1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

QUYỂN 9

VUA THIỆN SINH_PHẨM THỨ HAI MƯƠI MỐT_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì các Đại Chúng nói Vương Pháp Chính Luận xong. Lại bảo Đại Chúng: “Các Ngươi nên lắng nghe! Nay Ta vì ngươi nói nhân duyên phụng Pháp xưa kia”

Liền ở lúc đó, nói Già Tha (Gāthā: Kệ Tụng) là:

“Xưa Ta từng làm Chuyển Luân Vương

Bỏ Đại Địa này với biển lớn

Trân bảo đều tràn đầy bốn châu

Cầm đem cúng dường các Như Lai

_Ta ở vô lượng kiếp xưa kia

Vì cầu Pháp Thân chân thanh tịnh

Thảy đều buông bỏ vật yêu thích

Cho đến thân mạng, Tâm không tiếc

_Lại ở quá khứ kiếp khó lường

Có Chính Biến Tri tên Bảo Kế

Sau khi Như Lai ấy Niết Bàn

Có vua ra đời tên Thiện Sinh

Làm Chuyển Luân Vương coi bốn châu

Tận mé biển lớn đều quy phục

Đêm mộng nghe nói Phước Trí Phật

Thấy có Pháp Sư tên Bảo Tích

Ngồi tòa đoan nghiêm như mặt trời

Diễn nói Điển (kinh điển) Kim Quang vi diệu

_Lúc đó, vua ấy từ mộng tỉnh

Sinh đại hoan hỷ tràn khắp thân

Đến khi sáng sớm, rời cung vua

Đến chỗ của Bật Sô Tăng Già

Cung kính cúng dường chúng Thánh xong

Tức liền hỏi các Đại Chúng ấy

Xem có Pháp Sư tên Bảo Tích

Thành tựu Công Đức, dạy chúng sinh

_Bấy giờ Đại Pháp Sư Bảo Tích

Trụ nghỉ ở trong một cái Thất

Chính niệm, tụng nghĩ Điển (Kinh Điển) vi diệu

Thân ngay chẳng động, tâm vui sướng

_Thời có Bật Sô dẫn dắt vua

Đến nơi cư trú của Bảo Tích

Thân ngồi ngay ngắn trong cái Thất

Ánh sáng, diệu tướng tràn khắp thân

Thưa với vua: Đây là Bảo Tích

Trì Hành Xứ thâm sâu của Phật

Ấy là Kim Quang Minh vi diệu

Vua trong các Kinh, đứng bậc nhất

_Thời vua tức liền lễ Bảo Tích

Cung kính chắp tay, rồi đến Thỉnh

Nguyện xin Mãn Nguyệt Diện (Bậc có khôn mặt như trăng đầy) đoan nghiêm

Nói Pháp Kim Quang Minh vi diệu

_Pháp Sư Bảo Tích nhận lời thỉnh

Hứa vì vua nói Kim Quang Minh

Vòng khắp trong ba ngàn Thế Giới

Chư Thiên, Đại Chúng đều vui vẻ

_Vua ở nơi thanh tịnh rộng rãi

Châu báu kỳ diệu dùng nghiêm sức

Nước hương thượng diệu rưới thấm bụi

Treo lụa, phan, lọng để trang nghiêm

Mọi loại hương bột với hương xoa

Hơi thơm phưng phức đều vòng khắp

Trời, Rồng, Tu La, Khẩn Na La

Mạc Hô Lạc Già với Dược Xoa

Chư Thiên tuôn mưa hoa Mạn Đà

Đều đến cúng dường tòa cao ấy

Lại có ngàn vạn ức chư Thiên

Thích nghe Chính Pháp đều đến dự

Pháp Sư từ chỗ ngồi đứng dậy

Thảy đều đem hoa Trời cúng dường

_Lúc đó, Đại Pháp Sư Bảo Tích

Tắm gội sạch xong, mặc áo mới

Đến chỗ Pháp Tòa trong Đại Chúng

Chắng tay, thành Tâm mà lễ kính

Thiên Chủ, Thiên Chúng với Thiên Nữ

Cùng nhau rải tán hoa Mạn Đà

Trăm ngàn nhạc Trời khó nghĩ bàn

Trong hư không phát tiếng màu nhiệm

_Bấy giờ, Đại Pháp Sư Bảo Tích

Liền lên tòa cao, ngồi Kiết Già

Nghĩ các cõi nước mười phương ấy

Trăm ngàn vạn ức Đại Từ Tôn

Với khắp tất cả chúng sinh khổ

Đều khởi niệm Từ Bi bình đẳng

Vì chủ thỉnh Thiện Sinh ấy nên

Diễn nói Kim Quang Minh vi diệu

_Vua đã được nghe Pháp như vậy

Chắp tay, một lòng xướng tùy vui

Nghe Pháp hiếm có, lệ tuôn chảy

Thân tâm rất vui sung mãn khắp

_Lúc đó, Quốc Chủ thiện Sinh Vương

Vì muốn cúng dường Kinh này nên

Tay cầm báu Ma Ni Như Ý

Phát nguyện đều vì các chúng sinh

Nay có thể ở Thiệm Bộ Châu

Tuôn mưa bảy báu, chuỗi anh lạc

Mọi người thiếu thốn tiền của này

Đều được tùy Tâm, hưởng an vui

Tức liền tuôn khắp mưa bảy báu

Thảy đều tràn đầy trong bốn Châu

Anh Lạc nghiêm thân, tùy chỗ cần

Quấn áo, ăn uống đều không thiếu

_Khi ấy, Quốc Chủ Thiện Sinh Vương

Thấy bốn châu tuôn mưa bảy báu

Đều cầm cúng dường Bảo Kế Phật

Hết thảy Di Giáo, Bật Sô Tăng

_Nên biết vua Thiện Sinh quá khứ

Tức là Ta, Thích Ca Mâu Ni

Vì ở thời xưa bỏ Đại Địa

Với các châu báu đầy bốn châu

Đại Pháp Sư Bảo Tích khi xưa

Vì Thiện Sinh ấy nói Diệu Pháp

Nhân mở diễn Kinh Vương ấy nên

Hiện thành Bất Động Phật phương Đông

_Do Ta từng nghe Kinh Vương này

Chắp tay, một lời xưng tùy vui

Vói các Công Đức cúng bảy báu

Được thân Kim Cương tối thắng này

Sáng vàng, trăm tướng Phước trang nghiêm

Hết thảy người thấy đều vui vẻ

Tất cả hữu tình luôn yêu kính

Câu chi Thiên Chúng cũng như thế

_Quá khứ từng trải chín mươi chín

Câu chi ức kiếp làm Luân Vương

Cũng ở nước nhỏ làm Nhân Vương

Trải qua vô lượng trăm ngàn kiếp

Ở vô lượng kiếp làm Đế Thích

Cũng lại từng làm Đại Phạm Vương

Cúng dường Thập Lực Đại Từ Tôn

Số lượng ấy khó mà cùng tận

_Xưa, Ta nghe Kinh tùy vui Thiện

Hết thảy nhóm Phước, lượng khó nghĩ

Do Phước này nên chứng Bồ Đề

Đắc được Pháp Thân, Chân Diệu Trí”

Khi ấy, Đại Chúng nghe Thuyết này xong thì khen là “chưa từng có!” đều nguyện phụng trì Kinh Kim Quang Minh, lưu thông chẳng diệt.

CHƯ THIÊN DƯỢC XOA HỘ TRÌ_PHẨM THỨ HAI MƯƠI HAI_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại Cát Tường Thiên nữ (Śrī-mahā-devī) rằng: “Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện có niềm tin trong sạch, muốn đối với chư Phật quá khứ vị lai hiện tại, đem vật cúng dường vi diệu rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn để phụng hiến, với muốn hiểu rõ Hành Xứ thâm sâu của chư Phật ba đời thì người đó cần phải quyết định, chí Tâm tùy theo nơi có Kinh Vương này: thành ấp, thôn xóm hoặc trong núi, nhà… rộng vì chúng sinh diễn bày lưu bố, Người nghe Pháp ấy nên trừ loạn tưởng, nhiếp lỗ tai dụng Tâm”

Lúc đó, Đức Thế Tôn vị vị Trời ấy với các Đại Chúng, nói Già Tha (Kệ Tụng) là:

“Muốn đối với chư Phật

Cúng dường khó nghĩ bàn

Hiểu cảnh giới thâm sâu

Của các Đức Như Lai

Hoặc nhìn thấy diễn nói

Kim Quang Minh tối thắng

Đích thân đến phương ấy

Đến chỗ trụ xứ đó

Kinh này khó nghĩ bàn

Hay sinh các Công Đức

Vô biên biển khổ lớn

Giải thoát các hữu tình

_Ta quán Kinh Vương này

Đầu, giữa, cuối đều Thiện

Thâm sâu chẳng thể lường

Ví dụ không sánh nổi

Giả sử hẳng hà sa

Bụi đại địa, nước biển

Hư không, các đá núi

Không ví được chút phần

_Muốn vào Pháp Giới sâu

Trước nên nghe Kinh này

Chế Để (Caitye: tháp, miếu) của Pháp Tính (Dharmatā)

Thâm sâu khéo an trụ

_Ở trong Chế Để này

Thấy Ta, Mâu Ni Tôn

Tiếng màu nhiệm thích ý

Diễn nói Kinh Điển này

_Do đây, câu chi kiếp

Số lượng khó nghĩ bàn

Sinh trong cõi Người, Trời

Thường được vui Thắng Diệu

_Nếu người nghe Kinh này

Nên tác Tâm như vầy

Ta được Công Đức Uẩn

Vô biên khó nghĩ bàn

_Giả sử đám lửa lớn

Tràn trăm du thiện na

Vì nghe Kinh Vương này

Qua thẳng không hề khổ

_Đã đến trú xứ ấy

Được nghe Kinh như vậy

Hay diệt được nghiệp tội

Với trừ các mộng ác

_Sao ác (ác tinh) với biến quái

Nhóm Cổ Đạo, Tà Mỵ

Khi được nghe Kinh này

Các ác đều buông lìa

_Nên nghiêm thắng tòa cao

Tịnh diệu như hoa sen

Pháp Sư ở trên ấy

Giống như Rồng lớn (đại long) ngồi

Ở đây, an tọa xong

Nói Kinh thâm sâu này

Viết chép với tụng trì

Kèm vì người giải nghĩa

_Pháp Sư rời tòa này

Đi đến nơi chốn khác

Ở trong tòa cao này

Thần Thông chẳng một tướng

Hoặc thấy tượng Pháp Sư

Do ngay trên tòa cao

Có khi thấy Thế Tôn

Cùng với các Bồ Tát

Hoặc làm tượng Phổ Hiền (Samanta-bhadra)

Hoặc như Diệu Cát Tường (Maṃjuśrī)

Hoặc thấy Từ Thị Tôn (Maitreya)

Thân ở trên tòa cao

Hoặc thấy tướng lạ hiếm

Cùng với tượng chư Thiên

Tạm được thấy dung nghi

Đột nhiên lại chẳng hiện

Thành tựu các cát tường

Chỗ làm đều tùy ý

Công Đức đều viên mãn

Thế Tôn nói như vậy

Tối thắng có danh tiếng

Hay diệt các phiền não

Giặc nước khác đều trừ

Chiến đấu thường được thắng

Mộng ác đều không có

Với tiêu các độc hại

Tội ba nghiệp đã làm

Sức Kinh hay trừ diệt

Ở Thiệm Bộ Châu này

Danh tiếng đều tràn đầy

Hết thảy các oán kết

Thảy đều cùng buông lìa

Dầu có oán địch đến

Nghe tên liền lui tan

Chẳng mượn động binh đao

Hai bên sinh vui vẻ

_Phạm Vương (Brahma), Đế Thích Chủ (Indra)

Bốn Thiên Vương Hộ Thế (Loka-pāla)

Vô Nhiệt Trì Long Vương (Anavatapta-nāgarāja)

Cùng với Sa Yết La (Sāgara)

Nhạc Thần Khẩn Na La (Kiṃnarendra: Khẩn Na La Chủ)

Tô La (Surendra: Tu La Chủ), Kim Sí Chủ (Garuḍendra)

Đại Biện Tài Thiên Nữ (Sarasvatī-mahā-devī)

Với Đại Cát Tường Thiên (Śrī-mahā-devī)

Nhóm Trời Thượng Thủ (Pramukha) này

Đều thống lãnh Thiên Chúng

Thường cúng dường chư Phật

Pháp Bảo khó nghĩ bàn

Luôn sinh Tâm vui vẻ

Khởi cung kính Kinh này

_Các Thiên Chúng nhóm này

Thảy đều cùng suy nghĩ

Quán khắp người tu Phước

Cùng nói lời như vầy

“Nên quán hữu tình này

Đều là Phước Đức lớn

Sức căn lành tinh tiến

Sẽ sinh vào cõi Trời

Vì nghe Kinh thâm sâu (Sūtra-gambhīra)

Tâm kính, đến nơi này

Cúng dường Pháp Chế Để (Dharma-stūpa: Tháp thờ Pháp)

Tôn trọng Chính Pháp (Saddharma) nên

Thương xót các chúng sinh

Mà làm nhiêu ích lớn

Nơi Kinh thâm sâu này

Làm vật khí Pháp Bảo

_Người vào Pháp Môn này

Hay nhập vào Pháp Tính (Dharmatā)

Nơi Kim Quang Minh này

Chí Tâm nên nghe nhận

Người này từng cúng dường

Vô Lượng trăm ngàn Phật

Do các căn lành ấy

Được nghe Kinh Điển này

_Như vậy, các Thiên Chủ

Thiên Nữ Đại Biện Tài (Sarasvatī)

Kèm Cát Tường Thiên (Śrī-devī) ấy

Với chúng bốn Thiên Vương (Catur-mahādhipa)

Vô số chúng Dược Xoa (Yakṣa)

Dũng mãnh có Thần Thông

Đều ở bốn phương ấy

Thường đến cùng ủng hộ

_Trời Nhật (Āditya) Nguyệt (Candra), Đế Thích (Indra)

Phệ Suất Nộ (Viṣṇu), Đại Kiên (Khara-skandha)

Nhóm Diêm La (Yama), Biện Tài (Sarasvatī)

Tất cả các Hộ Thế (loka-pāla)

Dũng mãnh đủ Uy Thần

Ủng hộ người trì Kinh

Ngày đêm thường chẳng lìa

_Đại Lực Đại Dược Xoa (Mahā-yakṣa)

Na La Diên (Nārāyaṇa), Tự Tại (Īśvara)

Chính Liễu Tri (Saṃjñeya) cầm đầu

Hai mươi tám Dạ Xoa

Trăm ngàn Dược Xoa khác

Thần Thông có Đại Lực (Mahā-bala)

Luôn ở nơi đáng sợ

Thường đến giúp người này

_Kim Cương Dược Xoa Vương (Vajra-pāṇi-yakṣendra: Kim Cương Thủ Dược Xoa Vương)

Với năm trăm quyến thuộc

Các chúng Đại Bồ Tát

Thường đến giúp người này

_Bảo Vương Dược Xoa Vương (Maṇi-bhadra-yakṣendra: Bảo Hiền Dược Xoa Vương)

Cùng với Mãn Hiền Vương (Pūrṇa-bhadra)

Khoáng Dã (Aṭāvaka), Kim Tỳ La (Kumbhīra)

Tân Độ La Hoàng Sắc (Piṅgala)

Nhóm Dược Xoa Vương này

Cùng năm trăm quyến thuộc

Thấy người nghe Kinh này

Đều đến cùng ủng hộ

_Thải Quân (Citra-sena) Kiền Thát Bà (Gandharva)

Vi Vương (Jinarāja), Thường Chiến Thắng (Jinarṣabha)

Châu Cảnh (Maṇi-kaṇṭha) với Thanh Cảnh (Nīla-kaṇṭha)

Kèm Bột Lý Sa Vương (Varṣādhipati)

Đại Tối Thắng (Mahāgrāsa), Đại Hắc (Mahā-kāla)

Tô Bạt Noa Kê Xá (Suvarṇa-keśī)

Bán Chi Ca (Pāñcika), Dương Túc (Chagala-pāda)

Cùng với Đại Bà Già (Mahā-bhāga)

Tiểu Cừ (Praṇālī) kèm Hộ Pháp (Mahā-pāla: Đại Hộ)

Cùng với Mi Hầu Vương (Markaṭa)

Châm Mao (Sūciroma) với Nhật Chi (Sūrya-mitra)

Bảo Phát (Ratna-keśa) đều đến giúp

_Đại Cừ (Mahā-praṇālī) Nặc Câu La (Nakula)

Chiên Đàn (Candana), Dục Trung Thắng (Kāma-śreṣṭha)

Xá La (Nāgāyana) với Tuyết Sơn (Haimavata)

Cùng với Sa Đa Sơn (Sātāgiri)

Đều có Đại Thần Thông

Hùng mạnh đủ Đại Lực

Thấy người trì Kinh này

Đều đến cùng ủng hộ

_A Na Bà Đáp Ca (Anavatapta)

Cùng với Sa Yết La (Sāgara)

Mục Chân (Mucilinda), Y La Diệp (Elāpatra)

Nan Đà (Nanda), Tiểu Nan Đà (Upananda)

Ở trong trăm ngàn Rồng (Nāga)

Thần Thông đủ uy đức

Cùng giúp người trì Kinh

Ngày đêm thường chẳng lìa

_Bà Trĩ (Valī), La Hầu La (Rāhula)

Tỳ Ma Chất Đa La (Vemacitra)

Mẫu Chỉ (Muci), Thiêm Bạt La (Saṃvara)

Đại Kiên (Khara-skandha) với Hoan Hỷ (Prahrāda)

Với Tu La Vương (Asura-rāja) khác

Cùng vô số Thiên Chúng

Đại lực có dũng kiện

Đều đến giúp người này

_Ha Lợi Đế Mẫu Thần (Hārītī)

Năm trăm chúng Dược Xoa

Khi người ấy ngủ, tỉnh

Thường đến cùng ủng hộ

_Chiên Trà (Caṇḍa), Chiên Trà Lợi (Caṇḍalika)

Dược Xoa Chiên Trĩ Nữ (Yakṣiṇī-caṇḍikā)

Côn Đế (Dantī), Câu Trá Xỉ (Kūṭadantī)

Hấp Chúng Sinh Tinh Khí (Sarvasattva-ujahāriṇī)

Các Thần Chúng như vậy

Đại Lực có Thần Thông

Thường giúp người trì Kinh

Ngày đêm thường chẳng lìa

_Thượng Thủ Biện Tài Thiên

Vô lượng các Thiên Nữ

Cát Tường Thiên cầm đầu

Kèm các quyến thuộc khác

Đại Địa Thần Nữ (Pṛthivī devatā) này

Thần quả trái (Phala-śasyādhi-devatā), vườn rừng (ārāma-vṛkṣa-devatā)

Thần cây (Vṛkṣa-devatā), Thần sông nước (Vāsinyonadi-devatā)

Thần Chế Để (Caityāni-devatā), các Thần (Devatā)

Các Thiên Thần như vậy

Tâm sinh đại hoan hỷ

Đều đi đến ủng hộ

Người đọc tụng Kinh này

_Thấy người có trì Kinh

Tăng thọ mạng (Āyur), sắc (Varṇa: hình sắc), lực (Bala: sức khỏe)

Uy quang với Phước Đức

Diệu Tướng dùng trang nghiêm

_Tinh Tú (Graha-nakṣatra) hiện tai biến

Khốn ách phạm người này

Mộng thấy điềm xấu ác

Thảy đều khiến trừ diệt

_Đại Địa Thần Nữ (Pṛthivī-devatā) này

Bền chắc có Uy Thế

Do sức Kinh này nên

Pháp Vị thường sung túc

_Nếu đất tốt thấm xuống

Hơn trăm Du Thiện Na (Yojana)

Địa Thần khiến dâng lên

Tươi nhuận cho đất đai

Đất này sâu sáu mươi

Tám ức Du Thiện Na (68 ức Yojana)

Đến bờ mé Kim Cương

Khiến vị đất (vị của đất) dâng lên

_Do nghe Kinh Vương này

Được Đại Công Đức Uẩn

Hay khiến các Thiên Chúng

Đều nương lợi ích ấy

Lại khiến các Thiên Chúng

Uy lực có ánh sáng

Hoan hỷ thường an vui

Buông lìa tướng suy kém

_Ở trong Nam Châu (Jambu-dvīpa: Nam Thiệm Bộ Châu) này

Thần rừng, quả, lúa mạ (Phala-śasya-vana-devatā: Lâm Quả Miêu Giá Thần)

Do uy lực Kinh này

Tâm thường được vui vẻ

_Mầm quả đều thành tựu

Nơi nơi có hoa đẹp

Quả trái đều xum xuê

Tràn đầy ở đất đai

Hết thảy cây có quả

Cùng với mọi vườn, rừng

Đều sinh hoa màu nhiệm

Hơi hương thường thơm phức

_Mọi cỏ, các cây cối

Đều ló hoa vi diệu

Với sinh quả ngon ngọt

Tùy nơi đều tràn khắp

_Ở Thiệm Bộ Châu này

Vô lượng các Long Nữ (Nāga-kanya)

Tâm sinh rất vui vẻ

Đều cùng vào trong ao

Gieo trồng Bát Đầu Ma (Padma: hoa sen hồng)

Cùng với Phân Đà Lợi (Puṇḍarīka: hoa sen trắng)

Sen xanh (Utpala) với sen trắng (Puṇḍarīka)

Tràn đầy khắp trong ao

_Do uy lực Kinh này

Hư không luôn trong sáng

Đều trừ khiển mây mù

Ám tối đều sáng sủa

Mặt trời (Sūrya) phóng ánh sáng

Lửa Vô Cấu thanh tịnh

Do sức Kinh Vương này

Tỏa sáng khắp bốn phương

_Sức uy đức Kinh này

Trợ giúp cho Thiên Tử (Deva-putra)

Đều dùng vàng Thiệm Bộ (Jambūnada-suvarṇa)

Mà tạo làm cung điện

_Nhật Thiên Tử (Sūryendra-devaputra) mới hiện

Thấy Châu này vui vẻ

Thường dùng ánh sáng lớn

Đều chiếu sáng vòng khắp

_Ở trong Đại Địa này

Hết thảy ao hoa sen

Mặt trời chiếu đúng lúc

Không đâu chẳng nở hết

_Ở Thiệm Bộ Châu này

Ruộng nương, các quả, thuốc

Đều khiến khéo thành thục

Tràn đầy khắp đất đai

_Do uy lực Kinh này

Nơi Nhật (mặt trời) Nguyệt (mặt trăng) chiếu đến

Tinh Thần (các ngôi sao) chẳng mốt độ

Gió, mưa đều thuận thời

_Khắp Thiệm Bộ Châu này

Đất nước đều giàu, vui

Tùy chỗ có Kinh này

Thù thắng hơn phương khác

_Nếu nơi có lưu bày

Kinh Điển Kim Quang Minh

Có người hay giảng tụng

Đều được Phước như trên”

Khi ấy, Đại Cát Tường Thiên Nữ với các hàng Trời nghe điều Đức Phật đã nói, đều rất vui vẻ. Đối với Kinh này với người thọ trì đều một lòng ủng hộ, khiến cho không có lo lắng bực bội, thường được an vui.

THỌ KÝ_PHẨM THỨ HAI MƯƠI BA_

Bấy giờ, Đức Như Lai ở trong Đại Chúng rộng nói Pháp xong. Muốn vì Diệu Tràng Bồ Tát (Rucira-ketu) với hai người con Ngân Tràng (Rūpya-ketu), Ngân Quang (Rūpya-prabha) trao cho A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Ký.

Thời có mười ngàn vị Thiên Tử đều từ Tam Thập Tam Thiên (Trāyastriṃśat-deva) đến chỗ của Đức Phật, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, lui ra ngồi một bên, nghe Đức Phật nói Pháp

Khi ấy, Đức Phật bảo Diệu Tràng Bồ Tát rằng: “Ông ở đời sau, trải qua vô lượng vô số trăm ngàn ức na dữu đa kiếp xong, ở Thế Giới Kim Quang Minh (Suvarṇa-prabhāsa-loka-dhātu) sẽ thành A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Anuttarā samyakyaṃbodhi: Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác), hiệu là Kim Bảo Sơn Vương (Suvarṇa-ratnākāra-cchatra-kūṭa: Kim Bảo Tướng Cái Sơn) Như Lai (Tathāgata) Ứng (Arthat) Chính Biến Tri (Samyaksaṃbuddha) Minh Hạnh Túc (Vidyācaraṇasaṃpanna) Thiện Thệ (Sugata) Thế Gian Giải (Lokavid) Vô Thượng Sĩ (Anuttara) Điều Ngự Trượng Phu (Puruṣadamyasārathi) Thiên Nhân Sư (Śāstā deva-manuṣyāṇāṃ) Phật Thế Tôn (Buddho bhagavan) hiện ra ở đời. Sau khi Đức Như Lai này Bát Niết Bàn (Parinirvāṇa: nhập vào Niết Bàn) thì hết thảy Giáo Pháp cũng đều diệt hết.

Thời người con trưởng tên là Ngân Tràng (Rūpya-ketu) liền ở Thế Giới này, tiếp tục Bổ Phật Xứ (bù vào chỗ của Phật), Thế Giới lúc đó chuyển thành tên Tịnh Tràng (Viraja-dhvaja), sẽ được thành Phật tên là Kim Tràng Quang (Suvarṇa-dhvaja-kāñcanāvabhāsa: Kim Tràng Chân Kim Quang Minh) Như Lai, Ứng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Sau khi Đức Như Lai này Bát Niết Bàn (Parinirvāṇa: nhập vào Niết Bàn) thì hết thảy Giáo Pháp cũng đều diệt hết.

Người con thứ Ngân Quang (Rūpya-prabha) liền bù vào chỗ của Phật (bổ Phật xứ), lại ở cõi này sẽ được thành Phật hiệu là Kim Quang Minh (Suvarṇa-śata-raśmi-prabhāsa-garbha: Kim Thiên Quang Minh Tạng) Như Lai, Ứng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Lúc đó, mười ngàn vị Thiên Tử nghe ba vị Đại Sĩ được Thọ Ký (Vyākaraṇa) xong, lại nghe Tối Thắng Vương Kinh như vậy thì Tâm sinh vui vẻ, thanh tịnh không dơ bẩn giống như hư Không.

Bấy giờ, Đức Như Lai biết căn lành của mười ngàn vị Thiên Tử này đã thành thục, tức liền trao cho Đại Bồ Đề Ký (Mahā-bodhi-vyākaraṇa): “Thiên Tử các ông ở đời đương lai, trải qua vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức na dữu đa kiếp, ở Thế Giới Tối Thắng Nhân Đà La Tràng (Śālendra-dhvajāgra: Sa La Đế Tràng Tối Thắng) được thành A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, đồng một Chủng Tính, Lại đồng một tên gọi, hiệu là Diện Mục Thanh Tịnh Ưu Bát La Hương Sơn (Prasanna-vadanotpala-gandha-kūṭa: Thanh Tịnh Diện Mục Ưu Bát La Hương Sơn) đầy đủ mười hiệu. Như vậy theo thứ tự mười ngàn chư Phật hiện ra ở đời .

Khi ấy, Bồ Đề Thụ Thần (Bodhi-druma: Nữ Thần thủ hộ cây Bồ Đề) bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Mười ngàn vị Thiên Tử Này từ Tam Thập Tam Thiên, vì nghe Pháp cho nên đi đến chỗ của Đức Phật. Vì sao Đức Thế Tôn liền cho Thọ Ký sẽ được thành Phật?

Thế Tôn! Con chưa từng nghe các Thiên Tử này tu tập đầy đủ sáu Ba La Mật (Saṭ-pāramitā), Khổ Hạnh khó hành, buông xả: tay, chân. Đầu, mắt, tủy, não, quyến thuộc, vợ con, voi, ngựa, xe cộ, nô tỳ, đầy tớ, cung điện, vườn, rừng, vàng, bạc, Lưu Ly, Xa Cừ, Mã Não, San Hô, Hổ Phách, Ngọc bích, Kha Bối, thức ăn uống, quần áo, giường nằm, thuốc men… như vô lượng trăm ngàn Bồ Tát khác đem các vật cúng cúng dường vô số trăm ngàn vạn ức na dữu đa Phật quá khứ. Bồ Tát như vậy đều trải qua vô lượng vô biên kiếp số, sau đó mới được nhận Bồ Đề Ký (Bodhi-vyākaraṇa)

Thế Tôn! Các Thiên Tử này do nhân duyên nào? Tu Thắng Hạnh nào? Gieo trồng căn lành nào? Mà từ cõi Trời kia đi đến, tạm thời nghe Pháp liền được Thọ Ký? Nguyện xin Đức Thế Tôn vì con giải nói để đoạn trừ lưới nghi ngờ”

Đức Phật bảo Thụ Thần Thiên Nữ Thiên: “Như ngươi đã nói, đều từ nhân duyên căn lành màu nhiệm thù thắng, siêng năng cực khổ tu xong thì mới được Thọ Ký. Các vị Thiên Tử này ở cung Trời màu nhiệm, buông bỏ niềm vui năm Dục cho nên đến nghe Kinh Kim Quang Minh này. Đã nghe Pháp xong thì trong Tâm sinh ân trọng như Lưu Ly trong sạch, không có các vết dơ, lại được nghe việc Thọ Ký của ba Đại Bồ Tát… Cũng do nhân duyên ở quá khứ tu lâu dài Chính Hạnh, Thệ Nguyện… thế nên nay Ta đều cho Thọ Ký, ở đời vị lai sẽ thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”

Khi vị Thần cây ấy nghe Đức Phật nói xong thời vui vẻ, tin nhận.

TRỪ BỆNH_PHẨM THỨ HAI MƯƠI BỐN_

Đức Phật bảo Bồ Đề Thụ Thần Thiện Nữ Thiên: “Hãy nghe cho kỹ! Hãy nghe cho kỹ! Hãy khéo nghĩ nhớ! Bản Nguyện, Nhân Duyên của mười ngàn vị Thiên Tử này. Nay Ta vì ngươi nói.

Này Thiện Nữ Thiên (Kula-devatī: Thiện Nữ Thần)! Vô lượng chẳng thể nghĩ bàn a tăng xí gia kiếp ở quá khứ, lúc đó có Đức Phật hiện ra ở đời, tên là Bảo Kế (Ratna-śikhī) Như Lai, Ứng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Thiện Nữ Thiên! Sau khi Đức Thế Tôn ấy Bát Niết Bàn (nhập vào Niết Bàn), Chính Pháp (Saddharma) diệt xong. ở trong Tượng Pháp (Saddharma-pratirūpaka) có vị vua tên là Thiên Tự Tại Quang (Sureśvara-prabha) thường dùng Chính Pháp cảm hóa người dân, giống như cha mẹ. Trong vương quốc này có một vị Trưởng Giả (Śreṣṭhī) tên là Trì Thủy (Jaṭiṃdhara) khéo hiểu Y Minh (Cikitsā-vidyā: Y học), thông thạo tám thuật. Chúng sinh bị bệnh khổ, bốn Đại chẳng điều hòa… đều hay cứu chữa được.

Này Thiện Nữ Thiên! Khi ấy, Trưởng Giả Trì Thủy có một người con duy nhất tên là Lưu Thủy (Jalavāhana) có dung mạo đoan chính khiến người ưa thích nhìn, bẩm tính thông minh, khéo bàn các Luận, viết vẽ, toán số không có gì chẳng thông đạt. Lúc đó, bên trong vương quốc có vô lượng trăm ngàn các loài chúng sinh, đều bị bệnh dịch, mọi khổ ép bức cho đến không có Tâm vui mừng thích thú.

Thiện Nữ Thiên! Bấy giờ Trưởng Giả Tử (Śreṣṭhī-putra)Lưu Thủy thấy vô lượng trăm ngàn chúng sinh này chịu các bệnh khổ, nên khởi Tâm Đại Bi tác niệm như vầy: “Cha ta là vị Trưởng Giả (Śreṣṭhī) tuy giỏi dùng Y Phương (Cikitsaka: phương cách dùng thuốc), thông thạo tám Thuật, hay chữa mọi bệnh, bốn Đại tăng giảm. Nhưng đã già nua suy yếu, cần phải chống gậy mới có thể bước đi được, nên chẳng thể đi đến thành ấp, thôn xóm cứu các bệnh khổ. Nay có vô lượng chúng sinh đều bị bệnh nặng không ai có thể cứu giúp. Nay ta nên đến chỗ của Đại Y Phụ hỏi Bí Pháp của Y Phương để trị bệnh. Nếu hiểu được xong, sẽ đi đến chỗ của thành ấp, thôn xóm cứu các chúng sinh bị mọi loại bệnh tật, khiến cho ở đêm dài nhận được sự an vui”

Khi Trưởng Giả Tử tác niệm này xong, liền đến chỗ của cha, cúi đầu lễ bàn chân của cha, chắp tay cung kính, lui ra đứng ở một bên, liền dùng Già Tha (Kệ Tụng) thỉnh cha của mình rằng:

“Xin cha hiền (từ phụ) thương xót

Con muốn cứu chúng sinh

Nay thỉnh các Y Phương

Nguyện mong vì con nói

_Vì sao thân suy hoại

Các Đại có tăng giảm?

Lại ở trong thời nào

Hay sinh các bệnh tật?

_Ăn uống như thế nào

Được thọ nhận an vui?

Hay khiến bên trong thân

Hỏa Nhiệt (sức nóng của Hỏa Đại) chẳng suy tổn?

_Chúng sinh có bốn bệnh

Phong (Vātika: bệnh trúng gió), Hoàng (Paittika: bệnh thương hàn, bệnh vàng da), Nhiệt (Jvara: bệnh nóng sốt), Đàm Ẩm (Śleṣmikā: bệnh đàm rãi)

Cùng với bệnh tổng tập (Sāṃnipatika)

Làm sao chữa trị được?

_Lúc nào Phong Bệnh khởi?

Lúc nào phát Nhiệt Bệnh?

Lúc nào động Đàm Ẩm?

Lúc nào Tổng Tập sinh?”

Khi vị Trưởng Giả ấy nghe con mình thỉnh xong, lại dùng Già Tha đáp là:

“Nay Ta y Tiên xưa (cổ Tiên)

Hết thảy Pháp chữa bệnh

Thứ tự vì con nói

Khéo nghe, cứu chúng sinh

_Ba tháng là mùa Xuân (Vasanta)

Ba tháng gọi là Hạ (Grīṣma)

Ba tháng tên mùa Thu (Śarat)

Ba tháng là mùa Đông (Hemanta)

_Đây dựa trong một năm

Nói riêng theo ba tháng

Hai tháng là một Tiết

Thành sáu Tiết trong năm

_Giêng, hai là Hoa Thời (thời tiết nở hoa)

Ba, tư tên Nhiệt Tế (thời tiết nóng nực)

Năm, sáu tên Vũ Tế (thời tiết tuôn mưa)

Bảy, tám là Thu Thời (tiết Thu)

Chín, mười là hàn Thời (thời tiết lạnh)

Hai tháng cuối (tháng 11, tháng 12) Băng Tuyết (thời tiết có tuyết rơi)

Đã biết riêng như vậy

Cho thuốc đừng sai lầm

_Nên tùy trong thời này

Điều hòa cách ăn uống

Vào bụng khiến tiêu tan

Mọi bệnh tức chẳng sinh

_Nếu tiết khí biến đổi

Bốn Đại có biến hóa

Thời này không có thuốc

Ắt sinh các bệnh khổ

_Thầy thuốc (y nhân) hiểu bốn mùa

Lại biết sáu Tiết ấy

Biết bảy Giới của thân

Khiến uống thuốc không sai

_Là: Vị Giới, máu, thịt

Mỡ, xương với tủy, não

Khi bệnh vào trong đây

Biết chữa trị được không

_Bệnh có bốn loại riêng

Là: Phong, Nhiệt, Đàm Ấm

Cùng với Bệnh Tổng Tập

Nên biết khi phát động

_Mùa Xuân: Đàm Ẩm động

Mùa Hạ: Phong Bệnh sinh

Mùa Thu: Hoàng Nhiệt tăng

Đông: cả ba cùng khởi

_Xuân: ăn chát, nóng, cay

Hạ: béo, nóng, mặn, dấm

Mùa Thu: lạnh, ngọt, béo

Đông: chua, chát, béo, ngọt

_Ở trong bốn mùa này

Uống thuốc với ăn uống

Nếu y như vị này

Bệnh không do đâu sinh

_Sau ăn, bệnh do Ẩm (Thủy Đại tăng trưởng)

Ăn tiêu, thời do Nhiệt

Sau tiêu, khởi do Phong

Theo thời nên biết bệnh

_Đã biết nguồn bệnh xong

Tùy bệnh mà làm thuốc

Nếu như dạng bệnh khác

Trước nên chữa gốc bệnh

_Phong bệnh: uống dầu béo

Nhiệt cần tiêu tiểu tốt

Ẩm bệnh ứng biến nôn

Tổng Tập cần ba thuốc

_Phong, Nhiệt, Ẩm cùng có

Đây gọi là Tổng Tập

Tuy biết bệnh khởi thời

Nên quán Bản Tính ấy

Như vậy quán biết xong

Thuận thời mà cho thuốc

Ăn uống, thuốc không sai

Đây là bậc Thiện Y (thầy thuốc giỏi)

_Lại nên biết tám Thuật

Nhiếp chung các Y Phương

Ở đây nếu biết rõ

Chữa được bệnh chúng sinh

Là Châm, lể (châm thứ), Giải Phẩu (thương phá)

Bệnh thân với Quỷ Thần (? Khoa thần kinh)

Độc ác (?khoa dược) với trẻ thơ (hài đồng, tức khoa nhi)

Sống lâu (diên niên) tăng khí lực (? Khoa dưỡng sinh)

_Trước quán hình sắc ấy

Nói năng với Tính Hạnh

Sau đó hỏi giấc mộng

Ắt biết Phong, Nhiệt, Ẩm

_Khô gầy, đầu ít tóc

Tâm ấy không trụ Định

Nói nhiều, mộng hay bay

Người này là Tính Phong

_Thiếu niên sinh tóc trắng

Nhiều mồ hôi, hay giận

Thông minh, mộng thấy lửa

Người này là Tính nhiệt

_Tâm định, thân gọn gàng

Đầu có chất gầu nhờn

Mộng thấy nước, vật trắng

Nên biết là Tính Ẩm

_Tính Tổng Tập đều có

Hoặc hai, hoặc đủ ba

Tùy có một thứ tăng

Nên biết là Tính ấy

_Đã biết Bản Tính xong

Chuẩn bệnh mà cho thuốc

Nghiệm không có tướng chết

Mới biết có thể cứu

_Căn (giác quan) đảo lộn, chọn cảnh

Khinh khi, chê thầy thuốc

Giận dữ với bạn thân

Nên biết là tướng chết

_Mắt trái biến màu trắng

Lưỡi đen, sống mũi lệch

Vành tai khác lúc trước

Môi dưới xệ xuống dưới

Một loại Ha Lê Lặc (Haritaki)

Có đầy đủ sáu vị

Hay trừ tất cả bệnh

Không kỵ, vua trong thuốc

_Lại ba quả (3 loại quả trái) ba cay (ba loại có vị cay)

Trong các thuốc đễ được

Dường cát, mật, bơ, sữa

Đây hay chữa mọi bệnh

Còn các Dược Vật khác

Tùy bệnh có thể thêm

Trước, khởi Tâm Từ Mẫn

Đừng quy về tài lợi

_Ta đã vì con nói

Việc cần trong chữa bệnh

Dùng đây cứu chúng sinh

Sẽ được quả vô biên”

Này Thiện Nữ Thiên! Khi ấy, Trưởng Giả Tử Lưu Thủy đích thân hỏi cha của mình về điều thiết yếu trong tám Thuật, bốn Đại tăng giảm, thời tiết chẳng đồng, Pháp của hai Dược Phương. Đã khéo hiểu rõ, tự nghĩ có thể cứu chữa được mọi bệnh, tức liền đến khắp nơi ở thành ấp, thôn xóm, tùy theo chúng sinh có trăm ngàn vạn ức bệnh khổ, đều đến nơi ấy, khéo nói an ủi, nói lời như vầy: “Tôi là thầy thuốc, khéo biết phương dược. Nay vì các người, chữa trị mọi bệnh, đều khiến trừ khỏi”

Thiện Nữ Thiên! Khi mọi người nghe Trưởng Giả Tử khéo nói an ủi, hứa vì mình trị bệnh thời có vô lượng trăm ngàn chúng sinh bị bệnh cực nặng, nghe lời nói này xong, thân tâm hớn hở, được điều chưa từng có. Do nhân duyên này, hết thảy bệnh khổ đều được trừ hết, khí lực sung mãn, bình phục như cũ.

Thiện Nữ Thiên! Bấy giờ lại có vô lượng trăm ngàn chúng sinh bị bệnh khổ sâu nặng khó chữa trị được, liền cùng nhau đi đến chỗ của Trưởng Giả Tử , thỉnh cầu dùng thuốc chữa trị. Thời Trưởng Giả Tử liền dùng Diệu Dược khiến đều trừ khỏi.

Thiện Nữ Thiên! Trưởng Giả Tử đó ở trong nước này trị trăm ngàn vạn ức chúng sinh bị bệnh khổ, đều được trừ khỏi”

TRƯỞNG GIẢ TỬ LƯU THỦY_PHẨM THỨ HAI MƯƠI LĂM_

Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ Đề Thụ Thần: “Này Thiện Nữ Thiên! Trưởng Giả Tử Lưu Thủy (Jalavāhana) lúc đó, ở thời xa xưa bên trong nước của vua Thiên Tự Tại Quang (Sureśvaraprabha) chữa trị hết thảy bệnh khổ của các chúng sinh khiến được bình phục, thọ nhận niềm vui an ổn. Khi chúng sinh đã trừ được bệnh thì tu nhiều Phước Nghiệp, rộng hành Huệ Thí để tự vui vẻ. Liền cùng nhau đi đến chỗ của Trưởng Giả Tử, đều sinh tôn kính, nói lời như vầy: “Lành thay! Lành thay! Đại Trưởng Giả Tử khéo hay tăng trưởng việc Phước Đức, tăng ích cho chúng tôi được thọ mạng an ổn. Nay ngài thật là bậc Đại Lực Y Vương, Bồ Tát Từ Bi, thông thạo thuốc men, khéo chữa trị vô lượng bệnh khổ của chúng sinh”. Như vậy khen ngợi vòng khắp thành ấp

Thiện Nữ Thiên! Vợ (Dāra) của Trưởng Giả Tử đó tên là Thủy Kiên Tạng (Jalāmbuja-garbha), có hai người con: thứ nhất tên là Thủy Mãn (Jalāmbara), thứ hai tên là Thủy Tạng (Jala-garbha). Lúc đó, Lưu Thủy đem hai người con lần lượt du hành khắp thành ấp, thôn xóm, đi qua nơi sâu hiểm trong cái đầm trống (Aṭavī) thì thấy các cầm thú, chó sói, chồn cáo, kên kên thuộc loài ăn máu thịt… thảy đều bay chạy về một hướng. Thời Trưởng Giả Tử tác niệm như vầy: “Do nhân duyên gì mà các cầm thú bay chạy về một hướng? Ta sẽ tùy liệu sau, tạm thời đến xem xét đã”. Từc liền tùy đi, thấy có cái ao (Puṣkariṇī) lớn tên là Dã Sinh (Saṃbhava), nước ao sắp cạn, ở trong ao này có nhiều loại cá. Lưu Thủ thấy xong, sinh Tâm Đại Bi

Lúc đó, có vị Thần Cây (Thụ Thần) hiện bày nửa thân, nói lời như vầy: “Lành thay! Lành thay Thiện Nam Tử! Ông có nghĩa chân thật gọi là Lưu Thủy (Jalavāhana), có thể thương nhóm cá này, nên cho chúng nước. Có hai nhân duyên tên là Lưu Thủy, một là hay làm cho nước tuôn chảy, hai là hay ban cho nước. Nay ông cần phải tùy theo tên gọi mà làm”

Lúc đó, Lưu Thủy hỏi vị Thần cây rằng: “Số cá này có bao nhiêu con?”

Vị Thần cây đáp: “Đủ số là mười ngàn”

Này Thiện Nữ Thiên! Khi Trưởng Giả Tử nghe số này xong thời tăng Tâm thương lo gấp bội. Lúc đó, cái ao lớn này bị phơi dưới nắng mặt trời, nước còn lại không có bao nhiêu, mười ngàn con cá này sắp vào cửa chết, toàn thân uyển chuyển, thấy Tâm của vị Trưởng Giả này nên có chỗ hy vọng, bơi theo ngắm nhìn chẳng chớp mắt.

Khi Trưởng Giả Tử thấy việc này xong, chạy khắp bốn phương, muốn tìm kiếm nước nhưng chẳng thể được. Lại từ xa ngó về một bên, thấy có cái cây lớn, tức liền leo lên bẻ lấy cành lá làm bóng mát che chắn. Rồi lại suy nghĩ tìm xem nước trong ao đến từ chỗ nào. Tìm kiếm chẳng xong thì thấy con sông lớn (Mahānadī) tên là Thủy Sinh (Jalāgamā), bên con sông này có các ngư phủ vì bắt cá cho nên ở chỗ nguy hiểm tại thượng lưu của con sông, khoi bỏ dòng nước chẳng cho chảy xuống phía dưới. Ở chỗ đã khoi tháo, khó thể tu bổ, liền tác niệm này: “Vách núi này có sông sâu núi cao, dầu cho trăm ngàn người trải qua ba tháng cũng chẳng thể chặt bỏ được, huống chi là một thân của ta mà kham nhận nổi”

Thời Trưởng Giả Tử mau chóng quay về cái thành của mình, đến chỗ của vị Đại Vương, cúi đầu mặt lễ bàn chân của đức vua, rồi lui ra đứng một bên, chắp tay cung kính nói lời như vầy: “Tôi vì người dân trong đất nước của Đại Vương, trị mọi loại bệnh đều khiến cho an ổn, dần theo thứ tự du hành đến cái đầm trống (Aṭavī) ấy, thấy có một cái ao (Puṣkariṇī) tên là Dã Sinh (Saṃbhava), nước nơi ấy sắp cạn, có mười ngàn con cá bị phươi dưới nắng mặt trời, chẳng lâu sẽ chết. Nguyện xin Đại Vương Từ Bi thương xót, ban cho 20 con voi lớn tạm mang nước đến, cứu mạng của đám cá kia, như tôi đem lại thọ mạng cho các người bệnh”

Bấy giờ, Đại Vương liền sai vị Đại Thần mau ban voi lớn cho vị Y Vương này. Thời vị Đại Thần phụng Sắc của vua xong, bạch với Trưởng Giả Tử rằng: “Lành thay Đại Sĩ! Hôm nay, Ngài có thể tự đến chuồng voi, chọn lấy 20 con voi lớn, lợi ích cho chúng sinh khiến được an vui”

Khi ấy, Lưu Thủy với hai người con đem 20 con voi lớn, lại mượn nhiều cái túi da tại nhà bán rượu, đi đến nơi khoi tháo nguồn nước, dùng cái túi chứa đầy nước nhờ voi phụ đưa đến cái ao, dốc nước vào trong ao thì nước liền đầy tràn, hoàn phục như cũ.

Này Thiện Nữ Thiên! Lúc Trưởng Giả Tử ở bốn bên cái ao, đi vòng quanh để nhìn thì đám cá kia cũng lại men theo bờ ao mà đi. Thời Trưởng Giả Tử lại tác niệm này: “Vì sao đám cá này tùy theo ta mà đi? Ắt là bị lửa đói ép bức, lại muốn theo ta cầu xin thức ăn. Nay ta sẽ cho”

Bấy giờ, Trưởng Giả Tử Lưu Thủy bảo người con ấy rằng: “Con chọn một con voi mạnh nhất, mau đến nhà, thưa trình với cha của ta: trong nhà hết thảy vật gì có thể ăn được, cho đến phần ăn của cha mẹ cùng với phần của vợ con, nô tỳ… thảy đều thu lấy, đem đến cái ao”

Khi ấy, hai người con nhận sự dạy bảo của cha, cỡi con voi lớn nhất, mau đi đến nhà, đến chỗ của ông nội, nói việc như trên, thu lấy vật trong nhà có thể ăn được, để lên trên con voi, mau chóng quay về chỗ của cha, đến bên bờ ao ấy.

Lúc đó, Lưu Thủy thấy con mình đến thì thân tâm mừng vui, liền lấy bánh, thức ăn rải khắp trong ao. Đám cá được ăn xong, thảy đều no đủ.

(Lưu Thủy) liền tác niệm này: “Nay ta bố thí thức ăn khiến cho đám cá giữ được mạng sống. Nguyện ở đời sau sẽ bố thí thức ăn Pháp (Pháp thực) cứu giúp vô biên”

Lại suy nghĩ rằng: “Trước kia, ta từng ở rừng Không Nhàn (Araṇya) thấy một vị Bật Sô (Tỳ Kheo) đọc Kinh Đại Thừa (Mahā-yāna), nói Pháp yếu thâm sâu cùa 12 Duyên Sinh. Lại trong Kinh nói: Nếu có chúng sinh lúc lâm chung, được nghe tên của Đức Bảo Kế Như Lai liền sinh lên Trời. Nay Ta sẽ vì mười ngàn con cá này, diễn nói 12 Duyên Khởi thâm sâu, cũng sẽ xưng nói tên của Bảo Kế Phật. Nhưng Thiệm Bộ Châu có hai loại người, một là tin Đại Thừa sâu xa, hai là chê bai chẳng tin, cũng nên vì nhóm ấy tăng trưởng Tâm tin tưởng”

Thời Trưởng Giả Tử tác niệm như vầy: “Ta vào trong cái ao, vì đám cá nói Pháp sâu xa màu nhiệm”.

Tác niệm này xong, liền đi xuống nước, xứng lên rằng:

“Nam mô Quá Khứ Bảo Kế Như Lai, Ứng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Xưa kia, khi Đức Phật này tu Bồ Tát Hạnh có tác thệ nguyện này: “Hết thảy chúng sinh ở mười phương, khi lâm chung mà được nghe tên của Ta thì sau khi chết, được sinh vào cõi Tam Thập Tam Thiên”

Bấy giờ, Lưu Thủy lại vì cá trong ao, diễn nói Pháp màu nhiệm thâm sâu như vầy: “Cái này có cho nên cái kia có, cái này sinh cho nên cái kia sinh”. Ấy là Vô Minh (Avidyā) duyên với Hành (Saṃskāra), Hành duyên với Thức (Vijñāna), Thức duyên với Danh Sắc (Nāma-rūpa), Danh sắc duyên với sáu Xứ (Ṣaḍ-āyatana), sáu Xứ duyên với Xúc (Sparśa), xúc duyên với Thọ (Vedanā), Thọ duyên với Ái (Tṛṣṇā), Ái duyên với Thủ (Upādāna), Thủ duyên với Hữu (bhava), Hữu duyên với Sinh (Jāti), Sinh duyên với Lão Tử (Jarā-maraṇa) dấy lên lo buồn, khổ não.

“Cái này diệt cho nên cái kia diệt”. Ấy là: Vô Minh diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh Sắc diệt, Danh Sắc diệt thì Lục Nhập diệt, Lục Nhập diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt thì Thọ diệt, Thọ diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thì Sinh diệt, Sinh diệt thì Lão Tử diệt, Lão Tử diệt thì lo buồn khổ não diệt. Như vậy Uẩn thuần cực khổ thảy đều trừ diệt”

Nói Pháp này xong, lại vì đám cá tuyên nói Thập Nhị Duyên Khởi Tương Ứng Đà La Ni là:

“Đát điệt tha: tỳ chiết nễ, tỳ chiết nễ, tỳ chiết nễ, tăng tắc chỉ nễ, tăng tắc chỉ nễ, tăng tắc chỉ nễ, tỳ nhĩ nễ, tỳ nhĩ nễ, tỳ nhĩ nễ, toa ha

TADYATHĀ: VIJANI VIJANI_ SAṂ-SECANI SAṂSECANI SAṂ-SECANI_ VINNINDI VININDI VININDI SVĀHĀ

Đát điệt tha: na nhĩ nễ, na nhĩ nễ, na nhĩ nễ, sát trĩ nễ, sát trĩ nễ, sát trĩ nễ, táp bát lý thiết nễ, táp bát lý thiết nễ, táp bát lý thiết nễ, toa ha

TADYATHĀ: NADĪNE NADĪNE NADĪNE_ SĀTINE SĀTINE_ SAPARISANE SAPARISANE SAPARISANE SVĀHĀ

Đát điệt tha: tiết đạt nễ, tiết đạt nễ, tiết đạt nễ, trất lý sắt nễ nễ, trất lý sắt nễ nễ, trất lý sắt nễ nễ, ổ ba địa nễ, ổ ba địa nễ, ổ ba địa nễ, toa ha

TADYATHĀ: VEDANE VEDANE VEDANE_ TṚṢṆANE TṚṢṆANE TṚṢṆANE_ UPĀDANE UPĀDANE UPĀDANE SVĀHĀ

Đát điệt tha: bà tỳ nễ, bà tỳ nễ, bà tỳ nễ, xà để nễ, xà để nễ, xà để nễ, xà ma nễ nễ, xà ma nễ nễ, xà ma nễ nễ, toa ha

TADYATHĀ: BHĀVINE BHĀVINE BHĀVINE_ JAṬINE JAṬINE JAṬINE_ JANMADINE JANMADINE JANMADINE SVĀHĀ

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì các Đại Chúng nói duyên xưa kia của Trưởng Giả Tử, thì các chúng Người, Trời khen chưa từng có.

Thời bốn vị Đại Thiên Vương đều ở nơi ấy, khác miệng đồng âm nói như vầy:

“Lành thay! Thích Ca Tôn

Nói Diệu Pháp Minh Chú

Sinh Phước trừ mọi ác

Mười hai Chi tương ứng

Chúng con cũng nói Chú

Ủng hộ Pháp như vậy

Nếu người sinh trái nghịch

Chẳng khéo tùy thuận theo

Đầu bị vỡ bảy phần

Giống như ngọn Lan Hương

Chúng con ở trước Phật

Cùng nói Chú ấy là:

“Đát điệt tha: hứ lý, mê, yết thê, kiện đà lý, chiên trà lý, địa lệ, tao phạt lệ, thạch hứ phạt lệ, bổ la bố lệ, củ củ mạt để, khi la mạt để, đạt địa mục khế, cũ lỗ bà, mẫu lỗ bà, cụ trà mẫu lỗ kiện đề, đỗ lỗ đỗ lỗ, tỳ lệ, y nê tất tất nê, đạp côn đạt đạp côn, ổ tất đát lý, ổ suất trá la, phạt để, át lạt sa phạt để, bát đỗ ma phạt để, câu tô ma phạt để, toa ha”

TADYATHĀ: HIRI ME GATE_ GANDHARI CAṆḌARI DHIRI_ SAUBHARI GUHE-VĀRE, PURA PURE, KUKKU-MATI, KHILA-MATI, DADHI-MUKHE,

KURUBHA MURUBHA, KUṬA MURU GANDHE, DURU DHURU, VĪRE EDHI-SINE, DHAVE DADHAVE, UṢṬRĪ UṢṬRA VATI, ARTHA-VATI, PADMA-VATI, KUSUMA-VATI SVĀHĀ

Đức Phật bảo Thiện Nữ Thiên: “Bấy giờ, Trưởng Giả Tử Lưu Thủy với hai người con vì đám cá trong ao kia, cho nước cho thức ăn kèm nói Pháp xong thì cùng nhau quay về nhà. Trưởng Giả Tử Lưu Thủy này lại ở lúc sau, nhân có tụ hội nên tấu mọi kỹ nhạc, say rượu rồi nằm. Thời mười ngàn con cá đồng thời cùng chết, sinh về cõi Tam Thập Tam Thiên, khởi niệm như vầy: “Chúng ta do nhân duyên của Nghiệp Thiện nào mà sinh trong cõi Trời này?”. Liền cùng nhau nói là: “Trước kia, chúng ta ở Thiệm Bộ Châu, bị đọa trong Bàng Sinh, cùng thọ nhận thân cá. Trưởng Giả Tử Lưu Thủy cho chúng ta nước cùng với bánh, thức ăn. Lại vì chúng ta nói Pháp thâm sâu, 12 Duyên Khởi với Đà La Ni, lại xưng danh hiệu Bảo Kế Như Lai. Do nhân duyên này, hay khiến cho chúng ta được sinh vào cõi Trời này. Thế nên, nay Ta đều nên đến chỗ của Trưởng Giả Tử, báo ân cúng dường”

Lúc đó, mười ngàn vị Thiên Tử liền ở cõi Trời ẩn mất, đến chỗ của Đại Y Vương ở Thiệm Bộ Châu. Khi ấy, Trưởng Giả Tử ngủ an ổn trên lầu cao. Thời mười ngàn vị Thiên Tử cùng đem mười ngàn chuỗi Anh Lạc châu báu đên bên cạnh khuôn mặt của Trưởng Giả Tử, lại đem mười ngàn chuỗi để ở bàn chân, lại đem mười ngàn chuỗi để ở hông bên phải, lại đem mười ngàn chuỗi để ở hông bên trái, tuôn mưa hoa Mạn Đà La (Māndāra), hoa Ma Ha Mạn Đà La (Mahā-mādāra) ngập đến đầu gối, ánh sáng chiếu khắp, mọi loại nhạc Trời phát ra âm thanh màu nhiệm, khiến Thiệm Bộ Châu có người ngủ say thảy đều tỉnh giác. Trưởng Giả Tử Lưu Thủy cũng tỉnh ngủ theo.

Khi mười ngàn vị Thiên Tử cúng dường xong, liền ở không trung bay đi. Ở trong nước của vua Thiện Tự Tại Quang, nơi nơi đều tuôn mưa hoa sen màu nhiệm của cõi Trời. Các vị Thiên Tử này lại đến chốn cũ, trong cái ao ở đầm trống tuôn mưa mọi hoa Trời, rồi liền ở đây ẩn mất, quay về cung điện trên Trời, tùy ý tự tại thọ hưởng niềm vui năm Dục

Đức Vua Thiên Tự Tại Quang đến sáng sớm đã hỏi các Đại Thần: “Đêm qua, do duyên gì mà hiện tướng điềm lành hiếm có như vậy, phóng ánh sáng lớn?”

Đại Thần đáp rằng: “Đại Vương nên biết có các Thiên Chúng ở trong nhà của Trưởng Giả Tử Lưu Thủy, tuôn mưa bốn mươi ngàn chuỗi Anh Lạc châu báu với hoa Mạn Đà La của cõi Trời ngập đến đầu gối”

Đức Vua bảo Đại Thần rằng: “Hãy đến nhà của Trưởng Giả, gọi vị ấy đến đây”

Đại Thần nhận Sắc liền đến nhà ấy, phụng tuyên Vương Mệnh kêu Trưởng Giả Tử. Thời Trưởng Giả Tử liền đến chỗ của vua.

Đức vua nói: “Do duyên gì mà đêm qua hiện bày tướng điềm lành hiếm có như vậy?”

Trưởng Giả Tử nói: “Như tôi suy nghĩ, nhất định là đám cá bên trong cái ao kia. Như Kinh đã nói sau khi chết, được sinh lên cõi Tam Thập Tam Thiên. Vì nhóm ấy đến báo ân cho nên hiện tướng kỳ lạ hiếm có như vậy”

Đức vua nói: “Làm sao biết được?”

Lưu Thủy đáp rằng: “Đức vua có thể sai Sứ cùng với hai đức con của tôi đến cái ao ấy, nghiệm xem chuyện thật hư. Mười ngàn con các kia còn sống hay đã chết”

Đức vua nghe lời này xong, liền sai Sứ với hai người con hướng đến bên cái ao ấy, thấy trong cái ao có nhiều hoa Mạn Đà La gon thành đống lớn, các con cá đều đã chết. Thấy xong, chạy về rộng nói cho đức vua biết. Đức vua nghe điều này xong, thì Tâm sinh vui vẻ, khen chưa từng có”.

Bấy giờ Đức Phật bảo Bồ Đề Thụ Thần: “Này Thiện Nữ Thiên! Nay ngươi nên biết. Trưởng Giả Tử Lưu Thủy (Jalavāhana) xưa kia tức là thân của Ta, Trưởng Giả Trị Thủy (Jaṭiṃdhara) tức là Diệu Tràng (Rucira-ketu). Hai người con ấy: Con trưởng Thủy Mãn (Jalāmbara) tức là Ngân Tràng (Rūpya-ketu), con thứ Thủy Tạng (Jala-garbha) tức là Ngân Quang (Rūpya-prabha). Vị vua Thiên Tự Tại Quang (Sureśvara-prabha) ấy tức là ngươi, Thần cây Bồ Đề. Mười ngàn con cá tức là mười ngàn vị Thiên Tử. Nhân Ta xưa kia dùng nước cứu cá và cho thức ăn khiến được no đủ, vì chúng nói 12 Duyên Khởi thâm sâu kèm với Tương Ứng Đà La Ni Chú. Lại xưng tên của Đức Phật Bảo Kế. Nhân căn lành này được sinh lên Trời. Nay đến chỗ của Ta vui vẻ nghe Pháp. Ta sẽ vì họ trao cho A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Ký, nói danh hiệu ấy.

Này Thiện Nữ Thiên! Như Ta xưa kia ở trong sinh tử, luân hồi các cõi, rộng làm lợi ích, Nay vô lượng chúng sinh đều khiến cho theo thứ tự thành Vô Thượng Giác, cho Thọ Ký ấy. Các ngươi đều nên siêng năng cầu xuất ly, đừng có phóng dật”

Bấy giờ, Đại Chúng nghe nói điều này xong, thảy đều thấu hiểu: “Do Đại Từ Bi cứu giúp tất cả, siêng tu Khổ Hạnh thì mới có thể chứng được Vô Thượng Bồ Đề”, nên thảy đều phát Tâm sâu xa, vui vẻ tin nhận.

    Xem thêm:

  • Kinh Đà La Ni Tiêu Trừ Hết Thảy Chướng Nạn Thiểm Điện Tùy Cầu Như Ý - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Thánh Tối Thắng - Kinh Tạng
  • Kinh Đà Lân Ni Bát - Kinh Tạng
  • Kinh Tinh Yếu Đế Thích Bát Nhã - Kinh Tạng
  • Tâm Kinh Thần Chú Thập Nhứt Diện - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Đà La Ni Đại Ái - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Pháp Bảo Tàng Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Đại Thất Bảo - Kinh Tạng
  • Hà Da Yết Lợi Bà Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Pháp Đàn - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Niệm Tụng Đà La Ni Nhứt Kế Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Quán Tự Tại Tùy Tâm Chú - Kinh Tạng
  • Pháp Hà Da Yết Lợi Bà Tượng - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Thần Chú Đà La Ni Bồ Tát Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Vô Lượng Công Đức - Kinh Tạng
  • Kinh Chư Phật Tâm Ấn Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Lạo Đà La Ni Thân - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Niệm Tụng Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Thanh Tịnh Quán Thế Âm Phổ Hiền - Kinh Tạng
  • Kinh 12 Danh Hiệu Của Đại Cát Tường Thiên Nữ - Kinh Tạng