QUYỂN 28
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “ Thế Tôn! Như trước kia nói điều dụ trái am ma la bốn hạng người v.v… Có hạng người việc làm kỹ mà tâm chẳng chánh thiệt. Có hạng người tâm kỹ mà việc làm chẳng chánh thiệt. Có hạng người tâm kỹ mà việc làm cũng chánh thiệt. Có hạng người tâm chẳng kỹ việc làm cũng chẳng chánh thiệt.
Thế Tôn! Hai hạng đầu, làm thế nào biết được? Như lời Phật nói, dầu y theo hai nhơn duyên ấy, cũng chẳng thể biết được.
Phật nói: “ Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện nam tử! Điều dụ trái am ma la, hai hạng người nầy thiệt khó biết được. Vì khó biết, nên trong kinh Phật nói phải cùng họ ở chung. Ở chung nếu chẳng biết được thời phải ở lâu. Ở lâu nếu chẳng biết được thời nên dùng trí huệ. Dùng trí mà chẳng biết thời nên quán sát suy gẫm kỹ. Do quán sát suy gẫm thời biết là trì giới cùng phá giới.
Nầy Thiện nam tử! Đầy đủ bốn điều: Ở chung, ở lâu, trí huệ, quán sát rồi sau mới biết là trì giới cùng phá giới.
Nầy Thiện nam tử! Giới có hai thứ, trì giới cũng hai: Một là giới cứu cánh, hai là giới chẳng cứu cánh.
Có người do nhơn duyên nên thọ trì cấm giới, người trí phải quán sát người nầy trì giới là vì lợi dưỡng hay là vì cứu cánh.
Giới của đức Như Lai không có nhơn duyên, vì thế nên được gọi là giới cứu cánh.
Do nghĩa nầy nên Bồ Tát dầu bị chúng sanh ác làm tổn hại mà chẳng có lòng giận hờn. Do đây nên Như Lai đặng gọi là thành tựu trì giới cứu cánh.
Nầy Thiện nam tử! Xưa kia có một lúc ta cùng Xá Lợi Phất và năm trăm đệ tử đồng ở nơi nước Ma Dà Đà trong thành Chiêm Bà. Có thợ săn đuổi theo một con bồ câu. Bồ câu nầy sợ hải đến nơi bóng của Xá Lợi Phất vẫn còn run sợ, nó chạy đến trong bóng của ta thời thân tâm an ổn hết kinh sợ. Do đây nên biết đức Như Lai trì giới rốt ráo nhẫn đến bóng của thân còn có năng lực như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Giới chẳng cứu cánh còn chẳng được quả Thanh Văn, Duyên Giác, huống là có thể được quả vô thượng Bồ Đề.
Lại có hai thứ: Một là vì lợi dưỡng, hai là vì chánh pháp. Vì lợi dưỡng mà thọ trì cấm giới, nên biết giới nầy chẳng thấy được Phật tánh cùng Như Lai. Dầu nghe Phật tánh và danh tự Như Lai nhưng vẫn chẳng được gọi là nghe thấy.
Nếu vì chánh pháp mà thọ trì cấm giới, nên biết giới nầy có thể thấy được Phật tánh cùng Như Lai, đây gọi là con mắt thấy cũng gọi là nghe thấy.
Lại có hai thứ: Một là căn sâu khó lay khó nhổ, hai là căn cạn dễ động. Nếu có thể tu tập không, vô tướng, vô nguyện, đây gọi là căn sâu. Nếu chẳng tu tập ba môn tam muội nầy, hoặc dầu tu tập mà vì hai mươi lăm cõi, đây gọi là căn cạn.
Lại có hai thứ: Một là vì thân mình, hai là vì chúng sanh. Người vì chúng sanh thời có thể thấy Phật tánh và Như Lai.
Người trì giới lại có hai hạng, một là tánh tự hay là trì giới, hai là cần phải người khác dạy bảo nếu đã thọ giới trải qua vô lượng đời không sai phạm hoặc ở nhằm nước ác, gặp bạn ác, thời kỳ ác, đời ác, gặp pháp ác gian tà, ở chung với kẻ tà kiến, dầu như vậy, nhưng người nầy vẫn giữ gìn giới pháp như cũ không có hủy phạm, đây gọi là tánh tự hay trì giới. Nếu là người gặp Sư Tăng Bạch Tứ Yết Ma mà đắc giới, thời cần phải nương nhờ Hòa Thượng, các Sư Tăng, bạn lành dạy bảo, mới biết oai nghi cử chỉ đúng pháp, đây gọi là hạng người cần nhờ sự dạy bảo.
Người tánh tự hay trì giới thời con mắt thấy Phật tánh và thấy Như Lai, cùng gọi là nghe thấy.
Giới lại có hai: Một là giới Thanh Văn, hai là giới Bồ Tát từ sơ phát tâm nhẫn đến đặng vô thượng Bồ Đề, đây gọi là giới Bồ Tát. Nếu quán bạch cốt nhẫn đến chứng quả A La Hán đây gọi là giới Thanh Văn.
Nếu có người trì giới Thanh Văn, nên biết rằng người nầy chẳng thấy Phật tánh và Như Lai. Nếu có người trì giới Bồ Tát, nên biết rằng người nầy được vô thượng Bồ Đề, thấy được Phật tánh và Như Lai Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế Tôn! Do nhơn duyên gì mà thọ trì cấm giới?”
Phật nói: “ Nầy Thiện nam tử! Vì tâm chẳng hối hận. Cớ gì chẳng hối hận? Vì hưởng thọ an lạc. Cớ gì hưởng thọ an lạc? Vì xa lìa. Cớ gì xa lìa? Vì an ổn. Cớ gì an ổn? Vì thiền định. Cớ gì thiền định? Vì tri kiến chơn thật. Cớ gì tri kiến chơn thật? Vì thấy những lỗi họa của sanh tử. Cớ gì thấy lỗi sanh tử? Vì tâm chẳng tham đắm. Cớ gì tâm chẳng tham đắm? Vì được giải thoát. Cớ gì được giải thoát? Vì được vô thượng Đại Niết Bàn. Cớ gì được Đại Niết Bàn? Vì được thường, lạc, ngã, tịnh. Cớ gì được thường, lạc, ngã, tịnh? Vì được bất sanh bất diệt. Cớ gì được bất sanh bất diệt? Vì thấy Phật tánh. Do đây nên Bồ Tát tánh tự hay trì giới cứu cánh.
Nầy Thiện nam tử! Tỳ Kheo trì giới dầu chẳng phát nguyện cầu tâm chẳng hối hận, mà tự nhiên được, vì pháp tánh như vậy. Dầu chẳng cầu vui, xa lìa, an ổn, tri kiến chơn thật, thấy lỗi sanh tử, tâm chẳng tham đắm, giải thoát, Niết Bàn, thường, lạc, ngã,tịnh, bất sanh, bất diệt, cùng thấy Phật tánh, nhưng tự nhiên được tất cả, vì pháp tánh như vậy.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “ Thế` Tôn! Nếu do trì giới mà đặng quả chẳng ăn năn, nhơn nơi giải thoát mà đặng quả Niết Bàn, thời giới là không nhơn, Niết Bàn là không quả. Giới nếu không nhơn thời gọi là thường, Niết Bàn có nhơn thời là vô thườntg. Nếu như vậy, thời Niết Bàn là trước không mà nay có. Nếu trước không mà nay có thời là vô thường, như thắp ngọn đèn. Niết Bàn nếu như vậy thời thế nào được gọi là ngã, lạc, tịnh ư?
Phật nói: “ Nầy Thiện nam tử! Lành thay! Lành thay! Ông đã từng ở nơi vô lượng chư Phật trồng những thiện căn, mới có thể hỏi Như Lai thâm nghĩa như vậy?
Nầy Thiện nam tử! Ông chẳng mất bổn niệm mới hỏi như vậy ư?
Ta nhớ thuở xưa, cách đây vô lượng kiếp, nơi thành Ba La Nại có đức Phật ra đời hiệu là Thiện Đức. Đức Phật đó diễn nói kinh Đại Niết Bàn nầy, trong ba ức năm. Lúc đó ta cùng ông đều ở trong pháp hội đó. Ta đem việc nầy để hỏi đức Phật Thiện Đức. Lúc ấy đức Phật Thiện Đức vì chúng sanh mà nhập chánh định nên chưa đáp nghĩa nầy.
Lành thay! Ông bèn có thể nhớ được việc cũ. Lóng nghe! Lóng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói.
Nầy Thiện nam tử! Giới cũng có nhơn, chính là nghe chánh pháp. Nghe chánh pháp cũng có nhơn, chính là gần bạn lành. Gần bạn lành cũng có nhơn, chính là tín tâm. Người có tín tâm cũng có nhơn, chính là nghe pháp và tư duy ý nghĩa, Tín tâm nhơn nơi nghe pháp, nghe pháp nhơn nơi tín tâm, hai pháp nầy cũng là nhơn mà cũng là nhơn nhơn, cũng là quả, mà cũng là quả quả.Như Ni Kiền Tử dựng ba cây tréo để bình tròn, làm nhơn quả cho nhau chẳng rời được.
Nầy Thiện nam tử! Như vô minh, duyên hành, hành duyên vô minh, vô minh và hành nầy cũng là nhơn mà cũng là nhơn nhơn, cũng là quả mà cũng là quả quả. Sanh duyên lão tử, lão tử duyên sanh, sanh cùng lão tử nầy cũng là nhơn mà cũng là nhơn nhơn, cũng là quả mà cũng là quả quả.
Nầy Thiện nam tử! Pháp sanh có thể sanh ra pháp mà chẳng thể tự sanh, vì chẳng tự sanh nên do sanh mà sanh sanh. Sanh sanh chẳng tự sanh lại nhờ sanh mà sanh, vì thế nên hai thứ sanh nầy cũng là nhơn mà cũng là nhơn nhơn, cũng là quả mà cũng là quả quả.
Nầy Thiện nam tử! Tín tâm và nghe pháp cũng như vậy.
Là quả mà chẳng phải nhơn chính là Đại Niết Bàn.
Cớ gì gọi là quả? Vì là quả vô thượng, là quả Sa Môn, là quả Bà La Môn, vì dứt sanh tử, vì phá phiền não, do đây nên gọi là quả. Vì bị các phiền não quở trách nên Niết Bàn gọi là quả. Phiền não gọi là lỗi lầm trên lỗi lầm.
Nầy Thiện nam tử! Niết Bàn không có nhơn mà thể của nó là quả. Vì nó không sanh diệt, vì không chỗ tạo tác, vì chẳng phải hữu vi, vì là vô vi, vì thường chẳng biến đổi, vì không chỗ nói, vì không thỉ chung.
Nầy Thiện nam tử! Nếu Niết Bàn có nhơn thời chẳng đặng gọi là Niết Bàn. Bàn là nói nhơn, Niết là nói không, không có nhơn nên gọi là Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “ Như lời Phật nói Niết Bàn là không nhơn. Lời nầy không đúng. Nếu nói là không thời hiệp sáu nghĩa: Một là tất cánh không nên gọi là không, như tất cả pháp không có ngã không có ngã sở. Hai là có lúc không nên gọi là không, như người đời nói sông ao không có nước, không có mặt trời mặt trăng. Ba là vì ít nên nói là không, như người đời nói trong đồ ăn ít mặn thời gọi là không mặn, nước ngọt ít ngọt thời gọi là không ngọt. Bốn là không lãnh thọ nên gọi rằng không, như Chiên Đà La không thể thọ trì pháp Bà La Môn, nên gọi là không Bà La Môn. Năm là vì thọ pháp ác nên gọi là không, như người đời nói người thọ pháp ác chẳng gọi là Sa Môn, chẳng gọi là Bà La Môn, nên nói không có Sa Môn và Bà La Môn. Sáu là vì đối đãi mà gọi là không, như không trắng gọi đó là đen, không sáng gọi đó là vô minh.
Thế Tôn! Niết Bàn cũng như vậy, có lúc không nhơn nên gọi là Niết Bàn.
Phật nói: “ Nầy Thiện nam tử Nay ông nói sáu nghĩa như vậy, cớ sao ông không dẫn rốt ráo không để dụ cho Niết Bàn, mà ông lại lấy có lúc không, để lệ cho Niết Bàn như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Thể của Niết Bàn rốt ráo không nhơn, cũng như không ngã và không ngã sở.
Nầy Thiện nam tử! Pháp thế gian cùng Niết Bàn trọn chẳng tương đối nhau, vì thế nên sáu việc của ông dẫn ra chẳng làm ví dụ được.
Nầy Thiện nam tử! Tất cả pháp đều không có ngã, mà Niết Bàn nầy thiệt không có ngã, do nghĩa nầy nên Niết Bàn không nhơn mà thể của nó là quả. Là nhơn mà chẳng phải qủa gọi là Phật tánh, vì chẳng phải do nhơn sanh, vì chẳng phải quả của Sa Môn nên gọi là chẳng phải quả. Cớ gì gọi là nhơn, vì là liễu nhơn vậy.
Nầy Thiện nam tử! Nhơn có hai thứ: Một là sanh nhơn, hai là liễu nhơn. Hay sanh ra pháp thời gọi là sanh nhơn. Đèn hay chiếu rõ đồ vật, nên gọi là liễu nhơn. Phiền não kiết sử thời gọi là sanh nhơn. Cha mẹ của chúng sanh thời gọi là liễu nhơn. Như hột lúa v.v… thời gọi là sanh nhơn. Đất nước phân tro v.v… thời gọi là liễu nhơn. Lại có sanh nhơn, chính là sáu môn Ba La Mật, vô thượng Bồ Đề. Lại có liễu nhơn, chính là Phật tánh vô thượng Bồ Đề. Lại có liễu nhơn, chính là sáu môn Ba La Mật, Phật tánh. Lại có sanh nhơn, chính là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Vô Thượng Bồ Đề. Lại có liễu nhơn, chính là Bát Chánh Đạo Vô Thượng Bồ Đề. Lại có sanh nhơn, chính là tín tâm sáu môn Ba La Mật.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “ Thế Tôn! Như Phật nói: Thấy Như Lai và Phật tánh, ý nghĩa đó như thế nào?
Bạch Thế Tôn! Thân Như Lai không có tướng mạo, chẳng phải dài ngắn trắng đen, không có phương sở, chẳng ở trong tam giới, chẳng phải tướng hữu vi, chẳng phải nhãn thức thấy được, như thế thời làm sao có thể thấy được, Phật tánh cũng vậy.”
Phật nói: “ Nầy Thiện nam tử! Thân của Phật có hai thứ: Một là thường, hai là vô thường. Thân vô thường chính là vì muốn độ thoát tất cả chúng sanh nên phương tiện thị hiện, thân nầy con mắt thấy được. Thân thường trụ chính là thân giải thoát của Như Lai, thân nầy cũng gọi là con mắt thấy, cũng gọi là nghe thấy.
Phật tánh cũng có hai thứ: Một là có thể thấy, hai là chẳng thể thấy. Có thể thấy là nói bực Thập trụ Bồ Tát và chư Phật. Chẳng thể thấy là nói tất cả chúng sanh. Con mắt có thấy, chính là Thập trụ Bồ Tát và chư Phật con mắt ngó thấy Phật tánh của chúng sanh. Có nghe thấy, là tất cả chúng sanh và Cửu Trụ Bồ Tát nghe có Phật tánh.
Thân của Phật lại có hai thứ: Một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là thân giải thoát của Như Lai. Là chẳng phải sắc vì đức Như Lai đã dứt hẳn sắc căn.
Phật tánh lại có hai thứ: Một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là vô thượng Bồ Đề. Là chẳng phải sắc chính là phàm phu nhẫn đến Thập Trụ Bồ Tát. Vì Thập Trụ Bồ Tát chẳng thấy rõ ràng nên gọi là chẳng phải sắc. Phật tánh lại có hai thứ: Một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là chư Phật và Bồ Tát. Là chẳng phải sắc chính là tất cả chúng sanh. Là sắc gọi rằng con mắt thấy. Là phi sắc gọi rằng nghe thấy.
Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, dầu chẳng phải trong ngoài nhưng chẳng phải là hư mất, nên gọi rằng chúng sanh đều có Phật tánh.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “ Thế Tôn! Như Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như trong sữa có chất lạc. Kim Cang lực sĩ, chư Phật, Phật tánh như đề hồ trong sạch. Cớ sao đức Như Lai nói rằng Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải
ngoài?”
Phật nói: “ Nầy Thiện nam tử! Ta cũng chẳng nói rằng trong sữa có chất lạc. Vì chất lạc từ sữa sanh ra nên nói rằng có chất lạc.
_ Thế Tôn! Tất cả sanh pháp đều có thời tiết.
_ Nầy Thiện nam tử! Lúc là sửa thời không có chất lạc, củng không có các chất sanh tô, thục tô, đề hồ. Tất cả chúng sanh cũng gọi đó là sửa. Vì thế nên ta nói rằng trong sửa không có chất lạc. Như trong sửa đồng thời có chất lạc, cớ sao chẳng đồng thời có hai thứ tên. Như người có hai nghề thời gọi rằng thợ vàng sắt. Lúc là chất lạc không có sửa cũng như không có sanh tô, thục tô và đề hồ. Chúng sanh cũng gọi là chất lạc chẳng phải sửa, sanh tô thục tô và đề hồ.
Nầy Thiện nam tử! Nhơn có hai thứ: Một là chánh nhơn, hai là duyên nhơn. Chánh nhơn là như sửa sanh chất lạc. Duyên nhơn là như ủ ấm. Vì từ sửa sanh nên gọi là trong sửa có tánh chất lạc.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “ Thế Tôn! Nếu sửa không tánh chất lạc, trong sừng bò cũng không có, cớ sao chẳng từ trong sừng bò mà sanh?”
_ Nầy Thiện nam tử! Sừng bò cũng sanh chất lạc. Vì ta nói rằng duyên nhơn có hai thứ: Một là ủ, hai là ấm. Tánh sừng bò là ấm nên cũng có thể làm duyên sanh chất lạc.
_ Bạch Thế Tôn! Nếu sừng bò có thể sanh chất lạc, người tìm chất lạc cớ sao lại tìm nơi sửa mà chẳng dùng sừng.
_ Nầy Thiện nam tử! Do cớ đó nên ta nói có chánh nhơn có duyên nhơn.
_ Thế Tôn! Nếu trong sửa vốn không tánh của chất lạc nay mới có, trong sửa vốn không tánh cây am ma la, cớ sao chẳng sanh cây am ma la, vì trong sửa cả hai tánh đều không.
_ Nầy Thiện nam tử! Sửa cũng có thể sanh cây am ma la, nếu dùng sửa tưới trong nột đêm, cây am ma la cao thêm năm thước. Do nghĩa nầy nên ta nói có hai thứ nhơn.
Nầy Thiện nam tử! Nếu tất cả pháp chỉ có một nhơn sanh ra thời mới có thể vấn nạn như lời của ông vừa nói.
Nầy Thiện nam tử! Như tứ đại làm nhơn duyên có ra tất cả sắc pháp. Nhưng sắc pháp mỗi mỗi riêng khác chẳng đồng nhau, do nghĩa nầy nên trong sửa chẳng sanh cây am ma la.
_ Bạch Thế Tôn! Như Phật nói có hai nhơn là chánh nhơn và duyên nhơn, Phật tánh của chúng sanh thuộc về nhơn nào?
_ Nầy Thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh cũng hai thứ nhơn: Một là chánh nhơn, hai là duyên nhơn. Chánh nhơn đó chính là các chúng sanh. Duyên nhơn đó chính là sáu môn Ba La Mật.
_ Bạch Thế Tôn! Nay tôi quyết định biết rằng trong sửa có tánh chất lạc. Vì tôi thấy trong đời những người tìm chất lạc chỉ lấy nơi trong sửa mà trọn chẳng lấy trong những vật khác. Do đây nên biết rằng trong sửa có tánh của chất lạc.
_ Nầy Thiện nam tử! Như lời của ông hỏi, theo nghĩa thời chẳng đúng. Ví như có người muốn soi thấy hình bóng của mặt mình bèn lấy con dao sáng.
_ Bạch Thế Tôn! Do nghĩa nầy nên trong sửa có tánh của chất lạc, vì nếu trong dao không có hình bóng của gương mặt, cớ gì lại lấy dao.
_ Nầy Thiện nam tử! Nếu trong con dao nầy quyết định có hình bóng của gương mặt, cớ sao lại điên đảo: Dựng đứng thời thấy hình dài, cầm ngang thời thấy bóng rộng. Nếu là mặt của mình cớ sao lại thấy dài? Nếu là mặt người khác thời đâu được gọi rằng là hình bóng của mặt mình. Nếu nhơn mặt mình mà thấy mặt người khác, cớ sao chẳng thấy bóng của lừa của ngựa?
_ Bạch Thế Tôn! Nhãn quang đến nơi kia nên thấy bóng mặt.
_ Nầy Thiện nam tử! Thật ra nhãn quang nầy chẳng đến nơi kia, vì xa gần đồng một thời đều được thấy cả, vì chẳng thấy những vật ở chặng giữa vậy.
Nhãn quang nếu đến nơi kia mà được thấy, thời tất cả chúng sanh đều thấy lửa cớ sao chẳng bị cháy? Như người thấy vật trắng ở xa thời chẳng nên nghi rằng đó là chim hạc? Là phan? Là người? Là cây? Nếu nhãn quang đến nơi kia thế nào thấy được vật ở trong bình thủy tinh, cá cùng đá ở dưới vực sâu. Nếu nhãn quang chẳng đến mà thấy cớ sao thấy được vật trong bình thủy tinh, mà chẳng thấy được vật ở ngoài vách. Do lẽ nầy nên nếu nói rằng nhãn quang đến nơi kia mà được thấy đó là không đúng.
Nầy Thiện nam tử! Như ông vừa nói trong sửa có tánh của chất lạc, cớ sao người bán sửa chỉ lấy giá tiền sửa mà chẳng đòi tiền chất lạc. Người bán ngựa cái cớ sao chỉ lấy tiền ngựa mà chẳng đòi tiền ngựa con.
Nầy Thiện nam tử! Người đời vì không con cái nên cầu cưới vợ. Vợ nếu có thai nghén thời chẳng được gọi là con gái. Nếu nói là con gái có tánh của con cái nên phải cưới hỏi thời không đúng. Vì nếu có tánh của con cái lẻ ra cũng phải có tánh của cháu. Nếu có tánh của cháu thời thành ra anh em, vì đồng một bụng sanh ra vậy. Do đây nên ta nói rằng nơi người con gái không có tánh của con cái.
Nếu trong sửa kia có tánh của chất lạc cớ sao chẳng thấy cả năm vị đồng một thời. Nếu trong hột cây có tánh chất của cây ni câu đà cao năm trượng, cớ sao chẳng thấy mọng cây, nhánh lá, bông trái, hình sắc sai khác của cây đồng một thời.
Nầy Thiện nam tử! Lúc là sửa thời màu khác, vị khác công dụng khác, nhẫn đến đề hồ cũng lại như vậy. Làm sao có thể nói được rằng trong sửa có tánh của chất lạc.
Nầy Thiện nam tử! Như có người sáng ngày sẽ uống chất tô, giờ đây đã sợ hôi. Nếu nói rằng trong sửa quyết định có chất lạc thời cũng như vậy.
Ví như có người dùng viết giấy mực hòa hiệp thành chữ, mà trong giấy nầy vốn không có chữ, vì vốn không có nên nhờ duyên mà thành có, nếu vốn đã có thời cần gì các duyên.
Như xanh vàng hợp lại thành màu lục, nên biết hai màu nầy vốn không có tánh của màu lục, nếu vốn đã có cần gì phải hiệp lại mới thành.
Như chúng sanh do ăn mà được sống. Nhưng trong vật thực nầy thiệt không có mạng sống. Nếu vốn đã có mạng sống thời lúc chưa ăn lẽ ra vật thực nầy là mạng sống.
Nầy Thiện nam tử! Tất cả các pháp vốn không có tánh, do nghĩa nầy nên ta nói kệ rằng:
Trước không nay có.
Trước có nay không.
Ba đời có pháp.
Không có lẽ đó.
Nầy Thiện nam tử! Tất cả pháp do nhơn duyên mà sanh cũng do nhơn duyên mà diệt.
Nếu chúng sanh có Phật tánh, thời tất cả chúng sanh lẽ ra có thân Phật như ta hôm nay.
Phật tánh của chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong chúng sanh có hư không, vì tất cả chúng sanh đều có hư không chẳng chướng ngại, chúng sanh đều chẳng tự thấy mình có hư không nầy. Giả sử nếu chúng sanh chẳng có hư không, thời không có những sự đến đi dứng ngồi nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa nầy nên trong kinh ta nói tất cả chúng sanh đều có hư không giới, hư không giới đây gọi là hư không. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Bực Thập trụ Bồ Tát thấy được phần ít như châu kim cương.
Nầy Thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải là hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được. Tất cả chúng sanh vì chẳng thấy Phật tánh nên thường bị phiền não trói buộc mà phải lưu chuyển trong sanh tử. Chư Phật vì thấy Phật tánh nên phiền não kiết sử chẳng trói buộc được, do đây giải thoát sanh tử đặng Đại Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “ Thế Tôn! Tất cả chúng sanh có tánh của Phật tánh như tánh chất lạc trong sửa. Nếu sửa không tánh chất lạc, tại sao Phật nói có hai thứ nhơn: Chánh nhơn và duyên nhơn. Duyên nhơn có hai: Ủ và ấm. Hư không vì là không tánh nên không có duyên nhơn.
Nầy Thiện nam tử: Giả sử trong sửa quyết định có tánh chất lạc, cần gì đến duyên nhơn?
_ Bạch Thế Tôn! Vì có tánh nên phải cần duyên nhơn. Vì muốn thấy rõ vậy. Duyên nhơn đó chính là liễu nhơn. Như trong nhà tối đã trước có những đồ vật, vì muốn thấy rõ nên dùng đèn soi sáng. Nếu vốn không đồ vật thời đèn soi sáng những gì? Như trong đất sét có bình, nên cần nhân công, nước, vòng dây, gậy v.v… mà làm liễu nhơn. Như hột ni câu đà cần đến nước, đất, phân mà làm liễu nhơn. Trong sửa cũng như vậy, phải nhờ ủ ấm làm liễu nhơn. Vì thế nên dầu trước đã có tánh phải nhờ liễu nhơn rồi sau mới được thấy. Do nghĩa nầy nên quyết định biết trong sửa trước có tánh của chất lạc.
_ Nầy Thiện nam tử! Giả sử nếu trong sửa quyết định có tánh của chất lạc thời tánh nầy chính là liễu nhơn. Nếu đã là liễu nhơn lại cần gì phải dùng liễu.
Nầy Thiện nam tử! Nếu liễu nhơn đây tánh nó là liễu thời lẽ ra phải thường tự liễu. Nếu chẳng tự liễu thời đâu có thể liễu cái khác.
Nếu nói liễu nhơn có hai thứ tánh: Một là tự liễu, hai là liễu tha, thời không đúng nghĩa. Vì một pháp liễu nhơn làm sao lại có hai thứ tánh? Nếu có hai tánh thời sửa lẽ ra cũng có hai thứ. Giả sử trong sửa không có hai thứ, tại sao liễu nhơn lại riêng có hai tánh?
_ Bạch Thế Tôn! Như người đời nói rằng chúng tôi cộng có tám người: Liễu nhơn cũng như vậy: Tự liễu và liễu tha.
_ Nầy Thiện nam tử! Liễu nhơn nếu như vậy thời chẳng phải là liễu nhơn, vì là số, có thể đếm, sắc của mình, sắc của người nên được nói là tám, mà sắc tánh nầy tự nó không có liễu tướng, vì không liễu tướng phải nhờ trí tánh mới đếm được tự và tha. Do đây nên liễu nhơn chẳng thể tự liễu cũng chẳng liễu được tha.
Nầy Thiện nam tử! tất cả chúng sanh đã có Phật tánh cớ gì lại phải tu tập công đức? Nếu nói tu tập là liễu nhơn thời đã đồng hư hoại như chất lạc.
Nếu nói trong nhơn quyết định có quả thời giới, định, huệ lẽ ra không Tăng trưởng. Nhưng người đời trước kia không giới, định, huệ theo sư trưởng học tập thời lần lần được có giới, định, huệ. Nếu cho rằng sư trưởng dạy dổ là liễu nhơn, chính lúc dạy dỗ thời chưa có giới, định, huệ, nếu là liễu đó, lẽ ra là liễu thứ chưa có, sao lại gọi rằng liễu giới, định, huệ làm cho được Tăng trưởng.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “ Thế Tôn! Nếu liễu nhơn là không, sao lại được rằng có sữa có lạc?”
Nầy Thiện nam tử! Sự đáp nạn của thế gian có ba: Một là chuyển đáp, như trước kia nói cớ gì gọi là giới? Do vì chẳng ăn năn nhẫn đến vì được Đại Niết Bàn. Hai là nín lặng mà đáp, như có Phạm Chí đến hỏi ta rằng: Ngã là thường ư? Lúc đó ta nín lặng. Ba là nghi đáp như trong kinh đây nói: Nếu liễu nhơn có hai tánh cớ gì trong sửa chẳng được có hai thứ?
Nầy Thiện nam tử! Nay ta chuyển đáp, như người đời nói rằng có sửa có lạc, vì quyết định được nên được gọi rằng có sửa có lạc. Phật tánh cũng như vậy có chúng sanh có Phật tánh do vì sẽ được thấy.
_ Bạch Thế Tôn! Như lời Phật vừa nói không được đúng nghĩa. Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến thế nào gọi là có? Nếu cho rằng sẽ có mà gọi là có đó, thời không đúng. Như người đời thấy không con cái bèn nói không con. Tất cả chúng sanh không có Phật tánh, tại sao nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
_ Nầy Thiện nam tử! Quá khứ gọi rằng có. Ví như trồng quít mọng mọc lên thời hột hư mất. Từ mọng lên cây nhánh lá, nhẫn đến kết trái, lúc trái chín bèn có vị ngọt.
Nầy Thiện nam tử! Vị ngọt nầy đều không từ nơi hột, mọng, cây, nhánh, bông v.v… Lúc trái chín thời sanh vị ngọt, vị ngọt nầy trước không nay có. Dầu trước không nay có mà chẳng phải là chẳng do nơi hột lúc trước. Thế nên hột lúc trước dầu đã quá khứ nhưng được gọi là có. Do nghĩa nầy nên quá khứ gọi rằng có.
Thế nào lại gọi rằng vị lai là có? Ví như có người gieo trồng cây mè. Có kẻ hỏi cớ gì trồng thứ nầy? _ Đáp rằng vì có dầu.
Thiệt ra thời chưa có dầu, khi cây mè đã già lấy hột hấp sôi, giã ép rồi sau mới có dầu chảy ra. Nên biết rằng người nầy trả lời như vậy chẳng phải là hư vọng. Do nghĩa nầy nên gọi rằng vị lai có.
Lại thế nào gọi rằng quá khứ có ư? Ví như có người lén mắng nhà vua, trải qua nhiều năm. Lúc sau vua nghe được đòi đến hỏi cớ sao mắng ta? _ Tâu Đại Vương! Tôi chẳng mắng vì người mắng đó mất. _ Vua bảo: Kẻ mắng cùng thân ta cả hai đều còn tại sao lại nói rằng mất? Người kia không trả lời được nên phải bị tội chết.
Nầy Thiện nam tử! Hai tánh ấy thiệt không mà quả chẳng mất, đây gọi là quá khứ có.
Thế nào lại gọi rằng vị lai có? Như có người đến nhà thợ gốm hỏi có bình không? Đáp rằng có. Thiệt ra thợ gốm nầy chưa có bình vì có đất sét nên đáp rằng có bình, phải biết rằng thợ gốm nầy chẳng phải vọng ngữ. Trong sữa có chất lạc, chúng sanh có Phật tánh cũng như vậy, muốn thấy Phật tánh, phải nên quán sát thời tiết hình sắc, do đây nên ta nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thiệt chẳng hư vọng.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “ Thế Tôn! Tất cả chúng sanh không có Phật tánh, làm sao mà được vô thượng Bồ Đề?
_ Do chánh nhơn, nên khiến chúng sanh được vô thượng Bồ Đề. Gì là chánh nhơn? Chính là Phật tánh.
_ Bạch Thế Tôn! Nếu hột Ni câu đà không có cây ni câu đà, tại sao gọi là hột ni câu đà mà chẳng gọi là hột khư đà la?
Bạch Thế Tôn! Như họ Cù Đàm chẳng được gọi là họ A Kỳ Da. Họ A Kỳ Da lại chẳng được gọi là Cù Đàm. Hột Ni Câu Đà chẳng được gọi là hột Khư Đà La, còn hột Khư Đà La chẳng được gọi là hột Ni Câu Đà. Cũng như đức Thế Tôn chẳng được bỏ lìa họ Cù Đàm. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Do nghĩa nầy nên biết rằng chúng sanh đều có Phật tánh.
Phật bảo: “ Nầy Thiện nam tử! Nếu nói rằng trong hột có cây Ni Câu Đà thời không đúng. Vì nếu là có cớ sao chẳng thấy?
Nầy Thiện nam tử! Như những vật trong đời vì có nhơn duyên nên chẳng thấy được. Ở xa chẳng thấy được như dấu chim bay giữa hư không. Vì gần nên chẳng thấy được như lông nheo rớt vào mắt. Vì hư hoại nên chẳng thấy như ngũ căn đã hư. Vì loạn tưởng nên chẳng thấy như tâm chẳng chuyên nhứt. Vì nhỏ nên chẳng thấy như vi trần. Vì bị che nên chẳng thấy như tinh tú bị mây phủ. Vì nhiều nên chẳng thấy như hột mè trên đống lúa. Vì tương tợ nên chẳng thấy như chẳng thấy như hột đậu trên đống đậu. Cây ni câu đà chẳng đồng tám thứ nhơn duyên như vậy, nếu nó là có tại sao chẳng thấy? Nếu cho rằng vì nhỏ bị che nên chẳng thấy thời không đúng, vì tướng cây to thô. Nếu cho rằng tánh vi tế thời thế nào lại thành cây lớn. Nếu cho rằng bị che ngăn thời lẽ ra luôn luôn chẳng được thấy. Cây trước kia không có tướng thô to, nay thời thấy cây to, nên biết rằng tướng to nầy vốn không có tánh. Trước kia không có tánh thấy nay thời thấy được, nên biết rằng sự thấy nầy cũng vốn không có tánh. Hột cũng như vậy: Trước không có cây nay thời có đó, như thế có lỗi gì?
_ Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói có hai thứ nhơn: Chánh nhơn và liễu nhơn. Hột ni câu đà do đất, nước, phân làm liễu nhơn khiến nhỏ được thành to.
Nầy Thiện nam tử! Nếu trước đã có thời cần gì đến liễu nhôn? Nếu trước là không thời liễu nhơn là liễu cái gì? Nếu trong hột Ni câu đà vốn không có tướng to, do liễu nhơn bèn sanh to, cớ sao chẳngsanh cây khư đà la, vì rằng hai thứ đều là không cả.
Nầy Thiện nam tử! Nếu như nhỏ chẳng thấy được, thời lẽ ra to có thể thấy. Như một vi trần thời chẳng thấy được, nhiều vi trần hòa hiệp thời thấy được. Trong hột lẽ ra cũng như vậy, to thời có thể thấy, vì trong đó đã có mọng cây, bông trái, trong mỗi mỗi trái có vô lượng hột, trong mỗi mỗi hột có vô lượng cây nên gọi là thô, vì là thô nên lẽ ra có thể thấy.
Nếu hột ni câu đà có tánh cây ni câu đà mà mọc lên cây, con mắt thấy hột nầy bị lửa đốt cháy thời lẽ ra tánh đốt cháy nầy cũng là đã có trước. Nếu tánh cháy vốn đã có thời lẽ ra cây chẳng mọc lên. Nếu tất cả pháp vốn đã có sanh diệt, cớ sao trước sanh rồi sau diệt mà chẳng đồng một thời ư? Do nghĩa nầy nên biết là không có tánh.
_ Bạch Thế Tôn! Nếu hột ni câu đà vốn không tánh cây mà sanh ra cây, thời hột nầy cớ gì chẳng sanh ra dầu, vì cả hai tánh đều là không cả?
_ Nầy Thiện nam tử! Hột ấy cũng có thể sanh ra dầu, dầu vốn không có tánh dầu, nhưng do nhơn duyên mà có.
_ Bạch Thế Tôn! Cớ sao không gọi là dầu mè ư?
_ Nầy Thiện nam tử! Vì chẳng phải là mè.
Như duyên lửa sanh ra lửa, duyên nước sanh ra nước. Dầu hai thứ lửa và nước đều từ nơi duyên, nhưng chẳng thể có lẫn nhau được. Hột ni câu đà và dầu mè cũng như vậy, tuy cả hai đều từ nơi duyên mà đều chẳng sanh lẫn nhau.
Tánh chất của hột ni câu đà hay trị bịnh hàn lãnh. Tánh chất của dầu mè hay trị được bịnh phong.
Như cây mía, do nhơn duyên mà thành các thứ đường: Đường phèn, đường đen. Dầu cả hai thứ đường đều từ nơi chất mía, nhưng sắc tướng khác nhau, đường phèn trị bịnh nhiệt, đường đen trị hàn lãnh.
_ Bạch Thế Tôn! Như trong sữa không tánh lạc, trong mè không tánh dầu, trong hột ni câu đà không tánh cây, trong đất sét không tánh bình tất cả chúng sanh không tánh Phật, cứ theo đây thời như trước kia đức Phật nói: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh vì thế nên được vô thượng Bồ Đề. Nghĩa nầy xét ra không được đúng, vì trời và người đều vô tánh. Vì vô tánh nên người có thể sanh làm trời, trời có thể sanh làm người. Đều là do nhơn duyên của nghiệp, không phải do nơi tánh.
Đại Bồ Tát do nhơn duyên của nghiệp nên được vô thượng Bồ Đề.
Nếu các chúng sanh có Phật tánh thời do nhơn duyên gì mà nhứt xiển đề dứt căn lành phải đọa địa ngục? Nếu Bồ Đề tâm là Phật tánh, thời nhứt xiển đề lẽ ra chẳng dứt. Nếu là có thể dứt được, sao lại được nói rằng Phật tánh là thường? Còn nếu chẳng phải là thường thời không gọi là Phật tánh.
Nếu chúng sanh có Phật tánh, cớ sao gọi là sơ phát tâm ư? Tại sao lại gọi là bực thối chuyển, bực bất thối chuyển? Nếu là bực thối chuyển thời nên biết rằng người nầy không có Phật tánh.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nhứt tâm hướng đến vô thượng Bồ Đề, đạitừ, đại bi, thấy tội lỗi của phiền não sanh tử. Quán sát Đại Niết Bàn không có các lỗi sanh tử phiền não. Tin ngôi Tam Bảo và nghiệp nhơn quả báo, thọ trì giới cấm. Những tâm hạnh như vậy gọi là Phật tánh.
Nếu rời lìa những tâm hạnh nầy mà có Phật tánh, thời cần gì dùng những tâm hạnh nầy để làm nhơn duyên.
Bạch Thế Tôn! Như sữa chẳng chờ duyên tất sẽ thành lạc, nhưng thành tô phải chờ đủ duyên: Nhơn công, nước, bình, dây, khuấy.
Cũng vậy, những chúng sanh có Phật tánh lẽ ra không cần nhơn duyên cũng được vô thượng Bồ Đề.
Nếu là quyết định có Phật tánh, cớ sao người tu hành thấy sự khổ của ba ác đạo,
sanh, gìa, bịnh, chết mà thối tâm? Nếu quyêt định có Phật tánh, cũng chẳng cần tu sáu môn Ba La Mật, lẽ ra được vô thượng Bồ Đề, như sữa chẳng cần duyên mà thành lạc. Nhưng thật ra phải nhờ tu sáu môn Ba La Mật mới được vô thượng Bồ Đề.
Do những nghĩa nầy nên biết rằng chúng sanh đều không có Phật tánh.
Như trước kia đức Phật nói Tăng Bảo là thường trụ. Đã là thường thời tất chẳng phải là vô thường. Đã chẳng phải vô thường, tại sao Tăng Bảo được thành vô thượng Bồ Đề.
Tăng nếu là thường, sao lại nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh?
Bạch Thế Tôn! Giả sử nếu chúng sanh từ trước đến nay không tâm Bồ Đề, cũng không tâm vô thượng Bồ Đề, về sau mới có, thời Phật tánh của chúng sanh cũng lẽ ra trước không, sau mới có.
Do nghĩa trên đây nên tất cả chúng sanh lẽ ra không có Phật tánh.
Phật nói: “ Lành thay! Lành thay! Ông từ lâu đã biết rõ nghĩa Phật tánh. Nay ông vì chúng sanh mà thỉnh hỏi như vậy.
Tất cả chúng sanh thiệt có Phật tánh.
Nầy Thiện nam tử! Ông nói rằng nếu chúng sanh có Phật tánh lẽ ra chẳng nên có người sơ phát tâm. Phải biết rằng tâm không phải là Phật tánh, vì tâm vốn vô thường, còn Phật tánh là thường.
Ông nói cớ sao có người thối tâm. Thật ra không có thối tâm. Nếu tâm có thối thời tất là trọn chẳng thể được vô thượng Bồ Đề, vì được chậm nên gọi đó là thối.
Tâm Bồ Đề nầy thiệt chẳng phải là Phật tánh,vì nhứt xiển đề dứt căn lành đọa địa ngục.
Nếu tâm Bồ Đề là Phật tánh thời hạng nhứt xiển đề, chẳng được gọi là nhứt xiển đề. Tâm Bồ Đề cũng chẳng được gọi là vô thường. Do đây nên biết rằng tâm Bồ Đề thiệt chẳng phải là Phật tánh.
Nầy Thiện nam tử! Ông nói nếu chúng sanh có Phật tánh thời lẽ ra chẳng cần nhờ nhơn duyên mới được vô thượng Bồ Đề, như sữa thành lạc. Lời nầy không đúng nghĩa. Vì ông đã nói phải có năm duyên mới thành sanh tô, nên biết rằng Phật tánh cũng như vậy.
Như trong các thứ đá có vàng, có bạc, có đồng, có sắt. Bốn thứ đá đều bổn thọ chất tứ đại, đồng tên là đá, đồng là vật có thiệt, nhưng mỗi thứ đá sản xuất mỗi chất không đồng nhau, phải cần nhờ đủ các duyên mới sản xuất ra chất vàng, bạc, đồng, sắt. Do đây nên biết rằng trước vốn không có, chờ đủ duyên mà sau mới có.
Phật tánh của chúng sanh chẳng gọi là Phật. Phải do công đức được thấy Phật tánh, rồi sau chúng sanh mới thành Phật.
Ông nói chúng sanh đều có Phật tánh tại sao lại không thấy. Lời nầy không đúng nghĩa. Vì các duyên công đức chưa đầy đủ nên không được thấy.
Do nghĩa nầy nên ta nói có hai nhơn: Chánh nhơn và duyên nhơn.
Chánh nhơn gọi là Phật tánh, duyên nhơn là phát tâm Bồ Đề. Do hai nhơn duyên nầy mà được vô thượng Bồ Đề, như đủ duyên thời sản xuất vàng.
Ông nói Tăng Bảo thường trụ thời lẽ ra chúng sanh không có Phật tánh đó. Phải biết rằng Tăng gọi là hòa hiệp. Hoà hiệp nầy có hai: Thế gian hòa hiệp và đệ nhứt nghĩa hòa hiệp.
Thế hòa hiệp gọi là Thanh Văn Tăng. Nghĩa hòa hiệp gọi là Bồ Tát Tăng.
Thế Tăng là vô thường. Phật tánh là thường trụ. Như Phật tánh, nghĩa Tăng cũng là thường trụ.
Lại có Tăng gọi là pháp hòa hiệp, chính là nói mười hai bộ kinh. Mười hai bộ kinh là thường, nên ta nói pháp và Tăng là thường trụ.
Nầy Thiện nam tử! Tăng gọi là hòa hiệp. Hòa hiệp đây chính là nói mười hai nhơn duyên. Trong mười hai nhơn duyên cũng có Phật tánh. Mười hai nhơn duyên là thường, Phật tánh cũng vậy. Do đây nên ta nói Tăng có Phật tánh.
Ông nói: Nếu chúng sanh có Phật tánh, tại sao có kẻ thối, người không thối?
Nầy Thiện nam tử! Lóng nghe! Lóng nghe! Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho:
Có mười ba điều làm cho Bồ Tát thối chuyển đạo vô thượng Bồ Đề: Một là tâm chẳng tin ; hai là tâm chẳng cố làm ; ba là tâm nghi ; bốn là tham tiếc thân mạng và của cải ; năm là có quan niệm quá sợ sệt đối với Niết Bàn: “ Thế nào làm cho chúng sanh diệt độ hẳn” ; sáu là tâm chẳng kham nhẫn ; bảy là tâm chẳng điều nhu ; tám là sầu não ; chín là chẳng thích vui ; mười là phóng dật ; mười một là tự khinh thân mình ; mười hai là tự thấy phiền não không thể phá ; mười ba là không thích những pháp môn tiến tới Bồ Đề.
Trên đây là mười ba điều làm cho Bồ Tát thối chuyển đạo Bồ Đề vô thượng.
Lại có sáu điều làm hư tâm Bồ Đề: Một là bỏn xẻn pháp ; hai là có tâm chẳng lành chẳng đối với chúng sanh ; ba là gần gũi bạn ác ; bốn là chẳng siêng năng tinh tiến ; năm là quá tự kiêu mạn ; sáu là kinh doanh nghề nghiệp thế gian.
Nầy Thiện nam tử! Có người được nghe chư Phật là bực Thầy của cõi Trời và nhơn gian, là đấng tối thượng trong tất cả chúng sanh, hơn tất cả hàng Thanh Văn Duyên Giác, là bực có pháp nhãn sáng suốt thấy rõ tất cả pháp, có thể đưa chúng sanh qua khỏi biển khổ lớn. Nghe như vậy rồi, người nầy phát nguyện lớn: Nếu trong đời có đấng vô thượng như vậy, tôi cũng sẽ được. Do đây nên người nầy phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Hoặc có người nhờ người khác khuyên dạy mà phát tâm Bồ Đề, hoặc có người nghe nói Bồ Tát trãi qua vô số kiếp thật hành những khổ hạnh rồi sau mới được vô thượng Bồ Đề. Nghe rồi tự nghĩ rằng: Nay tôi không thể kham nổi những khổ hạnh như vậy, thời làm sao được vô thượng Bồ Đề. Do đây nên có thối tâm.
Lại còn có năm điều thối tâm Bồ Đề: Một là thích xuất gia theo ngoại đạo ; hai là chẳng tu tâm đại từ ; ba là ưa tìm lỗi pháp sư ; bốn là thường thích ở trong vòng sanh tử ; năm là không thích thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh.
Lại cũng có hai pháp làm thối tâm Bồ Đề: Một là tham ưa ngũ dục ; hai là chẳng thể cung kính tôn trọng ngôi Tam Bảo.
Nầy Thiện nam tử! Do những nhơn duyên như vậy làm cho Bồ Tát thối tâm Bồ Đề.
Thế nào lại gọi là tâm bất thối? Có người nghe rằng đức Phật có thể độ chúng sanh khỏi sanh lão bịnh tử. Là đấng chẳng học với Thầy ; tự tu tập được vô thượng Bồ Đề. Nếu đạo Bồ Đề là quả có thể được, tôi cũng tu tập quyết được quả ấy. Do đây nên người nầy phát tâm Bồ Đề. Bao nhiêu công đức tu tập không luận nhiều ít đều hồi hướng cả về vô thượng Bồ Đề.
Người nầy thệ nguyện thường được gặp Phật cùng đệ tử Phật, thường được nghe pháp đại thừa thâm diệu nhãn nhĩ tỷ thiệt thân, cả năm căn đều hoàn cụ, nếu gặp cảnh khổ nạn cũng quyết không mất tâm Bồ Đề nầy.
Lại nguyện rằng: Mong chư Phật, chư Bồ Tát luôn có lòng hoan hỷ đối với tôi, nguyện tôi đủ năm căn lành. Nếu có chúng sanh nào chặt chém đánh đập giết hại tôi, đối với kẻ nầy, tôi khởi lòng đại từ, lòng vui mừng, vì nhờ họ mà tôi được thêm lớn công hạnh Bồ Đề. Nếu không có họ, tôi làm sao được quả vô thượng Bồ Đề.
Lại nguyện rằng: Đời đời tôi được khỏi những thân nữ, thân hai căn, không căn ; không bị làm nô lệ, không gặp chủ hung ác, không thuộc dưới quyền vua chúa ác ; chẳng sanh vào nước ác.
Nếu được thân xinh tốt, dòng họ cao sang, giàu có, nguyện tôi không có lòng kiêu mạn.
Nguyện tôi thường được nghe mười hai bộ kinh và thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải thuyết. Lúc tôi giảng thuyết cho chúng sanh, nguyện cho thính gỉa đều kính tin không nghi, chẳng sanh ác tâm đối với tôi.
Nguyện cho tôi thà nghe pháp ít mà hiểu được nhiều nghĩa vị, chẳng muốn nghe nhiều mà chẳng rõ nghĩa lý.
Nguyện là thầy của tâm mình, chớ chẳng bị tâm sai sử. Thân, khẩu, ý, ba nghiệp chẳng giao tiếp với kẻ ác, điều ác. Có thể làm cho tất cả chúng sanh được an lạc. Giới hạnh nơi thân cũng như trí huệ nơi tâm đều vững chắc như núi không bị lay động. Vì muốn thọ trì chánh pháp vô thượng nên chẳng lẫn tiếc thân mạng và tài sản. Chẳng đem vật bất tịnh làm phước nghiệp. Tâm không tà vạy. Tự sống với chánh mạng. Nếu thọ ơn thời nhớ mãi, trả nhiều hơn thọ. Biết rành những sự nghiệp thế gian ; hiểu rành ngôn ngữ của các địa phương, của mọi loài chúng sanh.
Đọc tụng biên chép mười hai bộ kinh không hề nhàm mõi biến lười.
Nếu có chúng sanh không thích nghe kinh, thời tôi tìm phương tiện tiếp dẫn cho họ ưa nghe kinh.
Tôi thường nói lời diệu hòa, miệng không tuyên điều xấu ác.
Chúng bất hòa, tôi làm cho họ hòa hiệp.
Người lo sợ, tôi làm cho họ được vững lòng.
Thời kỳ đói kém, tôi làm cho mọi người được no đủ. Đời tật bịnh thời tôi sẽ làm vị đại lương y tự có đủ tài bảo cũng như thuốc men, làm cho người bịnh đều được lành bịnh.
Kiếp binh đao, tôi sẽ có thế lực trừ dứt hết sự tương tàn tương hại.
Tôi sẽ làm cho chúng sanh khỏi các điều kinh sợ như bị giết, bị bắt giam nhốt đánh đập, những nạn về nước lụt, hỏa hoạn, nạn vua chúa, nạn giặc cướp, sự nghèo khốn, phá giới, danh xấu, ác đạo.
Với cha mẹ sư trưởng tôi rất kính mến, với kẻ thù nghịch tôi khởi lòng từ.
Tôi thường tu tập sáu chánh niệm, môn không tam muội, mười hai nhơn duyên, qúan sanh diệt vô thường, sở tức, thiên hạnh, phạm hạnh, thánh hạnh, Kim Cang Tam Muội, Thủ Lăng Nghiêm định. Nơi không có ngôi Tam Bảo, nguyện tôi được tâm tịch tịnh, nếu lúc thân tôi bị phải sự rất khổ, nguyện không hư mất tâm Bồ Đề vô thượng. Chẳng sanh lòng tri túc đối với Thanh Văn Bích Chi Phật.
Chỗ không ngôi Tam Bảo tôi thường xuất gia trong hàng ngoại đạo để phá tà kiến của họ, đặng pháp tự tại, đặng tâm tự tại, nơi pháp hữu vi thấy rõ sự lỗi lầm.
Nguyện tôi sợ sệt đạo quả nhị thừa như người tiếc thân sợ chết.
Nguyện tôi vì chúng sanh nên thích ở trong ba ác đạo như chúng sanh thích ở cõi trời Đao Lợi.
Nguyện tôi vì mỗi mỗi chúng sanh mà chịu khổ địa ngục trong vô lượng kiếp chẳng sanh lòng hối hận.
Nguyện tôi thấy người khác được lợi ích chẳng sanh lòng ganh ghét, thường có lòng tùy hỉ như chính mình được.
Nếu gặp ngôi Tam Bảo, nguyện tôi sẽ đem y phục đồ uống ăn, thuốc men đồ nằm nhà cửa đèn sáng hoa hương kỹ nhạc, phan lọng, bảy báu cúng dường.
Nếu thọ giới pháp của Phật nguyện tôi giữ gìn bền chắc trọn chẳng sanh lòng hủy phạm. Nếu nghe khổ hạnh khó làm của Bồ Tát, trong lòng vui mừng chẳng hối hận.
Tự biết những việc đời trước trọn chẳng gây nghiệp tham sân si. Chẳng vì quả báo mà chứa nhóm nghiệp nhơn. Đối với sự vui hiện tại chẳng sanh lòng tham đắm.
Nầy Thiện nam tử!Nếu có người phát được những nguyện như vậy thời gọi là Bồ Tát trọn chẳng thối thất tâm Bồ Đề, cũng gọi là thí chủ có thể thấy đức Như Lai, thấy rõ Phật tánh, có thể điều phục chúng sanh độ khỏi sanh tử, có thể hộ trì chánh pháp vô thượng, có thể được đầy đủ sáu môn Ba La Mật.
Nầy Thiện nam tử! Do nghĩa nầy nên tâm bất thối chẳng gọi là Phật tánh!
Nầy Thiện nam tử! Ông chẳng nên vì tâm có thối chuyển mà cho rằng các chúng sanh không có Phật tánh. Thí như có hai người đều nghe phương khác có núi Thất Bảo, trong núi có suối nước trong vị ngọt. Nếu ai đến được núi ấy thời vĩnh viễn khỏi sự nghèo khốn. Ai uống được nước suối ấy thời sống lâu muôn tuổi. Chỉ vì đường sá xa xôi hiểm trở nhiều tai nạn. Hai người ấy đều muốn cùng nhau đi một người sắm sửa các thứ vật cần dùng đi đường, một người thời đi tay không cùng nhau đồng tiến về hướng núi báu. Dọc đường gặp người mang nhiều của báu đi ngược chiều. Hai người hỏi rằng: Xin hỏi ông xứ đó thiệt có núi bảy báu ư? Đáp rằng: Thiệt có núi báu, chính tôi đã được bảo vật và được uống nước suối ngọt. Chỉ lo rằng đường xa hiểm trở, trộm cướp quá nhiều, hầm hố gai chông, lại thêm thiếu nước, thiếu cỏ. Muôn ngàn người đi ít người đến được.
Nghe khách nói một người ăn năn cho rằng đường sá gian nan khốn khổ như vậy, vô lượng người đi không mấy người được đến, tôi làm thế nào có thể đến được núi báu. Hiện tại sản nghiệp của tôi cũng tạm đủ dùng. Nếu gắng gượng đi hoặc có thể chẳng toàn thân mạng. Thân mạng đã chẳng còn, còn mong gì được trường thọ.
Một người nói rằng: Có người đến được thời tôi cũng có thể đến được. Tôi quyết đến núi báu lượm lấy bảo vật cùng uống nước suối ngọt, nếu chẳng toại nguyện có chết cũng cam lòng.
Lúc đó hai người, một thời ăn năn trở về, một thời tiến tới núi báu. Người sau nầy đến được núi kia, uống nước suối ngọt, mang nhiều bảo vật trở về nhà, dùng của ấy phụng dưỡng cha mẹ cung cấp họ hàng thân thuộc.
Bấy giờ người ăn năn thối vế trước kia thấy kết quả tốt đẹp của người nầy trong lòng phát nhẫn: Anh ấy mang được bảo vật về nhà, tại sao ta cứ ở mãi bên đây mà chẳng dám đi? Liền sắm sửa hành trang đến thẳng núi báu.
Nầy Thiện nam tử! Núi báu kia dụ cho Đại Niết Bàn. Nước suối ngọt dụ cho Phật tánh. Hai người kia dụ cho hai vị Bồ Tát sơ phát tâm. Con đường hiểm ác dụ cho sanh tử. Người đi ngược chiều gặp dọc đường dụ cho đức Phật Thế Tôn. Trộm cướp dụ cho tứ ma. Hầm hố gai chông dụ cho các phiền não. Không nước không cỏ dụ cho chẳng tu tập đạo Bồ Đề. Người nghe khó ăn năn trở về dụ cho Bồ Tát thối chuyển. Người dũng mãnh thẳng tiến dụ cho Bồ Tát bất thối.
Nầy Thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh thường trụ chẳng biến đổi. Như con đường hiểm trở kia không ai có thể bảo rằng, vì có người ăn năn trở lại mà làm cho con đường thành vô thường. Phật tánh cũng như vậy, trong đạo Bồ Đề trọn không có sự thối thất. Như người ăn năn kia thấy bạn mình đặng của báu mang về nhà giàu có tự tại cúng dường cha mẹ cung cấp thân thuocä, an vui sung sướng.
Do đó bèn phát tâm thẳng đến núi báu chẳng tiếc thân mạng Bồ Tát thối chuyển cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được thành vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa nầy nên trong kinh Phật nói tất cả chúng sanh nhẫn đến kẻ tạo tội ngũ nghịch, phạm tứ trọng và nhứt xiển đề đều có Phật tánh.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế Tôn! Bồ Tát thế nào có thối cùng chẳng thối?”
_ Nầy Thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát tu tập nghiệp nhơn ba mươi hai tướng tốt của Như Lai thời được gọi là bực bất động chuyển, là thương xót tất cả chúng sanh, gọi là hơn tất cả hàng Thanh Văn Duyên Giác, là bực A Bệ Bạt Trí.
Nầy Thiện nam tử! Nếu Đại Bồ Tát trì giới chẳng lay động, tâm bố thí chẳng dời đổi, lời nói chơn thật như núi Tu Di, nghiệp duyên trên đây được tướng tốt dưới bàn chưn đầy bằng.
Nếu Đại Bồ Tát ở nơi cha mẹ, Hòa Thượng, Sư Trưởng nhẫn đến các loài súc sanh, đem của cải đúng pháp cúng dường cung cấp, do nghiệp duyên nầy được tướng tốt dưới lòng bàn chưn có tướng thiên bức luân.
Nếu Đại Bồ Tát chẳng sát sanh chẳng trộm cướp, đối với cha mẹ sư trưởng thường có lòng hoan hỷ, do nghiệp duyên nầy được thành ba tướng tốt: Một là ngón tay dài vót, hai là gót chân dài, ba là thân mình vuông thẳng, ba tướng tốt nầy đồng do một nghiệp duyên.
Nếu Đại Bồ Tát tu tập tứ nhiếp pháp để nhiếp thủ chúng sanh, do nghiệp duyên nầy được tướng tốt ngón tay có màng lưới như ngỗng chúa trắng.
Nếu Đại Bồ Tát lúc cha mẹ sư trưởng có bịnh khổ, tự tay tắm rửa lau chùi dắt đở thoa bóp, do nghiệp nầy được tướng tốt, tay chưn dịu dàng.
Nếu Đại Bồ Tát trì giới nghe pháp, cùng bố thí không nhàm chán, do nghiệp duyên nầy được tướng tốt mắt cá lóng đốt đều no đủ, lông trong thân đều xoắn lên trên.
Nếu Đại Bồ Tát chuyên tâm nghe pháp và diễn thuyết chánh pháp, do nghiệp duyên nầy được tướng tốt đùi vế như nai chúa.
Nếu Đại Bồ Tát đối với chúng sanh chẳng có lòng tổn hại, ăn uống biết đủ thường ưa bố thí khám bịnh, cung cấp thuốc men do nghiệp duyên nầy được tướng tốt, thân hình tròn đủ như cây Ni Câu Đà, lúc đứng hai tay dài quá đầu gối, đỉnh đầu có nhục kế vô kiến đảnh tướng.
Nếu Đại Bồ Tát thấy người gặp sự kinh sợ liền cứu hộ cho, thấy người lõa lồ rách rưới thời bố thí y phục do nghiệp duyên nầy được tướng tốt mã âm tàng.
Nếu Đại Bồ Tát gần gũi người trí xa lìa kẻ ngu, vui vẻ hỏi đáp quét dọn đường đi, do nghiệp nầy da thứa mịn màng, lông trên thân xoay về phía hữu.
Nếu Đại Bồ Tát thường dùng y phục đồ uống ăn đồ nằm thuốc men hương hoa đèn đuốc bố thí cho người, do nghiệp nầy đặng thân màu vàng ròng thường có ánh sáng chói rỡ.
Nếu Đại Bồ Tát lúc bố thí những vật báu quý có thể đem cho chẳng tiếc chẳng nghĩ là phước điền hay chẳng phải phước điền, do nghiệp duyên nầy được tướng tốt bảy chỗ trên thân được no đủ.
Nếu Đại Bồ Tát lúc bố thí lòng chẳng nghi ngờ, do nghiệp duyên nầy được tiếng nói dịu dàng.
Nếu Đại Bồ Tát đúng như pháp làm ra của cải đem bố thí, do nghiệp duyên nầy được tướng tốt nơi thân chỗ xương thiếu đều đầy đủ thân như sư tử vương, cánh tay thon dài.
Nếu Đại Bồ Tát xa lìa lưỡng thiệt ác khẩu và tâm giận hờn, do nghiệp duyên nầy đủ bốn mươi cái răng trong trắng sạch sẽ, bằng thẳng khít khao.
Nếu Đại Bồ Tát có lòng đại từ bi đối với chúng sanh do nghiệp duyên nầy được tướng hai răng nanh tốt.
Nếu Đại Bồ Tát thường phát nguyện: Có người đến cầu xin thời cấp cho theo ý của họ xin, do nghiệp duyên nầy được gò má như sư tử.
Nếu Đại Bồ Tát cung cấp đồ uống ăn theo sở thích của chúng sanh do nghiệp duyên nầy được tướng tốt trong cổ họng thường rịn chất cam lộ thượng vị.
Nếu Đại Bồ Tát tự thật hành mười điều lành cùng giáo hóa người, do nghiệp duyên nầy được tướng tốt lưỡi rộng dài.
Nếu Đại Bồ Tát chẳng rao nói lỗi xấu của người chẳng hủy báng chánh pháp, do nghiệp duyên nầy đặng tướng tốt tiếng phạm âm.
Nếu Đại Bồ Tát thấy kẻ thù nghịch thời sanh lóng hoan hỷ, do nhơn duyên nầy được tướng tốt, tròng mắt màu xanh biếc.
Nếu Đại Bồ Tát chẳng ẩn che tài đức của người mà phô dương điều hay của mình, do nghiệp duyên nầy được tướng tốt bạch hào.
Nầy Thiện nam tử! Nếu Đại Bồ Tát tu tập nghiệp duyên ba mươi hai tướng tốt như vậy thời được chẳng thối chuyển tâm Bồ Đề.
Nầy Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn. Cảnh giới và nghiệp quả của chư Phật và Phật tánh cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì bốn pháp nầy đều là thường, vì thường trụ nên chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả chúng sanh vì phiền não che đậy nên gọi là thường. Vì dứt phiền não thường nên gọi là vô thường. Nếu nói rằng tất cả chúng sanh là thường, cớ gì lại tu tập tám thánh đạo? Tu tập để dứt các sự khổ, các sự khổ nếu đã dứt thời gọi là vô thường, sự vui được hưởng thọ thời gọi là thường. Do đây nên ta nói tất cả chúng sanh bị phiền não che đậy mà chẳng thấy được Phật tánh, vì chẳng thấy nên chẳng được Niết Bàn.