1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

Phẩm thứ sáu: THIỆN NGHIỆP ĐẠO

Lúc bấy giờ, đại Bồ-tát Kim Cang Tạng bạch Phật:

– Bạch Đại đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát làm thế nào đối với Thanh văn thừa được không lầm lạc? Làm thế nào đối với người theo Thanh văn thừa được không lầm lạc?

Làm thế nào đối với Độc giác thừa được không lầm lạc? Làm thế nào đối với người theo Độc giác thừa được không lầm lạc?

Làm thế nào đối với Đại thừa được không lầm lạc? Làm thế nào đối với người theo Đại thừa được không lầm lạc?

Làm thế nào có thể làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo?

Làm thế nào đối với đệ tử xuất gia của chư Như Lai – hoặc là bậc pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, cho đến tất cả những người chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc – được không lầm lạc?

Làm thế nào đối với pháp Đại thừa thường được tiến tới, không có thối lui?

Làm thế nào phước huệ thù thắng thường được tăng trưởng?

Làm thế nào đối với tất cả các định, các đà-la-ni, các nhẫn, các địa mau được tự tại, không có thối chuyển?

Làm thế nào thường được gặp các thiện tri thức và làm theo họ?

Làm thế nào thường gặp tất cả chư Phật và các đệ tử Bồ-tát Thanh văn, được nghe giáo pháp và thân cận cúng dường chúng Tăng?

Làm thế nào đối với các thiện căn thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán?

Lúc ấy, Thế Tôn bảo đại Bồ-tát Kim Cang Tạng:

– Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát có mười luân. Nếu đại Bồ-tát nào thành tựu mười luân này thì đối với Thanh văn thừa được không lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa được không lầm lạc. Đối với Độc giác thừa được không lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa được không lầm lạc. Đối với Đại thừa được không lầm lạc, đối với người theo Đại thừa được không lầm lạc? Thường làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo. Đối với đệ tử xuất gia của chư Như Lai – hoặc là bậc pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, cho đến tất cả những người chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc – đều được không lầm lạc. Đối với pháp Đại thừa thường được tiến tới, không có thối lui. Phước huệ thù thắng thường được tăng trưởng. Đối với tất cả các định, các đà-la-ni, các nhẫn, các địa đều mau được tự tại, không bị thối chuyển. Thường được gặp các thiện tri thức và làm theo họ. Thường được gặp tất cả chư Phật và các đệ tử Bồ-tát Thanh văn, được nghe giáo pháp và thân cận cúng dường chúng Tăng. Đối với các thiện căn thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán. Thường đối với các hạnh nguyện Bồ-đề không nhàm chán. Thường dùng trí của bậc Thánh vững chắc như Kim-cang để bẻ gãy tất cả nghiệp ác bất thiện đã tạo ra từ trước, làm cho tiêu diệt hết không còn sót lại, không thọ quả báo. Lại cũng không tạo các nghiệp ác bất thiện mới, không nhàm chán, mau chứng đắc pháp luân vô thượng. Thường khuyến tu tập bảy báu giác phần không nhàm chán; thường hay diệt trừ tất cả bệnh phiền não cho tất cả chúng sanh không mỏi mệt. Tất cả chúng sanh nương vào đây mà sống còn.

Này thiện nam tử! Như vua Chuyển luân đầy đủ bảy báu, khi ra đi có xe báu dẫn đường đi trước, các báu khác theo sau, xem xét bốn đại châu, có thể diệt trừ ô uế về thân tâm của tất cả chúng sanh, có thể làm tăng trưởng an lạc thân tâm của tất cả chúng sanh. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân, đối với Thanh văn thừa được không lầm lạc. Nói rộng ra cho đến tất cả chúng sanh nương vào đây mà sống còn.

Này thiện nam tử! Ví như xe lớn có đầy đủ bốn bánh, chở được rất nhiều người chạy trên đường lớn. Trên con đường đó có khối đất, ngói, gạch, cỏ, cây, gốc rễ, cành lá, hoa quả… bị bánh xe lăn qua, tất cả đều tan vỡ, không còn tác dụng. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân có thể dẹp tan các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng, làm cho không thọ lấy quả báo.

Này thiện nam tử! Ví như bánh xe kiếm bén vừa phóng tới là có thể chém đầu và các bộ phận thân thể kẻ địch, làm cho không còn hoạt động được. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân, có thể phá tan tất cả khổ lớn sanh tử trong năm đường như lao ngục, vĩnh viễn diệt trừ tất cả ác nghiệp phiền não, làm cho không chịu lấy quả báo.

Này thiện nam tử! Ví như khi nạn hỏa tai khởi lên, năm mặt trời xuất hiện, khắp bốn đại châu tất cả sông biển, những nơi có nước đều khô cạn hết. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân thì tất cả bốn nhân các phiền não chướng, các hữu tình chướng, nhất thiết pháp chướng, căn bản khổ báo đều khô cạn hết.

Này thiện nam tử! Như phong tai khởi lên, bốn phương gió mạnh nổi lên đồng thời làm cho tất cả các núi lớn nhỏ và đại địa khắp thế giới đều tan hoại hết. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân thì các núi bốn điên đảo, kiêu mạn thế gian đều hoại diệt, tất cả các phiền não chướng, các hữu tình chướng, nhất thiết pháp chướng, căn bản khổ báo của chúng sanh đều tiêu diệt.

Này thiện nam tử! Như sư tử chúa rống lên một tiếng thì tất cả loài cầm thú đều kinh sợ, rụng rời bay đi, chạy trốn không dám động đậy. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân, phát ra pháp âm làm chấn động, cho đến tất cả ngoại đạo, tà giáo, bạn ác đều sợ hãi, quên mất biện thuyết, không dám chống cự lại.

Này thiện nam tử! Như Thiên Đế Thích khi sắp đánh nhau với A-tố-lạc, quân của Thiên Đế vây quanh, tay cầm Kim-cang tiến vào trận, các A-tố-lạc đều kinh sợ, bỏ chạy tán loạn. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân thì tất cả ngoại đạo, tà giáo, tà kiến điên đảo, bạn ác đều kinh sợ bỏ chạy tán loạn.

Này thiện nam tử! Như châu như ý treo trên tràng cao, có thể mưa xuống các loại châu báu tốt đẹp cung cấp cho tất cả người nghèo. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân, ở tràng tịnh giới mưa pháp lớn cho tất cả vô lượng chúng sanh.

Này thiện nam tử! Như đêm khuya tăm tối, không thấy gì nên bị lạc đường, khi trăng tròn xuất hiện, bóng tối liền mất, những người lạc đường đều thấy đường đi. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân, nếu các chúng sanh vô minh mê mờ, do đó quên mất tám Thánh đạo thì Bồ-tát tùy theo căn cơ thuyết pháp cho họ, làm cho trừ diệt vô minh mê mờ, phát sanh ánh sáng chánh pháp, chỉ bày rõ tám Thánh đạo, làm cho đoạn trừ các lậu, dứt hết các khổ.

Này thiện nam tử! Như khi mặt trời xuất hiện ở thế gian thì tất cả mầm lúa đều phát triển, tất cả hoa lá đều tươi tốt, tất cả các thứ hôi dơ đều tiêu trừ, các loại ngũ cốc, cây ăn quả, cây cỏ đều có kết quả, núi tuyết đều tan chảy, các sông đầy tràn, dần dần chảy ra biển làm đầy biển cả. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân, nương vào bố thí tăng thượng, điều phục, tịch tịnh, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát-nhã, phương tiện từ bi, biện tài thì công đức đều tăng trưởng, thuyết giảng chánh pháp cho các chúng sanh. Do oai lực ánh sáng chánh pháp, làm cho các mầm lúa thiện căn tăng thượng của các chúng sanh đều phát triển, các hoa lá diệu hạnh tăng thượng đều tươi tốt, các thứ phiền não, ác nghiệp, ác hạnh đều tiêu trừ, các loài ngũ cốc, cây ăn trái, cây cỏ hướng đến Niết-bàn đều có kết quả. Các núi kiêu mạn, tà kiến đều tan chảy, các sông chánh tín, giới, văn, xả, tuệ và các định đều tràn đầy, dần dần chảy ra làm đầy biển lớn Niết-bàn, làm cho các hữu tình tùy theo ý thích mà hướng đến thành Niết-bàn vô úy.

Này thiện nam tử! Thế nào là mười luân của đại Bồ-tát?

Này thiện nam tử! Mười luân này chẳng phải pháp nào khác, nên biết đó là mười nghiệp đạo thiện. Nếu thành tựu mười luân này thì được gọi là đại Bồ-tát, đối với tất cả điều ác đều có thể thoát khỏi, tất cả pháp thiện đều tùy ý được thành tựu, mau có thể làm đầy biển lớn Niết-bàn, dùng ánh sáng đại trí phương tiện quyền xảo để giáo hóa tất cả các loài chúng sanh, làm cho đều được lợi ích an lạc. Vì sao?

Này thiện nam tử! Vì tất cả chư Phật Thế Tôn đời quá khứ đều xa lìa mười nghiệp đạo ác, đều khen ngợi tán thán mười nghiệp đạo thiện này nên được phước báo. Vì vậy, nếu có thể đối với mười nghiệp đạo thiện do Ta thuyết ra mà giữ gìn cho đến khi qua đời, hoàn toàn không dám phạm, thì chắc chắn sẽ được tất cả phước báo thù thắng như đã nói từ trước đến nay.

Này thiện nam tử! Nếu đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa sát sanh, tức là ban cho các chúng sanh sự không kinh sợ, không sợ hãi, làm cho các chúng sanh không buồn khổ, không còn sợ hãi. Do đây thiện căn mau được thành tựu.

Chúng sanh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sanh tử là do sát sanh. Thân – ngữ – ý tạo ra các ác nghiệp chướng, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng, làm chướng ngại sống lâu, tự mình làm hay bảo người làm, thấy nghe đều tùy hỷ. Do xa lìa luân sát sanh này nên chuyển hết các hoặc nghiệp không còn sót lại, không thọ quả báo. Ở đời này được trời người thương mến, không nghi ngờ, thân tâm an lạc, được sống lâu. Khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ, bức bách và sự luyến ái của vợ con quyến thuộc quấy nhiễu. Khi lâm chung không bị vua Diêm ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, chỉ thấy điều vừa ý và người đầy đủ giới, phước đức, thành tựu các thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn lành; thân tâm vui vẻ, phát sanh lòng tin kính sâu xa.

Sau khi qua đời tái sanh làm người thì các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn; sanh ra ở đâu cũng không có bệnh, sống lâu, xinh đẹp, thông minh, được an ổn, hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý, gặp bậc đầy đủ giới, phước đức, thành tựu các thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, nương theo vị ấy tu học, xa lìa sát sanh, có thể đoạn trừ tất cả pháp ác, bất thiện, thành tựu tất cả thiện pháp thù thắng, hay mong cầu tất cả giáo nghĩa pháp Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần thể nhập biển trí mênh mông, cho đến chứng đắc đạo quả vô thượng.

Ở cõi Phật thì xa lìa các binh khí, không có tên oán hại, đấu tranh, dứt hết các điều sợ hãi, được an ổn, hỷ lạc; tất cả đều không bệnh, sống lâu. Hữu tình như thế thì được sanh vào cõi nước ấy.

Như lai tự thân thọ mạng vô lượng vô biên nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp để sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, chánh pháp tồn tại lâu dài, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Này thiện nam tử! Đó gọi là luân thứ nhất xa lìa sát sanh của đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này, đối với Thanh văn thừa được không lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa được không lầm lạc. Đối với Độc giác thừa được không lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa được không lầm lạc. Đối với Đại thừa được không lầm lạc, đối với người theo Đại thừa được không lầm lạc. Thường làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo. Đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai – hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, cho đến những người chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo râu tóc đều được không lầm lạc. Đối với pháp Đại thừa thường được tiến tới, không bị thối chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng. Đối với tất cả định, các đà-la-ni, các nhẫn, các địa mau được tự tại, không bị thối chuyển. Thường được gặp bạn lành và tu tập theo. Thường được gặp chư Phật cùng các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát; được nghe pháp, thân cận cúng dường chúng Tăng. Đối với các thiện căn thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề, tu các hạnh nguyện không hề nhàm chán, được phước báo như đã nói rộng ở trước.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa lấy của không cho, tức là ban cho tất cả chúng sanh sự không kinh sợ, không sợ hãi, không phiền não, cũng không khuấy động, vui vẻ bằng lòng với tài lợi có được như pháp của mình, hoàn toàn không mong cầu tài lợi phi pháp. Do đó, thiện căn mau được thành tựu. Chúng sanh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sanh tử là do lấy của không cho. Thân, ngữ, ý tạo ra các ác nghiệp chướng, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng làm chướng ngại về tài bảo, tự làm hay bảo người làm, thấy nghe đều tùy hỷ. Do xa lìa luân lấy của không cho này nên chuyển hết mọi hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo, ngay đời này được trời người thương mến không nghi ngờ, thân tâm được an lạc, tài bảo đầy đủ. Khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ, bức bách và sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu, không bị vua Diêm ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, mà chỉ thấy điều vừa ý và những vị đầy đủ giới, phước đức, thành thục các thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, thân tâm vui vẻ, phát lòng tin kính sâu xa.

Sau khi qua đời, sanh lại làm người, các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn; sanh ra nơi nào cũng đầy đủ tài bảo, xinh đẹp, thông minh, được an ổn hỷ lạc, tài bảo không thuộc về năm nhà, lại gặp điều vừa ý và người có đầy đủ giới, phước đức thành thục mọi thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, nương theo vị ấy tu học, xa lìa nghiệp lấy của không cho, đoạn tất cả các pháp ác bất thiện, có thể thành tựu tất cả thiện pháp thù thắng, hay mong cầu tất cả giáo nghĩa Đại thừa, tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần thể nhập biển trí mênh mông, cho đến chứng đắc Vô thượng Bồ-đề.

Ở cõi Phật được trang nghiêm bằng các châu báu, cây báu, ao báu, đền đài báu đều đầy khắp, xa lìa ngã, ngã sở, không bị lệ thuộc gì, đầy đủ tất cả vật trang sức. Hữu tình như vậy thì được sanh vào cõi nước ấy.

Như Lai tự thân thọ mạng vô lượng nhưng vì các chúng sanh mà tùy cơ thuyết pháp để sau khi Niết-bàn, chánh pháp được tồn tại lâu dài ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Này thiện nam tử! Đó gọi là luân thứ hai xa lìa không cho mà lấy của đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này, đối với Thanh văn thừa được không lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa được không lầm lạc. Đối với Độc giác thừa được không lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa được không lầm lạc. Đối với Đại thừa được không lầm lạc, đối với người theo Đại thừa được không lầm lạc. Thường làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo; đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai – hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, cho đến chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo râu tóc – được không lầm lạc. Đối với pháp Đại thừa thường được tiến tới, không bị thối chuyển, phước huệ thù thắng thường được tăng trưởng. Đối với tất cả các định, các đà-la-ni, các nhẫn, các địa mau được tự tại, không bị thối chuyển, thường được gặp các bạn lành tu học theo, thường được gặp tất cả chư Phật cùng với các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, nghe pháp, thân cận cúng dường chúng Tăng. Đối với các thiện căn thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề tu các hạnh nguyện mà không nhàm chán, được phước báo như đã nói rộng ở trước.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ-tát nào có thể trọn đời xa lìa dục tà hạnh, tức là ban cho tất cả chúng sanh đang bị trôi nổi trong biển dục sự không lo sợ, không sợ hãi, không ghen ghét, không oán hại, không bị phiền não, cũng không quấy động, bằng lòng vui vẻ với vợ mình, hoàn toàn không mong cầu sắc dục phi pháp. Do đó, thiện căn mau được thành thục.

Chúng sanh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sanh tử là do dục tà hạnh. Thân, ngữ, ý tạo ra các ác nghiệp chướng, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng làm chướng ngại về gia đình, tự mình làm, dạy người làm, thấy nghe đều tùy hỷ. Do xa lìa luân dục tà hạnh này, chuyển hết các hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo ngay trong đời này, được trời người thương mến, không nghi ngờ, thân tâm được an lạc, thê thiếp trinh lương. Khi sắp lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ bức bách và sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu. Khi lâm chung không bị vua Diêm ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, mà chỉ thấy điều vừa ý và những vị đầy đủ giới, phước đức, thành thục các thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, thân tâm vui vẻ, phát lòng tin kính sâu xa.

Sau khi qua đời, sanh lại làm người các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn; sanh ra nơi nào cũng đầy đủ các quyến thuộc xinh đẹp thông minh, được an ổn hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý và bậc đầy đủ giới, phước đức, thành thục mọi thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, nương theo vị ấy tu học, xa lìa dục tà hạnh, đoạn trừ tất cả pháp ác bất thiện, có thể thành tựu tất cả thiện pháp thù thắng, mong cầu tất cả giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần thể nhập biển trí mênh mông, cho đến chứng đắc quả Vô thượng Bồ-đề.

Ở cõi Phật thì không có người nữ, xa lìa dâm dục, đầy đủ phạm hạnh đệ nhất. Hữu tình như thế thì đến sanh cõi nước ấy. Tất cả hữu tình đều do hóa sanh, không ở trong bào thai hôi hám dơ bẩn.

Như lai tự thân thọ mạng vô lượng, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp, để sau khi vào Niết-bàn, chánh pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Này thiện nam tử! Đó gọi là luân thứ ba xa lìa dục tà hạnh của đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, đối với Thanh văn thừa được không lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa được không lầm lạc. Đối với Độc giác thừa được không lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa được không lầm lạc. Đối với Đại thừa được không lầm lạc, đối với người theo Đại thừa được không lầm lạc. Thường làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo. Đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai – hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo râu tóc – đều không lầm lạc. Đối với pháp Đại thừa thường được tiến tới, không bị thối chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng. Đối với tất cả định, các đà-la-ni, các nhẫn, các địa mau được tự tại, không bị thối chuyển. Thường được gặp các bạn lành tu tập theo. Thường được gặp tất cả Phật và các đệ tử Thanh văn Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng. Đối với các thiện căn thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề tu các hạnh nguyện mà không nhàm chán, được phước báo như đã nói rộng ở trước.

Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa nói dối thì được tất cả chúng sanh kính mến, lời nói ra đều thành thật, người nghe đều tin kính, không nghi ngờ. Do đây thiện căn mau được thành thục.

Chúng sanh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sanh tử là do nói dối. Thân, ngữ, ý tạo ra các ác nghiệp chướng, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng, làm chướng ngại sự tin tưởng vào lời nói, tự mình làm hay bảo người làm, thấy nghe đều tùy hỷ.

Do xa lìa luân nói dối này nên chuyển hết các hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo, ngay hiện đời được trời người thương mến, không nghi ngờ, thân tâm an lạc, lời nói ra được mọi người tin theo. Khi lâm chung không bị buồn khổ bức bách và sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu. Lúc lâm chung cũng không bị vua Diêm ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, mà chỉ thấy điều vừa ý và người có đầy đủ giới, phước đức thành tựu các thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, thân tâm vui vẻ, phát sanh lòng tin kính sâu xa.

Sau khi qua đời, tái sanh làm người thì các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sanh ra ở đâu cũng nói lời thành thật, đẹp đẽ thông minh, được an ổn hỷ lạc; lại gặp điều vừa ý và người có đầy đủ giới, phước đức, thành tựu các thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, nương theo vị ấy tu học, xa lìa lời nói dối, đoạn trừ tất cả các pháp ác bất thiện, có thể thành tựu tất cả pháp thiện thù thắng, mong cầu tất cả giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần thể nhập biển trí sâu rộng, cho đến chứng đắc quả Vô thượng Bồ-đề.

Ở cõi Phật thì mọi thứ đều chân thật, xa lìa sự dối trá, được trang nghiêm bằng các loại hương thơm, vật tinh khiết, không dua nịnh, không dối gạt, tâm hạnh chân chánh, mong cầu các thiện pháp thuần tịnh. Hữu tình như thế thì đến sanh vào cõi nước ấy, được trang nghiêm bằng các loại hương thơm, y phục đẹp, đồ trang sức báu.

Như Lai tự thân thọ mạng vô lượng, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp để sau khi nhập Niết-bàn chánh pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Này thiện nam tử! Đó gọi là luân thứ tư xa lìa nói dối của đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, đối với Thanh văn thừa được không lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa được không lầm lạc. Đối với Độc giác thừa được không lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa được không lầm lạc. Đối với Đại thừa được không lầm lạc, đối với người theo Đại thừa được không lầm lạc. Thường làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo. Đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai – hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo râu tóc – đều không lầm lạc. Đối với pháp Đại thừa thường được tiến tới, không bị thối chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng. Đối với tất cả định, các đà-la-ni, các nhẫn, các địa mau được tự tại, không bị thối chuyển. Thường được gặp các bạn lành tu tập theo. Thường được gặp tất cả Phật và các đệ tử Thanh văn Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng. Đối với các thiện căn thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề tu các hạnh nguyện mà không nhàm chán, được phước báo như đã nói rộng ở trước.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa lời nói ly gián thì được tất cả mọi người kính mến, lời nói ra đều làm cho hòa thuận, người nghe đều tin kính, không nghi ngờ. Do đó thiện căn mau được thành thục.

Chúng sanh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sanh tử là do nói ly gián. Thân, ngữ, ý tạo ra các ác nghiệp chướng, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng làm chướng ngại sự hòa kính, tự làm hay bảo người làm, thấy nghe đều tùy hỷ.

Do xa lìa luân nói ly gián này nên chuyển hết mọi hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo, ngay đời này được trời người thương mến, không nghi ngờ, thân tâm an lạc, nói lời nào cũng làm cho hòa thuận. Khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ bức bách và sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu. Khi lâm chung không bị vua Diêm ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, chỉ thấy điều vừa ý và các bậc thành thục thiện pháp, đầy đủ giới, phước đức, là ruộng phước chân thật làm bạn lành. Thân tâm vui vẻ, phát sanh lòng tin kính sâu xa.

Sau khi qua đời sanh lại làm người, các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn; sanh ra nơi nào cũng nói lời hòa thuận, xinh đẹp, thông minh, an ổn, hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý và bậc thành thục các thiện pháp, đầy đủ giới, phước đức, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, nương theo vị ấy tu học, xa lìa lời nói ly gián, có thể đoạn hết các pháp ác bất thiện, thành tựu mọi thiện pháp thù thắng, có thể mong cầu tất cả giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần thể nhập biển trí sâu rộng, cho đến chứng đắc Vô thượng Bồ-đề.

Ở cõi Phật tất cả đều kiên cố, khó có thể phá hoại, được trang nghiêm bằng các vật tốt đẹp, không chống trái, không cạnh tranh, khéo hòa hợp các cuộc tranh tụng, mong cầu các thiện pháp chân thật. Hữu tình như thế thì đến sanh vào cõi nước ấy, thường tu pháp hòa kính, lắng nghe chánh pháp.

Như lai tự thân thọ mạng vô lượng, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp để sau khi nhập Niết-bàn chánh pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Này thiện nam tử! Đó gọi là luân thứ năm xa lìa lời nói ly gián của đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này thì đối với Thanh văn thừa được không lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa được không lầm lạc. Đối với Độc giác thừa được không lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa được không lầm lạc. Đối với Đại thừa được không lầm lạc, đối với người theo Đại thừa được không lầm lạc. Thường làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo. Đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai – hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo râu tóc – đều không lầm lạc. Đối với pháp Đại thừa thường được tiến tới, không bị thối chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng. Đối với tất cả định, các đà-la-ni, các nhẫn, các địa mau được tự tại, không bị thối chuyển. Thường được gặp các bạn lành tu tập theo. Thường được gặp tất cả Phật và các đệ tử Thanh văn Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng. Đối với các thiện căn thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề tu các hạnh nguyện mà không nhàm chán, được phước báo như đã nói rộng ở trước.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa lời nói thô ác thì được tất cả mọi người thương mến, lời nói ra đều làm cho vui vẻ, ai nghe cũng tin kính, không nghi ngờ. Do đó thiện căn mau được thành thục.

Chúng sanh từ bao đời trước luân chuyển trong năm đường, chìm đắm trong biển sanh tử là do lời nói thô ác. Thân, ngữ, ý tạo ra các ác nghiệp chướng, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng làm chướng ngại lời nói nhu hòa, tự làm hay bảo người làm, thấy nghe đều tùy hỷ.

Do xa lìa luân nói thô ác này nên chuyển hết mọi hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo. Ngay đời này được trời người kính mến, không nghi ngờ, thân tâm an lạc, lời nói ra đều làm cho người vui vẻ. Khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ bức bách và sự luyến ái của vợ con quyến thuộc quấy nhiễu. Lúc lâm chung không bị vua Diêm ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi mà chỉ thấy điều vừa ý và những vị đầy đủ giới, phước đức, thành thục các thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, thân tâm vui vẻ, phát sanh lòng tin kính sâu xa.

Sau khi qua đời sanh lại làm người, các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn; sanh ra nơi nào cũng nói lời nhu hòa, thân xinh đẹp, thông minh, được an ổn hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý và những vị đầy đủ giới, phước đức thành thục mọi thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, nương theo vị ấy tu học, xa lìa lời nói thô ác, có thể đoạn trừ hết pháp ác bất thiện, thành tựu tất cả thiện pháp thù thắng, cầu học mọi giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần thể nhập biển trí mênh mông, cho đến chứng đắc Vô thượng Bồ-đề.

Ở cõi Phật thì xa lìa tất cả âm thanh không vừa ý mà có các âm thanh thượng diệu, như ý, hòa nhã, âm thanh âm nhạc, âm thanh kiết tập kinh điển vang khắp cõi nước ấy, có đầy đủ phạm âm niệm tuệ trong suốt, nhu hòa. Hữu tình như thế thì đến sanh cõi nước đó, thường dùng lời nói hòa nhã để sách tấn nhau.

Như lai tự thân thọ mạng vô lượng, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp để sau khi nhập Niết-bàn chánh pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Này thiện nam tử! Đó gọi là luân thứ sáu xa lìa lời nói thô ác của đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này thì đối với Thanh văn thừa được không lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa được không lầm lạc. Đối với Độc giác thừa được không lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa được không lầm lạc. Đối với Đại thừa được không lầm lạc, đối với người theo Đại thừa được không lầm lạc. Thường làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo. Đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai – hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo râu tóc – đều không lầm lạc. Đối với pháp Đại thừa thường được tiến tới, không bị thối chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng. Đối với tất cả định, các đà-la-ni, các nhẫn, các địa mau được tự tại, không bị thối chuyển. Thường được gặp các bạn lành tu tập theo. Thường được gặp tất cả Phật và các đệ tử Thanh văn Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng. Đối với các thiện căn thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề tu các hạnh nguyện mà không nhàm chán, được phước báo như đã nói rộng ở trước.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ-tát nào có thể trọn đời xa lìa lời nói tạp uế thì được mọi người kính mến, lời nói ra đều có ý nghĩa, ai nghe cũng kính tin, không nghi ngờ. Do đó, thiện căn mau được thành tựu.

Chúng sanh từ bao đời trước trôi lăn mãi trong năm đường, chìm đắm trong biển sanh tử là do lời nói tạp uế. Thân, ngữ, ý tạo ra các ác nghiệp chướng, các phiền não chướng, tất cả pháp chướng làm chướng ngại lời nói có ý nghĩa, tự làm hay bảo người làm, thấy nghe đều tùy hỷ.

Do xa lìa luân nói tạp uế này nên chuyển hết các hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo, ngay hiện đời được trời người thương mến, không nghi ngờ, thân tâm an lạc, lời nói ra đều có ý nghĩa. Khi lâm chung không bị buồn khổ bức bách và sự luyến ái của vợ con quyến thuộc quấy nhiễu. Lúc lâm chung không bị vua Diêm ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, chỉ thấy điều vừa ý và những vị thành thục mọi thiện pháp, đầy đủ giới, phước đức là ruộng phước chân thật làm bạn lành, thân tâm vui vẻ, phát sanh lòng tin kính sâu xa.

Sau khi qua đời, sanh lại làm người, các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn; sanh ra ở đâu cũng nói lời có ích, được xinh đẹp, thông minh, an ổn, hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý và những vị đầy đủ giới, phước đức, thành thục các thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, nương theo vị ấy tu học, xa lìa lời nói tạp uế, có thể đoạn trừ hết các pháp ác bất thiện, thành tựu tất cả thiện pháp thù thắng, cầu học mọi giáo nghĩa Đại thừa, tu tập tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần thể nhập biển trí sâu rộng, cho đến chứng đắc Vô thượng Bồ-đề.

Ở cõi Phật thì xa lìa tất cả âm thanh không có ý nghĩa, mà có các âm thanh giảng pháp vi diệu của Bồ-tát vang khắp cả nước ấy, thành tựu vô biên đại nguyện, diệu trí, có khả năng giảng thuyết tốt các giáo nghĩa của chánh pháp. Hữu tình như vậy thì đến sanh cõi nước ấy.

Như Lai tự thân thọ mạng vô lượng, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp để sau khi nhập Niết-bàn chánh pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Này thiện nam tử! Đó gọi là luân thứ bảy xa lìa lời tạp uế của đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát do thành tựu luân này nên đối với Thanh văn thừa được không lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa được không lầm lạc. Đối với Độc giác thừa được không lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa được không lầm lạc. Đối với Đại thừa được không lầm lạc, đối với người theo Đại thừa được không lầm lạc. Thường làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo. Đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai – hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo râu tóc – đều không lầm lạc. Đối với pháp Đại thừa thường được tiến tới, không bị thối chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng. Đối với tất cả định, các đà-la-ni, các nhẫn, các địa mau được tự tại, không bị thối chuyển. Thường được gặp các bạn lành tu tập theo. Thường được gặp tất cả Phật và các đệ tử Thanh văn Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng. Đối với các thiện căn thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề tu các hạnh nguyện mà không nhàm chán, được phước báo như đã nói rộng ở trước.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa tham dục, được tất cả mọi người kính mến, tâm được thanh tịnh, xa lìa mọi cấu nhiễm. Do đó thiện căn mau được thành thục.

Chúng sanh từ bao đời trước trôi lăn mãi trong năm đường, chìm đắm trong biển sanh tử là do tham dục. Thân, ngữ, ý tạo ra các ác nghiệp chướng, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng làm chướng ngại không tham, tự mình làm hay bảo người làm, thấy nghe đều tùy hỷ.

Do xa lìa luân tham dục này nên chuyển hết mọi hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo, ngay hiện đời được trời người thương mến, không nghi ngờ, thân tâm an lạc, tâm thanh tịnh, lìa các cấu nhiễm. Khi lâm chung thân tâm không bị buồn khổ, bức bách và sự luyến ái của vợ con quyến thuộc quấy nhiễu. Lúc lâm chung không bị vua Diêm ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, chỉ thấy điều vừa ý và những vị thành thục mọi thiện pháp, đầy đủ giới, phước đức, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, thân tâm vui vẻ, phát sanh lòng tin kính sâu xa.

Sau khi qua đời, sanh lại làm người, các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn; sanh ra nơi nào tâm cũng được thanh tịnh, xa lìa mọi cấu nhiễm, được xinh đẹp, thông minh, an ổn, hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý và những vị đầy đủ giới, phước đức, thành thục mọi thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, nương theo vị ấy tu học, xa lìa tham dục, có thể đoạn trừ hết các pháp ác bất thiện, thành tựu tất cả thiện pháp thù thắng, có thể mong cầu mọi giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần thể nhập biển trí sâu rộng, cho đến chứng đắc Vô thượng Bồ-đề.

Ở cõi Phật thì mặt đất bằng phẳng như lòng bàn tay, đầy dẫy các châu báu, được trang nghiêm bằng các hàng cây báu, các y phục báu, đồ trang sức báu, cờ lọng báu, các cây giăng lưới báu bằng vàng bạc, chân châu ở khắp nơi thật là ưa thích. Lại xa lìa kiêu mạn, dung mạo xinh đẹp, các căn đầy đủ, tâm bình đẳng. Chúng sanh như thế thì đến sanh vào cõi nước ấy, không tham lam, được trang nghiêm bằng đầy đủ các công đức.

Như Lai tự thân thọ mạng vô lượng, nhưng vì chúng sanh mà tùy cơ thuyết pháp để sau khi nhập Niết-bàn chánh pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng chúng sanh.

Này thiện nam tử! Đó gọi là luân thứ tám xa lìa tham dục của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát do thành tựu luân này nên đối với Thanh văn thừa được không lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa được không lầm lạc. Đối với Độc giác thừa được không lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa được không lầm lạc. Đối với Đại thừa được không lầm lạc, đối với người theo Đại thừa được không lầm lạc. Thường làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo. Đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai – hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo râu tóc – đều không lầm lạc. Đối với pháp Đại thừa thường được tiến tới, không bị thối chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng. Đối với tất cả định, các đà-la-ni, các nhẫn, các địa mau được tự tại, không bị thối chuyển. Thường được gặp các bạn lành tu tập theo. Thường được gặp tất cả Phật và các đệ tử Thanh văn Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng. Đối với các thiện căn thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề tu các hạnh nguyện mà không nhàm chán, được phước báo như đã nói rộng ở trước.

    Xem thêm:

  • Phật nói Luận A Tỳ Đàm về Sự Thế Giới Thành Lập - Kinh Tạng
  • Kinh Bảy Giấc Mộng Của A Nan – Thích Nữ Tuệ Thành dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Lí Thú Lục Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Thập Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán - Kinh Tạng
  • Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu Đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Đại Bi Phân Đà Lợi - Kinh Tạng
  • Phật Nói Kinh Đại Thừa Thiện Kiến Biến Hóa Văn Thù Sư Lợi Hỏi Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Nói Về Tám Thói Xấu Của Ngựa - Kinh Tạng
  • A Di Đà Thông Tán Sớ - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Thiện Kiến Biến Hóa Văn Thù Sư Lợi Vấn Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Thắng Quân Hóa Thế Bách Luận Già Tha - Kinh Tạng
  • Kinh Vua Thắng Quân Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh Bảy Giấc Mộng Của A Nan – Huyền Thanh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trưởng Giả Cự Lực Hỏi Về Đại Thừa - Kinh Tạng
  • Quán Niệm A Di Đà Phật Tướng Hải Tam Muội Công Đức Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Giảng Giải Tinh Yếu Kinh A Di Đà - Kinh Tạng
  • Kinh Phạm Thiên Trì Tâm Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh Tôn Giả Hộ Quốc Hỏi Về Đại Thừa - Kinh Tạng
  • Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Vô Tương Thập Lễ - Kinh Tạng