1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

Phải biết nhập thắng tướng 3

Chương 1 : Tướng chính nhập

Luận nói : Như vậy đã nói phải biết thắng tướng.

Thế nào là phải biết ngộ nhập thắng tướng ?

Giải thích : Phẩm này có 10 chương : 1.Tướng chính nhập, 2.Người năng nhập, 3.Cảnh giới nhập, 4.Vị nhập, 5.Phương tiện đạo nhập, 6.Tư lương nhập, 7.Tư lưong quả nhập, 8.Hai trí dụng, 9.Hai trí y chỉ, 10.Hai trí sai biệt.

Giải thích : Tất cả pháp gọi là phải biết. Ba tính là thắng tướng các pháp. Lại nữa 3 tính gọi là phải biết. Đồng một vô tính gọi là thắng tướng. Lại nữa nói phải biết là có 2 thứ : một là tịnh phẩm, hai là bất tịnh phẩm. Tịnh phẩm là tính y tha không phân biệt. Bất tịnh phẩm là tính y th có phân biệt. Phải biết nơi tính y tha có 3 chủng tính : một là tính y tha, hai là phân biệt trong tính y tha, ba là chân như vô phân biệt trong tính y tha. Ngoài ra các nghĩa khác có nói trong Phân biệt chương, trước đã nói nghĩa này rồi. Nếu người thực hành như thế này sẽ được nhập ưng tri tướng. Nay sẽ nói nghĩa này. Câu hỏi này là chỉ hỏi nhập thể tướng, không hỏi ưng tri và thắng tướng. Lại nữa câu hỏi này là hỏi trong quán duy thức duyên pháp nào làm cảnh. Cho nên trả lời câu hỏi này.

Luận nói : Cái đa văn huân tập y chỉ

Giải thích : Trong pháp Đại thừa, cái huân tập đa văn này có thuyêt nói tức là y chỉ. Lại có thuyết khác nói y chỉ là thân thể tương tục.

Luận nói : chẳng phải gồm thâu trong thức A-lê-da.

Giải thích : Vì nói rõ đa văn huân tập này là đối trị thức A-lê-da, cho nên không phải A-lê-da gồm thâu.

Luận nói : mà như thức A-lê-da thành chủng tử.

Giải thích : Như thức A-lê-da là nhân của tất cả pháp bất tịnh phẩm cho nên thành chủng tử. Đa văn huân tập cũng vậy, là nhân sinh tất cả pháp tịnh phẩm nên như là thức A-lê-da thành chủng tử. Pháp nào lấy đa văn huân tập làm chủng tử ? Để đáp câu hỏi này nên nói

Luận nói : Cái đa văn huân tập đó thuộc chính tư duy,

Giải thích : Bốn pháp dưới đây đều lấy đa văn huân tập làm chủng tử. Nếu giác quán tư duy thì dựa vào đa văn huân tập Đại thừa sinh giác quán này, lìa tà tư duy và tư duy thiên lệch, lấy chính tư duy làm tính loại nên nói thuộc chính tư duy.

Luận nói : tương tự pháp và tương tự nghĩa hiển hiện tướng sở sinh,

Giải thích : Tự pháp là giáo lý 12 bộ Phương Đẳng, tự nghĩa tức là lý sở thuyên của giáo lý Phương Đẳng. Tâm tương tự với giáo lý này, hiển hiện giáo lý là duyên. Duyên sinh giác quán phân biệt.

Luận nói : tương tự chủng loại sở thủ,

Giải thích : Giác quán này nếu khởi, tựa như sở thủ làm thể tướng. Hai câu này đều hiển thị tướng phần của thức.

Luận nói : có kiến phần,

Giải thích : Giác quán này có thể phân biệt hiểu biết, tức là kiến phần của thức. Nghĩa này thành lập 2 pháp của thức, tức tướng phần của thức và kiến phần của thức.

Luận nói : ý ngôn phân biệt,

Giải thích : Ý thức giác quán tư duy chỉ duyên ý ngôn phân biệt, không thể duyên một nghĩa nào khác. Lại nữa phải dựa vào tên gọi mà phân biệt các pháp nên nói là ý ngông phân biệt.

có ý thức phân biệt. Đa văn huân tập y chỉ là nhân của pháp này.

Chương 2 : Người năng nhập

Luận nói : Ai là người có thể ngộ nhập thắng tướng ?

Giải thích : Câu này hỏi người tu quán hạnh gì gọi là người có thể nhập duy thức quán ? Là Bồ-tát các 4 sức quán hạnh. Bồ-tát tướng như thế nào ? Là người khéo được 2 thứ tư lương phúc đức và trí tuệ. Các tư lương này tu hành theo thứ tự nào thì được viên mãn ? Có 4 thứ năng lực : 1.năng lực của nhân, 2.năng lực của thiện tri thức, 3.năng lực của chính tư duy, 4.năng lực của y chỉ.

Luận nói : Là người Đại thừa có đa văn huân tập liên tục,

Giải thích : Rời bỏ đa văn của Tiểu thừa nên gọi Đại thừa. Không phải chỉ một đời mà trong vô cùng kiếp tâm thường tương tục đa văn huân tập, đó là năng lực của nhân.

Luận nói : đã được thừa sự vô lượng chư Phật ra đời,

Giải thích : Quá vô số lượng chư Phật Như Lai ra đời, người này hằng y theo Phật nghe thụ giáo pháp, đúng như chính pháp tu hành nên gọi là thừa sự. Trước đã thừa sự như thế nên gọi là năng lực thiện tri thức.

Luận nói : đã quyết định nhập chính vị tín lạc.

Giải thích : Nếu người này đã tin ưa Đại thừa thì các ác tri thức không thể chuyển đảo phá hoại, nên gọi là quyết định. Tin có 3 thứ : một là tin có, hai là tin có thể được, ba là tin có vô cùng công đức. Nếu đã có tin, cầu tu hành được nhân, nên gọi là lạc. Từ Thập tín đến Thập hồi hướng là chính vị tín lạc. Nay ở địa vị đang nói đây chỉ lấy Thập hồi hướng quyết định tín lạc, gọi là năng lực tư duy. Đại thừa đa văn huân tập là nhân của năng lực này.

Luận nói : Do khéo thành thục tu tập tăng trưởng thiện căn, nên khéo được hai thứ tư lương phúc đức và trí tuệ.

Giải thích : Nếu người đã quyết định tín lạc, ân cần cung kính tin vui pháp đã được, tu pháp quán hạnh, nếu tu pháp quán hạnh tăng trưởng công đức thiện căn, như thế do năng lực tư duy thành thục tốt tư lương phúc đức và trí tuệ. Theo thứ tự thành thụch, dùng phúc đức trí tuệ này làm y chỉ, được nhập sơ địa, nên gọi là năng lực y chỉ. Bốn thứ năng lực này chỉ cho người có khả năng ngộ nhập.

Chương 3 : Cảnh giới nhập

Luận nói : Chư Bồ-tát nhập Duy thức quán ở đâu ?

Giải thích : Câu hỏi này có 2 ý. Một là hỏi nơi nào là duy thức cảnh giới. Hai là hỏi nơi nào là duy thức vị.

Luận nói : Hữu kiến tương tự pháp và nghĩa làm hiển tướng mà sinh Đại thừa pháp tướng.

Giải thích : Pháp này gọi là duy thức quán trì, cũng gọi cảnh giới. Ý ngôn phân biệt tức là tâm giác quán tư duy. Tư duy này có 2 tướng : Một là hữu kiến thức làm tướng nên nói là hữu kiến. Hai là hữu tướng thức làm tướng, nghĩa là hiển hiện tựa 12 bộ Đại thừa giáo và lý sở thuyên của tựa Đại thừa giáo nên nói là hữu tướng. Nói sinh Đại thừa pháp tướng nghĩa là Đại thừa pháp là nhân nên được sinh. Trong đây hiển thị thể của cảnh giới tức là ý ngôn phân biệt, hiển thị tướng của cảnh giới gọi là hữu kiến hữu tướng, hiển hiện nhân của cảnh giới gọi là Đại thừa pháp tướng.

Chương 4 : Vị nhập

Ý ngôn phân biệt này có 4 vị. Để làm rõ 4 vị này nên

Luận nói : Nhập nơi nguyện lạc hành địa. Nghĩa là tùy theo nghe mà sinh tín lạc.

Giải thích : Ý ngôn phân biệt ở trong nguyện lạc hành địa. Bởi vì sao ? Có các Bồ-tát do chỉ nghe tất cả pháp chỉ có thức, y theo giáo lý được nghe khởi tâm tín lạc, đối với lý tất cả pháp chỉ có thức sinh ý ngôn phân biệt, do đó nguyên lạc ý ngôn phân biệt nên nói Bồ-tát đã nhập duy thức quán. Hiểu biết như vậy gọi là nhập nguyện lạc vị của duy thức.

Luận nói : Kiến đạo nghĩa là thông suốt đúng như lý.

Giải thích : Như phương tiện này Bồ-tát nhập duy thức kiến vị. Nay sẽ nói phương tiện này tức thông đạt như lý ngay. Ý ngôn phân biệt này như tướng hiển hiện thì thật không có như vậy mà chỉ có thức. Thức này phi pháp, phi nghĩa, phi năng thủ sở thủ. Hiểu được như vậy là nhập duy thức kiến vị.

Luận nói : Tu đạo nghĩa là có thể đối trị tất cả chướng.

Giải thích : Ý ngôn phân biệt hiển nhập trong tu đạo. Nay nói về phương tiện này. Ý ngôn pân biệt này là phi pháp, phi nghĩa, phi năng thủ, phi sở thủ. Quán sát như vậy thì có thể đối trị tất cả 3 chướng. Đó gọi là nhập duy thức tu vị. Tu đạo này với kiến đạo không khác nhau. Vì do trí do cảnh. Nếu vậy sao có phân biệt làm 2 là kiến đạo và tu đạo ? Xưa chưa thấy chân như, nay mới được thấy gọi là kiến đạo. Trước đã thấy chân như sau lại thường tu quán gọi là tu đạo. Lại có thể trừ các chướng chung của 3 thừa, gọi là kiến đạo. Chỉ trừ chướng của Bồ-tát, gọi là tu đạo. Lại nữa quán chưa viên mãn, không thoái xuất, gọi là kiến đạo. Quán chưa viên mãn, có thoái xuất là tu đạo. Lại chỉ quán cảnh chung là kiến đạo. Quán đủ cả cảnh chung và riêng là tu đạo. Lại sự bất thành là kiến đạo. Sự thành là tu đạo.

Luận nói : Trong cứu cánh đạo, tức là thoát ra khỏi chướng cấu, thanh tịnh cùng cực,

Giải thích : Cứu cánh đạo có 2 thứ : một là hữu học cứu cánh, hai là vô học cứu cánh. Địa vị này là nơi sinh trí tuệ tối thanh tịnh, diệt trừ hết các chướng vi tế nhất không còn sót , nên gọi cứu cánh vị. Ở các địa cho đến Như Lai địa đều có nghĩa cứu cánh này. Nếu người nhập vào 4 địa vị này thì duyên cảnh giới gì ?

Luận nói : tất cả các pháp thật chỉ có thức. Như nói tùy chỗ nghe mà tín lạc, thông suốt đúng như lý, có thể đối trị tất cả chướng, xuất ly chướng cấu được thanh tịnh cao tột.

Giải thích : Câu này nói rõ nhập vào cảnh giới của 4 địa vị. Làm sao được cảnh giới 4 địa vị ? Tất cả pháp là hữu vi vô vi, hữu lưu vô lưu, và đạo quả 3 thừa 4 cõi v.v…các pháp như thế thật chỉ có thức. Bởi vì sao ? Tất cả các pháp lấy thức làm tướng, chân như làm thể. Cho nên phương tiện đạo lấy thức làm tướng. Nếu nhập kiến đạo thì lấy chân như làm thể. Y theo cảnh giới này tùy theo chỗ nghe mà tín lạc là nhập vào tín lạc vị, thông suốt đúng như lý là được nhập kiến vị, có thể đối trị tất cả chướng là được nhập tu vị, thoát ly chướng cấu à được nhập cứu cánh vị.

Chương 5 : Nhập phương tiện đạo

Nhân phương tiện này Bồ-tát được nhập vào 4 vị. nay sẽ nói rõ nghĩa này.

Luận nói : Làm sao có thể ngộ nhập ?

Giải thích : Câu hỏi này là muốn cho thấy rõ 8 chỗ duy trì sức thiện căn là nhập phương tiện. Sức thiện căn là những gì ? Tám chỗ là những chỗ nào ? Sức thiện căn có 4 thứ : 1.sức của nhân, 2.sức của thiện tri thức, 3.sức của chính tư duy, 4.sức của y chỉ. Như trước đã nói rõ.

Luận nói : Do duy trì sức thiện căn.

Giải thích : Chưa có thì làm cho sinh ra, đã có thì làm cho tăng trưởng, nên gọi duy trì thiện căn Bồ-tát, hoặc nói là 6 Ba-la-mật, hoặc nói là 2 hạnh phúc tuệ, có thể phá trừ những chỗ ngăn chận đối trị, nên gọi là sức, tức sức duy trì thiện căn. Nên biết có 8 chỗ. Đó là những chỗ nào ?

Luận nói : Do có 3 tướng mài luyện tâm. Do diệt trừ 4 chỗ chướng. Duyên pháp và nghĩa làm cảnh. Tu tập không gián đoạn. Tu tập thành khẩn. Thiền quán không phóng túng.

Giải thích : Đây tức là 3 chỗ. Ba tướng mài luyện tâm này có thể đối trị 3 tâm chán nản muốn thoái lui. Những gì là 3 : 1.Chán nản thoái lui vì khinh tiện bản thân. Để trừ tâm này nên nói mài luyện tâm thứ nhất. Bởi vì sao ? Có các Bồ-tát nghe vô thượng Bồ-đề sâu xa rộng lớn khó tu khó chứng, ta nay làm sao có thể chứng vô thượng Bồ-đề khó chứng được này. Do chỗ chấp đó, tự mình sinh tâm thoái lui. Để trừ cái tâm thoái lui này nên phải tu mài luyện cái tâm thứ nhất.

Luận nói : Mười phương thế giới không số lượng,

Giải thích : Đây nói rõ vô thượng Bồ-đề không phải nhất định một chỗ nào mới có thể tu đắc. Tùy theo chỗ tu học đều có thể chứng đắc.

Luận nói : không thể đếm kể số người trong nhân loại chúng sinh,

Giải thích : Đây nói rõ vô thượng Bồ-đề các loại đều có thể chứng đắc, nên không thể khinh chê thân này là hèn mọn.

Luận nói : mỗi sát-na mỗi sát-na

Giải thích : Đây cho thấy việc được vô thượng Bồ-đề là không có một thời nào nhất định, không phải đợi đến lúc nào đó mới tu chứng được.

Luận nói : chứng đắc vô thượng Bồ-đề. Đó gọi là mài luyện tâm thứ nhất.

Giải thích : Đây cho thấy Bồ-đề không gì so sánh được, ắt phải dùng sự siêng năng tu hành mới chứng được. Do đó cái tâm mài luyện này đứng đầu trong các phương tiện, tâm chán nản thoái lui sẽ diệt không sinh. Hai là khinh chê cho là hèn mọn có thể sinh tâm chán nản thoái lui. Để trừ cái tâm này nên nói rõ cái tâm mài luyện thứ hai. Bởi vì sao ? Do có Bồ-tát có ý nghĩ như thế này. Bố thí v.v…là hành trang cho Bồ-đề, nếu lìa ý chí của Bồ-tát thì không thể được. Ý chí này chúng ta làm sao có được ? Cho nên bố thí v.v…các pháp đó không phải là pháp chúng ta có thể thực hành được. Do chỗ chấp đó nên sinh tâm chán nản thoái lui không thể đạt được phương tiện. Để trừ tâm này nên phải tu tập mài luyện tâm thứ hai.

Luận nói : Do ý chí chân chính này

Giải thích : Đây cho thấy phương tiện ví như thể tướng. Ba đời các Bồ-tát nếu được ý chí chân chính này thì đó là thể của phương tiện chân thật.

Luận nói : mà bố thí v.v… các Ba-la-mật ắt được sinh trưởng. Đó là tín lạc của ta

Giải thích : Đây cho thấy phương tiện ví như công năng. Có 3 thứ công năng : một là công năng bình đẳng, hai là công năng phát sinh, ba là công năng tăng trưởng. Do ý chí chân chính này nếu phát sinh và tăng trưởng các Ba-la-mật thì không công năng gì không đầy đủ, nên gọi là công năng bình đẳng. Chưa có thì làm cho có gọi là công năng phát sinh. Đã có thì làm cho viên mãn nên gọi là công năng tăng trưởng. Như ba đời các Bồ-tát, thể và công năng của phương tiện quyết định không phải là hai thứ tách biệt nhau. Chúng ta cũng phải đồng như chư vị ấy. Bởi vì sao ? Tín lạc của ta tức chính ý của các vị ấy, vì đã được thí dụ như thể của phương tiện. Cái thể này đã ổn định rồi. Bởi vì sao ? Vì không tán động hay diệt mất.

Luận nói : đã được kiên trụ.

Giải thích : Câu này giải thích nghĩa không tán động không diệt mất. Tham lam keo kiệt v.v… không phá hoại được nên gọi là kiên, tức vững vàng. Tiểu thừa, ác tri thức v.v…các tà hóa không thể làm cho thoái lui nên gọi là trụ.

Luận nói : Do ý chí chân chính này ta tu tập bố thí v.v… các Ba-la-mật, tiến đến chỗ viên mãn chẳng khó khăn. Đó là luyện mài tâm thứ hai.

Giải thích : Đây cho thấy rõ thí dụ 3 thứ công năng. Do ý chí chân chính ta tu tập bố thí v.v…các Ba-la-mật nói rõ công năng bình đẳng, tiến đến chứng đắc nói rõ công năng phát sinh, rồi được viên mãn là nói rõ công năng tăng trưởng. Ba công năng này nhất định có thể đạt được, cho nên nói là không khó. Lại nữa do ý chí chân chính này còn có nghĩa gì ? Nghĩa là tín và lạc. Tín có 3 nghĩa : một là tin thật có, hai là tin có thể đạt được, ba là tin có công đức vô cùng. Tin thật có, nghĩa là tin có tự tính trụ Phật tính. Tin có thể đạt được nghĩa là tin dẫn xuất Phật tính. Tin có công đức vô cùng nghĩa là tin đến quả Phật tính. Phát khởi 3 tin tưởng đó rồi, đối với các phương tiện có thể được như bố thí v.v… trong Ba-la-mật, cầu mong tu hành, nên gọi là lạc. Tín và lạc này là thể của chính ý. Do được tín lạc này, tu hành bố thí v.v… các Ba-la-mật sẽ không là khó, có thể đạt được cứu cánh viên mãn.. Lại nữa Bồ-tát có chính ý tức là ta có khả năng phát sinh tâm Lục độ, thoát ly khỏi các chướng tham lam keo kiệt v.v…, có thể ngăn chận các thứ chướng ngại Ba-la-mật, diệt hết không còn sót. Cho nên không nhân công dụng lớn mà Lục độ có thể viên mãn một cách dễ dàng. Do Lục độ viên mãn, vô thương Bồ-đề tự nhiên thành tựu. Ta đã được kiên trụ chính ý, nên tu hành Lục độ không cho là khó. Do cái tâm mài luyện thứ hai, trong các phương tiện nó làm cho tâm chán nản thoái lui thứ hai tiêu diệt không phát sinh. Ba là nghi ngờ nên sinh tâm chán nản thoái lui. Để trừ cái tâm này nên nói rõ cái tâm mài luyện thứ ba. Bởi vì sao ? Có các Bồ-tát suy nghĩ rằng công đức chư Phật rất sâu xa rộng lớn. Bồ-tát nghĩ như vậy. Vô thượng Bồ-đề rất khó được. Một sát-na tâm bị chướng ngại, nghĩa là tâm kim cương, tâm không có sinh tử, trừ tâm này cũng còn có thể được, nghĩa này khó lường. Do có chấp như vậy mà sinh tâm chán nản thoái lui vô thượng Bồ-đề. Dể trừ tâm này nên phải tu tập mài luyện tâm thứ ba.

Luận nói : Nếu người tương ưng cùng các thiện pháp,

Giải thích : Người nói đây tức phàm phu và Nhị thừa. Phàm phu có thí, giới tu 3 thứ thiện pháp. Các thiện pháp này hoặc thường tu thiên về một thứ, hoặc tu trọn vẹn. Nếu thường thường tu thiên về một thứ và tu trọn vẹn thí giới tu thì thành chúng thiện, vì có nhiều phẩm loại. Nhị thừa có 37 phẩm thiện pháp. Do tu không gián đoạn và tu cung kính thì thành chúng thiện, cũng vì có nhiều phẩm loại.

Luận nói : sau khi xả thân mạng, trong tất cả cõi thụ sinh, tự nhiên thành phú lạc khả ái.

Giải thích : Nếu phàm phu trước tu thí đầy đủ, sau khi xả thân mạng thì sinh vào cõi người, được quả phú lạc khả ái. Việc này không sai. Nếu trước giữ giới đầy đủ, sau khi xả thân mạng liền sinh cõi trời được quả phú lạc khả ái. Việc này không sai. Nếu tu định đầy đủ, sau khi xả thân mạng liền sinh cõi Sắc, Vô sắc được quả phú lạc khả ái. Việc này không sai. Đây là nói được quả sau khi chết. Nếu Nhị thừa tu đầy đủ 37 phẩm, sau khi xả thọ mạng phàm phu thì được thọ mạng Thánh nhân, được quả phú lạc khả ái, được 6 thần thông v.v…Việc này không sai. Đây là nói về cái quả dời đổi địa vị.

Luận nói : Người này còn được với nghĩa hữu ngại thiện. Làm sao ta được viên mãn thiện và vô ngại thiện ?

Tất cả sự như ý, phú lạc khả ái không thành thì luyện mài tâm thứ ba.

Giải thích : Ở trong 10 địa sinh trưởng tốt 2 phẩm thiện pháp là phúc đức và trí tuệ gọi là tâm viên mãn. Các chướng thô nặng khó phá trừ thì do Kim cương định phá trừ, cho nên sau Kim cương định là có thể lìa thoát tất cả chướng, khi chuyển y thì thành vô ngại thiện. Phật quả gọi là phú lạc, tự tại nên gọi là lạc, đủ các đức gọi là phú. Phú lạc này là pháp tất cả như ý khả ái. Nếu nói về Tiểu thừa thì lấy trí đoạn là như ý, ân đức là khả ái. Nếu nói về Đại thừa thì pháp thân là phú lạc, ứng thân là như ý, hóa thân là khả ái. Ba cái này gồm thâu hết vô thượng Bồ-đề nên nói là tất cả. Trước nói xả thân mạng là ví dụ cho lìa trí chướng. Trí chướng đã diệt thì sao ta lại không được như ý khả ái phú lạc ? Do tâm mài luyện thứ ba. Ở trong phương tiện thì tâm chán nản thoái lui thứ ba diệt không sinh.

Luận nói : Ở đây có bài kệ như sau :

Giải thích : Bài kệ nói rõ lại 3 nghĩa trước.

Luận nói :

Chúng sinh trong cõi người,

Mỗi niệm chứng Bồ-đề.

Nơi chốn nhiều số lượng,

Chớ sinh tâm hạ liệt.

Người thiện tâm tín lạc,

Có thể tu Lục độ.

Thắng nhân có ý chí,

Có thể tu Lục độ.

Người lành khi mạng chung,

Được phú lạc vượt trội.

Quả diệt viên tịnh thiện,

Nghĩa này sao lại không ?

Luận nói : “Chúng sinh trong cõi người,”

Giải thích : Đây nói rõ đồng loại có thể được quả cao tột cho nên không nên khinh tự thân là hèn kém.

Luận nói : “Mỗi niệm chứng Bồ-đề.”

Giải thích : Đây nói rõ không nhất định là thời nào. Tu nhân và đắc quả không nhật định là thời nào. Cho nên cần phải siêng tu, không có thời nào là không thể tu. Tu nhân như vậy thì đắc quả cũng như vậy. Cho nên không nên nói là thời có chướng ngại mà khinh tiện tự thân.

Luận nói : “Nơi chốn nhiều số lượng,”

Giải thích : Cho thấy xứ sở nơi chốn là vô định, tùy bất cứ nơi nào đều có thể lập nhân và đắc quả.

Luận nói : “Chớ sinh tâm hạ liệt.”

Giải thích : Đây là minh giải 3 nghĩa ở trước, cho nên không sinh tâm chán nản thoái lui. Nghĩa là nói rằng ta không có công năng để được vô thượng Bồ-đề. Cho nên tâm không hạ liệt.

Luận nói : “Người thiện tâm tín lạc,có thể sinh tâm bố thí v.v…tu Lục độ.”

Giải thích : Chẳng phải tâm ác và tâm vô ký có thể tín lạc. Bởi vì sao ? Có người đem tâm tản mạn vô ký mà làm bố thí v.v…Lại có các ngoại đạo đem tâm ác làm bố thí v.v…Để tách rời cái ác và vô ký này nên nói thiện tâm. Nếu không có thiện tâm là nhân thì không thành hạnh bố thí v.v… Cho nên phải có thắng nhân để sinh thắng quả. Thắng nhân tức tín lạc. Do tín lạc nên sinh bố thí v.v…các độ. Hai câu này cho thấy 3 nghĩa : một cho thấy duyên tăng thượng, hai cho thấy nhân đồng loại, ba cho thấy quả đẳng lưu.

Luận nói : “Thắng nhân có ý chí này , nên có thể tu bố thí v.v…Lục độ.”

Giải thích : Các Bồ-tát gọi là thắng nhân, tức là những kẻ hơn người. Ý này tức ý chí đúng đắn của Bồ-tát. Nghĩa là tín và lạc. Do ý chí này nên có khả năng tu bố thí v.v…Vì vậy nên ta tu bố thí v.v…không lấy gì làm khó.

Luận nói : “Người lành khi mạng chung,”

Giải thích : Có 2 hạng người lành, tức phàm phu và Nhị thừa. Phàm phu tu thí, tu giới. Nhị thừa tu đạo phẩm. Khi chết cũng có 2 loại, một loại gọi là tử đọa tức chết rồi đọa vào một cõi sinh tử, hai gọi là di vị tức tức di chuyển địa vị.

Luận nói : “Được phú lạc vượt trội.”

Giải thích : Đây cũng có 2 hạng. Phàm phu thì được phú lạc cõi nhân thiên Phạm thế. Nhị thừa được phú lạc lục thông v.v… Nếu lập nhân này nhất định sẽ được quả.

Luận nói : “Quả diệt viên tịnh thiện. Nghĩa này sao lại không ?”

Giải thích : Ta nay tu phúc tuệ và đạo phẩm vô lưu của 10 địa. Viên là nói về các địa. Tịnh là npói về đạo phẩm. Sau khi diệt Kim cương tâm gọi là diệt vị. Đây tức quả vô thượng Bồ-đề, gọi là thắng phú lạc. Ta quyết định phải được quả này, sao nói là không ?

Luận nói : Do diệt trừ 4 chỗ chướng,

Giải thích : Đây là chỗ thứ tư trong 8 chỗ. Bốn thứ chướng này Bồ-tát đều phải diệt trừ. Nay sẽ nói đến.

Luận nói : do lìa bỏ cái tư duy của Thanh Văn, Độc Giác nên tà tư duy diệt.

Giải thích : Tư duy của Nhị thừa là thường quán khổ, vô thường v.v…tội lỗi sinh tử, và thường quán công đức của Niết-bàn tịch diệt. Quán này chỉ yêu bản thân, bỏ việc lợi ích chúng sinh. Nếu rời bỏ cái quán này gọi là diệt tà tư duy.

Luận nói : Trong Đại thừa sinh tín tâm và tâm quyết định rõ ràng nên diệt tất cả tà ý và sự hoài nghi.

Giải thích : Ở trong pháp rất rộng lớn sâu xa của Đại thừa, sinh tín tâm đối với chân đế, sinh tâm quả quyết rõ ràng đối với tục đế. Đối với chân như bỏ ý bài bác, đối với 12 bộ kinh Đại thừa do Như Lai nói bỏ ý tưởng theo văn đoán nghĩa, cho nên diệt tất cả tà ý và sự hoài nghi. Lại nữa ở trong Đại thừa, dựa vào chỗ an lập pháp tướng, Như Lai nói 3 tính là tất cả pháp vô tính, tất cả pháp bất sinh bất diệt, bản lai tịch tĩnh tự tính Niết-bàn. Như vậy những phẩm loại vô hữu là dựa vào tính phân biệt mà nói. Nếu nói là việc ảo hóa, con nai khát nước, tướng chiêm bao, bóng sáng, ảnh trong gương, tiếng vang trong hang sâu, mặt trăng dưới nước, sự biến hóa, là dựa vào tính y tha mà nói. Nếu nói chân như, thật tế vô tướng, chân thật pháp giới không v.v…, là dựa vào tính chân thật mà nói. Những điều nói trong 3 tính này, không sinh bất tín hay nghi ngờ, nên nói là diệt tà ý và hoài nghi.

Luận nói : Trong các pháp được nghe và tư duy, lìa bỏ tà chấp về ngã và ngã sở. Vì vậy diệt trừ pháp chấp,

Giải thích : Cảnh giới văn tư gọi là các pháp sở văn tư. Những câu văn hiển thị nghĩa là cảnh giới của văn tuệ. Dựa theo nghĩa này, đúng lý đúng lượng suy tìm đạo lý. Đạo lý này là cảnh giới của tư tuệ. Trong đó nếu chấp pháp thể là có thì gọi là chấp ngã của pháp. Ví như chấp có Niết-bàn, nghĩa là tập đế vô sinh tịch tĩnh là thể. Nếu chấp pháp thể có dụng gọi là chấp ngã sở của pháp, nghĩa là có thể lìa 3 khổ. Những chấp như vậy gọi là tà chấp. Nếu chưa diệt các chấp này thì không thể nhập vào 4 vị duy thức được. Lại nữa xa lìa chấp pháp sở văn và sở tư, ngã và ngã sở, trong đó chỉ thể và dụng của pháp là có, thì gọi là ngã ngã sở, không chấp nhân ngã ngã sở. Bởi vì sao ? Vì cái chấp nhân ngã này, trước ở trong 10 giải đã diệt trừ rồi, chỉ có pháp ngã chưa trừ cho nên nói rõ phương tiện nhập duy thức.

Luận nói : an lập hiện tiền trụ, tất cả tướng tư duy không phân biệt, nên có thể diệt trừ phân biệt.

Giải thích : Ở trong tán loạn vị, sắc v.v… 6 trần tự được chứng biết là hiện tiền trụ. Ở trong tịch tĩnh vị, cốt tỏa tụ v.v…từ định tâm khởi làm an lập. Tất cả các tướng như vậy là cảnh giới của 2 tâm tán loạn và tịch tĩnh. Tư duy là giác quán tư duy. Quán khổ, vô thường, vô ngã v.v…Tâm này duyên nội cảnh. Do thấy cảnh là vô tướng, thấy thức là vô sinh, cho nên có thể diệt phân biệt. Do vô phân biệt làm phương tiện nên được nhập vào 4 vị. Nếu khởi phân biệt thì không nhập được. Lại nữa hiện tiền trụ và chỗ lập tất cả tướng tư duy đều không phân biệt là vì người ở trong phân biệt quán phương tiện đạo tác ý vô phân biệt. Nếu phương tiện đã thuần thục, không cần phải dụng công, tự nhiên có thể vô phân biệt.

Luận nói : Ở đây có bài kệ như sau :

Giải thích : Bài kệ này nói chỗ diệt sau cùng.

Luận nói :

Hiện trụ và an lập,

Tất cả tướng tư duy.

Người trí không phân biệt,

Nên được vô thượng giác.

Luận nói : “Hiện trụ và an lập, tất cả tướng tư duy.”

Giải thích : Tất cả tướng có 2 thứ là hiện trụ và sở lập. tán tâm duyên 6 trần là hiện trụ. Định tân duyên cốt v.v…là sở lập. Lại nữa tất cả tướng có 2 thứ một là như ngoài hiển hiện, hai là như trong hiển hiện. Như ngoài là tướng. Như trong là tư duy.

Luận nói : “Người trí không phân biệt,”

Giải thích : Bồ-tát gọi là người trí. Đã văn tư đạo lý duy thức, do văn tư này nên gọi là người trí tác ý không phân biệt cho đến công dụng không phân biệt.

Luận nói : “Nên được vô thượng giác.”

Giải thích : Do không phân biệt cho nên thành tựu trí vô phân biệt, được nhập sơ địa, tức sơ địa trở lên là vô thượng giác.

Luận nói : Duyên pháp và nghĩa làm cảnh.

Giải thích : Đây tức là chỗ nhân thứ năm trong 8 chỗ, và phương tiện có thể khiến nhập duy thức quán. Nay sẽ nói đến.

Luận nói : Do nhân gì, phương tiện gì được ngộ nhập ?

Giải thích : Câu hỏi này có 2 ý, trước hỏi nhân sau hỏi phương tiện.

Luận nói : Do các chủng loại được đa văn huân tập, nhiếp thuộc trong chính tư duy, hiển hiện tựa như pháp và nghĩa, có kiến phần của ý ngôn phân biệt.

Giải thích : Đây là trả lời câu hỏi thứ nhất. Nhân 12 bộ kinh Đại thừa sinh văn tuệ huân tập. Sự huân tập này có chủng loại. Chủng loại tức là văn tuệ. Lấy văn tuệ này làm sinh nhân. Dựa vào văn tuệ này thường phát khởi chính tư duy, tăng trưởng khiến kiên trụ nên gọi là nhiếp. Duy trì khiến kiên trụ chính tư duy làm nhân tăng trưởng. Có ức niệm nhiếp trì, hoặc tựa như chính giáo hiển hiện, hoặc tựa như nghĩa sở thuyên của chính giáo hiển hiện. Ý thức giác quán tư duy gọi là ý ngôn phân biệt. Ý ngôn phân biệt này có 2 thứ. Tức là tướng và kiến. Nay chỉ lấy kiến không lấy tướng. Bởi vì sao ? Vì quán pháp này là duyên thức khiển trừ trần.

Luận nói : Do 4 thứ tầm tư là danh nghĩa tầm tư, tự tính tầm tư, sai biệt tầm tư và giả lập tầm tư.

Giải thích : Đây là chỗ thứ sáu trong 8 chỗ. Nếu Bồ-tát trong danh chỉ thấy danh, trong nghĩa chỉ thấy nghĩa, trong danh nghĩa tự tính ngôn thuyết chỉ thấy danh nghĩa tự tính ngôn thuyết, trong danh nghĩa sai biệt ngôn thuyết chỉ thấy danh nghĩa sai biệt ngôn thuyết, trong 4 chỗ này thấy, suy lường, quyết đoán rõ chỗ nghi gọi là tầm tư. Bồ-tát thấy tướng của danh nghĩa đều khác, và kiến tương ưng dựa vào nghĩa tương ưng. Bồ-tát thấy tự tính ngôn thuyết và sai biệt. Ngôn thuyết đều thuộc nghĩa nên nói là cùng nghĩa tương ưng. Làm sao biết được danh và nghĩa cùng làm khách cho nhau ? Trước tiên nơi danh trí không sinh. Nếu danh và nghĩa đồng thể thì khi chưa nghe tên đã thành danh trí trong nghĩa. Lại nữa tên thì nhiều. Nếu tên và nghĩa đồng thể thì tên nhiều, nghĩa cũng phải nhiều. Lại tên là bất định cho nên nếu tên và nghĩa đồng thể thì tên đã không nhất định, nghĩa cũng phải như vậy. Nếu không thành một vật có pháp trái nhau thì phải là đồng thể. Lại nữa cái tên này khởi lên trong trường hợp có nghĩa hay trong trường hợp vô nghĩa ? Nếu tên khởi lên trong trường hợp đã có nghĩa hay trong trường hợp chưa có nghĩa thì không thành cái nghĩa đồng một thể. Lại nữa nếu ông nói trước đã có nghĩa, sau dùng tên làm rõ nghĩa, ví như đèn chiếu sắc. Nếu vậy thì người này trước đã chấp nghĩa, sau mới đặt tên, không phải đặt tên khi chưa chấp nghĩa. Chấp như vậy tức phải có khả năng hiểu nghĩa, cần gì sau lại phải đặt tên để hiển nghĩa. Nếu chỗ chấp này không có khả năng hiểu nghĩa thì lẽ nào hiểu được tên ? Lại nữa do tên này có những người khác không hiểu, chấp nghĩa bởi chưa rõ tên này. Nếu tên chắc chắn có thể hiểu nghĩa thì phải không có trường hợp này. Nếu tên chắc chắn có thể hiểu nghĩa thì do tên này sẽ không có người thì biết vật người khác thì không biết vật. Lại nữa nếu chấp nghĩa khác tên khác thì đối với nghĩa sẽ không có tà chấp bởi tên này. Ví như người phàm phu biết 5 ấm chỉ là sự tụ họp của các hành. Do thường huân tập nên tự tha tương tục khởi ngã chấp. Đối với nghĩa không phải là không tà chấp. Nếu nghĩa với tên là một thì không có 2 việc này. Do các nghĩa như vậy nên biết danh đối với nghĩa là khách và ngược lại cũng vậy.

Chương 6 : Nhập tư lương

Luận nói : Do 4 thứ như thật trí, tức danh nghĩa, tự tính, sai biệt và như thật là 4 thứ không thể thủ đắc,

Giải thích : Đây là chỗ thứ bảy trong 8 chỗ. Thế nào là tầm tư sở dẫn như thật trí ? Nếu Bồ-tát đối với tên gọi đã tư duy chỉ có tên, sau biết đúng như thật chỉ có cái tên. Thế gian để làm rõ nghĩa này nên ở trong nghĩa này đặt ra tên này để tưởng thấy ngôn thuyết. Nếu thế gian không đặt tên cho các sắc v.v…thì trong sắc loại không có một người nào có thể tưởng ra loại này. Sắc ấy nếu không thể tưởng thì không tăng ích. Nếu không tăng ích thì không khởi chấp trước. Nếu không chấp trước thì không thể cùng nhau dạy bảo. Nếu Bồ-tát biết tên như vậy thì gọi là trí như thật thứ nhất : Danh tầm tư sở dẫn. Nếu Bồ-tát đối với nghĩa đã tư duy chỉ có nghĩa, biết đúng như thật nghĩa, là lìa tất cả mọi ngôn thuyết, không thể dùng ngôn thuyết. Nghĩa là sắc, thụ v.v… các loại, sắc là chẳng phải sắc, không thể nói là sắc, pháp là chẳng phải pháp, không thể nói là pháp, hữu là phi hữu, không thể nói là hữu. Đó là trí như thật thứ hai : Nghĩa tầm tư sở dẫn. Thế nào là trí như thật : Tự tính tầm tư sở dẫn ? Nếu Bồ-tát trong tự tính ngôn thuyết đối với các loại sắc, danh v.v…đã tư duy chỉ có ngôn thuyết. Do tự tính ngôn thuyết, loại này không phải là tự tính đó mà hiển hiện như là tự tính đó. Bồ-tát hiểu thấu suốt loại này như là biến hóa, ảnh trong gương, tiếng vang trong hang, bóng sáng, chiêm bao, sự ảo hóa v.v…chẳng phải loại đó mà hiển hiện tựa như loại đó. Đó gọi là trí như thật thứ ba : Tự tính tầm tư sở dẫn. Lấy nghĩa thậm thâm làm cảnh giới. Thế nào là trí như thật : Sai biệt tầm tư sở dẫn. Nếu Bồ-tát trong sai biệt ngôn thuyết đã tư duy chỉ có ngôn thuyết. Trong sắc v.v…các loại Bồ-tát thấy sai biệt ngôn thuyết không có 2 nghĩa. Loại này chẳng phải có, chẳng phải chẳng có, do có thể nói nên thể không thành tựu. Chẳng phải có, chẳng phải chẳng có, do không thể nói nên thể thành tựu. Như thế chẳng phải sắc, do chân đế nên chẳng phải chẳng phải sắc. Do tục đế nên trong ngôn thuyết có sắc như có chẳng phải có và sắc chẳng phải sắc, như thế có thấy không thấyv.v..các loại sai biệt ngôn thuyết , do đạo lý này phải biết đều như vậy. Nếu Bồ-tát biết như thật sai biệt ngôn thuyết không có 2 nghĩa. Đó gọi là trí như thật thứ tư : Sai biệt tầm tư sở dẫn.

Trước đã nói danh và nghĩa, sau nói tự tính và sai biệt. Trong 4 cái này đều là ngôn thuyết giả lập là muốn hiển thị điều gì ? Là hiển thị nghĩa bất khả đắc. Do nghĩa không thể có được tên, cũng không tự tính và sai biệt, cho nên Bồ-tát tư duy cái tên này chỉ là giả lập tự tính sai biệt. Như thế suy lường hiểu rõ quyết đoán chỗ nghi v.v…gọi là tầm tư. Nhân tầm tư này Bồ-tát quán tên và nghĩa cả hai là vô sở hữu, đó gọi là trí như thật.

Luận nói : nên nếu Bồ-tát đã ngộ nhập, đã hiểu rõ các nghĩa này

Giải thích : Đã ngộ nhập nghĩa là đã được 4 thứ tầm tư. Đã hiểu rõ nghĩa là đã được 4 thứ như thật trí.

Luận nói : thì tu gia hành để nhập Duy thức quán.

Giải thích : Ở địa tiền, Luc độ và 4 thứ thiện căn thông đạt phần gọi là gia hành. Từ nguyện lạc vị cho đến cứu cánh vị gọi chung là Duy thức quán. Nếu muốn vào Duy thức quán, duyên cảnh giới nào tu gia hành ?

Luận nói : Trong pháp tu quán này ý ngôn phân biệt tựa danh tự ngôn thuyết và nghĩa hiển hiện.

Giải thích : Từ nguyện lạc vị cho đến cứu cánh vị gọi là quán trung, duyên ý ngôn phân biệt làm cảnh. Tách rời cái này không có ngoại cảnh nào khác. Bởi vì sao ? Ý ngôn phân biệt này hiển hiện tựa như văn tự, ngôn thuyết và nghĩa.

Luận nói : Trong đó là tướng của danh tự ngôn thuyết. Chỉ có ý ngôn phân biệt được sự thông suốt này.

Giải thích : Chỉ có ý ngôn phân biệt vô phân biệt là có tên. Bồ-tát hiểu được tên là vô sở hữu thì lìa bỏ tà chấp ngoại trần.

Luận nói : Nghĩa này dựa vào danh ngôn, chỉ ý ngôn phân biệt cũng thông đạt như vậy.

Giải thích : Trước đã khiển trừ tên. Dưới đây dựa vào tên khiển trừ nghĩa. Nghĩa tức là cảnh sở duyên của 6 thức. Tách rời tên không có cảnh nào khác. Vì vậy dựa vào tên để khiển trừ nghĩa. Danh ngôn đã chỉ ý ngôn phân biệt nên nghĩa cũng không có cái thể riêng khác. Bồ-tát có thể thông đạt nghĩa vô sở hữu cũng lìa bỏ tà chấp ngoại trần.

Luận nói : Danh nghĩa tự tính sai biệt này chỉ giả thuyết là lượng cũng thông đạt như vậy.

Giải thích : Trước đã khiển trừ danh nghĩa. Danh nghĩa đã không làm sao có thể lập danh nghĩa, tự tính và sai biệt ? Nếu lìa giả thuyết không có danh nghĩa tự tính và danh nghĩa sai biệt nào khác. Do chứng thấy 2 pháp này là bất khả đắc nên gọi là thông đạt.

Luận nói : Tiếp đến trong địa vị này chỉ chứng đắc là duy ý ngôn phân biệt.

Giải thích : Người tu quán hạnh này đã khiển trừ ngoại trần. Trong lúc tu quán này lại duyên cảnh gì ?. Vì quán tất cả cảnh chỉ là ý ngôn phân biệt cho nên người tu quán hạnh này duyên ý ngôn phân biệt làm cảnh. Chưa thể khiển trừ nơi cảnh này nếu chưa thể khiển trừ cảnh duy thức. Ở trong địa vị này đã khiển trừ cảnh gì ? Đã hết cả không còn sót. Địa vị này chỉ không thấy 4 cảnh. Đó là 4 cảnh gì ?

Luận nói : Đó là người tu quán hạnh không thấy danh và nghĩa, không thấy tự tính sai biệt giả thuyết. Bởi thật tướng đã không được có nghĩa tự tính sai biệt.

Giải thích : Danh nghĩa là gốc. Danh nghĩa đều có tự tính và sai biệt giả thuyết. Đã là danh không thấy tự tính sai biệt giả thuyết, tức là không thấy cái tên tự tính sai biệt. Khiển trừ hết 4 pháp vĩnh viễn không còn sót. Do tâm duyên ý ngôn phân biệt làm cảnh, quyết định kiên trụ cho nên không trở lại phân biệt cảnh nào khác. Do 4 thứ tầm tư và 4 thứ trí như thật đã hiểu rõ 4 pháp này quyết định là vô sở hữu, cho nên tâm không duyên tướng này. Vì không duyên tướng này nên không được 4 thứ phân biệt này. Nếu do 2 thứ phương tiện khiển trừ sự phân biệt ngoại trần lại có phương tiện nào khác và cảnh giới nào khác được nhập chân quán ?

Luận nói : Do 4 thứ tầm tư và 4 thứ như thật trí.

Giải thích : Trước tiên trả lời câu hỏi trước là không có phương tiện nào khác. Vì do 4 thứ tầm tư và 4 thứ trí như thật. Bốn thứ Tam-ma-đề gồm thâu làm nhập phương tiện.

Luận nói : Đối với ý ngôn phân biệt hiển hiện tựa danh và nghĩa

Giải thích : Tiếp đến trả lời câu hỏi sau là không có cảnh giới nào khác. Phàm phu từ xưa đến nay có 2 thứ ý ngôn phân biệt : một là tựa như danh, hai là tựa như nghĩa. Danh nghĩa bao gồm hết tất cả pháp. Danh nghĩa này chỉ là ý ngôn phân biệt tạo ra, tách rời nó không có pháp nào khác.

Luận nói : mà được ngộ nhập lý Duy thức quán.

Giải thích : Dựa vào phương tiện này duyên cảnh giới này mà được nhập chân quán duy thức.

Luận nói : Trong lý Duy thức quán, ngộ nhập pháp gì ? Ngộ nhập như thế nào ?

Giải thích : Dưới đây nói rõ chỗ thứ tám trong 8 chỗ. Trong đây có 2 câu hỏi : một nhập pháp, hai nhập thí.

Luận nói : Chỉ ngộ nhập duy lượng.

Giải thích : Dưới đây trước trả lời câu hỏi thứ nhất là chỉ nhập duy thức lượng. Duy thức lượng này gồm có bao nhiêu pháp ?

Luận nói : Tướng và kiến hai pháp,

Giải thích : Duy thức này không ra ngoài 2 pháp : một là tướng thức, hai là kiến thức. Lại nữa hiển hiện tựa như trần gọi là tướng, tức cảnh sở duyên, hiển hiện tựa như thức gọi là kiến, tức thức năng duyên. Hai pháp này một là nhân một là quả. Lại nữa một là sở y một là năng y.

Luận nói : các thứ tướng mạo,

Giải thích : Hai pháp này do sinh tử từ vô thủy đến nay nhiều huân tập nên nhanh chóng. Vì vậy trong một lúc có nhiều thứ tướng mạo khởi. Như vậy 3 pháp này người tu quán hạnh duy thức quán được ngộ nhập.

Luận nói : danh, nghĩa, tự tính của danh, sai biệt của danh, tự tính của nghĩa, sai biệt của nghĩa, 6 thứ tướng vô nghĩa,

Giải thích : Danh và nghĩa mỗi thứ đều có 3 thành 6. Ba của danh là một danh, hai tự tính, ba sai biệt. Ba của nghĩa cũng vậy. Sáu thứ tướng này đều vô nghĩa. Bởi vì sao ? Danh, tức tên gọi, là vốn từ nghĩa, nó là vô sở hữu nên tên gọi là vô nghĩa. Tên gọi này là tự nó có nghĩa hay vô nghĩa ? Nếu có nghĩa, nhưng vì nghĩa vô sở hữu nên tên gọi là vô nghĩa. Nếu tên gọi là vô nghĩa cũng không, vì vô sở hữu, nên nghĩa của cái tên gọi vô nghĩa cũng không có nghĩa. Tách rời thức lượng ngoài ra không có nghĩa gì khác, cho nên nghĩa cũng là vô nghĩa. Tên đã vô nghĩa thì tự tính và sai biệt của tên cũng không có nghĩa. Nghĩa đã vô nghĩa thì tự tính của nghĩa và sai biệt của nghĩa cũng không có nghĩa. Hiểu rõ 6 tướng này là vô nghĩa thì rõ pháp quán nhập duy lượng. Rõ pháp quán nhập duy lượng rồi, làm sao ngộ nhập pháp quán tướng kiến ?

Luận nói : cho nên do đó nghĩa của năng thủ sở thủ là phi hữu.

Giải thích : Đây tức là đối với cái tướng tướng kiến là chẳng phải năng thủ sở thủ. Bởi vì sao ? Hiển hiện tựa như trần nên chẳng phải năng thủ. Lìa thức chẳng có trần nào khác nên chẳng phải sở thủ. Kiến cũng chẳng phải năng thủ sở thủ. Hiển hiện tựa như thức nên chẳng phải sở thủ. Cái trần sở thủ đã là không thì thức cũng không, nên chẳng phải năng thủ. Đã không có năng thủ sở thủ, nên chẳng có nghĩa, do không thấy có cái thể của năng thủ sở thủ. Đó gọi là nhập tướng kiến quán. Đã nói rõ pháp quán ngộ nhập tướng kiến, vậy làm sao ngộ nhập pháp quán các chủng loại tướng mạo ?

Luận nói : Một khi nó hiển hiện thì tựa như có các thứ tướng mạo và có sinh khởi.

Giải thích : Nếu Bồ-tát thấy tính y tha hiển hiện thì tựa như có các thứ tướng mạo, kỳ thật là không có tướng, thấy tính y tha hiển hiện tựa như sinh, kỳ thật là không có sinh. Trong một lúc có thể quán các thứ tướng mạo là vô tướng vô sinh, gọi là quán các thứ tướng mạo. Để làm rõ việc nhập pháp quán 3 tính, nên nói thí dụ sợi dây.

Luận nói : Ví như trong tối, sợi dây hiện tựa con rắn.

Giải thích : Người trông thấy dáng sợi dây cho là con rắn. Dưới đây là trả lời câu hỏi thứ hai. Chúng sinh từ xưa đến nay không nghe nghĩa của 3 vô tính nói trong 12 bộ kinh Đại thừa, chưa được văn tuệ, bị 3 phiền não che phủ ví như bóng tối. Có người là ví cho Nhị thừa và phàm phu, dáng sợi dây ví cho tính y tha, con rắn ví cho tính phân biệt. Nhị thừa phàm phu không hiểu rõ tính y tha, chấp tính phân biệt có nhân và pháp.

Luận nói : Cũng như nơi sợi dây, con rắn là hư vọng không thật có.

Giải thích : Ở trong tính y tha, tính phân biệt là hư vọng, thật sự không có nhân không có pháp.

Luận nói : Cho nên nếu người đã biết rõ đây là sợi dây

Giải thích : Ví như Bồ-tát đã được văn tư 2 tuệ, ngộ nhập duy thức phương tiện quán.

Luận nói : thì cái biết hoảng loạn là con rắn trước đó không duyên cảnh khởi, tức thì diệt mất, chỉ còn cái trí biết đó là sợi dây.

Giải thích : Khi chưa được văn tư tuệ, ở trong địa vị phàm phu chấp có nhân có pháp. Cái chấp này vốn không có cảnh. Sau khi được văn tư tuệ, hiểu rõ tính y tha, cái chấp này liền diệt mất, chỉ còn lại cái trí của tính y tha.

Luận nói : Cái trí biết là sợi dây này, nếu phân tích thật vi tế thì cũng không phải thật cảnh.

Giải thích : Nếu người duyên tướng 4 trần, phân tích sợi dây này chỉ thấy có 4 tướng, không thấy có sợi dây nào khác, nên cái trí biết là sợi dây là hư vọng. Hư vọng nên là loạn, không thật cảnh, chấp cảnh vọng khởi.

Luận nói : Bởi vì sao ? Vì đó chỉ là tướng của sắc, thanh, hương, vị, xúc.

Giải thích : Bởi vì sao ? Sợi dây chẳng phải thật có. Vì lìa 4 trần ra chẳng có sợi dây nào cả.

Luận nói : Nếu tâm duyên cảnh này thì cái trí biết là sợi dây cũng phải diệt mất.

Giải thích : Đây nói rõ cái trí biết là sợi dây tuy khiển trừ cái chấp thô loạn, nhưng tự nó còn cái chấp tế loạn, tức loạn chấp ở mức độ vi tế, cũng cần phải trừ bỏ. Tuy ở trong phương tiện, dùng tính y tha khiển trừ chấp thô loạn của tính phân biệt, nhưng thấy có tính y tha, tức tự nó không khỏi còn loạn chấp về mặt vi tế. Sau khi nhập chân quán thì khiển trừ chấp này, nên nói là cần phải trừ bỏ.

Luận nói : Nếu thấy như vậy rồi diệt thì đè bẹp tiêu diệt 6 tướng hiển hiện, tựa danh và tựa nghĩa, ý ngôn phân biệt,

Giải thích : Tất cả các pháp chỉ có 6 tướng. Sáu tướng này chỉ là ý ngôn phân biệt. Tách rời ý ngôn phân biệt, 6 tướng này thật vô sở hữu. Do trí hiểu biết này , người tu quán hạnh ngộ nhập tính phân biệt.

Luận nói : trí biết trần cảnh không sinh, ví như cái biết là con rắn.

Giải thích : Khi đã ngộ nhập tính phân biệt thì trí biết trần cảnh không sinh. Như khi đã biết là sợi dây thì không sinh cái biết đó là con rắn. Câu nói và thí dụ này cho thấy rõ sự ngộ nhập tính phân biệt.

Luận nói : Ở trong nghĩa đè bẹp tiêu diệt 6 tướng thì cái trí duy thức cũng phải đè bẹp tiêu diệt, ví như cái trí biết là sợi dây.

Giải thích : Ở trong địa vị ngộ nhập tính phân biệt, Bồ-tát đã chứng tính vô tướng. Tính vô tướng này có khả năng dẫn khởi trí tính vô sinh. Cho nên cái trí duy thức cũng cần phải đè bẹp tiêu diệt. như khi đã hiểu rõ 4 vi tế thì cái trí biết là sợi dây không sinh.

Luận nói : Đó là vì y vào trí chân như.

Giải thích : Y vào cái trí tính vô tướng được ngộ nhập tính vô sinh. Câu nói và thí dụ này cho thấy rõ sự ngộ nhập tính y tha và tính chân thật.

Luận nói : Như vậy Bồ-tát do ngộ nhập nghĩa tương tự hiển hiện tướng ý ngôn phân biệt, nên được ngộ nhập tính phân biệt. Do ngộ nhập nghĩa duy thức, được ngộ nhập tính y tha.

Còn thế nào là ngộ nhập tính chân thật ?

Giải thích : Nếu Bồ-tát đã hiểu rõ tất cả pháp chỉ là ý ngôn phân biệt, lìa nó ra là vô sở hữu. Do dựa vào ý ngôn phân biệt hiểu rõ được tính vô tướng phân biệt. Nếu Bồ-tát không thấy ngoại trần, chỉ thấy ý ngôn phân biệt, tức hiểu rõ tính y tha. Làm sao hiểu được pháp này ? Nếu tách rời nhân duyên, tự không thể sinh căn trần. Vì nhân duyên, căn trần đã không thành thì pháp này không nhân duyên làm sao được sinh ? Cho nên Bồ-tát có thể hiểu rõ tính y tha và tính vô sinh, tức hiểu rõ tính chân thật.

Luận nói : Nếu xả bỏ ý tưởng duy thức rồi,

Giải thích : Nếu Bồ-tát dựa vào chân quán đầu tiên ngộ nhập tính y tha, do chân quán thứ hai trừ bỏ tính y tha thì trừ bỏ ý tưởng duy thức.

Luận nói : bấy giờ ý ngôn phân biệt là những chủng loại do đa văn đã huân tập trước,

Giải thích : Bấy giờ, tức là nói lúc nhập chân quán. Từ mới tu học cho đến trước khi nhập chân quán, ý thức giác quán tư duy ức trì các chính giáo xưa được nghe và rõ nghĩa chính giáo gọi là ý ngôn phân biệt. Những gì do trước được nghe pháp sinh nên nói là huân tập. Những cảnh giới sau được duy trì nhớ lại cũng như những cảnh giới lúc trước lưu xuất gọi là chủng loại.

Luận nói : Bồ-tát đã hiểu rõ và đè bẹp tiêu diệt ý tưởng trần cảnh.

Giải thích : Bồ-tát dựa vào 4 tầm tư, đã hiểu rõ 6 trần, dựa vào 4 trí như thật, đã đè bẹp tiêu diệt ý tưởng trần cảnh.

Luận nói : Tương tự nhất thiết nghĩa hiển hiện, không sinh khởi duyên nữa nên không được sinh.

Giải thích : Ý ngôn phân biệt xưa hiển hiện tựa như tất cả nghĩa đã được nghe và tư duy, cho đến tựa như chỉ có thức tưởng đều không được sinh. Bởi vì sao ? Vì không được sinh duyên. Có 2 thứ sinh duyên là tính phân biệt và tính y tha. Tính phân biệt đã diệt, tính y tha lại không được sinh. Đã không có 2 cảnh cho nên tất cả nghĩa cho đến tựa như duy thức tưởng đều không được sinh. Lại nữa bấy giờ không có một phẩm loại trần nào Bồ-tát không hiểu, cũng như được trần cảnh tương tự này khởi ý ngôn phân biệt. Ý ngôn phân biệt sinh duyên đều hết. Đã không có sinh duyên nên trong lúc bấy giờ tất cả ý ngôn phân biệt đều không được sinh.

Luận nói : Vì vậy tương tự ý ngôn phân biệt cũng không được sinh.

Giải thích : Câu này muốn nói rõ nghĩa gì ? Cái ý tưởng duy thức này nếu là tâm phân biệt cái tưởng này sẽ thành cảnh giới. Cái chấp cảnh giới này cứ muốn đè bẹp tiêu diệt cho nên đến ý tưởng duy thức còn không khởi được huống chi những ý ngôn phân biệ khác được sinh.

Luận nói : Do nghĩa này,

Giải thích : Do Bồ-tát dựa vào tính y tha trừ bỏ tính phân biệt, dựa vào tính chân thật trừ bỏ tính y tha, nếu tất cả bị trừ bỏ thì Bồ-tát trụ ở đâu và tâm Bồ-tát duyên cảnh giới nào ?

Luận nói : Bồ-tát chỉ trụ ở vô phân biệt trong tất cả nghĩa và danh.

Giải thích : Trí vô phân biệt gọi là danh. Tướng của cái danh này như thế nào ? Nghĩa là không phân biệt tất cả nghĩa. Nghĩa tức là cảnh. Trí này đối với tất cả cảnh không còn có 2 thứ phân biệt năng thủ sở thủ. Tức lập cái trí này là Bồ-tát. Lại nữa danh thì đến cứu cánh danh thông tất cả pháp, đối với tất cả pháp không có sai biệt. Cái danh này tức là pháp giới. Pháp giới này lấy sự thông tất cả pháp, không phân biệt tất cả nghĩa làm tướng, hoặc nói là cảnh vô phân biệt. Bồ-tát chỉ trụ trong pháp này. Cả hai cái này cũng đáp câu hỏi thứ nhất.

Luận nói : Do trí vô phân biệt được chứng và được trụ pháp giới chân như.

Giải thích : Không phân biệt năng thủ sở thủ và nhân pháp , cho đến sinh tính sai biệt, được trí vô phân biệt như vậy thì được chứng và trụ pháp giới chân như. Ở mỗi địa mỗi địa đều có 3 phần là nhập, trụ và xuất. Được chứng, được trụ là 2 phần trước. Chưa được khiến được là chứng. Đã được làm cho không mất là trụ. Lại nữa mới được gọi là nhập. Được rồi tiếp tục gọi là trụ. Đây tức trả lời câu hỏi thứ hai.

Luận nói : Bấy giờ Bồ-tát bình đẳng bình đẳng

Giải thích : Đó là lúc nhập chân quán, trí Bồ-tát dựa vào 10 thứ bình đẳng như Kinh Thập Địa nói. Lại dựa vào 2 thứ bình đẳng là năng duyên sở duyên. Năng duyên tức trí vô phân biệt. Vì trí không phân biệt nên gọi là bình đẳng. Sở duyên tức cảnh chân như. Cảnh cũng không phân biệt nên gọi là bình đẳng. Lại nữa cảnh trí này không trụ trong nghĩa năng thủ sở thủ, ví như hư không, nên gọi là “bình đẳng bình đẳng”. Vì là cao tột không gì sánh được trong bình đẳng nên gọi lặp 2 tiếng.

Luận nói : sinh trí vô phân biệt năng duyên sở duyên.

Giải thích : Sinh trí vô phân biệt có tướng mạo như thế nào ? Dựa vào 10 thứ bình đẳng, năng duyên sở duyên thảy đều bình đẳng nên sinh trí vô phân biệt. Lại nữa trí vô phân biệt dựa vào 2 thứ bình đẳng là trí và cảnh. Năng duyên sở duyên thảy đều bình đẳng nên sinh trí vô phân biệt. Lại nữa trí vô phân biệt dựa vào sự bình đẳng cùng cực không trụ năng duyên sở duyên nên sinh trí vô phân biệt.

Luận nói : Do nghĩa này Bồ-tát được ngộ nhập tính chân thật.

Giải thích : Như từ trước đến giờ lần lượt giải thích các nghĩa phương tiện và sau phải nói nghĩa cho nên nói “Do nghĩa này”. Hướng đến người sơ địa gọi Bồ-tát, do các nghĩa này được chứng thấy tính chân thật. Địa vị này không thể nói được. Bởi vì sao ? Vì do tự mình chứng đắc cho nên khi chứng lìa giác quán tư duy phân biệt. Trước nói Bồ-tát chỉ trụ vô phân biệt trong tất cả nghĩa, danh. Vậy danh này có bao nhiêu thứ ? Và pháp gì gọi là danh ?

Luận nói : Ở đây có bài kệ như sau :

Giải thích : Nói bài kệ để trả lời câu hỏi này.

Luận nói :

Pháp, nhân và pháp, nghĩa,

Tính, lược cùng với quảng.

Bất tịnh, tịnh, cứu cánh,

Mười tên cảnh sai biệt.

Giải thích : Danh có 10 thứ, đó là cảnh giới Bồ-tát. Những gì là 10 ? Một là pháp danh, tức sắc, thụ v.v…nhãn, nhĩ v.v…Hai là nhân danh, tức tín hành, pháp hành v.v… Ba là pháp danh, tức Tu-đa-la, Kì-dạ v.v…Bốn là nghĩa danh, tức nghĩa danh hiển thị của 12 bộ kinh. Năm là tính danh, tức những chữ vô nghĩa. Sáu là lược danh, tức những tên chung của chúng sinh v.v…Bảy là quảng danh, tức những tên riêng của chúng sinh. Tám là bất tịnh danh, tức phàm phu v.v… Chín là tịnh danh, tức Thánh nhân v.v…Mười là cứu cánh danh, tức nói chung tất cả pháp chân như thất tế v.v…

Luận nói : “Mười tên cảnh sai biệt.”

Giải thích : Đây là 10 tên khác nhau, đều là cảnh giới Bồ-tát. Sở trụ của Bồ-tát chỉ ở cảnh giới thứ 10 chung trong tên tất cả pháp. Lại nữa lược nói thì danh có 10 thứ đều là cảnh giới Bồ-tát. Pháp danh tức nhãn v.v…Nhân danh tức ta, chúng sinh v.v…Pháp danh tức 12 bộ chính giáo. Nghĩa danh tức nghĩa của 12 bộ chính giáo. Tính danh tức A a là âm đầu tiên, Kha là âm cuối cùng hợp lại 37 chữ. Lược danh tức hữu vi vô vi. Quảng danh tức sắc, thụ v.v… và không v.v…Bất tịnh danh tức phàm phu v.v…Tịnh danh tức Tu-đà-hoàn v.v…Cứu cánh danh tức duyên cảnh cực thông, sở duyên của xuất thế trí và xuất thế hậu trí, cảnh chân như của tất cả pháp.

Luận nói : Như thế Bồ-tát do ngộ nhập Duy thức quán, được ngộ nhập ưng tri thắng tướng.

Giải thích : Như thế tức là phương tiện, thứ tự, thời tiết, xả, đắc v.v…Bồ-tát do nghĩa này được ngộ nhập duy thức quán, hoặc nhập duy thức phương tiện quán, hoặc nhập duy thức chân quán. Do duy thức quán có thể thông đạt 3 vô tính nên được ngộ nhập vào ưng tri thắng tướng, tức các thắng tướng cần phải biết.

***

Chương 7 : Nhập tư lương quả

Giải thích : Do nhập ưng tri thắng tướng, Bồ-tát được quả gì ? Bồ-tát được 8 thứ quả tư lương.

Luận nói : Do nhập tướng này, được nhập Sơ hoan hỷ địa,

Giải thích : Do văn thấy rõ 3 quả. Một là được thắng thời, hai là được thắng phương tiện, ba là được thắng quả. Nói “Sơ” tức thứ nhất nói rõ được quả thắng thời. Từ lúc mới phát tâm tu hành cầu đến lúc này mới được nên gọi là “sơ”. Lúc cầu tức là lúc nhập chân quán. Đây cho thấy được trụ quả chân như. Lại xả bỏ địa vị phàm phu Nhị thừa mới được địa vị chân Bồ-tát nên gọi là thắng thời. Lúc này là lúc chuyển y cho nên gọi lúc sơ thời này là thắng thời, tức cho thấy quả chuyển y. Hoan hỷ tức thứ hai nói rõ được quả thắng phương tiện. Bỏ tự ái là hoan, sinh tha ái là hỷ. Nếu không tham tiếc tự thân, không ghét người khác, đối với các hạnh không có hạnh gì là khó làm, cái tâm này là hơn tất cả trong các phương tiện. Vì là căn bản trong các hạnh nên sơ địa lấy đây đặt tên. Lại nữa chưa từng được cái dụng to lớn và tâm xuất thế, nên khi được thì rất vui mừng nên gọi là Hoan hỷ địa, tức cho thấy được thắng quả thứ ba. Trụ nhiếp là nghĩa của địa, xuất ly chân như là thể của địa. Trụ ở nơi thể này nên gọi là thắng quả. Nhân của địa là nhiếp, tức 2 thứ tư lương là phúc đức và trí tuệ. Lại nữa sở nhiếp gọi là nhiếp, tức chỗ lợi ích chúng sinh. Lại nữa quả là nhiếp, tức vô thượng Bồ-đề. Lại nữa chướng là nhiếp, tức 3 phiền não. Như vậy các nghĩa ấy gọi là địa vì do gồm thâu trong địa này.

Luận nói : khéo thông đạt pháp giới,

Giải thích : Tức nói rõ được quả thắng thông đạt thứ tư. Thắng thông đạt có 3 nghĩa. Một là do được 4 y cho nên Bồ-tát y pháp không y nhân v.v…Do đó thông đạt tất cả 3 tạng của 3 thừa do Như Lai sở thuyết. Bồ-tát đúng như lý giải thích văn, cho nên do văn có thể làm cho mình và người hiểu pháp giới chân như. Hai là Như Lai lập ra 10 địa là do có 10 tầng lớp pháp giới. Từ ban đầu thông đạt cho đến địa cao tột đều khéo thông suốt. Ba là do 4 thứ phương tiện nên khéo thông đạt pháp giới. Tức có thể thông đạt cái khổ sinh tử mà có thể hằng nhập vào 2 phương tiện này có thể thông đạt Niết-bàn mà không vội cầu 2 phương tiện này. Có thể thông đạt cái khổ khác với phàm phu, vào trong khổ mà không chán sợ khác với Nhị thừa. Có thể thông đạt cái vui Niết-bàn khác với phàm phu, mà cũng không vội cầu Niết-bàn khác với Nhị thừa.

Luận nói : được sinh vào nhà Như Lai của mười phương chư Phật,

Giải thích : Đây tức nói rõ được quả thứ năm thắng định vị. Do nhập thắng tướng này, người này quyết chắc phá vỡ cái vỏ vô minh bao bọc như cái vỏ bọc làm cho hủ hoại bỏ mạng bên trong. Lại nữa người này do nhập thắng tướng này, chắc chắn tiếp nối không dứt chủng tính của chư Phật 10 phương để tự mình thành Phật còn khiến người khác thành Phật. Lại nữa Phật tử có 5 nghĩa. Một, nguyện yêu thích vô thượng thừa làm chủng tử. Hai lấy Bát-nhã làm mẹ. Ba lấy định làm bào thai. Bốn lấy Đại bilàm nhũ mẫu. Năm lấy chư Phật làm cha. Do các nghĩa như thế nên nói được sinh vào nhà của Phật.

Luận nói : được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh,

Giải thích : Đây là nói rõ được quả thứ sáu thắng ân dưỡng. Ân dưỡng, tức ơn nuôi dưỡng, có 4 thứ : 1.rộng lớn, 2.không cùng tột, 3.không biên giới, 4.không lay đổ. Do 4 nghĩa này nên đối với chúng sinh có ơn nuôi dưỡng bình đẳng. Lại nữa nếu Bồ-tát tự thân khởi tâm Bát-niết-bàn tức là đối với tất cả chúng sinh bình đẳng khởi tâm Bát-niết-bàn. Lại nữa do Bồ-tát đã được bình đẳng giữa mình và người, cho nên cầu diệt khổ cho người cũng như cầu diệt khổ cho chính mình.

Luận nói : được tâm bình đẳng tất cả Bồ-tát,

Giải thích : Đây là nói rõ được quả thứ bảy : thắng ý dụng. Bồ-tát nếu muốn ra làm điều gì, ắt tư duy suy lường trước, nên gọi là ý. Sau ra làm như đã tư duy suy lường, nên gọi là dụng. Lại nữa cầu được 3 việc gọi là ý. Tức là chưa xuống giống thì khiến xuống giống, chưa thành thục thì làm cho thành thục, chưa giải thoát thì khiến giải thoát. Thực hành 4 nhiếp là dụng. Do 2 nhiếp trước khiến phát tâm, do lợi hành làm cho thành thục, do đồng lợi khiến giải thoát.

Luận nói : được bình đẳng với tâm tất cả chư Phật Như Lai.

Giải thích : Đây tức nói rõ được quả thứ tám là thắng chí. Bồ-tát ở trong kiến vị, đã được pháp thân Như Lai. Do được pháp thân này nên bình đẳng với tâm chư Phật. Lại nữa đối với tự thân thấy pháp giới không sai biệt nên không thấy pháp giới của tam thế chư Phật khác với pháp giới của mình nên được tâm bình đẳng của chư Phật.

Luận nói : Quán này gọi là Bồ-tát kiến đạo.

Giải thích : Bồ-tát có 3 thứ kiến đạo : 1.trừ phương tiện kiến, 2.ưng trừ kiến, 3.trừ diệt kiến. Trừ phương tiện kiến tức là 4 thứ trí như thật. Ưng trừ kiến là 2 tính phân biệt y tha. Trừ diệt kiến là 3 vô tính. Ba kiến này đều nhân duy thức quán mà thành đạt nên gọi là lần lượt thấy rõ tướng kiến đạo sinh.

Chương 8 : Hai trí dụng

Luận nói : Lại nữa vì sao Bồ-tát nhập Duy thức quán ?

Giải thích : Câu hỏi này cho thấy 2 nghĩa. Một là cho thấy khó nhập duy thức quán. Hai là cho thấy nếu được nhập duy thức quán thì có cái dụng lợi ích vô cùng.

Luận nói : Do duyên các pháp hết sức thông đạt làm cảnh,

Giải thích : Trước tiên nói nhập trước và sau 2 phương tiện quán, trả lời câu hỏi thứ nhất về nhập duy thức quán đạo. Trí này có 4 đức : 1.không chuyển đảo, 2.thanh tịnh, 3.vắng lặng, 4.vi tế. Đây tức nói cái thứ nhất là không chuyển đảo. Pháp chung có 4 phẩm : hạ, trung, thượng và thượng thượng. Hạ phẩm là tất cả cái khổ hữu lưu.

Trung phẩm là tất cả hữu vi vô thường. Thượng phẩm là tất cả pháp vô ngã. Thượng thượng phẩm là 3 vô tính. Duyên 3 vô tính làm cảnh nên không chuyển đảo.

Luận nói : trí xuất thế,

Giải thích : Tức thứ hai là thanh tịnh, vì đó là trí xuất thế vô lưu nên thanh tịnh.

Luận nói : Xa-ma-tha,

Giải thích : Tức thứ ba là vắng lặng, vì trí này dựa vào Xa-ma-tha khởi, lìa tán động địa, là trí Xa-ma-tha nên gọi là vắng lặng.

Luận nói : Tì-bát-xá-na,

Giải thích : Tức thứ tư là vi tế, nói rõ là tu tuệ của Bồ-tát, không phải văn tư tuệ và tu tuệ của Nhị thừa. Đây là đầu tiên nhập duy thức quán phương tiện.

Luận nói : do trí vô phân biệt hậu sở đắc.

Giải thích : Muốn cho thấy rõ trí này từ trí không chuyển đảo sinh nên không lay đổ, không lay đổ nên là trí như thật.

Luận nói : Các thứ tướng thức là tướng trí,

Giải thích : Đây là nói trí như lượng tương tự tất cả trí cảnh khởi, lấy tất cả cảnh thức làm tướng, vô ngại đối với tất cả sở tri. Do trí này được nhập duy thức hậu quán. Đây tức là nhập hậu quán phương tiện. Do tiền hậu phương tiện đều khó nhập nên khó được duy thức quán.

Luận nói : Để diệt trừ tất cả chủng tử các pháp có nhân chung trong bản thức A-lê-da,

Giải thích : Dưới đây nói rõ 2 trí dụng. Có 3 thứ trí dụng : Một là diệt chướng, hai là lập nhân, ba là được cái dụng của Phật pháp. Câu này tức nói rõ cái dụng thứ nhất là diệt chướng. Hiện tại hoặc chưa diệt khiến diệt. Nói trừ cái hoặc vị lai chưa sinh, ngăn chận không cho sinh nên nói là diệt. Trong duy thức đạo nói chung là diệt chủng tử nhân quả của bất tịnh phẩm. Có 3 thứ nhân : 1.nhân duyên, 2.tăng thượng duyên, 3.duyên duyên. Quả tức là chủng tử bất tịnh phẩm. Đã diệt chung chủng tử nhân quả nên gọi là chung. Thức A-đà-na và Lục thức là nhân duyên bất tịnh phẩm nên gọi là bản thức A-lê-da, là tăng thượng duyên của bất tịnh phẩm. Duyên duyên tức là 6 trần. Sáu trần là chủng tử duyên duyên cho nên chủng tử tất cả pháp tức chủng tử tất cả pháp bất tịnh phẩm. Chủng tử tức là quả. Quả này có duyên duyên v.v… 3 nhân. Thức A-lê-da đã là chủng tử tăng thượng duyên cho nên chủng tử ở trong thức A-lê-da.

Luận nói : để sinh trưởng chủng tử các pháp có khả năng đạt tới pháp thân,

Giải thích : Đây nói cái dụng thứ hai là lập nhân. Các pháp tức là Lục độ. Bồ-tát thực hành 6 Ba-la-mật huân tập có thể làm nhân vô thượng Bồ-đề nên gọi là chủng tử. Chủng tử này nếu sinh ra lớn lên có thể chứng đắc pháp thân Như Lai cho nên gọi là đạt tới, là sinh trưởng 2 nhân phúc tuệ. Nhập duy thức quán nên duy thức quán có thể lập nhân khiến được vô thượng Bồ-đề.

Luận nói : để chuyển y,

Giải thích : Dưới đây nói cái dụng thứ ba là được Phật pháp. Để được pháp thân thanh tịnh vô cấu của Như Lai, tức lậu tận vô úy.

Luận nói : để được chính pháp của tất cả Như Lai,

Giải thích : Tức có thể nói 2 sự không sợ hãi là chướng đạo và tận khổ đạo để lợi tha và an lập chính pháp.

Luận nói : để được trí nhất thiết trí,

Giải thích : Tức là tất cả trí không sợ hãi. Ba câu này là hiển thị 3 đức. Trước nói đoạn đức, tiếp nói ân đức, sau nói trí đức.

Luận nói : nên nhập Duy thức quán.

Giải thích : Để thành tựu 3 cái dụng trước nên nhập duy thức quán. Nếu do trí vô phân biệt diệt chướng, lập nhân, đắc quả nên nhập duy thức quán vậy sau khi nhập quán cái dụng của hậu trí vô phân biệt là như thế nào ? Nếu dựa vào trí vô phân biệt tức là nói nhân quả các pháp không có công năng, bởi trí này vô phân biệt cho nên do hậu trí vô phân biệt mà trong tướng các pháp Bồ-tát tự không điên đảo. Như chỗ tự chứng cũng có thể vì người nói nhân quả các pháp. Để được 2 cái dụng này, Bồ-tát tu hậu trí vô phân biệt.

Luận nói : Cái trí vô phân biệt, cái trí hậu sở đắc ở trong bản thức và cái thức sinh tất cả thức và trong tướng của tướng thức

Giải thích : Câu này nói Bồ-tát do trí này không điên đảo nhân quả. Bản thức là tính y tha, tức là nhân chính sinh ra thức của tất cả thức, tức là quả do bản thức sinh. Thất thức tức là thức phân biệt tính tướng, tức là khí thế giới và 6 trần cũng là quả của bản thức, cũng là tính phân biệt. Câu này nói rõ đủ 3 tướng, tức là nội tướng, ngoại tướng và nội ngoại tướng, nên nói là trong tướng. Bồ-tát cũng không điên đảo trong nhân quả này.

Luận nói : do quán các thí dụ tựa như ảo hóa, tự tính không điên đảo.

Giải thích : Bồ-tát dùng cái hậu trí vô phân biệt quán tướng nhân quả này, tự nhiên không điên đảo, không chấp có ngoại trần nội căn, chỉ có thức là pháp thật hữu. Bởi vì sao ? Bồ-tát đã hiểu rõ các pháp này tựa như các thí dụ ảo hóa v.v…không thể dựa vào chỗ thấy nghe hay biết mà phán đoán các pháp là thật có. Bởi vì sao ? Vì tâm này từ nguồn gốc thanh tịnh lưu xuất.

Luận nói : Do ý nghĩa này, Bồ-tát cũng như nhà ảo thuật, đối với các trò ảo thuật tự biết rõ ràng không đảo lộn.

Giải thích : Như nhà ảo thuật đối với các trò ảo thuật làm ra thấy nghe v.v…4 thức, không dựa vào thức này mà hiểu biết các trò ảo thuật. Nếu như vốn đã hiểu rõ các trò ảo thuật thì không đảo lộn đối với các ảo thuật. Bồ-tát cũng vậy. Do dựa vào bản trí mà hiểu rõ nên đối với tất cả các tướng và trong nhân quả không điên đảo nữa. Đó là Bồ-tát tự lợi.

Luận nói : Trong nhân duyên và quả đối với tất cả tướng, khi thuyết giảng thường không lệch lạc hay đảo lộn.

Giải thích : Nếu Bồ-tát dựa vào bản trí làm việc lợi tha, nghĩa là khi thuyết giảng về 3 tạng, 3 thừa và nghĩa của ngũ minh v.v…thường không thiên lệch, đảo lộn, mâu thuẫn. Không thật, không nhất định là thiên. Hợp lý không thể lay động là không thiên. Lạm dụng thời xứ lẫn nhau là đảo. Tùy xứ, tùy thời, tùy tướng là không đảo. Đó là Bồ-tát lợi tha.

Chương 9 : Hai trí y chỉ

Luận nói : Bấy giờ khi chính nhập Duy thức quán có 4 thứ Tam-ma-đề. Đó là 4 thứ thông đạt phần làm y chỉ cho thiện căn.

Bồ-tát phải thấy như thế nào ?

Giải thích : Câu hỏi này muốn nói rõ nhập quán có 3 nghĩa : 1.chân cảnh, 2.Xa-ma-tha, 3.Tì-bát-xá-na. Để nói rõ chỗ nên nhập cho nên nói chính nhập. Trong duy thức quán vị, duy thức xứ tức 3 vô tính chân như. Chân như này không phải trí cảnh tán động, cho nên nói 4 thứ Tam-ma-đề là y chỉ. Cảnh và trí này không thể phân biệt cho nên nói 4 thứ thông đạt phần thiện căn là năng chứng. Phải thấy pháp này như thế nào ?

Luận nói : Do 4 thứ tầm tư, ở bậc hạ phẩm vô trần quán nhẫn,

Giải thích : Nghĩa của lạc quán vô trần gọi là nhẫn. Nhẫn này chưa lìa 3 tướng, nghĩa là quán khéo thành tựu nhân duyên hoặc ô thanh tịnh chưa tùy ý tu tập nên là hạ phẩm.

Luận nói : quang đắc Tam-ma-đề.

Giải thích : Trí vô trần gọi là quang. Định này lấy trí vô trần làm sở đắc. Định này là y chỉ của trí vô trần nên gọi là quang đắc. Định tức Xa-ma-tha. Trí tức Tì-bát-xá-na. Nếu đủ 5 phần 5 trí, định này gọi là Tam-ma-đề.

Luận nói : là thiện căn y chỉ của noãn hành thông đạt phần.

Giải thích : Phúc đức trí tuệ 2 hành là thể của noãn hành, tức 37 phẩm. Hành này là tướng lửa đạo có thể thiêu đốt củi hoặc loạn phiền não nên gọi là noãn. Noãn hành này đã qua 4 vị địa tiền, quyết định hiểu rõ trí chân như gọi là thông đạt. Phương tiện đạo này có khả năng trợ giúp thành tựu trí thông đạt nên gọi là phần, có khả năng giúp sinh cứu cánh vị nên gọi là thiện căn. Định này có khả năng làm tăng thượng duyên cho thông đạt phần nên gọi là y chỉ. Lại nữa trong 37 phẩm lập định làm sở y chỉ, còn lại 36 làm năng y chỉ. Trong 36 thì Bát-nhã là thông đạt, còn lại 35 là phần. Ba mươi sáu gọi chung là thiện căn. Lại nữa 4 thiện căn tức là 4 phần.

Luân nói : Trong tối thượng phẩm vô trần quán, nhẫn, quang, tăng, Tam-ma-đề là thiện căn y chỉ của đỉnh hành thông đạt phần.

Giải thích : Đã lìa 3 tướng nên là tối thượng phẩm. Vô trần quán nhẫn như trước đã giải thích. Trí vô trần gọi là quang, nghĩa là sáng. Trí này vượt trội hơn trong các phương tiện nên gọi là tăng, nghĩa là tăng thêm. Định này là y chỉ của trí vô trần thắng tiến nên gọi là quang tăng, cũng lấy 2 hành phúc đức trí tuệ làm thể của đỉnh hành. Đỉnh có 3 nghĩa : Một là như cái đầu của con người có khả năng gìn giữ thân mạng. Người tu đạo cũng vậy, nếu đến địa vị này rồi thì thiện căn không thể đoạn mất. Hai là như đỉnh núi, tức lúc đến đó rồi trở lui. Có người đến đỉnh núi rồi lui về. Người tu đạo cũng vậy, có người đến địa vị này rồi dừng lại trong phương tiện không tiến tới nên gọi là thoái lui. Ba là như đỉnh núi là lúc thăng tiến. Có người đến đỉnh núi rồi còn thăng tiến. Người tu đạo cũng vậy, có người đến địa vị này mà còn tiến vào địa vị ưu thắng nên gọi tên là đỉnh. Đã nói Bồ-tát trong 4 thứ tầm tư, tu 2 thứ phươn tiện đạo là noãn và đỉnh. Vậy trong 4 thứ trí như thật thì tu như thế nào ?

Luận nói : Trong 4 thứ trí như thật, Bồ-tát đã nhập vào Duy thức quán, hiểu rõ vô trần,

Giải thích : Nếu Bồ-tát qua 4 thứ tầm tư, vượt qua 2 địa vị noãn và đỉnh thì trong địa vị 4 thứ trí như thật Bồ-tát duyên cảnh gì ? Bồ-tát chỉ duyên duy thức làm cảnh. Duyên cảnh duy thức thì sao gọi là hiểu rõ được nghĩa vô trần ? Vì trừ vô minh và nghi hoặc nên gọi là hiểu rõ. Ba câu này nói rõ địa vị, cảnh và trí.

Luận nói : nên chính thức nhập vào một phần chân nghĩa.

Giải thích : Do trí này nên Bồ-tát ngộ nhập một phần chân nghĩa. Nghĩa là vô tướng tính, chưa nhập vô sinh tính và vô tính tính.

Luận nói : Thông hành Tam-ma-đề là tùy phi an lập đế nhẫn y chỉ.

Giải thích : Thể của trí vô trần gọi là thông. Định này lấy trí vô trần làm hành, tức y chỉ vô trần trí hành nên gọi là thông hành, được hiển thị bởi 3 vô tính. Nhân pháp 2 không gọi là phi an lập đế. Bởi vì sao ? Đế lý này thông tất cả pháp không có sai biệt nên gọi là phi an lập. Không điên đảo, không biến đổi khác nên gọi là đế nhẫn. Có thể phù hợp theo nghĩa này nên gọi là tùy. Cũng lấy 2 hành là phúc đức trí tuệ làm thể của nhẫn. Bồ-tát đã hiểu rõ nghĩa không có ngoại trần, đối với nghĩa không có năng thủ sở thủ tâm sinh tín lạc nên gọi là nhẫn. Lại có khả năng an ổn tiếp thụ nghĩa của đế lý thượng phẩm nên gọi là nhẫn. Đối với đế lý thượng phẩm tâm không thoái thất nên gọi là nhẫn.

Luận nói : Tam-ma-đề này, sát-na sau cùng dẹp bỏ được tưởng duy thức,

Giải thích : Tam-ma-đề này là thông hành Tam-ma-đề, lấy định của một sát-na sau cùng của thượng thượng phẩm thông hành, do trước hiểu rõ tính vô tướng, sau lại tư duy sở duyên, đã là vô sở hữu thì năng duyên ắt không được sinh. Do hiểu rõ như vậy nên có thể đè bẹp tiêu diệt cái tưởng về duy thức. Duy thức tưởng đã diệt, từ sát-na sau cùng tiến đến sát-na thứ hai tức nhập vào sơ địa.

Luận nói : đổi gọi tên là Vô gián Tam-ma-đề.

Giải thích : Định này với sơ địa gần nhau, không bị các tâm xen cách nên gọi là vô gián. Lại nữa các hoặc của địa dưới không thể làm chướng ngại việc nhập sơ địa, không phải như địa dưới cách trở thắng phương tiện không được nhập ngay vào sơ địa nên gọi là vô gián.

Luận nói : Phải biết đây là y chỉ của Thế đệ nhất pháp.

Giải thích : Bồ-tát lấy địa tiền làm thế pháp, đăng địa làm xuất thế pháp. Vô gián định này còn là thế pháp. Trong các thế pháp, đây là pháp không có pháp nào so sánh được nên gọi đệ nhất. Bởi vì sao ? Chúng sinh trong thế gian không có pháp tu hành nào có thể sánh bằng pháp này. Lại nữa tuy định này là thế pháp nhưng có khả năng làm tăng thượng duyên cho xuất thế đạo của Bồ-tát. Các thế pháp khác không có được nghĩa này nên gọi là đệ nhất. Lại nữa chỉ một sát-na nên gọi là đệ nhất.

Luận nói : Bốn thứ Tam-ma-đề này là tiền phương tiện của Bồ-tát nhập phi an lập đế quán.

Giải thích : Hai định trước là vô gián tu, 2 định sau là cung kính tu. Muốn nói rõ 4 định này chẳng phải chân đạo nên nói là tiền phương tiện.

Chương 10 : Hai trí sai biệt

Luận nói : Nếu Bồ-tát nhập sơ địa đã được kiến đạo như thế thì được thông đạt nhập duy thức.

Giải thích : Dưới đây cho thấy kiến đạo là y chỉ của tu đạo. Do trước thành lập kiến đạo nên tu đạo được thành. Nếu Bồ-tát ở trong nguyện lạc địa tu đủ các phương tiện được nhập sơ địa, sở dĩ được nhập sơ địa là do được kiến đạo. Kiến đạo tức trí vô phân biệt. Sở dĩ được trí vô phân biệt là do thông đạt chân như và tục đế. Cho nên biết trần vô sở hữu là thông đạt trí chân như, chỉ có thức là thông đạt tục. Lại nữa biết thức này không có sinh tính là thông đạt trí chân như, thức này giả có là thông đạt tục. Nếu không thông đạt tục thì không lấy gì có thể thấy chân, vì lìa tục không có chân. Nếu không thông đạt chân không lấy gì để khiển trừ tục, vì tục không có cái thể riêng biệt. Sở dĩ có thể thông đạt chân tục là do có thể hiểu rõ lý duy thức. Câu văn này làm rõ 4 nghĩa : 1.xuất thế quả, 2.xuất thế hành, 3.xuất thế cảnh, 4.xuất thế phương tiện. Sơ địa là quả. Chung cả pháp hữu vi vô vi là thể. Hành phúc đức trí tuệ là hữu vi. Chân như và phiền não không sinh là vô vi. Sơ địa là giả danh. Do đó nói chung kiến đạo là hành, chỗ thông đạt chân tục là cảnh, nhập duy thức là phương tiện. Do nhập duy thức là phương tiện cho nên có thể thông đạt cảnh chân tục. Do thông đạt cảnh chân tục nên được trí hành vô phân biệt. Do được thắng hành nên được quả sơ địa.

Luận nói : Thế nào là Bồ-tát tu tập quán hạnh vào trong tu đạo ?

Giải thích : Chữ “Thế nào” là hỏi tất cả 10 nghĩa : 1.tướng, 2.thứ tự, 3.tu 4 sai biệt, 5.nhiếp tương trợ, 6.nhiếp tương ngại, 7.công đức, 8.quan sát lẫn nhau, 9.danh, 10.tịnh bất tịnh. Tu nhiều lần được là tu tập. Phúc đức trí tuệ là hành. Bát-nhã là quán. Tấ cả các hành đều là việc Bát-nhã, đều thuộc Bát-nhã nên gọi là quán hành. Lại trong Lục độ Bát-nhã là đứng đầu nên gọi là quán hành. Lại nữa kiến đạo gọi là quán. Từ sau kiến đạo những gì đạt được đều gọi là hành. Bồ-tát y chỉ kiến đạo dùng những tướng gì được nhập sơ địa ?

Luận nói : Như Phật đã nói rộng an lập pháp tướng trong 10 địa của Bồ-tát,

Giải thích : Trong đây trước nói cảnh của 3 tuệ, sau nói công năng của 3 tuệ. Câu văn này nói cảnh của 3 tuệ. Phật nói rộng là cảnh của văn tuệ. Pháp tướng được an lập tức tướng v.v…10 thứ pháp tướng là cảnh của tư tuệ. Trong 10 địa của Bồ-tát tức cảnh của tu tuệ. Tiểu thừa cũng có 10 địa cho nên lấy Bồ-tát làm tiêu biểu. Mỗi địa mỗi địa đều có 10 tướng cho nên nói 10 địa.

Luận nói : do gồm thâu tất cả 12 bộ kinh Đại thừa Như Lai đã nói, nên được hiện tiền,

Giải thích : Dưới đây nói công năng của 3 tuệ. Văn tuệ có thể thông đạt 12 bộ giáo pháp nên nói là gồm thâu.

Luận nói : do đối trị 2 cảnh thông và biệt đã nói,

Giải thích : Đây là nói công năng của tư tuệ. Thông biệt 2 cảnh tức tướng v.v… 10 pháp. Tư tuệ có khả năng nghiên cứu thực hành 10 pháp này nên nói là đối trị.

Luận nói : do sinh khởi duyên cảnh cực kỳ thông suốt,

Giải thích : Dưới đây nói công năng của tu tuệ. Phương tiện là sinh, chính quán là khởi. Vô gián đao là sinh, giải thoát đạo là khởi. Nhập phần là sinh, xuất phần là khởi. Kiến đạo là sinh, tu đạo là khởi. Xuất thế đạo là sinh, thế gian đạo là khởi. Trí như lý như lượng sở duyên là cảnh cực kỳ thông suốt.

Luận nói : trí xuất thế vô phân biệt và trí vô phân biệt hậu sở đắc,

Giải thích : Đây là nói cái thể của tu tuệ.

Luận nói : trí Xa-ma-tha Tì-bát-xá-na,

Giải thích : Đây nói 2 trí vắng lặng không lay đổ. Do Xa-ma-tha nên vắng lặng. Do Tì-bát-xá-na nên không lay đổ.

Luận nói : do dựa vào sự tu tập không gián đoạn trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi đại kiếp,

Giải thích : Câu văn này cho thấy 3 tuệ đủ 4 thứ tu. Không thể dùng các thứ thí dụ biết đượclà vô lượng. Không thể đếm biết được là vô số. Một trăm ức là một câu-chi. Không phải một câu-chi nên nói ngàn. Cũng không phải một ngàn nên nói trăm. Chẳng phải tiểu kiếp nên nói đại. Đây tức là nói thời gian dài tu tập, nhiều lần tu tập thường xuyên, tức cho thấy 3 sự tu tập là vô gián, cung kính và vô dư.

Luận nói : do xưa và nay được chuyển y,

Giải thích : Trước nơi nhập kiến vị khi được chuyển y, pháp này là tu đạo nhiếp trì cho nên tất cả chỗ tu đều thành Thánh đạo vì đã quá địa vị nguyện lạc.

Luận nói : vì để được 3 thứ Phật thân nên lại tu gia hành.

Giải thích : Đây là tu đạo nhiếp trì cứu cánh dụng. Do đạo lý này Bồ-tát lại tu gia hành nữa. Trước tu đạo là thấy chân như, nay tu đạo trở lại để được 3 thân cho nên nói lại tu nữa. Lại nữa

Luận nói : Thế nào

Giải thích : Thế nào là một vấn từ, tức một từ dùng để hỏi. Vấn từ này hỏi tất cả 6 nghĩa. Một là hỏi về cảnh giới tu vị. Cảnh giới tu đạo tự có 3 thứ : 1.gia hành y chỉ, tức là văn giáo, 2.hành tư lương, tức dựa vào lý phán xét nghĩa, 3.chỗ tu hành thông đạt, tức cảnh giới tu tuệ. Ba câu sau nói cảnh giới của 3 tuệ để đáp câu hỏi này. Hai là hỏi về công năng của tu vị 3 tuệ. Ba câu sau nói công năng của 3 tuệ để đáp câu hỏi này. Ban đầu nói văn tuệ là phương tiện của tu tuệ. Tiếp đến nói tư tuệ là tư lương của tu tuệ. Sau nói trí vô phân biệt là thể của tu tuệ. Ba là hỏi về nhân quả của tu vị tu tuệ. Sau nói rõ trí vô phân biệt hậu sở đắc để đáp câu hỏi này. Do tu tuệ trí này được sinh cho nên là quả của tu tuệ. Nếu không có trí này không thể tiến tới đạo lý sau cho nên là nhân của tu tuệ. Bốn là hỏi về 4 pháp tu của tu vị. Sau nói rõ tu trường kỳ cho đến vô dư tu để đáp câu hỏi này. Năm là hỏi về y chỉ của tu vị. Sau nói rõ chuyển y để đáp câu hỏi này. Nếu không có chuyển y này làm y chỉ tu vị sẽ không thành Thánh đạo. Bởi vì sao ? Vì phàm phu dựa vào chỗ chưa chuyển. Sáu là hỏi về cái dụng vượt trội của tu vị. Sau nói 3 thân để đáp câu hỏi này. Để viên mãn 2 cái dụng tự lợi lợi tha nên tu gia hành. Lại nữa,

Luận nói : Thế nào

Giải thích : Hỏi chung thứ tự của tu vị. Sau nói rõ đầy đủ thứ tự từ mới khởi tâm tu hành cho đến tu vị cứu cánh để đáp câu hỏi này. Trước lấy 3 câu nói văn tư tu vị, tức cảnh của 3 tuệ. Tiếp đến 3 câu cho thấy rõ có thể nhập vào công năng của 3 cảnh, tức 3 tuệ. Tiếp đến cho thấy công năng của lợi tha, tức trí vô phân biệt hậu sở đắc, như vì người khác giải thuyết chỗ mình chứng được. Tiếp đến nói 4 pháp tu làm rõ tu vị, do 4 pháp tu được thành tựu viên mãn. Tiếp đến nói chuyển y làm rõ tự lợi chuyển y là được nguồn gốc 4 đức của pháp thân cho nên là tự lợi. Tiếp đến nói 3 thân. Ba thân được thành tựu trong cứu cánh tu vị, có thể bình đẳng lợi ích tự tha. Pháp thân là tự lợi.Ứng hóa 2 thân là lợi tha. Lại nữa

Luận nói : Như Phật đã nói rộng an lập pháp tướng trong 10 địa của Bồ-tát,

Giải thích : Mười địa tức đoạn văn nói rõ trong Phẩm thập địa Kinh Hoa Nghiêm. Trong đoạn văn này Như Lai rộng nói đạo lý tùy sở an lập. Lại nữa,

Luận nói : do gồm thâu tất cả 12 bộ kinh Đại thừa Như Lai đã nói nên được hiện tiền.

Giải thích : Hợp tất cả pháp Như Lai đã nói chung làm một cảnh. Lại nữa,

Luận nói : do đối trị 2 cảnh chung và riêng đã nói,

Giải thích : Cảnh được hợp lại là cảnh đơn hay là phức tạp, để làm rõ 2 pháp quán chân tục thông một vô tướng. Lại nữa,

Luận nói : do sinh khởi duyên cảnh cực kỳ thông suốt, trí xuất thế vô phân biệt và trí vô phân biệt hậu sở đắc, trí Xa-ma-tha Tì-bát-xá-na,

Giải thích : Cho thấy đạo 2 thể gồm thâu lẫn nhau, do Xa-ma-tha nên trí không tán loạn, do Tì-bát-xá-na nên định không thụ các vị nhiễm ô v.v… Lại nữa,

Luận nói : trí vô phân biệt hậu sở đắc, trí Xa-ma-tha Tì-bát-xá-na, do dựa vào sự tu tập không gián đoạn trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi đại kiếp, do xưa và nay được chuyển y, để được 3 thứ Phật thân lại tu gia hành.

Giải thích : Trí này là thế trí hay xuất thế trí ? Không thể nói là thế trí vì chẳng phải thế gian tu tập. Không thể nói là xuất thế trí vì nó khởi trong tâm thế gian cho nên tâm này khác với tâm vô phân biệt trí. Tâm này cũng có thể nói là thế xuất thế và phi thế phi xuất thế. Hai tâm này tu tập trường kỳ nên được chuyển y. Do chuyển y nên Bồ-tát tâm niệm rằng ta nay quyết định sẽ được 3 thứ Phật thân. Vì nghĩa này nên lại tu gia hành.

Luận nói : Kiến đạo của Thanh Văn và kiến đạo của Bồ-tát, hai thứ kiến đạo này khác nhau thế nào ?

Giải thích : Kiến đạo của Thanh Văn là tha đạo. Kiến đạo của Bồ-tát là tự đạo. Hai kiến đạo này là đạo sai biệt và quả sai biệt. Tướng ấy như thế nào ?

Luận nói : Phải biết kiến đạo của Thanh Văn và Bồ-tát có 11 thứ khác nhau.

Giải thích : Năm cái trước nói khác nhau về đạo. Sáu cái sau nói khác nhau về quả. Năm cái trước khác nhau về đạo là

Luận nói : Mười một thứ là gì ? Một do khác cảnh giới. Nghĩa là Bồ-tát duyên pháp Đại thừa làm cảnh.

Giải thích : Như Lai nói 12 bộ kinh Đại thừa, nói pháp tu hành, duyêncác pháp nàylàm cảnh nên phát đạo tâm. Tiểu thừa đạo thì không có việc này.

Luận nói : Hai, do y chỉ khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát dựa vào tư lương đại phúc đức trí tuệ làm y chỉ.

Giải thích : Đạo này khác với Nhị thừa và thế gian đạo. Thế gian tu phúc đức mà không trí tuệ. Nhị thừa chỉ tu trí tuệ mà không phúc đức. Bồ-tát tu đủ phúc đức và trí tuệ nên trợ đạo được thành tựu. Trợ đạo tức là y chỉ. Y chỉ này tại trong phương tiện đạo tức tư tu 2 tuệ.

Luận nói : Ba, do thông đạt khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát thông suốt nhân và pháp cả hai là vô ngã.

Giải thích : Trước ở trong phương tiện đã được tư tu tuệ, từ đó được nhập chân quán, có thể thông đạt lý nhân pháp 2 vô ngã, đối với nhân pháp không sinh ái trước. Phàm phu chấp nhân. Nhị thừa chấp pháp. Bồ-tát cả 2 đều không chấp, cho nên nói ly dục nhân pháp. Đây tức nói sở đắc chân tu tuệ của Bồ-tát là thể của chính đạo khác với Tiểu thừa.

Luận nói : Bốn, do Niết-bàn khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát lấy vô trụ xứ Niết-bàn làm trụ xứ.

Giải thích : Niết-bàn này không phải là đạo quả mà là đạo trụ xứ. Bởi vì sao ? Do Bồ-tát hành Bát-nhã, quán sát tội lỗi sinh tử, tu đạo không ở sinh tử, do Bồ-tát hành Đại bi, quán chúng sinh khổ khởi tâm cứu tế. Tuy không ở sinh tử mà không bỏ sinh tử, không trụ Niết-bàn. Do đạo trụ nơi đây không chấp chân tục 2 tướng sinh nên gọi là vô tướng đạo. Tiểu thừa đạo thì không có việc này.

Luận nói : Năm, do địa vị khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát lấy 10 địa làm quá trình xuất ly.

Giải thích : Đạo có 3 bậc hạ trung và thượng. Thượng tức 10 địa. Mười địa này thoát khỏi 10 thứ sinh tử là công năng chung. Dựa vào Bồ-tát đạo của 10 địa này có thể xuất ly khác với Tiểu thừa. Sáu cái sau nói sai biệt của quả.

Luận nói : Sáu và bảy, do tính thanh tịnh khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát diệt phiền não tập khí và đối trị Tịnh độ làm thanh tịnh.

Giải thích : Trước có 5 việc đã nói rõ sai biệt của đạo. Dưới đây 6 việc tiếp nói sự đắc quả của Bồ-tát tu đạo khác với Nhị thừa. Cái thứ 6 nói về thanh tịnh bên trong, thứ 7 thanh tịnh bên ngoài. Bên trong là do tự tương tục tu đạo diệt trừ phiền não tập khí nên gọi là thanh tịnh bên trong. Ngoài do tu hạnh Tịnh độ, cõi nước cư trú không có 5 thứ uế trược như thế giới của ngọc pha lê gọi là thanh tịnh bên ngoài. Trong là tự mình thanh tịnh, ngoài là thanh tịnh tha nhân. Tiểu thừa thì không có việc này.

Luận nói : Tám, do tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh có khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát vì thành thục chúng sinh không bỏ gia hành công đức thiện căn.

Giải thích : Bồ-tát tự thân phải Bát-niết-bàn và muốn Bát-niết-bàn tất cả chúng sinh. Do tâm bình đẳng này không bỏ công đức gia hành thiện căn. Các độ khác là công đức Bát-nhã là thiện căn. Lại 5 độ là công đức tinh tiến là thiện căn. Lại Bát-nhã tinh tiến là thiện căn. Các độ khác là công đức. Tiểu thừa thì không có việc này.

Luận nói : Chín, do chỗ thụ sinh khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát sinh vào nhà Như Lai gọi là sinh.

Giải thích : Thấy lý chân như, chứng pháp thân Phật có thể khiến chủng tính Như Lai không tuyệt dứt cho nên gọi là sinh nhà Như Lai. Do sinh nhà Như Lai cho đến đương lai sẽ được thành Phật nên nói là sinh. Tiểu thừa thì không có việc này.

Luận nói : Mười, do sự hiển hiện khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát trong các đại tập hội của Phật tử, thường hiển hiện nhiếp thụ chính pháp.

Giải thích : Các Bồ-tát gọi chung là Phật tử. Một pháp hội tụ họp đông đảo nhiều Bồ-tát gọi là đại tập. Pháp Như Lai nói ra có 3 nghĩa nên gọi là luân : 1.thích hợp trên dưới, 2.chưa được khiến được, được rồi khiến giữ gìn, 3.có thể từ đây đến kia. Bồ-tát trong các đại tập hội thường thị hiện không phá tăng, thường thị hiện hộ trì chính pháp. Đã được khiến không mất gọi là nhiếp. Chưa được khiến được gọi là thụ. Tiểu thừa thì không có việc này.

Luận nói : Mười một, do quả khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát lấy các pháp của Như Lai như 10 năng lực, 4 sự không khiếp sợ, 18 pháp không chung và vô lượng công đức làm quả.

Giải thích : Bồ-tát tu đạo vì được các quả này của Như Lai. Tiểu thừa thì không có việc này.

Luận nói : Ở đây có 2 bài kệ như sau :

Giải thích : Chữ “Ở đây” tức trong kiến đạo, có 2 bài kệ nói rõ từ phương tiện kiến đạo nhập chân như quán.

Luận nói :

Danh, nghĩa, khách của nhau,

Bồ-tát phải tầm tư.

Phải quán hai duy lượng,

Và hai giả thuyết kia.

Từ đó sinh thật trí,

Lìa trần ba phân biệt.

Nếu thấy là phi hữu,

Tức nhập ba vô tính.

Luận nói : “Danh, nghĩa, khách của nhau, Bồ-tát phải tầm tư.”

Giải thích : Trong nghĩa, danh là khách, trong danh, nghĩa là khách, vì không phải loại thuộc bản tính. Bồ-tát nhập tịch tĩnh vị quán đạo lý này. Đây tức là tầm tư phương tiện thứ nhất.

Luận nói : “Phải quán hai duy lượng và hai giả thuyết kia.”

Giải thích : Bồ-tát phải quán 2 pháp danh và nghĩa. Duy vô sở hữu là lượng. Bởi vì sao ? Nghĩa có 2 thứ : 1.tự tính, 2.sai biệt, đều vô sở hữu, chỉ là giả thuyết. Giả thuyết này với nghĩa giống nhau. Nghĩa vô sở hữu, giả thuyết cũng vô sở hữu. Nếu không giống nhau với nghĩa tức tự nhiên vô sở hữu. Giả thuyết tức là danh. Danh vô sở hữu nên trong nghĩa nó là khách. Nghĩa vô sở hữu nên trong danh nó là khách. Vô sở hữu là bản tính của danh nghĩa cho nên lấy bản tính làm duy lượng. Nếu phân biệt làm danh nghĩa thì vì bản tính phân biệt là vô tướng nên lấy vô tướng làm duy lượng của danh nghĩa. Đây là phương tiện như thật trí phương tiện thứ hai.

Luận nói : “Từ đó sinh thật trí, lìa trần ba phân biệt.”

Giải thích : Từ 4 thứ tầm tư sinh 4 thứ trí như thật. Ai có thể được 4 thứ trí này ? Nếu người nào có thể thấy 3 thứ chỉ là phân biệt, thật không có ngoại trần, người này sẽ được một phần trí như thật. Những gì là 3 thứ phân biệt ? Một là phân biệt tên, hai là phân biệt tự tính, ba là phân biệt sự khác nhau.

Luận nói : “Nếu thấy là phi hữu, tức nhập ba vô tính.”

Giải thích : Hai câu trước nói sự hiểu rõ 3 phân biệt, được nhập vô trần quán. Dựa vào tính y tha để khiển trừ tính phân biệt. Câu này cho thấy dựa vào chân như khiển trừ tính y tha. Làm sao có thể khiển trừ ? Do danh nghĩa vô sở hữu, năng phân biệt cũng không có được. Bởi vì sao ? Nếu danh nghĩa của sở phân biệt là có, năng phân biệt duyên danh nghĩa này có thể nói là có. Do danh nghĩa vô sở hữu, nhân duyên của sở phân biệt đã là không, thì thể của năng phân biệt vô sở hữu. Nếu Bồ-tát thấy danh nghĩa là vô sở hữu nên năng phân biệt cũng vô sở hữu thì Bồ-tát này được nhập vào quán gì ?

Luận nói : “Được nhập 3 vô tính “.

Giải thích : Bồ-tát thấy danh nghĩa là khách của nhau là nhập vào tính phân biệt danh nghĩa khác nhau. Nếu Bồ-tát thấy giả thuyết tự tính, giả thuyết sai biệt, chỉ phân biệt là thể thì được nhập vào tính phân biệt vô tướng. Nếu Bồ-tát chỉ thấy loạn thức, không có 6 thứ tướng thì thể của loạn thức không thành nên không thể nói được. Nhân duyên không thành nên không thể chấp là có sinh khởi. Trong đây phân biệt đã không, ngôn thuyết cũng bất khả đắc thì nhập vào y tha vô sinh tính. Nếu Bồ-tát thấy 2 nghĩa hữu vô này là vô sở hữu thì nhập vào 3 vô tính phi an lập đế.

Luận nói : Lại có 2 bài kệ chính giáo, nói trong Phân Biệt Quán Luận như sau :

Giải thích : Nay trong luận này cho thấy nhập cảnh trí kiến đạo là không viên mãn nên dẫn 2 bài kệ trong Luận Phân Biệt Quán để hiển thị trọn nghĩa này. Người nào, địa vị nào có thể thấy tâm này ? Chỉ là hình bóng không phải nghĩa thật pháp.

Luận nói :

Bồ-tát ở trong định,

Quán tâm chỉ là ảnh.

Lìa bỏ tướng ngoại trần,

Chỉ định quán tự tưởng.

Bồ-tát trụ nội tâm,

Nhập sở thủ phi hữu.

Rồi quán năng thủ không,

Sau, xúc đều không được.

Luận nói : “Bồ-tát ở trong định, quán tâm chỉ là ảnh.”

Giải thích : Chỉ người Bồ-tát ở trong tịch tĩnh vị mới có thể quán pháp này. Nghĩa thật là vô sở hữu, tâm tựa như nghĩa của pháp hiển hiện, cho nên nói chỉ là hình bóng.

Luận nói : “Lìa bỏ tướng ngoại trần, chỉ định quán tự tưởng.”

Giải thích : Nếu người ở trong tịch tĩnh vị, đã hiểu rõ tâm chỉ là hình bóng, có thể trừ tướng ngoại trần, đó là tự tâm khởi tướng tựa như pháp và nghĩa. Tác quán như vậy.

Luận nói : “Bồ-tát trụ bên trong,”

Giải thích : Nếu tâm Bồ-tát trụ được như vậy thì thật không có trần, tâm duyên nội tâm khởi, không duyên ngoại trần nên trụ ở trong. Nếu trụ ở trong, sở quán của định tâm này là gì ?

Luận nói : “Nhập sở thủ phi hữu.”

Giải thích : Nghĩa của sở thủ này, thật không có sở hữu. Bồ-tát có thể thấy cảnh sở thủ là không.

Luận nói : “Tiếp, quán năng thủ không.”

Giải thích : Do nghĩa của sở thủ là phi hữu, thì cái thế gian nói tâm là năng thủ, theo đạo lý này cũng không thành được. Vì vậy người tu quán hành cũng không thấy có tâm năng thủ. Trước đã không thấy sở thủ, sau cũng không thấy năng thủ, vậy khi ấy người tu quán hành được cái gì ?

Luận nói : “Sau xúc, hai đều không được.”

Giải thích : Chân như phi sở thủ phi năng thủ, bởi lấy vô sở đắc làm thể nên nói chân như là nhị vô đắc, hai đều không được. Người này trước đã nhập tính vô tướng, tiếp đến nhập tính vô sinh, sau nhập tính chân như vô tính. Xúc lấy nhập đắc làm nghĩa, do nhập đắc chân như nên gọi là xúc. Hai kệ trước với 2 kệ sau khác nhau thế nào ? Hai kệ trước là nói về danh nghĩa và giả thuyết, cho thấy 4 tầm tư và 4 trí như thật là phương tiện được nhập chân quán. Hai kệ sau nói thể của 3 tính và 3 vô tính. Lại nữa 2 kệ trước hiển thị chính giáo, nói rõ nhập 3 tính và 3 vô tính. Hai kệ sau hiển thị sở nhập 3 tính và 3 vô tính.

Luận nói : Lại nữa trong Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh có nói 5 bài kệ để làm rõ đạo lý này như sau :

Giải thích : Nghĩa kinh sâu kín khó hiểu. Hiển thị rõ như thật đúng nghĩa của kinh nên gọi là trang nghiêm kinh. Luận giải kinh này nên được tên là trang nghiêm. Trong Trang Nghiêm Kinh Luận có nhiều nghĩa. Nay chỉ lược lấy 5 kệ. Các kệ này muốn hiển thị những gì ? Kệ này hiển thị các nghĩa khó hiểu trong tu đạo.

Luận nói :

Bồ-tát sinh trưởng phúc và tuệ,

Hai thứ tư lương không giới hạn.

Với pháp tư duy tâm quyết định,

Hiểu rõ nghĩa loại phân biệt nhân.

Luận nói : “Bồ-tát sinh trưởng phúc và tuệ,”

Giải thích : Như giải thích ở trước, Bồ-tát sinh ở kiến vị, trưởng thành ở tu vị. Lại nữa sát-na đầu tiên gọi là sinh, sát-na sau gọi là trưởng. Lại nữa đơn gọi là sinh, phức gọi là trưởng. Chỗ tu của Bồ-tát là chỉ có phức hợp chứ không đơn thuần. Sinh và trưởng một lúc mà thành. Sinh trưởng pháp gì ? Là phúc và tuệ. Thí v.v…3 độ là phúc. Bát-nhã là tuệ. Tinh tiến và định nếu vì sinh phúc thì thuộc phúc, nếu vì sinh tuệ thì thuộc tuệ. Sở dĩ như vậy là nếu tinh tiến là sinh bố thí thì trì giới nhẫn nhục thuộc phúc, nếu là sinh văn tư tu tuệ thì thuộc tuệ. Định nếu dựa vào 4 vô lượng khởi, duyên chúng sinh làm cảnh thì thuộc phúc, nếu vì sinh tận trí, vô sinh trí,và vô phân biệt trí v.v… thì thuộc tuệ. Ai có thể sinh trưởng ? Là người Bồ-tát.

Luận nói : “Hai thứ tư lương không giới hạn.”

Giải thích : Phúc và tuệ này có 2 thứ công dụng. Một là có khả năng trợ đạo. Hai là có khả năng thành đạo thể. Do có 2 công dụng này nên đạo được thành tựu cho nên nói 2 thứ này là 2 mon tư lương của đạo. Hai công dụng này có bao nhiêu công lực ? Phàm trải bao nhiêu thời gian được thành tựu đạo, công lực không lường hết, thời tiết không bờ bến. Chữ vô là không, hiển thị sự dài lâu, ví như nói đại hải vô lượng hay đại kiếp vô tế. Vì lâu xa cho nên tư lương cũng vậy. Tu mỗi độ mỗi độ trải 3 a-tăng-kì kiếp, nên trải qua thời gian không giới hạn.

Luận nói : “Với pháp tư duy tâm quyết định,”

Giải thích : Do sau khi định, tâm quán sát các pháp cho nên đối với pháp tâm được quyết định. Lại nữa Bồ-tát tu đủ ngũ minh, đối với độ lượng phương tiện tự mình đầy đủ, đối với tư duy tâm được quyết định.

Luận nói : “Có thể hiểu rõ nghĩa loại phân biệt nhân.”

Giải thích : Bồ-tát có khả năng so sánh có khả năng chứng minh cho nên nói có thể hiểu rõ. Chân tục 2 đế gọi là nghĩa loại. Biết nghĩa loại này chỉ lấy phân biệt làm nhân, cho nên có thể hiểu rõ.

Luận nói :

Đã biết nghĩa loại là phân biệt,

Được trụ tựa nghĩa trong duy thức.

Nên người tu quán chứng pháp giới,

Lìa được hai tướng với hai không.

Luận nói : “Đã biết nghĩa loại là phân biệt,”

Giải thích : Do Bồ-tát tâm đã quyết định đối với nghĩa loại và phân biệt nên

Luận nói : “Được trụ tựa nghĩa trong duy thức.”

Giải thích : Do Bồ-tát tư duy như vậy, chỉ biết tựa trần hiển hiện nên tâm Bồ-tát trụ trong duy thức không duyên ngoại trần khởi.

Luận nói : “Nên người tu quán chứng pháp giới”,

Giải thích : Do người tu quán lìa ngoại trần, chỉ duyên thức mà trụ, biết trần là không có tướng, gọi là chứng pháp giới.

Luận nói :” Lìa được hai tướng với hai không.”

Giải thích : Pháp giới sở chứng có tướng như thế nào ? Lìa 2 tướng năng thủ sở thủ và không nhân pháp 2 phân biệt. Bồ-tát đã chứng pháp giới như vậy.

Luận nói :

Nếu biết lìa tâm không gì khác,

Do đây liền thấy tâm phi hữu.

Người trí thấy đây là không hai,

Được trụ không hai chân pháp giới.

Luận nói : “Nếu biết lìa tâm không gì khác,”

Giải thích : Do phương tiện này có thể chứng pháp giới, nay hiển thị phương tiện này, biết tách rời duy thức ra ngoài, không có một pháp gì khác.

Luận nói : “Do đây liền thấy tâm phi hữu.”

Giải thích : Do thấy nghĩa sở duyên là phi hữu nên biết tâm năng duyên cũng phi hữu.

Luận nói :” Người trí thấy đây là không hai,”

Giải thích : Người trí là gọi các Bồ-tát. Thấy cảnh và tâm đều phi hữu.

Luận nói :” Được trụ không hai chân pháp giới.”

Giải thích : Nếu Bồ-tát thấy hai đều phi hữu thì được trụ chân pháp giới. Chân pháp giới tức là không trần không thức nên nói là không hai, lìa 2 hư vọng là điên đảo và biến dị nên nói là chân, là tính thứ nhất của các pháp nên gọi là pháp giới.

Luận nói :

Do người trí tuệ không phân biệt,

Thường hành bình đẳng khắp tất cả.

Nhiễm ô y chỉ quá tụ tính,

Tiêu diệt như thuốc trừ độc chất.

Luận nói : “Do người trí tuệ không phân biệt, thường hành bình đẳng khắp tất cả.”

Giải thích : Bồ-tát đã thấy chân như này gọi là tuệ nhân, tức người có trí tuệ trong kiến đạo đã được trí vô phân biệt. Tướng trạng của trí này như thế nào ? Một, lấy sự không thoái lui làm tướng. Không thoái nên gọi là hằng thường. Hai, lấy hạnh bình đẳng làm tướng. Trí này thấy lý bình đẳng của tất cả pháp giống như hư không. Trong các pháp 3 thừa Như Lai nói trong 12 bộ Tu-đa-la, đều thấy chỉ một vị không sai biệt. Nội pháp ngoại pháp gọi là tất cả. Nội ngoại các pháp đồng một tính nhất như nên gọi là biến khắp. Hạnh bình đẳng hiển thị thể của trí tuệ. Biến khắp tất cả là hiển thị cảnh giới trí tuệ. Bồ-tát trí vô phân biệt như thế muốn làm điều gì ?

Luận nói : “Giải thoát khỏi cấu uế đậm đặc,”

Giải thích : Ba thứ bất tịnh phẩm gọi là nhiễm. Cái nhiễm này lấy tính tích tụ quá nhiều làm chỗ dựa. Từ tính tích tụ quá nhiều sinh nên tính tích tụ quá nhiều này gọi là rậm rạp vì khó giải khó phá nên lìa chính giáo Như Lai. Các giáo khác không thể khiến giải được nên nói là khó giải. Lìa trí vô phân biệt bao nhiêu trí khác không thể phá bỏ được nên gọi là khó phá. Tất cả pháp nhiễm ô huân tập là thể của tính tích tụ quá nhiều.

Luận nói : “Tiêu diệt như thuốc trừ độc chất.”

Giải thích : Tính này là nhân của 3 phẩm pháp bất tịnh. Chủng tử huân tập là tính của các hoặc khó giải khó phá. Do trí vô phân biệt, người thông tuệ có thể khiển trừ có thể tiêu diệt cái tính tích tụ quá nhiều này như thuốc A-già-đà có thể trừ các độc. Khiển trừ là nói về hiện tại, tiêu diệt là nói về vị lai, tức trí tân vô sinh của Bồ-tát.

Luận nói :

Phật khéo thành lập nói chính pháp,

Hữu căn tâm an trụ pháp giới.

Đã biết ức niệm là phân biệt,

Bờ biển công đức , người trí đến.

Luận nói : “Phật khéo thành lập nói chính pháp,”

Giải thích : Tất cả 3 đời các đức Phật đều nói pháp này. Các lý nói ra đều đồng không trái nhau nên gọi là chính pháp. Lại muốn hiển thị người nói là tối thắng nên nói Phật thuyết. Do đạo lý nói ra là thù thắng và quả đạt được là thù thắng nên gọi là chính pháp. Như Lai thành lập chính pháp có 3 thứ : Một là lập Tiểu thừa, hai là lập Đại thừa, ba là lập Nhất thừa. Trong ba thừa này thừa thứ ba là ưu việt hơn cả, nên nói là khéo thành lập.

Luận nói : “An tâm trong pháp giới hữu căn.”

Giải thích : Bồ-tát trước đã được văn tư 2 tuệ an tâm trong chính pháp Như Lai, sau hợp quán tất cả chính giáo của Như Lai làm cảnh giới, tức là trí vô phân biệt. Trí này gọi là hữu căn. Được trí này rồi các trí khác đều diệt, chỉ có trí này là không thể động không thể hư hoại nên gọi là hữu căn. Lại nữa ở trong 3 vô lưu căn, trí này là thứ nhất, tức là vị tri dục tri căn, nên gọi là hữu căn. Lại nữa giải thoát có 3 việc : Một là năng sinh giải thoát, hai là năng trì giải thoát, tức khiến trụ không mất, ba là năng dụng giải thoát, tức tự lợi lợi tha. Ba việc giải thoát này tức phối hợp với 3 vô lưu căn. Trí vô phân biệt này thông cả 3 nơi nên có tên. Tự thể là căn. Lại có thể vì người khác làm căn nên gọi là hữu căn. Tâm hữu căn này an trụ trong pháp giới.

Luận nói : “Đã biết ức niệm là phân biệt,”

Giải thích : Bồ-tát đã trụ trong tâm hữu căn, sau khi xuất quán ở trong tâm hậu trí vô phân biệt. Như những việc trước khi nhập quán đều có thể nghĩ nhớ thì biết những nghĩ nhớ này chẳng phải thật có, chỉ là phân biệt. Do vô phân biệt trí và vô phân biệt hậu trí Bồ-tát được tiến đến địa vị gì ?

Luận nói : “Bờ biển công đức người trí đến.”

Giải thích : Trong nhân công đức của Như Lai có 10 địa, 10 Ba-la-mật v.v…Trong quả có trí đức, đoạn đức, ân đức. Các đức này chỉ Phật mà thôi, người khác không thể có được cho nên gọi là biển. Cứu cánh nhân quả gọi là bờ. Người trí tức Bồ-tát. Hai trí trước của Bồ-tát thừa có thể đến được bờ biển công đức chưa từng đến. Trong đây 5 bài kệ nói rõ tất cả các nghĩa. Kệ thứ nhất hiển thị đạo tư lương. Kệ thứ hai hiển thị đạo gia hành. Kệ thứ ba hiển thị kiến đạo. Kệ thứ tư hiển thị tu đạo. Kệ thứ năm hiển thị cứu cánh đạo.

    Xem thêm:

  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Tập Chư Pháp Bảo Tối Thượng Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Bản Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Thích Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Giảng Rộng Ý Nghĩa Năm Uẩn Theo Giáo Pháp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Chư Giáo Quyết Định Danh Nghĩa - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Thanh Từ - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Viên Lý - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Nhất Chân - Luận Tạng
  • Luận Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Cửu Tụng Tinh Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Nhập Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đề Bà Bồ Tát Giải Thích Với Ngoại Đạo Tiểu Thừa Về Niết Bàn Theo Kinh Lăng Già - Luận Tạng
  • Giải Nghĩa Kinh Kim Cang - Luận Tạng
  • Luận Thích Du Già Sư Địa - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Duy Thức - Luận Tạng