1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

Phẩm thứ hai : Giải thích các tên trong

Y chỉ thắng tướng 2

Chương các tên khác

Luận nói : Lại nữa trong bộ A-tăng-kì, A-hàm, thức này xuất hiện dưới biệt danh của căn bản thức. Ví như cây dựa vào gốc rễ.

Giải thích : Thức này là nhân của tất cả thức nên là căn bản của các thức. Ví như rễ của cây, chỗ nương tựa của chồi nhánh lá v.v…gọi là gốc rễ của cây. Nếu lìa bỏ gốc thì chồi v.v…đều không có. Cũng thế thức này là căn bản của các thức khác.

Luận nói : Bộ Di-sa-tắc cũng dùng biệt danh gọi thức này là Cùng sinh tử ấm. Bởi vì sao ? Là vì sắc và tâm có lúc thấy mất sự tương tục, nhưng chủng tử của nó trong tâm này không bao giờ tuyệt dứt.

Giải thích : Vì sao gọi thức này là Cùng sinh tử ấm ? Sinh và tử không ra ngoài sắc và tâm. Sắc có khi có, nó tiếp nối hoặc đoạn dứt trong các định, như cõi Vô sắc. Tâm cũng có khi có, nó tiếp nối hoặc đoạn dứt trong các định, như trời Vô tưởng v.v…Nhưng trong thức A-lê-da, chủng tử sắc tâm không bao giờ tuyệt dứt. Bởi vì sao ? Vì các chủng tử huân tập này cho đến tận cùng sinh tử không lúc nào chấm dứt. Sắc tâm của giai đoạn sau là nhân của sự hoàn sinh cho đến trước khi được Niết-bàn vô dư, cái ấm thân này không bao giờ dứt nên gọi là Cùng sinh tử ấm.

Luận nói : Nên biết rằng Y chỉ A-đà-na, A-lê-da, Chí-đa, Căn bản thức, Cùng sinh tử ấm v.v…

Giải thích : Ba cái này được Đại thừa thành lập. Tên Chí-đa là tên được lập chung cả Đại thừa và Tiểu thừa. Căn bản thức là tên được lập trong bộ Ma-ha-tăng-kì. Cùng sinh tử ấm là tên được lập trong bộ Di-sa-tắc. Chữ “v.v…” là Chính lượng bộ lập tên là Quả báo thức, Thượng tọa bộ lập tên là Hữu phần thức.

Luận nói : Do tên gọi này mà thức A-lê-da đã thành vương lộ trong Tiểu thừa.

Giải thích : Do các tên này làm rõ và rộng nghĩa của bản thức, nên dễ thấy như con đường đại lộ. Nói “vương lộ” có 3 nghĩa : một là thẳng , không có đường rẽ, hai là rộng và bằng phẳng, ba là sáng sủa sạch sẽ không bị che chắn. Bản thức cũng vậy, thẳng không phân nhánh ví như quyết định không nghi, rộng rãi bằng phẳng ví như Đại Tiểu 2 thừa đều dùng nghĩa này, sáng sủa sạch sẽ không chướng ngại ví như dẫn vô lượng đạo lý để chứng minh thức này, nên ví như con đường vua đi.

Luận nói : Lại có các luận sư khác cho rằng tâm, ý và thức ba tên khác nhau nhưng nghĩa giống nhau. Không phải nghĩa như vậy.

Giải thích : Nghĩa này là dùng Tiểu thừa trở lại chất vấn Tiểu thừa. Tiểu thừa nói : Thức A-lê-da, thức A-đà-na là do tự tránh né cái chấp cho là đồng nghĩa khác tên mà lập ra nghĩa khác. Thuyết đó không đúng. Bởi vì sao ?

Luận nói : Ý và thức đã có nghĩa khác nhau rồi, nên nghĩa của tâm cũng khác.

Giải thích : Trong Tiểu thừa lập ý và thức, tên gọi và nghĩa đều khác. Có khả năng phân biệt hiểu biết là thức. Nếu sự phân biệt hiểu biết đã tàn tạ qua rồi, có thể làm phương tiện cho thức sau sinh gọi là ý. Cho nên thức là lấy sự phân biệt hiểu biết làm nghĩa, ý là lấy phương tiện sinh làm nghĩa. Như trong Tiểu thừa 2 tên có 2 nghĩa thì bản thức có thể mà không tên. Cho nên biết tên tâm là ứng với bản thức. Nghĩa này không thể khác.

Luận nói : Lại có các luận sư khác chấp cho rằng Như Lai nói Thế gian hỷ lạc A-lê-da.

Giải thích : Các sư Tiểu thừa khởi chấp tên A-lê-da không giống nhau. A-lê-da muốn nói rõ nghĩa gì ? Cảnh giới ái trước gọi là A-lê-da.

Luận nói : Như trước đã nói, trong đó có 5 thủ ấm gọi là A-lê-da.

Giải thích : Cảnh giới ái trước này, nghĩa không giống nhau. Hoặc chấp là 5 thủ ấm. Thủ là biệt danh của tham ái. Tham ái duyên 5 ấm của chính nó gọi là thủ ấm. Thủ ấm này tức là chỗ chúng sinh ái trước, nên gọi là A-lê-da.

Luận nói : Lại có các luận sư khác chấp cho rằng lạc thụ với dục tương ưng là A-lê-da.

Giải thích : Năm ấm này không phải chỗ ái trước. Nếu không lạc thụ thì đối với lạc thụ nếu không điên đảo làm sao sinh ái trước đối với 5 ấm. Vì vậy nên trong lạc thụ do tâm dục điên đảo chưa diệt nên lạc thụ này là chỗ ái trước. Năm ấm với lạc thụ tương ưng nên nói 5 ấm là chỗ ái trước. Vì vậy lạc thụ chính là chỗ ái trước.

Luận nói : Lại có các luận sư khác chấp thân kiến là A-lê-da.

Giải thích : Nếu người nói lạc thụ là chỗ ái trước, nghĩa đó không đúng. Thụ này là do an vui với tự ngã, yêu tự ngã nên thích cái lạc thụ này. Ví như người thích sống lâu nên yêu thích những gì cho sự sống lâu. Như vậy yêu cái ngã nên yêu những gì cho cái ngã.

Luận nói : Các luận sư này

Giải thích : Vì gồm các chấp khác nên nói có chấp cho rằng mạng sống là chỗ ái trước, có thuyết cho rằng đạo là chỗ ái trước, có thuyết cho 6 trần là chỗ ái trước, có thuyết thì nói kiến và trần là chỗ ái trước.

Luận nói : mê lầm A-lê-da, vì do A-hàm tu đắc, nên có các chấp như vậy.

Giải thích : Như vậy các sư Tiểu thừa không hiểu rõ thức A-lê-da. Thế nào là không hiểu rõ ? Có 2 thứ không hiểu rõ: một là do giáo, hai là do hành. Giáo là A-hàm của Tiểu thừa. A-hàm quyết đoán thức này không đúng như lý cho nên dựa vào A-hàm mà mê lầm thức này. Hành là đạo lý thô thiển, không có đạo lý có thể chứng minh nghĩa của thức này, cho nên do hành cũng mê lầm thức này.

Luận nói : Do học và hành theo Tiểu thừa giáo nên chỗ lập nghĩa của các sư không đúng lý.

Giải thích : Các sư dựa vào Tiểu thừa giáo và tách rời thức A-lê-da lập biệt danh. Nếu suy đạc theo đường lối Tiểu thừa thì nghĩa này cũng không đúng vì tự trái với lý Tất-đàn của Tiểu thừa.

Luận nói : Nếu có người không mê lầm thức A-lê-da, không ước theo tên của Tiểu thừa mà thành lập thức này thì sẽ được nghĩa tối thắng.

Giải thích : Người không mê là Bồ-tát. Do A-hàm và hành, chư Phật quán căn tính con người, y vào căn tính lập A-hàm. Người ở hạ phẩm có bí mật nói cho hạ phẩm. Người ở thượng phẩm không có nói bí mật. Vì vậy nói rõ đủ các thức. Do đó A-hàm Bồ-tát không mê thức này. Nói “do hành” là nếu người tu hành có thể phá trừ hoặc chướng cõi Dục thì thấy bản thân bị hoặc chướng cõi Sắc trói buộc. Cho đến cõi Vô sắc cũng vậy. Nếu tu hành ra khỏi cõi Vô sắc thấy thân bị trói buộc trong thức A-lê-da, để diệt sự trói buộc này nên tu 10 địa. Các Bồ-tát do thực hành rất sâu nên không mê thức này. Nếu người có thể hiểu rõ thức này, dùng danh mục Tiểu thừa của thức này, danh nghĩa tương xứng mà thành lập danh nghĩa thì được tối thắng.

Luận nói : Vì sao gọi là tối thắng ?

Giải thích : Cho thấy rõ nghĩa của Tiểu thừa là có lỗi còn trong nghĩa của Đại thừa thì không có lỗi. Cho nên an lập theo Đại thừa là hơn hết. Lỗi của Tiểu thừa là

Luận nói : Nếu chấp thủ ấm là A-lê-da thì sẽ thụ sinh vào một trong các nẻo ác thú một bề thụ khổ.

Giải thích : Nói ác thú tức 4 ác thú. Trong 4 nẻo ác thú tùy sinh vào một nẻo nào nhất định là thuần quả báo của nghiệp ác, không một cảm thụ nào khác xen vào, gọi là nơi chỉ có một bề thụ khổ. Ở nơi cõi ác thú kia có khi sinh cảm thụ vui. Cái cảm thụ vui ở cõi ác thú này không phải là cái quả của quả báo, chỉ tương tự gọi là quả, mà chỉ có khổ thụ là quả của quả báo. Những tội nhân thụ khổ báo nơi ác thú là nói thụ sinh nơi đó.

Luận nói : Thủ ấm này rất ác nghịch.

Giải thích : Khi sinh khi trụ không thể chịu đựng được nên nói là ác. Trong lúc đau khổ thường xuyên khởi diệt ý tưởng lìa tham dục, như là khi nào ta sẽ chết, khi nào ta lìa bỏ ấm thân này, nên gọi là nghịch.

Luận nói : Trong thủ ấm này chẳng có gì đáng ưa thích, mà chúng sinh vui thích là không đúng.

Giải thích : Trong ác đạo này ấm thân hoàn toàn là hành trang tư lương của khổ não, trong đó làm sao sinh ái, cho nên hỷ lạc là trái lý lẽ. Nếu nói thủ ấm là A-lê-da thì không có nghĩa.

Luận nói : Bởi vì sao ? Vì chúng sinh trong đó thường nguyện cho thủ ấm tuyệt dứt không sinh.

Giải thích : Trong đó chúng sinh nhân các khổ này mong muốn diệt ấm thân hiện tại và không sinh lại ấm thân sau.

Luận nói : Nếu là thụ vui thì sẽ tương ưng với dục. Từ đệ tứ định trở lên các cõi trên đều không có thụ này.

Giải thích : Thụ này không phổ biến khắp 3 cõi, chỉ trong một phần sinh tử có thụ này.

Luận nói : Nếu người đã được cái thụ này mà còn muốn được lên cõi trên thì sẽ sinh chán ghét.

Giải thích : Nếu người đã sinh chốn ưa thích, đã được lạc định, thấy cái lạc này thô động, tâm ở nơi phóng dật, khó thành dễ hỏng, khởi tâm chán sợ cầu được sự tĩnh lặng ở cõi trên thì chán ghét cái vui này, ở nơi lạc xứ sinh tâm lìa dục, sinh tâm mong muốn ở nơi không khổ không vui.

Luận nói : Vì vậy chúng sinh trong đó mà nói có hỷ lạc là không đúng.

Giải thích : Nếu cái vui không phổ biến khắp 3 cõi, nếu người hưởng thụ lạc muốn lìa bỏ cái lạc thú này mà lấy cái lạc thú làm chỗ ái trước thì không hợp lý.

Luận nói : Nếu là thân kiến thì người trong chính pháp tin vui vào vô ngã chứ không yêu thích ngã chấp kia.

Giải thích : Nếu nói thân kiến là chỗ ái trước thì cũng không phải vậy. Bởi vì sao ? Người trong Phật pháp, hoặc có văn tuệ, hoặc có tư tu tuệ, tin vô ngã và thích vô ngã phát nguyện tu đạo để diệt trừ ngã kiến, cho nên ngã kiến chẳng phải là cái họ yêu thích. Bởi cầu được trí vô sinh khiến ngã kiến và ngã ái trong tương lai không sinh trở lại, cho nên trong đó không sinh hỷ lạc. Cái thân kiến này là một phần ái trước của chúng sinh, một phần không ái trước của chúng sinh, nên không thể nói thân kiến là chỗ ái trước.

Luận nói : Còn thức A-lê-da này thì tâm chúng sinh chấp làm tự nội ngã.

Giải thích : Chúng sinh trong 6 đường khởi tâm chấp trước, gọi pháp này là ngã tự nội ngã. Nội ngã này tự tại thanh tịnh, có thể chứng làm tướng. Do đủ bên ngoài nên hoặc lạc hoặc khổ, nếu người này khởi ngã kiến như vậy.

Luận nói : Nếu sinh trong nẻo đường một bề thụ khổ thì nguyện khổ ấm vĩnh viễn tiêu diệt không khởi.

Giải thích : Người này nếu vì có nhân duyên ác nghiệp nên đọa vào đường ác một bề chịu khổ, việc chấp ngã thanh tịnh không đổi khác, do đầy đủ bên ngoài chỉ chứng đổi khác và nhiễm ô khởi không có ái, mong ngã và ngoại cụ vĩnh viễn tuyệt dứt rời khỏi nhau. Bởi vì sao ?

Luận nói : Thức A-lê-da bị ngã ái trói buộc nên chưa hề muốn diệt trừ tự ngã.

Giải thích : Do không hiểu rõ thức này, duyên thức này khởi ngã chấp, do ngã chấp khởi ngã ái, do ngã ái này không cầu diệt ngã, muốn an vui với ngã này nên không cầu diệt lìa ngoại cụ.

Luận nói : Các chúng sinh thụ sinh từ Đệ tứ định trở lên, tuy không còn vui thích thụ dục lạc, nhưng trong thức A-lê-da cái tự ngã ái đeo đuổi không rời.

Giải thích : Trước đã nói rõ chúng sinh ở trong ác đạo chỉ muốn cầu lìa khỏi khổ mà tâm không muốn bỏ cái ngã. Trong đây nói rõ chúng sinh ở nơi xả thụ, không có cái lạc thụ nào đáng ưa thích, chán ghét cái lạc thụ như người trong ác đạo chán ghét khổ thụ vậy. Không nhân duyên trong thức A-lê-da muốn bỏ ngã ái cho nên thức A-lê-da là chỗ ái trước.

Luận nói : Lại nữa, người trong chính pháp, tuy thích vô ngã, trái nghịch lại thân kiến, nhưng trong thức A-lê-da cũng còn tự ngã ái.

Giải thích : Các lần trước là nói về người ở ngoài Phật pháp, lần này nói về người ở trong Phật pháp. Có 3 phẩm : một là trong chính tư, hai là trong chính tu, ba là hữu học. Người trong 3 phẩm này, 2 người đè bẹp được ngã kiến, một người diệt được ngã kiến. Bởi vì sao ? Hai người trước tương đối biết được vô ngã, một người sau chứng biết vô ngã. Nói “trái nghịch lại thân kiến” nghĩa là ở trong thức A-lê-da thời gian dài lâu thường huân tập ngã ái, tuy có trở lại trái nghịch thân kiến nhưng trong bản thức cái ngã ái vần thường xuyên theo đuổi. Vì vậy thân kiến chẳng phải chỗ ái trước, không nên gọi là A-lê-da.

Luận nói : Chính đó mà lấy tên A-lê-da an lập cho thức này là hơn cả. Đó gọi là thành lập biệt danh A-lê-da.

Giải thích : Bởi cái tên chỗ ái trước này so với danh nghĩa mà các sư khác chấp thì không tương xứng. Nếu lấy tên này so sánh với thứ nhất thì danh nghĩa tương xứng, cho nên dẫn chỗ lập danh của các sư kia mà thành lập bản thức là hơn cả. Trong đây gồm thâu các tên, dẫn dụng đạo lý làm rõ bản thức cho nên gọi là Phẩm nói về tên.

Phẩm thứ hai : Nói về tướng

Chương 1 : Tướng

Giải thích : Phẩm này có 7 chương : 1.tướng, 2.huân tập, 3.không một, khác, 4.làm nhân quả cho nhau, 5.nhân quả khác không khác, 6.duyên sinh, 7.bốn duyên.

Luận nói : Lại nữa, làm sao thấy sự thành lập tướng này ?

Giải thích : Đã dựa vào các tên mà thành lập thức A-lê-da cho nên do các tên này mà không thể không rõ thể tướng của thức A-lê-da. Nếu không rõ thể tướng thì khó có thể hiểu được thức này. Nay muốn cho thông suốt thức này nên một lần nữa nên trình bày thể tướng của nó.

Luận nói : Tướng này sơ lược có 3 thứ : một là lập tự tướng, hai là lập nhân tướng, ba là lập quả tướng. Lập tự tướng nghĩa là thức này như cái đồ đựng của chủng tử tất cả các pháp tập khí bất tịnh phẩm, giữ gìn và làm nơi y cứ cho chúng phát sinh, nên gọi là tự tướng.

Giải thích : Trong Quyết Định Tạng Luận nói rõ bản thức có 8 tướng. Khác với luận ấy nói rộng, nên nói đại lược có 3 thứ. Nghĩa của tự tướng là gì ? Dựa vào tất cả pháp bất tịnh phẩm, huân tập thức này làm phát sinh công năng. Tướng của công năng này như thế nào ? Là gìn giữ chủng tử. Sao gọi là gìn giữ ? Huân tập thành một gọi là gìn giữ.

Luận nói : Lập nhân tướng nghĩa là Nhất thiết chủng thức này là nhân hằng sinh khởi pháp bất tịnh, nên gọi là nhân tướng.

Giải thích : Trong 8 thức tùy theo một thức nào bị pháp bất tịnh phẩm huân tập đã được công năng hơn thì sinh ra pháp kia, sau đó chuyển thành nhân nên gọi là nhân tướng.

Luận nói : Lập quả tướng nghĩa là thức này là do nhân của các thứ bất tịnh phẩm tập khí từ vô thủy mới được sinh ra, nên gọi là quả tướng.

Giải thích : Y chỉ 3 thứ pháp bất tịnh phẩm huân tập, sau đó thức này mới được sinh để thâu giữ tàng trữ các huân tập từ vô thủy nên gọi là quả tướng.

Chương 2 : Huân tập

Luận nói : Pháp nào gọi là tập khí, và tên tập khí muốn nói ý nghĩa gì ?

Giải thích : Hai câu hỏi này có gì khác ? Câu hỏi trước là hỏi tên có nghĩa gì, câu hỏi sau là do những nghĩa gì được tên đó.

Luận nói : Nghĩa là pháp này cùng với kia tương ưng, cùng sinh cùng diệt, sau biến thành sinh nhân của kia. Đó là nghĩa sở hiển. Ví như người ta dùng hoa ướp vào mè. Mè và hoa đồng thời sinh diệt. Sau dần dần thành nhân sinh ra mè có mùi thơm của hoa.

Giải thích : Đây gọi là pháp năng thụ huân tập. Kia gọi là pháp năng huân tập. Gọi chung một thời gian một nơi chốn, đồng sinh đồng diệt như pháp có sinh diệt thì có năng huân sở huân, nếu khác thì không phải vậy. Năng huân thì tính liên tục ngắn, sở huân thì tính liên tục dài. Cho nên năng huân đã diệt mà sở huân hằng tồn tại, sau biến thành sinh nhân kia. Biến tức chính kia sinh công năng kia, đây cũng như vậy. Đây tức nghĩa được hiển lộ, nghĩa tức tên được nói đến, tên tức do nghĩa thành.

Luận nói : Nếu người có hành vi tham dục chẳng hạn, tham dục làm tập khí,

Giải thích : Thường khởi phiền não gọi là hành vi. Hành vi có tập khí. Tướng của tập khí như thế nào ?

Luận nói : cùng tâm đồng sinh đồng diệt, lần lần sinh nhân làm tâm thay đổi biến khác.

Giải thích : Đồng sinh diệt, nghĩa giống như trước. Kia nếu thường sinh hành vi tham dục, thì hoặc một đời, hoặc một thời, trước chưa có huân tập nay biến đỏi khác làm sinh nhân cho kia, có thể biến đổi tâm thành khác gọi là huân tập. Trong bất tịnh phẩm là một loại gọi là phiền não trược.

Luận nói : Nếu người đa văn, có tập khí đa văn,

Giải thích : Người đa văn là người đang ở tư vị hoặc ở tu vị. Có tập khí đa văn là có những tướng gì ?

Luận nói : thường suy tư những gì đã nghe và học hỏi, cùng với tâm sinh diệt,

Giải thích : Như những câu, nghĩa đã nghe, dẫn nhiều đạo lý hằng tư duy, cái tư tưởng đúng đắn trong tư duy đó với ý thức cùng sinh cùng diệt.

Luận nói : dần dần thành nhân sinh ra tâm hiểu biết sáng suốt.

Giải thích : là cái suy nghĩ đúng đắn những gì đã nghe, cứ luôn luôn sinh diệt trong ý thức, ý thức đối với những gì nghe được đã hiểu rõ ràng huân tập vào thức A-lê-da. Ý thức này nếu diệt, sau muốn khởi trở lại thì lần lượt chuyển thành thắng, do đó mà thành huân tập. Vì vậy cái gì đã thông suốt rõ ràng thì không mất.

Luận nói : Do huân tập này mà được an trụ vững vàng,

Giải thích : Đối với tư tuệ đã vững vàng thì đối với tu tuệ sẽ được an trụ.

Luận nói : cho nên gọi người này là năng trì pháp.

Giải thích : Do cái huân tập này không thể quên mất, cho nên dù người này có duyên sự gì khác cũng vẫn được gọi là người có khả năng duy trì đạo pháp.

Luận nói : Đối với thức A-lê-da phải hiểu lý như thế.

Giải nghĩa : Nếu huân tập là thiện hay ác, sự sinh khởi đều đúng lý như vậy cả.

Chương 3 : Không một không khác

Luận nói : Chủng tử nhiễm ô này với thức A-lê-da giống nhau khác nhau thế nào ?

Giải thích : Là chủng tử của pháp bất tịnh phẩm ở trong thức A-lê-da, vì có biệt thể nên khác, vì không có biệt thể nên không khác. Nếu vậy thì có lỗi gì ? Nếu là khác thì các chủng tử phải có mỗi phần mỗi phần sai biệt nhau, và vì vậy thức A-lê-da cũng thành vô lượng phần như vậy. Nếu chủng tử tự khác với bản thức thì không khác gì nghĩa sát-na sát-na diệt, thế là bất thành. Nếu thức này khác với chủng tử thì trong thức huân tập 2 nghiệp thiện ác, tùy theo nghiệp hoặc thiện hoặc ác sinh khởi chủng tử. Ông cho rằng chủng tử là vô ký thì sao gọi là khác được ? Thức này với chủng tử nếu không khác nhưng kia nhiều đây chỉ có một sao gọi là không khác ? Câu vấn nạn này cho thấy 2 cái lỗi. Để khỏi 2 cái lỗi nơi câu vấn nạn kia phải hiểu rõ nghĩa không phải một cũng không phải khác.

Luận nói : Không do vật thể riêng biệt, cho nên nói khác là trong sự hòa hợp này, tuy khó phân biệt nhưng không phải không khác.

Giải thích : Thức A-lê-da này với chủng tử cùng sinh khởi như thế, tuy có năng y sở y nhưng không do vật thể riêng biệt nên khác. Như nhãn căn và nhãn thức. Nhãn căn lấy sắc làm thể. Nhãn thức lấy vô sắc làm thể. Thức này với chủng tử không có cái thể khác nhau như thế nên không thể nói là khác. Đã không thể nói là khác, sao không nói là một ? Sự hòa hợp như thế này tuy khó phân biệt, mà năng y là giả, nó không có thể, còn sở y là thật và có thể. Giả thật hòa hợp, tướng khác nhau khó có thể phân biệt, vì không có 2 thể. Ví như khổ tập 2 đế. Khổ đế thật có quả báo và 5 ấm là thể. Tập đế là giả danh, dựa vào khổ đế mà rõ, không có thể riêng biệt, giả nói là nhân. Năm ấm tuy khó phân biệt nhưng không phải không khác. Thức với chủng tử cũng vậy. Bởi vì sao ?

Luận nói : Thức A-lê-da sinh như vậy,

Giải thích : Nếu không khác như trước khi huân tập chưa sinh, thức này chỉ là quả báo, không thể làm nhân cho cái khác. Nếu khi huân tập sinh, thì thức này cũng phải sinh như vậy, cùng với gốc không khác. Đã không có nghĩa này nên không phải không khác. Không có nghĩa này thì

Luận nói : và khi huân tập sinh, có công năng vượt trội khác hẳn, cho nên gọi nó là Nhất thiết chủng tử.

Giải thích : Thức này trước chưa có công năng huân tập sinh, sau mới có nên khác trước. Thức trước chỉ là quả báo không gọi là Nhất thiết chủng tử được. Thức sau có khả năng làm nhân sinh cái khác, nên gọi là Nhất thiết chủng tử. Thức trước chỉ sinh tự tương tục. Thức sau sinh tự tha tương tục nên hơn trước. Ví như hạt lúa mạch, nó có công năng nảy mầm cho nó, nên nói hạt lúa mạch là chủng tử của cái mầm. Nếu hạt lúa mạch phơi ra ngoài lâu hoặc bị lửa nóng làm hủy hoại công năng, tướng bề ngoài hạt lúa không khác nhưng do mất công năng nên không gọi là chủng tử. Thức này cũng vậy. Nếu có công năng sinh tất cả pháp, do tương ứng với công năng nên gọi là Nhất thiết chủng tử. Công năng này nếu tạ diệt không còn nữa thì chỉ nói là quả báo thức, không phải Nhất thiết chủng tử. Vì vậy không phải không khác.

Chương 4 : Làm nhân quả cho nhau

Luận nói : Làm sao thức A-lê-da cùng với các nhiễm ô lại đồng thời làm nhân cho nhau ?

Giải thích : Thức A-lê-da hoặc là nhân của tất cả pháp, hoặc là quả của tất cả pháp. Tất cả pháp đối với thức A-lê-da cũng vậy. Làm sao biết được nghĩa này ? Để làm rõ nghĩa này nên phải nói thí dụ.

Luận nói : Ví như ngọn lửa đèn và tim đèn. Việc phát ra ánh sáng và việc đốt cháy tim đèn là hai việc đồng thời làm nhân cho nhau.

Giải thích : Do cái thể của tim đèn làm nơi nương tựa có thể phát sinh ngọn lửa. Tim đèn là nhân phát sinh ngọn lửa sáng. Ngọn lửa sáng ngay khi phát sinh, trong sát-na đốt cháy tim đèn. Ngọn lửa sáng làm nhân đốt cháy tim đèn. Thức A-lê-da này với tất cả pháp kia cùng có sinh nhân. Phải hiểu nghĩa như vậy. Bởi vì sao ? Nhân này hiện trụ trong hiện tại chưa mất cũng đã thấy quả sinh.

Luận nói : Cũng như bó cây lau nương tựa vào nhau mà đứng được.

Giải thích : Như 2 bó cây lau, mỗi một sát-na nương tựa giữ lẫn nhau.

Luận nói : Nên biết bản thức với năng huân tập làm nhân cho nhau cũng nghĩa như vậy. Như thức là nhân của pháp nhiễm ô, và pháp nhiễm ô là nhân của thức.

Giải thích : Thức A-lê-da này là sinh nhân của chủng tử. Nếu không có thức này 3 nghiệp sinh diệt không nương vào đâu. Như cái thể đã tạ diệt thì công năng cũng vậy. Cho nên do cái thức này mà thể của các pháp phát sinh công năng. Cho nên bản thức là sinh nhân của kia. Pháp kia cũng vậy. Nếu pháp kia không có thức này khởi thì trong hiện tại không có lý, chuyển sau khác trước, sự biến đổi khác này là quả của pháp kia.

Luận nói : Bởi vì sao ?

Giải thích : Vì sao không nói riêng các pháp khác tương đối làm nhân quả cho nhau mà chỉ nói thức cùng với pháp nhiễm ô làm nhân quả lẫn nhau, hoặc là ngoại đạo, hoặc là Nhị thừa, nên hỏi như thế.

Luận nói : Vì lìa hai pháp này không thể có nhân nào khác.

Giải thích : Ở trong thế gian, lìa 2 pháp phân biệt và y tha, không còn pháp nào khác. Thức A-lê-da thuộc tính y tha, ngoài ra tất cả pháp thuộc tính phân biệt. Hai pháp này gồm thâu tất cả pháp. Vì hết 3 cõi duy chỉ có thức. Vì vậy lìa 2 pháp này, không có nhân khác. Nếu 2 pháp là nhân cộng hữu tức là công lực. Quả tùy theo nhân có phẩm loại thì phẩm loại kia cũng vậy.

Chương 5 : Nhân quả riêng hay không riêng

Luận nói : Vì sao huân tập thì không khác, không đa chủng, mà có thể làm nhân sinh ra các pháp sai khác và đa chủng ?

Giải thích : Câu vấn nạn này muốn hỏi về câu hữu nhân. Như thế tức bất thành nạn vấn. Bởi quả với nhân không cùng một lúc. Nếu hỏi nhân của quả báo thì có thể thành câu hỏi. Nhân của quả báo chắc chắn là hữu ký, quả của quả báo chắc chắn là không đồng thời với nhân.

Luận nói : Ví như chiếc áo đan dệt bằng nhiều sợi. Áo không có nhiều màu sắc, nhưng khi cho vào chậu thuốc nhuộm thì hiện thấy nhiều vẻ khác nhau.

Giải thích : Dẫn thí dụ này là muốn làm rõ nhân quả của quả báo đều được thành lập. Như người muốn tạo hình trên áo, trước dùng sợi đan vào áo, áo này khi đan, hình tướng không có gì khác, sau khi nhuộm xong, gỡ các sợi đã đan ra thì thấy các hình tướng hiện.

Luận nói : Cũng vậy thức A-lê-da khi các pháp huân tập,

Giải thích : Thức A-lê-da bị 3 nghiệp thiện, ác , bất động huân tập như chiếc áo bị đan kết.

Luận nói : nó chỉ có một tính chứ không nhiều thứ.

Giải thích : Khi huân tập tự có 3 thứ : một là phương tiện, hai là khi đang làm, ba là sau khi làm. Lại có 3 thứ : một là tự mình làm, hai là bảo người làm, ba là bằng lòng với việc làm đó. Chủng tử với thức A-lê-da đồng một tính vô ký, tách rời thức này không có mỗi mỗi thể khác nhau.

Luận nói : Nhưng khi sinh ra quả, thì như trong chậu thuốc nhuộm vô số chủng loại tướng mạo hiện ra nơi thức A-lê-da.

Giải thích : Khi đã đủ các duyên như lúc cho áo vào chậu thuốc nhuộm. Các chủng tử với bản thức trong 3 thời hiện, sinh và hậu, tùy mỗi thời vô số tướng mạo của quả báo hiển hiện nơi thức này. Cho nên tuy lúc huân tập không thấy có khác nhưng khi quả báo đã thục rồi thì có vô lượng sai biệt, ví như nhuộm áo. Nếu ý ông cho rằng quả báo đã quyết định lấy hữu ký làm nhân, vì sao lấy vô ký làm nhân, nghĩa này không khác. Bởi vì sao ? Vì người kia nơi quả nói nhân, còn Đại thừa nơi quả nói quả.

Chương 6 : Duyên sinh

Luận nói : Trong Đại thừa, duyên sinh này vi tế và rất sâu.

Giải thích : Muốn làm rõ chỗ khác nhau giữa Đai thừa và Tiểu thừa. Đại thừa có đủ 3 thứ duyên sinh. Tiểu thừa chỉ có 2 thứ. Duyên sinh thứ nhất trong Đại thừa không có trong Tiểu thừa. Vì sao Đại thừa có mà Tiểu thừa không ? Vì cái duyên sinh thứ nhất này rất sâu xa vi tế, không được nói bởi các thừa khác. Trí phàm phu không thể thông đạt nên gọi là vi tế. Trí của A-la-hán, Độc Giác không thể tới được chỗ cùng tận nên gọi là rất sâu. Duyên sinh này có mấy thứ ? Nếu nói rộng thì có 3 thứ. Nói đại lược thì có 2 thứ. Những gì là hai ?

Luận nói : Nếu lược nói có 2 thứ duyên sinh : một là phân biệt tự tính, hai là phân biệt ái phi ái.

Giải thích : Do trong có 2 tên này nrrn có 2 thứ duyên sai biệt.

Luận nói : Y chỉ vào thức A-lê-da các pháp sinh khởi, gọi là phân biệt tự tính duyên sinh.

Giải thích : Do chủng tử các pháp, các pháp dựa vào thức A-lê-da khi muốn sinh, nếu đủ ngoại duyên thì dựa vào thức A-lê-da liền được sinh. Các pháp sinh đều lấy thức A-lê-da làm nhân chung, nên gọi là tự tính phân biệt. Bởi vì sao ? Vì thể tính các pháp khác nhau sinh khởi phân biệt sai biệt, đều lấy thức A-lê-da làm nhân. Nếu phân biệt các pháp duyên sinh tự tính thì chỉ thức A-lê-da này.

Luận nói : Vì do phân biệt tự tính của các pháp nhân duyên.

Giải thích : Phẩm loại các pháp trong khắp 3 cõi, nếu là nhân sinh khởi phân biệt thì chỉ một thức. Nếu phân biệt tính của các pháp thì tức là thức này. Nếu phân biệt các pháp sai biệt thì đều từ thức này sinh. Vì vậy các pháp do thức này đều đồng một tính. Hai là phân biệt ái phi ái là

Luận nói : Lại có 12 phần duyên sinh, gọi là phân biệt ái phi ái.

Giải thích : Lấy 3 đời lập 12 phần để làm rõ nhân, rõ quả và rõ nhân quả. Cho nên lìa 8 phần căn bản là 12 phần. Căn bản 8 phần không ra ngoài 3 pháp là phiền não, nghiệp và quả báo. Phiền não là ví như từ hạt sinh ra mầm. Từ phiền não sinh phiền não. Từ phiền não sinh nghiệp quả. Từ phiền não sinh quả báo. Lại ví dụ như trong ao có rồng ở nước không bao giờ cạn kiệt. Nếu có phiền não thì liên tục sinh không chấm dứt. Lại như gốc rễ của cây chưa nhổ lên, cứ đến thời vụ thì nảy sinh. Chưa trừ gốc rễ phiền não thì báo 6 đường luôn luôn khởi. Nghiệp là ví như hạt lúa có cám thì có thể nảy mầm. Nghiệp nếu hữu lưu thì có thể cảm báo. Lại như Ô-sa-hi, nghĩa là cây chuối, cây tre v.v… ra qủa rồi thì cây chết. Nghiệp nếu đã chín muồi rồi thì không sinh quả trở lại. Lại như hoa là nhân gần của việc sinh ra quả. Nghiệp cũng vậy là có thể gần sinh ra quả. Quả báo là ví như việc nấu thức ăn uống. Thức ăn uống nếu đã chín rồi thì chỉ thụ dụng không nấu chín lại nữa. Quả báo đã chín muồi thì không kết quả báo sau nữa. Nếu còn kết quả báo nữa thì không giải thoát được. Cho nên 12 duyên sinh không ra ngoài 3 pháp này. Mười hai phần này có thể phân biệt có 2 thứ sinh thân vô cùng sai biệt vì do duyên sinh kia. Bởi vì sao ? Cái vo minh này có 3 phâm nghiệp duyên sinh. Đó là phúc, phi phúc, bất động hành. Do hành có 3 phẩm như thế nên thức v.v…hoặc sinh tùy theo phúc hành, hoặc sinh tùy theo phi phúc hành, hoặc sinh tùy theo bất động hành. Trong 3 phẩm này phúc và bất động là khả ái, phi phúc là bất khả ái, cho nên nói phân biết ái phi ái.

Luận nói : Vì phân biệt ái phi ái đối với các thiện ác đạo mà sinh các nhân khác nhau.

Giải thích : Thiện đạo là ái. Ác đạo là phi ái. Trong thiện ác đạo này có vô lượng thứ phân biệt sai biệt. Các sai biệt này không ra ngoài 12 duyên sinh. Tức lấy 12 duyên sinh làm nhân sai biệt, cho nên nói 12 duyên sinh phân biệt ái phi ái.

Luận nói : Nếu người mê lầm duyên sinh thứ nhất đối với thức A-lê-da

Giải thích : Mê có 3 sự lầm lạc : một là không biết, hai là nghi ngờ, ba là điên đảo. Nếu khởi 3 lầm lạc này thì sinh 2 thứ kiến chấp. Hoặc chấp nhân bất bình đẳng, hoặc chấp không có nhân. Chấp nhân bất bình đẳng là

Luận nói : thì hoặc chấp tự tính là nguyên nhân sinh tử,

Giải thích : Tăng-khư, tức Số luận ngoại đạo, dẫn 5 nghĩa chứng lập tự tính là thật hữu : Một là do có riêng ắt có chung nên biết có tự tính. Trong thế gian nếu có vật riêng biệt thì chắc chắn có cái chung. Ví như lấy một cân vàng dùng làm vòng xuyến, vòng xuyến có số lượng riêng biệt thì biết có số lượng vàng chung cho các thứ ấy. Do thấy có số lượng riêng biệt khác nhau thì biết tự tính chung cũng có số lượng. Hai là do chi mạt tương tự căn bản nên biết có tự tính. Ví như một cân bạch đàn chia làm nhiều miếng, mỗi miếng đều có mùi thơm giống như lúc còn nguyên chưa chia ra. Trong sự biến đổi khác biệt tất có 3 đức tính là ưu, hỷ, ám thì biết trong tự tính chung cũng có 3 đức tính. Ba là do sự việc có kỹ năng mà biết có tự tính. Như người thợ đúc có kỹ năng mới làm ra các đồ vật. Do tự tính là hữu thể nên trong các biến đổi khác nhau mới làm được các vật khác nhau. Nếu không có chỗ y cứ, kỹ năng sẽ bất thành. Bốn là do nhân quả sai biệt mà biết có tự tính. Ví như tụ đất lại là nhân, cái bình là quả. Như vậy lấy tự tính làm nhân, biến đổi khác làm quả. Năm là do tam hữu không phân biệt nên biết có tự tính. Nếu khi thế gian hoại, 11 căn hoại biến làm 5 đại, 5 đại hoại biến thành 5 duy lượng, 5 duy lượng hoại biến thành ngã mạn, ngã mạn hoại biến thành trí, trí hoại biến thành tự tính. Cho nên tam hữu đối với tự tính không phân biệt trở lại. Nếu khi thế gian khởi, từ tự tính khởi trí, từ trí khởi ngã mạn, cho đến từ 5 đại khởi 11 căn. Nếu không có khi tự tính hoại thì hoàn toàn không có nghĩa khởi lên lại. Nếu không có sự khởi lên lại thì không có nghĩa tuần tự sinh.

Luận nói : hoặc chấp tác nghiệp đời trước,

Giải thích : Lộ-kha-da-chỉ-kha, tức Thuận thế ngoại đạo, nói trong thế gian tất cả nhân đều có tác nghiệp đời trước, vì công lực hiện tại không thể cảm quả, hiện tại chẳng phải là nhân. Như ở thế gian có 2 người cùng làm việc cho một ông chủ, đều có công sức như nhau nhưng một thì được chủ đãi ngộ còn một thì không, cho nên biết là chỉ do nghiệp đời trước tạo ra, chẳng liên quan gì đến công sức hiện tại.

Luận nói : hoặc chấp tự tại biến hóa,

Giải thích : Nếu các thuyết đã lập ở trước đều không thành nhân thì chỉ có một nhân gọi là tự tại khiến chúng ta sinh thiện ác, luân chuyển sinh tử, sau khiến khởi chán bỏ cầu giải thoát. Tự Tại Nhân Luận sinh ra trí tuệ, giải thoát các trói buộc, trở về lại cái thể tự tại.

Luận nói : hoặc chấp 8 thứ tự tại ngã,

Giải thích : Như Tì-thế-sư Na-da-tu-ma chấp ngã là tướng như thế nào đức như thế nào ? Trí tính là tướng, 8 tự tại là đức. Như lửa lấy cái nóng làm tướng. Cái ngã cũng vậy, nếu độc lập tồn tại và ở xen tạp, trí tính không đổi nên lấy trí tính làm tướng. Tám tự tại là : một là vi tế nhất trong vi tế, hai là vĩ đại nhất trong vĩ đại, ba là phổ biến đến khắp cả, bốn là tùy ý, năm là không trói buộc lệ thuộc, sáu là biến hóa, bảy là thường không biến đổi, tám là thanh tịnh không ái nhiễm.

Luận nói : hoặc chấp không có nhân.

Giải thích : Do không hiểu rõ một phần nhân quả thế gian nên lấy đó mà cho các quả khác đều không có nhân.

Luận nói : Nếu người mê lầm duyên sinh thứ hai thì hoặc chấp cái ngã là tác giả, hoặc cái ngã là thụ giả.

Giải thích : Cũng do 3 sự mê lầm nên không hiểu rõ duyên sinh thứ hai. Nếu tăng giảm nhân quả và sự thì gọi là không hiểu rõ duyên sinh thứ hai. Tăng nhân tức các nhân trừ vô minh, lập nhân bất bình đẳng làm nhân. Giảm nhân là hành v.v… không có nhân. Tăng quả là hành v.v…vốn tự có cái thể, sau duyên vô minh sinh. Giảm quả là vô hành v.v…là quả của vô minh. Tăng sự là vô minh v.v…sinh hành v.v…, lìa chỉ các duyên hòa hợp, có vô minh v.v…các biệt sự, có thể tạo ra hành v.v…các biệt sự. Giảm sự là chấp vô minh không có công năng sinh hành v.v…các sự. Vô minh v.v…không động không tác cho nên nếu lìa 3 chỗ tăng giảm này thì gọi là phân biệt duyên sinh thứ hai. Nếu không phân biệt được như vậy, tức mê duyên sinh, khởi chấp tăng ích. Nghĩa là gọi ngã chấp là tác giả thụ giả chấp. Trước là do bản thức khởi ngã chấp, sau là do nhân quả khởi tác giả thụ giả chấp. Nếu ngã tạo nhân thì gọi là tác giả. Nếu ngã thụ báo thì gọi là thụ giả.

Luận nói : Ví như có đám người mù bẩm sinh chưa từng biết con voi là gì.

Giải thích : Nói đám đông ví cho Nhất-xiển-đề và ngoại đạo. Người mù bẩm sinh ví cho sự mê lầm thể tính nhân quả của thức A-lê-da, chưa từng thấy 3 thứ vô minh, ví cho sự không thể hiểu rõ. Con voi ví cho thức A-lê-da. Người mù bẩm sinh, suốt đời không thấy được sắc. Nhất-xiển-đề và ngoại đạo sinh tử từ vô thủy đến nay chưa từng hiểu biết 3 tướng của thức A-lê-da.

Luận nói : Có người đem voi đến cho họ tiếp xúc.

Giải thích : Có người là ví cho tà sư, cho biết là ví cho tà thuyết, cho tiếp xúc ví cho việc khiến chúng không tư duy đúng đắn, chấp kiến thiên lệch.

Luận nói : Những người mù kia, người thì sờ được vòi, người sờ ngà, người sờ tai, người sờ chân, người sờ đuôi, người sờ lưng v.v…Có người hỏi con voi hình dáng thế nào, những người mù đáp nào là như cái chuôi cày, như cái chày, như cái rổ, như cái cối, như cây chổi, như đá núi. Nếu người không rõ 2 thứ duyên sinh thì vì vô minh bẩm sinh hoặc nói tự tính là nhân, hoặc nói tác nghiệp đời trước, hoặc nói tự tại biến hóa, hoặc nói 8 thứ ngã tự tại, hoặc nói không có nhân, hoặc nói là tác giả, thụ giả.

Giải thích : Sáu trường hợp tiếp xúc sờ voi ví dụ cho 6 sự thiên chấp : 1.tự tính, 2.túc tác, 3.tự tại, 4.ngã, 5.vô nhân, 6.tác giả thụ giả. Nói v.v…là chỉ 62 kiến chấp.

Luận nói : Đó là do không rõ thể tướng và nhân quả tướng của thức A-lê-da. Như những người mù bẩm sinh kia, không biết thể tướng của con voi nên diễn tả khác nhau.

Giải thích : Phẩm đầu tiên lập tự thể để hiển thị tự tướng, lập nhân để hiển nhân tướng, lập quả để hiển quả tướng. Hai hạng người này do vô minh không thể hiểu rõ 3 tướng của bản thức, chi nên không thể thông đạt phân biệt tự tính duyên sinh, khởi 5 cái chấp nư tự tính v.v…, không thể thông đậtí phi ái duyên sinh nên khởi cái chấp thứ sáu là tác giả thụ giả.

Luận nói : Nếu nói vắn tắt thể tướng của thức A-lê-da, thì nó là quả báo thức, là nhất thiết chủng tử.

Giải thích : Nhân tướng của thức A-lê-da là tất cả pháp huân tập nơi bản thức trung hữu, nên gọi là nhân. Quả tướng là thức này bị các pháp khác huân, nên thành quả các pháp. Thể tướng là quả báo thức. Nhất thiết chủng tử là thể tướng của nó.

Luận nói : Bởi vì thức này gồm thâu tất cả tam giới thân, tất cả lục đạo tứ sinh.

Giải thích : Nói thân trong 3 cõi tức nói chung 4 loài sinh trong 6 đường, có loài như nhau có loài không như nhau rất nhiều sai khác. Khi thức này thành thục thì có thể thành cái thể của 6 đường. Bởi vì sao ? Ba nghiệp huân tập là chủng tử của các nẻo đường. Do nghĩa này nên tất cả các loài sinh, tất cả các nẻo đường trong 3 cõi đều gồm trong thức này.

Luận nói : Để hiển thị nghĩa này kệ nói :

Trong ngoài không hiểu rõ,

Cả hai là giả danh.

Và chân thật tất cả

Chủng tử có 6 thứ :

Niệm niệm diệt, câu hữu,

Tùy trục, chí trị tế,

Quyết định, quán nhân duyên,

Năng dẫn hiển tự quả.

Kiên, vô ký, khả huân,

Với năng huân tương ưng,

Không thể huân nếu khác,

Đó là huân thể tướng.

Sáu thức không tương ưng,

Trái nhau 3 sai biệt.

Hai niệm không câu hữu,

Các loài khác cũng vậy.

Chủng tử trong ngoài này,

Năng sinh và dẫn nhân,

Cây khô còn tương tục,

Rồi sau mới chết hẳn.

Giải thích : Đã nói thức A-lê-da là chủng tử tất cả pháp. Nay lại muốn làm rõ nghĩa của chủng tử nên nói kệ này. Nói “Trong ngoài không hiểu rõ “ là chủng tử có 2 thứ, một là ngoài hai là trong. Ngoài là lúa thóc v.v…, đối với 2 tính thiện ác không rõ ràng vì là hữu ký. Trong là thức

A-lê-da, đối với 2 tính thiện ác thì rõ ràng, hoặc lấy nhiễm ô và thanh tịnh làm 2. Nói “Chỉ giả danh và chân thật.” nghĩa là chủng tử ngoài chỉ là giả danh. Bởi vì sao ? Vì tất cả pháp chỉ có thức. Chủng tử trong là chân thật. Bởi vì sao ? Vì tất cả pháp lấy thức làm gốc. Nói “ Tất cả chủng tử có 6 thứ “ là nói chung chủng tử trong và chủng tử ngoài không quá 6 thứ. Những gì là 6 ? “Niệm niệm diệt” là 2 chủng tử tử này diệt trong từng sát-na. Trước sinh sau diệt không gián đoạn nên pháp này được thành chủng tử. Bởi vì sao ? Vì pháp thường trụ không thành chủng tử. Bởi lẽ lúc nào cũng vậy không sai khác. Cho nên cái thứ nhất gọi là niệm niệm diệt. Câu hữu nghĩa là câu hữu thì thành chủng tử. Chẳng phải quá khứ, vị lai và phi tương ly. Khi nào có chủng tử tức khi ấy có quả sinh. Cho nên cái thứ hai gọi là câu hữu.

Nói “Tùy trục chí trị tế “ , nghĩa là theo đuổi cho đến trị, trị nghĩa là Kim cương tâm đạo. Cho đến lúc này thức A-lê-da mới hết công năng của nó, nên gọi là tế, chữ tế là biên cương cuối cùng. Chủng tử ngoài đến khi quả chín và căn hoại thì hết công năng, nên cái thứ ba gọi là tùy trục chí trị tế. Nói “Quyết định” nghĩa là do đây quyết định chứ không phải do tất cả. Tất cả được sinh kết quả và quyết định. Nếu là chủng tử của quả này thì quả này được sinh. Cho nên cái thứ tư gọi là quyết định. Nói “quán nhân duyên” nghĩa là do chủng tử này quán nhân duyên khác mới lại sinh quả. Cho nên không phải mọi lúc, không phải tất cả sinh, mà là khi ấy nếu có nhân thì khi ấy nhân được sinh. Cho nên không luôn luôn sinh. Nếu không quán nhân mà thành nhân thì một nhân là nhân của tất cả quả. Do quán nhân duyên thành cho nên bất mạn là nhân. Vì vậy cái thứ năm gọi là quán nhân duyên. Nói “ Năng dẫn hiển tự quả” nghĩa là tự chủng tử có khả năng dẫn sinh tự quả. Như thức A-lê-da có thể dẫn sinh quả của thức A-lê-da, cũng như hạt lúa v.v… có thể dẫn sinh ra quả của lúa, cho nên cái thứ sáu gọi là năng dẫn sinh tự quả. Như vậy 6 thứ này là nghĩa của nhân quả sinh. Các phương tiện này khiến dễ thấy tướng mạo của sự huân tập, nay sẽ nói trở lại. Nói “Kiên, vô ký, khả huân,với năng huân tương ưng,” tức là có 4 thứ nghĩa của huân tập. Một là nếu liên tục trụ vững khó hỏng thì có thể chịu huân tập, còn thô sơ biến động thì không được. Ví dụ như gió thì không thể tiếp nhận sự huân tập được. Bởi vì sao ? Gió này nếu liên tục trong một do-tuần, sự huân tập cũng không theo được vì nó tán động. Như hoa Chiêm-ba được ướp trong dầu, trong một trăm do-tuần có thể huân tập được vì trụ vững. Hai là nếu chất khí vô ký thì có thể tiếp thụ sự huân tập. Vì vậy nên tỏi không chịu sự huân tập vì mùi nó hôi. Trầm, xạ hương v.v…cũng không chịu huân tập vì mùi nó thơm. Nếu vật gì không thơm không hôi thì xông ướp được. Như áo xống v.v… Ba là huân tập được thì cũng có thể nhận chịu sự huân tập. Vì vậy vàng, bạc, đá v.v…không thể huân tập vì không bị huân tập. Nếu vật như áo, dầu v.v…vì có thể chịu huân tập nên gọi là có thể huân tập. Bốn là năng và sở tương ưng thì có thể chịu huân tập. Nếu sinh không gián đoạn thì gọi là tương ưng cho nên chịu huân tập. Nếu không tương ưng thì không thể chịu huân tập. Nói “Không thể huân nếu khác, đó là huân thể tướng.” nghĩa là nếu khác 4 nghĩa này thì không thể huân tập. Vì vậy cho nên lìa thức A-lê-da, các pháp khác không thể chịu huân tập. Vì thức A-lê-da đủ 6 nghĩa trước : 1.niệm niệm sinh diệt, 2.câu hữu với thức sinh khởi, 3.theo đuổi cho đến tận cùng sinh tử, 4.quyết định các nhân là thiện ác v.v…, 5.quán phúc hành, phi phúc hành, bất động hành là nhân, đối với 2 đường yêu ghét thành thục là đạo thể, 6.có thể dẫn hiển quả đồng loại. Tất cả thức sinh khởi tuy đủ 6 nghĩa được làm chủng tử, chỉ tương phản với 4 nghĩa huân tập, do thức A-lê-da đủ 6 nghĩa của chủng tử và 4 nghĩa của huân tập, cho nên có thể thụ huân tập chuyển làm chủng tử. Các thức khác thì không như vậy. Bởi vì sao ? Nói “Sáu thức không tương ưng,” nghĩa là 6 thức trước sau không tương ưng với nhau vì dễ biến động hủy hoại. Lại nữa chẳng phải chỉ vì chỉ dễ biến động hủy hoại nên không tương ưng mà còn các nghĩa khác. Nói “Ba sai biệt trái nhau” nghĩa là tùy mỗi thức, sinh mỗi y chỉ khác nhau, sinh cảnh giới khác nhau, sinh tư duy giác quá khác nhau, sinh tưởng khác nhau nên gọi là trái nhau. Sáu thức lại không cùng thông nhau nên sai biệt, sai biệt nên trái nhau. Các sư Kinh bộ nói niệm trước huân tập niệm sau. Bởi vì sao ? Vì trong một sát-na hai thức không cùng khởi, không được đồng thời. Nghĩa này không phải vậy. Bởi vì sao ? Nói trong một niệm 2 thứ không đồng thời câu hữu nghĩa là năng huân và sở huân nếu trong cùng một lúc tức đồng sinh đồng diệt thì nghĩa huân tập mới thành, nếu không đồng thời thì nghĩa huân tập không thành. Bởi vì sao ? Nếu năng huân còn, sở huân chưa sinh, sở huân sinh, năng huân đã tạ diệt, sát-na trước sau khởi cùng một lúc thì không có chuyện đó. Cho nên 6 thức không cùng khởi nên không có huân tập. Nếu ông nói có thức sinh loại, tướng của nó như thế nên có thể chịu huân tập, nghĩa ấy không đúng. Các loại sinh khác cũng vậy. Nếu ông chấp cho rằng nghĩa không tương ưng cũng có thể huân tập lẫn nhau thì không đúng như nghĩa ông chấp. Tôi sẽ lấy một thí dụ về cái chấp của ông. Như nhãn v.v…các căn không đồng với thức nên gọi là cái khác. Các căn này sắc thanh tịnh đồng loại cũng phải huân tập lẫn nhau. Tuy đồng sắc loại mà không tương ưng cho nên nếu ông không chấp nhận huân tập lẫn nhau thì 6 thức cũng vậy. Tuy đồng thức loại mà không tương ưng cho nên làm sao có thể nói là huân tập lẫn nhau ? Trước đã nói 2 thứ chủng tử là chủng tử ngoài và chủng tử trong. Nếu lấy nghĩa về nhân mà hiển thị thì thành 2 thứ nhân, một là sinh nhân , hai là dẫn nhân. Để hiển thị nghĩa này nên nói chủng tử ngoài và chủng tử trong là năng sinh nhân và năng dẫn nhân. Chủng tử ngoài và trong, nếu là sinh nhân và dẫn nhân thì tướng của nó như thế nào ? Khả năng sinh mầm v.v… cho đến quả chín là ngoại sinh nhân. Khả năng sinh quả báo cho đến mạng chung là nội sinh nhân. Dẫn nhân nghĩa là đã chết khô nhưng còn tương tục sau mới chết thực sự. Ngoại chủng tử như hạt lúa đã cũ, nội chủng tử như thân đã chết. Do dẫn nhân cho nên còn tương tục trụ một thời gian. Nếu 2 thứ chỉ có sinh nhân thì sinh nhân đã tàn tạ quả liền diệt mất ngay không còn tương tục trụ lại. Nếu ông nói do sát-na chuyển dần chuyển dần mà sinh nối nhau, sát-na trước làm nhân cho sát-na sau nên như tương trục trụ lại. Nếu nói vậy thì sẽ không có lúc cuối cùng chấm dứt. Đã không thể có 2 nghĩa này cho nên biết rằng có dẫn nhân. Hai thứ nhân này ví như người bắn cung buông mũi tên. Buông mũi tên là sinh nhân, cây cung là dẫn nhân. Buông mũi tên lìa sợi dây mũi tên sẽ đi xa. Nếu chỉ buông mũi tên là nhân mà không dùng cây cung làm nhân thì mũi tên không đi xa được. Nếu nói mũi tên sát-na trước sinh mũi tên sát-na sau nên mũi tên được bay đi xa, vậy cũng có nghĩa là mũi tên sẽ không bao giờ rơi. Chủng tử ngoại nội cũng vậy. Do sinh nhân hết nên khô chết. Do dẫn nhân hết nên diệt mất.

Luận nói :

Ví như chủng tử ngoài,

Chủng tử trong không thế.

Nghĩa này làm rõ bằng 2 bài kệ sau đây :

Ở ngoài, không huân tập,

Chủng tử trong không thế.

Nếu văn không huân tập,

Sinh quả là phi lý.

Đã làm và chưa làm,

Được mất đều trái nhau.

Do trong ngoài được thành,

Cho nên trong có huân.

Giải thích : Nếu nội chủng tử không khác với ngoại chủng tử thì nhãn v.v… các căn đồng là tứ đại thanh tịnh, sao lại không huân lẫn nhau ? Vì nó là ngoài. Chủng tử ngoài có 3 nghĩa khác với chủng tử trong. Vì vậy huân tập bên trong mà dựa vào bên ngoài là không được. Để làm rõ nghĩa này nên nói 2 bài kệ. Nói “Ở ngoài, không huân tập,Chủng tử trong không thế.” nghĩa là chủng tử ngoài như lúa mạch v.v…là do công năng mà thành chứ không do huân tập thành. Chủng tử trong thì không như vậy, phải do huân tập mới thành. Nghĩa này không phải chứng minh so sánh cảnh giới. Làm sao có thể biết ? Là “Nếu văn không huân tập, Sinh quả là phi lý.” Nghĩa là nếu trong mà không huân tập, thì xưa chưa học văn tuệ tư tuệ không sinh, nay theo học văn tuệ, sau tư tuệ cũng phải không sinh. Bởi vì sao ? Vì đều cùng là không huân tập. Đã không có nghĩa này , nên biết rằng bên trongn do có huân tập mới thành chủng tử, không huân tập thì không thành. Nếu bên trong không huân tập thì còn có lỗi gì ? Là “Đã làm và chưa làm, Được mất đều trái nhau.” Nghĩa là nếu trong không huân tập thì có 2 lỗi, một là chưa làm mà được, hai là đã làm mà mất. Nếu trong tương tục, không huân tập là nhân thì cái quả khổ vui này không phải nhân làm ra, tức là không làm mà được. Nếu đã làm công dụng mà trong tâm không huân tập, tức là không nhân mà có thể được quả, tức là đã làm mà mất. Nghĩa này trái với thế gian mà cũng trái với đạo lý. Vì vậy cho nên bản thức bị 3 nghiệp huân tập mới thành được nhân. Lại nữa, vì sao lúa mạch v.v…không huân tập mà được thành chủng tử ? “Do trong ngoài được thành, Cho nên trong có huân.” Nghĩa là ngoài nếu thành chủng tử không phải do tự năng lực, ắt phải do bên trong huân tập cảm ra bên ngoài nên thành chủng tử. Bởi vì sao ? Tất cả pháp bên ngoài, lìa bên trong sẽ không thành. Vì vậy cho nên bên ngoài không thành huân tập. Một là do bên trong có huân tập được thành chủng tử. Hai là nếu trong không chủng tử thì chưa làm mà được đã làm mà mất, không phải như nghĩa này. Ba là chủng tử ngoài do trong được thành nên trong khác ngoài, ắt có huân tập. Trước đã nói phân biệt tự tính duyên sinh, ái phi ái duyên sinh. Nay lại nói về thụ dụng duyên sinh. Tướng ấy như thế nào ?

Luận nói : Khác với thức A-lê-da, sở và năng của các thức khác, tức là thức sinh khởi, nên biết rằng trong tất cả các nẻo đường sinh tử chúng được gọi là thức thụ dụng.

Giải thích : Sáu thức này vì sao gọi là thức sinh khởi ? Tự có 2 nghĩa, vì chủng tử trong bản thức do thức này sinh khởi, vì 6 thức này là phiền não nghiệp duyên khởi nên một là năng huân tập bản thức khiến thành chủng tử. Chủng tử tự nó có 2 năng lực, một là năng sinh, hai là năng dẫn. Do 2 năng lực này 6 thức gọi tên là sinh khởi. Do quả có hai năng lực cho nên nhân được 2 tên. Hai là trong bản thức khi nhân chín muồi, 6 thức theo nhân sinh khởi vì thụ dụng các báo yêu ghét v.v…Thức này tên sinh khởi thức, cũng gọi thụ dụng thức, vì do nhân đời trước sinh khởi khiến thụ dụng quả báo, cho nên được 2 tên là sinh khởi và thụ dụng. Sinh khởi thức này vì thụ quả báo nên nó thụ thân tất cả trong tứ sinh lục đạo. Nên biết rằng thức này cũng gọi thụ dụng thức, vậy tướng mạo thụ dụng thức như thế nào ?

Luận nói : Như bài kệ trong Luận Trung Biên nói :

Một, tên là duyên thức,

Hai, tên là thụ thức.

Liễu, thụ là phân biệt,

Khởi hành …các tâm pháp.

Giải thích : Nói ”Một, tên là duyên thức,” nghĩa là thức A-lê-da là nhân duyên của sinh khởi thức nên gọi là duyên thức, “Hai, tên là thụ thức.” ngoài ra các thức khác trước gọi là sinh khởi thức, nay gọi là thụ thức. Các thức này có khả năng duyên trần khởi, và trong mỗi mỗi trần có thể thụ dụng khổ vui v.v…nên gọi là thụ thức, tức là thụ ấm. Nói “Liễu, thụ là phân biệt,” nghĩa là 3 thụ này nếu có biệt tâm thì có thể phân biệt hiểu biết được, như đây là thụ khổ, đây là thụ vui, đây là thụ không khổ không vui. Thức này gọi là phân biệt thức, tức là tưởng thức. Nói “Khởi hành …các tâm pháp.” nghĩa là tác ý v.v…gọi là khởi hành, nghĩa là suy nghĩ đây là tốt kia là xấu v.v…nên gọi là tác ý. Cái tác ý này có thể khiến tâm bỏ đây lấy kia nên gọi là khởi hành. Khởi hành tức hành ấm. Sáu thức gọi là tâm. Từ cái tâm ban đầu này sinh 3 tâm sau nên gọi là tâm pháp.

Luận nói : Hai thức này lại làm nhân cho nhau. Như bài kệ trong Đại Thừa A-tì-đạt-ma nói :

Các pháp với Tạng thức,

Thức với pháp cũng vậy.

Cả hai : nhân cho nhau,

Cũng làm quả cho nhau.

Giải thích : Đây muốn nói rõ bản thức và thụ dụng thức làm nhân quả cho nhau, và lấy A-hàm làm chứng, không trái với A-hàm thì chắc chắn có thể tin. Lại nữa nếu không nói như vậy thì chưa biết chứng minh này là từ đâu ra, có phải Phật nói chăng hay không phải Phật nói, nên mới nói thế. Nói “Các pháp với Tạng thức, Thức với pháp cũng vậy.” nghĩa là nếu bản thức làm nhân các pháp thì các pháp là quả, ắt tàng chứa trong bản thức. Nếu các pháp làm nhân cho bản thức, thì bản thức là quả, ắt tàng chứa các pháp. Nói “Cả hai : nhân cho nhau, Cũng làm quả cho nhau.” Nghĩa là nếu bản thức là nhân của kia thì kia là quả của bản thức. Nếu kia là nhân của bản thức thì bản thức là quả của kia. Lý nhân quả như thế, duc có Phật không Phật, pháp vẫn thường trú như vậy.

Chương 7 : Bốn duyên

Giải thích : Như vậy 3 thứ duyên sinh này một là cùng sinh tử duyên sinh, hai là ái phi ái đạo duyên sinh, ba là thụ dụng duyên sinh. Ba thứ duyên sinh này có 4 thứ duyên.

Luận nói : Nếu trong duyên sinh thứ nhất, các pháp và thức làm nhân duyên cho nhau thì

Giải thích : Nhân duyên là đã rõ rồi không cần phải hỏi lại nữa. Bởi vì sao ? Vì các pháp huân tập trong thức A-lê-da nên có thể làm nhân quả cho nhau.

Luận nói : trong duyên sinh thứ hai, các pháp là duyên gì ?

Đó là tăng thượng duyên.

Giải thích : Do vô minh v.v… tăng thượng nên hành v.v… được sinh. Có 2 thứ tăng thượng một là không lìa nhau, hai là chỉ có. Không lìa nhau như nhãn căn là tăng thượng duyên của nhãn thức. Chỉ có, nghĩa là như trắng v.v…có thể hiển thị đen v.v… Nếu vô minh v.v…đối với hành v.v…có đủ 2 thứ tăng thượng duyên thì nếu không có khổ, dưới vô minh các hành không sinh, nếu hành đã sinh không tu đạo vô minh các hành không chín muồi. Bởi vì sao ? Vì người Tu-đà-hoàn không tạo nghiệp cảm sinh báo, người A-na-hàm không thụ sinh báo hạ giới.

Luận nói : Vậy bao nhiêu duyên có thể sinh 6 thức ?

Có 3 duyên, đó là tăng thượng duyên, duyên duyên và thứ đệ duyên.

Giải thích : Từ căn sinh nên gọi tăng thượng duyên, duyên trần nên gọi duyên duyên, thức trước diệt thức sau sinh nên gọi thứ đệ duyên. Khi thức trước có thể cùng thức sau sinh không có khoảng giữa xen cách nên gọi là thứ đệ.

Luận nói : Còn 3 duyên sinh này là cùng sinh tử duyên sinh, ái tắng đạo duyên sinh và thụ dụng duyên sinh thì đầy đủ 4 duyên.

Giải thích : Lấy 4 duyên nói cho 3 thứ duyên sinh, có trường hợp đủ và không đủ. Nếu đứng về hiển liễu nghĩa thì đều không đủ. Nếu đứng về ẩn mật nghĩa thì đều đủ 4 duyên.

    Xem thêm:

  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Tập Chư Pháp Bảo Tối Thượng Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Bản Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Thích Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Giảng Rộng Ý Nghĩa Năm Uẩn Theo Giáo Pháp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Chư Giáo Quyết Định Danh Nghĩa - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Thanh Từ - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Viên Lý - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Nhất Chân - Luận Tạng
  • Luận Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Cửu Tụng Tinh Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Nhập Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đề Bà Bồ Tát Giải Thích Với Ngoại Đạo Tiểu Thừa Về Niết Bàn Theo Kinh Lăng Già - Luận Tạng
  • Giải Nghĩa Kinh Kim Cang - Luận Tạng
  • Luận Thích Du Già Sư Địa - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Duy Thức - Luận Tạng