Kinh Văn Thù Sở Thuyết Tối Thắng Danh Nghĩa
Tống Kim Tổng Trì Đẳng dịch,
Bản Việt dịch của Huyền Thanh
*
QUYỂN THƯỢNG
_Quy mệnh Diệu Cát Tường (Maṃjuśrī)
Nghĩa tối thắng đã nói
Kim Cương Chưởng Bồ Tát
Giáng phục các chúng Ma (Mārā)
Thân hiện khắp ba cõi
Bí Mật Vương tự tại
Mắt như cánh hoa sen
Mặt như hoa sen nở
Cầm giữ chày Kim Cương
Dùng tay ném, lại ném
Hiện tướng đại phẫn nộ
Uy chấn mười phương giới
_Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajra-pāṇi)
Cũng cầm chày Kim Cương
Tướng tinh tiến, vi diệu
Dũng mãnh giáng phục Ma (Mārā)
Đại Trí lợi quần sinh
Hóa ức số Kim Cương
Hoặc hớn hở vui vẻ
Hoặc hiện tướng phẫn nộ
Đỉnh lễ Phật Thế Tôn
Chắp tay, Tâm cung kính
Nguyện khiến Pháp (Dharma) trụ lâu
Cho chúng sinh nương dựa
Người ngu si không Trí
Kẻ khốn khổ phiền não
Cứu giúp khiến giải thoát
Đều hộ Quả tối thượng
_Thế Tôn Điều Ngự Sư
Trường trụ Đại Tam Muội
Thấu tỏ Tính các Pháp
Căn, Cảnh cũng như vậy
_Thân Trí Tuệ Như Lai
Tướng Ô Sắt Nị Sa (Uṣṇīṣa: Đỉnh kế)
Văn Thù (Maṃjuśrī): bậc Đại Trí
Trí Quán khéo sinh ra
Nghĩa vi diệu sâu xa
Đại Pháp Vô Đẳng Luân
Đầu, giữa, cuối đều tốt
Danh Nghĩa là tối thắng
Phật quá khứ đã nói
Phật vị lai sẽ nói
Phật hiện tại, nay nói
Ba đời đều như vậy
Ở trong lưới Huyễn lớn
Hay độ các Quần Phẩm
_Kim Cương Chưởng Bồ Tát
Vui vẻ liền khen ngợi
Phật nói Chân Mật Ngữ
Nay con hay thọ trì
Tâm quyết định bền chắc
Chí thành Đẳng Chính Giác (Samyaksaṃbuddha)
Diễn nói Pháp bí mật
Dẫn lối các chúng sinh
Khởi Trí Tuệ Vô Lậu (Anāsravaḥ:không còn chảy rỉ, không còn phiền não)
Dứt phiền não không sót
_Kim Cương Thủ Bồ Tát
Chắp tay đứng trước Phật
Bấy giờ Phật Thích Ca (Śākya-muṇi)
Tối Thượng Lưỡng Túc Tôn
Tướng lưỡi, lời chân thật
Âm vi diệu thanh tịnh
Tràn khắp trong ba cõi
Tiếng Phạm Âm (Brahma-ghoṣa) khen ngợi
“Như Lai Bí Mật Vương
Tuyên nói Đại Pháp Yếu”
_”Lành thay Kim Cương Chưởng!
Lành thay Kim Cương Thủ!
Vì làm lợi ích nên
Đại Trí được thành tựu
Đại Nghĩa Lợi tối thượng
Diệt trừ các tội cấu”
_Văn Thù, bậc Đại Trí
Nguyện nghe nghĩa như vậy
“Lành thay Đại Đạo Sư!
Phương tiện, xin tuyên nói”
_Bấy giờ Phật Thích Ca
Mở bày Pháp bí mật
Nhiếp trì Đại Minh Chú
Là: Trì Minh Chú Bộ
Thế Xuất Thế Gian Bộ
Chu Biến Thế Giới Bộ
Đại Ấn Chư Pháp Bộ
Ô Sắt Nị Sa Bộ
Sáu loại Đại Chú Vương
Tương ứng không có hai
Sinh ra Pháp Già Đà (Gāthā)
Nay Ta sẽ tuyên nói
“Át a nhất ế ốt ô y ái ổ áo ám ác”
A Ā I Ī U Ū E AI O AU AṂ AḤ
An trụ Tâm Trí Quán
Ba nghiệp Như Lai chuyển
Chữ Án (OṂ) Kim Cương Lợi (Vajra-tīkṣna)
Hay chặt đứt khổ não
Văn Thù Đại Cát Tường
Trí Tuệ Diệu Quán Sát
Tuyên nói Môn bí mật
Tự Tại Vương Thần Chú
“A la bát tả na dã đế, nẵng mạc”
A RA PA CA NA ĀYATE NAMAḤ
_Quy mệnh Phật Thế Tôn
Sinh ra Trí Bồ Đề
Chữ Át (ĀḤ) trong tất cả
Là nghĩa Đại Tối Thượng
Sinh ra Đại Hữu Tình
Lìa Tâm, lìa ngôn tướng
Với tất cả âm thanh
Tất cả tướng quang minh
_Ma Ha Đại Tham này
Các chúng sinh nhiễm dính
Ma Ha Đại Sân Hận
Nhân (Hetu) của mọi khổ não
Ma Ha Đại Ngu Si
Thâm nhập Tâm chúng sinh
Ma Ha Đại Phẫn Nộ
Đây là Oán hại lớn
Ma Ha Đại Ái Lạc
Mọi Kiến Trước (hai phiền não của quan điểm và cảm xúc) của Tâm
_Đại Dục với Đại Lạc
Đại Hỷ với Đại Nhiễm
Đại Sắc với Đại Thân
Đại Tướng với Đại Mạo
Đại Danh với Đại Thí
Đại Viên Mãn Đạo Trường
Cầm kiếm Đại Trí Tuệ
Chặt lưới Đại Phiền Não
_Đại Hiển với Đại Xưng
Đại Quang với Đại Minh
Đại Huyễn làm Huyễn Sư
Thành tựu nghĩa Đại Huyễn
_Đại Huyễn Hóa nhiễm Dục
Lưới Đại Huyễn Hóa Kiến (quan niệm của đại huyễn hóa)
Đại Bố Thí thù thắng
Đại Tinh Tiến dũng mãnh
Đại Thiền Định an trụ
Đại Trí Tuệ sinh ra
Đại Phương Tiện, Đại Nguyện
Đại Lực với Đại Trí
_Pháp Đại Từ: Vô Ngã (không có cái tôi)
Đại Bi: hạnh thâm diệu
Đại Tuệ: đại dũng mãnh
Đại Thí: phương tiện lớn
Đại Thần Thông: sức Trí
Đại Uy Đức cứng mạnh
Đại Kim Cương bí mật
Đại Phẫn Nộ uy mãnh
Hay trừ đại bố úy
Đại Tối Thắng Minh Vương
Đại Thừa Tối Thượng Hạnh
Tăng trưởng Pháp Đại Thừa
_Đại Tỳ Lô Già Phật (Vairocana-buddha)
Đại Tịch Mặc Mâu Ni (Śākya-muṇi)
Sinh ra Đại Chú Bộ
Thành tựu Pháp bí mật
Y mười Ba La Mật
Tu tập Hạnh thù thắng
Được mười Ba La Mật (Daśa-pāramitā)
Môn Diệu Pháp thanh tịnh
Mười loại Ba La Mật
Như Lai Bản Chân Trí
Hạnh tự tại mười Địa
An ổn trụ mười Địa
Thân thanh tịnh mười Trí
Nhóm Công Đức mười Trí
Mười Tướng, mười Nghĩa Lợi
Mâu Ni Thập Lực Tôn
Mười Tướng: hạnh rộng lớn
Vòng khắp đều viên mãn
Như Lai Thanh Tịnh Thân
Chẳng thật cũng chẳng giả
Chân Ngữ với Thật Ngữ
Như Ngữ, Bất Dị Ngữ
Không hai, chẳng không hai
Như Thật Tế an trụ
Ở nơi nghĩa Vô Ngã (không có cái tôi)
Giống như Sư Tử rống
Uy chấn các Ngoại Đạo
Chúng Ma đều kinh sợ
Tất cả Hạnh Chân Không
Như Lai tự mình chứng
Dũng mãnh phá oán địch
Đấy gọi là Tối Thắng
Đại Lực Chuyển Luân Vương
Bậc tôn trọng tối thượng
Đều sinh Tâm cung kính
Thấu Pháp không sai khác
Diễn nói Đại Thừa Giáo
Khen ngợi nghĩa vô biên
Lời Như Lai chân thật
Không thật, không hư dối
Dẫn dụ các quần mê
Đều được chẳng thoái lui
Thanh Văn (Śrāvaka) với Duyên Giác (Pratyeka-buddha)
Phật Thừa (Buddha-yāna) Quả Bồ Đề (Bodhi-phala)
Mọi loại Rỗng (Śūnya:Không) không dính
Như thật mà hiểu thấu
Lậu Tận A La Hán
Được Căn, Cảnh lìa Dục
Dứt Kết Sử (bandhana hay Saṃjojana) phiền não (Kleśa)
Không sợ (vô úy), được trong mát
Như Lai, Vô Sở Trước
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ
Thế Gian Tối Thượng Sĩ
Điều Ngự Thập Hiệu Tôn
Không Ngã Mạn (Ātma-māna) kiêu căng
Tâm chân thật an trụ
Xa lìa chốn luân hồi
Ức kiếp tu Thắng Hạnh
Đã làm điều cần làm
Tâm Trí Tuệ quyết định
_Thế Tôn Đại Pháp Vương
Diễn nói Pháp vi diệu
Vòng khắp cả Thế Gian
Giáo hóa các chúng sinh
Dùng Hạnh tối thù thắng
Thành tựu các Nghĩa Lợi
Làm Đại Dẫn Đạo Sư
Khiến lìa các nghi ngờ
Hết thảy giới chúng sinh
Đều được Địa (Bhūmi) an ổn
Đàn (Dāna), Giới (Śīla), Nhẫn (Kṣānti), Tiến (Vīrya), Thiền (Dhyāna)
Huân tu làm Tạng Phước (Puṇya-garbha)
Trí Tuệ Ba La Mật (Prajña-pāramità)
Huân tu làm Tạng Trí (Prajña-garbha)
Phương Tiện (Upāya) với Nguyện (Praṇidhāna), Lực (Bala)
Tùy thuận tu hai Tạng
Viên mãn hành mọi Thiện (Kuśala)
Thường tương ứng khắp cả
Ý Thiền Định vi diệu
Bày thân tướng chẳng động
Ba thân: Pháp (Dharma-kāya), Báo (Saṃbhoga-kāya), Hóa (Nirmāṇa-kāya)
Năm Phật, năm Chủng Trí
Năm Phật nghiêm mão báu
Năm mắt chiếu Thế Gian
Ứng hiện tất cả Phật
Khiến mọi Thiện tăng trưởng
Sức Trí Tuệđã tu
Hay chặt đứt luân chuyển
Thân Kim Cương bền chắc
Chân thật chẳng thể bàn
_Tỳ Lô Giá Na Phật (Vairocana-buddha)
Rực ánh sáng Đại Trí
Tự nhiên trong hư không
Tuôn ánh sáng Trí Tuệ
Chiếu khắp các cõi nước
Tất cả thân Như Lai (Tathāgata-kāya)
Minh Vương Đại Thần Chú
Thắng nghĩa đều thành tựu
_Đại Ô Sắt Nị Sa (Mahoṣṇīṣa: Đại Đỉnh Kế)
Phóng ánh sáng trong sạch
Chiếu tất cả thân Phật
Phật ấy đều cung kính
Tâm chiêm ngưỡng vui vẻ
Uy Nghi đều đầy đủ
Cúng dường đều khen ngợi
Mâu Ni Đại Kim Tiên
An trụ ba Bộ Chú
Tam Muội Chú hiện tiền
Ba báu (Tri-ratna: ba báu Phật Pháp Tăng) rất thù thắng
Ba Thừa (Triṇi-yānāni: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát) với dẫn đạo
_Bất Không Quyến Sách Bộ (Amogha-pāśa-kulāya)
Cầm sợi dây Kim Cương
Cầm móc câu Kim Cương
Hiện bày tướng phẫn nộ
Giáng phục các Ma Oán
Đại Phẫn Nộ Minh Vương (Mahā-krodha-vidya-rāja)
Sáu mặt hiện sáu mắt
Một thân sinh sáu tay
Miệng ló nanh bén lớn
Tay cầm Cám Ca La
Trăm rắn độc quấn tay
Tên Diệm Man Đức Ca (Yamāntaka)
Cũng tên Trừ Chướng Vương
Hiện tướng rất đáng sợ
Cầm Kim Cương sắc bén
Mọi loại tướng sai khác
Hóa quyến thuộc Kim Cương
Tràn đầy nơi hư không
_Đại Nghi Đức Phẫn Nộ
Bất Động Tôn Minh Vương (Acala-nātha-vidya-rāja)
Một búi tóc rối bồng
Thân vác da voi lớn
Khi phát âm cười lớn
Tiếng Ha Ha Hứ Hứ
Cây cỏ đều dao động
Hiện Đại Tiếu Minh Vương (Mahāṭṭā-hāsa)
_Kim Cương Vương (Vara-rāja): Đại Lạc
Kim Cương Tướng (Vajra-sena): Đại Hỷ
Kim Cương Chú (Vajra-mantra): hồng hồng
Kim Cương Cung (Vajra-dhanus) với Tiễn (mũi tên)
Tay cầm kiếm Kim Cương
Đều trừ đứt phiền não
Dụng bền chắc sắc bén
Kim Cương tối thắng này
Lửa Kim Cương rực rỡ
Mắt Kim Cương sáng rực
Đại sắc tướng Kim Cương
Lửa Kim Cương: trăm mắt
Lông Kim Cương bén nhọn
Hiện bày tướng chiến đấu
Kim Cương hiện móng ngón
Ức số ngọn cứng bén
Kim Cương thù thắng man (vòng hoa thù thắng của Kim Cương)
Kim Cương diệu trang nghiêm (sự trang nghiêm màu nhiệm của Kim Cương)
Âm thanh Kim Cương Tiếu (tiếng cười của Kim Cương)
Tự Môn (môn chữ) có sáu loại
Âm thanh của Văn Thù (Maṃjuśrī)
Thông suốt khắp ba cõi
Cho đến hư không giới
Âm thanh đều thông khắp
_Như thật, biết thấu tỏ
Tất cả Pháp Vô Ngã
Lìa văn tự, lời nói
Đồng Chân Tế Pháp Tính
Ví như Đại Ngưu Vương
Rống lên âm thanh lớn
Thổi cái loa Pháp lớn (Mahā-dharma-śaṅkara)
Đánh cái trống Pháp lớn (Mahā-dharma-duṇḍbhi)
Dựng phướng Pháp rộng lớn (Mahā-dharma-ketu, hay mahā-dharma-dhvaja)
Tạo âm thanh rộng lớn
Chẳng trụở Niết Bàn (Nirvāṇa)
Thương xót các chúng sinh
Mười phương hư không giới
Không sắc (Rūpa: hình thể vật chất, màu sắc), chẳng không sắc (Arūpa)
Mọi loại sắc trong Tâm
Hay thấu tất cả Pháp
Giống như gương tròn lớn
Chiếu khắp hết không dư
Hóa các chúng Trời, Người
Ba cõi được tự tại
Trụ Thánh Đạo (Ārya-mārga) bình đẳng
Hiện ra ở phướng Pháp (Dharma-ketu)
Khắp cả mười phương Giới
Hiện bày tướng Đồng Tử (Kumāra)
Hoặc hiện tướng Sa Môn (Śramaṇa)
Hoặc hiện tướng người già
Hoặc ba mươi hai tướng
Đoan nghiêm rất vi diệu
_Bậc Trí Tuệ Đức Hạnh
A Xà Lê Pháp Sư
Độ tất cả chúng sinh
Tương ứng thành Chính Giác (saṃbuddha)
Thấu đạt hư không giới
Biển Nhất Thiết Trí Trí (Sarva-jña-jñāna)
Phá hoại lưới Vô Minh (Avidya)
Tồi diệt Lưu Chuyển Luân (vòng lưu chuyển)
Lìa hẳn các phiền não
Mau đạt đến bờ kia (Pāramitā:bờ giải thoát, Niết Bàn)
_Dùng nước Trí (Jñāna-jala) rưới đỉnh
Trang nghiêm mão Diệu Bảo
Đoạn trừ ba loại khổ (khổ khổ, hành khổ, hoại khổ)
Lìa tất cả ràng buộc
Được ba loại Giải Thoát (Không, Vô Tướng, Vô Nguyện)
Thành Chính Đẳng Chính Giác (Samyaksaṃbuddha)
Thường ở trong ba cõi
Lợi ích các chúng sinh
Viên mãn Hạnh thanh tịnh
Công Đức đều tăng trưởng
Lìa tất cả có dính
An trụ Chân Thật Tế (Chân Như)
Giữ báu Đại Như Ý
Làm Đạo Sư tối thượng
Hiện Đại Tướng tương ứng
Làm Hiền Bình (Pūrṇa-ghaṭa, hay Bhadra-Kalaśa) tối thượng
Nhiêu ích các chúng sinh
Nhớ giữ như con đỏ
_Thông Tịnh, thông chẳng Tịnh
Thông Tam Muội Thời Phần
Thấu đạt thông Chính Định
Thông căn cảnh chúng sinh
Thông Công Đức, thông Pháp
Được ba loại Giải Thoát
Việc Cát Tường trong sạch
Tâm hớn hở vui vẻ
_Năm mặt với năm đỉnh
Năm núi, tướng nghiêm sức
Đại Hỷ với Đại Lạc
Đại Khánh với Đại Dục
Quyết định Pháp chân thật
Cát Tường Tối Thắng Tôn
Hạnh vi diệu thù thắng
Lợi ích các chúng sinh
Làm giáng phục Ma Oán
Tiêu trừ các kinh sợ
_Thi Khí Thất Kham Ni
Nhạ Chi lộ tóc rũ
Cạo tóc với Đầu Đà (Dhūta:một loại khổ hạnh trừ khử bụi dơ phiền não)
Mặc áo Đại Tịnh Hạnh (Mahā-brahma-caryā)
Trì Phạm Hạnh (Brahma-caryā) tối thượng
Chúng Đại Bà La Môn (Mahā-brāhmaṇa)
Thân tro, Kiều Đáp Ma (Gautama)
Tu trì Đại Khổ Hạnh
Chứng Niết Bàn thanh tịnh
Lặng yên được giải thoát
Hay trì Đại Tịnh Hạnh
An vui không nhiễm dính
Quyết định chặt khổ, vui
Xa lìa hết các Dục (Rāga)
Không mất cũng không được
Không hiển, cũng không dính
Tất cả Hành không dơ
Đấy là Bà La Môn (Brāhmaṇa)
_Bồ Tát tu Chính Hạnh
Ý Thức sạch không dơ
Lìa nhiễm, không sợ hãi
Khéo giác ngộ Phật Tính (Buddhatā)
Trí hiểu Như Lai Địa (Tathāgata-bhūmi)
Hay biết Pháp quá khứ
Không Trí (Jñāna) cũng không Sắc (Rūpa)
Cũng không có nghi ngờ
Soi thấy Phật ba đời
Pháp xưa nay không dính
Hiểu Pháp lìa trói buộc
Mắt Tuệ chiếu không ngại
Như Lai Diệu Trí Quán
Thuyết Pháp Tự Tại Vương
Dùng nghĩa Pháp tối thắng
Đều trừ các tranh luận
Giống sư vua Sư Tử
Hay giáng phục muôn thú
Chúng sinh đều ngưỡng mộ
Như Lai, tướng tôn trọng
_Văn Thù Diệu Trí Quang (ánh sáng Diệu Trí của Văn Thù)
Rực rỡ đều chiếu khắp
Quán Đỉnh Pháp Vương Tử
Tối Thắng Danh Nghĩa Sư
Hay làm thuốc cực tốt
Tiêu trừ các bệnh khổ
Ánh sáng tướng Bạch Hào (Ūrṇa: sợi lông trắng xoáy tròn theo bên phải ở tam
tinh)
Chiếu sáng cả ba cõi
Cho đến mười phương cõi
Dựng khắp phướng Pháp lớn
Với giương dù lọng lớn
Làm Đạo Trường Từ Bi
Hoa sen, lọng báu lớn
Che khắp các Như Lai
Pháp Tính (Dharmatā) của chư Phật
Tất cả Phật tương ứng
Tất cả Phật bình đẳng
Là tôn trọng tối thắng
_Kim Cương Trí Quán Đỉnh
Cát Tường Tự Tại Vương
Nhất Thiết Thế Tự Tại
Tối Thắng Kim Cương Vương
Đại Tâm của chư Phật
Trí Hạnh của chư Phật
Đại Thân (thân to lớn) của chư Phật
Diệu Biện (việc làm màu nhiệm) của chư Phật
_Kim Cương Nhật đại quang (Ánh sáng rộng lớn của mặt trời Kim Cương)
Kim Cương Nguyệt đại minh (sự sáng tỏ rộng lớn của mặt trăng Kim Cương)
Rực rỡ đều chiếu khắp
Mười phương chúng sinh giới
Phật Kim Cương: bền chắc
Phật Thắng Nghĩa: Pháp sinh
Phật Liên Hoa: cát tường
Thành tựu Nhất Thiết Trí (Sarva-jña)
Phật trì Pháp Đại Huyễn
Phật trì Đại Minh Chú
Kiếm Kim Cương cực bén
Chặt phiền não kết sử
Pháp Kim Cương đại khí
Pháp Kim Cương tối thắng
Sinh ra Kim Cương Tuệ
Viên mãn Ba La Mật
Phật Địa (Buddha-bhūmi) làm trang nghiêm
Pháp thanh tịnh, Vô Ngã
_Chính Trí, Tâm hiểu rõ
Lưới huyễn, mọi loại việc
Kim Cương hay chặt trừ
Hết phiền não, không sót
QUYỂN HẠ
_Bồ Tát, Thân Diệu Trí
Sinh ra các Thiện Lợi
Ví như trong Đại Địa
Sinh mọi loại lợi ích
Trí Tạng của chư Phật
Tuôn ra Đại Pháp Luân (Mahā-dharma-cakra: bánh xe Pháp lớn)
Tất cả Pháp từ Tính
Tất cả từ Tính sinh
Ở trong một sát na
Sinh ra các Pháp Nghĩa (nghĩa lý của Pháp độ)
Liền được Đại Trí Tuệ
Hiểu thấu tất cả Pháp
Thâm nhập các Tam Muội (Samādhi)
An trụ Lý bình đẳng
Các Pháp đều thanh tịnh
Thành Chính Đẳng Chính Giác
Tất cả Phật hiện tiền
Vui vẻ Nghĩa thành tựu
_Ánh sáng lửa Đại Trí
Diệt trừ các tội dơ
Trong tất cả chúng sinh
Làm lợi ích tối thượng
Khổ não vì oán tặc
Trí Tuệ hay chiến thắng
_Tướng tinh tiến thù thắng
Đại Cát Tường vi diệu
Cánh tay dài trăm khuỷu
Nhấc chân không dẫm đạp
Một chân đè Kim Luân (Suvarṇa-cakra)
Dưới đến Địa Tuyệt Xứ
Một chân che Phạm Tế
Chỉ thấy móng ngón tay
Tối thượng thắng tự tại
Pháp Nghĩa không sai khác
Hiện mọi loại sắc tướng
Khởi ở Trí Phương Tiện
Vòng khắp mười phương giới
Lợi ích không cùng tận
Đã lìa nhiễm luân hồi
Được ba loại Đại Lạc (Mahā-sukha)
Giống như mây thanh tịnh
Cũng như trăng Thu sáng
Như mặt trời lìa mây
Ánh sáng lớn rực rỡ
Báu Đại Thanh Đế Thích
Màu trang nghiêm tối thượng
Với ngọc Đại Như Ý
Cũng trang nghiêm vi diệu
Sức Thần Thông đã hiện
Chấn động trăm Thế Giới
_Trụ Niệm Xứ, Chính Cần
Thần Túc với Căn, Lực
Bảy Giác (Sapta-bodhyaṅgāni: 7 Giác Chi), hoa Diệu Ý
Biết thấu tám Thánh Đạo
Hướng Chính Đẳng Bồ Đề
Biển Công Đức Như Lai
_Nhóm Uẩn (Skandha) của chúng sinh
Giống như ở hư không
Tâm Hành của chúng sinh
Mọi loại tướng sai khác
Biết thấu các Căn, Cảnh
Năm Uẩn đều trống rỗng (Śūnya: không)
Nghĩa năm Uẩn (Pañca-skandha) thanh tịnh
Các Hành (Saṃskāra) vô số ức
Biết thấu tướng các Hành (Saṃskāra)
An trụ trong Thật Tế
_Pháp mười hai Duyên sinh
Thể Tính đều thanh tịnh
Bốn Vô Lượng (Catvāry-Apramāṇāni:bốn vô lượng Tâm), Chân Thừa
Tám Trí (Khổ Pháp Trí, Khổ Loại Trí, Tập Pháp Trí, Tập Loại Trí, Diệt Pháp
Trí, Diệt Loại Trí, Đạo Pháp Trí, Đạo Loại Trí) theo Giác (Bodhi) sinh
Thấu căn trong, cảnh ngoài
Mười hai nghĩa chân thật
Mười sáu phần bí mật
Hai mươi loại Giác Đạo
Nghĩa tối thắng như vậy
Chư Phật đều biết rõ
_Phật hiện vô số thân
Thường ở tại Tam Muội
Tâm Hành của chúng sinh
Sát na hay biết rõ
_Môn phương tiện ba
Thừa Hạnh thanh tịnh vi diệu
Hiểu Pháp không Tự Tính
Trụ ở Đạo Nhất Thừa (Eka-yāna-mārga)
Dứt phiền não kết sử
Rời biển khổ lưu chuyển
Lìa rừng rậm trói buộc
Mỗi mỗi loại khổ não
Trí phương tiện, Đại Bi
Hay nhiêu ích khắp cả
Nhiếp thọ các hữu tình
Khiến ngộ Vô Sinh Nhẫn (Anutpattika-kṣānti)
Tất cả Tâm chúng sinh
Thấu cảnh giới thanh tịnh
Tất cả Tâm chúng sinh
Bình đẳng không sai khác
Tất cả Tâm chúng sinh
Vui vẻ sinh yêu thích
Khiến lìa nơi tán loạn
Thành tựu các Công Đức
Thông đạt Pháp ba đời
Tất cả nghĩa Trí Tuệ
_Tính năm Uẩn vốn rỗng (Śūnya:Không)
Ba đời đều như vậy
Một niệm sinh Tín Giải (Adhimukti)
Liền thấy các Phật Tính
Các Pháp từ Tính sinh
Thân Phật vốn không dính
Vui thấy các thân Phật
Mọi loại tướng trang nghiêm
Vui nghe Phật Bồ Đề
Nghĩa chân thật tối thượng
_Đại Chú lìa văn tự
Đại Chú, ba loại Tính
Mẫn Đổ lìa văn tự
Sinh ra tất cả Chú
Mẫn Đổ, môn trăm chữ
Môn năm chữ, Đại Không
Mười sáu loại bí mật
Từ trong Mẫn Đổ sinh
Cát La, Phi Cát La
Quá khứ có bốn loại
Nghĩa Thiền sinh ức số
Tất cả làm, chẳng làm
Thông đạt tất cả Thiền
Biết thấu Định căn bản
Thân Tam Muội tối thượng
Thân Báo, Hóa cũng thế
Tràn khắp mười phương giới
Hóa độ các chúng sinh
_Tối Hậu Thiên Trung Thiên
Cát Tường Tối Thắng Giả
Là Đạo Sư Trời Người
Giáng phục các chúng Ma (Mārā)
NhưĐế Thích Thiên Vương
Hay làm Bố Thí lớn
Độ tất cả chúng sinh
Rời rừng rậm phiền não
Mười phương đều khen ngợi
Chỉ một không có hai
Dùng Pháp Đại Từ Bi
Làm giáp trụ tinh tiến
Trí Tuệ làm cung, kiếm
Diệt trừ giặc phiền não
Sức Uy Thần tối thắng
Chúng Ma đều sợ hãi
Giáng phục Ma Oán xong
Hưng cúng dường rộng lớn
Cúi lạy Thầy tối thượng
Chư Phật, bậc giúp đời (Hộ Thế: Lokapāla)
Đỉnh lễ rồi khen ngợi
Gần gũi mà phụng sự
Mười phương hư không giới
Cúng dường cũng như vậy
_Văn Thù Đại Cát Tường
Bồ Tát Ma Ha Tát
Đủ sáu Thông (Ṣaḍ-abhijñāḥ), ba Minh (Tri-vidya)
Sáu Niệm (Ṣaḍ-anusmṛtayaḥ) đều viên mãn
Hiện sức Thần Thông lớn
Trí Tuệ đến bờ kia
Xa lìa chốn luân hồi
Đạt được Bất Thoái Chuyển (Avaivartika)
Dũng mãnh đại tinh tiến
Biết thấu tất cả Pháp
Đại Bổ Đặc Già La (Mahā-pudgala)
Vượt lên Tối Thượng Địa
Dùng mưa Pháp Trí Tuệ
Thấm khắp các chúng sinh
Tuyên bày bốn Pháp Ấn (Nhất Thiết Hành Vô Thường Ấn, Nhất Thiết Hành Khổ
Ấn, Nhất Thiết Hành Vô Ngã Ấn, Niết Bàn Tịch Diệt Ấn)
Dẫn lối nơi ba Thừa
Nghĩa tối thượng thanh tịnh
Hay làm Đại Cát Tường
Nơi Bồ Tát khen ngợi
Thành tựu Kim Cương Tôn (Vajra-nātha)
Chúng sinh vô số ức
Chiêm ngưỡng quy mệnh lễ
_Quy mệnh Đại Không Tạng
Khen ngợi Đại Không Tạng
Quy mệnh Phật Giác Đạo (con đường giác ngộ của chư Phật)
Khen ngợi Phật Giác Đạo
Quy mệnh chư Phật Thân (Thân của chư Phật)
Khen ngợi chư Phật Thân
Quy mệnh Phật Hân Duyệt (nơi chư Phật mừng vui)
Khen ngợi Phật Hân Duyệt
Quy mệnh Phật Công Đức (Công Đức của chư Phật)
Khen ngợi Phật Công Đức
Quy mệnh chư Phật Niệm (nơi chư Phật nhớđến)
Khen ngợi chư Phật Niệm
Quy mệnh Phật Hỷ Tiếu (nơi chư Phật vui cười)
Khen ngợi Phật Hỷ Tiếu
Quy mệnh chư Phật Ngữ (lời nói của chư Phật)
Khen ngợi chư Phật Ngữ
Quy mệnh Phật Sở Ái (nơi chư Phật yêu thích)
Khen ngợi Phật Sở Ái
Quy mệnh chư Phật Sinh (điều sinh ra chư Phật)
Khen ngợi chư Phật Sinh
Quy mệnh Phật Trí Sinh (điều sinh ra Phật Trí)
Khen ngợi Phật Trí Sinh
Quy mệnh Phật Hý Vũ (điều múa giỡn của chư Phật)
Khen ngợi Phật Hý Vũ
Tính Không (Śūnyatā) với lưới huyễn
Quy (quy mệnh) tán (khen ngợi) cũng như vậy
Bấy giờ Kim Cương Chưởng Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như Lai Trí Quán, Thân Nhất Thiết Trí (Sarva-jña¬kāya) vi diệu sâu xa. Văn Thù Bồ Tát Ma Ha Tát vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh, nói Danh Nghĩa tối thắng thanh tịnh này. Nếu các chúng sinh vì tịnh ba Nghiệp thì khiến ở trong Tạng Phước Trí (Puṇya-jñāna-garbha) của Môn Phật Địa Ba La Mật (Buddha-bhūmi-pāramita-mukha) nhiếp trì ba nghiệp viên mãn thanh tịnh. Người đối với nghĩa tối thượng chưa hiểu thấu thì khiến cho được hiểu thấu, cho đến tất cả Pháp Tạng (Dharma-garbha) của chư Phật đều vì họ khai phát khiến cho được hiểu biết, sinh ra mọi điều thiện lành làm Môn Công Đức (Guṇa-mukha)”
_Lại nữa Kim Cương Chưởng Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát nói: “Danh Nghĩa tối thắng này sinh ra tất cả Pháp Tịnh Địa Ba La Mật (Śuddha¬bhūmi-pāramita), Thần Chú bí mật, viên mãn thành tựu: Nhất Thiết Trí Trí, các biển Công Đức, ba Môn bí mật của thân miệng ý trong sạch. Quán tưởng chư Phật Chính Đẳng Chính Giác, thành tựu Phật Trí Đại Tam Ma Địa, Pháp Giới thanh tịnh của tất cả Như Lai, mười sức tối thắng phá hoại Ma Oán, đầy đủ Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Chủng Trí, phương tiện căn bản nhiêu ích chúng sinh, thanh tịnh viên mãn Tạng Phước Đức Trí (Guṇa-jñāna-garbha). Sinh ra Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, mầm giống Thánh của Nhị Thừa, tất cả Trời Người, an trụ các Bồ Tát Hạnh (Bodhisatva¬caryā) của Đại Thừa (Mahā-yāna), vào Chính Thánh Đạo đều được giải thoát
Lại hay tăng trưởng căn lành của Bồ Tát, nhiếp thọ tất cả Dị Luận của Ngoại Đạo, Uy Đức tồi phục bốn loại Ma Oán khiến cho các chúng sinh đồng quy về Thánh Đạo, giải thoát sự cột trói, lìa các tán loạn, đầy đủ tất cả sự nghiệp tốt lành, đoạn trừ Luân Hồi, được Chân Thánh Đạo. Dùng hương hoa màu nhiệm, phướng, phan, lọng báu cúng dường khắp tất cả Như Lai; mau được thành tựu các Môn Chú Bộ, đối với các Bồ Tát sinh tưởng yêu thích, tương ứng Bát Nhã Ba La Mật Đa, biết thấu Không Hạnh (Śūnya-caryā) không có hai của Bồ Tát, đầy đủ tất cả Tạng Ba La Mật, viên mãn tất cả Phật Địa thanh tịnh, được bốn Chân Đế Thánh Trí hiện tiền, một lòng an trụ bốn Chính Niệm Xứ cho đến đầy đủ Công Đức của chư Phật”.
_Lại nữa Kim Cương Chưởng Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát nói: “Kinh Tối Thắng Danh Nghĩa này hay trừ tội dơ chẳng lành thuộc nghiệp thân miệng ý của tất cả chúng sinh, khiến được xa lìa tất cả đường ác với được đoạn trừ tất cả nghiệp chướng, tám nạn đáng sợ đều được tiêu trừ, lìa mộng mỵ ác được đại cát tường với lìa tất cả các Ma Oán kết, tu các căn lành, Phước Đức lợi ích, đoạn trừ tất cả Tăng Thượng Ngã Mạn, lìa hẳn tất cả khổ não luân chuyển. Hiểu thấu như thật Tâm của tất cả Phật, hiểu thấu như thật Mật Hạnh của Bồ Tát, hiểu thấu như thật Thánh Trí của ba Thừa, hiểu thấu như thật tất cảẤn Chú, Pháp Nghĩa tối thắng sinh Đại Trí Tuệ, trụ Hạnh an vui, sắc đẹp sức mạnh tự tại, đắc được việc đại cát tường thanh tịnh, hớn hở vui vẻ dùng Diệu Cú Kệ xưng dươngkhen ngợi Danh Nghĩa Kinh này, cũng hay tiêu trừ tất cả bệnh tật với điều thật đáng sợ.
Nếu trong Tâm chúng sinh có điều ưa muốn, chí Tâm tụng trì Tối Thắng Danh Nghĩa đều được như ý. Muốn được thanh tịnh liền được thanh tịnh, Muốn được cứu giúp liền được cứu giúp, muốn được giàu có liền được giàu có, như người bị cuốn chìm được cứu giúp vượt qua, người chưa đắc Đạo khiến được Đạo Quả nương theo con thuyền Bát Nhã đến bớ Bồ Đề, Như Đại Y Vương hay trừ mọi bệnh, dùng Trí phương tiện cứu giúp chúng sinh đều được lìa hẳn sự ngu si mờ tối, giống như viên ngọc Như Ý tùy theo chỗưa muốn. lợi ích tất cảđều khiến cho viên mãn.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát như thật hiểu thấu Nhất Thiết Trí Trí, đầy đủ năm loại mắt, sáu Ba La Mật, được bốn Vô Úy, an trụ mười Địa… đều được viên mãn Môn Đại Phước Trí Tạng Tam Ma Địa. Như thật thấu tỏ Pháp Tính không có hai, như thật biết thấu sự sai khác của sắc tướng, như thật biết thấu mọi loại ức số sắc tướng thanh tịnh, Tự Tính của Như Lai thảy đều trống rỗng (Śūnya: không). Pháp Nghĩa không có hai của Danh Nghĩa Kinh này, nếu có thọ trì, mở bày, hiển phát tức hay lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến lìa rừng rậm Tà Kiến phiền não”
Lại nữa Kim Cương Chưởng Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát với Nhất Thiết Như Lai Trí Quán không có hai. Danh Nghĩa Kinh này tối thắng tôn trọng như viên ngọc Đại Ma Ni trong đỉnh đầu của Phật. Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện y theo Nghĩa lý, câu Kệ của Môn Tối Thắng Bí Mật Chú này… mỗi ngày ba thời đọc tụng, giải nói, viết chép.. lợi ích chúng sinh, hiển bày ba Thừa khiến ngộ nhập khắp. Khi ấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát nói Tối Thắng Danh Nghĩa này, muốn khiến cho chúng sinh một lòng tin nhận, được Tâm Thắng Giải, thấu đạt tất cả Pháp Môn tối thượng, tu Hạnh không có trụ, đầy đủ Trí Tuệ, thanh tịnh ba nghiệp, phát Tâm Bồ Đề.
Tất cả chư Phật, các Đại Bồ Tát đều hiện bày khắp Pháp Môn bình đẳng khiến cho các chúng sinh đều được ngộ nhập
Đại Kim Cương Chưởng Bồ Tát hiện tướng phẫn nộ, dùng Uy Lực lớn giáng phục Ma Oán đều lợi ích khắp cho tất cả chúng sinh khiến được an vui; hiển bày Tam Muội bí mật, Đạo Trường, tất cảẤn Chú dẫn đường cho chúng sinh nhập vào nhóm Chính Định viên mãn không có dư sót.
Đại Minh Chú Vương trừ các chướng nạn, tiêu phục Ma Oán, đủ uy đức lớn, ở trong ngày đêm thường sẽủng hộ.
Đồng Chân Bồ Tát (Kumāra-bhūta-bodhisatva), Phạm Vương (Brahma), Đế Thích (Indra), LỗĐà La Thần (Rudra), Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa), Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara) cùng với người con là Ca Lý Để Kế (Kārttike), Đại Hắc Thiên Thần (Mahā-kāla), Nan Để Kế Thuyết La Đại Thần (Nandikeśvara), Diệm Ma Thiên Vương (Yama), Thủy Giới Đại Thần (Varuṇa-dhātu), Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vaiśravaṇa), Hạ Lý Đế Mẫu (Hārīti-mātṛ) ở trong ngày đêm thường sẽủng hộ
Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, trong tất cả Thời được chư Phật Bồ Tát dùng Uy Thần gia hộ. Tất cả chư Phật với Bồ Tát nhiêu ích nhiếp thọ chúng sinhấy khiến cho nghiệp thân miệng ý đều được thanh tịnh. Tất cả La Hán (Arhat), Thanh Văn (Śrāvaka), Duyên Giác (Pratyeka-buddha) hộ niệm nhiếp thọ các chúng sinh ấy đối với tất cả Pháp được không có chỗ sợ hãi
Thánh Pháp của Tối Thắng Danh Nghĩa như vậy ở trong các Kinh là tối vi thượng thủ. Nếu hay đối với Kinh này: tin hiểu, thọ trì thì người đó liền được Bồ Đề Đạo (Bodhi-mārga). Hoặc ở Thiền Định, hoặc ở chốn náo nhiệt… hoặc vào thành vua, thôn xóm, sông đào, sông lớn, vườn, rừng, tất cả trú xứ… ở trong ngày đêm thường được ủng hộ, khiến cho không có sợ hãi. Tám Bộ Trời (Deva) Rồng (Nāga), Người (Manuṣa) với Phi Nhân (Amanuṣa) cho đến Tỳ Xá Già Nữ (Piśācī) kèm các quyến thuộc thường sẽủng hộ các chúng sinh đó, khiến cho lìa các bực bội, được an ổn lớn”
_Lại nữa Kim Cương Chưởng Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát nói: “Tối Thắng Danh Nghĩa Kinh này như viên ngọc trên đỉnh đầu của Phật, tối thượng vi diệu, Công Đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn. Mỗi ngày ba thời thọ trì, đọc tụng, chính niệm, suy nghĩ, tinh tiến không lười biếng thì mau được nhập vào Phật Bồ Đề”
Lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát có đầy đủ sắc tướng, quán sát suy nghĩ, dùng sức Đại Nguyện độ thoát chúng sinh. Hoặc ở không trung hiện tất cả Phật, tất cả Bồ Tát, mọi loại Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) tuỳ thuận theo chỗ chúng sinh yêu thích mà hiện bày, diễn nói nghĩa của câu sâu xa vi diệu, dẫn đường cho chúng sinh xa lìa nẻo ác, chẳng sinh vào chỗ hèn mọn, chẳng rơi vào biên cảnh, sinh ra chẳng bị xấu xa, chẳng rơi vào Tà Kiến, thường sinh trong cõi Phật, lắng nghe Chính Pháp, lìa nơi không có tưởng (vô tưởng xứ). Chẳng sinh trong kiếp đói khát, chiến đấu. Chẳng sinh trong nơi có năm trược với nạn giặc cướp. Chẳng sinh Phi Pháp (Adharma), vọng nói câu Kệ cầu danh tiếng. Sinh trong nhà người hiền thiện tôn quý, sắc tướng viên mãn, đầy đủ đoan nghiêm, người nhìn thấy không có ai chẳng yêu thích. Được Túc Trụ Thông, tướng Đại Tôn Trọng, đủ uy đức lớn. Đầy đủ viên mãn Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tiến, Thiền Định, Trí Tuệ, Phương Tiện, Nguyện, Lực, bốn Tâm vô lượng Từ Bi Hỷ Xả với tất cả công xảo kỹ nghệ, tán vịnh, ngoại thư đều được hiểu thấu. Xuất gia cầu Đạo không có tan mất Tâm Nhất Thiết Trí, thấu đạt các Pháp Nghĩa Lợi của ba Thừa
Công Đức của Kinh này sinh ra vô lượng Trí Tuệ, vô lượng Thiện Pháp. Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa lý ấy vì người diễn nói thì nên biết người đó ở trong Như Lai Tạng (Tathāgata-garbha) được công đức của Phật, chẳng lâu sẽ chứng Bồ Đề tối thượng, đầy đủ Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Chủng Trí. An trụ Thế Gian, đánh trống Đại Pháp, dựng phướng Đại Pháp, làm Đại Pháp Vương diễn Đại Pháp Chú”
Liền nói Chú là:
“Án, tát lý-phộc đạt lý-ma, a bà phộc, sa-phộc bà phộc, vĩ thuật đà, phộc nhạ-la, át a ám ác”
OṂ_ SARVA-DHARMA ABHĀVA SVABHĀVA VIŚUDDHA-VAJRA_ A Ā AṂ AḤ
_Tự Tính thanh tịnh của tất cả Pháp Tướng là Trí Thân (Jñāna-kāya) của tất cả Như Lai, Văn Thù Sư Lợi thanh tịnh sinh ra.
Chú Là:
“Ác, tát lý-phộc đát đà nga đa, hột-lý nại dã, hát la hát la, Án, hồng, hột-lý”
AḤ_ SARVA-TATHĀGATA-HṚDAYA HARA HARA _ OṂ HŪṂ HRĪḤ
_Văn Thù Sư Lợi Ngữ Tự Tại Vương rộng lớn tuyên nói tất cả Pháp Tính giống như hư không viên mãn thanh tịnh.
Pháp Giới Trí Tạng Chú là: “A” [A]
_Khi ấy Kim Cương Chưởng Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát vui mừng hớn hở, cung kính, chắp tay chiêm ngưỡng Đức Như Lai. Chư Phật, Thánh Chúng, Đại Bí Mật Vương tùy vui khen ngợi Đạo Trường rộng lớn
Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śakya-muṇi-buddha) khen Kim Cương Chưởng Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông hay hiển bày Danh Nghĩa tối thắng bí mật của chư Phật mà Văn Thù đã nói, lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh. Các ông, chẳng bao lâu sẽ được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Anuttarā-samyaksaṃbuddhi: Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác), được đại giải thoát,ở trong lưới huyễn làm Đại Đạo Sư. Dùng nghĩa màu nhiệm sâu xa thanh tịnh mở phát dẫn đường, khiến cho các chúng sinh vào cảnh giới của Phật. Nay Ta chứng minh Danh Nghĩa tối thắng mà các ông đã nói.
Kinh này ở trong một vạn sáu ngàn Đại Bí Mật Giáo Trí Tuệ Tạng, thứ tự tuôn ra làm Tam Ma Địa Luân (Samādhi-cakra) tồi phục Ma Oán, tiêu trừ phiền não, độ các chúng sinh, xa lìa Luân Hồi, đến bờ Bồ Đề.