QUYỂN 10
PHẨM 26: XẢ THÂN
Thế Tôn đã nói cho đại chúng nghe nhân duyên xưa của mười ngàn thiên tử, bây giờ lại bảo: “Vào thời quá khứ tu đạo bồ-tát, Ta không chỉ thí nước và thức ăn cứu sống đàn cá mà còn xả bỏ cả thân quí này. Những việc như thế, hãy cùng xem xét”.
Như Lai Thế Tôn, Ứng Chánh Đẳng Giác, tối tôn tối thắng trong cõi trời người, bậc có trăm ngàn tia sáng chiếu soi khắp cả mười phương, có nhất thiết trí, công đức viên mãn. Bấy giờ Ngài dẫn các tì-kheo và đại chúng đến thôn Bàn-già-la, rồi vào trong một khu rừng. Tuy là khu rừng, nhưng đất bằng phẳng, không có gai gốc, lại nhiều hoa thơm, cỏ xanh mềm mịn trải kín khắp nơi. Thế Tôn bảo cụ thọ A-nan rằng: “Ông có thể trải tòa cho Như Lai tại gốc cây này!”. A-nan vâng lời, trải xong bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con đã trải xong và cũng đã đến thời gian thích hợp!”.
Bấy giờ Thế Tôn kiết-già trên tòa, toàn thân ngay thẳng, tâm ý chuyên nhất; Ngài bảo các vị tì-kheo: “Các ông muốn thấy xá-lợi của vị bồ-tát khổ hạnh ở quá khứ chăng?”. Các vị tì-kheo đồng thưa: “Chúng con rất muốn”. Thế Tôn liền đặt cánh tay hoàn hảo, đầy đủ trăm phước tướng xuống mặt đất, tức thời mặt đất khởi sáu hình thái chấn động, sau đó nứt ra, một tháp bảy báu có màn lưới báu bao phủ phía trên bỗng nhiên vọt lên. Đại chúng thấy vậy, đều cho hiếm có. Thế Tôn từ tòa đứng dậy đảnh lễ, nhiễu quanh tháp rồi trở về chỗ ngồi. Ngài bảo A-nan: “Ông có thể mở cửa ngôi tháp này”. Vâng lời Phật dạy, A-nan mở tháp, thấy hòm bảy báu được trang trí nhiều kì trân dị bảo. A-nan bạch Phật: “Con thấy có một cái hòm bảy báu, trang trí rất nhiều châu ngọc quí giá”. Phật bảo A-nan: “Ông có thể mở chiếc hòm ấy ra!”. A-nan vâng lời, mở hòm thấy có xá-lợi trắng tinh như ngọc, như hoa câu-vật-đầu, liền bạch Đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Trong hòm này có xá-lợi, màu sắc tuyệt diệu lạ thường”. Phật lại bảo rằng: “Ông có thể mang xá-lợi đến đây!”. A-nan liền dâng xá-lợi lên Phật. Thế Tôn nhận rồi bảo các tì-kheo: “Các ông nên xem xá-lợi của vị bồ-tát khổ hạnh!”. Sau đó Thế Tôn nói kệ dạy rằng:
“Thắng đức bồ-tát hợp trí huệ
Tinh tấn, dõng mãnh sáu độ viên
Tu hành không nghỉ, vì đạo giác
Tâm luôn bền vững, mệt chẳng nề.
Tì-kheo các ông cần phải đảnh lễ xá-lợi bồ-tát. Xá-lợi này được huân kết từ hương giới, hương định và hương huệ, là ruộng phước tối thượng rất khó gặp”. Các tì-kheo và tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy một lòng chắp tay, cung kính đảnh lễ xá-lợi bồ-tát, tất cả ca ngợi là chưa từng có. Bấy giờ A-nan đến lễ chân Phật, và bạch Ngài rằng: “Bạch đức Như Lai, Ngài là đại sư của cả muôn loài, siêu việt ba cõi, tất cả hữu tình hết lòng cung kính, vì sao đảnh lễ phần xá-lợi này?”.
Đức Phật liền bảo: “Nhờ cốt thân này mà Ta mau chóng thành tựu Vô thượng chánh đẳng bồ-đề. Vì báo ân xưa, nên Ta kính lễ. Bây giờ để trừ những mối nghi ngờ trong lòng ông và tất cả đại chúng, Ta sẽ nói về nhân duyên ngày xưa của xá-lợi này.
Các ông lắng nghe và suy nghĩ kĩ”. A-nan bạch Phật: “Chúng con rất muốn được nghe, cúi xin Thế Tôn giảng nói!”.
Thế Tôn dạy rằng: “Ngày xưa có vua Đại Quân giàu có, của tiền vô lượng, kho lẫm tràn đầy, quân đội hùng mạnh, các nước lân cận đều phải qui phục. Vua dùng chánh pháp giáo hóa, nhân dân đông nhiều, không có oán địch. Vị đại phu nhân sanh ba vương tử, dung mạo đoan chánh, ai cũng muốn nhìn. Vương tử thứ nhất tên là Ma-ha Ba-la, thứ hai tên là Ma-ha Đề-bà, thứ ba tên là Ma-ha Tát-đỏa. Một hôm vua muốn dạo chơi thưởng ngoạn nơi chốn núi rừng, ba vị hoàng tử cũng đồng xin theo. Vì tìm hoa quả, nên ba vương tử rời xa vua cha, dần dần đến một khu rừng trúc và nghỉ ngơi tại đây. Bấy giờ vương tử thứ nhất bảo rằng: ‘Ta rất lo sợ, trong khu rừng này, chúng ta có thể bị thú dữ hại’. Vương tử thứ hai nói rằng: ‘Em không tiếc thân, chỉ sợ đối với những người yêu thương gặp phải nỗi khổ xa lìa’. Vương tử thứ ba dùng kệ nói với hai anh mình rằng:
Nơi đây là chốn thần tiên trú
Em không sợ hãi, sầu biệt li
Thân tâm tràn ngập niềm an lạc
Sẽ được công đức thật đặc thù.
Sau khi nói lên suy nghĩ của mình, các vị vương tử đi về phía trước. Cả ba bỗng gặp một con hổ mẹ sanh bảy hổ con mới được bảy ngày, bị các hổ con quấn quít vây quanh, không thể kiếm ăn, đói khát khốn khổ, thân hình ốm gầy, mạng sống không còn bao lâu. Thấy vậy vương tử thứ nhất nói rằng: ‘Thương thay, thương thay! Hổ mẹ mới sanh chỉ được bảy ngày, đàn con vây quanh, không rảnh đi tìm thức ăn thức uống; đói khát bức ép, chắc nó sẽ ăn cả thịt con mình’. Tát-đỏa hỏi rằng: ‘Hổ này thường ăn những gì?’. Vương tử thứ nhất dùng kệ đáp rằng:
Hổ, báo, sư tử và sài lang
Bản tánh thường thích thịt máu tanh
Không có những gì ngoài thứ ấy
Cứu được thân mạng quá ốm gầy.
Vương tử thứ hai nghe thế liền nói: ‘Hổ mẹ ốm gầy, lại bị đói khát, chắc không bao lâu ắt nó sẽ chết, nhưng chúng ta biết tìm đâu cho ra loại thức ăn này, ai lại xả thân cứu nó’. Vương tử thứ nhất tiếp lời em rằng: ‘Thân mạng là vật khó xả bỏ nhất’. Vương tử Tát-đỏa liền nói với hai anh: ‘Chúng ta phàm phu, luyến tiếc thân mình, không có trí huệ, không thể làm lợi ích cho kẻ khác, nhưng bậc Thượng sĩ[1], lòng bi sâu nặng, thường vì lợi người mà quên thân mình’. Vương tử lại nghĩ: ‘Thân này của ta, trải trăm ngàn đời, để hoại vô ích, hôm nay sao ta không thể bỏ nó như bỏ đàm dãi, dùng cứu cơn đói cho bầy hổ này’. Các vị vương tử bàn luận như thế, đều sanh lòng từ xót xa thương cảm, chăm nhìn hổ đói, mắt chẳng tạm rời. Chần chừ hồi lâu rồi lại bỏ đi. Bấy giờ vương tử Tát-đỏa nghĩ rằng: ‘Nay chính là lúc ta xả thân mạng, vì sao như thế? Vì:
Nhiều kiếp lâu xa giữ thân này
Máu mủ hôi dơ tiếc gì đây
Cung cấp đồ nằm và y phục
Ngựa voi xe cộ với tiền tài
Những pháp biến thiên không bền chắc
Mãi cầu chẳng đủ, khó giữ thay
Tuy thường cung dưỡng nhưng lại oán
Cuối cùng cũng bỏ, chẳng biết ân.
Lại nữa thân này thật không bền chắc, không lợi ích đối với ta; nó rất đáng sợ như giặc, rất dơ bẩn như đống phân. Hôm nay ta nên giúp cho thân này có sự nghiệp lớn, là làm chiếc thuyền trên biển sanh tử, lìa xa luân hồi, đến bờ giải thoát. Hơn nữa nên biết, nếu bỏ thân này, tức bỏ vô lượng căn bệnh nguy hiểm, trăm ngàn nỗi sợ. Thân này chỉ toàn phân tiểu hôi dơ, dễ tan vỡ như bọt nước, là nơi vi trùng tụ tập, chỉ do huyết mạch, gân xương liên kết giữ gìn mà thôi, thật đáng nhàm chán. Do đó hôm nay ta nên buông bỏ để cầu niết-bàn chân thật rốt ráo, vĩnh viễn xa lìa những nỗi lo sợ, vô thường khổ não, chấm dứt sanh tử, đoạn tuyệt trần lụy, dùng sức định huệ huân tu viên mãn, đầy đủ trăm phước trang nghiêm, thành nhất thiết trí, chứng ngộ pháp thân vi diệu mà các Đức Phật khen ngợi. Sau khi đã chứng, ban cho chúng sanh vô lượng pháp lạc’.
Vương tử thứ ba khởi tâm dõng mãnh, phát nguyện rộng sâu, dùng niệm đại bi nuôi lớn tâm này. Vì ngại hai anh sợ hãi ngăn cản, không thể thành tựu ý nguyện của mình, nên Tát-đỏa bảo: ‘Hai anh về trước, em sẽ theo sau’. Hai anh đã đi, vương tử Tát-đỏa liền vào trong rừng, đến chỗ bầy hổ, dần cởi y phục treo lên cành trúc và phát nguyện rằng:
Ta vì pháp giới các chúng sanh
Chí cầu bồ-đề vô thượng giác
Khởi tâm đại bi không lay động
Thân phàm phu quí, ta chẳng màng
Bờ kia không lo, không nóng đốt
Chính nơi người trí muốn bước sang
Tất cả chúng sanh trong biển khổ
Hôm nay ta cứu được lạc an.
Sau khi phát nguyện, vương tử buông mình trước bầy hổ đói. Nhưng do oai lực từ bi của ngài nên hổ không thể làm gì được cả. Bồ-tát thấy vậy, liền trèo lên cây gieo mình xuống đất, nhưng thần cây lại đỡ lấy, không bị tổn thương. Bồ-tát suy nghĩ: ‘Hổ quá ốm gầy, sức yếu không thể tự ăn thịt ta’. Thế là bồ-tát lại tìm đao bén nhưng không có được, bèn dùng cành trúc tự đâm vào cổ, khiến máu tuôn ra chảy đến bên hổ. Bấy giờ mặt đất chấn động sáu cách, giống như gió mạnh làm nổi sóng biển, khắp nơi trồi sụt, xao động chẳng yên; mặt trời không chiếu ánh sáng như a-tu-la ngăn che, khắp nơi tối tăm; trời tuôn hoa đẹp và rải hương thơm khắp cả khu rừng. Chư thiên trên không thấy việc này đều khởi tâm tùy hỉ, cho là việc chưa từng có, nên đồng ca ngợi:
Đại sĩ cứu giúp vận tâm bi
Dõng mãnh, không tiếc, lòng hoan hỉ
Xem bao chúng sanh như con một
Xả thân cứu khổ, phước chẳng bì
Cầu đạt chân thường, nơi thắng diệu
Sanh tử buộc ràng vĩnh xuất li
Không lâu sẽ vào Vô thượng giác
Vô sanh, an tĩnh, bất tư nghì
Hổ đói thấy máu từ cổ bồ-tát tuôn ra liền đến uống và ăn thịt, chỉ còn lại xương. Bấy giờ vương tử thứ nhất bỗng thấy mặt đất chấn động, liền nói với em:
Mặt đất, núi sông đều chấn động
Hoa trời rơi loạn khắp hư không
Nơi nơi tăm tối không mặt nhật
Nhất định em ta xả thân rồi!
Vương tử thứ hai nghe anh nói thế, cũng dùng kệ tiếp:
Nghe Tát-đỏa nói lời từ bi
Thấy hổ mẹ kia thân gầy suy
Sợ rằng quá đói ăn con mất
Nghi nó xả thân chẳng tiếc gì.
Hai vị vương tử vô cùng sầu khổ, khóc lóc thở than, rồi liền chạy đến nơi bầy hổ nằm. Hai người bỗng thấy y phục Tát-đỏa treo trên cành tre, xương cốt và tóc vung vãi khắp nơi, máu chảy thấm ướt mặt đất, chẳng thể kềm lòng, ngã nhào trên những đoạn xương, mê man hồi lâu, rồi mới tỉnh lại. Cả hai huơ tay kêu gào thảm thiết, rồi đồng than rằng:
Dung mạo thật đoan nghiêm
Mẹ cha luôn ái niệm
Vì sao cùng dạo chơi
Riêng xả thân chẳng về.
Nếu mẹ cha hỏi đến
Chúng ta đáp thế nào
Thà cả ba cùng chết
Chứ mong sống được sao!
Hai vị vương tử khóc lóc buồn thương một lát rồi đi. Bấy giờ những người hầu của vương tử Tát-đỏa nói với nhau rằng: ‘Vương tử ở đâu, chúng ta tìm xem!’ Cũng trong lúc này, đại phu nhân đang ngủ trên lầu cao, mộng thấy những điềm bất tường: bị cắt hai vú, hàm răng rụng hết, có ba chim câu non thì một con bị chim cắt bắt, còn hai con thì đang trong trạng thái hoảng sợ. Mặt đất chấn động, bà liền tỉnh giấc, nhớ lại giấc mộng, trong lòng vô cùng lo lắng sầu não. Bà nói kệ rằng:
Nay đất chấn động là vì sao?
Núi sông, rừng rậm cũng động dao
Mặt trời không sáng như che chắn
Khác thường mắt máy, ngực cũng đau
Như tim trúng tên, lòng như cắt
Toàn thân rung động, thật chẳng an
Như mộng bất tường ta đã thấy
Chắc là họa lớn. Có thể nào!
Bấy giờ hai vú của đại phu nhân tự nhiên tuôn sữa, bà nghĩ nhất định có tai họa lớn. Lúc ấy có một thị nữ nghe người bên ngoài nói tìm chưa được vương tử, vô cùng lo sợ, tức tốc vào cung thưa phu nhân rằng: ‘Phu nhân biết chăng! Con nghe những người bên ngoài nói tìm thái tử khắp nơi mà không gặp được’. Nghe thế, phu nhân lại càng lo buồn, nước mắt tuôn tràn. Bà đến thưa vua: ‘Thiếp nghe những người bên ngoài nói thế. Lạc đứa con út vô cùng yêu quí của chúng ta rồi!’. Vừa nghe, nhà vua vô cùng kinh hoàng, nghẹn ngào nói rằng: ‘Khổ thay! Hôm nay ta mất đứa con quí nhất’. Rồi vua gạt lệ, an ủi phu nhân: ‘Hiền Thủ! Nàng chẳng nên quá lo buồn, bây giờ chúng ta sẽ cùng đi tìm vương tử Tất-đỏa’. Tức thời vua dẫn các đại thần và quân chúng xuất thành, chia ra nhiều nơi tìm kiếm vương tử. Không lâu, một vị đại thần đến tâu: ‘Thần vừa nghe nói các vị vương tử vẫn được an ổn, xin chớ lo buồn, chỉ có vương tử Tát-đỏa vẫn chưa tìm thấy’. Nghe thế, vua than: ‘Khổ thay! Khổ thay! Mất đứa con yêu quí của ta rồi!’. Vua nói kệ than:
Lúc mới sanh con, vui chẳng bao
Hôm nay con mất, thật khổ đau
Ví như con ta may sống lại
Dẫu thân này mất cũng chẳng sao.
Phu nhân nghe thế, lòng bà đau đớn như bị trúng tên, cũng nói kệ than:
Ba đứa con ta với tùy tùng
Cùng nhau du lãm chốn núi rừng
Chỉ vương tử nhỏ không trở lại
Chắc gặp việc gì thật hiểm hung.
Vị đại thần thứ hai cũng vừa đến, nhà vua vội hỏi: ‘Vương tử yêu quí của chúng ta đâu?’. Vị đại thần đang buồn khổ khóc lóc, cổ họng môi lưỡi khô rát không nói nên lời. Phu nhân lại hỏi:
Mau báo vương tử ở nơi đâu!
Thân ta nóng cháy như lửa dầu
Tâm trí mịt mờ và hoảng loạn
Ngươi để ngực ta vỡ tung sao?
Vị đại thần kia liền thuật lại việc vương tử xả thân, vua và phu nhân nghe qua, lòng càng buồn thảm, nghẹn ngào đi nhanh đến khu vườn trúc. Đến nơi, nhìn thấy xương vung vãi khắp, cả hai ngã nhào trên đất chết giấc, tâm thần mờ mịt, không hay biết gì, giống như gió mạnh quật đổ cây lớn. Đại thần vội vẩy nước lạnh lên người vua và phu nhân, hồi lâu cả hai mới tỉnh, họ lại huơ tay khóc than thảm thiết:
Họa lớn! Thân con đẹp biết bao
Mà vội chết sớm, bởi vì sao?
Ví như ta được ra đi trước
Khổ lớn như thế, thấy đâu nào!
Phu nhân hồi tỉnh, đầu tóc rối bù, lại đấm vào ngực, quằn quại trên đất, như cá trên cạn, như trâu mất con, khóc lóc than van:
Ai giết chết con ta
Xương rơi vãi trên đất
Mất đứa con yêu quí
Buồn khổ chịu nổi sao.
Khổ thay! Ai giết nó?
Đưa đến cảnh thảm sầu
Lòng ta nào sắt đá
Làm sao không nát tan?
Trong mộng ta đã thấy
Hai vú đều bị cắt
Hai hàm răng đều rụng
Đúng nay gặp khổ này.
Lại nữa thấy ba chim
Một con bị cắt bắt
Nay mất đứa con yêu
Mộng xấu thật ứng nghiệm.
Vua cùng phu nhân và hai vương tử buồn thương khóc lóc, vứt bỏ cả xâu chuỗi báu trên thân. Sau đó họ cùng tất cả mọi người thâu nhặt xương cốt vương tử Tát-đỏa xây tháp tôn trí, cung kính cúng dường. Này A-nan-đà! Ông nên biết rằng, đây là xá-lợi của bồ-tát ấy. Ngày xưa tuy còn rất nhiều phiền não tham sân và si, mà Ta có thể ở trong các đường: địa ngục-ngạ quỉ, và cả bàng sanh, tùy duyên cứu giúp chúng sanh thoát khổ; huống gì hôm nay, Như Lai dứt sạch tất cả phiền não, không còn tập khí, là Thiên Nhân Sư, đủ Nhất thiết trí mà không thể vì mỗi mỗi chúng sanh, vào trong địa ngục và các nơi khác trải qua nhiều kiếp, thay họ chịu khổ, khiến họ thoát khỏi phiền não luân hồi sanh tử hay sao? Như Lai dùng kệ lặp lại nghĩa trên:
Ta nhớ vào quá khứ
Vô lượng vô số kiếp
Có lúc làm quốc vương
Hoặc lúc làm vương tử
Thường thực hành bố thí
Xả bỏ thân yêu quí
Cầu xa lìa tử sanh
Đến cõi Diệu bồ-đề.
Ngày xưa có nước lớn
Vua tên là Đại Xa
Vương tử là Dõng Mãnh
Vương tử có hai anh
Là Đại Cừ, Tiểu Cừ.
Một hôm ba anh em
Cùng vào rừng dạo chơi
Thấy hổ bị đói khát
Liền khởi tâm suy nghĩ:
Hổ này lửa đói thiêu
Lại không có gì ăn
Đại sĩ thấy như vậy
Sợ nó thịt cả con
Bèn xả thân không tiếc
Để cứu bầy hổ ấy.
Mặt đất và núi rừng
Đồng loạt đều chấn động
Sông biển cũng sụt trồi
Sóng lớn, nước ngược trôi
Đất trời mất ánh sáng
Tăm tối chẳng thấy gì
Khiến chim thú rừng sâu
Mờ mịt lạc lối về.
Hai anh lòng nghi lạ
Lo lắng thêm khổ sầu
Liền cùng với tùy tùng
Vào rừng tìm cùng khắp.
Anh em lại bàn luận
Đến chốn non sâu tìm
Cùng khắp đều không thấy
Thấy hổ nơi rừng vắng
Một mẹ và bảy con
Miệng dính đầy máu tươi
Những đoạn xương và tóc
Vung vãi khắp mọi nơi.
Hai vương tử thấy thế
Lòng vô cùng sợ hãi
Mê ngất ngã trên đất
Mờ mịt, chẳng biết gì
Bụi đất lấm khắp thân
Sáu căn chẳng nhận biết.
Tùy tùng của Tát-đỏa
Khóc lóc, lòng xót đau
Dùng nước rưới tỉnh lại
Huơ tay, miệng kêu gào.
Lúc bồ-tát xả thân
Mẹ hiền đang trong cung
Cùng năm trăm thể nữ
Hưởng thọ những niềm vui.
Hai ngực của phu nhân
Bỗng nhiên lại tuôn sữa
Toàn thân như kim chích
Đau đớn thật bất an.
Nghĩ tưởng đến mất con
Đau như tim bị bắn
Liền đến báo với vua
Tỏ bày bao khổ não.
Khóc lóc không nín được
Đau xót nói với vua:
Đại vương nay nên biết
Thiếp vô cùng sầu khổ
Hai ngực sữa bỗng tuôn
Không thể tự ngăn được
Toàn thân như kim chích
Ngực nóng muốn vỡ tung
Đêm trước thấy ác mộng
Nhất định điềm mất con
Xin đại vương cứu thiếp
Tìm xem con còn mất!
Mộng thấy ba chim câu
Chim nhỏ là con quí
Bỗng bị chim cắt bắt
Sầu bi thật khó bày.
Lòng thiếp đầy nỗi sợ
Cuộc sống chẳng còn lâu
Sợ mạng con chẳng toàn
Xin đại vương mau kiếm.
Thiếp nghe người ngoài nói
Chẳng tìm thấy con nhỏ
Lòng thiếp thật bất an
Xin đại vương thương xót!
Phu nhân tỏ bày rồi
Đau buồn, tâm mê muội
Toàn thân ngã trên đất
Mờ mịt chẳng biết gì.
Thể nữ thấy phu nhân
Bất tỉnh nằm trên đất
Đều cất tiếng khóc lớn
Lo sợ mất chỗ nương.
Vua nghe những lời này
Đau buồn không chịu thấu
Liền triệu tập quần thần
Tìm kiếm con yêu quí.
Tất cả đều xuất thành
Chia phân khắp mọi ngả
Làm sao ta gặp con
Giải tỏa nỗi sầu buồn.
Mọi người đều truyền nhau
Rằng vương tử đã chết
Ai nghe cũng thương xót
Buồn than khổ dâng tràn.
Bấy giờ vua Đại Xa
Khóc lóc rời chỗ ngồi
Đến bên đại phu nhân
Dùng nước vẩy lên thân
Sau một thời gian lâu
Phu nhân mới hồi tỉnh.
Lại than khóc hỏi vua:
Con thiếp còn sống chăng?
Vua đáp lời phu nhân:
Ta đã sai mọi người
Đi khắp nơi tìm kiếm
Giờ vẫn chưa có tin.
Vua lại khuyên phu nhân
Nàng chớ quá đau buồn
Hãy giữ lòng bình tĩnh
Cùng xuất thành kiếm tìm.
Vua liền cùng phu nhân
Xa giá mà lên đường
Kêu gào thật thảm thê
Lòng nóng như lửa đốt.
Hàng trăm ngàn quan dân
Cũng theo vua xuất thành
Muốn kiếm tìm vương tử
Tiếng khóc than chẳng dứt.
Vì tìm con yêu quí
Vua nhìn khắp mọi nơi
Bỗng một người chạy đến
Thân thể nhuốm máu tươi
Bụi đất dính khắp người
Khóc than chạy về trước.
Vua thấy cảnh ghê ấy
Lòng lại càng sầu lo
Vua liền đưa hai tay
Kêu gào thật thê thảm.
Thấy đại thần thứ nhất
Vội vàng chạy gấp đến
Tâu trình đại vương rằng:
Xin chớ quá đau buồn
Vương tử quí của ngài
Tuy bây giờ chưa thấy
Nhưng lát nữa sẽ gặp
Nên bớt nỗi ưu sầu.
Vua lại đi về trước
Không lâu, vị thứ hai
Cũng đến chỗ của vua
Khóc lóc tâu trình rằng:
Hai vương tử vẫn còn
Nhưng vô cùng sầu khổ
Còn vương tử thứ ba
Đã bị vô thường cướp.
Thấy hổ mẹ mới sinh
Đói sắp ăn con mình
Vương tử khởi tâm bi
Nguyện cầu đạo Vô thượng
Sẽ độ khắp chúng sanh
Chuyên tâm diệu bồ-đề
Rộng lớn, sâu như biển.
Nên trèo lên nơi cao
Gieo mình trước hổ đói
Hổ yếu chẳng thể ăn
Lại dùng tre đâm cổ
Hổ bèn ăn vương tử
Chỉ còn lại cốt xương.
Nhà vua và phu nhân
Nghe nói, liền mê ngất
Lòng ngập tràn đau khổ
Lửa phiền não đốt thiêu.
Lại dùng nước chiên-đàn
Đại thần rưới cả hai
Vừa tỉnh, lại gào khóc
Hai tay đấm vào ngực.
Đại thần thứ ba đến
Tâu với nhà vua rằng:
Thần thấy hai vương tử
Mê ngất nằm trong rừng
Thần dùng nước lạnh rưới
Hồi lâu mới tỉnh thần.
Lại nhìn quanh khắp nơi
Như thấy lửa cháy tràn
Vừa đứng dậy, lại ngã
Gào khóc chẳng tự ngăn
Đưa tay lên than rằng:
“Em tôi thật hiếm có!”
Vua nghe những lời này
Lòng càng thêm nóng đốt
Phu nhân lại gào khóc
Cất lớn tiếng nói rằng:
Đứa con nhỏ nhất ta yêu quí
Đã bị vô thường cướp mất đi
Hai vương tử lớn nay còn đó
Nhưng lại buồn đau chẳng biết gì.
Nay ta phải gấp vào trong núi
Bảo giữ gìn thân, chớ nghĩ suy
Thế là bà tiến về phía trước
Đến nơi vương tử đã ra đi.
Gặp hai vương tử đang gào khóc
Đấm ngực, sầu thảm, mất dung nghi
Mẹ cha buồn khổ ôm chầm lấy
Rồi cùng đưa đến chỗ xả thi.
Đến nơi bồ-tát bố thí mạng
Tụ lại kêu gào thật đớn đau
Cởi xâu chuỗi báu, lòng đau xót
Rồi cùng thâu lấy những cốt xương
Kính cẩn đặt vào trong hòm quí
Rồi cùng cung kính mà cúng dường
Lại xây tháp báu mà tôn trí
Ôm nỗi buồn đau trở về cung.
Phật bảo A-nan-đà:
Tát-đỏa thời quá khứ
Hôm nay chính là Ta
Chớ nghĩ là ai khác.
Đại Xa chính vua cha
Phu nhân là mẫu hậu
Con trưởng chính Từ Thị
Kế đến là Văn-thù.
Hổ mẹ, Đại thế chủ
Bảy hổ con chính là
Mục-kiền-liên, Xá-lợi
Và năm vị tì-kheo.
Hôm nay Ta giảng nói
Việc lợi tha ngày trước
Bồ-tát hành như thế,
Nhân thành Phật, nên học.
Lúc bồ-tát xả thân
Ngài phát nguyện rộng lớn:
Nguyện ta xả thân này
Đời sau lợi chúng sanh.
Đây là tháp bảy báu
Nơi Ta đã xả thân
Trải qua thời gian lâu
Chìm sâu vào lòng đất.
Do sức thệ nguyện xưa
Tùy duyên hành cứu độ
Vì lợi lạc trời người
Tháp từ đất vọt lên.
Khi Thế Tôn nói nhân duyên quá khứ, vô lượng tăng-kì đại chúng trời người vui buồn lẫn lộn, cảm than đây là việc chưa từng có, nên đồng phát tâm Vô thượng bồ-đề. Đức Phật lại bảo thần cây bồ-đề: “Vì báo ân nên Ta lễ tháp này!”.
Sau đó Đức Phật thâu nhiếp thần lực, ngôi tháp lại ẩn vào trong lòng đất.
PHẨM 27: BỒ-TÁT MƯỜI PHƯƠNG CA NGỢI
Khi đức Thích-ca thuyết kinh vua này, vô lượng trăm ngàn vạn ức bồ-tát trong khắp mười phương từ cõi nước mình đến núi Linh Thứu, năm chi tiếp đất, đảnh lễ Đức Phật, một lòng cung kính, chắp tay dùng kệ ca ngợi Ngài rằng:
Thân Phật vi diệu sắc vàng ròng
Ánh sáng rực khắp như Kim sơn
Sạch trong, mềm mại như sen đẹp
Vô lượng màu sắc cùng điểm tô.
Đầy đủ đại nhân ba hai tướng
Hoàn hảo tám mươi vẻ tùy hình
Ánh sáng rực rỡ không gì sánh
Thanh tịnh giống như vầng trăng trong.
Âm giọng trong suốt thật tuyệt vời
Lại như sấm động, sư tử rống
Có tám đặc tánh hợp căn cơ
Ca-lăng-tần-già hót chẳng bằng.
Thân hình đầy đủ trăm phước tướng
Ánh sáng viên mãn thật sạch trong
Trí huệ lắng trong như biển lớn
Công đức rộng lớn tựa hư không.
Viên quang chiếu khắp mười phương cõi
Tùy duyên cứu độ chúng hữu tình
Phiền não nhiễm ô đều dứt sạch
Đuốc pháp cháy mãi chẳng nghỉ dừng.
Thương xót lợi ích các chúng sanh
Đời này, đời sau giúp an lành
Lại luôn diễn bày Đệ nhất nghĩa
Khiến chứng tịch diệt Đại niết-bàn.
Thuyết diệu pháp cam lộ[2] thù thắng
Ban diệu nghĩa cam lộ sâu mầu
Dẫn vào thành cam lộ[3] tịch diệt
Khiến được vui cam lộ[4] vô vi.
Thường vào nơi biển lớn tử sanh
Cứu vớt bao chúng sanh đau khổ
Khiến họ đứng vững nơi an ổn
Ban vui vừa ý chẳng nghĩ bàn.
Biển đức Như Lai thật rộng sâu
Không thể thí dụ mà biết được
Luôn khởi đại bi với chúng sanh
Phương tiện giáo hóa không ngơi nghỉ.
Biển trí Như Lai cũng vô bờ
Giả sử tất cả chúng trời người
Ngàn vạn ức kiếp cùng suy tính
Cũng không thể biết một vài phần.
Nay con tán dương công đức Phật
Chỉ bằng một giọt trong biển ấy
Được bao công đức hướng chúng sanh
Nguyện mau chứng thành Vô thượng giác.’
Nghe bài kệ xong, Đức Phật khen ngợi: “Hay thay, hay thay! Các ông ca ngợi công đức của Phật như thế, có thể lợi ích tất cả chúng sanh, thực hiện Phật sự rộng khắp mọi nơi, diệt vô lượng tội, sanh vô lượng phước”.
PHẨM 28: BỒ-TÁT DIỆU TRÀNG CA NGỢI
Bấy giờ bồ-tát Diệu Tràng đứng dậy, y bày vai phải, gối phải tiếp đất, chắp tay hướng về Đức Phật ca ngợi:
Mâu-ni viên mãn trăm phước tướng
Công đức nơi thân cũng không lường
Thanh tịnh uy nghi, người chiêm ngưỡng
Như ngàn mặt trời chiếu mười phương.
Vô biên sắc màu, sáng rực rỡ
Như đống châu báu thật đoan nghiêm
Tựa mặt trời lên soi cùng khắp
Trắng, hồng xen lẫn với sắc vàng.
Như núi vàng ròng chiếu khắp nơi
Trăm ngàn cõi nước rực sáng soi
Diệt trừ cho đời vô lượng khổ
Khiến khắp chúng sanh trọn an bình.
Phật đủ các tướng thật nghiêm tịnh
Chúng sanh thích nhìn không nhám chán
Tóc thật mềm mịn màu tía xanh
Như ong đen đậu trên hoa đẹp.
Đại hỉ, đại xả trọn trang nghiêm
Đại từ, đại bi đều đầy đủ
Ba mươi hai tướng, tám mươi hảo
Do bồ-đề phần mà thành tựu.
Như Lai hay ban các phước lợi
Nên luôn có được niềm an vui
Diệu đức, Như Lai cũng trọn vẹn
Nên ánh sáng chiếu khắp muôn nơi.
Hào quang Như Lai thật hoàn hảo
Giống như mặt trời giữa hư không
Lại như Tu-di trọn công đức
Thị hiện cùng khắp cả mười phương.
Kim khẩu Ngài đẹp và uy nghiêm
Răng trắng, khít, đều như tuyết, ngọc
Khuôn mặt Như Lai không gì sánh
Như trăng tròn sáng tại hư không
Lại thêm lông trắng giữa hai mày
Trong ngần, xoay phải tựa pha lê
Đức Phật bảo bồ-tát Diệu Tràng: “Ông đã khéo léo ca ngợi công đức Như Lai như thế, thật chẳng nghĩ bàn, có thể lợi ích tất cả chúng sanh, khiến người chưa biết tùy thuận tu tập”.
PHẨM 29: THẦN CÂY BỒ-ĐỀ CA NGỢI
Thần cây bồ-đề cũng dùng lời kệ ca ngợi Thế Tôn:
Kính lễ Như Lai!
Đấng tuệ giác hoàn toàn thanh tịnh
Đấng tuệ giác thường cầu chánh pháp
Đấng tuệ giác xa lìa phi pháp
Đấng tuệ giác hằng vô phân biệt!
Hiếm có thay! Thế Tôn vô biên hạnh
Hiếm có thay! Khó gặp như Ưu-đàm
Hiếm có thay! Như Sơn vương trấn biển
Hiếm có thay! Thiện Thệ sáng vô cùng
Hiếm có thay! Điều Ngự nguyện đại từ
Hiếm có thay! Dòng Thích sáng hơn nhật.
Giảng thuyết kinh vua trong các kinh
Thương xót làm lợi ích quần sinh
Mâu-ni vắng lặng, căn an định
Niết-bàn vắng lặng, Ngài đã vào
Đẳng trì vắng lặng, Ngài an trụ
Cảnh giới sâu lắng, Ngài thấu cùng.
Đấng Lưỡng Túc trụ nơi rỗng lặng
Đệ tử Thanh văn, thân cũng không
Thể tánh các pháp thảy đều không
Tất cả chúng sanh đều rỗng lặng.
Con thường nhớ nghĩ các Đức Phật
Con thường thích nhìn các Thế Tôn
Con luôn phát khởi lòng kính trọng
Con thường gặp mặt trời Như Lai
Con thường đảnh lễ đức Thế Tôn
Nguyện luôn khát ngưỡng, không lìa bỏ
Cảm xúc rơi lệ, lòng chẳng quên
Thường được phụng sự không nhàm chán.
Cúi xin Thế Tôn khởi từ bi
Cho con thường thấy được tôn dung
Phật và Thanh văn đều thanh tịnh
Cúi xin cứu độ khắp trời người.
Thân Phật trong sạch như hư không
Như huyễn, dương diễm[5], trăng trong nước
Xin thuyết pháp môn Cam lộ diệt
Hay sanh công đức chẳng tính lường
Thanh tịnh, từ bi và chánh hạnh
Của Phật Thế Tôn chẳng thể suy
Thanh văn, Độc giác chẳng biết được
Đại tiên, bồ-tát cũng chẳng hay.
Cúi xin Thế Tôn lòng thương xót
Cho con được thấy thân đại bi
Ba nghiệp siêng năng phụng Từ Tôn
Chóng vượt tử sanh về chân tế.
Nghe nói kệ xong, Thế Tôn liền dùng Phạm âm[6] bảo thần cây bồ-đề rằng: “Hay thay, hay thay! Này thiện nữ thiên! Cô có thể vì tự lợi-lợi tha, tuyên dương diệu tướng Pháp thân thanh tịnh, chân thật của Ta. Nhờ công đức này, cô mau chóng chứng Vô thượng bồ-đề, giúp cho tất cả chúng sanh tu tập; nếu ai nghe được, sẽ thể nhập pháp Cam lộ vô sanh[7]”.
PHẨM 30: THIÊN NỮ ĐẠI BIỆN TÀI CA NGỢI
Đại Biện Tài từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay dùng trực ngôn ca ngợi Thế Tôn rằng: “Kính lễ Thích-ca Mâu-ni Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, thân màu vàng ròng, cổ như loa bối, mặt như trăng rằm, mắt như sen xanh, môi thật đỏ đẹp như màu pha lê, mũi cao thon thẳng như đỉnh vàng ròng, răng trắng khít đều như câu-vật-đầu, ánh sáng của thân như ngàn mặt trời soi chiếu khắp nơi, màu sắc ánh sáng như vàng Diêm-phù, nói ra điều gì đều không sai lầm, chỉ dạy ba môn, mở đường bồ-đề, tâm luôn thanh tịnh, ý cũng như thế. Nơi Phật an trụ và cảnh sở hành cũng đều thanh tịnh, lìa phi oai nghi, cử chỉ không lỗi, khổ hạnh sáu năm, tam chuyển pháp luân, cứu chúng sanh khổ, đến bờ giác ngộ, thân tướng hoàn hảo, như câu-vật-đầu, huân tu sáu độ, ba nghiệp chân thật, đủ Nhất thiết trí, tự lợi lợi tha, giảng nói điều gì đều vì chúng sanh, không nói luống suông, là sư tử lớn trong dòng họ Thích, dõng mãnh kiên cường, trọn tám giải thoát. Nay con tùy sức ca ngợi ít phần công đức Như Lai, giống như con muỗi hút nước biển lớn. Nguyện dùng phước này giúp cho hữu tình mãi thoát sanh tử, thành tựu bồ-đề”.
Thế Tôn nghe xong, nói với Thiên nữ: “Hay thay, hay thay! Cô đã tu tập đầy đủ biện tài, hôm nay lại thêm ca ngợi công đức của Ta, cô sẽ mau chứng pháp môn Vô thượng, đầy đủ tướng hảo, lợi ích hữu tình”.
PHẨM 31: PHÓ CHÚC
Bấy giờ Phật bảo vô lượng bồ-tát và trời người rằng: “Các ông nên biết! Vô lượng vô số đại kiếp Ta đã siêng năng tu tập hạnh khổ mới đạt được pháp sâu xa, đó là chánh nhân bồ-đề; hôm nay Ta đã giảng nói rõ ràng cho các ông nghe. Vậy trong chúng đây, có ai dõng mãnh, tinh tiến cung kính hộ trì pháp này, để sau khi ta diệt độ lưu truyền rộng khắp, làm cho chánh pháp trụ mãi thế gian”. Trong chúng hội đây có sáu mươi câu-chi đại bồ-tát, sáu mươi câu-chi vị trời, tất cả đồng nói: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng con vui thích, không tiếc thân mạng cung kính hộ trì pháp môn sâu xa, chánh nhân bồ-đề mà đức Thế Tôn đã đạt được sau vô lượng đại kiếp tu hành khổ hạnh. Sau khi Như Lai niết-bàn, chúng con sẽ mãi lưu truyền rộng khắp, làm cho chánh pháp trụ mãi thế gian”. Các Đại bồ-tát liền đối trước Phật thuyết kệ nguyện rằng:
Phật nói lời chân thật
An trụ trong thật pháp
Do sự chân thật ấy
Hộ trì cho kinh này.
Đại bi là giáp trụ
An trú nơi đại từ
Do sức từ bi ấy
Hộ trì cho kinh này.
Tư lương phước viên mãn
Sanh khởi tư lương trí
Do tư lương đầy đủ
Hộ trì cho kinh này.
Hàng phục tất cả ma
Phá dẹp các tà luận
Do đoạn trừ ác kiến
Hộ trì được kinh này.
Hộ Thế và Thích, Phạm
Cho đến a-tu-la
Long, thần và dạ-xoa
Đều hộ trì kinh này.
Thần trên đất, trong không
Trụ mãi ở nơi đây
Vì kính tuân lời Phật
Hộ trì cho kinh này.
Tương ưng bốn Phạm trụ[8]
Đủ đầy bốn Thánh đế[9]
Hàng phục cả bốn ma[10]
Hộ trì cho kinh này.
Hư không thành chất ngại
Chất ngại biến hư không
Được chư Phật hộ trì
Không gì lay động được.
Bốn vị thiên vương nghe Đức Phật nói về việc hộ trì kinh này, đều tùy hỉ và đồng nói kệ:
Chúng con cùng tất cả
Quyến thuộc nữ lẫn nam
Đều một lòng hộ trì
Khiến kinh này lưu thông
Như có người trì kinh
Tạo chánh nhân bồ-đề
Chúng con ở bốn phương
Luôn phụng sự, hộ trì.
Trời Đế Thích cũng chắp tay cung kính nói kệ:
Chư Phật chứng pháp này
Vì muốn báo ân sâu
Lợi ích các bồ-tát
Nên ra đời thuyết kinh
Nay con báo ân Phật
Nên thành tâm cúng dường
Lại hộ trì kinh này
Và những người trì kinh.
Thiên tử cõi trời Đâu-suất chắp tay cung kính thuyết kệ:
Phật thuyết kinh vua này
Nếu có người thọ trì
Sẽ trụ vị bồ-đề
Đời sau sanh Đâu-suất
Thế Tôn! Con vui mừng
Xả báo tốt cõi trời
Đến cõi Diêm-phù-đề
Tuyên dương kinh điển này.
Phạm vương, chủ cõi Ta-bà chắp tay cung kính nói kệ:
Vô lượng các tĩnh lự[11]
Các thừa[12] và giải thoát
Đều từ kinh này sanh
Cho nên Phật giảng nói
Nơi nào thuyết kinh này
Ta bỏ vui cõi Phạm
Đến nơi ấy nghe pháp
Và cũng để hộ trì.
Thương Chủ, con của ma vương cung kính chắp tay nói kệ:
Nếu có người thọ trì
Kinh hợp chánh nghĩa này
Chẳng thuận việc của ma
Trừ sạch các ác nghiệp
Con sẽ siêng hộ trì
Phát tâm đại tinh tấn
Lưu truyền khắp mọi nơi.
Ma vương cung kính chắp tay nói kệ:
Ai thọ trì kinh này
Nhiếp phục được phiền não
Con một lòng bảo vệ
Khiến họ được an lạc
Người nào thuyết kinh này
Ma không có cơ hội
Do oai thần của Phật
Con sẽ đến hộ trì.
Diệu Cát Tường thiên đối trước Đức Phật chắp tay cung kính nói kệ:
Bồ-đề của chư Phật
Được thuyết từ kinh này
Ai chí tâm thọ trì
Là cúng dường Như Lai
Con cũng sẽ thọ trì
Thuyết cho câu-chi trời
Người cung kính lắng nghe
Con khuyên đến bồ-đề.
Bồ-tát Từ Thị chắp tay cung kính mà nói kệ rằng:
Thấy ai trụ bồ-đề
Sẽ làm bạn không mời
Cho dù bỏ thân mạng
Cũng hộ trì kinh vua
Con được nghe pháp này
Sẽ về cõi Đô-sử[13]
Được Thế Tôn gia hộ
Giảng thuyết cho chư thiên
Thượng tọa Đại Ca-diếp-ba chắp tay cung kính nói kệ:
Trong đại chúng Thanh văn
Phật khen con trí sáng
Nay con tùy sức mình
Hộ trì kinh vua này
Người nào siêng thọ trì
Con sẽ giúp đỡ họ
Trao cho sức biện tài
Và thường khen:“Hay thay!”.
Cụ thọ A-nan chắp tay cung kính mà nói kệ rằng:
Chính con nghe từ Phật
Vô lượng các kinh điển
Mà chưa từng được nghe
Kinh vua sâu mầu này
Nay đã được nghe rồi
Đích thân, trước Phật nhận
Rồi sẽ giảng nói lại
Cho người thích bồ-đề.
Bấy giờ Thế Tôn thấy các bồ-tát, tất cả trời người phát tâm hộ trì, lưu truyền kinh này, sách tấn bồ-tát, làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, Ngài liền khen rằng: “Hay thay, hay thay! Các ông có thể chí thành lưu truyền kinh vua nhiệm mầu cho đến sau khi ta vào niết-bàn, không để diệt mất. Đây là chánh nhân bồ-đề vô thượng, cho nên công đức các ông đạt được, dù có trải qua hằng sa kiếp số cũng không nói hết. Nếu các tì-kheo, các tì-kheo-ni, ô-ba-sách-ca, ô-ba-tư-ca và thiện nam nữ cung kính cúng dường, sao chép lưu truyền, giảng nói cho người khác nghe thì sẽ đạt được công đức cũng lớn như thế. Cho nên các ông cần phải siêng năng, dốc lòng tu tập”.
Vô lượng vô biên hằng sa đại chúng nghe Đức Phật dạy, đều rất vui mừng, tin kính thọ trì.
Chú thích:
[1] Thượng sĩ: bậc đã thành tựu trọn vẹn tự lợi và lợi tha, tức bồ-tát; hoặc chỉ cho những người có căn tánh bậc thượng.
[2] Diệu pháp cam lộ: pháp vị của Phật pháp thật nhiệm mầu, giống như cam lộ, vị thuốc trường sanh bất tử trưởng dưỡng thân tâm chúng sanh.
[3] Thành cam lộ: tức thành Niết-bàn.
[4] Vui cam lộ: niềm vui nơi Niết-bàn
[5] Dương diễm: thường gọi là sóng nắng.
[6] Phạm âm: âm thanh vi diệu, thanh tịnh của Phật, bồ-tát, một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật. Phạm âm này có năm năng lực:
– Rền vang như sấm.
– Trong lắng vang xa, người nghe sinh tâm vui mừng.
– Khiến người sinh tâm kính ái.
– Dễ nhận biết.
– Người nghe không chán
[7] Cam lộ vô sanh: Niết-bàn vô sanh.
[8] Bốn Phạm trụ: tức bốn tâm vô lượng mà Phạm thiên an trụ: từ, bi, hỉ, xả.
[9] Bốn thánh đế: bốn đế, tức bốn chân lí chắc thật: khổ, tập, diệt, đạo.
[10] Bốn ma: bốn thứ ma cướp mất sinh mạng và tuệ mạng của con người. Đó là:
– Ngũ ấm ma: sắc, thụ, tưởng, hành, thức chứa nhóm, tạo thành quả khổ sinh tử. Pháp sinh tử này có công năng cướp đi tuệ mạng.
– Phiền não ma: một trăm lẻ tám phiền não làm não loạn tâm thần chúng sinh, cướp đi tuệ mạng, khiến không thể thành tựu bồ-đề.
– Tử ma: sự chết làm phân tán thân tứ đại của chúng sinh, làm cho người tu hành không thể kéo dài tuệ mạng.
– Thiên tử ma: ma vương ở tầng trời thứ sáu, cõi Dục, thường hại việc thiện của người, ganh ghét pháp hiền thánh, nhiễu loạn, làm cho người tu hành không thành tựu được thiện căn xuất thế.
[11] Các tĩnh lự: các thiền định như Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.
[12] Các thừa: các phương tiện đưa người từ nơi này đến nơi kia: Phật thừa, Bồ-tát thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Thiên thừa, Nhân thừa.
[13] Đô-sử: cõi trời Đâu-suất.