1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

QUYỂN 6

PHẨM 12: TỨ THIÊN VƯƠNG HỘ QUỐC

Nghe bốn thiên vương phát nguyện cúng dường kinh Kim quang minh, đồng thời giúp đỡ bảo vệ những người thọ trì, Đức Phật khen rằng: “Quí thay, quí thay! Thiên vương các ông cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi ca vô lượng trăm ngàn vạn ức Đức Phật ở thời quá khứ, đồng thời cũng đã trồng sâu cội lành, tu hành chánh pháp, giảng thuyết chánh pháp, dùng pháp giáo hóa tất cả thế gian, luôn muốn mãi mãi lợi ích chúng sanh, khởi tâm đại từ, nguyện ban cho họ mọi sự an lạc. Do đó hôm nay các ông được phúc báo tốt đẹp này.

Nếu quốc vương nào cung kính cúng dường kinh Kim quang minh thì các ông nên dốc lòng bảo vệ, khiến họ an ổn. Bốn vị thiên vương cùng với quyến thuộc, vô lượng vô số trăm ngàn dạ-xoa bảo vệ kinh này, tức đã bảo vệ chánh pháp của Phật ba đời, cũng do đó mà các ông chiến thắng các a-tu-la. Nếu được các ông hộ trì kinh này, do sức của kinh mà đất nước ấy trừ được giặc thù, đói kém dịch bệnh. Nếu thấy bốn chúng thọ trì kinh vua, thì hãy dốc lòng cùng nhau bảo vệ, trừ dẹp phiền não, đem lại lợi ích an lạc cho họ.

Bốn vị thiên vương lập tức đứng dậy, áo lộ vai phải, quì gối chắp tay, cung kính bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Vào đời vị lai, bất cứ nơi nào trong một quốc gia có kinh vua này lưu truyền, hoặc là thôn xóm, núi rừng thành thị, mà vua nước ấy chí tâm nghe nhận, khen ngợi cúng dường, đồng thời cung cấp các món cần dùng cho bốn chúng thọ trì kinh này, dốc lòng ủng hộ, giúp họ tránh những suy hao, thì chúng con sẽ bảo vệ quốc vương và nhân dân nước ấy an ổn, không còn lo khổ, tăng thêm tuổi thọ, đầy đủ oai đức.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu quốc vương thấy bốn chúng thọ trì kinh vua này mà cung kính cúng dường, bảo vệ như đối với cha mẹ mình, đồng thời cung cấp các vật cần dùng thì bốn thiên vương luôn theo bảo vệ, khiến cho tất cả hữu tình tôn kính. Vì thế kinh này lưu hành nơi nào, thì chúng con và vô lượng dạ-xoa cũng ngầm ủng hộ, khiến người thọ trì không bị chướng ngại, còn giúp người nghe, như các vua quan… dứt trừ tai nạn, đuổi giặc ngoại xâm. Khi vua này nghe kinh Kim quang minh, mà vua lân bang muốn đem bốn binh đánh phá bờ cõi, thì nhờ oai lực của kinh này mà nước ấy lại bị một giặc thù khác xua quân xâm lấn, tai biến xảy ra, dịch bệnh hoành hành. Quốc vương nghe kinh này thấy như vậy, liền dẫn bốn binh thảo phạt nước kia. Bấy giờ chúng con sẽ dẫn quyến thuộc, vô lượng vô biên dạ-xoa ẩn hình âm thầm hỗ trợ, làm cho quân giặc tự nhiên hàng phục, không dám đem binh đến vùng biên giới, nói gì đánh nhau.

Đức Phật dạy rằng: “Hay thay, hay thay! Thiên vương các ông mới có năng lực hộ trì kinh này như thế! Ta đã tu hành khổ hạnh trải qua trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp, chứng đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, được Nhất thiết trí, nay thuyết pháp này, nếu có quốc vương chí tâm thọ trì, cung kính cúng dường kinh Kim quang minh, tai họa tiêu trừ, đất nước an ổn, thành ấp xóm thôn cũng được thanh bình, giặc thù lui tan, lại cũng khiến cho tất cả quốc vương cõi Diêm-phù này vĩnh viễn không còn lo việc chiến tranh.

Bốn vị thiên vương! Các ông nên biết, châu Diêm-phù này có tất cả tám vạn bốn ngàn thành ấp, tám vạn bốn ngàn quốc vương, mỗi mỗi đều ngự tại cõi nước mình, hưởng trọn niềm vui, của tiền sung túc, thọ dụng đầy đủ, không đoạt lẫn nhau; do nhân đời trước mà thọ phước ấy; không khởi niệm ác, tham đoạt đất nước của người, lòng ham muốn ít, làm lợi ích cho tất cả nhân dân, không còn khổ đau vì sự tranh đấu. Nhân dân nước ấy khởi lòng yêu thương, trên dưới hòa thuận như nước với sữa, tôn trọng lẫn nhau, vui vẻ dạo chơi khắp chốn, từ bi khiêm nhường, căn lành ngày càng tăng trưởng. Do đó, cõi Diêm-phù-đề giàu có an ổn, nhân dân đông đúc, đất đai màu mỡ, lạnh nóng điều hòa, thời tiết thuận lợi, mặt trời mặt trăng và các vì sao vận hành đúng theo quĩ đạo, mưa nắng đúng mùa, không còn thiên tai và các họa hoạn. Nhân dân giàu có, của cải đầy nhiều, tâm không thấp hèn, thường thích bố thí, tu mười nghiệp thiện. Nếu ai qua đời thì sanh cõi trời, tăng thêm thiên chúng.

Này các thiên vương! Vào đời vị lai, nếu ai lắng nghe, tin nhận cung kính, cúng dường kinh này thì bốn bộ chúng tôn trọng ngợi khen. Lại muốn giúp cho các ông cùng với vô lượng trăm ngàn quyến thuộc dạ-xoa được nhiều an vui, nên vị vua kia phải thường lắng nghe kinh nhiệm mầu này. Do nghe kinh này như uống cam lộ tuyệt hảo, nên oai lực của thân tâm tăng thêm, ngày càng tinh tấn, dõng mãnh oai hùng, đầy đủ phước đức. Nếu các quốc vương chí tâm lắng nghe, tin nhận kinh này, tức là thiết lễ cúng dường rộng lớn hi hữu cúng dường Thích-ca Mâu-ni Ứng Chánh Đẳng Giác. Nếu cúng dường Ta, tức đã cúng dường trăm ngàn vạn ức câu-chi do-tha Phật trong ba đời; nếu đã cúng dường chư Phật ba đời thì được vô lượng công đức, chẳng thể nghĩ bàn.

Do đó các ông cần phải hộ trì quốc vương hoàng hậu, thứ phi nước kia tránh những suy tổn, cũng giúp các thần giữ gìn cung điện đất đai an lạc, được nhiều phước báo không thể nghĩ bàn, nhân dân nước ấy thọ hưởng năm dục, tất cả việc ác thảy đều tiêu trừ”.

Bốn vị thiên vương bạch Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Vào thời vị lai, nếu có vị vua thích nghe giảng thuyết kinh Kim quang minh, để bảo vệ tự thân cùng hoàng gia và các thể nữ, cũng để thành ấp, cung điện bền chắc, huy hoàng bậc nhất, không thể nghĩ bàn, vắng lặng an lạc, hiện đời vương vị tôn quí bền vững, thân tâm an vui, luôn luôn phát triển, lại muốn gom lấy vô lượng vô biên phước báu không thể nghĩ bàn, và giúp đất nước không còn giặc thù, các nỗi lo về tai hoạ, thì quốc vương ấy không nên buông lung, khiến tâm tán loạn mà phải cung kính, chí thành lắng nghe kinh Kim quang minh. Nhưng trước khi nghe, quốc vương cần phải trang hoàng cung điện, hoặc ở những nơi rộng lớn thanh tịnh mà mình ưa thích, nước thơm rưới đất, rải các hoa quí, đặt tòa sư tử có đính bảo vật, lại treo lọng báu, cờ xí khắp nơi, đốt hương vô giá, trỗi âm nhạc hay. Bấy giờ quốc vuơng tắm rửa sạch sẽ, thân thoa hương thơm, thay y phục mới, đeo xâu chuỗi báu, ngồi trên ghế thấp, tâm không cống cao, không nghĩ mình là quốc vương cao quí, lắng tâm chánh niệm nghe kinh vua này. Lại nên nghĩ tưởng người đang thuyết giảng là bậc Đại sư, khởi lòng thương xót đối với tất cả hoàng hậu thứ phi, vương tử thể nữ và cả thân quyến, nét mặt hòa ái, lời nói nhẹ nhàng, tràn ngập niềm vui. Quốc vương nên nghĩ: ‘Nay ta có được lợi ích rộng lớn, quí báu vô cùng, nên thiết lễ trọng cúng dường kinh này.’ Sau khi sửa soạn, thấy pháp sư đến, quốc vương cần phải thiết tha chí thành, cung kính đón tiếp”.

Đức Phật lại bảo bốn vị thiên vương: “Cần phải cung đón pháp sư như thế! Bấy giờ quốc vương mặc y phục sạch, đeo các chuỗi báu, tự cầm lọng trắng cho đến hương hoa, sắp bày đầy đủ lễ nghi quân đội, trỗi các nhạc hay, đi bộ ra thành đón tiếp pháp sư, chí thành cung kính thực hiện việc này.

Này bốn thiên vương! Vì sao quốc vương cần phải đích thân cung kính cúng dường? Vì mỗi cử chỉ hành động của vua cung kính kinh này, tức là cung kính, cúng dường phụng sự trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật Thế Tôn. Như thế vị ấy sẽ thoát nỗi khổ phải chịu vô lượng kiếp số sanh tử, và cũng trải qua số kiếp như thế vào đời vị lai, quốc vương này sẽ làm Chuyển luân vương vô cùng cao quí. Cứ mỗi cử chỉ, hành động cung kính cúng dường kinh này, cũng khiến phước đức ngày càng tăng trưởng, tự tại dạy dỗ tất cả nhân dân, được sự cảm ứng không thể tính lường, mọi người khâm phục. Trải qua vô lượng trăm ngàn ức kiếp sanh lên cõi trời hay sanh vào cõi người, đều được làm vua, hưởng thọ niềm vui, có cung bảy báu, tuổi thọ dài lâu, luận biện thông suốt, trời người đều tin, không còn sợ hãi, danh tiếng vang xa, người người mến mộ, đầy đủ thế lực và oai đức lớn, thân tướng xinh đẹp và rất uy nghiêm, không ai sánh bằng. Vị quốc vương ấy gặp được Thiên Nhân Sư[1], gặp thiện tri thức, giúp cho thành tựu vô lượng phước đức.

Các ông nên biết: Vị quốc vương kia, khi đã hiểu được vô lượng vô biên lợi ích như thế, thì nên chí thành cung nghinh pháp sư, cho dù cách xa một du-thiện-na hay gấp trăm ngàn; đối với pháp sư nên tưởng là Phật. Khi thỉnh về thành, quốc vương nên nghĩ: ‘Hôm nay Thích-ca Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vào cung điện ta, nhận sự cúng dường, thuyết pháp cho ta. Sau khi Ta nghe, sẽ không lui sụt Vô thượng bồ-đề, gặp được trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật Thế Tôn. Hôm nay ta nên trỗi nhạc tuyệt diệu cúng dường tất cả Đức Phật ba đời. Hôm nay ta sẽ vĩnh viễn diệt trừ những nỗi thống khổ trong đường địa ngục, ngạ quỉ súc sanh, mà gieo vô lượng trăm ngàn vạn ức hạt giống Chuyển luân thánh vương, Phạm vương-Đế Thích, giúp cho vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh không còn sanh tử khổ đau, đạt đến niết-bàn, gom nhóm vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn công đức. Lại giúp tất cả hoàng thân quốc thích, nhân dân an ổn, đất nước thái bình, không còn tai họa, chẳng có sầu lo, những kẻ ác độc và giặc ngoại xâm không đến xâm lấn”.

Bốn vị thiên vương bạch Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Vị quốc vương kia cần phải tôn trọng chánh pháp như thế, đồng thời cũng nên cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen bốn chúng thọ trì bộ kinh vua này. Nếu vị quốc vương muốn chúng con vui, phải vẩy nước thơm, rải hoa tươi đẹp chung quanh pháp tòa, rồi đặt bốn toà cho bốn thiên vương, chúng con sẽ ngồi, cùng với quốc vương lắng nghe chánh pháp. Quốc vương cũng nên chia cho chúng con những phước phần và căn lành tự lợi.

Bạch đức Thế Tôn! Khi Quốc vương thỉnh pháp sư thăng tòa, thì cũng nên vì chúng con mà đốt các loại danh hương cúng dường kinh này. Khói hương tức thời vút lên hư không, bay vào cung điện chư thiên chúng con, biến thành lọng hương, chúng con liền nghe hương vi diệu ấy. Bấy giờ trong làn khói hương có luồng ánh sáng màu vàng rực rỡ chiếu khắp cung điện chúng con, cho đến cung điện Phạm thiên Đế Thích, Đại Biện Tài thiên, Đại Cát Tường thiên, địa thần Kiên Lao, hai mươi tám bộ dạ-xoa, trời Đại Tự Tại, Kim Cang Mật chủ, Bảo Hiền đại tướng, Ha-lợi-để mẫu cùng năm trăm chúng, cung điện vua rồng hồ A-nậu và vua rồng biển lớn.

Các chúng sanh từ cung điện của mình, thấy khói hương kia chỉ trong chớp mắt biến thành lọng hương, mùi thơm ngào ngạt, ánh sáng màu vàng rực rỡ lan tỏa, chiếu soi khắp các cung điện thiên thần”.

Đức Phật lại dạy: “Không chỉ khói hương tỏa đến cung điện, biến thành lọng báu, ánh sáng rực rỡ, mà khi quốc vương kia nâng lư hương, đốt các danh hương cúng dường kinh này, thì trong chớp mắt, khói hương xông khắp đại thiên thế giới, trăm ức mặt trời mặt trăng, tòa núi Diệu Cao, bốn châu thiên hạ và cung điện của trời rồng dạ-xoa, loài càn-thát-bà, các a-tu-la, thần yết-lộ-trà, thần khẩn-na-la, ma-hầu-la-già. Khói hương lan tỏa đầy khắp hư không, biến thành lọng mây, chiếu các tia sáng màu vàng ròng đến khắp các cung điện. Mây hương lọng hương hiện khắp tam thiên đại thiên thế giới như thế, đều là do sức uy thần của kinh Kim quang minh vậy.

Lại khi quốc vương, tay nâng lư hương cúng dường kinh này, khói hương không chỉ xông đến tam thiên đại thiên thế giới, mà trong chớp mắt đã lan tỏa khắp vô lượng vô biên hằng sa trăm ngàn vạn ức cõi Phật. Khói hương này tụ lại trong hư không, trên các Đức Phật, biến thành lọng hương, cũng phóng những tia sáng màu vàng ròng chiếu khắp như thế. Khi các Đức Phật nghe hương thơm ấy, thấy lọng mây và ánh sáng ấy biến hiện như thế, các Ngài quán xét, đồng cất tiếng khen ngợi pháp sư rằng: ‘Quí thay, quí thay! Này đại trượng phu! Ông giỏi truyền bá rộng rãi bộ kinh sâu xa nhiệm mầu, nhất định sẽ được vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn công đức. Cho nên những ai nghe được kinh này, sẽ được công đức cũng rất lớn, huống gì sao chép, thọ trì đọc tụng, giảng nói cho người nghe rồi như lời kinh mà tu hành. Vì sao? Vì người nghe được kinh này sẽ không lui sụt Vô thượng chánh đẳng chánh giác’ ”.

Bấy giờ tất cả các đức Như Lai đang ngự trên pháp tòa ở trăm ngàn câu-chi na-do-tha vô lượng vô biên hằng hà sa cõi Phật khắp mười phương, cùng lúc khen ngợi vị pháp sư rằng: “Quí thay, quí thay! Vào đời vị lai, ông nên siêng năng tu tập vô lượng trăm ngàn hạnh khổ, đầy đủ tư lương bồ-đề, vượt trên thánh chúng, ra khỏi ba cõi, thành bậc tối thắng, ngồi cội bồ-đề, trang nghiêm thù thắng, cứu giúp chúng sanh trong cõi tam thiên đại thiên thế giới, phá dẹp quân ma hình tướng đáng sợ, thấu suốt các pháp, đạt được Vô thượng chánh đẳng bồ-đề, thanh tịnh sâu xa.

Này thiện nam tử! Ông sẽ ngồi nơi tòa kim cang ấy, chuyển pháp luân mười hai hành, sâu xa vi diệu mà các Đức Phật đã từng khen ngợi, gióng trống pháp lớn vô thượng, thổi loa pháp vi diệu vô thượng, dựng cờ pháp thù thắng vô thượng, đốt đuốc pháp rực sáng vô thượng, rưới mưa pháp cam lộ vô thượng. Ông lại đoạn dứt vô lượng oán kết phiền não, khiến cho vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha hữu tình vượt qua biển lớn đáng sợ vô bờ, thoát chốn sanh tử luân hồi không giới hạn, gặp được vô lượng trăm ngàn na-do-tha Phật”.

Bốn vị thiên vương bạch Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh Kim quang minh này có năng lực giúp cho thành tựu vô lượng công đức ở hiện tại và vị lai như vậy, nếu vị quốc vương nào nghe được, nhất định vị ấy đã trồng vô lượng căn lành nơi trăm ngàn vạn ức vô lượng Phật, chúng con sẽ luôn nghĩ nhớ bảo vệ vị quốc vương ấy. Vì muốn có được vô lượng phước đức, nên bốn thiên vương chúng con cùng vô lượng trăm ngàn vị thần quyến thuộc tại cung điện mình, khi thấy khói hương biến thành mây, thành lọng liền ẩn thân; vì nghe pháp nên chúng con đến nơi giảng pháp, chính là cung điện thanh tịnh trang nghiêm của vị quốc vương kia. Cứ như thế, Phạm vương, Đế Thích, trời Đại Biện Tài, trời Đại Cát Tường, địa thần Kiên Lao, đại tướng Chánh Liễu tri, hai mươi tám bộ dạ-xoa, trời Đại Tự Tại, Kim Cang Mật chủ, đại tướng Bảo Hiền, Ha-lợi-để mẫu cùng năm trăm quyến thuộc, vua rồng hồ Nhiệt Não, vua rồng biển lớn, vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha trời, dạ-xoa vì muốn nghe pháp mà ẩn thân đến nơi thuyết giảng có đặt tòa cao tại cung điện của vị quốc vương kia.

Bạch đức Thế Tôn! Bốn thiên vương chúng con và các thần Dạ-xoa quyến thuộc, một lòng tôn vị quốc vương ấy làm thiện tri thức. Do vị thí chủ đại pháp vô thượng này ban cho chúng con cam lộ, cho nên chúng con giúp đỡ bảo vệ, dứt trừ tai hoạ, khiến được an ổn, không còn những điềm xấu xuất hiện nơi cung điện, thành ấp và trong cõi nước.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu trong nước có kinh Kim quang minh mà quốc vương bỏ, không chịu lưu truyền, không thích nghe nhận, tôn trọng khen ngợi, cung kính cúng dường; thấy người bốn chúng thọ trì kinh này cũng không tôn trọng, cung kính cúng dường, làm cho chúng con và vô lượng quyến thuộc không được nghe pháp sâu xa nhiệm mầu, mất pháp cam lộ, mất dòng chánh pháp, không còn oai quang cho đến thế lực, tăng trưởng đường ác, tổn cõi trời người, rơi sông sanh tử, lạc đường niết-bàn, thì chúng con cùng tất cả quyến thuộc và các dạ-xoa lìa bỏ nước này, không thể bảo vệ. Không chỉ chúng con mà vô lượng vị thiện thần hộ quốc cũng đều rời xa.

Sau khi tất cả chúng con lìa bỏ thì cõi nước ấy xảy ra rất nhiều tai họa nguy biến, hoàng triều sụp đổ, nhân dân không còn tâm tánh thuần thiện, chỉ luôn sân hận tranh đấu sát hại, dối gạt lẫn nhau, nhiều người vô tội bị xử oan ức, dịch bệnh hoành hành, sao chổi xuất hiện, hai vầng mặt trời đồng thời chiếu rọi, nhật thực nguyệt thực, hai cầu vồng trắng đen biểu thị điềm bất tường, sao băng động đất, trong giếng phát âm thanh lạ, cuồng phong bạo vũ, thời tiết bất hòa, cây không ra quả, mất mùa đói kém, nước khác xâm lấn, nhân dân khổ não, khắp chốn khổ đau.

Bạch đức Thế Tôn! Khi bốn thiên vương chúng con cùng với vô lượng trăm ngàn thiên thần, và các thiện thần hộ quốc xưa kia rời bỏ, thì đất nước này xảy ra vô lượng trăm ngàn tai họa như thế. Nếu quốc vương muốn bảo vệ đất nước, cũng để bản thân luôn được sung sướng, nhân dân an ổn, phá giặc ngoại xâm, quốc gia vĩnh viễn hùng cường, muốn chánh giáo lưu truyền khắp thế gian, những việc xấu ác khổ não không còn, thì vị quốc vương ấy phải lắng nghe và tin nhận kinh Kim quang minh, đồng thời cũng nên cung kính cúng dường những người thọ trì đọc tụng bộ kinh mầu này. Bấy giờ chúng con, vô lượng chúng trời nhờ oai lực của căn lành nghe pháp, được uống pháp vị cam lộ vô thượng, tăng thêm quyến thuộc, các thiên thần khác cũng được lợi ích. Vì quốc vương này một lòng lắng nghe, tin nhận kinh này.

Bạch đức Thế Tôn! Như Đại Phạm vương thường hay giảng thuyết luận thế-xuất thế cho chúng trời; trời Đế Thích và tiên nhân Ngũ thông cũng thuyết các luận. Dù những vị này thuyết trăm ngàn câu-chi na-do-tha vô lượng bộ luận, cũng không bằng một phần trăm ngàn câu-chi na-do-tha lợi ích, mà đức Thế Tôn vì lòng từ bi, thương xót trời người thuyết kinh Kim quang minh nhiệm mầu này. Vì nhờ kinh này, tất cả quốc vương trong cõi Diêm-phù luôn dùng chánh pháp cai trị nhân dân và ban cho họ mọi sự an lạc; lại bảo vệ được tự thân-quyến thuộc, không để bị những khổ đau bức bách, không bị giặc ngoài xâm lấn, không còn điều ác, đất nước an bình, không có tai ách.

Các vị quốc vương, vì dùng chánh pháp giáo hóa nhân dân, nên không xảy ra những việc tranh tụng. Mỗi vị ở tại quốc độ của mình, thắp lên ngọn đuốc chánh pháp chiếu sáng khắp nơi, giúp tăng thiên chúng và cả quyến thuộc. Thiên vương chúng con, vô lượng thiên thần, các chúng dạ-xoa và những thiện thần cõi Diêm-phù-đề nhờ nhân duyên này, được uống pháp vị cam lộ vô thượng, đầy đủ oai đức, tăng thêm oai lực; đồng thời tất cả chúng sanh đều được an ổn, cho đến vô lượng vô biên trăm ngàn chẳng thể nghĩ bàn na-do-tha kiếp mai sau cũng được an vui, lại gặp vô lượng Đức Phật, trồng các cội lành, sau đó chứng đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Vô lượng vô biên lợi ích như thế, đều do Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng lòng đại bi vượt trên Phạm chúng, dùng đại trí huệ siêu việt Đế Thích, tu tập hạnh khổ hơn cả tiên nhân Ngũ thông trăm ngàn vạn ức na-do-tha lần, vì các chúng sanh giảng nói kinh Kim quang minh nhiệm mầu, khiến các quốc vương và các đại thần cõi Diêm-phù-đề biết rõ phép tắc thế gian, các việc trị quốc, khuyên dạy nhân dân. Do kinh này được lưu truyền cùng khắp, nên mọi chúng sanh đều được an lạc. Những phước lợi ấy là do oai lực của đức Thích-ca dùng lòng từ bi lưu truyền rộng khắp kinh nhiệm mầu này. Vì thế các vị quốc vương cần phải thọ trì, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Cũng vì những công đức lợi ích to lớn, kì diệu như thế, nên gọi là Tối thắng kinh vương”.

Đức Phật bảo bốn vị thiên vương rằng: “Các ông cùng với tất cả thân thuộc, vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha chư thiên thấy vị quốc vương chí tâm nghe nhận, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen bộ kinh vua này, thì nên bảo vệ, giúp trừ tai họa, như thế các ông cũng được an ổn. Những ai trong bốn chúng đã lưu truyền bộ kinh vua này, thực hiện Phật sự trong cõi trời người, đem lại lợi ích cho mọi chúng sanh, bốn vị thiên vương cũng nên bảo vệ, làm cho thân tâm họ luôn an lạc và mãi vắng lặng, chớ nên để cho duyên xấu xâm hại. Các ông nên giúp lưu truyền cùng khắp bộ kinh vua này, chớ để đoạn dứt, hầu làm lợi lạc tất cả chúng sanh mãi đến vị lai”.

Đa Văn thiên vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con có đà-la-ni Như ý bảo châu, nếu ai thọ trì, không những đã được vô lượng phước đức, mà con cũng sẽ luôn theo bảo vệ, giúp họ lìa khổ được vui, đầy đủ hai món tư lương phước trí. Người muốn thọ trì, trước hết nên tụng thần chú hộ thân:

Nam mô vai sơ ra van na da ma ha ra ja da, tát da tha, ra ra ra ra, ku nu, ku nu, khu nu, khu nu, sa pa, sa pa, ma ha vi ca ra ma, ma ha vi ca ra ma, ma ha ra ja, rát sa, rát san tu, nam, sa ra va, sat tơ va nam, sa va ha.

Bạch đức Thế Tôn! Nên tụng bảy biến thần chú này vào một sợi chỉ trắng. Khi tụng một biến thì thắt một gút, sau đó buộc vào khủy tay thì thành tựu việc hộ thân. Kế đến trộn đều các phần bằng nhau của các loại hương: An-tức[2], Chiên-đàn[3], Long não[4], Tô hợp[5], hương Đa-yết-la[6], Huân lục[7]… Sau đó người ấy tắm rửa sạch sẽ, thay y phục mới, tay bưng lò hương, xông các hương ấy, rồi vào tĩnh thất tụng bảy biến thần chú sau để triệu thỉnh con: Nam mô Vai sa ra van na da, nam mô Đa na đa da, Đa nết va ra da, a ka ra sa, a pa ri mi ta, đa nết va ra, pa ra ma, ka ru ni ka, sa ra va, sat ta va hi ta xi nơ ta, na ma đa na, vác đơ ha pác dê, sa va dam, a ka rơ sa, sa va ha.

Kế đến tụng thần chú Như ý. Nhưng trước hết phải xướng niệm danh hiệu, đảnh lễ Tam bảo và kính lễ con, vị trời có năng lực ban tài vật, giúp thỏa mãn tất cả những mong cầu, thành tựu mọi sự an lạc. Sau đó tụng chú Như ý bảo châu, chú có năng lực ban cho chúng sanh mọi sự an lạc như ý. Bấy giờ Đa Văn đối trước Đức Phật tuyên thuyết thần chú:

Nam mô rát na tra da da, nam mô Vai sa ra ma na da, ma ha ra ja da, tát da tha, si mi si mi, su mu su mu, can đa can đa, cha rê cha rê, sa ra sa ra, ka ra ka ra, ki ri ki ri, ku ru ku ru, mu ru mu ru, chu ru chu ru, sa đa da, át ma nam, nít dam, an ta ra, đa tu sa va ha. Nam mô Va sa ra ma na da, sa va ha, đa na đa da, sa va ha, na mô rát tha, pa ri pu ri ka da, sa va ha.

Tụng một ngàn biến rồi vào tĩnh thất, trải cù-ma[8] lên mặt đất làm một đàn nhỏ, đúng thời bày biện thức ăn, cung kính cúng dường, luôn đốt các loại danh hương, không để đoạn dứt. Kế đến ngày đêm chuyên tâm tụng bài thần chú Như ý, chỉ tự mình nghe, không cho người biết.

Bấy giờ vương tử Thiền-nị-sư của con hiện hình đồng tử đến đàn tràng hỏi: “Vì việc gì ông cầu thỉnh cha ta?”. Người ấy nên đáp: “Tôi cần tài vật cúng dường Tam bảo”. Vương tử nghe thế, liền trở về thưa lại với con rằng: “Nay có một người thuần thiện phát tâm chí thành cúng dường Tam bảo, nhưng thiếu tài vật, nên thỉnh phụ vương!”. Con liền bảo rằng: “Con hãy đến gấp, mỗi ngày cấp cho người ấy một trăm ca-lị-sa-ba-noa[9]”.

Người trì thần chú đã thấy như vậy, biết việc đã thành, lập tức một mình vào trong tĩnh thất, đốt hương rồi nằm, bên giường đặt một hộp thơm. Vào mỗi buổi sáng nhìn vào chiếc hộp sẽ thấy tài vật mà mình mong cầu. Khi đã có được, thì ngay trong ngày sử dụng tài vật ấy mua hương hoa, thức ăn thức uống dâng cúng Tam bảo, cũng sắm vật thực ban phát cho người nghèo khổ. Phải dùng cho hết, không được cất giữ. Người này cần phải khởi tâm từ bi đối với chúng sanh, tâm không sân hận, dối gạt dua nịnh. Nếu tâm sân hận, liền mất linh nghiệm. Người trì chú này, hằng ngày phải luôn nhớ nghĩ, ca ngợi con và quyến thuộc, thực hành mười điều thiện để trợ giúp, khiến cho phước lực thiên chúng tăng trưởng, nghiệp thiện thêm lớn, cho đến chứng đạo Vô thượng bồ-đề. Thiên chúng cõi con đã thấy như thế, đều rất vui mừng, cùng đến bảo vệ người trì chú kia. Người trì chú ấy thọ mạng dài lâu, đến vô lượng tuổi, vĩnh thoát ba đường, không bị các nạn. Con cũng giúp có bảo châu Như ý và các kho tàng ẩn trong lòng đất; lại được thần thông, thành tựu ước nguyện, cầu quan tước được quan tước, đồng thời nghe hiểu tất cả tiếng của các loài chim muông.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu người trì chú muốn thấy con hiện, thì vào các ngày mồng tám hoặc rằm, thọ bát quan trai[10], rồi dùng nhựa cây hòa với màu sắc vẽ hình Đức Phật giữa tấm lụa trắng, bên trái vẽ tượng Cát Tường thiên nữ, bên phải vẽ con, là Đa Văn thiên, cũng vẽ cả nam nữ quyến thuộc. Sau đó đặt tượng một nơi đúng pháp, bày hoa tươi đẹp, đốt các danh hương, thắp đèn liên tục, ngày đêm không tắt. Lai dâng cúng thức uống ăn thượng hạng, các món quí báu, phát tâm chí thành, đúng thời cúng dường. Lúc trì thần chú, không được khởi tâm xem thường. Lúc triệu thỉnh con, thì tụng thần chú: Nam ma hơ sơ ri, kan na da, bút đa da, nam mô Vai sơ ra ma na da, dát sa ra ja da, ma ha ra ja, a đi ra ja da, nam ma hơ sơ ri dê, ma ha đép dê, tát da tha, ta ra ta ra, tu ru tu ru, ba la ba la, su sút đi, ha na ha na, ma ni ka na ka, va rap vai đua ri a, mút ti ka lam kờ ri ta, sa ri da ra, sa rờ va sát tờ va, hi ta ka ma, Vai sờ ra ma na sờ ri da, đê vi pờ ra đay da, ê hi ê hi, ma vi lam ba, ghu rờ na ghu rờ na, pờ ra si na, pờ ra si da, đa đa hi, ma ma, a ma ka na ma da, đát xa na, ka ma sa da, đát sa nan, ma ma ma na, pa ri ha ra day da, sa va ha.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu nghe thấy người tụng thần chú này và việc cúng dường trang trọng như thế, con khởi từ bi, vui mừng biến thân thành một đứa bé, hoặc một người già hay một tì-kheo, tay cầm bảo châu Như ý và bao bằng vàng, vào trong đạo tràng, thân tâm cung kính, niệm danh hiệu Phật, nói với người trì chú rằng: “Ta giúp cho ông thỏa mãn tất cả những điều mong cầu, hoặc muốn ẩn nơi núi rừng, hoặc tạo ngọc quí, hoặc muốn mọi người yêu mến, hoặc muốn có vàng bạc, hoặc muốn trì thần chú nào cũng được linh nghiệm, muốn thần thông hay thọ mạng dài lâu, hoặc muốn có các niềm vui tuyệt diệu, hoặc tất cả các điều mong cầu khác thành tựu như ý. Kho báu này vô tận, công đức cũng vô cùng; mặt trời mặt trăng có thể rơi xuống, quả đất có thể di chuyển đến phương vị khác, nhưng những lời chân thật của tôi không bao giờ hư dối, luôn giúp tất cả chúng sanh an ổn, ước nguyện tùy tâm”.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu người thọ trì tụng đọc kinh này, khi tụng thần chú Như ý sẽ không nhọc sức mà vẫn mau chóng thành tựu.

Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay chúng con vì những chúng sanh nghèo cùng khốn khổ, thường gặp tai nạn mà thuyết bài thần chú này, giúp họ giàu có, tự tại an vui, không còn lo buồn. Cho đến suốt đời con luôn bên họ âm thầm bảo vệ, dứt trừ tai họa. Con cũng làm cho trong vòng trăm bước quanh người đọc tụng, lưu truyền kinh này, và người trì chú luôn có ánh sáng; đồng thời hàng ngàn dạ-xoa cũng thường theo bên hầu hạ, để cho người ấy tùy ý sai khiến, thỏa mãn mọi việc. Con nói những lời này đều chân thật, không hề luống dối, chỉ có Đức Phật chứng biết cho con”.

Khi trời Đa Văn nói thần chú này, Đức Phật khen ngợi: “Hay thay! Hay thay! Vì xé toang lưới bần cùng khốn khổ cho các chúng sanh, khiến họ giàu có an vui, lại cũng giúp cho kinh Kim quang minh lưu truyền thế gian, mà ông tuyên thuyết bài thần chú này.”

Bốn vị thiên vương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy, y lộ vai phải, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính, thuyết kệ ca ngợi công đức của Phật:

Khuôn mặt Thế Tôn tựa trăng rằm

Như ngàn mặt trời phóng quang minh

Mắt trong, dài rộng như sen xanh

Răng trắng, khít, đều như viên ngọc.

Công đức Thế Tôn như biển lớn

Vô lượng vật báu chứa nơi đây

Nước đại trí huệ luôn tràn đầy

Trăm ngàn thắng định cũng hàm dung.

Dưới bàn chân hiện tướng bức luân

Trục, vành đầy đủ với ngàn căm

Giữa kẻ tay chân có mạng mỏng

Giống như mạng chân của nga vương.

Ánh sáng thân Ngài như núi vàng

Trong sạch, diệu kì không gì sánh

Giống như Diệu Cao, tròn công đức

Nên con lễ Phật đấng Sơn vương.

Tướng, hảo chẳng lường như hư không

Hơn cả trời trăng phóng ánh sáng

Giống như huyễn hóa chẳng nghĩ bàn

Nên con đảnh lễ đấng Vô trước.

Đức Thế Tôn cũng dùng kệ dạy rằng:

Kinh Kim quang minh tối thắng này

Do đấng Thập lực rộng tuyên bày

Bốn vương các ông luôn ủng hộ

Tâm nên dõng mãnh, chớ thối lui.

Diệu kinh vô giá thật sâu xa

Ban cho hữu tình nhiều an lạc

Vì các hữu tình được an lạc

Nên kinh lưu truyền khắp thế gian.

Vô lượng vô biên chúng hữu tình

Trong khắp tam thiên thế giới này

Ngạ quỉ, bàng sanh và địa ngục

Bao nhiêu nỗi khổ đều tiêu trừ.

Do oai lực kinh, luôn hoan hỉ

Luôn được bảo vệ khiến an bình

Cũng giúp hữu tình trong các cõi

Bệnh khổ, trộm cướp thật không còn

Nhờ cõi nước này, kinh truyền khắp

Thái bình, sung túc hết não phiền.

Nếu ai lắng nghe kinh vua này

Muốn cầu cao quí và tài lợi

Đất nước phú cường không tranh đấu

Thuận theo ước nguyện, thảy viên thành.

Khiến kẻ xâm lăng lui binh tướng

Đất nước an ổn dứt chiến tranh

Do sức kinh vương tối thắng này

Giúp lìa khổ não, chẳng sợ lo.

Giống như cây báu trong vườn nhà

Sanh ra những vật giúp an vui

Kinh vua tối thắng cũng như vậy

Hằng ban quốc vương công đức quí.

Giống như dòng suối thật trong mát

Giúp trừ nóng bức và cơn khát

Kinh vua tối thắng cũng như vậy

Khiến người thích phước luôn thỏa mãn.

Như người trong nhà có hộp báu

Cần sử dụng gì, tùy ý lấy

Kinh vua tối thắng cũng như vậy

Phước đức tùy tâm, chẳng thiếu chi.

Thiên chủ các ông cùng thiên chúng

Phải nên cúng dường kinh vua này

Nếu nghe lời dạy, thọ trì kinh

Trí huệ, oai thần đều đầy đủ.

Chư Phật mười phương ở hiện đời

Cùng nhau bảo vệ kinh vua này

Thấy người thọ trì và đọc tụng

Khen ngợi: Hay thay, thật hiếm khi!

Nếu người nghe nhận Kim quang minh

Thân tâm phấn chấn và an vui

Bất cứ lúc nào và nơi đâu

Trăm ngàn dạ-xoa luôn bảo vệ.

Tất cả thiên chúng thế giới này

Số nhiều vô lượng không tính được

Đều nghe, tin nhận kinh vua này

Vui mừng hộ trì, không lui sụt.

Nếu người nghe nhận kinh vua này

Có đủ oai đức và dõng mãnh

Cùng với tự tại, thêm thiên chúng

Lìa khổ, hết suy, ánh sáng tăng.

Bốn vị thiên vương nghe bài tụng này, lòng rất vui mừng, bạch Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Từ xưa đến nay, chúng con chưa từng nghe được pháp sâu xa vi diệu này. Hôm nay được nghe, nên lòng chúng con vui buồn lẫn lộn, nước mắt tuôn trào, toàn thân rúng động, chứng tri được việc hiếm có, không thể nghĩ bàn”.

Nói xong chư thiên tung những đóa hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la cõi trời cúng dường Đức Phật. Cúng dường vừa xong, bốn vị bạch Phật: “Chúng con mỗi mỗi đều có năm trăm dạ-xoa quyến thuộc, luôn theo bảo vệ kinh và pháp sư, lại dùng ánh sáng trí huệ hỗ trợ. Nếu có quên sót văn nghĩa kinh này, chúng con sẽ giúp cho vị pháp sư nhớ lại không quên, đồng thời trao cho pháp môn Đà-la-ni thù thắng. Lại khiến cho nơi nào có kinh này, sớm được truyền dạy đến mọi chúng sanh, không để ẩn mất”.

Khi Đức Phật thuyết kinh Kim quang minh, vô lượng chúng sanh được đại biện tài, trí huệ thông minh, gom nhóm vô lượng phước đức, xa lìa nỗi khổ lo buồn, sanh tâm hỉ lạc, thông suốt các luận, đạt đạo Xuất li[11], không còn lui sụt, mau chứng bồ-đề.

Chú thích:

[1] Thiên Nhân Sư: thầy của cả trời và người, tức Đức Phật.

[2] An-tức: Loại hương liệu được chiết xuất từ cây An-tức.

[3] Chiên-đàn: một loại cây có mùi thơm, cao khoảng 8m, lá nhọn, dài khoảng 5cm mọc cân đối, hoa có ô, trái tròn to khoảng bằng cái kén tằm, khi chín màu đen, có nhiều nước, hạt cứng, gỗ thơm, rễ được nghiền ra làm bột đàn hương hoặc chế dầu thơm. Sách Bản thảo cương mục gọi cây này là Bạch đàn, Đàn hương.

[4] Long não: một loại hương được tinh chế từ cây long não. Đây là một loại cây thân cao, khoảng từ bốn mươi đến sáu mươi mét, là mọc đối xứng, hình bầu dục, đuôi nhọn; hoa màu trắng, rất thơm.

[5] Tô hợp: một loại hương liệu tổng hợp các loại hương khác; hoặc cho rằng đây là hương được chiết xuất từ nhựa cây Kim-lũ-mai.

[6] Đa-yết-la: hương đa-yết-la, tức hương linh lăng.

[7] Huân lục: hương được lấy từ cây Huân lục. Mùi hương này giống như nhựa tùng, khói màu vàng nhạt.

[8] Cù-ma: phân bò hoặc phân trâu.

[9] Ca-lị-sa-ba-na: một đơn vị tiền tệ Ấn Độ thời xưa, tương đương hai mươi ma-sái; một ma-sái tương đương tám mươi tiền đồng Trung Hoa.

[10] Bát quan trai: tám điều Đức Phật qui định cho Phật tử tại gia đến chỗ chư tăng một ngày một đêm, thực tập đời sống xuất gia, phòng hộ ba nghiệp thân, khẩu, ý, đóng các nẻo ác. Đó là: không sát sanh; không trộm cắp; không tà dâm; không nói dối; không uống rượu; không nằm hoặc ngồi giường rộng ghế cao trang trí đẹp đẽ; không thoa hương phấn, đeo vòng hoa và xem nghe ca múa; không ăn phi thời. Trong tám giới, bảy chi trước là giới, chi ăn phi thời là trai, gọi chung là Bát quan trai giới.

[11] Xuất li: lìa cõi mê, ra khỏi khổ sinh tử luân hồi, thành tựu Phật đạo, để đạt đến cảnh giới giải thoát; cũng tức xuất li lao ngục ba cõi, thoát khỏi sự trói buộc của hoặc nghiệp.

    Xem thêm:

  • Hợp Bộ Kinh Kim Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Nhất Thiết Chư Như Lai Tâm Quang Minh Gia Trì Bồ Tát Phổ Hiền Đà La Ni Diên Mạng Kim Cang Tối Thắng - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Duyên Đồng Tử Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Tổng Trì Bảo Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Oai Đức Kim Luân Phật Đảnh Xí Thạnh Quang Như Lai Tiêu Trừ Nhất Thiết Tai Nạn Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Biến Chiếu Quang Minh Tạng Vô Tự Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Phổ Biến Quang Minh Thanh Tịnh Sí Thạnh Như Ý Bảo Ấn Tâm Vô Năng Thắng Đại Minh Vương Đại Tùy Cầu Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Duyên Tiên Nhân Nhất Thiết Trí Quang Minh Từ Tâm Không Ăn Thịt - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Đà La Ni Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Như Lai - Kinh Tạng
  • Ý Nghĩa Phát Xuất Từ Kim Cang Đỉnh Du Già Ba Mươi Bảy Tôn Vị - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cang Khủng Bố Tập Hội Phương Quảng Quỹ Nghi Quán Tự Tại Bồ Tát Tam Thế Tối Thắng Tâm Minh Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Thái Tử Đức Quang - Kinh Tạng
  • Kinh Nghi Quỹ Đại Minh Thành Tựu Trì Minh Tạng Du Già Đại Giáo Tôn Na Bồ Tát - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Nguyệt Quang - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cang Quyết Nghi - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng