QUYỂN 8
PHẦM 15: THIÊN NŨ ĐẠI BIỆN TÀI ( 2 )
Bà-la-môn Kiều-trần-như nói kệ tán thán và pháp chú tán khen ngợi thiên nữ Đại Biện Tài xong, liền thưa với đại chúng rằng: “Các vị hiền giả! Nếu muốn thỉnh cầu thiên nữ Biện Tài xót thương gia hộ, để đời hiện tại tùy ý thành tựu vô ngại biện tài, trí lớn thông minh, ngôn từ khéo léo, hiểu rộng tài cao, luận nghị trác tuyệt không bị ngăn ngại, thì nên thiết tha chí thành kính lễ: kính lễ Phật-đà[1], kính lễ Đạt-ma[2], kính lễ Tăng-già[3], kính lễ các vị Bồ-tát Độc giác, cùng hàng Thanh văn và các hiền thánh”.
Các đức Như Lai quá khứ hiện tại trong khắp mười phương, đều đã làu thông các lời chân thật, lại có năng lực tùy thuận tuyên thuyết các lời chân thật khế hợp căn cơ, lời không hư vọng. Các Ngài đã nói những lời chân thật từ vô lượng kiếp. Nếu có ai nói những lời chân thật, các ngài tùy hỉ. Vì không bao giờ nói lời hư dối, cho nên khi hiện tướng lưỡi rộng dài thì phủ cả mặt, phủ cõi Diêm-phù và bốn thiên hạ; lại che phủ khắp một ngàn hai ngàn, ba ngàn cho đến khắp các thế giới mười phương, không thể nghĩ bàn. Các Ngài lại có năng lực diệt trừ tất cả phiền não nóng bức. Kính lễ tướng lưỡi như thế của các Đức Phật Thế Tôn; xin cho chúng con thành tựu biện tài vô cùng mầu nhiệm. Con xin chí thành đảnh lễ:
Kính lễ năng lực diệu biện tài của các Đức Phật.
Kính lễ năng lực diệu biện tài của Đại bồ-tát
Kính lễ năng lực diệu biện tài của Độc giác
Kính lễ năng lực diệu biện tài của bốn hướng[4], bốn quả
Kính lễ năng lực diệu biện tài của bậc thuyết bốn thánh đế
Kính lễ năng lực diệu biện tài của bậc chánh hạnh chánh kiến
Kính lễ năng lực diệu biện tài của Phạm chúng và chư thiên
Kính lễ năng lực diệu biện tài của Đại thiên Ô-ma
Kính lễ năng lực diệu biện tài của trời Tắc-kiến-đà
Kính lễ năng lực diệu biện tài của vua Ma-na-tư
Kính lễ năng lực diệu biện tài của Thông Minh Dạ thiên
Kính lễ năng lực diệu biện tài của bốn vị Đại thiên vương
Kính lễ năng lực diệu biện tài của thiên tử Thiện Trụ
Kính lễ năng lực diệu biện tài của Kim Cang Mật Chủ
Kính lễ năng lực diệu biện tài của trời Phệ-suất-nộ
Kính lễ năng lực diệu biện tài của thiên nữ Tì-ma
Kính lễ năng lực diệu biện tài của thiên thần Thị Số
Kính lễ năng lực diệu biện tài của thiên nữ Thất-lợi
Kính lễ năng lực diệu biện tài của Thất-lợi-mạt-đa
Kính lễ năng lực diệu biện tài của ngôn từ hê-lị
Kính lễ năng lực diệu biện tài của mẹ lớn trong các mẹ
Kính lễ năng lực diệu biện tài của Ha-lị-để mẫu
Kính lễ năng lực diệu biện tài của các thần Dạ-xoa
Kính lễ năng lực diệu biện tài của các vua trong mười phương
Nguyện các nghiệp thiện giúp đỡ con
Khiến được vô ngại diệu biện tài
Con xin kính lễ bậc không hư dối
Con xin kính lễ bậc đã giải thoát
Con xin kính lễ bậc đã lìa dục
Con xin kính lễ bậc đã đoạn ngăn che, trói buộc
Con xin kính lễ bậc tâm thanh tịnh
Con xin kính lễ bậc có ánh sáng
Con xin kính lễ bậc nói lời chân thật
Con xin kính lễ bậc không còn tập khí phiền não
Con xin kính lễ bậc thâm nhập thắng nghĩa
Con xin kính lễ bậc Đại chúng sanh.
Kính lễ Biện Tài thiên
Giúp ngôn từ vô ngại
Cầu xin chóng thành tựu
Tất cả những ước nguyện.
Không bệnh, luôn an ổn
Thọ mạng được dài lâu
Hiểu rõ các thần chú
Siêng tu đạo bồ-đề
Lợi ích khắp chúng sanh
Cầu tâm nguyện sớm thành.
Tôi nói lời chân thật
Lời tôi không hư dối
Thiên nữ Đại Biện Tài
Giúp tôi được thành tựu.
Kính xin thiên nữ đến
Khiến tôi nói trôi chảy
Đưa vào thân miệng tôi
Thông minh, đủ biện tài.
Xin giúp lưỡi của tôi
Được biện tài như Phật
Do uy lực lời Ngài
Điều phục được chúng sanh.
Khi tôi nói lời gì
Tất cả việc đều thành
Người nghe đều kính tin
Việc làm không uổng phí.
Nếu tôi cầu biện tài
Mà không được thành tựu
Lời thật của thiên nữ
Đều trở thành hư vọng.
Kẻ tạo tội Vô gián
Phật dạy, liền điều phục
Cho đến lời báo ân
Của các A-la-hán
Đệ tử lớn của Phật
Xá-lợi-phất, Mục-liên
Lời chân thật như thế
Xin giúp tôi thành tựu.
Nay con xin kính thỉnh
Các vị đại thanh văn
Mau đến chỗ của con
Giúp thành tựu tâm nguyện
Nguyện cầu lời chân thật
Đều mong không hư dối.
Từ cõi Sắc Cứu cánh
Đến cõi Tịnh Cư thiên
Phạm Chí và Phạm Phụ
Tất cả các Phạm chúng
Cho đến cõi tam thiên
Chủ thế giới Ta-bà
Cùng tất cả quyến thuộc
Nay tôi đều kính thỉnh
Xin rủ lòng từ bi
Xót thương đồng nhiếp thọ.
Trời Tha Hóa Tự Tại
Cho đến Biến Hóa Lạc
Thiên chúng trời Đâu-suất
Từ Thị Phật vị lai
Các vị trời Dạ-ma
Và Tam Thập Tam thiên
Bốn vị Đại thiên vương
Cùng tất cả chúng thiên
Thần địa, thủy, hỏa, phong
Nương ở núi Diệu Cao
Thần bảy núi, bảy biển
Cùng với các quyến thuộc
Thần Mãn Tài, Ngũ Đảnh
Nhật nguyệt và tinh tú,
Các vị thần như thế
Giúp chúng sanh an ổn
Các vị thiên thần này
Không thích làm việc ác.
Kính lễ mẹ chúng quỉ[5]
Và quỉ nhỏ thương yêu
Trời rồng và dạ-xoa
Càn-thát-bà, tu-la
Cho đến khẩn-na-la
Và ma-hầu-la-già
Tôi nương oai lực Phật
Kính triệu thỉnh các ngài
Xin tỏ lòng từ bi
Giúp tôi vô ngại biện.
Tất cả chúng trời người
Đã chứng được tha tâm
Xin thị hiện thần lực
Ban cho diệu biện tài.
Cho đến loài hàm sanh
Đầy cả cõi hư không
Tận cùng khắp pháp giới
Xin ban cho biện tài.
Thiên nữ Biện Tài nghe lời cầu thỉnh, liền bảo bà-la-môn rằng: “Hay thay Đại sĩ! Nếu có người nào y theo thần chú và bài tán chú, hành trì nghi thức như trước đã nói, qui y Tam bảo, chuyên tâm chánh niệm, thì sẽ thành tựu tất cả mong cầu; nếu lại thọ trì đọc tụng kinh này, thì những sở nguyện chóng được thành tựu, trừ những người không có lòng chí thành”.
Bà-la-môn nghe thiên nữ Biện Tài nói thế, vô cùng vui mừng, chắp tay cung kính một lòng lãnh thọ.
Bấy giờ Đức Phật bảo thiên nữ rằng: “Hay thay, hay thay! Thiên nữ có thể lưu truyền kinh này, bảo vệ những người thọ trì đọc tụng, làm cho chúng sanh lợi ích an vui. Thiên nữ thuyết như thế, ban cho chúng sanh biện tài vô ngại, cô sẽ được vô lượng phước đức, đồng thời cũng giúp cho người phát tâm mau đạt đến bồ-đề”.
PHẨM 16. THIÊN NỮ ĐẠI CÁT TƯỜNG
Bấy giờ thiên nữ Đại Cát Tường từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, cung kính chắp tay bạch Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu thấy tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thọ trì đọc tụng, giảng thuyết cho người kinh Kim quang minh, thì con dốc lòng cung kính cúng dường thức ăn thức uống, vật dụng ngồi nằm, y phục thuốc men và tất cả những món cần dùng khác, không để thiếu thốn, hầu giúp vị này ngày đêm an ổn nghiên cứu văn từ, tư duy nghĩa lí, khiến kinh lưu truyền khắp cõi Diêm-phù. Vì những chúng sanh đã trồng căn lành từ vô lượng trăm ngàn Đức Phật thường được nghe, nên kinh này không mau chóng ẩn mất. Lại trong vô lượng trăm ngàn ức kiếp, người này luôn được hưởng thọ niềm vui cõi trời cõi người, nhiều của giàu sang, không bao giờ bị đói khát, lại còn giúp cho tất cả hữu tình luôn được an lạc, gặp được chư Phật, mai sau chứng quả Vô thượng bồ-đề, vĩnh viễn thoát khỏi nỗi khổ luân chuyển trong ba đường dữ.
Bạch đức Thế Tôn! Nay con nhớ lại, vào thời quá khứ con trồng cội lành nơi đức Lưu Li Kim Sơn Bảo Hoa Quang Chiếu Cát Tường Công Đức Hải Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác. Do sức từ bi xót thương nhớ nghĩ của đức Như Lai, nên hôm nay con nghĩ về nơi nào, con nhìn đến đâu, đến quốc độ nào, vô lượng trăm ngàn vạn ức hữu tình sống ở nơi ấy đều được an vui, cho đến đầy đủ những món cần dùng như thức ăn uống, y phục đồ nằm, vật dụng sinh hoạt, vàng bạc, lưu li, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu.
Nếu có người nào chí tâm đọc tụng kinh Kim quang minh, thì phải hằng ngày đốt các hương thơm, rải các hoa đẹp, vì con cúng dường đức Lưu Li Kim Sơn Bảo Hoa Quang Chiếu Cát Tường Công Đức Hải Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác; mỗi ngày ba thời niệm danh hiệu con, lại dùng hoa thơm và thức ăn ngon cúng dường cho con. Những người nghe nhận kinh này cũng được phước báo như thế. Cát Tường thiên nữ lại nói kệ rằng:
Do thường trì tụng kinh vua này
Tự thân, quyến thuộc lìa hoạn nạn
Y phục, uống ăn không thiếu thốn
Ánh sáng, thọ mạng cũng không cùng.
Đất đai ngày càng thêm màu mỡ
Trời luôn tuôn mưa thật đúng thời
Chư thiên cho đến thần vườn rừng
Và thần ngũ cốc đều hoan hỉ.
Rừng cây, hoa trái đều tươi tốt
Tất cả lúa mạ nảy mầm xanh
Muốn cầu tài bảo, đều mãn nguyện
Tất cả mong ước cũng tùy tâm”
Đức Phật lại bảo Đại Cát Tường rằng: “Hay thay, hay thay! Thiên nữ có thể nhớ lại ơn xưa mà cúng dường báo đáp, làm lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh, lưu truyền kinh này, nhất định sẽ đạt được vô tận công đức”.
PHẨM 17: THIÊN NỮ ĐẠI CÁT TƯỜNG TĂNG TRƯỞNG TÀI VẬT
Bấy giờ thiên nữ Đại Cát Tường thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Con hiện ở tại cung điện bảy báu trong vườn Diệu Hoa Phước Quang, cách thành Hữu Tài của vị thiên vương Bệ-thất-la-mạt-noa phương bắc không xa. Nếu người nào muốn ngũ cốc tăng trưởng, kho lẫm đầy nhiều, thì nên phát khởi thật tâm tin kính, dọn dẹp một căn phòng thật sạch sẽ, phân bò trét nền, vẽ hình tượng con, trang trí các xâu chuỗi báu khắp nơi. Kế đến, người ấy tắm rửa, thay y phục sạch, thoa hương thơm quí rồi vào tĩnh thất, phát tâm vì con mỗi ngày ba thời xưng niệm: Nhất tâm kính lễ Đức Phật Lưu Li Kim Sơn Bảo Hoa Quang Chiếu Cát Tường Công Đức Hải Như Lai và xưng niệm tên kinh Kim quang minh, đồng thời chí thành cúng dường hoa thơm, thức ăn thức uống ngon lạ lên Phật, kinh và trước tượng con. Lại rải thức ăn thức uống khắp trong đàn tràng để ban cho các vị thần. Sau đó nói lời chân thật thỉnh con, nêu ra những việc mà mình mong cầu, đồng thời nguyện rằng: Nếu lời của thiên nữ là chân thật, thì không nên để cho lời thỉnh cầu của tôi luống uổng”.
Thiên nữ biết được, khởi lòng xót thương, tức thời làm cho gia đình người ấy có nhiều tiền của và cả lúa thóc. Nhưng muốn được thế, người ấy trước hết chí tâm xưng niệm danh hiệu chư Phật và các bồ-tát, sau đó mới tụng thần chú thỉnh con.
Nhất tâm kính lễ tất cả Đức Phật trong mười phương ba đời
Nhất tâm kính lễ Đức Phật Bảo Kế
Nhất tâm kính lễ Đức Phật Vô Cấu Quang Minh Bảo Tràng
Nhất tâm kính lễ Đức Phật Kim Tràng Quang
Nhất tâm kính lễ Đức Phật Bách Kim Quang Tạng
Nhất tâm kính lễ Đức Phật Kim Cái Bảo Tích
Nhất tâm kính lễ Đức Phật Kim Hoa Quang Tràng
Nhất tâm kính lễ Đức Phật Đại Đăng Quang
Nhất tâm kính lễ Đức Phật Đại Bảo Tràng
Nhất tâm kính lễ Đức Phật Bất Động, giáo chủ cõi nước ở phương đông
Nhất tâm kính lễ Đức Phật Bảo Tràng, giáo chủ cõi nước ở phương nam
Nhất tâm kính lễ Đức Phật Vô Lượng Thọ, giáo chủ cõi nước ở phương tây
Nhất tâm kính lễ Đức Phật Thiên Cổ Âm Vương, giáo chủ cõi nước ở phương bắc
Nhất tâm kính lễ bồ-tát Diệu Tràng
Nhất tâm kính lễ bồ-tát Kim Quang
Nhất tâm kính lễ bồ-tát Kim Tạng
Nhất tâm kính lễ bồ-tát Thường Đề
Nhất tâm kính lễ bồ-tát Pháp Thượng
Nhất tâm kính lễ bồ-tát Thiện An
Sau khi kính lễ Phật và bồ-tát, thì tụng thần chú để triệu thỉnh con, nhờ năng lực của bài thần chú này mà thành tựu tất cả những mong cầu.
Nam mô sơ ri, ma ha đê vi, tát ya tha, pa ri pua na, ca rê, Sa ma ta-đát sa ni, ma ha vi ha ra ga rê, sa man ta, pi ta ma ma ti, ma ha ka ri ya, pờ ra ti vít tha pa ni, sa van tha sa mam ta na, su pờ ra ti pu rê, a da na đạt ma ta, ma ha ba ghê na, ma ha mai tri, u pa sam hê tê, ma ha cờ lê sa su sam gờ hi tê, a nu pu la na, sa va ha.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu ai trì tụng bài thần chú này để triệu thỉnh con, con liền đến đó giúp họ thỏa mãn tất cả mong cầu. Đây là câu pháp quán đảnh, câu định thành tựu, câu chân thật, câu không hư dối, là hạnh bình đẳng, làm căn lành chân chánh cho chúng sanh. Người nào trì tụng bài thần chú này, cần phải giữ gìn tám chi trai giới trong bảy ngày đêm, mỗi sáng thức dậy, đánh răng súc miệng; buổi chiều lại dâng hương hoa cúng dường tất cả Đức Phật, tỏ bày tất cả những tội đã tạo, rồi vì bản thân và các chúng sanh, hồi hướng phát nguyện, khiến cho tất cả những điều mong cầu đều sớm thành tựu. Trước tiên người ấy phải chuẩn bị một căn phòng thanh tịnh, hoặc đến một nơi an ổn vắng lặng, lập một đàn tràng, dùng phân bò trét trên nền, đốt hương chiên-đàn cúng dường, đặt tòa cao đẹp, giăng treo cờ lọng, trang trí hoa đẹp. Sau đó nhất tâm tụng bài chú ấy để triệu thỉnh con. Bấy giờ con liền nhớ nghĩ, quan sát người ấy rồi vào đàn tràng, ngồi trên tòa cao, thọ nhận phẩm vật cúng dường. Từ đó về sau, trong mỗi giấc mộng, người ấy thấy con, trình bày như thật những điều mong cầu, thì ở nơi đâu, hoặc trong làng xóm, hoặc nơi đầm vắng, trụ xứ của tăng, con đều giúp cho đầy đủ tất cả, nào là vàng bạc, báu vật trâu dê, lúa thóc y phục, thức ăn thức uống… Đã được phước báo tốt đẹp như thế, người ấy nên chọn phần quí và tốt đẹp nhất cúng dường Tam bảo và con. Sau đó lập pháp hội lớn, bày biện thức ăn thức uống hoa hương cúng dường; rồi bán những vật đã cúng dường ấy lấy tiền mua sắm những phẩm vật khác, tiếp tục cúng dường. Nếu được như vậy, con sẽ ở cạnh trọn đời giúp đỡ bảo vệ người ấy, không để thiếu thốn, giúp cho thỏa mãn tất cả mong cầu. Nhưng người ấy cũng phải thường cứu giúp những kẻ khốn cùng, không nên bỏn xẻn, chỉ lo thân mình; lại phải luôn luôn thọ trì đọc tụng, cúng dường kinh này, và ban tất cả phước báo có được cho khắp chúng sanh, mà hồi hướng về Vô thượng bồ-đề, phát nguyện ra khỏi luân hồi sanh tử, mau chóng giải thoát.
Thế Tôn khen rằng: “Hay thay, hay thay! Thiên nữ Cát Tường! Thiên nữ có thể giúp lưu truyền kinh này, đem lại lợi ích cho mình và người không thể nghĩ bàn như thế”.
PHẨM 18: ĐỊA THẦN KIÊN LAO
Bấy giờ địa thần Kiên Lao từ trong chúng hội đứng dậy, chắp tay cung kính bạch Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Dù ở hiện tại hay là vị lai, hễ nơi nào có kinh này lưu truyền dù là thành thị, hay ở xóm thôn, lầu đài cung điện, núi rừng đầm vắng…con cũng sẽ đến cúng dường bảo vệ. Nếu nơi nào có đặt tòa cao cho pháp sư giảng thuyết bộ kinh vua này, con dùng thần lực, ẩn thân đến tòa dùng đầu đỡ chân vị pháp sư ấy. Bấy giờ con được nghe pháp, được nếm pháp vị, tăng thêm oai quang, nên lòng vô cùng vui mừng. Tự thân đã được lợi ích như thế, lại còn làm cho cả đại địa này, từ mặt đất sâu đến mười sáu vạn tám ngàn du-thiện-na giáp mé kim cang, cũng được tăng trưởng những chất dinh dưỡng, cho đến tất cả đất trong bốn biển cũng đều màu mỡ hơn xưa. Lại cũng khiến cho rừng rậm cây cối, cỏ thuốc hoa quả, cành lá gốc rễ, lúa mạ mầm chồi tốt tươi xinh đẹp, rất đáng ngắm nhìn, lại còn đầy đủ cả sắc hương vị, đều thọ dụng được. Nếu hữu tình nào thọ hưởng thức ăn thức uống ngon bổ như thế sẽ khỏe mạnh, tăng thêm tuổi thọ, giác quan an định, sắc diện tươi sáng, không còn thống khổ, ý chí mạnh mẽ, gánh vác mọi việc. Hơn nữa tất cả những món cần dùng khắp đại địa này, cho đến trăm ngàn sự việc đều giúp cho được hoàn bị.
Bạch đức Thế Tôn! Vì nhân duyên ấy, cõi Diêm-phù-đề sung túc an ổn, nhân dân đông đảo, không còn suy tổn, tất cả chúng sanh đều được an lạc. Nếu thân tâm đã hưởng được niềm vui như thế thì càng phải nên chí thành cung kính kinh này, mọi lúc mọi nơi đều nên thọ trì, cúng dường tôn trọng ngợi khen. Lại nên đến tòa của đại pháp sư thỉnh giảng kinh này cho khắp chúng sanh. Khi thuyết kinh này thì tự thân con, tất cả quyến thuộc đều được lợi ích, như tăng ánh sáng, khí lực mạnh mẽ, đầy đủ oai thế, dung mạo đoan chánh hơn lúc bình thường. Sau khi con hưởng pháp vị này rồi, liền khiến đất đai trong một phạm vi ngang dọc bảy ngàn du-thiện-na ở cõi Diêm-phù-đề đều được màu mỡ, tất cả chúng sanh đều được an lạc.
Bạch đức Thế Tôn! Vì muốn báo ân, những chúng sanh kia nên suy nghĩ rằng: ‘Ta nhất định sẽ nghe nhận kinh này, cung kính tôn trọng, khen ngợi cúng dường’. Sau đó từ nơi trụ xứ của mình, hoặc là thành thị, xóm làng đồng vắng, những người ấy đến pháp hội đảnh lễ pháp sư lắng nghe, tin nhận kinh này. Nghe nhận xong liền trở về trụ xứ, lòng ngập niềm vui, tất cả đồng nói: ‘Hôm nay chúng ta đã được nghe pháp vô cùng sâu xa, nhiệm mầu vô thượng, tức đã lãnh thọ công đức không thể nghĩ bàn. Do năng lực kinh, nên chúng ta được gặp và hầu hạ cúng dường vô lượng vô biên trăm ngàn câu-chi na-do-tha vị Phật, vĩnh viễn thoát khỏi ba đường khổ đau; trong trăm ngàn đời mai sau luôn được sanh vào cõi trời cõi người, thọ hưởng niềm vui’. Những chúng sanh ấy, ngay trụ xứ mình, vì các hữu tình mà giảng kinh này, hoặc một thí dụ, hoặc là một phẩm, một nhân duyên xưa, hoặc danh hiệu của một đức Như Lai, hoặc danh hiệu của một vị bồ-tát, hoặc một bài kệ đầy đủ bốn câu, hay chỉ một câu, hoặc nêu tên kinh, thì vùng đất nào chúng sanh ấy trú cũng sẽ phì nhiêu hơn những nơi khác. Đồng thời các loài thực vật vùng ấy cũng sẽ tăng trưởng tốt tươi cao lớn, khiến cho tất cả chúng sanh vui mừng, được nhiều tiền tài báu vật, thích hành bố thí, tin sâu Tam bảo”.
Sau khi nghe thế, Đức Phật bèn bảo địa thần Kiên Lao: “Nếu chúng sanh nào nghe kinh Kim quang minh, dù chỉ một câu, sau khi mạng chung cũng được sanh lên cõi Ba Mươi Ba hoặc cõi trời khác. Nếu có chúng sanh cúng dường kinh này, trang hoàng nhà cửa, cho dù chỉ treo một chiếc lọng lụa, một lá phan thêu thì sẽ tùy niệm sanh lên tầng trời thứ sáu cõi Dục, tùy ý thọ dụng cung điện bảy báu, bảy ngàn thiên nữ tự nhiên hiện đến cùng nhau vui đùa, ngày đêm luôn luôn thọ hưởng niềm an lạc vô biên”.
Địa thần Kiên Lao nghe nói như thế, liền bạch Đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Vì những lẽ đó, nếu có người nào trong bốn chúng đây lên tòa giảng thuyết kinh mầu nhiệm này, thì cả ngày đêm con theo bảo vệ, ẩn thân bên tòa, dùng đầu đỡ chân người giảng pháp ấy. Vì những chúng sanh đã trồng căn lành từ nơi vô lượng trăm ngàn Đức Phật, mà con giúp đỡ lưu truyền kinh này nơi cõi Diêm-phù, không để diệt mất. Những chúng sanh nào được nghe kinh này, thì trong vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp vị lai sẽ được sanh vào cõi trời cõi người, hưởng thọ niềm vui tuyệt diệu, gặp các Đức Phật, thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác, không phải trải qua ba đường sanh tử.
Bạch đức Thế Tôn! Con thuyết một bài tâm chú, có năng lực làm lợi ích an lạc cho cả trời người. Nếu mọi người và bốn chúng muốn thấy thân thật của con, thì nên chí tâm trì tụng chú này. Muốn cầu tài sản, trân bảo kho tàng, thần thông tự tại, niềm vui lâu dài, thuốc men chữa bệnh, phá dẹp oán địch, tạo các dị luận… cũng được thỏa mãn. Trước tiên người ấy phải đến nơi tháp có xá-lợi Phật, hoặc lập pháp đàn trong nhà thanh tịnh, tắm gội thân thể, thay y phục sạch, ngồi trên tòa cỏ, đối trước tôn tượng Phật và xá-lợi, đốt hương rải hoa, bày biện thức ăn thức uống cúng dường, đúng ngày bố-sái, mồng tám mỗi tháng trì tụng thần chú sau đây để triệu thỉnh con: Tát da tha, chi ri chi ri, chu ru chu ru, ku ru ku ru, ku tu ku tu, tô tu tô tu, ba ha ba ha, sa va ri, sa va ri, sa va ha.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu tụng chú này trăm lẻ tám biến để triệu thỉnh con, thì con sẽ vì người ấy mà đến. Nếu có chúng sanh muốn thấy thân con và cùng nói chuyện, thì cũng nên theo cách thức như trên mà tụng thần chú: Tát da tha, a ca ni, gờ ri li ga, cờ sa na ti, si ra, si đa ri, ha ha hi hi, ku ru, ba rê, sa va ha.
Bạch đức Thế Tôn! Nên tụng chú này trăm lẻ tám biến, và tụng thêm bài thần chú nói trên, con sẽ hiện thân, hoàn thành tất cả tâm nguyện của họ, hoàn toàn không dối. Nhưng trước tiên nên tụng chú hộ thân: Ta da tha, ni si ri, ma sa ka ni, na ti, ku ti, bút đi, bút đi rê, bi ti bi ti, ku ku ti, ba ci ri, sa va ha.
Nên trì tụng vào sợi chỉ năm màu hai mươi mốt biến, gút hăm mốt gút, rồi buộc vào khuỷu tay trái, sẽ bảo vệ thân, không còn lo sợ. Nếu người chí tâm tụng thần chú này, thì sẽ thỏa mãn tất cả mong cầu. Con không nói dối, Phật pháp tăng bảo sẽ chứng tri lời chân thật của con”.
Thế Tôn lại bảo địa thần Kiên Lao: “Hay thay, hay thay! Ông dùng thần chú bảo vệ kinh vua và người thuyết pháp, ông sẽ hưởng được vô lượng phước báo”.
PHẨM 19: ĐẠI TƯỚNG DẠ-XOA CHÁNH LIỄU TRI
Bấy giờ đại tướng Chánh Liễu Tri cùng hai mươi tám bộ thần dạ-xoa, từ chỗ ngồi trong chúng hội đứng dậy, áo bày vai phải, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính, bạch Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hiện tại vị lai, bất kì nơi nào có kinh vua này lưu hành truyền bá, dù là thành thị xóm làng, núi non đầm vắng, cung điện lầu gác, trụ xứ của tăng, thì con cùng với hai mươi tám bộ dạ-xoa đồng đến, mỗi mỗi chia nhau ẩn thân bảo vệ, giúp vị pháp sư tránh những nạn khổ, luôn được an vui. Đối với những người nghe nhận kinh này, dù chỉ thọ trì bài kệ bốn câu, hoặc là một câu, hoặc chỉ đề kinh, hoặc là danh hiệu một đức Như Lai, một vị bồ-tát trong bộ kinh này, rồi phát tâm niệm, cung kính cúng dường thì con sẽ đến cứu giúp bảo vệ, khiến cho người ấy không gặp tai họa, lìa khổ được vui.
Vì sao con tên là Chánh Liễu Tri? Về nhân duyên này, xin Phật minh chứng; con biết các pháp, hiểu tất cả pháp, tùy thuận các pháp, như tất cả pháp; con cũng thấu suốt tất cả chủng loại, thể tánh sai biệt của tất cả pháp. Con có ánh sáng trí huệ không thể nghĩ bàn, có đuốc trí huệ không thể nghĩ bàn, có hạnh trí huệ không thể nghĩ bàn, có tụ trí huệ không thể nghĩ bàn. Đối với cảnh giới trí huệ không thể nghĩ bàn, con có khả năng thông đạt tất cả. Bạch đức Thế Tôn! Con biết chánh xác, con hiểu chánh xác, tỏ ngộ chánh xác, quán xét chánh xác tất cả các pháp. Vì thế con tên là Chánh Liễu Tri; do đó con có năng lực giúp cho pháp sư đầy đủ tất cả ngôn từ, luận biện thông suốt, cũng đưa sinh khí vào lỗ chân lông, giúp thân khỏe mạnh, uy lực to lớn, thành tựu ánh sáng trí huệ không thể nghĩ bàn, trí nhớ chánh xác, không có quên sót, tăng trưởng thể lực, không hề suy giảm, các căn thư thái, thường sanh hỉ lạc. Do đó con vì những chúng hữu tình đã trồng căn lành, tu tập phước đức từ nơi trăm ngàn Đức Phật mà giúp lưu truyền kinh này trong cõi Diêm-phù, không để ẩn mất. Các hữu tình ấy nghe kinh này rồi, liền được ánh sáng trí huệ vô cùng, cho đến vô lượng phước đức trí huệ, vào đời vị lai thọ hưởng vô lượng câu-chi na-do-tha chẳng thể nghĩ bàn niềm vui tuyệt diệu cõi trời cõi người, thường gặp Đức Phật, mau chóng đạt đến vô thượng bồ-đề, mà chẳng cần phải trải qua những nơi tăm tối khổ đau trong ba đường ác”.
Đại tướng dạ-xoa Chánh Liễu Tri lại bạch Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con có thần chú, nay vì thương xót muốn làm lợi ích cho các hữu tình, nên trước Thế Tôn, con xin tuyên thuyết: Nam mô Bút đa ya, nam mô Đạt ma da, nam mô Sam ga da, nam mô Bờ ra ma da, nam mô In dờ ra da, na ma hơ cha tu nam, ma ha ra ja nam, tát da tha, hi ri, hi ri, mi li, mi li, Gô ri Ma ha gô ri, Gan đa ri, Ma ha gan đa ri, Dờ ra vi đi, Ma ha dờ ra vi đi, đa đa, khu kun tê, ha ha ha ha ha, hi hi hi hi hi, hô hô hô hô hô, ha ja, đạt ma, ku đa mê, cha cha cha cha chi chi chi chi, chu chu chu chu, can đết va ra, sít kha ra, sít kha ra, út tít ta hi, ba ga van, sam chin ja da, sa va ha.
Nếu ai thọ trì bài minh chú này, con sẽ cung cấp vật dụng sinh hoạt mà lòng ưa thích, thức ăn thức uống, y phục hoa quả, tiền của báu vật; nếu cầu con trai hoặc cầu con gái, xâu chuỗi vàng bạc, châu báu… con cũng cấp cho đầy đủ theo nguyện, không để thiếu thốn. Thần chú này có oai lực rất lớn, nên khi nghe được có người tụng trì, con liền đến đó, giúp cho mọi việc mau chóng thành tựu, không bị trở ngại. Nhưng muốn trì tụng, phải biết phương pháp, trước tiên nên họa hình tượng dạ-xoa Chánh Liễu Tri cao khoảng bốn năm thước, tay cầm xà mâu, trước tượng lập một pháp đàn tứ phương, bốn phía đặt bình chứa đầy nước đường mật hoặc, hương xoa hương bột, hương đốt vòng hoa; trước đàn nên đặt một lò bằng đất, chứa than đang cháy, để đốt hạt cải và cỏ Tô-ma[6]. Sau đó trì tụng một trăm lẻ tám biến thần chú này, mỗi biến đốt một lần, cho đến khi con hiện thân đến hỏi người tụng chú rằng: ‘Ông cần những gì, muốn cầu điều gì, xin cứ nói thật!’. Con liền theo lời, thỏa mãn mong cầu của người trì tụng; dù là vàng bạc, kho tàng trong đất, hay muốn thần tiên từ không trung hiện, hay cầu được thiên nhãn thông, được tha tâm thông, cầu được tùy ý tự tại đối với tất cả chúng sanh giúp họ đoạn trừ phiền não, mau chóng giải thoát, thì con cũng giúp thành tựu tất cả”.
Bấy giờ Thế Tôn bảo Chánh Liễu Tri: “Hay thay, hay thay! Ông có thể làm lợi ích an lạc cho các chúng sanh, bảo vệ chánh pháp mà thuyết chú này. Ông sẽ nhận được vô biên phước lợi”.
PHẨM 20: VƯƠNG PHÁP CHÁNH LUẬN
Bấy giờ có một nữ thần đại địa tên là Kiên Lao, từ trong chúng hội đứng dậy đảnh lễ, chắp tay cung kính bạch Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Trong một đất nước, nếu người làm vua không biết chánh pháp, sẽ không thể nào trị quốc an dân, tại vị lâu dài. Cúi xin Thế Tôn từ bi thương xót giảng thuyết rõ về Vương pháp chánh luận, là pháp cốt yếu của việc trị quốc, để khi các vị quốc vương nghe được, theo đó thực hành, y theo chánh pháp giáo hóa nhân dân, khiến cho vương vị trường tồn, đất nước thái bình, nhân dân lợi lạc”.
Đức Thế Tôn bảo: “Nữ thần lắng nghe! Vào thời quá khứ có một vị vua tên Lực Tôn Tràng, con vua tên là Diệu Tràng đã thọ quán đảnh kế thừa ngôi vị. Sau đó không lâu, vua cha lại bảo thái tử Diệu Tràng: ‘Có bộ vương pháp chánh luận tên là Thiên chủ giáo pháp. Khi ta vừa nhận ngôi vị quán đảnh để làm quốc vương, vua cha tên là Trí Lực Tôn Tràng cũng nói cho ta nghe chánh luận này. Ta liền tuân theo luận này trị quốc, trong hai vạn năm, chưa từng khởi một niệm tâm thực hành những điều phi pháp. Hôm nay con cũng phải làm như thế, chớ dùng phi pháp trị quốc an dân. Vương pháp chánh luận là gì? Con hãy lắng nghe, ta sẽ nói rõ’. Vua Lực Tôn Tràng dùng kệ trình bày chánh luận như sau:
Ta nói luận Vương pháp
Lợi lạc các chúng sanh
Dứt thế gian nghi ngờ
Diệt trừ bao lầm lỗi.
Tất cả vua cõi trời
Cùng quốc vương cõi người
Nên sanh lòng mừng vui
Chắp tay nghe ta nói.
Ngày xưa các vị trời
Nhóm tại núi Kim Cang
Bốn thiên vương đứng dậy
Thưa hỏi Đại Phạm thiên:
Phạm chủ, bậc tôn quí
Tự tại nhất trong trời
Xin thương xót chúng tôi
Giải trừ những nghi hoặc.
Vì sao ở cõi người
Mà được gọi là trời?
Vì những lí do gì
Mà được gọi thiên tử?
Vì sao sanh nhân gian
Độc nhất làm nhân chủ?
Vì sao sanh cõi trời
Được gọi là thiên vương?
Bốn thiên vương Hộ Thế
Hỏi Phạm vương như thế.
Bấy giờ Phạm thiên vương
Liền vì họ giảng nói.
Hộ Thế! Các ông đây
Vì lợi ích hữu tình
Mà hỏi cách trị quốc
Lắng nghe, ta sẽ nói!
Do sức nghiệp ngày xưa
Sanh thiên được làm vương
Nếu sanh vào cõi người
Làm vua lãnh thiên hạ
Được chư thiên bảo vệ.
Sau đó vào thai mẹ
Tuy đã vào bào thai
Chư thiên vẫn hộ trì.
Dù sanh tại nhân gian
Cao quí, nên gọi trời,
Do chư thiên bảo vệ
Nên cũng gọi thiên tử.
Chủ cõi Ba Mươi Ba
Chia sức giúp nhân vương
Tất cả các thiên chúng
Cũng giúp sức tự tại.
Diệt trừ các phi pháp
Khiến nghiệp ác không sanh
Dạy mọi người tu thiện
Để được sanh cõi trời.
Nhân loại, a-tu-la
Các loài càn-thát-bà
La-sát, chiên-đà-la
Đều giúp nửa sức lực.
Cha mẹ thêm nửa sức
Khiến bỏ ác tu thiện
Chư thiên cùng hộ trì
Chỉ rõ quả báo thiện.
Nếu tạo các nghiệp ác
Ngay trong đời hiện tại
Chư thiên không bảo vệ
Chỉ cho quả báo ác.
Người trong nước tạo ác
Quốc vương không cấm ngăn
Thì chẳng đúng chánh lí
Nên đúng pháp trị phạt.
Nếu thấy ác không ngăn
Phi pháp ngày càng tăng
Khiến trong toàn cõi nước
Gian trá ngày càng nhiều.
Vua thấy nhân dân mình
Tạo ác mà không cấm
Thiên chúng Ba Mươi Ba
Đều vô cùng giận dữ.
Do đây tổn quốc chánh
Gian trá khắp thế gian
Khiến quân địch xâm lăng
Hủy hoại cả đất nước.
Nhà cửa và vật dụng
Tài sản đều không còn
Dối gạt, dua nịnh sanh
Lại thay nhau chiếm đoạt.
Do chánh pháp làm vua
Mà không hành pháp ấy
Khiến đất nước tan hoang
Như ao sen voi xéo.
Cuồng phong nổi bất thường
Mưa lớn trái mùa đổ
Sao xấu hiện điềm quái
Nhật nguyệt thực tối tăm.
Ngũ cốc và hoa quả
Trái hạt đều không thành
Đất nước bị đói kém
Do vua bỏ chánh pháp.
Nếu vua bỏ chánh pháp
Dùng pháp ác trị dân
Chư thiên tại cung điện
Nhìn thấy lòng lo buồn.
Bấy giờ các thiên vương
Cùng nhau đồng nói rằng:
Vua này hành phi pháp
Luôn gần gũi kẻ ác
Vương vị không dài lâu
Chư thiên đều phẫn nộ
Do chư thiên phẫn nộ
Nước ấy sớm bại vong.
Dùng phi pháp dạy người
Lưu truyền khắp quốc gia
Tranh đấu, nhiều gian dối
Dịch bệnh, khổ não sanh.
Thiên chủ không bảo vệ
Chúng trời cũng bỏ rơi
Đất nước sẽ bại vong
Quốc vương bị khổ nạn.
Cha mẹ cùng vợ con
Anh em và chị em
Chịu cảnh ái biệt li
Cho đến phải mất mạng.
Biến quái và sao băng
Hai mặt trời đồng hiện
Oán địch từ ngoài đến
Đất nước gặp loạn li.
Đại thần quan dân trọng
Phải bị chết oan uổng
Voi, ngựa mọi người quí
Cũng mất hết không còn.
Chiến tranh khắp mọi nơi
Người chết thật oan uổng
Ma quỉ vào cõi nước
Dịch bệnh lan khắp cùng.
Vị đại thần tối cao
Cùng với các phụ tướng
Lòng tràn đầy dua nịnh
Cùng nhau hành phi pháp.
Vua thấy hành phi pháp
Lại sanh tâm yêu kính
Thấy người làm điều thiện
Thì hành hạ đớn đau.
Do yêu kính kẻ ác
Trị phạt người hành thiện
Tinh tú và mưa gió
Không xuất hiện đúng mùa.
Có ba tai họa sanh:
Chánh pháp liền ẩn mất
Chúng sanh không tươi nhuận
Đất đai lại cằn cỗi.
Do trọng ác khinh thiện
Lại có ba họa sanh:
Sương, mưa đá trái mùa
Đói khát và dịch bệnh,
Các hạt lúa, đậu mè
Phẩm chất lại kém hẳn.
Nhân dân trong khắp nước
Phần nhiều bị dịch bệnh,
Các loại cây cho quả
Trước kia thật ngon ngọt
Do đây vị tổn giảm
Đắng chát, không mùi vị.
Vườn rừng trước xinh đẹp
Là nơi đáng du lãm
Bỗng nhiên lại khô cằn
Người nhìn sanh buồn chán.
Lúa mạch, các loại hạt
Vị ngon dần tiêu mất
Khi dùng, không vừa ý
Làm sao nuôi dưỡng thân.
Sắc diện chúng sanh giảm
Sức lực cũng suy kiệt
Dù ăn uống rất nhiều
Vẫn không thấy no đủ.
Tất cả loài chúng sanh
Trong khắp các cõi nước
Ốm yếu, không sức lực
Chẳng làm được việc gì.
Nhân dân bị bệnh tật
Khổ não bức bách thân
Nơi nơi quỉ mị hiện
Chốn chốn la-sát sanh.
Nếu vua hành phi pháp
Gần gũi những kẻ ác
Khiến ba loại thế gian
Sẽ phải chịu tổn giảm.
Vô biên họa như thế
Xảy ra khắp cõi nước
Đều do thấy kẻ ác
Mà không chịu trị phạt.
Do chư thiên gia hộ
Mà được làm quốc vương
Lại không dùng chánh pháp
Bảo vệ đất nước mình.
Nếu người tu hạnh lành
Sẽ được sanh cõi trời
Còn kẻ tạo nghiệp ác
Chết ắt vào ba đường.
Nếu vua để tự do
Người trong nước tạo ác
Thì chúng trời Đao-lợi
Lòng vô cùng phiền não.
Bởi chẳng thuận trời dạy
Và lời của mẹ cha
Đây là người phi pháp
Chẳng phải vua, con hiếu.
Như thấy dân trong nước
Làm những điều phi pháp
Phải như pháp trị phạt
Không khởi ý cho qua
Từ đó các chúng trời
Hộ trì vị vua này.
Vì diệt trừ pháp ác
Tu tập các pháp lành
Hiện đời vị vua này
Ắt được quả báo tốt.
Do đối với thiện ác
Khuyên chúng sanh tu, lìa
Chỉ rõ quả thiện ác
Nên làm vua cõi người
Chư thiên cùng hộ trì
Tất cả đều tùy hỉ.
Do tự lợi, lợi tha
Dùng chánh pháp trị quốc
Thấy những kẻ dua nịnh
Như pháp mà trị phạt.
Giả sử mất vương vị
Cho đến hại bản thân
Trọn không hành pháp ác
Thấy ác lại bỏ qua.
Họa mất đi vương vị
Lớn nhất trong các họa
Đều do kẻ dua nịnh
Vì thế nên trị phạt.
Nếu gần kẻ dối trá
Sẽ đánh mất vương vị
Do đây tổn pháp vua
Như voi vào vườn hoa.
Thiên chủ đều nổi giận
A- tu-la cũng thế
Vì người ấy làm vua
Không dùng pháp trị quốc.
Vì thế nên như pháp
Trị phạt những kẻ ác
Dùng thiện dạy nhân dân
Chẳng thuận theo phi pháp
Thà xả bỏ thân mạng
Quyết không theo bạn ác
Với kẻ thân, không thân
Đều đối xử bình đẳng.
Nếu làm vua chánh pháp
Đối xử không thiên vị
Vua pháp có tiếng thơm
Vang khắp cả ba cõi.
Thiên chúng trời Đao-lợi
Vui mừng đồng nói rằng:
Vua pháp cõi Diêm-phù
Chính là con của ta
Dùng điều thiện dạy dân
Dùng chánh pháp trị quốc
Khuyên người hành chánh pháp
Sẽ sanh vào cung ta.
Chư thiên và thiên tử
Cho đến a-tu-la
Thấy vua hành chánh pháp
Nên trong lòng mừng vui
Bởi chư thiên mừng vui
Nên hộ trì vua ấy.
Tinh tú chuyển đúng vị
Nhật nguyệt không trái đường
Gió thuận thật đúng mùa
Mưa hòa hợp thời tiết
Trái hạt đều kết thành
Nhân dân không đói khát
Tất cả các thiên chúng
Đầy khắp các thiên cung.
Vì thế làm nhân vương
Nên quên thân hoằng pháp
Nên tôn trọng pháp bảo
Do đây dân an vui.
Thường gần gũi chánh pháp
Dùng công đức trang nghiêm
Quyến thuộc thường hoan hỉ
Điều ác nên xa lìa.
Dùng chánh pháp giáo hóa
Luôn giúp họ an ổn
Khiến tất cả mọi người
Tu tập pháp thập thiện
Cả nước luôn sung túc
Quốc độ được thái bình.
Vua dùng pháp dạy dân
Giỏi điều phục kẻ ác
Thanh danh sẽ vang khắp
Làm an lạc quần sanh.
Tất cả quốc vương trên khắp thế giới và đại chúng nghe Đức Phật nói về pháp yếu trị quốc của vị vua xưa, đều cho là được điều chưa từng có, nên rất vui mừng, cung kính thực hành.
Chú thích:
[1] Phật-đà: phiên âm đủ của từ Buddha, gọi tắt là Phật, Trung Quốc dịch là Giác giả, Trí giả.
[2] Đạt-ma: phiên âm của từ Dharma, Trung Quốc dịch là Pháp, chỉ cho giáo pháp của Đức Phật, một trong ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng.
[3] Tăng-già: phiên âm của từ Saṃgha, Trung Quốc dịch là Chúng, tức tập thể tì-kheo hay tì-kheo-ni từ bốn người trở lên sống trong tinh thần hòa hợp.
[4] Bốn hướng: Tu-đà-hoàn hướng, Tư-đà-hàm hướng, A-na-hàm hướng, A-la-hán hướng. Hướng tức là hướng đến, sắp đến chứ chưa đến.
[5] Mẹ chúng quỉ: tức quỉ mẹ của năm trăm quỉ con, âm Hán là quỉ tử mẫu.
[6] Cỏ Tô-ma: một loại cỏ mọc lan khắp mặt đất, nước được ép từ cỏ này có thể làm men rượu.