1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

Phẩm thứ tư : Giải thích sai biệt

Chương 1 : Ngôn thuyết

Giải thích : Phẩm này phần chung có 2 chương, phần riêng có 7 chương. Hai chương của phần chung là : 1.Huân tập, 2.Sự dụng. Bảy chương của phần riêng là : 1.Ngôn thuyết, 2.Ngã kiến, 3.Hữu phần, 4.Dẫn sinh, 5.Quả báo, 6.Duyên tướng, 7.Tướng mạo. Ba phẩm trước đã thành lập bản thức. Tức có phẩm loại sai biệt. nay sẽ nói lại.

Luận nói : Thức A-lê-da này có những gì sai biệt?

Giải thích : Đây là hỏi về bản thức là có sai biệt về tính hay có sai biệt về sự ?

Luận nói : Nói chung, có 3 hoặc 4 thứ sai biệt.

Giải thích : Nay nói sai biệt về sự. Chỉ có một bản thức, tính nó không khác. Về sự có 3 thứ hoặc 4 thứ hoặc 7 thứ sai khác.

Luận nói : Ba thứ là do 3 thứ huân tập thành ra sai khác. Đó là danh ngôn huân tập sai biệt, ngã kiến huân tập sai biệt và hữu phân huân tập sai biệt.

Giải thích : Trong bản luận sở dĩ không giải thích 3 thứ này là vì sau ở phần Phải biết thắng tướng trước tiên giải thích 3 nghĩa này nên nay không giải thích. Nói ngôn thuyết huân tập sai biệt là do chỉ một bản thức duy nhất mà vì huân tập sai biệt nên có 3 thứ. Ngôn thuyết lấy danh tự làm thể. Danh có hai thứ là ngôn thuyết danh và tư duy danh. Hai thứ danh này lấy âm thanh làm gốc. Cái căn có thể thấy sắc, có tiếng gọi là nhãn, là con mắt, nhiều lần tập quen tiếng gọi này khởi ái chấp huân tập vào bản thức. Cái huân tập này là nhãn căn sinh nhân. Nếu quả báo nhãn căn sinh thì từ trong bản thức nói là khởi ái huân tập sinh. Cho nên lập ngôn thuyết huân tập là nhân của nhãn căn. Cũng như nhãn căn, đối với nhĩ căn v.v…tất cả ngôn thuyết huân tập sinh cũng đều như vậy. Đó là sai biệt thứ nhất của bản thức.

Chương 2 : Ngã kiến

Luận nói : Do ngã kiến huân tập sai biệt.

Giải thích : Thức có nhiễm ô vì do ngã kiến v.v…y chỉ. Trong bản thức khởi các huân tập ngã, ngã sở v.v…, do các huân tập này nên khởi phân biệt. Nghĩa là cho mình là ngã, không phải mình là người khác. Đó là sai biệt thứ hai của bản thức.

Chương 3 : Hữu phân

Luận nói : Do hữu phân huân tập sai biệt.

Giải thích : Do theo các nghiệp bất động thiện ác nên thụ 6 căn sai biệt trong lục đạo. Cho nên bản thức có sai biệt trong 3 cõi 6 đường. Đó là cái sai biệt thứ ba của bản thức.

Chương 4 : Dẫn sinh

Luận nói : Bốn thứ là dẫn sinh phân biệt, quả báo phân biệt, duyên tướng sai biệt và tướng mạo sai biệt. Dẫn sinh sai biệt là huân tập, làm sinh ra cái mới. Nếu không có cái này, thì việc duyên hành sinh thức, duyên thủ sinh hữu sẽ không thành.

Giải thích : Dẫn sinh các chủng loại khác nhau, có tướng như thế nào ? Đó là huân tập sinh ra cái mới. Sự sai biệt của bản thức như hành sinh diệt được huân tập vào thức, do thủ giữ gìn, và cái hữu đối với sinh sẽ không thành nếu không có dẫn sinh. Từ cái hữu này sinh khởi nên nói đây là pháp hữu. Thủ và thiện ác v.v…là quả do đời trước nhiều lần huân tập.

Chương 5 : Quả báo

Luận nói : Quả báo sai biệt nghĩa là do hành mà trong sáu đường pháp này được thành thục. Nếu không có cái này thì về sau, khi thụ sinh sẽ không có các pháp sinh khởi.

Giải thích : Hành và hữu là nhân dẫn dắt làm thành thục bản thức này trong 6 đường nên nói là dẫn. Nếu không có cái này thì sau khi sinh trở lại pháp, nhãn v.v… các căn và sắc v.v… các trần không sinh trở lại được. Pháp này là kết quả của quả báo.

Chương 6 : Duyên tướng

Luận nói : Duyên tướng sai biệt nghĩa là ở trong tâm có tướng hay sinh khởi ngã chấp. Nếu không có cái này thì ở trong các tâm sẽ không có tướng cảnh ngã chấp.

Giải thích : Bản thức này là đệ nhị thức ngã chấp làm duyên tướng cho đệ lục thức ngã kiến. Bản thức này nếu không duyên tướng sai biệt, vì thân kiến là nhân, ngã chấp sở duyên cảnh không thành. Đó gọi là tương tự quả.

Chương 7 : Tướng mạo

Luận nói : Tướng mạo sai biệt nghĩa là thức này có tướng chung, có tướng không chung, có tướng chủng tử không sinh cảm giác cảm thụ, có tướng chủng tử có sinh cảm giác cảm thụ.

Giải thích : Về tướng mạo có nhiều phẩm loại khác nhau. Lược nói có 4 thứ.

Luận nói : Tướng chung là chủng tử của khí thế giới. Tướng không chung là các chủng tử riêng biệt bên trong. Lại nữa tướng chung là chủng tử không sinh cảm giác cảm thụ. Tướng không chung là chủng tử có sinh cảm giác cảm thụ.

Giải thích : Bản thức cùng tất cả chúng sinh đồng công năng với nhau, nghĩa là cùng chúng sinh cộng dụng cái thế giới sinh nhân như một cái đồ đựng. Lại nữa tướng chung là chủng tử không sinh cảm giác cảm thụ. Bản thức này là pháp không có giác tri không có cảm thụ. Nghĩa là ngoài sinh nhân như 4 đại, 5 trần v.v…nếu không tướng mạo bản thức như thế thì không thành cái nhân của khí thế giới mà chúng sinh cộng dụng. Tướng không chung là các chủng tử riêng biệt bên trong. Các chủng tử riêng biệt là nói tự và tha. Cảnh giới không đồng, chủng loại không đồng, thủ tướng không đồng, nên nói là mỗi mỗi riêng biệt. Lại nữa nói tự là nội, tha là ngoại. Tức là nội căn trần v.v…sinh nhân là tướng không chung. Nói là chủng tử có sinh cảm giác cảm thụ là bản thức này là sinh nhân của pháp có giác tri và cảm thụ. Nếu không có cái đệ nhị tướng mạo thì không thành chúng sinh thế giới. Nếu do một nhân khác được thành thì không giác tri không cảm thụ như cây đá. Hai chủng tử này , Thánh đạo phá chủng tử nào ?

Luận nói : Nếu khi khởi đối trị, thì chỉ có tướng không chung bị diệt.

Giải thích : Chủng tử không chung này, khi đạo khởi, vì trái với đạo ắt bị đạo phá. Bởi vì sao ? Không có một người đắc đạo mà bao nhiêu người khác được giải thoát. Đạo có công dụng gì đối với chủng tử chung ?

Luận nói : Còn đối với tướng chung thì do sự duy trì của bao nhiêu hữu tình khác, chứ bản thân thì chính kiến thanh tịnh.

Giải thích : Đạo đối với chủng tử chung không có công dụng và cũng có công dụng. Như đối với công dụng của chủng tử không chung thì trong đây không có, nên nói không công dụng. Sau khi đắc đạo thì sở kiến thanh tịnh, khác với sở kiến trước đây, nên nói cũng có công dụng. Thế nào là đạo đối với chủng tử chung không chung không đồng công dụng ? Do tha phân biệt . Nếu vậy đạo đối với chủng tử chung có công dụng thế nào ? Chỉ trừ phân biệt. Ở trong cảnh giới khởi vô phân biệt nên pháp nhãn thanh tịnh đối với cảnh giới. Vì chỉ duyên vô tính nên nếu từ bi Bát-nhã lại khởi phân biệt thì cái phân biệt này do y chỉ chân như nên sở phân biệt thành cõi thanh tịnh. Chỉ một cảnh giới duy nhất, sao chúng sinh thấy không giống nhau ?

Luận nói : Ví như hành giả tu quán, đối với một loại vật, tùy tâm mình lập ra bao nhiêu cách quán sát và bao nhiêu tâm nguyện.

Giải thích : Do tâm của người tu quán biến hóa nên đối với một loại vật chúng sinh thấy không giống nhau. Như cảnh giới này do tha phân biệt duy trì mà trong đó người tu quán thấy thanh tịnh.

Luận nói : Có bài kệ như sau :

Khó diệt và khó giải,

Gọi tên là cộng kết.

Người tu quán tâm khác,,

Do tướng đại thành ngoài.

Người thanh tịnh chưa diệt,

Trong đây thấy thanh tịnh.

Thành tựu Phật độ tịnh,

Do Phật kiến thanh tịnh.

Giải thích : Kết có 2 thứ, một là tướng kết, hai là thô trong kết. Tướng kết khó giải. Thô trong kết khó diệt. Tâm phân biệt các trần là tướng kết. Do sự phân biệt này khởi các hoặc như dục, sân v.v…gọi là thô trọng kết. Nếu được trí vô phân biệt tức giải được tướng kết. Tướng kết không khởi thì thô trọng kết cũng diệt theo. Lại nữa giải thích về khó diệt là nói về vô gián đạo vì vô gián đạo khó được, còn khó giải là nói về giải thoát đạo. Do vô gián đạo khó được nên giải thoát đạo khó được. Ở trong cảnh giới chung khởi kết nên gọi là cộng kết. Nếu nói theo nghĩa tự tương tục thì không gọi là cộng. Vì sao hoặc này khó diệt khó giải ?

Luận nói : “Người tu quán tâm khác, Do tướng đại thành ngoài.”

Giải thích : Lìa thức không riêng có ngoại cảnh, vì vậy người tu quán chỉ quán nội pháp là không, không quán ngoại pháp cho nên nói tâm khác. Tướng phân biệt thông cả 10 phương thế giới nên nói tướng đại. Quán tâm với nội chủng tử trái nhau, với ngoại chẳng tương quan cho nên nói thành ngoài. Do 3 nghĩa này nên ngoại kết khó giải khó diệt. Nếu cái kết này có 3 nghĩa khó diệt khó giải thid người tu đạo quán hạnh có được công năng gì ?

Luận nói : “Người thanh tịnh chưa diệt, Trong đây thấy thanh tịnh.”

Giải thích : Khi đối trị đạo sinh, chủng tử không chung diệt là lúc người tu quán hạnh được từng phần thanh tịnh hoặc toàn phần thanh tịnh. Tuy chưa diệt tướng bên ngoài nhưng bên trong pháp nhãn tuệ nhãn thanh tịnh không chấp.

Luận nói : “Thành tựu Phật độ tịnh,”

Giải thích : Nếu có trí tuệ từ bi, vì lợi tha khởi phân biệt, đó chính là công năng thành tựu cõi Phật thanh tịnh. Cõi Phật thanh tịnh này do nhân duyên gì được thành ?

Luận nói : “Do Phật kiến thanh tịnh.”

Giải thích : Sơ địa là Bồ-tát kiến vị. Thanh tịnh trong sơ địa là kiến đạo thanh tịnh. Kiến đạo thanh tịnh là Phật kiến thanh tịnh. Do thanh tịnh này có thể được cõi Phật thanh tịnh, huống chi là ở trong tu vị và cứu cánh vị. Lại nữa chân như quán gọi là Phật kiến. Bởi vì sao ? Nếu đến cứu cánh vị thì sở đắc của chân như quán chẳng khác với đây nên gọi là Phật kiến. Lại nữa Bồ-tát cũng được gọi tên là Phật, vì do định nên đắc Phật, nhân thụ tên của quả nên gọi là Phật kiến. Lại nữa Bồ-tát đối trị đạo sinh thì chủng tử không chung diệt, tức đủ 3 thanh tịnh : một là pháp nhãn thanh tịnh, hai là Phật độ thanh tịnh, ba là kiến Phật thanh tịnh, gọi là thấy 3 thân. Bồ-tát duyên Phật khởi kiến nên gọi Phật kiến.

Luận nói : Lại có bài kệ khác như sau :

Các nguyện và chỗ thấy,

Người tu quán đạt được.

Ở trong một vật loại,

Tùy theo ý kia thành.

Thấy nhiều thứ thành. Nên

Sở thủ chỉ có thức.

Giải thích : Bài kệ này muốn hiển thị điều gì ? Muốn hiển thị 2 nghĩa, một là Bồ-tát tu quán bên trong không dựa bên ngoài, hai là bởi quán này là chỉ có thức không có ngoại trần. Đó là 2 nghĩa hỗ tương hiển thị.

Luận nói : “Các nguyện và chỗ thấy, Người tu quán đạt được.”

Giải thích : Người tu quán hoặc vì mình đạt được tự tại, hoặc muốn khiến người khác tiếp nhận chính giáo nên nguyện, các thứ nguyện biến đổi đều được thành đạt. Nếu nguyện đã thành thì tự mình thấy người khác thấy đều được đúng như đã nguyện. Nguyện này là có cảnh khác hay là một cảnh ?

Luận nói : “Ở trong một vật loại,”

Giải thích : Nếu nhiều người tu quán có nguyện khác cùng có thể biến khác một cảnh, có thể biến đổi khác được. Vì sao được ?

Luận nói : “Tùy theo ý kia thành.”

Giải thích : Vì chỉ có thức, thật không ngoại cảnh. Cho nên tùy ý của họ có thể biến khác được. Nếu thật có ngoại cảnh thì nguyện của người tu quán hạnh sẽ bất thành. Vì nhân bất thành nên tự mình và người khác thấy sự biển đổi khác cũng bất thành.

Luận nói “Thấy nhiều thứ thành. Nên sở thủ chỉ có thức.”

Giải thích : Do người tu quán, thức là tăng thượng duyên nên thức biến đổi khác với những người khác. Như nguyện của người tu quán hiện thì biết chắc là chỉ có bản thức không có ngoại trần. Trước đã nói rõ nhân của giác tri và cảm thụ quyết chắc là chủng tử không chung, không giác tri cảm thụ quyết chắc là chủng tử chung. Nay sẽ nói về nhân chung và không chung đồng sinh một quả.

Luận nói : Đó là chủng tử có sinh giác tri cảm thụ sai biệt không chung của bản thức. Nếu không có cái này, thì không có sinh duyên của thế giới chúng sinh. Đó là chủng tử không sinh giác tri cảm thụ, tướng chung của thức A-lê-da. Nếu không có cái này, thì không có sinh duyên của khí thế giới.

Giải thích : Hai nhân chung và không chung sinh 5 căn trong và 5 trần trong làm tự y chỉ cho 6 thức, là cảm cái nhân không chung, làm cảnh giới của 6 thức khác, cho nên là cảm cái nhân chung. Nếu không cảm cả 2 nhân thì không có sắc ấm và sự cùng thấy.

Luận nói : Lại nữa thức có tướng thô trọng, có tướng vi tế nhẹ nhàng.

Giải thích : Câu văn này hiển thị quả tương tự của 2 nghiệp thiện ác của bản thức, cũng là nhân sinh ra 2 nghiệp thiện ác.

Luận nói : Thức của tướng thô trọng là chủng tử các đại tiểu 2 hoặc.

Giải thích : Đối với lý và sự, tâm không có công năng gọi là thô trọng. Tất cả hoặc của vị lai và nghiệp, từ thức này sinh gọi là chủng tử.

Luận nói : Thức của tướng vi tế nhẹ nhàng là chủng tử của tất cả thiện pháp hữu lưu.

Giải thích : Đối với lý và sự , tâm có công năng nên gọi là vi tế nhẹ nhàng. Tất cả tín v.v…thiện của 5 căn vị lai, đều từ thức này sinh nên gọi là chủng tử.

Luận nói : Nếu không có cái này, thì nghiệp quả trước có khả năng vượt trội, với nghiệp quả không có khả năng vượt trội, không lấy đâu làm chỗ sở y sai biệt.

Giải thích : Nếu không có thức này thì phân tập quả và quả báo quả đều không thành. Tập quả là tương tự quả. Quả báo quả là bản thức trong lục đạo. Ở trong bản thức lại có tướng thô nặng và tướng vi tế nhẹ nhàng. Tập quả cũng gọi là tương tự quả. Cái thắng năng, tức khả năng vượt trội, là chỗ y chỉ của tương tự quả, là chỗ khác nhau của nhân thiên trong thiện đạo của quả báo quả, là chỗ khác nhau của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh trong ác đạo nên nói là y chỉ sai biệt. Y chỉ của thiện đạo có thắng năng, y chỉ của ác đạo không có thắng năng. Nếu bản thức không có 2 tướng này thì tất cả nghĩa nhân quả đều bất thành.

Luận nói : Lại có hai thứ bản thức là tướng có thụ và tướng không thụ.

Giải thích : Muốn hiển thị công năng trong bản thức là có hết và không hết.

Luận nói : Tướng có thụ là thức chủng tử thiện ác, đã thành quả báo dị thục.

Giải thích : Bản thức này xưa có chủng tử thiện ác, nếu quả báo đều đã thục dụng thì chủng tử hết. Chỉ khi nó còn tồn tại trong bản thức thì bản thức này là tướng có thụ.

Luận nói : Tướng không thụ là chủng tử danh ngôn, huân tập.

Giải thích : Bản thức này ở trong sinh tử thụ dụng vô tận. Các chủng tử cùng nghiệp nhờ đây có sự tương tục không dứt nên gọi là tướng không thụ. Thể của tướng không thụ như thế nào ? Tức là chủng tử danh ngôn huân tập. Trước dùng âm thanh gọi tất cả pháp là nói, sau không phát ra lời nói dùng tâm duyên thẳng trước cả âm thanh, đó là danh, tức là tên. Cái tên này lấy phân biệt làm tính. Nếu lấy tên này phân biệt pháp bên trong, hoặc tăng hoặc giảm, hoặc đúng lý hoặc không đúng lý gọi là nhục phiền não, nghĩa là phiền não

trong máu thịt. Nếu dùng cái tên này phân biệt ngoại trần khởi lên các tên như dục, sân v.v… gọi là bì phiền não, tức là phiền não ở ngoài da. Nếu dùng cái tên này phân biệt tất cả các pháp sai biệt của thế gian xuất thế gian, lìa 2 phân biệt trước gọi là tâm phiền não, tức là phiền não trong tâm. Vì vậy tất cả phiền não đều lấy phân biệt làm thể, làm chướng ngại cảnh vô phân biệt và trí vô phân biệt. Vì sao nói đây là tướng không thụ ?

Luận nói : Từ vô lượng quá khứ sinh khởi chủng tử hý luận.

Giải thích : Bốn thứ ngôn thuyết của thế gian gọi là hý luận, tức là thấy nghe hay biết chỉ dùng danh ngôn phân biệt. Có 4 thứ này thì không duyên thật nghĩa nên gọi là hý luận. Cái hý luận này trước từ bao giờ cho đến sau là bao giờ cũng không cùng tận nên nói là vô lượng thời hý luận. Cái hý luận này hoặc sinh hoặc khởi đều do danh ngôn huân tập sinh ra nên nói là danh ngôn huân tập là chủng tử hý luận. Nếu không có đây, 2 phần có lỗi gì ?

Luận nói : Cho nên nếu không có thức này, thì có tạo tác hay không tạo tác, hai nghiệp thiện ác do với quả báo cho nên không thành nghĩa thụ dụng hết.

Giải thích : Nếu không có bản thức có tướng có thụ, thì 2 nghiệp thiện ác thường thường có tạo tác hay không tạo tác, do cùng với công năng quả báo diệt hết, không thụ báo nữa nên gọi thụ dụng. Nghĩa đó không thành vì lỗi mất nghĩa giải thoát. Nếu không không nhận có lại, thì có lỗi gì ?

Luận nói : Danh ngôn huân tập trước tiên cũng không sinh khởi được.

Giải thích : Nếu lìa danh ngôn huân tập có trước, hiện tại và vị lai chưa từng có, mà có danh ngôn huân tập là không thể được. Bởi vì sao ? Quả đẳng lưu nếu không có nhân đồng loại thì không sinh được. Nếu sinh được thì A-la-hán Duyên Giác đoạn hết phiền não rồi phiền não phải sinh trở lại. Nếu không sinh ắt phải không có căn bản phiền não. Nếu không có căn bản phiền não thì không có nghiệp. Nếu không có nghiệp phiền não thì không có hữu và sai biệt. Thế thì tập và khổ 2 đế tự nhiên diệt hết, tức nhập Niết-bàn chẳng cần phải tu đạo. Do 2 nghĩa này không, không giải thoát và tự nhiên giải thoát nên biết chắc chắn là có 2 tướng là có thụ và không thụ.

Luận nói : Lại nữa có thức có tướng thí dụ.

Giải thích : Ví như những sự ảo hóa làm ra voi, ngựa v.v…là các nhân loạn tâm. Các tướng thí dụ của bản thức này là chủng tử hư vọng phân biệt cho nên là nhân của tất cả sự loạn tâm điên đảo.

Luận nói : Như sự ảo hóa, như con nai khát nước thấy sóng nắng, như mộng tưởng chiêm bao, như hoa mắt v.v… ví cho thức thứ nhất tương tự những việc này.

Giải thích : Bốn việc này ví cho 4 điên đảo. Sự ảo hóa ví cho ngã chấp. Con nai khát nước ví cho ngã ái. Chiêm bao ví cho ngã mạn. Hoa mắt ví cho vô minh. Bốn thí dụ này đều ví cho bản thức. Bản thức tương tự như 4 việc này. Việc ảo hóa làm chúng sinh tà chấp. Con nai khát nước là làm chúng sinh sinh tham ái. Chiêm bao là khiến chúng sinh sinh loạn tâm. Hoa mắt là chướng ngại khiến chúng sinh thấy cảnh không rõ ràng. A-đà-na thức nếu chưa diệt có thể biến đổi bản thức sinh 6 thức, khởi 4 thứ thượng tâm điên đảo. Cho nên nói bản thức tựa như các việc này.

Luận nói : Nếu không có các chủng tử hư vọng phân biệt này, thì thức này không thành nhân duyên điên đảo.

Giải thích : Nếu bản thức không có một phần tương ưng với A-đà-na thức thì bản thức không thành 4 nhân duyên điên đảo. Bởi vì sao ? Như bản thức này là nhân duyên của chủng tử hư vọng phân biệt, thì tất cả hư vong phân biệt đều từ bản thức này sinh.

Luận nói : Lại có tướng đủ và tướng không đủ.

Giải thích : Đây là nói thức có tướng thí dụ và bản thức lại thành 2 tướng, một là tướng đủ trói buộc, hai là tướng không đủ trói buộc.

Luận nói : Nếu đầy đủ trói buộc, chúng sinh có tướng đủ.

Giải thích : Nghĩa là chúng sinh ở cõi Dục chưa lìa dục thì có đủ 3 phiền não, nên gọi là tướng đủ.

Luận nói : Nếu được lìa dục thế gian, thì có tướng làm tổn hại.

Giải thích : Nếu chúng sinh cõi Dục, cõi Sắc lìa dục, còn đầy đủ nhục phiền não, tâm phiền não, bì phiền não thì dần bị tổn hại, 2 trường hợp chúng sinh này còn là phàm phu.

Luận nói : Nếu là hữu học Thanh Văn và các Bồ-tát, thì có một phần tướng diệt và ly.

Giải thích : Hết một phần nhục phiền não, bì phiền não hoặc bị tổn hoặc chưa bị tổn.

Luận nói : Nếu là A-la-hán, Độc Giác, Như Lai thì có đầy đủ toàn phần tướng lìa diệt. Bởi vì sao ? Vì A-la-hán, Độc Giác chỉ diệt hoặc chướng. Như Lai diệt cả hoặc trí hai chướng.

Giải thích : A-la-hán, Độc Giác chỉ diệt, lìa hết các hoặc do kiến đạo và tu đạo phá trừ, nên không giải thoát chướng. Như Lai đều diệt lìa hết 3 phiền não, nên bản thức Như Lai vĩnh viễn lìa tất cả giải thoát chướng và trí chướng. Thức này hoặc gọi là vô phân biệt trí, hoặc gọi là vô phân biệt hậu trí. Nếu phát khởi việc lợi ích cho chúng sinh thì một phần gọi là tục trí. Nếu duyên nhất thiết pháp vô tính khởi thì một phần gọi là chân như trí. Hai cái này hợp lại gọi là ứng thân.

Luận nói : Nếu không có cái này, thì không thể tuần tự diệt hết các phiền não.

Giải thích : Nếu không có tướng đủ và tướng không đủ thì không thành cái nghĩa phàm phu, hữu học thánh nhân, vô học thành nhân tuần tự diệt. Trong 3 tính vì sao bản thức chỉ là vô ký tính ? Là vì quả báo.

Luận nói : Vì nhân duyên gì quả báo của hai pháp thiện ác, chỉ có tính vô phú vô ký ?

Giải thích : Chẳng phải phiền não nhiễm ô nên gọi là vô phú vô ký. Không đồng với phiền não cõi trên là hữu phú vô ký. Vì sao không đồng ? Nhân là thiện ác mà quả là vô ký.

Luận nói : Tính vô ký này câu sinh với hai pháp thiện ác, và không trái nghịch nhau.

Giải thích : Do tính vô phú vô ký không trái nhau với 2 tính thiện ác nên trong quả báo vô ký 2 nghiệp thiện ác mới sinh được. Do nghiệp sinh nên có 2 đường thiện ác.

Luận nói : Hai pháp thiện ác tự nó trái nghịch nhau.

Giải thích : Nếu quả báo là thiện ác, tính thiện ác trái nhau, như vậy nếu thiện thì ác không sinh được sẽ không có đường ác, nếu ác thì thiện không sinh được sẽ không có đường thiện. Thiện ác 2 đường phải theo một là không có đường nào cả.

Luận nói : Nếu quả báo thành tính thiện ác, thì không có phương tiện giải thoát phiền não.

Giải thích : Nếu quả báo là tính thiện ác thì từ thiện lại sinh quả báo thiện, từ ác lại sinh quả báo ác. Do báo lại có báo thì sinh tử không dứt cho nên không có nghĩa giải thoát được.

Luận nói : Cũng không có phương tiện để khởi thiện và phiền não.

Giải thích : Nếu là thiện thì phiền não không được khởi, nếu đã là ác thì thiện không được khởi.

Luận nói : Cho nên không giải thoát và trói buộc.

Giải thích : Nếu không thiện thì không giải thoát. Nếu không phiền não thì không trói buộc.

Luận nói : Vì không có hai nghĩa này nên tính của quả báo thức là vô phú vô ký.

Giải thích : Không có nghĩa không giải thoát, không có nghĩa không trói buộc. Đã chắc chắn là có giải thoát và trói buộc cho nên biết bản thức quyết định là tính vô ký.

***

Phẩm thứ năm : Phải biết thắng tướng

Chương 1 : Tướng

Giải thích : Nghĩa này có 4 chương : 1.Tướng, 2.Sai biệt, 3.Phân biệt, 4.Hiển lộ ý y.

Luận nói : Như đây đã nói phải biết y chỉ thắng tướng, vậy phải biết như thế nào ?

Giải thích : Trước nói tuần tự có 10 nghĩa và đã giải thích thứ nhất là y chỉ thắng tướng. Tiếp đến sẽ giải thích thứ hai là phải biết thắng tướng. Nghĩa này có có mấy, có tên gì, có tướng thế nào. Làm sao thấy được ?

Luận nói : Phải biết thắng tướng, nói chung có 3 thứ.

Giải thích : Dưới đây trả lời 3 câu hỏi trước. Nói thắng tướng thứ hai, đại lược có 3, tức là 3 tên, 3 tướng. Những gì là 3 ?

Luận nói : Một là tướng y tha tính, hai là tướng phân biệt tính, ba là tướng chân thật tính.

Giải thích : Câu này trước nói rõ số là 3, tên của 3 số rồi sau tiếp giải thích 3 tướng. Một, hai, ba là số. Y tha, phân biệt và chân thật là tên.

Luận nói : Tướng y tha tính nghĩa là

Giải thích : Dưới đây giải thích 3 tướng.

Luận nói : bản thức là chủng tử, hư vọng phân biệt gồm thâu các thức sai biệt.

Giải thích : Do bản thức có thể biến đổi khác tạo ra 11 thức. Bản thức tức là chủng tử 11 thức. Mười một thức đã khác nên nói là sai biệt. Phân biệt là tính của thức. Tính của thức phân biệt như thế nào ? Phân biệt không là có, nên gọi là hư vọng. Phân biệt là nhân. Hư vọng là quả. Do quả hư vọng nên hiển lộ được cái nhân phân biệt. Dùng cái tính phân biệt này gồm thâu hết tất cả các thức.

Luận nói : Thức sai biệt là những gì ?

Giải thích : Đây không hỏi tính chất chung, chỉ hỏi sự sai biệt của các thức.

Luận nói : Đó là thân thức, thân giả thức, thụ giả thức, ứng thụ thức, chính thụ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức, tự tha sai biệt thức và thức của hai đường sinh tử thiện ác.

Thân thức, thân giả thức, thụ giả thức, ứng thụ thức, chính thụ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức, các thức này do chủng tử của ngôn thuyết huân tập sinh. Tự tha sai biệt thức do chủng tử ngã kiến huân tập sinh. Thức của hai đường sinh tử thiện ác do chủng tử của hữu phần huân tập sinh.

Giải thích : Thân thức là nhãn v.v…5 giới. Thân giả thức là thức nhiễm ô. Thụ giả thức là ý giới. Ứng thụ thức là sắc v.v…6 ngoại giới. Chính thụ thức là 6 thức giới. Thế thức là cái thức tiếp nối sinh tử không dứt. Số thức là cái thức từ một cho đến số A-tăng-kì. Xứ thức là khí thế giới thức. Ngôn thuyết thức là cái thức thấy nghe hay biết. Chín thức này là y chỉ ngôn thuyết huân tập sai biệt làm nhân. Tự tha sai biệt thức là cái thức y chỉ sai biệt tự với tha, lấy ngã kiến huân tập làm nhân. Thức của hai đường sinh tử thiện ác là cái thức trong đường sinh tử đa chủng sai biệt, lấy hữu phần huân tập làm nhân.

Luận nói : Do các thức đây gồm thâu phiền não trong tất cả giới đạo.

Giải thích : Tất cả giới tức tam giới, thập bát giới. Tất cả đạo tức lục đạo. Trong các giới đạo đây có 3 phiền não, tức hoặc nghiệp và quả báo, 3 cái này cũng gọi là phiền não, cũng gọi là trược. Tục đế không ra ngoài các pháp này. Tức là các pháp gồm thâu trong 11 thức nói ở trước. Vì chúng đồng tính nên gồm thâu lẫn nhau được.

Luận nói : Tính y tha là tướng. Hư vọng phân biệt thì liền được hiển hiện.

Giải thích : Muốn thấy rõ cái hư vọng phân biệt chỉ dùng tính y tha làm thể tướng. Loạn thức và sự biến đổi của loạn thức tức là hư vọng phân biệt. Phân biệt tức là loạn thức. Hư vọng tức những biến đổi của loạn thức. Nếu nói rộng thì hư vọng phân biệt có 11 loại thức. Nếu nói đại lược thì có 4 thứ thức : 1.tự trần thức, 2.tự căn thức, 3.tự ngã thức, 4.tự thức thức. Tất cả hư vọng phân biệt trong 3 cõi đều không ra ngoài 3 nghĩa này. Qua các thức này thì được hiển hiện. Tuy nói thức này bao gồm hết tất cả hư vọng phân biệt, trong việc chấp hư vọng phân biệt này cái gì là tính y chỉ ? Cái gì là tính phân biệt ?

Luận nói : Các thức này, hư vọng phân biệt lấy duy thức làm thể.

Giải thích : Nói các thức này tức 11 thức và 4 thức. Trong tất cả các pháp chỉ có thức không còn pháp nào khác cho nên duy thức là thể. Cái thể này do hữu, nên khác phân biệt tính, do gồm trong tính hư vọng phân biệt, nên khác chân thật tính. Cái tính này chẳng phải thật hữu chẳng phải thật vô, không khỏi hư vọng. Cái hư vọng này là tính của nó cho nên nói gồm trong hư vọng phân biệt.

Luân nói : Chẳng có hư vọng trần nào hiển hiện làm nơi y chỉ. Đó là tướng của tính y tha.

Giải thích : Quyết định không có nên gọi là chẳng có. Chẳng có vật để làm duyên cho 6 thức duyên nên nói hư vọng trần. Tựa như căn trần ngã thức, các tâm sinh trụ diệt v.v…biến đổi rõ ràng nên nói là hiển hiện. Sự hiển hiện này lấy tính y tha làm nhân nên nói là y chỉ. Ví như chấp ngã là trần, cái trần này thật ra là không có, bởi cái ngã là phi hữu, do tâm biến đổi hiển hiện tựa như ngã, cho nên nói chẳng có hư vọng trần. Hiển hiện việc này nhân tính y tha khởi, cho nên tính y tha làm y chỉ cho hư vọng trần hiển hiện. Đây là tướng của tính y tha.

Luận nói : Tướng của tính phân biệt nghĩa là thật sự không có trần, chỉ có thức thể, hiển hiện làm trần. Đó là tướng của tính phân biệt.

Giải thích : Các trần như vô ngã v.v…nó không có cái thể riêng biệt, chỉ có thức là thể, không lấy thức làm tính phân biệt. Thức biến đổi hiển hiện làm ngã v.v…Trần là không mà tựa như có là do thức sở thủ gọi là tính phân biệt.

Luận nói : Tướng của tính chân thật nghĩa là cái tính y tha này, do tướng trần là vĩnh viễn không có nên cái thật này chẳng phải không. Đó là tướng của tính chân thật.

Giải thích : Nghĩa của hư vọng vĩnh viễn không có hiển hiện nhân, bởi không có hiển hiện thể nên không thể được. Ví như ngã v.v… các trần hiển hiện tựa như thật có. Do cái hiển hiện này y theo 3 lượng Phật nói mà tim kiếm thật thể là không thể có được. Như ngã trần, pháp trần cũng vậy, vĩnh viễn không có hữu thể cho nên nhân pháp đều vô ngã. Như thế thì vô ngã là thật hữu chẳng phải không. Do hai thứ trần không có thật thể cho nên tính y tha là không thể được, cũng là thật hữu chẳng phải không. Đó là tướng của tính chân thật.

Luận nói : Bởi nói thân thức, thân giả thức, thụ giả thức thì phải biết đó là gồm 6 nội giới như nhãn căn v.v…Nói ứng thụ thức thì phải biết đó gồm 6 ngoại giới như sắc v.v… Nói chính thụ thức thì phải biết đó gồm 6 thức giới như nhãn thức v.v…Do các thức này là gốc, nên các thức khác là sai biệt với thức này.

Giải thích : Câu này muốn nói nghĩa gì vậy ? Muốn làm rõ nghĩa của tính chân thật. Nếu không chắc chắn hiểu rõ tất cả pháp chỉ có thức, thì tính chân thật không thể hiển hiện. Nếu không nói đủ 11 thức thì không nói hết tục đế. Nếu chỉ nói 5 thức trước thì chỉ nói được nghĩa căn bản của tục đế không nói được nghĩa sai biệt của tục đế. Nếu nói tục đế không khắp hết thì không hiểu rõ chân đế. Không hiểu rõ chân đế thì không khiển trừ hết tục đế. Vì vậy nói đủ 11 thức. Gồm chung tục đế là phải 18 giới đủ có căn trần thức. Không phải vậy.

Luận nói : Như các thức đây là chỉ có thức, vì không có trần.

Giải thich : Thức biến đổi tuy có sự tướng trong ngoài không đồng nhau, nhưng thật duy nhất chỉ có thức, không có trần v.v…các thể riêng biệt, cho nên đều lấy thức làm tên. Nếu không có trần, thức này tách rời trần làm sao có thể thụ dụng được sự yêu ghét ?

Luận nói : Ví như chiêm bao. Trong chiêm bao lìa các ngoại trần, chỉ có thức. Các thứ như sắc, thanh, hương, vị, xúc, nhà cửa, núi rừng, đất đai v.v…các trần hiển hiện như thật, nhưng trong đó không một trần nào là thật có.

Giải thích : Trong chiêm bao thấy có các thứ sai biệt nhưng đều không phải thật trần, tất cả đều do thức tạo tác và cũng có nghĩa thụ dụng yêu ghét.

Luận nói : Như ví dụ này phải biết tất cả mọi chỗ mọi nơi đều chỉ có thức. Qua đây phải biết các ví dụ khác cũng vậy, như hiện tượng ảo hóa, con nai khát nước, hoa mắt v.v…Người giác ngộ thấy tất cả trần cảnh mọi chỗ mọi nơi đều chỉ có thức. Ví như cảnh chiêm bao, như người tỉnh giấc chiêm bao hiểu rõ cảnh chiêm bao là chỉ có thức. Vậy tại sao người đang thức lại không biết ?

Không, không phải nghĩa như vậy. Nếu người đã được trí giác chân như, không ai không biết như vậy. Ví như người đang ở trong chiêm bao chưa thức dậy thì không phát sinh sự hiểu biết này. Nếu đã tỉnh giấc rồi mới có sự hiểu biết này. Như vậy nếu người chưa được trí giác chân như thì không có sự giác ngộ này. Nếu đã được trí giác chân như chắc chắn có sự giác ngộ này.

Nếu người chưa được trí giác chân như, đối với lý duy thức làm sao khởi được trí so sánh này ?

Nhờ Thánh giáo và chân lý có thể so sánh được. Thánh giáo là như trong Kinh Thập Địa, Phật Thế Tôn nói : Phật tử ! Ba cõi chỉ có thức.

Lại như trong Kinh Giải Tiết có nói :

Giải thích : Do thí dụ chiêm bao mà biết trong 18 giới mọi chỗ mọi nơi là chỉ có thức không có trần. Vì sao dẫn 2 A-hàm nói rõ Thánh giáo ? Trước là nói đại lược, sau là nói rộng. Tức lấy trước chứng minh cho sau.

Luận nói : Lúc bấy giờ Di-lặc Bồ-tát Ma-ha-tát hỏi Phật :

Thưa Thế Tôn ! Sắc tướng này do tâm trong định duyên cảnh, vậy có khác với tâm hay không khác ?

Giải thích : Chữ “Thị thời” là “Lúc bấy giờ” có 3 nghĩa : 1.bình đẳng thời, nghĩa là không chìm nổi đảo điên, 2.hòa hợp thời, nghĩa là khiến nghe được đúng đắn, 3.chuyển pháp luân thời, nghĩa là chính khi thuyết pháp, chính lúc tiếp nhận thuyết pháp. Sắc tướng nghĩa là 8 nhập trước trong 10 nhất thiết nhập. Sắc tướng này là tướng của định tâm duyên cảnh, là tâm biệt cảnh biệt, là cảnh ấy của tâm ấy.

Luận nói : Phật bảo : Di-lặc ! Không khác với tâm. Bởi vì sao ? Ta nói chỉ có thức. Sắc tướng này do cảnh giới thức biến hiện.

Giải thích : Phật nói chỉ có thức, vì không có trần. Nếu vậy cái sắc mà người tu quán thấy đó là pháp gì ? Như kinh nói sắc tướng này là do cảnh giới thức hiển hiện, thật không có cảnh giới mà là do thức biến đổi ra. Trước nói duy thức, sau nói cảnh giới thức, vậy 2 thức này có gì khác nhau ? Muốn làm rõ 2 phần : một là tương tự năng phân biệt khởi và một là tương tự sở phân biệt khởi.

Luận nói : Bồ-tát Di-lặc nói : Thưa Thế Tôn ! Nếu sắc tướng của cảnh giới trong định không khác với định tâm thì tại sao thức ấy lấy thức ấy làm cảnh ?

Giải thích : Nếu có một thức riêng làm thức cảnh thì không thành nghĩa duy thức. Và nếu duyên tự thể làm cảnh, việc ấy cũng không thành vì thế gian không có loại như thế.

Luận nói : Phật bảo : Di-lặc ! Không có pháp nào có thể thủ lấy các pháp khác. Tuy không thể thủ lấy, nhưng thức này biến hiện sinh ra như trần cảnh.

Giải thích : Thức này sinh ra tướng mạo như thế. Ở trong định khởi 2 tướng. Một là do tướng năng thủ khởi không như nhau. Hai là tướng sở thủ khởi không như nhau. Hai tướng này đều từ một thức hiển hiện đồng thời. Sắc tướng màu xanh này v.v…là cảnh trong định, không phải cảnh của ức trì thức, nghĩa là cảnh do thức nhớ lại, do đó sắc này không ở một nơi nào nhất định. Như trước chứng biết, sau nhớ lại ? Không có nghĩa này ! Trần khởi thì hiển hiện trước mắt rõ ràng. Cái ức trì thức này có nhiễm ô. Còn định cảnh này khởi thì trước mắt thấy rõ ràng thanh tịnh. Nếu ông nói 2 cảnh nghe và suy nghĩ thường xuyên huân tập, nay cảnh ấy đã qua suy nghĩ trở lại, như cái gì xưa trông thấy nay thấy trở lại. Nghĩa ấy không đúng. Bởi vì sao ? Hai cảnh nghe và suy nghĩ là 2 cảnh của quá khứ nên hiện nay nó là phi hữu. Cái phi hữu đó nếu khởi lên tương tự như xưa thì không phải là cái xưa đã trông thấy. Điều đó lại càng làm rõ ràng thêm lý duy thức. Như thế là đã thành nghĩa duy thức và nghĩa trần cảnh là không thật có.

Luận nói : Ví như đối mặt trong gương, trông thấy mặt mình. Nghĩa là ta thấy cái bóng hiển hiện tựa như một gương mặt khác.

Giải thích : Thí dụ này nói chỉ có cái mặt mình thôi, không có hình ảnh nào khác. Bởi vì sao ? Các pháp hòa hợp đạo lý khó thể nghĩ bàn. Không thể thấy một pháp nào rồi nay thấy lại được. Như bóng dưới nước trong gương v.v…thật chẳng có pháp nào khác, thấy lại cái mặt của mình gọi là hình ảnh khác đó thôi.

Luận nói : Tâm trong định cũng vậy, hiển hiện tựa như trần cảnh, gọi là định tâm khác.

Giải thích : Định tâm có 2 phần, một phần tựa như thức, một phần tựa như trần. Hai thứ này thật sự chỉ là thức.

Luận nói : Do đó A-hàm và các đạo lý lập thành, làm rõ nghĩa duy thức.

Giải thích : A-hàm tức 2 kinh đã nói ở trước. Các đạo lý tức nói về cái thức ức trì, sắc trong quá khứ và thí dụ cái bóng của gương mặt v.v…đều làm rõ nghĩa duy thức.

Luận nói : Tại sao như vậy ?

Giải thích : Đây hỏi vì sao nói chỉ có thức.

Luận nói : Lúc bấy giờ chính trong tâm người tu quán, nếu thấy các màu xanh vàng v.v…các sắc tướng biến khắp, tức thấy tự tâm mình không thấy các cảnh sắc xanh vàng nào khác.

Giải thích : Nếu tán tâm, 5 thức làm sao nói duyên ngoại trần hiện tại khởi. Nếu tán tâm là ý thức duyên trần quá khứ khởi. Nếu trong tu quán thì không được duyên ngoại sắc làm cảnh, sắc hiện tiền cũng chẳng phải duyên cảnh quá khứ. Phải biết rằng định tâm duyên sắc tức thấy tự tâm không thấy cảnh nào khác.

Luận nói : Do đạo lý này, trong tất cả các thức, Bồ-tát đối với lý duy thức cũng phải so sánh mà biết như vậy. Đối với cái thức nhận biết xanh vàng v.v…không phải ức trì thức, vì đây là thấy cảnh hiện tiền. Đối với cái ý thức duy trì và hồi ức của hai trường hợp nghe và suy nghĩ, thức này duyên cảnh quá khứ, cảnh tương tự quá khứ hiện khởi. Nên được thành nghĩa duy thức. Do đây so sánh biết rằng nếu Bồ-tát chưa được trí giác chân như, nhờ nghĩa duy thức nảy sinh được trí so sánh.

Giải thích : Trước nói rõ 11 thức. Nói chung 18 giới. Trong 18 giới có căn có trần. Bồ-tát đối với nghĩa duy thức nên quán các sắc trong định đã không có cảnh nào khác, đem các sắc trong định so sánh với các sắc ngoài định cũng phải biết là không có cảnh nào khác.

Luận nói : Như trước đã nói các thức,

Giải thích : Trước đã nói đủ 11 thức. Nay muốn nêu câu hỏi nên trước phải làm rõ 11 thức trước đã nói.

Luận nói : ví với ảo hóa, chiêm bao v.v…Trong đó các thức như nhãn thức v.v…thành được nghĩa duy thức.

Giải thích : Trước nêu sự ảo hóa v.v…để ví cho sự không có căn, trần riêng khác. Nay muốn hỏi duy thức có thành hay không thành. Cho nên phải dẫn cái thí dụ trước đã nêu. Trong 11 thức đủ 18 giới. Trước nói rõ chính thụ thức tức 6 thức giới có thể nói nghĩa duy thức.

Luận nói : Nhãn, sắc v.v…là các thức có sắc làm sao thấy nghĩa duy thức được ?

Giải thích : Câu này ý hỏi là 10 giới khác không nên nói chỉ có thức. Trước nói thân thức tức 5 căn. Nghĩa là nhãn thức cho đến thân thức. Trước nói ứng thụ thức tức 5 trần. Nghĩa là sắc thức cho đến xúc thức. Cho nên nói nhãn, sắc v.v… các thức. Có sắc có 3 nghĩa : một là khi nhãn thức chưa sinh khởi, trước đã có sắc rồi, hai là thức biến đổi là sắc cũng là có sắc, ba là do cảnh có sắc nhãn thức tựa như sắc khởi gọi là liễu biệt sắc. Nếu cảnh không có sắc thì lấy cái gì liễu biệt ? Chắc là 10 giới này không thành nghĩa duy thức.

Luận nói : Các thức này do A-hàm và các đạo lý như trước đã nói, cần phải biết.

Giải thích : Đây là đáp câu hỏi trước. Do trước đã dẫn 2 kinh và các thí dụ, nên hiểu như thế.

Luận nói : Nếu sắc là thức thì sao hiển hiện tương tự sắc ?

Giải thích : Ý câu này hỏi nếu không có sắc trần riêng biệt mà chỉ là bản thức thì sao hiển hiện tựa như sắc v.v…?

Luận nói : Làm sao tương tục kiên trụ trước sau tương tự ?

Giải thích : Ý câu này hỏi nếu là do thức biến thì chợt sinh khởi chợt biến mất, chuyển đổi không nhất định, làm sao một sắc liên tục trụ lâu dài nhiều thời gian ? Trước sau một loại không chuyển đổi cho nên biết là có sắc riêng biệt.

Luận nói : Do nương dựa các phiển não điên đảo.

Giải thích : Điên đảo là căn bản của phiền não. Do thức biến, khởi các phân biệt. Phân biệt tức là điên đảo. Điên đảo cho nên sinh các phiền não tương ưng với tính y tha và tính phân biệt, tức là chỗ nương tựa của phiền não điên đảo. Do phiền não điên đảo khiến tính y tha cùng tính phân biệt tương ưng. Phiền não điên đảo cũng là nơi nương tựa cho thức biến.

Luận nói : Nếu không như vậy sẽ không thành nghĩa điên đảo.

Giải thích : Nếu không có nghĩa nương tựa nhau thì thức không biến được. Đối với không phải vật mà phân biệt là vật, không nên có điên đảo này.

Luận nói : Nếu không có nghĩa điên đảo thì không có hai thứ phiền não là hoặc chướng và trí chướng.

Giải thích : Nếu thức không biến đổi phân biệt phi nghĩa làm nghĩa thì lẽ nào có điên đảo. Nếu không điên đảo thì không sinh phiền não. Nếu không phiền não thì Thanh Văn không có giải thoát chướng, Bồ-tát không có nhất thiết trí chướng.

Luận nói : Nếu không có hai chướng thì cũng không có phẩm thanh tịnh. Cho nên phải tin các thức sinh khởi như vậy là thật.

Giải thích : Nếu không có phiền não lẽ nào có Phật đạo. Nên nghĩa này cũng không thành. Vì vậy phải tin rằng tách rời thức không có một pháp nào riêng khác.

Luận nói : Trong đây có bài kệ như sau :

Loạn nhân và loạn thể

Sắc thức, vô sắc thức.

Nếu thức trước không có,

Thức sau không sinh được.

Giải thích : Trong không chấp có gọi là loạn. Loạn thức này nhân pháp nào sinh ? Nhân sắc thức sinh. Cái gì là sắc thức ? Nếu nói thì có 5 thức. Năm căn năm trần gọi là sắc thức. Sắc thức này có thể sinh nhãn thức v.v…Biết sắc thức này tức là loạn nhân, nếu thức này không khởi thì không có trong không mà chấp có. Pháp gì là loạn thể ? Là vô sắc thức. Nếu nói thì có 5 căn tức là 5 thức. Ý căn chỉ là ý thức, không phải pháp thức. Pháp thức và sắc thức, vô sắc thức đều là loạn nhân.

Luận nói : “Nếu thức trước không có, Thức sau không sinh được.”

Giải thích : Thức trước là loạn nhân, nếu gốc không có thì loạn thể là quả tức thức sau không nhân không sinh được.

Chương 2 :Sai biệt

Luận nói : Vì sao thân thức, thân giả thức, thụ giả thức, ứng thụ thức, chính thụ thức phối hợp chặt chẽ sinh trong tất cả mọi chỗ mọi nơi sinh ?

Giải thích : Năm thức này tức 18 giới sinh trong tất cả mọi chỗ mọi nơi trong 3 cõi 6 đường 4 loài sinh. Mười tám thứ này làm sao có thể phối hợp chặt chẽ nhau sinh ?

Luận nói : Vì thể hiện đầy đủ sự thụ sinh.

Giải thích : Ở tất cả nơi sinh, trong một sát-na có đầy đủ 18 giới. Mười tám giới đã không tách rời nhau, có thể làm nhân hiển thị và phối hợp chặt chẽ nhau sinh khởi. Lại căn, trần, thức là không tách rời nhau, không có một sự thụ sinh nào có căn mà không trần và thức thụ. Hai cái kia cũng vậy. Thụ một tức đủ 2 cái kia. Dùng 2 cái kia làm rõ một cái này. Vì không tách rời nhau nên cùng nhau phối hợp chặt chẽ sinh.

Luận nói : Vì sao thế thức v.v…, như trước nói có sinh nhiều thứ sai biệt ?

Giải thích : Đây lại hỏi về 5 thức trước. Tức 18 giới đã bao gồm hết các pháp, cần gì lại nói sinh 6 thức sau ?

Luận nói : Vì từ vô thủy sinh tử tương tục không dứt.

Giải thích : Vì để nói rõ quả báo của chúng sinh từ vô thủy đến nay trong 3 đời sinh tử nối tiếp nhau không dứt, nên phải lập thế thức.

Luận nói : Vì gồm thâu vô lượng chúng sinh giới.

Giải thích : Vì để nói rõ quả báo của chúng sinh trong các giới có nhiều ít không đồng nhau. Như 4 giới, 6 giới, 18 giới v.v…nên phải lập số thức để gồm thâu tất cả số.

Luận nói : Vì gồm thâu vô lượng khí thế giới.

Giải thích : Vì để nói rõ nơi ở của chúng sinh, như nhân, thiên, ác đạo có vô lượng sai biệt, nên phải lập xứ thức để gồm thâu tất cả chỗ nơi.

Luận nói : Vì gồm thâu vô lượng tác nghiệp, và lại cùng hiển thị những gì đã gồm thâu.

Giải thích : Vì để nói rõ cái nói thấy, nghe, hay, biết, mỗi mỗi đều có nhiều nhân. Đây có vô lượng ngôn thuyết, tác sự ngôn thuyết cùng với cái thấy v.v…cùng nhau hiển thị, nên phải lập ngôn thuyết thức để gồm thâu tất cả ngôn thuyết.

Luận nói : Vì gồm thâu vô lượng nhiếp và vô lượng thụ dụng sai biệt.

Giải thích : Nói về thâu nhiếp có tự tha nhiếp. Thụ dụng có tự tha sở thụ dụng. Vì muốn nói rõ chúng sinh mỗi mỗi chấp ngã có nhiều thứ, ngã sở cũng vậy, nên phải lập tự tha sai biệt thức để gồm thâu tất cả tự tha sai biệt.

Luận nói : Vì gồm thâu quả báo của vô lượng nghiệp thụ dụng yêu ghét.

Giải thích : Quả của thiện nghiệp thì yêu thích. Quả của ác nghiệp thì chán ghét. Chúng sinh thụ dụng quả của 2 nghiệp này có vô lượng chủng loại.

Luận nói : Vì gồm thâu vô lượng sai biệt trong sinh tử chứng đắc.

Giải thích : Trong 2 quả này có sinh có tử. Mới thụ là sinh, sau sinh tiếp tục là đắc, sắp chết là chứng, mạng sống chấm dứt là chết. Để nói rõ chúng sinh thụ dụng quả của 2 nghiệp có sinh có tử, bao gồm tất cả 2 đường sinh tử thiện ác.

Luận nói : Làm sao nói rõ đúng các thức như thế này để thành nghĩa duy thức ?

Giải thích : Trước nói nghĩa 5 thức đã thành duy thức, sau nói 6 thức sao cũng khiến thành duy thức ?

Luận nói : Nếu nói sơ lược thì có 3 tướng : Các thức là thành duy thức.

Giải thích : Sáu thức này nếu an lập để thành duy thức thì có 3 đạo lý. Đạo lý đó là 3 tướng. Một là nhập vào duy lượng, hai là nhập vào chỉ có hai, ba là nhập vào các chủng loại. Chữ nhập có nghĩa là thông đạt. Thế nào là nhập vào duy lượng ?

Luận nói : Chỉ có thức lượng.

Giải thích : Trong 6 thức, nếu đúng như lý nghiên cứu tìm hiểu thì chỉ thấy có thức, không thấy có các pháp khác. Bởi vì sao ?

Luận nói : Vì ngoại trần là vô sở hữu.

Giải thích : Vì các pháp tách rời thức thì thật sự không có gì cả, nên nói 6 thức chỉ có thức lượng. Sao gọi là nhập vào chỉ có hai ?

Luận nói : Chỉ có 2 tức là tướng phần và kiến phần thâu nhiếp trong thức.

Giải thích : Nếu có thể thông đạt 6 thức như thế thức v.v…, một phần thành tướng, một phần thành kiến, gọi là nhập vào chỉ có 2. Nghĩa này như thế nào ? Trong các thức, tùy một thức một phần biến thành các tướng như sắc v.v…, một phần biến thành kiến, nên nói là chỉ có 2. Do 6 thức như thế thức v.v…không ra ngoài 2 tính này của thức cho nên nói chỉ thâu nhiếp có 2. Thế nào là nhập vào các chủng loại ?

Luận nói : Do tất cả các tướng sinh khởi đều được gồm thâu trong thức.

Nghĩa này là thế nào ?

Vì tất cả là thức không có ngoại trần, thành ra chỉ có thức. Các thức có tướng và có kiến như nhãn v.v…lấy sắc v.v…làm tướng. Nhãn v.v…các thức lấy các thức làm kiến. Ý thức lấy tất cả nhãn thức cho đến pháp thức làm tướng. Ý thức lấy ý thức làm kiến.

Vì sao như thế ?

Vì ý thức có thể phân biệt nên tựa như tất cả thức trần phân biệt sinh khởi.

Giải thích : Là một nhãn thức, nếu như phân thành thì một phần có thể sinh khởi các chủng tướng, một phần có thể thủ lấy các chủng tướng. Cái năng thủ gọi là kiến. Nếu ý thức thủ ý thức thì tất cả nhãn thức v.v… và pháp thức là tướng. Ý thức là năng kiến, vì duyên cảnh bất định. Ngoài ra các thức khác thì duyên một loại trần nhất định, không thể phân biệt. Có khả năng phân biệt thì thành kiến. Không có khả năng phân biệt thì thành tướng. Do đó mà 3 tướng thành lập. Sáu thức như thế thức v.v…là duy thức, nghĩa này đã rõ.

Luận nói : Trong đây có bài kệ như sau :

Nhập duy lượng, chỉ hai,

Người nói có nhiều thứ.

Khi thông đạt duy thức,

Và phục ly thức vị.

Giải thích : Bài kệ này nói rõ 3 nghĩa thông đạt duy thức. Một là thông đạt duy lượng vì ngoại trần thật sự là vô sở hữu. Hai là thông đạt duy thức chỉ có 2 là tướng và kiến. Ba là thông đạt các thứ sắc sinh. Chỉ có các thứ tướng mạo mà không có thể riêng khác. Người nào có thể thông đạt 3 tướng này ? Chỉ người tu quán. Người tu quán tự có 2 loại, một là nhập kiến vị Bồ-tát, hai là được 4 không định v.v…Người tu quán trước tự mình thông đạt sau vì người khác giảng nói. Địa vị nào được sự thông đạt và giảng nói này ?

Luận nói : ”Khi thông đạt duy thức, Và phục ly thức vị.”

Giải thích : Từ sơ địa cho đến chính giác địa là thông đạt duy thức vị. Từ không xứ cho đến phi tưởng phi phi tưởng, vô tưởng định, diệt tâm định là phục ly thức vị. Nếu không có trần sở thủ làm sao nói thức là năng thủ ? Như vậy là nghĩa duy lượng bất thành ! Không phải nghĩa như vậy. Bởi vì sao ? Vì nghĩa duy thức không mất, cũng chẳng phải không có nghĩa năng thủ sở thủ. Để lập nghĩa này nên nói rõ 3 tướng nhập. Duy lượng là để nói rõ chỉ có thức không có ngoại trần. Sở thức đã không, làm sao thành duy thức ? Để lập nghĩa này nên nói chỉ 2 và các thứ. Chỉ 2 tức tướng và kiến. Tướng là sở thủ. Kiến là năng thủ. Nhiều thứ cũng vậy. Vì vậy ắt thành nghĩa duy thức và năng thủ sở thủ. Nửa sau bài kệ cũng giải thích như trước.

Luận nói : Các sư nói về ý thức này, tùy theo các chỗ sở y sinh khởi mà có nhiều tên.

Giải thích : Các sư là nói các Bồ-tát thành lập một ý thức lần lượt sinh khởi. Ý thức tuy một, nhưng nếu y chỉ nhãn căn sinh thì được tên là nhãn thức. Cho đến y chỉ thân căn sinh có tên là thân thức. Trong đó không có thức nào ngoài khác với ý thức. Lìa thức A-lê-da, bản thức này nhập vào ý thức. Vì đồng loại nên ý thức này do y chỉ mà được biệt danh.

Luận nói : Ví như tạo ý nghiệp, được các tên thân nghiệp, khẩu nghiệp v.v….

Giải thích : Tạo ý nghiệp này tuy là một, nhưng nếu y thân khởi thì gọi thân nghiệp, nếu y khẩu khởi thì gọi khẩu nghiệp. Ý thức cũng vậy. Tùy nơi y chỉ mà có tên riêng. Nếu có người nói nhãn v.v… 5 căn là vô phân biệt, nếu ý thức y chỉ đó sinh thì cũng vô phân biệt. Ví như y chỉ ý căn, bị hoặc nhiễm ô là do chỗ sở y chỉ có nhiễm ô, khi sinh năng y chỉ thức cũng có nhiễm ô. Ý thức cũng vậy.

Luận nói : Thức này sinh ở tất cả nơi y chỉ.

Giải thích : Nghĩa là y chỉ nhãn v.v… các căn sinh.

Luận nói : Các thứ tướng mạo, hiển hiện tựa như 2 pháp, một là hiển hiện tựa như trần, hai là hiển hiện tựa phân biệt.

Giải thích : Ý thức y 6 căn sinh, hiển hiện tựa 2 pháp, một là pháp nhiều loại, hai là pháp một loại. Pháp nhiều loại này thuộc trần. Pháp một loại là phân biệt thuộc kiến. Do 2 câu này, thức tuy một pháp nhưng một phần tựa trần hiển hiện, một phần tựa trần hiển hiện. Vì vậy thuyết nói ở trước không có lỗi.

Luận nói : Ở mọi chỗ mọi nơi hiển hiện tựa như xúc.

Giải thích : Nói mọi chỗ mọi nơi tức nơi có sắc, nơi có sắc tức có thân, nếu có thân ắt tựa xúc hiển hiện.

Luận nói : Nếu ở cõi có hình sắc thì ý thức y nơi thân sinh.

Giải thích : Vì sao nơi có thân ắt tựa như xúc ? Vì ý thức phải y nơi thân sinh nên tựa xúc hiển hiện. Do ý thức này y thân tựa như xúc sinh. Chính khi người tu quán nhập quán, tuy 5 thức không khởi nhưng trong đó sắc thân có thụ sinh hỷ lạc.

Luận nói : Ví như các căn có hình sắc thì y nơi thân mà sinh.

Giải thích : Các căn có hình sắc như nhãn v.v… các căn khác với sắc thân y chỉ nơi thân. Do các căn y chỉ nơi thân mà các căn này đối với thân có tổn hại hoặc tăng ích. Ý thức cũng vậy, vì y chỉ nơi thân nên tựa xúc hiển hiện, đối với thân có tổn ích. Lại nữa ví như thân căn y chỉ nơi thân, nếu có xúc duyên bên ngoài, thân căn tựa xúc khởi. Nếu tựa xúc khởi thì trong tự y chỉ hoặc tổn hoặc ích. Ý thức cũng vậy, vì y chỉ nơi thân nên tựa xúc khởi.

Luận nói : Trong đây có bài kệ như sau :

Giải thích : Chư Bồ-tát nói chỉ có ý thức không có 5 thức riêng khác, cho nên dẫn bài kệ trong Kinh Pháp Túc để xác lập nghĩa này.

Luận nói :

Đi xa, đi một mình,

Không thân, trú hang rỗng.

Điều phục khó điều phục,

Thoát trói buộc của ma.

Giải thích : Năng duyên tất cả cảnh giới gọi là đi xa. Không có thức thứ hai nên gọi là đi một mình. Không thân có 2 nghĩa, một là không sắc thân, hai là không sinh thân. Trong thân gọi là hang rỗng. Thức ở trong thân nên gọi trú hang rỗng. Trong nhị ngũ tạng, tâm tạng giữa có lỗ, ý thức ở trong lỗ hỗng đó nên gọi là trú hang rỗng. Ba là các pháp thật sự vô sở hữu mà chấp là hữu. Thức ở trong chỗ vô sở hữu đó nên gọi là trú hang rỗng. Xưa nay phiền não xấu ác làm nhân nên gọi là khó điều phục. Nếu người có thể điều phục được thức này khiến không tùy thuận theo hoặc nghiệp, được tự tại gọi là điều phục. Hoặc chướng trong 3 cõi là các trói buộc của ma. Người này điều phục được cái khó điều phục thì được giải thoát. Lại có những chỗ khác Phật dạy để chứng minh nghĩa này.

Luận nói : Như kinh nói cảnh giới sở duyên của 5 căn như mắt v.v…, tất cả cảnh giới, ý thức đều có thể thủ, có thể phân biệt, ý thức là nhân phát sinh ra chúng.

Giải thích : Cảnh sở duyên của 5 căn này như sắc v.v…, nếu thức có thể duyên sắc thì lập làm nhãn thức. Mỗi mỗi cảnh ý thức đều có thể thủ, lại có thể phân biệt, cho nên 5 thức vô dụng. Lại nữa ý thức nếu loạn các thức như nhãn v.v…thì không sinh. Do ý thức biến khác sinh nhãn v.v… các căn và thức, cho nên ý thức là sinh nhân của chúng.

Luận nói : Lại có thuyết khác phân biệt nói trong 12 nhập 6 thức tụ gọi là ý nhập.

Giải thích : Đây lại dẫn lời Phật dạy chứng minh chỉ có ý thức, không có thức nào khác. Trong kinh Như Lai phân biệt 12 nhập, hợp 6 thức tụ làm ý nhập. Do 3 nghĩa này nên biết chỉ có ý thức không có thức nào khác.

Luận nói : Nơi đó an lập bản thức làm nghĩa thức. Trong đây nhất thiết thức được gọi là tướng thức, ý thức và y chỉ thức gọi là kiến thức. Bởi vì sao ? Vì tướng thức này là sinh nhân của kiến phần, hiển hiện tựa như trần, làm kiến phần sinh y chỉ.

Giải thích : Bản thức này trong 2 thức có thể an lập làm tướng thức và kiến thức, không phải an lập bản thức làm trần thức. Trong đây nhất thiết thức gọi là tướng thức. Bản thức có thể an lập ở 2 thức tướng và kiến. Bản thức này lấy ý thức và y chỉ thức làm kiến thức, lấy thức của nhãn thức v.v… và tất cả pháp làm tướng thức. Vì sinh nhân này do duyên các duyên nên trong đó là sinh nhân của kiến. Trong pháp là kiến, hiển hiện tựa trần, cho nên nhân của kiến tướng của ý thức trụ liên tục không dứt làm y chỉ cho thức này.

Luận nói : Các thức thành lập duy thức như vậy.

Làm sao biết các trần hiển hiện là chẳng phải thật có ?

Như Phật nói nếu Bồ-tát tương ưng với 4 pháp có thể tìm thấy, có thể ngộ nhập tất cả là thức không có trần.

Giải thích : Bốn pháp là trí. Nếu Bồ-tát tương ưng với 4 trí thì trong phương tiện có thể tìm ra lý, hiểu được đúng đắn và có thể ngộ nhập lý. Cho nên biết tất cả là duy thức không trần.

Luận nói : Bốn pháp là những gì ?

Một là biết thức tướng trái nhau. Ví như ngạ quỷ, súc sinh, người, trời cùng ở trong một cảnh giới nhưng do kiến thức khác nhau.

Giải thích : Ở trong một cảnh giới, phân biệt không đồng nên gọi là trái nhau. Trái nhau cảnh của thức gọi là tướng. Cảnh này chẳng thật có, chỉ ndo thức biến nên phân biệt không đồng. Nếu Bồ-tát thông đạt lý này thì hiểu duy thức nên gọi là trí.

Luận nói : Hai là do cái thức thấy cảnh giới không có thật, ví như ảnh trần của quá khứ, vị lai hay trong chiêm bao.

Giải thích : Có lúc cái kiến tách rời cảnh giới mà sinh được thức. Ví như cái thức của cảnh quá khứ v.v…

Luận nói : Ba là do biết lìa công dụng mà không điên đảo nên thành. Ví như thật có trong trần, duyên trần khởi thức, sẽ không điên đảo nếu không dụng công, vì biết như thật.

Giải thích : Bồ-tát hiểu như thế này. Nếu tràn thật có như hiển hiện thì lìa bỏ việc tu đối trị cũng tự nhiên thành trí không điên đảo. Do biết như thật nên đã không có nghĩa này. Cho nên biết thật chẳng có trần. Chỉ vì trong cái không, chấp là có nên thành điên đảo.

Luận nói : Bốn là do biết nghĩa tùy thuận 3 tuệ.

Giải thích : Tất cả nghĩa của trần đều tùy theo 3 tuệ. Bồ-tát có thể hiểu như thế.

Luận nói : Như thế là thế nào ?

Giải thích : Thế nào là tất cả nghĩa tùy theo 3 tuệ.

Luận nói : Tất cả Thánh nhân nhập quán,

Giải thích : Thánh nhân là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát. Các Thánh nhân này khi đang trong định gọi là nhập quán.

Luận nói : tâm được tự tại.

Giải thích : Đã được tâm tùy sự thành, gọi là trong nhập trụ xuất vị.

Luận nói : Vì do nguyện muốn tự tại.

Giải thích : Nếu như muốn, các trần đều biến theo ý muốn.

Luận nói : Như muốn các trần hiển hiện.

Giải thích : Như muốn khiến địa giới thành thủy giới thì sẽ thành như ý muốn. Hỏa giới v.v… cũng vậy.

Luận nói : Nếu người tu quán đã được Xa-ma-tha,

Giải thích : Người tu quán có 2 loại : một là được tư duy đúng đắn, hai là được tu tập đúng đắn. Nay nói về người được chính tu.

Luận nói : theo pháp quán gia hành,

Giải thích : Pháp là nói Tu-đa-la v.v… 12 bộ kinh. Y theo 12 bộ kinh nói rõ pháp tướng, tu hành thành thục Tì-bà-xá-na.

Luận nói : thì tùy theo tư duy mà nghĩa hiển hiện.

Giải thích : Một trong 5 ấm, tùy tâm tư duy, hoặc hiển hiện như bất tịnh, khổ, vô thường, không, vô ngã v.v…cho đến 16 đế tướng đều tùy theo tư duy hiển hiện, tướng của các pháp khác cũng vậy.

Luận nói : Nếu người được trí vô phân biệt, chưa xuất quán vô phân biệt, thì tất cả trần không hiển hiện, do nghĩa các cảnh giới v.v…tùy thuận 3 tuệ. Do dẫn chứng trước mà thành tựu nghĩa duy thức. Cho nên biết chỉ có thức không có trần cảnh. Trong đây có 6 bài kệ làm rõ lại nghĩa trước. Kệ này sau y vào trí học sẽ phân biệt nói rộng. Nghĩa là như ngạ quỷ, súc sinh, nhân, thiên v.v…

Giải thích : Nếu Bồ-tát đã được trí vô phân biệt mà trong quán nếu trần hiển hiện như thật hữu thì không thành trí vô phân biệt. Đã thật có trí vô phân biệt thì không có lý đó.

Chương 3 : Phân biệt

Luận nói : Nếu duy thức tựa trần hiển hiện y chỉ, gọi là tính y tha thì thành y tha như thế nào ? Nhân duyên gì gọi là y tha ?

Giải thích : Rời trần chỉ có thức, thức này có thể biến hiện tựa như trần. Thể tướng và công năng như vậy, loạn thức gọi là tính y tha. Chỉ thấy loạn thức có tự thể, không thấy có cái khác. Làm sao lập thức này là tính y tha ? Vì sao nói thức này là tính y tha ?

Luận nói : Vì từ tự chủng tử huân tập sinh ra, trói buộc vào nhân duyên không được tự tại. Nếu sinh ra mà không có công năng gì, thì một sát-na sau sẽ tự tồn tại, nên gọi là y tha.

Giải thích : Do nhân của chính nó sinh ra. Sau khi sinh không tự có năng lực dừng trụ thì qua một sát-na sẽ tự thủ, có thuyết gọi đó là tính y tha.

Luận nói : Nếu tính phân biệt y chỉ vào y tha, thì thật không có tựa như trần hiển hiện. Làm sao thành phân biệt ? Vì nhân duyên gì nói là phân biệt ?

Giải thích : Câu hỏi này có 3 điểm : Một là hỏi về y chỉ. Tính phân biệt này đã y chỉ vào y tha thì phải thành tính y tha, sao gọi là phân biệt ? Tiếp đến hỏi về vô sở hữu. Cái phân biệt này đã thật là vô sở hữu thì trong cái vô sở hữu có gì là phân biệt ? Câu hỏi sau là về tựa như trần. Cái phân biệt này đã tựa như trần hiển hiện thì sao gọi là phân biệt ? Vì nhân duyên gì gọi là tính phân biệt ?

Luận nói : Ý thức phân biệt vô lượng tướng mạo, điên đảo sinh nhân, nên thành phân biệt.

Giải thích : Tướng mạo của tất cả trần cảnh, phân biệt như thế gọi là ý thức. Ý thức điên đảo sinh ra cảnh giới gọi là sinh nhân. Do đạo lý đó mà thành phân biệt.

Luận nói : Vì chỉ thấy phân biệt, mà không có tự tướng, nên gọi là phân biệt.

Giải thích : Tự thể đã không có chỉ thấy loạn thức nên gọi phân biệt.

Luận nói : Nếu là tính chân thật thì tính phân biệt vĩnh viễn không có cái gì làm tướng, làm sao thành chân thật ? Vì nhân duyên gì nói là chân thật ?

Giải thích : Tính phân biệt đối với tính y tha vĩnh viễn một phần cũng không có. Nếu lấy vô sở hữu làm tướng, sao lập làm thành thật không lập làm phi chân thật ? Cũng nói như thế thôi.

Luận nói : Do như, không có gì là không như, nên thành chân thật,

Giải thích : Ba nghĩa dưới đây giải đáp 2 câu hỏi. Đây là thứ nhất, lấy nghĩa không trái nhau hiển thị chân thật. Như thế gian nói người bạn chân thật.

Luận nói : Do thành tựu cảnh giới thanh tịnh.

Giải thích : Đây là thứ hai, lấy nghĩa không điên đảo hiển thị chân thật. Do cảnh giới không điên đảo nên được 4 thứ thanh tịnh. Như thế gian nói vật chân thật.

Luận nói : Do vượt trội hơn tất cả thiện pháp.

Giải thích : Đây là thứ ba, lấy nghĩa vô phân biệt hiển thị chân thật. Tức 5 thứ không phân biệt, Nghĩa là 5 thứ chân thật. Như thế gian nói hạnh chân thật.

Luận nói : Thành tựu thắng nghĩa, nên gọi là chân thật.

Giải thích : Đối với 3 việc thù thắng trên không hỏng mất nên nói là thành tựu. Do thành tựu nên là chân thật.

Luận nói : Lại nữa, nếu có cái phân biệt và cái bị phân biệt thì thành tính phân biệt.

Giải thích : Muốn hỏi nghĩa 3 thứ phân biệt này nên trước liệt kê tên 3 phân biệt này.

Luận nói : Trong đây pháp nào là phân biệt, pháp nào là bị phân biệt và pháp nào là tính phân biệt ?

Giải thích : Hỏi riêng từng thứ một để tìm tướng khác nhau.

Luận nói : Ý thức là phân biệt. Vì đủ 3 thứ phân biệt.

Giải thích : Dưới đây giải đáp 3 câu hỏi. Đây là trả lời câu thứ nhất. Trong 6 thức chỉ lấy ý thức là phân biệt. Vì ý thức đầy đủ 3 phân biệt là tự tính, duy trì hồi ức và hiển thị. Năm thức không có như vậy.

Luận nói : Bởi vì sao ?

Giải thích : Bởi vì sao ? Ý thức đủ 3 phân biệt.

Luận nói : Vì thức này tự danh ngôn huân tập làm chủng tử,

Giải thích : Như nói tên căn trần thường huân tập đây gọi là huân tập nơi bản thức làm chủng tử. Do chủng tử này ý thức sau đó tựa căn, tựa trần mà khởi, gọi là sắc thức, tự có 2 nghĩa. Một như nhãn gọi là huân tập chỉ sinh nhãn không sinh các pháp khác. Các huân tập khác cũng vậy, cho nên gọi là tự. Hai là vốn không có pháp thể. Danh ngôn là tự phân biệt tạo ra nên gọi là tự.

Luận nói : và tất cả thức, danh ngôn huân tập làm chủng tử,

Giải thích : Như nói tên 6 thức huân tập đây là huân tập vào bản thức làm chủng tử. Do chủng tử này, ý thức sau đó tựa 6 thức mà khởi gọi là thức của thức.

Luận nói : cho nên đây sinh.

Giải thích : Do 2 thứ chủng tử huân tập nên ý thức này được sinh.

Luận nói : Do vô biên phân biệt, mà tất cả mọi chỗ mọi nơi phân biệt.

Giải thích : Ý thức biến do 2 thứ chủng tử này, phân biệt thành vô số công năng nên tựa như tất cả cảnh giới khởi.

Luận nói : Chỉ gọi là phân biệt nên có tên là phân biệt.

Giải thích : Do nghĩa này mà chỉ ý thức gọi là phân biệt. Trong 3 thứ phân biệt gọi ý thức là phân biệt.

Luận nói : Cái y tha này chỉ là cái bị phân biệt.

Giải thích : Dưới đây trả lời câu hỏi thứ hai. Sở phân biệt tất cả pháp, thức không có biệt thể, nên lấy y tha làm sở phân biệt.

Luận nói : Chính nó là cái nhân làm cho tính y tha thành cái bị phân biệt.

Giải thích : Nếu không nhờ nhân thì tính y tha không thành. Nếu không có tính y tha thì không có sở phân biệt. Do 6 thứ nhân làm thành tính y tha nên được lấy tính y tha làm sở phân biệt.

Luận nói : Trong đây gọi là tính phân biệt.

Giải thích : Trong đây thành nhân của tính y tha và nói cái nhân này là tính phân biệt.

Luận nói : Tính y tha này chỉ như là tướng của vạn vật, làm sao phân biệt có thể suy tính lượng đạc ?

Giải thích : Dưới đây trả lời câu hỏi thứ ba. Trước hỏi lại, sau lần lượt đáp. Câu này trước hỏi chung. Vì sao ý thức do phân biệt có thể suy tính đo lường tính y tha này chỉ như tướng mạo vạn vật, không phải chỉ như tướng mạo của một vật ?

Luận nói : Duyên cảnh giới gì ?

Giải thích : Dưới đây nêu riêng biệt 6 nhân làm câu hỏi. Duyên pháp gì làm cảnh giới mà suy lường kế đạc tính y tha ?

Luận nói : Chấp tướng mạo gì ?

Giải thích : Chấp tướng mạo gì mà suy lường kế đạc tính y tha ?

Luận nói : Làm sao quan sát thấy ?

Giải thích : Trước dùng phương tiện gì suy tìm, sau mới quyết đoán kế đạc tính y tha ?

Luận nói : Duyên khởi như thế nào ?

Giải thích : Nhờ duyên gì phát khởi kế đạc tính y tha ?

Luận nói : Ngôn luận thế nào ?

Giải thích : Dùng ngôn luận thế nào kế đạc tính y tha ?

Luận nói : Làm sao tăng ích ?

Giải thích : Làm sao trong không chấp có kế đạc tính y tha ? Ý thức là phân biệt. Y tha là sở phân biệt. Do 6 nhân này ý thức có thể phân biệt tính y tha, nay sẽ nói rõ nghĩa này.

Luận nói : Do các cảnh giới như danh v.v…

Giải thích : Do tính y tha lìa tất cả phân biệt, vô phân biệt là thể cho nên lập danh v.v…làm cảnh giới, phân biệt kế đạc tính này.

Luận nói : Trong tính y tha, do chấp trước tướng,

Giải thích : Trước là phân biệt danh, xuyên qua sự huân tập cái danh này nên chấp trước cái danh này là tướng mạo, sau đó phân biệt tướng này gọi là nhãn v.v…các căn, sắc v…các trần, thức v.v…các tâm chấp tướng mạo.

Luận nói : do quyết đoán khởi kiến,

Giải thích : Trước suy xét phải quấy, sau đó quyết đoán như sở kiến của ta. Nhãn v.v…các căn cho đến thức v.v…các tâm đều là thật hữu, ngoài ra là vọng ngôn. Do kiến chấp này cho nên ý thức kế đạc y tha cho là chắc thật rồi khởi chấp.

Luận nói : do giác quán, ngôn thuyết duyên khởi,

Giải thích : Khởi giác quán như chỗ chấp của mình, tự tư duy kế đạc. Hoặc khởi giác quán như chỗ chấp của mình lập ngôn thuyết khiến người khác phân biệt kế đạc. Thế nào là lập ngôn thuyết khiến người khác phân biệt kế đạc ?

Luận nói : Do kiến v.v…4 thứ ngôn thuyết.

Giải thích : Ngôn thuyết không ra ngoài kiến v.v…4 thứ. Bốn thứ này do căn, trần, thức tạo nên cho nên gồm thâu hết tất cả phẩm loại phân biệt của ngôn thuyết. Từ ngôn thuyết này khởi điên đảo

Luận nói : Thật không có trần mà chấp là thật có là tăng ích.

Giải thích : Như 4 thứ ngôn thuyết là pháp không thật có, trong đó khởi chấp cho là thật có, đây gọi là chấp tăng ích.

Luận nói : Do các nhân này thành năng phân biệt.

Giải thích : Do 6 nhân này ý thức thành năng phân biệt tính y tha khiến thành sở phân biệt, cho nên lấy nhân này làm tính phân biệt.

Luận nói : Ba tính này như thế nào ?

Giải thích : Câu này hỏi nghĩa của 3 tính là một hay khác nhau thế nào.

Luận nói : Khác nhau hay không khác nhau ?

Giải thích : Như tính y tha với 2 tính kia là một hay là khác. Hai tính kia luận với nhau cũng vậy.

Luận nói : Nên nói như thế này : không khác chẳng phải không khác.

Giải thích : Đáp câu hỏi nên nói rõ cũng là một mà cũng khác.

Luận nói : Có nghĩa khác của tính y tha nên gọi là y tha.

Giải thích : Dưới đây nêu nghĩa chung là cũng một mà cũng khác. Chỉ là một thức. Tính của thức là y tha. Trong tính y tha, dùng lý riêng thành lập làm 3 tính. Ba tính không giống nhau. Đó là nghĩa không khác chẳng phải không khác.

Luận nói : Có nghĩa khác nên đây thành phân biệt. Có nghĩa khác nên đây thành chân thật.

Giải thích : Có đạo lý riêng tính y tha này thành tính phân biệt, và tính chân thật cũng vậy.

Luận nói : Nghĩa khác gì gọi đây là y tha ?

Là từ chủng tử huân tập sinh trói buộc vào cái khác.

Giải thích : Dưới đây giải thích 3 nghĩa riêng biệt. Huân tập có 3 thứ : một là danh ngôn huân tập, tức thức huân tập, hai là sắc thức huân tập, tức thức thức huân tập, kiến thức huân tập, ba là phiền não huân tập, tức nghiệp huân tập, quả báo huân tâp. Từ đó sinh 3 thứ chủng tử, trói buộc vào nhân thành y tha chứ chẳng phải 2 tính kia.

Luận nói : Lại có nghĩa khác gì, đây thành phân biệt ?

Tính y tha này là nhân của phân biệt,

Giải thích : Thức lấy năng phân biệt làm tính. Năng phân biết phải từ sở phân biệt sinh. Tính y tha là sở phân biệt, là sinh nhân của phân biệt, tức là duyên của phân biệt. Duyên tính y tha có 2 nghĩa. Nếu bàn về thức thể từ chủng tử sinh thì tự thuộc vào tính y tha. Nếu bàn về biến dị là tướng mạo như sắc v.v…thì đây thuộc về tính phân biệt. các tướng mạo như sắc v.v…tách rời thức không có cái thể riêng biệt. Nay nói tính y tha là nhân phân biệt, lấy cái nghĩa y tha biến dị làm nhân phân biệt, không lấy cái nghĩa thức thể từ chủng tử sinh làm nhân phân biệt.

Luận nói : là sở phân biệt nên thành phân biệt.

Giải thích : Tướng mạo biến khác là sở phân biệt của thức. Vì nghĩa này nên thành lập sở phân biệt là tính phân biệt.

Luận nói : Lại vì nghĩa gì, đây thành chân thật ?

Cái tính y tha này thành chân thật là vì như cái sở phân biệt thật sự nó không thật có như nó bị phân biệt.

Giải thích : Tính y tha biến khác làm các trần bị phân biệt như sắc v.v…Các trần này nó không thật có như nó bị phân biệt. Theo tính y tha nói trần là vô sở hữu, tức là lấy tính y tha làm tính thành thật. Để lưu ý về hữu đạo nên không nói rõ tính y tha là tính vô vi chân thật.

Luận nói : Lại nữa vì nghĩa gì mà do một thức này thành tướng mạo tất cả các thức khác ?

Giải thích : Đây lại hỏi vì đạo lý gì. Chỉ là một thức mà hoặc thành 8 thức, hoặc thành 11 thức cho nên nói là tất cả. Ở trong mỗi một thức, như nhãn thức phân biệt xanh, vàng v.v…có nhiều thứ tướng mạo của thức. Chỉ là một thức sao lại có các thức gì, sở dĩ câu hỏi đó trước đã giải thích nghĩa khác, dưới đây giải thích nghĩa không khác. Muốn làm rõ tính y tha có đủ 3 tính, một thức từ chủng tử sinh là y tha mà có, tướng mạo các thức khác nhau là phân biệt. Phân biệt thật sự là vô sở hữu, đó là tính chân thật.

Luận nói : Bản thức thức,

Giải thích : Một thức gọi là một bản thức. Bản thức biến dị làm ra các thức nên gọi là thức thức. Nay không luận về biến dị làm căn trần, nên chỉ nói thức thức.

Luận nói : ngoài ra là sinh khởi thức, vì có nhiều tướng mạo,

Giải thích : Ngoài ra tức thức A-đà-na. Sinh khởi thức tức 6 thức. Biến dị là thất thức, tức là tướng mạo của bản thức.

Luận nói : rồi lại từ các tướng mạo này tiếp tục sinh khởi.

Giải thích : Vì thất thức huân tập bản thức làm chủng tử, chủng tử này lại biến dị bản thức làm thất thức. Sau thất thức liền theo chủng tử tướng mạo trước tiếp tục sinh khởi.

Tính y tha có mấy thứ ?

Giải thích : Câu này hỏi có mấy thứ thể loại và nghĩa.

Luận nói : Lược nói có 2 thứ, một là nó thuộc chủng tử huân tập,

Giải thích : Trước nói rõ thể loại của y tha từ 2 thứ huân tập sinh : một là từ nghiệp phiền não huân tập sinh, hai là từ văn huân tập sinh. Do thể loại hệ thuộc 2 thứ huân tập này nên gọi là tính y tha. Nếu thể loại của quả báo thức là tính y tha thì từ nghiệp phiền não huân tập sinh. Nếu thể loại của văn tư tu tuệ xuất thế gian thì từ văn huân tập sinh.

Luận nói : hai là nó không nhất thiết hệ thuộc tịnh phẩm hay bất tịnh phẩm. Vì vậy do hai tính chất này gọi nó là y tha.

Giải thích : Nay giải thích về nghĩa y tha. Nếu thức phân biệt tính này hoặc thành phiền não, hoặc thành nghiệp, hoặc thành quả báo thì thuộc bất tịnh phẩm. Nếu Bát-nhã duyên tính này vô sở phân biệt thì thành tịnh phẩm. Nghĩa là cảnh giới thanh tịnh, đạo thanh tịnh, quả thanh tịnh. Nếu có tự tính không y tha thì quyết định thuộc nhất phẩm. Đã là tính bất định thì hoặc thuộc tịnh phẩm hoặc thuộc bất tịnh phẩm. Do 2 phần này, tùy theo một phần không thành tựu nên gọi là y tha.

Luận nói : Tính phân biệt cũng có 2 thứ, một là phân biệt về tự tính,

Giải thích : Như nhãn v.v…trong các giới phân biệt một giới, hoặc nhãn hoặc nhĩ v.v…gọi là phân biệt tự tính.

Luận nói : hai là phân biệt về sự sai biệt.

Giải thích : Như vô thường v.v…lại phân biệt nhãn này v.v…gọi là phân biệt sai biệt.

Luận nói : Tính chân thật cũng có 2 thứ, một là thành tựu tự tính,

Giải thích : Nghĩa là hữu cấu chân như.

Luận nói : hai là thành tựu thanh tịnh.

Giải thích : Nghĩa là vô cấu chân như.

Luận nói : Lại nữa phân biệt cũng được chia thành 4 thứ, một là phân biệt về tự tính, hai là phân biệt về sự sai biệt, ba là có hiểu biết, bốn là không hiểu biết. Có hiểu biết nghĩa là có thể phân biệt hiểu rõ danh ngôn, chúng sinh.

Giải thích : Nếu chúng sinh trước hiểu biết kiến văn v.v…4 thứ ngôn thuyết, nhân danh ngôn khởi phân biệt gọi là có hiểu biết.

Luận nói : Không hiểu biết có nghĩa là không thể phân biệt hiểu biết danh ngôn, chúng sinh.

Giải thích : Nếu chúng sinh như các loài bò dê v.v…trước không thể hiểu biết kiến văn v.v…4 thứ ngôn thuyết, do sở phân biệt của chúng không do ngôn ngữ thành lập, nên gọi là không hiểu biết.

Luận nói : Lại nữa phân biệt có 5 thứ : Một là tự tính dựa vào tên gọi mà phân biệt nghĩa.

Giải thích : Nghĩa tức là pháp được tên gọi chỉ ra. Trước đã biết tên vật này, sau dùng tên phân biệt lấy vật này.

Luận nói : Thí dụ như tên này là chỉ nghĩa này.

Giải thích : Tên này xưa nay là chủ vào thể này. Cho nên được tên này thì phân biệt được cái thể này.

Luận nói : Hai là tự tính dựa vào nghĩa phân biệt tên.

Giải thích : Trước biết thể của vật này mà chưa biết tên. Sau nghe nói tên của nó thì biết cái thể, phân biệt giữ lấy tên này.

Luận nói : Thí dụ như nghĩa này là thuộc tên gọi này.

Giải thích : Thể này chính là tên này nên khi được thể này thì phân biệt giữ tên gọi này.

Luận nói : Ba là tự tính dựa vào tên mà phân biệt với tên khác.

Giải thích : Như tên gọi vật của một nước khác, mới nghe chưa hiểu, sau thường nghe tên, phân biệt hiểu được tên gọi này.

Luận nói : Thí dụ như phân biệt cái tên mà chưa biết nghĩa.

Giải thích : Chưa biết tên gọi đó là nghĩa gì nên không hiểu tên này.

Luận nói : Bốn là tự tính dựa vào nghĩa mà phân biệt với nghĩa khác.

Giải thích : Như trông thấy vật thể này mà chưa biết tên, dùng vật loại phân biệt với vật này mới biết cái thể của nó.

Luận nói : Thí dụ phân biệt nghĩa của cái mà chưa biết tên.

Giải thích : Do chưa biết tên nên lấy nghĩa mà phân biệt nghĩa.

Luận nói : Năm là tự tính dựa vào phân biệt cả hai tên và nghĩa.

Giải thích : Như 2 tên vàng bạc, có 2 thể vàng và bạc. Cả 2 tên và thể đều chưa biết tên vàng là chỉ cho vật thể màu đỏ hay chỉ cho vật thể màu trắng, và tên bạc cũng vậy. Vật thể màu đỏ tên vàng, thì cũng vậy vật thể màu trắng là tên bạc.

Luận nói : Thí dụ tên này thì nghĩa này, nghĩa gì thì tên gì.

Giải thích : Ý nghĩa như đã giải thích trước.

Luận nói : Nếu gồm tất cả phân biệt thì lại có 10 thứ.

Giải thích : Như trước đã có gồm đủ nghĩa, chỉ chưa nói rõ phẩm loại. Nghĩa gồm đủ đây có 10 thứ phân biệt nói rõ nghĩa gồm đủ phẩm loại và gồm thâu hết tất cả.

Luận nói : Một là phân biệt căn bản, tức là bản thức.

Giải thích : Tức là tất cả phân biệt căn bản tự thể, phân biệt cũng tức là thức A-lê-da.

Luận nói : Hai là phân biệt tướng, tức sắc thức v.v…

Giải thích : Phân biệt này lấy tướng làm tướng, tức sắc v.v…các trần thức.

Luận nói : Ba là phân biệt dựa vào sự hiển thị, tức sự hiểu biết dựa vào nhãn v.v…các thức thức.

Giải thích : Sự phân biệt này lấy y chỉ và hiển thị làm tướng. Cũng là sở phân biệt, cũng là năng phân biệt. Tức 6 căn và 6 trần. Sáu căn là sở y chỉ. Sáu thức là năng y chỉ.

Luận nói : Bốn là phân biệt cái tướng biến đổi khác.

Giải thích : Tướng là 6 trần. Sự phân biệt này lấy tướng biến đổi khác làm tướng.

Luận nói : Tức như biến đổi khác thành già v.v…,

Giải thích : Như thân tứ đại trước sau biến đổi khác gọi là già. Nếu thức phân biệt cái già này gọi là phân biệt biến đổi tướng già. Chữ v.v…là nói bao gồm bệnh và chết.

Luận nói : các khổ thụ lạc thụ v.v…,

Giải thích : Thân tâm thụ khổ vui, trước sau biến đổi. Thức phân biệt sự cảm thụ này gọi là phân biệt biến đổi tướng thụ. Chữ v.v…là nói bao gồm sự cảm thụ không khổ không vui.

Luận nói : các hoặc phiền não như dục v.v…,

Giải thích : Cái tâm dục trước sau biến đổi. Thức phân biệt dục này gọi là phân biệt biến đổi tướng dục. Chữ v.v…là nói bao gồm các hoặc sân, si v.v…

Luận nói : và biến đổi về sự trái thời tiết v.v…,

Giải thích : Bức bách phi lý là loạn, không trái nghịch khí hậu lạnh nóng là đúng thời tiết. Biến đổi loạn trái trước sau về thời tiết, thức phân biệt sự loạn trái về thời tiết này gọi là phân biệt biến đổi tướng loạn trái thời tiết. Chữ v.v…là nói bao gồm có nhân duyên bức bách, trái nghịch lạnh nóng, sung túc kém thiếu.

Luận nói : biến đổi về các cõi như Địa ngục v.v…,

Giải thích : Đây là biến đổi các nẻo đường trong luân hồi. Bỏ 5 ấm này thụ 5 ấm của Địa ngục đạo. Các đạo trước sau biến đổi gọi là đạo biến dị. Thức phân biệt đạo này gọi là phân biệt biến đổi tướng đạo. Chữ v.v…là nói bao gồm 5 đạo khác trong lục đạo.

Luận nói : cõi Dục v.v…

Giải thích : Tức nói đầy đủ trói buộc, lìa thoát trói buộc sinh biến đổi. Thụ sinh 3 cõi có sự biến đổi trước sau đủ trói buộc lìa trói buộc. Thức phân biệt sự thụ sinh này gọi là phân biệt biến đổi tướng sinh. Chữ v.v…là nói gồm cả cõi Sắc và Vô sắc.

Luận nói : Năm là phân biệt dựa vào sự hiển thị các biến đổi,

Giải thích : Nghĩa là nhãn v.v…các thức biến đổi. Phân biệt này lấy tướng biến đổi của nhãn v.v…các thức làm tướng.

Luận nói : tức như trước đã nói các biến đổi

Giải thích: Như trước đã nói biến đổi thành già đi v.v…Sự biến đổi trong các vị như nhãn v.v…các thức biến đổi.

Luận nói : khởi phân biệt biến đổi.

Giải thích : Ý thức cũng như vậy y chỉ hiển thị biến đổi mà phân biệt cho nên gọi là y hiển thị phân biệt biến đổi.

Luận nói : Sáu là phân biệt do từ cái khác dẫn đến,

Giải thích : Phân biệt này do từ ngôn thuyết người khác sinh ra.

Luận nói : tức như phân biệt do nghe loại chính pháp hay phi chính pháp.

Giải thích : Phân biệt này có 2 loại : một là loại phân biệt nghe phi chính pháp, hai là loại phân biệt nghe chính pháp. Nghĩa là phân biệt loại thực hành ác pháp và phân biệt loại thực hành thiện pháp. Tư tu cũng vậy. Phân biệt này lấy sự nghe ngôn thuyết người khác làm tướng, nên gọi là phân biệt do người khác dẫn đến.

Luận nói : Bảy là phân biệt không đúng lý,

Giải thích : Là phân biệt trước, nghe phi chính pháp là nhân.

Luận nói : tức sự phân biệt loại không đúng chính pháp của người ngoài chính pháp.

Giải thích : Nghĩa là 96 thứ ngoại đạo, ngoài sự văn tư tu chân chính.

Luận nói : Tám là phân biệt đúng lý,

Giải thích : Tức là trước phân biệt nghe chính pháp làm nhân.

Luận nói : tức như cái phân biệt của người trong chính pháp khi nghe chính pháp.

Giải thích : Nghĩa là người Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát trong pháp văn tư tu.

Luận nói : Chín là phân biệt các chấp trước quyết đoán. Tức các thứ tư duy không đúng lý,

Giải thích : Lấy tư duy không đúng làm nhân.

Luận nói : Căn bản là thân kiến cùng với phân biệt 62 kiến chấp tương ưng.

Giải thích : Y chỉ vào ngã kiến như Kinh Phạm Võng có nói rõ các loại kiến chấp, gọi là 62 kiến tương ưng phân biệt.

Luận nói : Mười là phân biệt tán động, tức 10 thứ phân biệt của Bồ-tát.

Giải thích : Bồ-tát phân biệt không tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật đều gọi là tán động. Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói 10 pháp đối trị 10 thứ tán động. Hai pháp đầu chính là Bát-nhã Ba-la-mật. Nghĩa là làm rõ chân không, khiển trừ tục hữu tức thật hữu. Bồ-tát không thấy có Bồ-tát. Tiếp đến 5 việc, có 3 giải thích. Giải thích thứ nhất nói khiển trừ tên của sự vật. Hai cái đầu kiển trừ tên, tức không thấy có tên Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật. Ban đầu khiển trừ tên người, sau khiển trừ tên pháp. Hai cái tiếp theo là khiển sự, tức không thấy hành, không thấy không hành. Đây có 3 nghĩa : Một không thấy Bồ-tát có khả năng thực hành, Nhị thừa không có khả năng thực hành. Hai

Không thấy các pháp chính cần trợ đạo là hành, không thấy sự biếng nhác v.v… bị đối trị là không hành. Ba không thấy Bồ-tát tu đạo chưa viên mãn nên hành, không thấy Bồ-tát tu đạo đã viên mãn nên không hành. Một cái sau là khiển trừ tên gọi, sự tướng của vật. Bởi vật gì là căn bản ? Bởi 5 ấm là căn bản, cũng không thấy 5 ấm, tức không thấy sắc, không thấy thụ tưởng hành thức. Giải thích thứ hai nói hai cái đầu làm rõ không thấy người không thấy pháp. Hai cái sau làm rõ việc không thấy người thực hành pháp là hành, không thấy người không thực hành pháp là không hành. Một cái sau làm rõ 5 ấm là bị hành đối trị. Năm ấm tức khổ tập 2 đế. Không thấy có tập để đoạn, không thấy có khổ để xa lìa. Giải thích thứ ba nói hai cái đầu là không thấy có người năng hành và đạo sở hành. Hai cái sau là không thấy có trợ đạo. Một cái sau làm rõ lý không thấy có bị đối trị. Trong 5 việc này, mỗi việc đều đầy đủ 8 pháp.

Luận nói : Một tán động không có tướng.

Giải thích : Không có tướng là nhân của tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói Bồ-tát là thật có Bồ-tát.

Giải thích : Do nói thật có hiển thị có Bồ-tát, lấy chân như không làm thể.

Luận nói : Hai tán động có tướng.

Giải thích : Có tướng là nhân tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói không thấy có Bồ-tát.

Giải thích : Không thấy có Bồ-tát, lấy phân biệt y tha làm thể.

Luận nói : Ba tán động tăng ích.

Giải thích : Vì cái có tăng ích là vô sở hữu nên chấp này là tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Bởi vì sao ? Do sắc tự tính là không.

Giải thích : Do phân biệt sắc tính sắc tính không.

Luận nói : Bốn tán động tổn giảm.

Giải thích : Vì cái không tổn giảm là thật có, nên chấp này là tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Chẳng do không không.

Giải thích : Sắc này chẳng phải do chân như không nên không.

Luận nói : Năm tán động một chấp.

Giải thích : Nghĩa là y tha phân biệt tức là không, nên chấp này là tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Sắc không này chẳng phải sắc.

Giải thích : Nếu tính y tha và tính chân thật là một tính chân thật thì tính y tha cảnh giới thanh tịnh cũng phải như vậy.

Luận nói : Sáu tán động khác chấp.

Giải thích : Sắc khác với không. Chấp này là tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Không có sắc khác không nên sắc tức là không, không tức là sắc.

Giải thích : Nếu sắc khác không thì cái không này không thành sắc gia pháp không, không thành tướng chung của sắc, nghĩa này không thành. Ví như pháp hữu vi với vô thường không khác nhau, nếu nắm lấy tính phân biệt nói sắc tức là không, không tức là sắc. Bởi vì sao ? Cái sắc phân biệt này vĩnh viễn là vô sở hữu. Cái vĩnh viễn vô sở hữu này tức là có tức là không. Cái không tức là sắc này là vô sở hữu, như tính y tha đối với tính chân thật không thể nói một vì do cảnh giới thanh tịnh và không thanh tịnh.

Luận nói : Bảy tán động chung.

Giải thích : Chấp sắc có tướng chung làm tính, nghĩa là có ngại. Cái chấp này là tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Bởi vì sao ? Xá-lợi-phất ! Đây chỉ có cái tên gọi là sắc.

Giải thích : Chỉ có tên là tướng chung của sắc. Bởi vì sao ? Nếu rời bỏ cái tên gọi, sắc thật không có bản tính.

Luận nói : Tám tán động riêng.

Giải thích : Đã chấp sắc có tướng chung, lại phân biệt sắc có các sai biệt sinh diệt nhiễm tịnh v.v…. Cái chấp này là tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Là tự tính không sinh không diệt không nhiễm không tịnh.

Giải thích : Cái sắc này là vô sở hữu, đó là tướng chung. Nếu có sinh tức có nhiễm, nếu có nhiễm tức có tịnh. Do không có 4 nghĩa này nên sắc không có tướng riêng.

Luận nói : Chín tán động lấy nghĩa theo tên.

Giải thích : Như tên chấp nghĩa là tán động nghĩa. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Đối giả lập tên phân biệt các pháp.

Giải thích : Tên là giả dối trống rỗng lập ra, đối các tên phân biệt tất cả pháp.

Luận nói : Mười tán động lấy tên theo nghĩa.

Giải thích : Như nghĩa lấy tên là khởi chấp trước cũ. Cái chấp này là tán động. Để đối trị tán động này kinh nói : Do giả lập khách danh, tùy nói các pháp.

Giải thích : Tên và pháp không đồng tướng. Kinh nói : Như tùy nói như vậy như vậy sinh khởi chấp trước.

Giải thích : Theo cái tên giả lập nói các pháp, chấp cái tên và pháp không khác. Kinh nói : Như vậy Bồ-tát không thấy tất cả tên. Nếu không thấy không sinh chấp trước.

Giải thích : Để đối trị 10 thứ tán động nên nói Bát-nhã Ba-la-mật. Do thuyết này là nhân không phân biệt sinh trí, do trí không phân biệt diệt các hoặc phân biệt.

Luận nói : Để đối trị 10 thứ phân biệt tán động này, trong tất cả kinh giáo Bát-nhã Ba-la-mật, Phật Thế Tôn nói trí vô phân biệt có thể đối trị 10 thứ tán động này. Phải biết đầy đủ nghĩa của Kinh Bát-nhã Ba-la-mật. Như Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói :

Thế nào là Bồ-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật ? Này Xá-lợi-phất ! Là Bồ-tát thật có Bồ-tát, không thấy có Bồ-tát, không thấy tên Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật, không thấy thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, không thấy không thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, , không thấy sắc, không thấy thụ tưởng hành thức. Bởi vì sao ? Sắc do tự tính không, chẳng phải do không không, là sắc không, chẳng phải sắc. Không có sắc khác với không, nên sắc tức không, không tức sắc. Bởi vì sao ? Xá-lợi-phất ! Đây chỉ có tên. Nói sắc là tự tính, không sinh không diệt không nhiễm không tịnh. Đối lại với tên giả lập phân biệt các pháp, do tên giả lập khách trần tùy nói là các pháp như như, tùy nói là như vậy như vậy sinh khởi chấp trước. Tất cả những tên giả lập như thế Bồ-tát không thấy. Nếu không thấy không sinh chấp trước, như quán sắc cho đến thức cũng phải quán như vậy. Do câu trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật, phải tùy thuận tư duy 10 thứ nghĩa phân biệt.

Giải thích : Như 8 thứ quán sắc ấm. Cũng phải làm 8 thứ quán 4 ấm khác. Cho đến 4 việc trước cũng phải làm 8 thứ quán.

Luận nói : Nếu do ý riêng này mà tính y tha thành có 3 tính. Ba tính này vì sao có 3 tính khác nhau không thành xen tạp lẫn lộn?

Giải thích : Câu này hỏi trước chia 3 tính khác nhau, tiếp đến nói tính y tha có nghĩa khác thành 3 tính. Nếu trong tính y tha nói 3 tính có 3 khác nhau thì 3 tính thành lẫn lộn, không thể nói thiên về một tính. Vì sao không lẫn lộn ?

Luận nói : Không có nghĩa xen tạp lẫn lộn.

Giải thích : Vì lý có khác nên không xen tạp lẫn lộn.

Luận nói : Do lý này mà tính này thành y tha chứ không do đây thành phân biệt và chân thật.

Giải thích : Chữ “này” tức như trước đã nói rõ là do hệ thuộc chủng tử và hệ thuộc tịnh phẩm bất tịnh phẩm v.v…nên thành tính y tha, chứ không thể vì lý này mà thành tính phân biệt và tính chân thật.

Luận nói : Do lý này mà tính này thành phân biệt chứ không do đây mà thành y tha và chân thật.

Giải thích : Chữ “này” tức như trước đã nói rõ là do phân biệt tự tính, phân biệt sai biệt v.v…các lý nên thành tính phân biệt, chứ không thể vì lý này mà thành tính y tha và tính chân thật.

Luận nói : Do đạo lý này mà tính này thành chân thật chứ không do đây mà thành y tha và phân biệt.

Giải thích : Chữ “này” tức như trước đã nói rõ là do tự tính thành tựu thanh tịnh thành tựu v.v…các lý nên thành tính chân thật, chứ không thể vì lý này mà thành tính y tha và tính phân biệt.

    Xem thêm:

  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Tập Chư Pháp Bảo Tối Thượng Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Bản Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Thích Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Giảng Rộng Ý Nghĩa Năm Uẩn Theo Giáo Pháp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Chư Giáo Quyết Định Danh Nghĩa - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Thanh Từ - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Viên Lý - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Nhất Chân - Luận Tạng
  • Luận Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Cửu Tụng Tinh Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Nhập Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đề Bà Bồ Tát Giải Thích Với Ngoại Đạo Tiểu Thừa Về Niết Bàn Theo Kinh Lăng Già - Luận Tạng
  • Giải Nghĩa Kinh Kim Cang - Luận Tạng
  • Luận Thích Du Già Sư Địa - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Duy Thức - Luận Tạng