức Phật vào thành, có thần đức nói kề tụng rằng:

Ðại tiên vào thành vua

Chân ngài bước vào thành

Oai lực động đại địa

Chúng sanh đều hoan hỷ

Các người thiếu ăn uống

Ðược lìa khổ đói khát

Trong tâm đều no đủ

Nhờ Phật vào của thành

Người điếc, đui, câm, ngọng

Kẻ bần cùng phước mỏng

Các căn đều đầy đủ.

Nhờ Phật vào cửa thành

Ngạ quỷ cõi Diêm la

Ăn đờm, mủ, phân, tiểu

Ðược món ăn của trời.

Nhờ Phật bước vào thành

Các núi và núi báu

Các thứ rừng hoa quả

Cong mình hướng về ngài.

Nhờ Phật bước vào thành

Biển cả, thành, tụ, ấp

Ðất có sáu chấn động.

Không bức não chúng sanh.

Nhờ Phật bước vào thành

Người, trời, Cưu bàn trà

Hoan hỷ giữa không trung

Cầm lọng báu che Phật

Phát tâm đại Bồ đề

Các âm nhạc không đánh

Tự nhiên phát tiếng hay

Mọi ngươi đều hoan hỷ

Nhờ Phật bước vào thành

Trăm ngàn vạn ức cây

Dâng Phật đủ hao quả.

Chư thiên đứng giữa không

Vật cúng khác loài người

Trăm ngàn các Ngưu vương

Vua thú, sư tử rồng

Voi, ngựa đều cúi lạy.

Nhờ Phật bước vào thành

Ðại vương trong các nước

Thấy Thế Tôn Thập lực

Ðạo sắc thắng diệu

Hoan hỷ nên đảnh lễ

Mọi người tâm mừng khen

Hoặc tung các diệu hoa

Chấp mười ngón tay lại

Khen Phật là đại bi

Hoặc tung các anh lạc

Ấn Cừ Tý kim ngân

Tung lên trên sư tử (?)

Phát tâm đại Bồ đề

Người nữ dâng tóc vàng

Hoặc rải các hoa thơm

Hoặc cởi vàng, anh lạc

Trang điểm nơi thân thể

Có người tung hoa vàng

Các vật để trang sức

Một lòng dâng cúng hết

Mong cầu các Phật đạo

Dân chúng mặc y đẹp

Hoặc lại rải đảnh châu

Và giăng các lưới báu

Khi Phật vào của thành.

Nếu người bệnh khổ bức

Vì các nổi ưu sầu

Tất cả đều an lạc

Nhờ oai đức đạo sư.

Câu xí la, Anh võ

Khổng tước và Tần già

Các chim trong không trung

Phát tiếng hay hòa nhã.

Các chim tâm vui mừng

Khi phát diệu âm này

Người tu hành diệt được

Tham, sân, si, phiền não

Vô lượng ức chúng sanh

Nghe tiếng được thuận nhẫn

Ðược bậc Thánh thọ ký

Vị lai đều thành Phật

Thấy thân Phật Thập lực

Chúng sanh thích trí Phật

Con làm sao để được?

Phật biết muốn thọ ký

Mỗi lỗ chân lông Phật

Phóng trăm ngàn ánh sáng

Chiếu khắp các cõi Phật

Do Phổ Nhãn vào thành

Mặt trời bị lu mờ

Ma ni, Bảo thiên hòa

Các ánh sáng không hiện.

Vì Phật vào cửa thành

Trăm ngàn hoa sen nở

Ngàn cánh ra khỏi bùn

Ðấng Thập lực bước lên

Cùng chúng dạo khắp thành

Ðường đi thật sạch sẽ

Trải toàn bằng hương quý

Khắp thành đốt hương thơm

Mùi thơm thật khả lạc

Ðường sá thật tráng lệ

Trừ khử hết ngói gạch

Nhờ công đức Thập lực

Ðủ các thứ hương hoa

Trăm ngàn ác Dạ xoa

Thấy thân Phật sắc vàng

Khởi tâm đại bi mẫn

Tịnh tâm quy y Phật

Các thiên cung trống không

Ðều đến chiêm ngưỡng Phật.

Hư không mưa các hoa

Khi Phật vào thắng thành

Nếu có ai rải hoa

Chỗ đức Nhân thiên sư

Thành lọng hoa che Phật

Trang nghiêm thân tốt đẹp

Người, trời và Tu la

Thấy Phật bậc Thập lực

Tâm hoan hỷ vui mừng

Chưa từng có nhàm chán

Bên mặt, trăm ngàn Phạm

Bên trái trời Ðế thích

Vô số trời không trung

Cung kính bậc Tam giới

Khi Phật thần biến xong

Khai thị thắng diệu pháp

Trăm ngàn chúng nghe xong

Phát tâm đại Bồ đề

Tướng tốt, hoa làm thân

Như sao đầy bầu trời

Phật đi đường của vua

Như trăng tròn trên trời

Như báu tịnh ma ni

Trong sạch, không tỳ vết

Phóng ánh sáng mười phương

Cõi Phật chiếu cũng vậy

Chúng cư thiên vây quanh

Nhân tôn vào thành vua

Ði trên đất như sẽ

Vào nhà của Nguyệt Quang

Thành quách đều trang nghiêm

Trăm ngàn ức phướn lọng

Chiên đàn rải mặt đất

Tung hoa để trang nghiêm

Ði Phật đi trên đường

Phát lòng thương rộng lớn

Từ miệng tuôn ánh sáng

Tỏa hương mà thuyết pháp

Thấy thân Phật liền vui

Hoan hỷ bất tư nghì

Khi nào chúng ta được

Cúng dường bậc Pháp vương

Vô lượng người phát tâm:

“Sáng mai ta thỉnh Phật

Bậc cứu tế lân mẫn

Rất lâu khó gặp được”.

Hoặc dọn sạch đường thành

Thắng diệu tự trang nghiêm

Ðủ các hoa, anh lạc

Cúng Phật, vì Bồ đề

Hoặc vòng hoa chiêm ba

Bà sư, Mục đa già

Hoặc là giăng vải lụa

Phát chí tâm thuần thắng

Hoặc tại gia tâm tịnh

Y đẹp tự trang nghiêm

Dùng lụa đẹp, các hoa

Cúng dường chúng Tỳ kheo

Với hoa Ưu bát la

Lại tung hoa Diệu kim

Các thứ báu ma ni

Hoặc tung bột chiên đàn

Hiện các việc hy hữu

Không thể tính vô lượng

Khi Phật đi vào thành

Nhiều người phát tâm đạo

Không phiền não thấy đế

Trời Thiên hiện, Thiện kiến

A ca ni ly dục

Tất cả đến xem Phật

Thân ngọt ngào quả lớn

Trăm na do tha chúng

Như ma ni chiếu sáng

Ðều lại chiêm ngưỡng Phật

Vô số Tịnh thiên tử

Và các trời Thiểu tịnh

Vô lượng Tịnh thiên tử

Ðều đến xem Ðại tiên

Các Thiên tử Thiểu quang

Và trời Vô lượng quang

Các Thiên tử Quang Âm …

Ðều đến xem đức Phật

Thiên tử trời Phạm phụ

Cùng với trời Phạm chúng

Các định tạng Ðại Phạm …

Ðều đến xem Thế Tôn

Tha hóa thiên hoan hỷ

Hóa lạc thiên thiện tâm

Chúng Ðâu suất, Diêm ma

Thiên vương Ba mươi ba

Bốn Thiên vương bốn phương

Tài chủ Tỳ Lâu Lặc

Án Nhãn Ðề Lại Tra

Liền đến lễ kính Phật

Ðại Lực vua Dạ xoa

Cùng quyến thuộc tâm tịnh

Thân tộc trên hư không

Mưa các diệu hoa trời

Hằng Túy cầm hoa trời

Nắm các thứ vòng hoa

Cùng quyến tộc tâm mừng

Cúng dường thắng trượng phu

Bách Khí Túc Dạ xoa

Cùng vợ và quyến thuộc

Tự tấu âm nhạc hay

Cúng dường đức Như Lai

Vui mừng say sưa hát

Là vua Khẩn na la

Sống ở cảnh Hương Sơn

Vui mừng đến tập hội

Bà Nhã Chim Bà Lợi

La Hầu, Tỳ Ma Chất

Cùng đại oai đức khác

Mưa các loại vật báu

Nhiều vô lượng La sát

Số đông đang vây quanh

Ðều cầm các diệu hoa

Cung kính tung lên Phật

Ðại long vương A Nậu

Nữ Thiện học âm nhạc

Tấu trăm thứ tiếng hay

Thành tâm cúng dường Phật

Năm trăm Nậu Long tử

Cầu trí Bồ đề rộng

Cùng quyến thuộc vây quanh

Ðều cúng Vô thượng tôn

Long vương A Ba La

Chấp tay hướng về Phật

Cầm trân châu Long thắng

Trên không cúng dường Phật

Long vương Mục Chân Ðà

Nhảy nhót rất vui mừng

Tung các áo thật đẹp

Tịnh tâm mà cúng dường

Họ khởi tâm cung kính

Nhớ các đức tánh Phật

Các thân quyến vây quanh

Ðều đến khen ngợi Phật

Nan Ðà, Bạt Nan Ðà

Ðức Xoa, Hắc Cù Ðàm

Cùng quyến thuộc đến Phật

Quỳ gối lạy Thiện Thệ

Long vương Y La Bát

Trăm quyến thuộc khóc lóc

Nhớ nghĩ Phật Ca Diếp

Chán ghét sự thọ sanh

Xưa ta mãi nghi hoặc

Phá Tiểu Y Lan Diệp

Nên sanh nơi nạn xứ

Không thể biết Phật pháp

Rất ghét thân rắn này

Muốn mau bỏ loài rồng

Hay biết pháp thanh lương

Ðã đạt được đạo tràng

Hằng ngàn Long vương khác

Hải Long, Ma Na Tư

Ðem áo rồng thượng diệu

Ðến dâng Nhân Trung Tôn

Ðiều Ðạt đôi đá Phật

Dạ xoa hư không nắm

Tên là Kim Tỳ la

Cung kính đến trước Phật

Thành A Tra Dạ xoa

Ðại Dạ xoa Không Thiên

Giao hẹn cùng tập hội

Cúng dường bậc Ðại tiên

Dạ xoa Khôi Mao Châm

A Tra Bà đáng sợ

Tuyết Sơn, Ðà Ða Sơn

Lừa Dạ xoa quy Phật

Các thân hình khác nhau

Mặc áo rách đáng sợ

Quỷ Ða Na Do Tha

Dâng vật quý cúng Phật

Kim sí điểu Thực Hải

Biến thành Bà la môn

Mão báu tự trang nghiêm

Trên hư không lạy Phật

Các thành ở Diêm phù

Tất cả trời Ðại Lâm

Thần của thành đồng đến

Cúng dường Thế gian giải

Vô lượng Lâm thiên đến

Cùng với các thọ thần

Cùng tất cả thần sông

Vân tập đến Pháp vương

Thần núi Phong Nham Lãnh

Trời Ðội Phụ cùng đến

Thần suối với ao hồ

Cùng Hải thần mừng đến

Trời, người, quỷ, tu la

Ca Lâu với Cưu bàn

Ngạ quỷ, Phú đơn na

Ðều đến cúng dường Phật

Chư thiên, chúng tu la

Ly mạn, đều cúng dường

Thấy Phật vào Vương thành

Nhìn mãi mà không chán

Hơn tu Bồ tát hạnh

Cúng dường Phật Thế Tôn

Ngài làm tịnh nghiệp này

Chúng sanh nhìn không chán

Núi Tu di luân thảy

Và các núi Diêm phù

Không thể làm chướng ngại

Chư Phật chiếu sáng cõi

Các biển Ta bà này

Ðất đai đều bằng phẳng

Cõi Phật đều biến khắp

Rải dẫy đầy các hoa

Trăm ngàn các ánh sáng

Phóng dưới chân Pháp vương

Ðịa ngục đều mát mẻ

Trừ khổ được an lạc

Ðấng Thập lực thuyết pháp

Trời, người được tâm tịnh

Vô lượng trăm ngàn chúng

Quyết định nơi Phật đạo

Vô Ðẳng Ðẳng vào thành

Hiện sự thần biến này

Vô lượng trăm ngàn kiếp

Phật nói vãn không cùng

Thắng đức tụ như vậy

Ngưu vương vượt bờ kia

Tất cả đức cứu cánh

Cúi lạy Phật phước điền.

Bấy giờ đức Thế Tôn cùng các Tỳ kheo trước sau vây quanh, đi đến chỗ ở của Ðồng tử Nguyệt Quang, ngồi lên tòa đã đặt sẵn. Các Tỳ kheo thứ lớp ngồi xong, khi ấy đồng tử Nguyệt Quang biết đức Phật, Bồ tát, Tỳ kheo đã ngồi xong, tự tay bưng dọn các món ăn tuyệt hảo. Ðó là: Khư thiền ni, Bồ thiền ni, Lê kha na, Chư xa ni … lại đem nước uống, dùng thức ăn trăm vị, làm cho đức Như Lai và đại chúng được no đủ. Khi thấy chư Tôn đã no đủ, đồng tử vui mừng nhảy nhót, hết sức hân hoan.

Ðức Phật và đại chúng đã thọ thực xong, cất bát, rửa tay. Ðồng tử dùng y giá trị vạn ức dâng lên Như Lai. Chúng Tỳ kheo tùy theo thứ lớp: thượng, trung hay hạ, đồng tử đều thứ lớp dâng cúng. Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang dâng y lên Phật và tăng xong, trạch vai áo bên phải, quỳ gối mặt xuống đất, chắp tay đảnh lễ, đứng trước đức Phật im lặng, nói bài kệ để hỏi đức Thế Tôn:

Bồ tát, bậc trí làm hạnh gì?

Thường hay biết rõ các pháp tánh?

Làm sao thay vào nghiệp đã tạo?

Cúi mong Ðạo sư nói cho con

Làm sao biết được kiếp quá khứ?

Làm sao không vào bào thai nữa?

Làm sao để được chúng không hoại?

Làm sao để được vô lượng biện?

Ðịnh huệ Vô thượng Lưỡng túc tôn?

Như điều con hỏi xin ngài nói

Biết được tâm hạnh các chúng sanh

Với tất cả pháp không còn nghi

Phật biết thể tánh tất cả pháp

Pháp lìa ngôn ngữ dùng ngôn thuyết

Như sư tử hống dã can sợ

Phật hàng ngoại đạo cũng như vậy

Biết việc làm của chúng sanh

Thông đạt các pháp đến bờ kia

Trí huệ vô ngại, cảnh giới tịnh

Cúi mong Thế Tôn nói cho con

Biết đời quá khứ và vị lai

Với đời hiện tại ngài biết rõ

Trí vô ngại ba đời biết được

Cho nên con hỏi Thích sư tử

Các Phật pháp tất cả ba đời

Thế Tôn Pháp vương đều biết rõ

Với thể tánh pháp khéo giác ngộ

Cho nên con hỏi Ðại trí hải

Hay lìa tất cả lỗi các pháp

Vì hay đoạn trừ tâm ô uế

Cắt đứt tất cả dây si uế

Mong Phật nói cho hạnh Bồ đề

Mà Phật đạt được các pháp tướng

Như tướng sở đắc nói cho con

Con nghe pháp tương như vậy rồi

Nương tướng đã nghe hành Bồ đề

Hành tướng chúng sanh nhiều sai biệt

Con làm hạnh gì để hiểu được?

Mong nói cho con pháp nhập hạnh

Con nhờ nghe được nên mới biết

Tất cả các pháp đều sai biệt

Thế thì không tịch tánh xa lìa

Bồ đề làm sao hay biện chứng?

Mong nói cho con pháp mẫu này

Với tất cả pháp đến bờ kia

Ngôn thuyết pháp cú đã tu học

Chính mình không nghi trừ nghi người

Vì con hiển thị Bồ đề Phật.

    Xem thêm:

  • Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Như Lai Độc Chứng Tự Thệ Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Tự Thệ Tam Muội - Kinh Tạng
  • Dược Sư Tam Muội Hành Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Pháp Hoa Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Kinh Tạng
  • Kinh Hoằng Đạo Quảng Hiển Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Lực Trang Nghiêm Tam Muội - Kinh Tạng
  • Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Tập Đại Phương Đẳng Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cương Tam Muội Bản Tính Thanh Tịnh Bất Hoại Bất Diệt - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cang Tam Muội - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Tam Muội Ngồi Thiền - Kinh Tạng
  • Quán Niệm A Di Đà Phật Tướng Hải Tam Muội Công Đức Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Ấn Tam Muội - Kinh Tạng
  • Pháp Thức Thực Hành Tam Muội Chuẩn Đề - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng