1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

Giải thích trí sai biệt thắng tướng 10-3

Luận nói : Lại nữa cái tướng thanh tịnh của Tịnh độ của chư Phật Như Lai như thế nào ?

Giải thích : Trước trong 7 niệm là nói Như Lai Đại phú lạc tức là Tịnh độ. Trước chỉ nói 8 người không thể được 2 người có thể được, chưa rõ không thể được và có thể được là ở đâu. Nay muốn nói rõ nơi này nên hỏi tướng của Tịnh độ.

Luận nói : Như trong Kinh Bách Thiên có nói về duyên khởi Bồ-tát tạng như sau :

Giải thích : Nêu chung các kinh, nên nói “Như trong kinh có nói”. Trong Bồ-tát tạng, riêng có một Kinh Tịnh độ. Kinh có một trăm ngàn kệ, nên tên là Bách Thiên Kinh. Lại Kinh Hoa Nghiêm có một trăm ngàn kệ, nên tên là Bách Thiên Kinh. Trong duyên khởi của kinh này có nói rộng về tướng Tịnh độ.

Câu Tịnh độ như vậy hiển thị công đức gì ?

Luận nói : Phật Thế Tôn ở cung điện 7 báu trang nghiêm rực rỡ sáng chói khắp nơi,

Giải thích : 1.vàng, 2.bạc, 3.lưu ly, 4.Ma-sa-la, 5.A-du-ma-yết-ba, 6.Nhân-đà-la-ni-la, 7.Lô-hỉ-chi-kha-mục-đa. Ánh sáng mỗi mỗi thứ báu này đều chiếu khắp mọi nơi. Nơi đây được trang nghiêm bằng 7 báu, Phật trụ trong đó.

Luận nói : phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô lượng thế giới,

Giải thích : Đây nói nơi ánh sáng 7 báu chiếu đến, giải thích nghĩa chiếu khắp. Hai câu này nói sắc tướng viên tịnh.

Luận nói : vô lượng cõi trang sức vi diệu, mỗi mỗi đều thành lập,

Giải thích : Sự trang nghiêm này là hiếm có không lấy gì so sánh được, nên nói là “trang sức vi diệu”. Có nhiều thứ trang sức vi diệu, nên nói vô lượng. Vùng đất du hành đến là cõi. Nơi cư trú là xứ. Mỗi mỗi cõi, mỗi mỗi nơi trang nghiêm đầy đủ , nên nói là “thành lập”. Câu này nói hình mạo viên tịnh.

Luận nói : khu vực rộng lớn không ước lượng đến đâu là biên giới,

Giải thích : Đo theo đường thẳng là đạc, đo chu vi là lượng. Biên giới mỗi mỗi cõi Tịnh độ của Phật, không thể lấy số do-tuần của phàm phu lượng đạc được. Câu này nói lượng viên tịnh.

Luận nói : vượt quá ba cõi hành xứ,

Giải thích : Ba cõi tập đế là hành. Ba cõi khổ đế là xứ. Tịnh độ không thuộc trong hai cõi khổ tập, nên nói là “vượt quá ba cõi hành xứ”. Câu này nói xứ thanh tịnh.

Nếu chẳng phải gồm trong khổ tập thì do nhân gì được sinh, lấy pháp gì làm thể ?

Luận nói : được sinh ra bởi công năng thiện pháp xuất xuất thế gian,

Giải thích : Nhị thừa thiện gọi là xuất thế. Từ bát địa trở lên đến Phật địa gọi là xuất xuất thế. Xuất thế pháp là đối trị của thế pháp. Xuất xuất thế pháp là đối trị của xuất thế pháp. Công năng lấy 4 duyên làm tướng. Từ công năng của xuất xuất thế thiện pháp sinh khởi Tịnh độ này, nên không lấy tập đế làm nhân. Câu này nói nhân viên tịnh.

Những gì là xuất xuất thế thiện pháp ? Vô phân biệt trí, vô phân biệt hậu trí sinh các thiện căn, gọi là xuất xuất thế thiện pháp.

Luận nói : thanh tịnh tự tại cùng cực của duy thức làm tướng.

Giải thích : Duy thức trí của Bồ-tát và Như Lai vô tướng, vô công dụng, nên nói là thanh tịnh. Lìa tất cả chướng, không thoái mất, nên nói là tự tại. Duy thức trí này là thể của Tịnh độ, nên không lấy khổ đế làm thể. Câu này nói quả viên tịnh.

Luận nói : Đó là nơi an trú của Như Lai.

Giải thích : Tướng Tịnh độ như thế, Như Lai hằng ở trong đó. Như Lai là thượng thủ cao tột nên nguyên văn nói là “trấn”. Câu này nói chủ viên tịnh.

Luận nói : Là nơi an lạc cho Bồ-tát.

Giải thích : Tự thụ hành chính giáo, dạy người khác thụ hành chính giáo, gọi là an lạc. Bồ-tát ở Tịnh độ trợ Phật trợ đạo. Đủ hai việc này, nên gọi là nơi an lạc. Câu này nói trợ viên tịnh.

Luận nói : Là nơi có vô lượng rồng trời, Dạ-xoa, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người, phi nhân v.v

Giải thích : Trong cõi Tịnh độ thật sự không có các chúng sinh này. Để không phải là một cõi trống rỗng, Phật hóa tạo ra các loài như vậy. Câu này nói quyến thuộc viên tịnh.

Nếu có chúng sinh, các Bồ-tát v.v… chúng sẽ ăn gì ?

Luận nói : hành trì hỷ lạc đại pháp vị,

Giải thích : Mười hai bộ kinh Đại thừa, gọi là đại pháp. Chân như giải thoát v.v… là vị. Duyên pháp vị này sinh các hỷ lạc cho Bồ-tát, nuôi lớn 5 phần pháp thân của Bồ-tát. Câu này nói trì viên tịnh.

Ăn pháp vị này làm những nghiệp gì ?

Luận nói : làm các diệu dụng lợi ích tất cả chúng sinh.

Giải thích : Phàm phu, 3 thừa là tất cả chúng sinh. Tùy theo năng lực vì nói chính pháp, khiến như thuyết tu hành, lìa 4 ác đạo, lìa sinh tử, lìa hạnh tự ái của Nhị thừa, gọi là “lợi ích tất cả”. Câu này nói nghiệp viên tịnh.

Nếu Bồ-tát hành các nghiệp này cho chúng sinh thì nơi đó được lợi ích gì ?

Luận nói : Là nơi xa lìa tất cả phiền não tai ương,

Giải thích : Tập đế trong 3 cõi gọi là “tất cả phiền não”. Khổ đế trong 3 cõi gọi là “tất cả tai ương”. Hai cái này đều lìa năng hành, hành xứ. Câu này nói lợi ích viên tịnh.

Nếu lìa pháp này, có sự sợ hãi nào khác chăng ?

Luận nói : nơi không có tất cả các ma hoành hành,

Giải thích : Trong cõi Tịnh độ không có ấm ma, phiền não ma, tử ma, Thiên ma, cho nên lìa tất cả sợ hãi. Câu này nói vô bố úy viên tịnh.

Nếu trong cõi Tịnh độ khong có tất cả sự sợ hãi thì thụ dụng pháp của 6 căn có đầy đủ chăng ?

Luận nói : nơi trang nghiêm hơn tất cả, nơi sở y trang nghiêm của Như Lai,

Giải thích : Chẳng phải chỉ có đầy đủ sự thụ dụng tối thắng không thể sánh, còn là cảm cái nhân viên mãn phúc đức trí tuệ hạnh của Như Lai. Đây là nơi y chỉ thắng báo của Như Lai, cho nên tối thắng. Câu này nói trụ xứ viên tịnh.

Trong cõi Tịnh độ lấy pháp nào làm con đường xuất nhập ?

Luận nói : nơi lấy đại niệm, đại tuệ, đại hạnh làm xuất ly,

Giải thích : Chính pháp Đại thừa gọi là Đại pháp. Trong Đại pháp, văn tuệ là niệm, tư tuệ là tuệ, tu tuệ là hạnh. Ba cái này là con đường đi lại của Tịnh độ, nên gọi là xuất ly. Câu này nói lộ viên tịnh.

Nếu có con đường này, đi bằng phương tiện gì ?

Luận nói : nơi lấy đại Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na làm thừa giáo,

Giải thích : Trong Đại thừa có 500 định tên là Xa-ma-tha. Trí như lý như lượng, gọi là Tì-bát-xá-na. Dùng hai cái này làm phương tiện. Câu này nói thừa viên tịnh.

Nếu có phương tiện này thì vào từ cửa nào ?

Luận nói : nơi vào cửa ngõ đại không, vô tướng, vô nguyện, giải thoát,

Giải thích : Trong Đại thừa có 3 cửa giải thoát. Một thể do vô tính nên không, không nên vô tướng, vô tướng nên vô nguyện. Nếu đến cửa này được vào Tịnh độ. Câu này nói môn viên tịnh.

Thế giới của thế gian địa luân y thủy luân, thủy luân y phong luân, Tịnh độ y vào pháp gì ?

Luận nói : nơi được trang nghiêm bằng nhóm hợp vô lượng công đức, nơi y chỉ của Đại liên hoa vương,

Giải thích : Lấy Đại liên hoa vương ví dụ cho pháp giới chân như được hiển thị trong Đại thừa. Hoa sen tuy ở trong nước bùn không bị nước bùn làm bẩn. Ví như pháp giới chân như tuy tại thế gian không bị pháp thế gian nhiễm ô. Lại nữa tính của hoa sen tự khai phát, ví như tính tự khai phát của pháp giới chân như, chúng sinh nếu chứng đều được giác ngộ. Lại nữa hoa sen được bầy ong thu hút, ví như pháp giới chân như đươch chúng thánh thụ dụng. Lại nữa hoa sen có 4 đức : 1.thơm, 2.sạch, 3.dịu, 4.khả ái, ví như pháp giới chân như có 4 đức : thường, lạc, ngã, tịnh. Hơn tất cả các loài hoa nên gọi là vương, ví như pháp giới chân như tối thắng hơn tất cả pháp. Hoa này được công đức của vô lượng sắc tướng họp lại trang nghiêm, có thể làm y chỉ cho tất cả pháp, ví như pháp giới chân như là vô lượng công đức xuất thế họp lại trang nghiêm. Pháp giới chân như này có thể làm y chỉ cho Tịnh độ. Lại nữa nguyện lực của Như Lai cảm đến hoa sen báu, tối đại tối thắng hơn các hoa, nên gọi là vương, được công đức của vô lượng sắc tướng họp lại trang nghiêm, có thể làm y chỉ cho Tịnh độ. Câu này nói y chỉ viên tịnh.

Trong Tịnh độ pháp gì là trụ xứ của Như Lai ?

Luận nói : nơi Như Lai ở trong lầu gác báu lớn.

Giải thích : Đây nói trụ xứ của Như Lai. Như thế gian thụ dụng khí thế giới có vô lượng tội lỗi, nếu thụ dụng Tịnh độ có những công đức gì ?

Luận nói : Đó là nơi nói lên sắc tướng và hình mạo viên mãn thanh tịnh của Tịnh độ này. Nhân quả, chủ trợ, quyến thuộc, trì nghiệp, lợi ích, vô bố úy, trụ xứ, lộ, thừa, môn, y chỉ, viên tịnh, những câu văn trên như thế đều hiển hiện sự viên tịnh.

Lại nữa thụ dụng Tịnh độ thanh tịnh như thế, hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn an vui, hoàn toàn không mất, hoàn toàn tự tại.

Giải thích : Hằng không uế tạp, nên nói hoàn toàn sạch. Chỉ thụ diệu lạc, không khổ, không xả, nên nói hoàn toàn vui. Chỉ có thật thiện không ác và vô ký, nên nói hoàn toàn không mất. Tất cả mọi việc đều không quán ngoại duyên, đều do tự tâm thành, nên gọi là hoàn toàn tự tại. Lại nữa, y Đại tịnh nên nói hoàn toàn tịnh. Y Đại lạc nên nói hoàn toàn vui. Y Đại thường nên nói hoàn toàn không mất. Y Đại ngã nên nói hoàn toàn tự tại. Bồ-tát nếu nghĩ nhớ phú lạc của Như Lai, thì phải biết như vậy.

Luận nói : Lại nữa pháp giới chư Phật thường xuyên có 5 nghiệp :

Giải thích : Trong đây nên nói rõ pháp thân nghiệp, mà nói pháp giới chư Phật là muốn hiển thị pháp thân bao gồm 5 nghĩa của pháp giới, nên đổi gọi là pháp giới. Năm nghĩa là : Một là tính nghĩa, lấy không hai ngã làm tính, tất cả chúng sinh không quá tính này. Hai là nhân nghĩa, các pháp Tứ niệm xứ v.v…của tất cả thánh nhân duyên đây sinh trưởng. Ba là tàng nghĩa, nơi ẩn tàng tất cả pháp hư vọng, phàm phu, Nhị thừa không thể duyên được. Bốn là chân thật nghĩa, quá thế gian pháp, thế gian pháp hoặc tự nhiên hoại hoặc do đối trị hoại, lìa hai cái hoại này. Năm là thậm thâm nghĩa, nếu cùng đây tương ưng tự tính thành tịnh thiện, nếu ngoài không tương tự tính thành [ ? ]. Do pháp thân bao gồm 5 nghĩa pháp giới, chư Bồ-tát phải thấy pháp thân hằng cùng 5 nghiệp tương ưng không tạm rời.

Luận nói : Một là cứu vớt tai họa làm nghiệp, do chỉ hiện có thể diệt trừ các tai họa như đui, điếc, điên dại v.v…

Giải thích : Đây nói về sức Đại bi. Nếu định nghiệp báo chúng sinh, thì trong đó Như Lai không tự tại, như trước đã giải thích. Nếu bất định nghiệp báo, hoặc tội lỗi hiện tại, hoặc nghiệp có đối trị, những chúng sinh như thế nếu đến chỗ Phật, Như Lai có tác ý và không tác ý, đều có thể khiến lìa các tai họa này.

Luận nói : Hai là cứu vớt đường dữ làm nghiệp. Nghĩa là cứu vớt ra khỏi chỗ hung dữ đưa đến nơi hiền lành.

Giải thích : Đây nói về sức Chính hành. Như Lai tác ý và không tác ý, tất cả chúng sinh nếu đến chỗ Phật, khônng chúng sinh nào không dứt ác hành thiện.

Luận nói : Ba là cứu vớt những hành vi phi phương tiện làm nghiệp. Đó là các hành vi sai trái của của ngoại đạo, hàng phục họ đưa họ về với chính giáo của Phật.

Giải thích : Đây nói về sức Oai lực. Các ngoại đạo phần nhiều làm những hành vi phi phương tiện. Nếu ngoại đạo thường kiến làm nhiều khổ hạnh do chấp có đời sau, ngoại đạo đoạn kiến làm nhiều khổ hạnh do chấp không có đời sau, hoặc tư duy trời Tự Tại là đạo, hoặc tư duy cái ngã là đạo, hoặc tư duy tự tính là đạo, hoặc tư duy cái trung gian giữa ngã và tự tính là đạo, tất cả những điều như thế là hành vi phi phương tiện. Như Lai dùng thông tuệ dắt dẫn, hàng phục tâm cao mạn của chúng, dùng ký tâm dắt dẫn hàng phục sự không tin của chúng, dùng chính giáo dắt dẫn hàng phục tà kiến của chúng, đã hàng phục rồi tùy theo căn tính mà an lập chúng vào trong chính giáo của 3 thừa.

Luận nói : Bốn cứu vớt các kiến chấp về thân làm nghiệp. Nghĩa là trao cho phương tiện thấy rõ Thánh đạo siêu thoát ba cõi.

Giải thích : Đây nói về sức Phương tiện. Tất cả chúng sinh trong 3 cõi không chúng sinh nào không thân kiến. Thân kiến là nếu nhiều vật tạo thành, thể là vô thường, nên gọi là thân. Do 5 ấm hòa hợp làm thành, nên gọi là nhiều vật. Chưa có thì có, có rồi thì diệt, nên gọi là vô thường. Ngoại đao trong nhiều thì chấp một, trong vô thường cấáp thường, cho rằng một là thường là ngã. Để pháp kiến chấp này là cũng chẳng phải một chẳng phỉ thướng, cho nên gọi là thân kiến. Nếu lìa thân kiến thì được vượt qua khổ tập trong 3 cõi. Nói chính giáo, gọi là hiển. Sinh 3 tuệ cho người là dẫn đạo. Đã bỏ khổ pháp nhẫn cho đến quả A-la-hán gọi là Thánh đạo. Từ xuất gia thụ giới cho đến Thế đệ nhất pháp là phương tiện Thánh đạo. Hiển đạo khiến tu phương tiện được Thánh đạo. Lại nữa Như Lai khiến chúng sinh lìa thân kiến xa khỏi 3 cõi, đây chưa là chân thật Thánh đạo, chỉ là phương tiện Thánh đạo, trước khiến hiểu rõ khiến tu phương tiện Thánh đạo là duyên do để được chân thật Thánh đạo.

Luận nói : Năm là cứu vớt bằng thừa giáo làm nghiệp. Nghĩa là như Bồ-tát có ý muốn nghiêng về một thừa khác, hay Thanh Văn chưa quyết định căn tính, thì an lập họ vào con đường tu hạnh Đại thừa.

Giải thích : Đây nói sức của Chân thật giáo. Thừa có nhân và pháp. Nhân có Đại thừa nhân, có Tiểu thừa nhân. Pháp có phương tiện thừa pháp, có chính thừa pháp. Chuyển phương tiện thừa tu trị chính giáo, nên gọi là cứu vớt bằng thừa giáo. Kinh Ma-ha Bát-nhã nói : Thừa có 3 nghĩa : một tính nghĩa, hai hành nghĩa, ba quả nghĩa. Hai không, hiển thị 3 vô tính. Chân như gọi là tính. Do tính này tu thập độ, thập địa gọi là hành. Do tu hành này cứu cánh chứng được 4 đức thường, lạc, ngã, tịnh gọi là quả. Lại nữa, Luận Trung Biên nói thừa có 5 nghĩa : Một, xuất ly là thể, nghĩa là chân như. Hai, phúc tuệ là nhân vì có khả năng dẫn xuất. Ba, chúng sinh là thâu nhiếp, như căn tính thâu nhiếp khiến đến quả. Bốn, vô thượng Bồ-đề là quả, vì hành cứu cánh đến quả này. Năm, 3 hoặc là chướng. Trừ 3 hoặc này, thành được 4 nghĩa trước. Các Bồ-tát ở trong địa vị thập tín, tu đại hạnh chưa kiên cố, phần nhiều chán sợ sinh tử, tâm từ bi đối với chúng sinh còn yếu kém, muốn bỏ bản nguyện Đại thừa tu Tiểu thừa đạo, nên nói muốn nghiêng về tu một thừa khác. Tiểu thừa là nói Thanh Văn. Nếu được tín v.v…5 căn không gọi là định căn vì chưa đắc Thánh. Nếu được vị tri dục tri v.v..3 căn thì gọi là định căn vì đã đắc Thánh. Nếu đến đỉnh vị không gọi là định tính, vì không khỏi 4 ác đạo. Nếu đến nhẫn vị gọi là định tính, vì khỏi 4 ác đạo. Nếu y theo Tiểu thừa mà giải thì chưa được định căn tính thì có thể chuyển Tiểu thành Đại. Nếu được định căn tính thì không thể chuyển. Thanh Văn như thế không có nghĩa đổi Tiểu thành Đại.

Sao có thể nói là Nhất thừa ?

Nay y theo Đại thừa mà giải thì chưa chuyển tu Bồ-tát đạo đều gọi là chưa định căn tính, cho nên tất cả Thanh Văn đều có thể chuyển thành nghĩa Đại, an lập người Tiểu thừa vào Đại này khiến tu hạnh Đại thừa.

Luận nói : Phải biết 5 năm nghiệp này chư Phật Như Lai đều đồng thực hiện như nhau.

Giải thích : Chúng sinh trong thế gian đối với 5 nghiệp này không giống nhau. Chư Phật đối với 5 nghiệp đều đồng một nghĩa.

Luận nói : Ở đây có bài kệ như sau :

Giải thích : Để cho thấy chúng sinh không đồng nghiệp, chư Phật đồng nghiệp nên nói kệ này.

Luận nói :

Nhân theo sự, ý và các hạnh,

Thế gian khác nên nghiệp cũng khác.

Giải thích : Đây nói chúng sinh 5 nghiệp không đồng nhau : 1.nhân, 2.y, 3.sự, 4.ý, 5.hành. Nhân không đồng là như nhân khác biệt thnhf địa ngục, nhân khác biệt thành trời, nhân khác biệt thành người, súc sinh, ngạ quỷ v.v… cũng vậy. Do nhân không đồng nên tác nghiệp không đồng. Sự không đồng tức là như trong loài người hoặc buôn bán, hoặc làm nông, hoặc làm quan chức, những việc như thế không đồng nên nghiệp không đồng. Ý không đồng tức là, tất cả chúng sinh căn dục tính là ý. Các thứ này không đồng nên nghiệp không đồng. Các hành không đồng tức là, sắc v.v…5 ấm là các hành. Sắc ấm như cái lửa làm, khác với cái nước làm, thụ làm khác với tưởng làm v.v…nên nghiệp không đồng. Do 5 việc này đây làm không phải kia làm, thế gian kẻ trí người ngu nghiệp đều có khác.

Luận nói :

Năm nghiệp này chư Phật không khác,

Cho nên thế tướng đồng một nghiệp.

Giải thích : Năm việc trước đây, chư Phật đều không. Bởi vì sao ? Chư Phật nhân đồng, vì đồng tu hành phúc đức trí tuệ. Chư Phật y đồng, vì đồng một pháp thân. Chư Phật sự đồng, vì đồng có việc tự lợi lợi tha. Chư Phật ý đồng, vì đồng có ý lợi ích an lạc chúng sinh. Chư Phật không các hành đồng, vì đồng xuất ly pháp hữu vi. Do không có 5 thứ khác biệt nên đều đồng một nghiệp. Đại bidẫn dắt chúng sinh đều hướng đến Niết-bàn, nên gọi là “thế tướng”.

Luận nói : Nếu vậy Thanh Văn, Độc Giác không cùng được các đức tướng này tương ưng với pháp thân chư Phật, vậy vì ý gì chư Phật nói về họ đều hướng đến Nhất thừa cùng đồng với Phật thừa ?

Giải thích : Nếu chư Phật không có 5 cái khác biệt trước do đồng 5 nghiệp pháp thân. Người Nhị thừa có 5 nghiệp khác biệt không được pháp thân. Không có 5 nghiệp đồng, Như Lai vì nghĩa gì nói người Nhị thừa đều hướng đến Nhất thừa đều được thành Phật ?

Luận nói : Ở đây có bài kệ như sau :

Giải thích : Để nói rõ ý Nhất thừa, nên nói kệ. Kệ trước dùng liễu nghĩa nói Nhất thừa. Kệ sau dùng mật nghĩa nói Nhất thừa.

Luận nói :

Thanh Văn chưa định tính,

Và các Bồ-tát khác,

Dắt dẫn vào Đại thừa,

Định tính, nói Nhất thừa.

Giải thích : Có các Thanh Văn v.v…với Tiểu thừa chưa định căn tính, muốn dắt dẫn khiến tin thụ Đại thừa, khiến tu hành Đại thừa, gọi là “chưa được khiến được, đã được khiến không thoái lui”. Làm sao họ bỏ Tiểu thừa đạo mà Bát-niết-bàn trong Đại thừa ? Phật vì ý này nên Phật nói Nhất thừa, dẫn họ khiến vào trụ trong Đại thừa.

Luận nói : “Và các Bồ-tát khác, Dắt dẫn vào Đại thừa,”

Giải thích : Có các Bồ-tát đối với Đại thừa căn tính chưa định. Làm sao an lập họ nơi Đại thừa khiến họ Bát-niết-bàn Tiểu thừa mà không bỏ Đại thừa ? Vì ý này nên Phật nói Nhất thừa dẫn họ vào trụ nơi Đại thừa.

Luận nói : “Định tính, nói Nhất thừa.”

Giải thích : Có các Bồ-tát đối với Đại thừa căn tính đã định, không có ý thoái lui đổi khác, vì các Bồ-tát này nên nói Nhất thừa.

Luận nói :

Pháp, vô ngã, giải thoát,

Đồng đẳng, tính không đồng.

Đắc hai ý Niết-bàn,

Cứu cánh nói Nhất thừa.

Giải thích : Do pháp, vô ngã, giải thoát đồng đẳng nên nói Nhất thừa. Trong đó pháp tức chân như. Tất cả 3 thừa đều không tách rời chân như. Đó là thừa pháp của tất cả. Do chân như pháp đồng nên nói Nhất thừa. Tất cả pháp chỉ có pháp không có nhân. Nếu thật không có người, làm sao có phân biệt ? Người này là Thanh Văn. Người này là Độc Giác. Người này là Bồ-tát. Phân biệt như vậy là không đúng đạo lý. Do đồng nghĩa vô ngã nên nói Nhất thừa. Người trong 3 thừa đồng giải thoát hoặc chướng. Như Phật nói giải thoát với giải thoát không có sai biệt. Do đồng nghĩa diệt hoặc nên nói Nhất thừa. Ba nghĩa đồng nên nói là “đẳng”.

Luận nói : “tính không đồng.”

Giải thích : Có người Nhị thừa, đối với trong thừa của mình căn tính không đồng. Người này tuy cầu đạo Nhị thừa, chưa được Nhị thừa, do căn tính Nhị thừa chưa định, cho nên có thể chuyển thành căn tính Đại thừa. Để giáo hóa hạng người này nên nói Nhất thừa.

Luận nói : “Đắc hai ý Niết-bàn,”

Giải thích : Trong hai ý, ý đầu là bình đẳng đối với chúng sinh. Các người Thanh Văn v.v… tác ý đối với chúng sinh như thế này : Kia tức là ta, ta tức là kia. Do ý này nên bảo kia được chính giác tức là ta được chính giác. Ta được chính giác tức là kia được chính giác. Như ta nên giải thoát tự thân thì cũng nên như vậy giải thoát chúng sinh. Vì ý như thế nên nói Nhất thừa. Ý sau là bình đẳng đối với pháp như. Các người Thanh Văn v.v..như ý trong Kinh Pháp Hoa, Như Lai thụ ký họ đã được thành Phật, chỉ được ý pháp như bình đẳng, chưa được pháp thân Phật. Nếu được ý pháp như bình đẳng này, kia sẽ nghĩ rằng pháp như của Như Lai tức pháp như của ta. Do ý như vậy nên nói Nhất thừa. Lại nữa, trong Đại hội Pháp Hoa có các Bồ-tát tên đồng như Xá-lợi-phất v.v… Bồ-tát này được ý này, Phật vì đó thụ ký, nên nói Nhất thừa. Lại nữa, Phật hóa làm Xá-lợi-phất v.v… các Thanh Văn vì kia thụ ký muốn khiến Thanh Văn đã định căn tính lại luyện căn làm Bồ-tát, Thanh Văn chưa định căn tính khiến tu thẳng vào Phật đạo, do Phật đạo Bát-niết-bàn. Như Phật nói rằng : Ta nay hiểu rõ trong đời quá khứ đã trải vô lượng vô số kiếp y Thanh Văn thừa Bát-niết-bàn muốn cho thấy Tiểu thừa chẳng phải là chỗ cứu cánh, vì muốn khiến kia bỏ Tiểu cầu Đại, nên hiện làm việc này. Do nghĩa như thế nên nói Nhất thừa.

Luận nói : “Cứu cánh nói Nhất thừa.”

Giải thích : Nếu nói về nghĩa của thừa thì chỉ Nhất thừa là thừa, còn lại đều chẳng phải thừa. Nếu quá thừa này, không có hạnh nào khác. Trên các thừa là Phật thừa. Do nghĩa này nên nếu thừa kia so với thừa này, thừa này là không gì sánh bằng. Thừa kia mất hết nên gọi là cứu cánh. Do nghĩa như thế nên nói Nhất thừa.

Luận nói : Ba đời chư Phật đồng một pháp thân, sao số không như nhau ?

Giải thích : Chư Phật đã đồng chứng đắc một pháp thân, vì sao có 3 đời, lại có nhiều ? Nếu có 3 đời và nhiều, vì sao nói một ?

Luận nói : Ở đây có bài kệ như sau :

Giải thích : Có nhân chứng chư Phật hoặc một hoặc nhiều. Nay muốn hiển thị nghĩa này, nên nói kệ. Vì sao là hoặc một ?

Luận nói :

Trong một thế giới không có hai,

Đồng thời, nhân đó không thể lường.

Lần lượt thành Phật thì phi lý,

Vì vậy đồng thời có nhiều Phật.

Giải thích : Một pháp giới bình đẳng. Chư Phật là pháp giới hiển thiện. Do pháp giới là một nên chư Phật là một. Lại nữa, trong cùng một thời, trong cùng một thế giới, không có hai Phật đồng thời xuất hiện, nên nói là hoặc một. Thế nào là hoặc nhiều ?

Luận nói : “Đồng thời, nhân đó không thể lường.”

Giải thích : Trong một thời có vô số các Bồ-tát đồng thời tu hai hạnh phúc đức trí tuệ. Nhân đã thành thục, nếu không đồng thời được quả vô thượng Bồ-đề thì sự tu hành mất không. Vì các Bồ-tát tu nhân, đồng thời thành thục, đồng thời được quả, cho nên một lúc có nhiều Bồ-tát thành Phật không thể tính kể. Nếu nói nhân tuy đều thành, phải thành Phật trước sau theo thứ tự. Nghĩa ấy không phải như vậy. Bởi vì sao ?

Luận nói : “Lần lượt thành Phật thì phi lý,”

Giải thích : Chư Bồ-tát không nguyện như vầy : Ta sẽ chờ đợi thứ tự thành Phật. Do nguyện nầy nên nhân tuy thành thục không đợi thứ tự. Đã không nguyện này, làm sao nhân đều thành thục lại không đồng thời đắc quả ? Vì sao nhiều người đồng thời tu nhân không xem thứ tự, khi đắc quả lại phải xem thứ tự ? Cho nên nghĩa này phi lý.

Luận nói : “Vì vậy đồng thời có nhiều Phật.“

Giải thích : Câu này nói trong một lúc, 10 phương thế giới có vô lượng Phật đồng thời xuất thế. Nếu nói có Phật đã chứng ở thế gian chỉ một Như Lai không nhiều Như Lai đồng xuất thế, nghĩa ấy không phải vậy. Kinh nói không xứ, không vị, chẳng phải trước, chẳng phải sau. Hai Như Lai A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà xuất hiện ở đời. có xứ có vị. Nếu một Như Lai xuất hiện ở đời, ví như hai Chuyển luân vương không được đồng thời sinh cùng một nơi. Kinh này là phải nói Đại tam thiên thế giới không hai Như Lai hay phải nói tất cả thế giới không hai Như Lai ? Cần phải giải thích rõ. Kinh này nói tất cả thế giới. Bởi vì sao ? Không nên hạn ngại năng thắng của Thế Tôn. Chỉ Thế Tôn một người có năng thắng ở mọi nơi. Nếu một Phật không thể hóa độ chúng sinh ở các nơi khác thì bao nhiêu Phật khác cũng phải không có khả năng.

Lại nữa kinh nói : Xá-lợi-phất ! Nếu có người đến ông hỏi như thế này : Đại đức Xá-lợi-phất ! Hiện nay có Sa-môn Bà-la-môn cùng với Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn bình đẳng nơi vô thượng Bồ-đề chăng ? Được hỏi như thế, ông sẽ trả lời như thế nào ? Xá-lợi-phất thưa : Nếu có người đến hỏi con như vậy, con sẽ trả lời như thế này : Thiện nam tử ! Hiện nay không có Sa-môn Bà-la-môn cùng với Thế Tôn hoàn toàn bình đẳng nơi vô thượng Bồ-đề. Bởi vì sao ? Thưa Thế Tôn ! Con đã nghe từ Thế Tôn, đã sở đắc từ Thế Tôn rằng không nơi nào, vị nào, không trước, không sau, có hai Như Lai đồng xuất thế. Có nơi, có vị, chỉ một Như Lai xuất hiện ở đời.

Nếu vậy, sao trong Kinh Phạm Vương, Phật nói : Chỉ trong Đại tam thiên thế giới ta tự tại thành. Như câu nói này là có mật ý. Nếu Thế Tôn không tác ý, chỉ tại trong tự tính không có tâm dụng công, trong Đại tam thiên thế giới ngôn ngữ quang minh, 5 thức v.v… các việc tự nhiên được thành. Nếu có tâm dụng công, vô biên thế giới là cảnh của Như Lai.

Lại có các bộ nói ở các thế giới khác riêng có chư Phật ra đời. Bởi vì sao ? Có vô lượng Bồ-tát tu hành Lục độ, nhân đã thành thục không thể tính kể. Không có đạo lý nói chư Phật đồng thời cùng sinh ở một nơi. Không có một pháp nào ngăn ngại chư Phật xuất thế ở các nơi khác. Như vậy biết chắc rằng ở các thế giới khác có các chư Phật xuất thế. Kinh này chứng minh chư Phật không đồng một lúc xuất thế ví như Chuyển luân vương. Nay sẽ nói rõ kinh này. Kinh này nếu nói một thế giới một Phật xuất thế không ngại các nơi khác. Nếu nói tất cả thế giới một Phật xuất thế thì các Chuyển luân vương không được sinh ở các thế giới khác. Đã nói Chuyển luân vương không cùng sinh ví như chư Phật, nếu ông chấp nhận các thế giới khác riêng có các Chuyển luân vương, sao không chấp nhận chư Phật xuất hiện ở các thế giới khác ? Phật xuất thế là điều lành tốt lớn, sao không chấp nhận ở nhiều thế giới có nhiều Phật xuất thế ? Đây không có lỗi. Thế gian có nhiều chúng sinh tương ưng với lợi ích tối thắng, cho nên vì sao trong một thế giới, hai Phật không cùng xuất hiện ? Bởi vì vô dụng. Lại nữa tùy theo nguyện đời trước, cho nên các Bồ-tát xưa phát nguyện, nguyện rằng ta sẽ được thành chính giác ở nơi thế giới tối tăm không người dẫn dắt, nguyện làm ánh sáng quang minh dắt dẫn chúng. Do nguyện này nên không hai Phật cùng xuất thế. Nếu vậy vì sao chỉ nói một Phật không nói nhiều Phật ? Để khiến chúng sinh khởi tâm hết sức tôn trọng và gấp rút tu hành. Bởi vì sao ? Nếu chỉ với một Phật thì khởi tâm hết sức tôn trọng, nghĩa là không có vị nào khác có đức như vậy, cũng có thể gấp rút tu hành chính giáo của Như Lai. Bởi vì sao ? Nếu Phật Niết-bàn, chúng ta không nơi nương tựa, cho nên kệ nói một lúc nhiều Phật là đúng nghĩa này.

Luận nói : Thế nào là pháp thân chư Phật chẳng phải hoàn toàn Niết-bàn, cũng chẳng phải chẳng hoàn toàn Niết-bàn ?

Giải thích : Có các sư nói chư Phật Như Lai không vĩnh viễn Bát-niết-bàn. Có người Thanh Văn thừa của bộ khác nói chư Phật Như Lai vĩnh viễn Bát-niết-bàn. Hai chấp này chẳng phải liễu nghĩa, đó là hiển thị mật ý.

Luận ý : Ở đây có bài kệ như sau :

Giải thích : Để hiển thị nghĩa này nên nói kệ

Luận nói :

Do lìa tất cả chướng,

Việc phải làm chưa xong,

Phật rốt ráo Niết-bàn,

Cũng không rốt ráo Niết-bàn.

Giải thích : Chư Phật viễn viễn giải thoát hoặc chướng và trí chướng, đó là rốt ráo Niết-bàn. Việc chính sự Như Lai phải làm chưa rốt ráo, nghĩa là chưa thành thục thì khiến cho thành thục, đã thành thục thì khiến giải thoát. Hai việc này không thể thôi bỏ, vì vậy Như Lai không hoàn toàn rốt ráo Niết-bàn. Nếu như Nhị thừa hoàn toàn Niết-bàn thì bản nguyện Như Lai chỉ nguyện không quả. Nếu nói một cách liễu nghĩa phải nói có Niết-bàn có chẳng Niết-bàn.

Luận nói : Vì sao thụ dụng thân không thành tự tính thân ?

Giải thích : Ứng thân không thành pháp thân là đúng đạo lý. Ứng thân thành pháp thân là không đúng lý.

Làm sao biết được sự khác nghĩa này ?

Luận nói : Vì có 6 nguyên nhân :

Giải thích : Có 6 nhân chứng minh chỗ khác nghĩa này.

Luận nói : 1. Do sắc thân và hành thân hiển hiện.

Giải thích : Mười nhập là sắc thân. Thụ v.v…là hành thân. Chư Phật lấy chân như làm pháp thân. Trong pháp thân, sắc hành là không thể được. Ứng thân thì không như vậy.

Nghĩa này là thế nào ? Nhất thiết trí, Đại định, Đại biv.v…công đức Như Lai như cát sông Hằng, tuy y pháp thân nhưng nếu khi hiển hiện không lìa hóa thân. Hóa thân này lấy Phật khác tất cả chúng sinh vì sự tướng của ứng thân nên sắc hành có nơi ứng thân mà không có nơi pháp thân. Cho nên ứng thân không thành pháp thân. Đạo lý này thành tức phi đạo lý.

Luận nói : 2. Do thị hiện trong vô lượng Đại tập hội khác nhau.

Giải thích : Ứng thân có sai biệt, do đệ tử Phật trong các Đại tập hội có sai biệt. Ứng thân có thể tập họp các đệ tử Bồ-tát, pháp thân thì không như vậy. Bởi vì sao ? Đại thông tuệ có thể tập họp chúng Bồ-tát. Đại thông tuệ tức ứng thân, có thể thuyết chính pháp, lập nghĩa giải thích nghi, đây là công dụng của Bát-nhã. Bát-nhã tức ứng thân. Ngày đêm 6 thời quán căn tính chúng sinh, đến chúng sinh làm việc lợi ích là công dụng của Đại bi. Đại bi tức là ứng thân. Nếu lấy ứng thân tức là pháp thân thì không thể tập họp giáo hóa Bồ-tát. Nếu pháp thân tức là ứng thân thì chư Phật chẳng phải thường trú. Do hiển thị sai biệt này, ứng thân không thành pháp thân.

Luận nói : 3. Do tùy ý kia muốn được trông thấy hiển hiện tự tính không đồng.

Giải thích : Chữ “kia” là nói vô lượng Bồ-tát muổn trông thấy các đức của Như Lai, chỉ y vào quán sát ứng thân, tùy ý muốn, ccs đức trông thấy hiển hiện không đồng nhau. Như vậy, tự tính ứng thân là bất định vì có nhiều chủng loại. Pháp thân không như thế. Cho nên ứng thân không thành pháp thân.

Lại có kinh khác để chứng minh ứng thân tùy theo ưa muốn của chúng sinh mà hiện tướng bất đồng. Bởi vì sao ? Có chúng sinh đối với ứng thân muốn thấy màu vàng màu xanh v.v…, và lạc thụ xả thụ v.v…, hữu thức vô thức v.v…nhiều thứ không đồng đều được thành. Kinh này cho thấy ứng thân tự tính bất định, pháp thân thì không như vậy. Cho nên ứng thân không thành pháp thân.

Luận nói : 4. Do tự tính biến động nên trông thấy khác nhau.

Giải thích : Có một chúng sinh trước thấy ứng thân này hiển hiện một tướng khác. Chúng sinh này sau thấy ứng thân này hiển hiện một tướng khác. Như một người thấy không như nhau, bao nhiêu chúng sinh khác thấy cũng vậy. Để thành thục thiện căn chúng sinh này nên ban đầu hiện thô tướng, tiếp theo hiện tướng trung bình, sau hiện tướng vi diệu. Ứng thân có tướng biến động như vậy, pháp thân thì không như vậy. Cho nên ứng thân không thành pháp thân.

Luận nói : 5. Trong các Đại tập hội gồm Bồ-tát, Thanh Văn, chư thiên v.v..nhiều tướng khác nhau họp lại, nên hiển hiện tướng khác nhau.

Giải thích : Ứng thân thường xuyên do Bồ-tát v.v…nhiều chủng loại tập họp nghe pháp nên ứng thân có 3 tướng tạp : Một là tất cả chúng sinh đều thấy Phật, đều đối diện trước Phật, nên gọi là tướng tạp. Hai là tùy vô lượng chúng sinh sắc tướng bất đồng, Phật hiện như sắc tướng chúng, nên gọi là tướng tạp. Ba là tùy căn tính của chúng mà thích nghi, Đại trí, Đại định, Đại bi có vô lượng dụng sự, nên gọi là tướng tạp. Ứng thân có tướng tạp như thế, pháp thân thì không có như vậy. Nếu lấy pháp thân làm ứng thân, Phật không có nghĩa hiện thế an lạc, bởi hằng huyên động lìa tịch tĩnh. Cho nên ứng thân không thành pháp thân.

Luận nói : 6. Do A-lê-da thức và các sinh khởi thức thấy chuyển y là phi lý,

Giải thích : A-lê-da thức và sinh khởi thức tức là thụ dụng thân. Hai thức này chuyển y là pháp thân.

Nếu tự tính thân tức là thụ dụng thân, chuyển hai thức y lại được thân gì ? Do sự không đúng đạo lý này nên thụ dụng thân không thành tự tính thân. Nếu thụ dụng thân tức là tự tính thân thì không có Đại trí v.v… các đức. Do không phải không có các đức nên tự tính thân không thành thụ dụng thân.

Luận nói : nên thụ dụng thân mà thành tự tính thân cũng phi lý.

Giải thích : Do 6 nhân này mà chứng biết là đạo lý hay phi đạo lý.

Luận nói : Vì sao biến hóa thân không là tự tính thân ?

Giải thích : Biến hóa thân không thành pháp thân là đúng đạo lý. Biến hóa thân thành pháp thân là phi đạo lý, là phi nghĩa.

Làm sao biết được ?

Luận nói : Vì 8 nguyên nhân :

Giải thích : Có 8 nhân chứng biết là phi nghĩa.

Luận nói : 1. Chư Bồ-tát từ xa xưa đã được Tam-ma-đề không thoái chuyển nên thụ sinh nơi trời Đâu-suất-đà và sinh trong cõi người, là không đúng đạo lý.

Giải thích : Bồ-tát từ khi được sơ địa cho đến thập địa, trải 30 Đại kiếp a-tăng-kì, được 500 định bất thoái, lìa dục 3 cõi đã lâu, thì không có lý gì sinh vào trong Thiên đạo, huống chi là sinh trong nhân gian vào trong vương tộc Thích-ca. Vì hóa độ chúng sinh nên hiện thụ thân người. Thân này là vô nhân, mà lại hiện hữu ở thế gian. Cho nên là chẳng phải quả báo thân và tự tính thân, mà chỉ là biến hóa thân.

Luận nói : 2. Các Bồ-tát từ xa xưa hằng nhớ đời trước,

Giải thích : Bồ-tát từ sơ địa cho đến thập địa trong thời gian dài hằng nhớ việc đời trước đã tu tập được vô lượng kỹ năng đều không quên mất.

Luận nói : vậy văn chương tính toán kỹ nghệ v.v…cũng như hành trần dục, hưởng thụ trần dục mà Bồ-tát không biết là không đúng đạo lý.

Giải thích : Sáu mươi bốn thứ sách của các địa phương, 16 loại toán pháp, 64 kỹ năng, 80 minh xứ, 64 vương kỹ bí xảo thuật pháp, chưa được khiến được, đã được khiến phát triển. Khi lớn giao cho người giỏi vì thực hành dục trần, trong 6 trần như ca múa, ăn mặc các việc v.v..là thụ dụng dục trần. Bồ-tát từ vô lượng kiếp đến nay thường nhớ tất cả các kỹ năng đã tập luyện đời trước đều không quên mất, là không có đạo lý. Không nhớ không biết những việc này là vì để hóa độ chúng sinh, thị hiện cho người hạ phẩm biết có thể chuyển thành thượng phẩm. Cho nên thị hiện tự thân chưa có các kỹ năng này mới phải tu học. Vì vậy thân này là biến hóa thân, không phải tự tính thân và thụ dụng thân.

Luận nói : 3. Các Bồ-tát từ xa xưa đến nay đã phân biệt hiểu biết tà giáo chính giáo mà còn đến theo học ngoại đạo là không đúng lý.

Giải thích : Bồ-tát trong 32 Đại kiếp a-tăng-kì, trong chính hạnh tu chính cần, hạnh phúc đức trí tuệ đều đã viên mãn thì không có lý nào ở thân sau cùng không thể biết rõ các thuyết tà chính. Nếu không biết đây thì khi thành Phật thì biết pháp gì ? Vì để hàng phục các ngoại đạo nên thị hiện việc này. Cho nên thân này là biến hóa thân, không phải hai thân kia.

Luận nói : 4. Các Bồ-tát từ xa xưa đến nay đã thông suốt chính lý Thánh đạo ba thừa mà tu khổ hạnh để cầu đạo là không đúng lý.

Giải thích : Các Bồ-tát từ 32 Đại kiếp a-tăng-kì đến nay, trong thập giải, thập hạnh, sơ địa đã thông đạt chính lý Thánh đạo trong 3 thừa, lìa chấp đoạn thường, không làm khổ lạc tà hạnh. Đó là chính lý của Nhị thừa Thánh đạo. Xả bỏ chấp hữu vô, lìa tất cả phân biệt, tu vô phân biệt cảnh trí chính hạnh, đó là đúng chính lý của Bồ-tát Thánh đạo. Ngoai đạo khổ hạnh có thể diệt pháp đã được, không thể được pháp chưa được. Trong hai đời chỉ có tổn mà không có ích, nên gọi là hư. Không có lý gì Bồ-tát phải tập hành việc này. Để hóa chúng sinh, thị hiện hành khổ hạnh, không có quả báo cho nên hành việc này, Vì vậy thân này là biến hóa thân, không phải hai thân kia.

Luận nói : 5. Các Bồ-tát bỏ năm trăm câu-chi Diêm-phù-đề , mà chỉ ở một chỗ được vô thượng Bồ-đề và chuyển pháp luân là không hợp lý.

Giải thích : Các Bồ-tát khi tu đạo biến mãn khắp vạn ức Diêm-phù-đề, thành thục chúng sinh trong vạn ức Diêm-phù-đề thì khi thành Phật phải thụ thân biến khắp, nhưng quả báo thân chỉ được có một, không được có nhiều. Nếu vậy vì sao không đặc biệt thụ thân ở nơi thắng xứ, dùng hóa thân biến khắp các nơi giáo hóa, không có lý bỏ hằng vạn ức Diêm-phù-đề chỉ thiên về một Diêm-phù-đề thành Phật chuyển pháp luân. Vì để hóa độ chúng sinh khiến biết Phật xuất thế, nên thị hiện việc này. Cho nên thân này là biến hóa thân, chẳng phải hai thân kia.

Luận nói : 6. Nếu tách rời phương tiện hiển thị vô thượng Bồ-đề, chỉ dùng hóa thân làm Phật sự ở phương khác, vậy thì nên thành chính giác trên trời Đâu-suất-đà.

Giải thích : Nếu ông chấp chỉ ở một nơi Diêm-phù-đề được vô thượng Bồ-đề, các nơi khác thì lìa nhập thai v.v… các phương tiện, ở các nơi khác chỉ hiện hóa thân làm Phật sự, vì sao không chấp như là Bồ-tát này được vô thượng Bồ-đề ở trên trời Đâu-suất-đà, và hiện hóa thân làm Phật sự ở các nơi khác ? Cho nên thân này là biến hóa thân, không phải hai thân kia.

Luận nói : 7. Nếu không như vậy thì tại sao Phật không xuất hiện bình đẳng trong tất cả Diêm-phù-đề ? Nếu không, xuất hiện nơi phương khác thì không có A-hàm hay đạo lý nào có thể chứng minh nghĩa này.

Giải thích : Nếu không được Bồ-đề trong cõi trời thì phải được khắp cả, mà Bồ-tát trong tất cả 4 thiên hạ không biến khắp được vô thượng Bồ-đề chỉ được ở một nơi. Vì không có A-hàm và đạo lý có thể chứng minh nghĩa này. Cho nên thân này là biến hóa thân, không phải hai thân kia.

Luận nói : 8. Hai Như Lai cùng xuất hiện trong một thế giới, đây cũng không mâu thuẫn, bởi nếu chấp nhận hóa thân thì sẽ thành nhiều.

Giải thích : Một thế giới Sa-ha có hai Như Lai cùng xuất thế, đây cũng không có nghĩa mâu thuẫn. Bởi vì sao ? Vì đã chấp nhận hóa thân thành nhiều. Hóa thân đã nhiều, mỗi xứ mỗi xứ có hóa thân, đây cũng chẳng phương hại. Cho nên thân này là biến hóa thân, chẳng phải hai thân kia.

Luận nói : Do 4 thiên hạ gồm một thế giới, nếu Chuyển luân vương trong một thế giới, hoặc một chủ, hoặc có chủ khác cùng sinh là không đúng lý thì chư Phật cũng vậy.

Giải thích : Nhân đây chứng minh là có thể nói. Như vậy có một thế giới trong một trăm câu-chi thế giới, trong đó không thấy Phật. Nếu ông nói như vậy thì mâu thuẫn với kinh. Có kinh nói như vầy : Hai Phật không một lúc cùng sinh Đại tam thiên thế giới, ví như Chuyển luân vương. Trong đây ông phải xét kinh này đồng nghĩa Chuyển luân vương. Như hai Chuyển luân vương không được cùng sinh trong một thế giới, không phương hại gì đến việc cùng sinh ở các thế giới khác. Nói hai Như Lai cùng sinh là trái lý cũng phải xét theo nghĩa như vậy.

Luận nói :Ở đây có bài kệ nói như sau :

Giải thích : Để nói đủ tướng của nghĩa vô thượng giác nên nói kệ này.

Luận nói :

Phật vi tế hóa thân,

Đa nhập thai bình đẳng.

Vì hiển đủ tướng giác,

Thị hiện nơi thế gian.

Giải thích : Phật ở trời Đâu-suất-đà xuống Diêm-phù-đề thụ thai. Trong lúc ấy Như Lai hóa làm tất cả đệ tử Phật, như Tịnh mạng Xá-lợi-phất v.v…thụ thai. Nếu an lập chúng đủ tướng vô thượng giác thì được hiển hiện. Nếu không hạ trung Nhị thừa thì không được hiển thị Phật là vô thượng. Nếu không Nhị thừa trí tuệ cạn hẹp thì không hiển thị được Phật có đầy đủ tướng. Để hiển thị nghĩa này nên hóa thân xuất hiện ra đời.. Chư Phật Như Lai không phải hoàn toàn nhập Niết-bàn. Nay sẽ làm rõ nghĩa này.

Luận nói : Có 6 thứ nhân, chư Thế Tôn không được vĩnh viễn trụ trong hóa thân :

Giải thích : Có 6 nhân chứng minh Phật phải xả bỏ hóa thân.

Luận nói : 1. Vì chính sự cứu cánh, bởi đã giải thoát thành thục chúng sinh.

Giải thích : Vì chính sự của hóa thân Như Lai đã cứu cánh, hóa thân không vĩnh trụ. Thành thục chúng sinh khiến được giải thoát là chính sự của hóa thân. Chúng sinh đã thành thục giải thoát, nên gọi là chính sự cứu cánh.

Luận nói : 2. Nếu đã được giải thoát cầu Bát-niết-bàn, thì vì khiến kia bỏ ý tưởng Bát-niết-bàn muốn cầu được Phật thân thường trú.

Giải thích : Nếu đã giải thoát hoặc chướng, cầu vô dư Niết-bàn, để chuyển ý dục nên thị hiện hóa thân chẳng phải thật có, nên xả bỏ hóa thân, hiển thị riêng có pháp thân thường trú là chân thật có. Phải chuyển cái tâm cầu vô dư Niết-bàn của Tiểu thừa, cầu pháp thân thường trú nên hóa thân không vĩnh trụ.

Luận nói : 3. Vì trừ tâm khinh mạn của người kia đối với Phật, vì khiến kia thông suốt pháp chân như sâu xa và chính thuyết pháp.

Giải thích : “Kia” là chỉ tất cả chúng sinh chấp cho rằng Phật có sinh lão bệnh tử v.v… chẳng khác gì mình nên có tâm khinh mạn đối với Như Lai. Muốn khiến chúng sinh biết thân chân thật của Như Lai và thân giả danh. Chân thân tức chân như pháp và chính thuyết pháp. Chính thuyết pháp tứ chân như pháp lưu xuất, gọi là chính thuyết thân. Hai cái này gọi là pháp thân. Pháp này rất sâu khó thông đạt được, chẳng phải cảnh giới của người ở bậc hạ vị. Nếu thông đạt thân này thì đối với Như Lai khởi tâm cực tôn trọng. Giả danh thân tức hóa thân. Để cho thấy thân này là do phân biệt tạo ra, chẳng phải chân thật có, cho nên hóa thân không vĩnh trụ

Luận nói : 4. Vì khiến chúng sinh đối với Phật thân khởi tâm khát vọng chiêm ngưỡng mãi không chán.

Giải thích : Nếu một hóa thân hằng trụ, chúng sinh mới thấy sinh khát ngưỡng, sau thì sự khát ngưỡng sẽ phai nhạt. Nếu sắc hình cải biến nhiều thứ hy hữu, chúng sinh thường khao khát những cái mới thì sẽ không chán, cho nên hóa thân không vĩnh trụ.

Luận nói : 5. Vì khiến kia hướng về chính mình khởi cực tinh tiến, vì biết chính thuyết là không thể được.

Giải thích : Nếu hóa thân Phật hằng trụ, thì chúng sinh không khởi tưởng khó gặp, cho nên Như Lai xả hóa thân, khiến chúng biết Phật trụ thế không lâu, khởi chính cần tu tập, gấp rút độ tự thân không quán gì khác. Lại lấy tự thân chứng biết sự thị phi, gọi là “hướng về chính mình”. Cho nên hóa thân không vĩnh trụ.

Luận nói : 6. Vì khiến kia sớm được địa vị thành thục, hướng về chính mình rất mực tinh tiến không bỏ gánh nặng.

Giải thích : Trước là nói rõ chưa tu chính cần khiến tu chính cần. Đây nói nếu đã tu chính cần khiến không bỏ chính cần tu tập định tuệ mau được viên mãn. Cho nên hóa thân không vĩnh trụ.

Luận nói : Ở đây có bài kệ như sau :

Giải thích : Để tóm thâu 6 nhân trước khiến người hay quên mất dễ nhớ mà chấp trì, nên lại nói kệ.

Luận nói :

Do chính sự cứu cánh,

Vì trừ vui Niết-bàn,

Khiến bỏ khinh mạn Phật,

Phát khởi tâm khát vọng,

Hướng về mình tinh tiến,

Và vì mau thành thục,

Đối hóa thân chư Phật,

Biết là không vĩnh trụ.

Giải thích : Như Lai không vĩnh viễn Bát-niết-bàn. Nay sẽ giải thích nghĩa này.

Luận nói : Vì độ tất cả chúng sinh do phát nguyện và tu hành tìm cầu vô thượng Bồ-đề, hoàn toàn nhập Niết-bàn, điều này là không đúng lý,

Giải thích : Như Lai xưa trong lúc nguyện lạc địa, vì độ chúng sinh đã phát các thắng nguyện, cầu vô thượng Bồ-đề, trong kiến vị v.v…, vì độ chúng sinh, tu các thắng hạnh tìm vô thượng Bồ-đề. Nếu được quả cao tột mà bỏ chúng sinh, nhầp Niết-bàn là điều không đúng đạo lý. Bởi vì sao ?

Luận nói : vì bản nguyện và tu hành trái nhau không có quả.

Giải thích : Bồ-tát xưa vì độ chúng sinh phát nguyện và tu hành, khiến ta về sau thường năng lợi ích tất cả chúng sinh. Lợi ích chúng sinh tức quả của hạnh nguyện. Nay được quả cao tột nếu xả bỏ chúng sinh vĩnh viễn nhập Niết-bàn tức trái với bản ý phát nguyện tu hành. Nguyện hạnh chỉ có quả tự lợi không có quả lợi tha. Do Như Lai không vĩnh viễn nhập Niết-bàn, cho nên tương ưng có quả.

Luận nói : Lại nữa, thụ dụng thân và biến hóa thân là vô thường, sao chư Phật lấy thường trú làm pháp thân ?

Giải thích : Nếu Như Lai không vĩnh viễn Bát-niết-bàn thì Như Lai lấy pháp thường trụ làm thân. Thụ dụng thân và biến hóa thân không nên là vô thường. Nếu là vô thường, vì sao lại nói lấy thường trụ làm thân ?

Luận nói : Do ứng thân và hóa thân hằng y chỉ vào pháp thân.

Giải thích : Pháp thân là gốc của hai thân. Gốc đã thường trú, nhánh y nơi gốc tương tục thường còn, cho nên nhánh cũng thường trú.

Luận nói : Do ứng thân không lìa bỏ.

Giải thích : Như Lai tự viên đức và lợi ích các Bồ-tát. Hai việc này với Như Lai hằng không tách rời nhau. Hai việc này tức là ứng thân, cho nên phải thường trụ.

Luận nói : Do hóa thân thường hiện khởi,

Giải thích : Hóa thân vì độ chúng sinh cho đến tận cùng sinh tử không một sát-na không liên tục thị hiện được vô thượng Bồ-đề và Bát-niết-bàn. Bởi vì sao ? Sở độ chúng sinh là hằng có, Đại bi của Như Lai không nghỉ không bỏ, cho nên hóa thân cũng là thường trú.

Luận nói : như hằng thụ lạc, hằng thí thực. Phải biết thường trú của hai thân là như vậy.

Giải thích : Để thấy rõ hai thân thường trú nên dẫn hai việc làm thí dụ. Như thế gian nói người này hằng hưởng lạc, người này hằng thí thực. Không phải hai việc hưởng lạc thí thực không gián đoạn, gọi là hằng. Do gốc và sự hai nghĩa không dứt, nên nói là thường trụ.

Luận nói : Nếu pháp thân thời vô thủy không sai biệt, không số lượng,

Giải thích : Nếu pháp thân vốn có từ vô thủy, đối với tất cả chúng sinh không sai biệt, không thể lượng đạc, chư Phật do pháp thân dầy đủ thắng năng đối với việc lợi tha, thì chúng sinh được pháp thân cần gì phải tinh tiến tu đạo ?

Luận nói : thì để được pháp thân không nên không dụng công.

Giải thích : Tuy vậy không nên không dụng công, vì không thể tự nhiên chứng đắc pháp thân.

Luận nói : Ở đây có bài kệ như sau :

Giải thích : Để giải thích câu hỏi này nên nói kệ.

Luận nói :

Chư Phật chứng đắc, đẳng, vô lượng,

Là nhân. Chúng sinh nếu không siêng

Hằng thời không thành nhân chứng đắc.

Đoạn trừ chính nhân là phi lý.

Luận nói : “Chư Phật chứng đắc nhiều vô lượng là nhân.”

Giải thích : Quá khứ hiện tại chư Phật chứng đắc pháp thân. Sự chứng đắc không có cao thấp nên gọi “đẳng” tức bình đẳng. Công đức đạt được không giới hạn nên nói vô lượng. Đó là nhân của chính cần chúng sinh cầu được pháp thân.

Luận nói :”Chúng sinh nếu không siêng”

Giải thích : Sự chứng đắc này nếu là chúng sinh bỏ nhân chính cần thì như cái chấp ở trước là không cần tự mình siêng năng, do người khác mà được độ.

Luận nói :” Hằng thời không thành nhân chứng đắc.”

Giải thích : Chư Phật chứng đắc pháp thân, tất cả là có. Nếu lìa sự tự chính cần thì sự chứng đắc này không thành nhân tự chứng đắc. Bởi vì sao ? Nếu là nhân thì từ xưa đến nay đã không là phàm phu, vì đều được độ do người khác. Đã không có nghĩa như vậy nên tuy có chứng đắc, không thành nhân của chính mình.

Luận nói : “Đoạn trừ chính nhân là phi lý.”

Giải thích : Chính cần và chứng đắc tương ưng, gọi là chính nhân. Nếu đoạn trừ hai cái này thì không đúng đạo lý. Lại nữa nhân có hai thứ : một là phương tiện nhân hai là chính nhân. Chư Phật chứng đắc là phương tiện nhân, vì thuộc tha. Tự tu chính cần là chính nhân, vì dựa vào chính mình. Nếu bỏ chính nhân chỉ giữ phương tiện, việc này không hợp đạo lý, vì không thể thành tựu sở nguyện của mình. Lại nữa có các Bồ-tát, từ bi trang sức tương tục, đối chúng sinh khởi ái niệm tâm coi như con. Không có ý nghĩ như vầy : Là việc lợi ích chúng sinh để chúng làm, ta không làm. Thường có ý nghĩ như vầy : Dầu chúng làm hay không làm, ta cũng phải làm. Nếu chúng sinh không ứng với tâm Bồ-tát làm chính cần không được nghĩa lợi ích của Bồ-tát. Vì vậy chính cần là chính nhân thứ nhất chứng đắc pháp thân. Nhân này không thể đoạn trừ. Nếu đoạn trừ nhân này, do nhân nào khác được pháp thân là điều không thể có.

Luận nói : Tên Nhiếp Đại Thừa là trong Kinh A-tì-đạt-ma, Đại thừa tạng, giải thích xong./.

Do y Phật nói và đạo lý,

Nói luận là tự được thanh tịnh.

Để lợi người trí tin chính hạnh,

Để lập chính pháp tồn tại lâu.

Y đèn điện báu sáng trời trăng,

Như người tịnh nhãn thấy các sắc.

Y đủ trí bi ba giải tôn,

Thông đạt nói luận cũng như vậy.

Nếu nghĩa chân thật là pháp cú,

Phá trừ phiền não bì, nhục, tâm.

Hiển thị Niết-bàn đạo công đức,

Chỉ đây mới là lời Phật dạy.

Nếu người loạn tâm nói như thế,

Hiển thị Phật là vô thượng sư.

Tùy thuận Niết-bàn đạo tư lương,

Đỉnh lễ lời này như Phật dạy.

Đời không người tuệ hơn được Phật,

Đủ trí thông chân lý vô dư.

Là Phậttự rõ pháp bất động,

Nếu trái chính pháp do Phật dạy.

Nếu chê Thành nhân và chính pháp,

Người mê kiến chấp cứ việc làm.

Đời này trí lìa ba ô trược,

Như áo được nhuộm sạch không nhơ.

Trí độn lìa tín và bạch pháp,

Tà mạn pháp tai không rõ chấp.

Tham lợi tà kiến cùng pháp oán,

Lìa thắng hạ nguyện chê chính pháp.

Trong lửa, rắn, giặc cùng sấm sét,

Hại pháp mới sợ, đây không sợ.

Như lửa chỉ đoạn mạng thế gian,

Vô gián đáng sợ chẳng do đó.

Nếu người thường theo các bạn ác,

Tà kiến, ngũ nghịch, đoạn thiện căn.

Nghĩ pháp sớm lìa khổ vô gián,

Chê pháp làm sao được giải thoát.

Các cõi báu như giác đức nghiệp,

Ta nói câu này sinh thiện căn.

Nhân đây nguyện thấy Phật Di-đà,

Do được tịnh nhãn thành chúnh giác.

Mười kệ đây là nghĩa chung. Để làm rõ nghĩa chung này, lại nói ba kệ :

Từ đây và vì đây,

Do đây là sở thuyêt.

Ở đây nói bốn kệ,

Để hiển năm nghĩa trước.

Giữ phương tiện chính mình,

Cho nên nói hai kệ.

Nhân hại pháp nói một,

Quả hại pháp nói hai.

Đến Đại tập pháp nhẫn,

Chứng vô thượng Bồ-đề.

Lược nói ba pháp này,

Là nói lại thắng quả.

Tam tạng Pháp sư dịch giảng luận xong nói ba kệ này :

Nếu nghĩ liễu nghĩa luận,

Người trí tin Tam Bảo.

Do trí tín hai căn,

Được nhập chân như quán.

Nên ta y bản ghi,

Dịch giải Nhiếp Đại Thừa.

Sinh được công đức gì,

Hồi hướng vì ba năng.

Cúng dường Phật pháp tăng,

Hàng phục kẻ tà hạnh.

Cứu vớt các khổ nạn,

Nguyện năng lực vô cùng.

    Xem thêm:

  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Tập Chư Pháp Bảo Tối Thượng Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Bản Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Thích Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Giảng Rộng Ý Nghĩa Năm Uẩn Theo Giáo Pháp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Chư Giáo Quyết Định Danh Nghĩa - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Thanh Từ - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Viên Lý - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Nhất Chân - Luận Tạng
  • Luận Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Cửu Tụng Tinh Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Nhập Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đề Bà Bồ Tát Giải Thích Với Ngoại Đạo Tiểu Thừa Về Niết Bàn Theo Kinh Lăng Già - Luận Tạng
  • Giải Nghĩa Kinh Kim Cang - Luận Tạng
  • Luận Thích Du Già Sư Địa - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Duy Thức - Luận Tạng