QUYỂN 2
PHẨM 3: PHÂN BIỆT BA THÂN
Bấy giờ trong hội, có Đại bồ-tát hiệu Hư Không Tạng từ tòa đứng dậy, y lộ vai phải, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ chân Phật, dâng cúng hoa báu, tràng phan lọng báu vô cùng tuyệt diệu rồi bạch Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn! Đối với ý nghĩa sâu xa bí mật của các Như Lai, các Đại bồ-tát làm thế nào để tu hành đúng pháp?
Đức Phật dạy: Này thiện nam tử! Ông hãy lắng nghe và ghi nhớ kĩ, ta sẽ nói rõ cho ông được biết! Tất cả Như Lai đều có ba thân: Hóa thân, Ứng thân, Pháp thân[1]. Ba thân gồm thâu Vô thượng bồ-đề. Nếu thấy biết đúng, chóng thoát sanh tử. Thế nào gọi là thấy đúng Hóa thân? Này thiện nam tử! Vào thời quá khứ, khi Như Lai còn ở vị tu hành, đã vì chúng sanh tu tập các pháp, cho đến cuối cùng, hoàn toàn thành tựu. Do sức tu hành, cho nên thân này được đại tự tại; do đại tự tại, nên có năng lực tùy thuận phân biệt tâm ý, hành nghiệp, tánh giới của các chúng sanh; lại không đợi thời, không để lỡ thời; xứ đã thích hợp, thời cũng thích hợp, hành cũng thích hợp, thuyết pháp thích hợp, thị hiện các thân, đó là Hóa thân.
Thế nào gọi là bậc Đại bồ-tát thấy biết đúng Ứng thân? Là thân Như Lai vì muốn tất cả bồ-tát thông đạt, mà thuyết chân đế[2]; là thân giúp các bồ-tát hiểu rõ sanh tử niết-bàn chỉ là một vị; là thân thị hiện diệt tâm sợ hãi, hoặc tâm vui mừng của những chúng sanh chấp trước tự thân; là thân nền tảng vô biên Phật pháp. Vì sức bản nguyện tương ưng như thật với Trí như như như như[3], nên thân này hiện ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, hào quang toàn thân. Đó là Ứng thân.
Thế nào gọi là bậc Đại bồ-tát biết đúng Pháp thân? Đó chính là thân sạch phiền não chướng, đầy đủ pháp thiện, chỉ duy nhất Trí như như như như, nên gọi Pháp thân.
Hai loại thân trước là giả danh hữu[4], chỉ thân thứ ba là chân thật hữu[5], làm nền tảng cho hai thân Hóa-Ứng. Vì sao như vậy? Lìa Pháp như như[6], lìa Trí như như[7], thì các Đức Phật sẽ không có riêng một pháp nào khác. Tất cả chư Phật đầy đủ trí huệ, tất cả phiền não hoàn toàn diệt tận, cõi Phật thanh tịnh. Nên Pháp như như và Trí như như, gồm thâu tất cả công đức Phật pháp.
Lại nữa hai hạnh tự lợi-lợi tha của các Đức Phật đạt đã đến chỗ cùng tận rốt ráo. Lợi ích chính mình là Pháp như như, lợi ích cho người là Trí như như. Đức Phật từ việc tự lợi-lợi tha, tự nhiên thành tựu vô biên tác dụng. Cho nên phân biệt tất cả pháp Phật cũng có vô lượng vô biên sai biệt. Thí như y nơi vọng tưởng suy nghĩ, mà nói phiền não, các loại nghiệp dụng, các loại quả báo. Như vậy y cứ nơi Pháp như như, và Trí như như mà nói pháp Phật, các pháp Độc giác, các pháp Thanh văn. Nếu khéo y cứ nơi Pháp như như và Trí như như, thì các pháp Phật tự nhiên thành tựu. Đây là bậc nhất chẳng thể nghĩ bàn. Như vẽ hư không làm vật trang trí, thật khó nghĩ bàn. Cũng giống như vậy, y Pháp như như và Trí như như, thành tựu pháp Phật cũng khó nghĩ bàn. Sao Pháp như như và Trí như như đã vô phân biệt mà tự nhiên lại thành tựu sự nghiệp? Này thiện nam tử! Ví như Như Lai đã vào niết-bàn, nhưng do nguyện lực, tự nhiên thành tựu tất cả sự nghiệp. Pháp như như và Trí như như đã vô phân biệt, tự nhiên thành tựu tất cả sự nghiệp cũng lại như thế.
Khi Đại bồ-tát nhập định Vô tâm[8], nương nguyện lực xưa, xuất định thực hiện tất cả sự nghiệp. Pháp-trí như như, thật vô phân biệt mà tự nhiên thành tất cả sự nghiệp. Mặt trời mặt trăng không có phân biệt, mặt nước phẳng lặng cũng không phân biệt, ánh sáng cũng không có tánh phân biệt, nhưng nếu hòa hợp thì sanh ảnh tượng. Vậy Pháp như như và Trí như như cũng vô phân biệt, nhưng do nguyện lực, tự nhiên chúng sanh cảm chư Phật hiện Ứng thân-Hóa thân, giống như mặt trời, mặt trăng-mặt nước, ba món hòa hợp, ảnh tượng xuất hiện.
Thí như mặt nước rộng lớn vô biên, nhờ có ánh sáng mà ảnh hư không hiện lên trên đó vô số hình tướng, mà hư không ấy chính là vô tướng. Như vậy nên biết, đệ tử tiếp nhận giáo hóa chính là ảnh của Pháp thân. Vì nguyện lực xưa, nên từ hai thân, hiện các hình tướng, nhưng Pháp thân thì không có tướng khác. Y hai thân này mà nói chư Phật niết-bàn hữu dư[9], y nơi Pháp thân mà nói chư Phật niết-bàn vô dư[10], vì các pháp khác hoàn toàn diệt tận. Lại y ba thân, mà Đức Phật có niết-bàn vô trụ[11]; vì hai thân nên không trụ niết-bàn, lìa Pháp thân không có Phật nào khác. Sở dĩ hai thân không trụ niết-bàn, vì hai thân là giả danh không thật; niệm niệm sanh diệt, vì không dừng trụ; luôn luôn xuất hiện, vì không cố định, còn Pháp thân thì không phải như thế. Cho nên hai thân không trụ niết-bàn, Pháp thân bất nhị, nên cũng như vậy, không trụ niết-bàn. Vì thế nên biết, nếu theo ba thân, thì các Đức Phật không trụ niết-bàn.
Tất cả phàm phu đều do ba tướng mà bị trói buộc, mà bị chướng ngại, khiến lìa ba thân, không được ba thân, đó là các tướng Biến kế sở chấp[12], tướng Y tha khởi[13] và tướng Thành tựu[14]. Không ngộ ba tướng, không diệt ba tướng, không làm thanh tịnh cả ba tướng này, thì không thể đạt rốt ráo ba thân. Các đức Như Lai, đã ngộ đã diệt, đã làm thanh tịnh trọn ba tướng này, nên đủ ba thân. Phàm phu chưa thể trừ diệt ba tâm là tâm Khởi sự[15], tâm Y căn bản[16], và tâm Căn bản[17], nên lìa ba thân, không được ba thân. Nương Phục đạo[18] thì diệt tâm Khởi sự, nương Đoạn pháp đạo[19] trừ diệt tâm Y căn bản, nương Tối thắng đạo[20] diệt tâm Căn bản. Tâm Khởi sự diệt thì Hóa thân hiện, tâm Y căn bản diệt Ứng thân hiện, tâm Căn bản diệt thì Pháp thân hiện. Cho nên biết rằng tất cả Như Lai đều có ba thân.
Tất cả Như Lai đồng nhất về SỰ với thân thứ nhất, đồng nhất về Ý với thân thứ hai, đồng nhất về THỂ[21] với thân thứ ba. Vì thân thứ nhất thuận tâm chúng sanh, mới có nhiều hình, hiện ra nhiều tướng, nên nói có nhiều; vì thân thứ hai thuận tâm đệ tử nên hiện một tướng, vì thế nói một; vì thân thứ ba vượt qua các tướng, chẳng phải thuộc về cảnh giới chấp tướng, nên nói chẳng phải một chẳng phải khác.
Hóa thân thì nương Ứng thân mà hiện, Ứng thân thì nương Pháp thân mà hiện; còn Pháp thân chính là thân chân thật, không chỗ nương gá. Ba thân như thế, bởi vì có nghĩa nên nói là thường, cũng vì có nghĩa nên nói vô thường. Hóa thân thường hằng chuyển đại pháp luân, nơi nơi tùy duyên, liên tục hiển bày các pháp phương tiện, nên nói là thường; vì chẳng phải bản, nên đủ đại dụng; vì không hiển hiện, nên nói vô thường. Ứng thân từ đời vô thỉ đến nay, liên tục gom giữ các pháp Bất cộng[22] của các Như Lai; vì chúng sanh vô tận, đại dụng cũng vô tận, nên nói là thường, vì chẳng phải bản nên đủ đại dụng, vì không hiển hiện nên nói vô thường. Pháp thân chẳng phải là pháp hữu vi[23], không có dị tướng, là thân căn bản, giống như hư không, nên gọi là thường. Lìa trí vô phân biệt sẽ không có trí huệ siêu việt; lìa pháp như như thì cũng không có cảnh giới thù thắng. Pháp như như và trí như như này, chẳng phải là một cũng chẳng phải khác. Vì huệ thanh tịnh, vì diệt thanh tịnh[24], cho nên Pháp thân có đủ thanh tịnh.
Về ba thân này, có thể phân biệt thành bốn trường hợp: một là Hóa thân chẳng phải Ứng thân; là thân sau khi Như Lai niết-bàn, vì nguyện tự tại, nên tùy duyên làm lợi ích chúng sanh, đó là Hóa thân. Hai là Ứng thân chẳng phải Hóa thân, là thân bồ-tát trước vị Thập địa[25]. Ba là Hóa thân cũng là Ứng thân, đây là thân trụ hữu dư niết-bàn. Bốn chẳng phải Hóa cũng chẳng phải Ứng, tức là Pháp thân. Pháp thân hiện rõ hai Vô sở hữu[26]. Vì sao gọi là hai Vô sở hữu? Vì nơi Pháp thân không có hai loại tướng và tướng xứ[27], chẳng có chẳng không, chẳng một chẳng khác, chẳng phải số lượng-chẳng phải không có số lượng, chẳng tối chẳng sáng. Trí như như này không thấy tướng và tướng xứ, không thấy chẳng có chẳng không, không thấy chẳng một chẳng khác, không thấy chẳng phải số lượng chẳng phải chẳng có số lượng, không thấy chẳng tối chẳng sáng. Vì thế đây là cảnh giới thanh tịnh, trí huệ thanh tịnh, không thể phân biệt, không có khoảng giữa, gốc của đạo đế[28] và của diệt đế[29]. Pháp thân như vậy hiển hiện tất cả sự nghiệp Như Lai.
Nhân duyên-cảnh giới, nơi chốn và quả của Pháp thân này đều nương căn bản, thật khó nghĩ bàn. Nếu hiểu nghĩa này, thì biết thân này chính là Đại thừa, là tánh Như Lai. Nương nơi Pháp thân, mà phát sơ tâm và tâm tu hành, từ đó hiển hiện tâm Bất thoái địa[30], tâm Nhất sanh bổ xứ[31], tâm Kim cang[32], tâm Như Lai, đồng thời cũng hiện vô lượng vô biên diệu pháp của Phật. Nương nơi Pháp thân mà đại tam-muội[33] chẳng thể nghĩ bàn cũng đều hiển hiện; nương nơi Pháp thân mà đại trí hiện. Cho nên hai thân nương nơi tam-muội, nương nơi đại trí mà được hiển hiện; từ thể Pháp thân mà nói thường-ngã; từ nơi tam-muội mà nói về lạc; từ nơi đại trí mà nói thanh tịnh. Cho nên Như Lai thường trụ-tự tại, an lạc-thanh tịnh. Nương đại tam-muội mà các Phật pháp: bốn thiền-bốn định[34], Thủ-lăng-nghiêm định[35]…, tất cả niệm xứ[36], các đại pháp niệm[37], đại từ đại bi, các đà-la-ni[38], tất cả thần thông, tất cả tự tại, tất cả các pháp bình đẳng nhiếp thọ thảy đều xuất hiện. Nương nơi đại trí, các pháp: mười lực[39], bốn vô sở úy[40], bốn vô ngại biện[41], mười tám bất cộng[42], tất cả pháp hi hữu bất khả tư nghị đều hiển hiện. Ví như nương nơi bảo châu như ý, vô lượng vô biên báu vật xuất hiện. Cũng thế,• nương đại tam-muội, nương đại trí huệ, vô lượng vô biên pháp Phật xuất hiện. Pháp thân như vậy, tam-muội trí huệ vượt tất cả tướng, không dính mắc tất cả tướng, không thể phân biệt, chẳng thường chẳng đoạn, gọi là trung đạo[43]. Tuy có phân biệt, nhưng về tự thể thì vô phân biệt; tuy có ba nhưng không có ba thể, chẳng thêm chẳng bớt, giống như mộng huyễn, không có sở thủ[44], không có năng thủ, pháp thể như như. Nơi giải thoát này là trụ xứ của Phật và bồ-tát, vượt cảnh tử vương, thoát li sanh tử, tất cả chúng sanh không thể tu hành mà đạt đến được .
Này thiện nam tử! Ví như những người muốn có được vàng, bèn đi khắp nơi han hỏi tìm cầu. Khi tìm được quặng, liền đem nghiền nát, đãi hết đất cát, lấy tinh chất vàng, rồi cho vào lò nấu nung luyện lọc. Được vàng ròng rồi, tùy ý sử dụng, tạo vật trang sức, như vòng xuyến nhẫn … Tuy có các tướng công dụng như thế, nhưng tánh của vàng vẫn không thay đổi. Lại nữa nên biết, có chúng sanh cầu giải thoát thù thắng, thực hành tất cả việc thiện thế gian, thân cận Như Lai cùng đệ tử của Ngài, sau đó hỏi rằng: Bạch đức Thế Tôn! Những gì là thiện, gì là bất thiện, thế nào là hạnh chánh tu thanh tịnh?
Các đức Như Lai và các đệ tử nghe hỏi như thế, thì suy nghĩ rằng: “Những thiện nam và thiện nữ này muốn cầu thanh tịnh, muốn nghe chánh pháp”. Thế là các Ngài vì họ giảng thuyết, giúp cho khai ngộ. Những chúng sanh ấy, sau khi nghe xong, chánh niệm ghi nhớ, phát tâm tu hành, được sức tinh tấn, trừ chướng biếng nhác, diệt tất cả tội, tôn trọng học xứ[45], bặt tâm trạo hối[46], tiến vào Sơ địa[47]. Nương tâm Sơ địa, dẹp chướng lợi tha, bước vào Nhị địa. Khi vào địa này, diệt những chướng ngại của tâm an tĩnh, để vào Tam địa. Khi vào địa này, diệt trừ chướng ngại của tâm nhu hòa thanh tịnh, để vào Tứ địa. Khi vào• địa này trừ những chướng ngại cho thiện phương tiện[48], tiến vào Ngũ địa. Nương nơi Ngũ địa, trừ những chướng ngại còn thấy chân tục[49], để vào Lục địa. Từ lục địa này, trừ những chướng ngại thấy có hành tướng[50], mà vào Thất địa. Từ nơi Thất địa, trừ diệt chướng ngại không thấy tướng diệt[51], để vào Bát địa. Từ nơi Bát địa, diệt trừ chướng ngại không thấy tướng sanh[52], để vào Cửu địa. Từ Cửu địa này, trừ những chướng ngại cho pháp lục thông[53], bước vào Thập địa. Từ nơi Thập địa, trừ chướng sở tri, trừ tâm căn bản, vào Như Lai địa. Nơi Như Lai địa có đủ ba tịnh là phiền não tịnh, khổ tịnh-tướng tịnh, nên được gọi là Cực thanh tịnh địa. Ví như vàng thật, đã luyện lọc xong, không thể trở lại thành quặng được nữa; đây là biểu thị tánh vàng vốn tịnh, chứ không phải nói là không có vàng. Lại như nước đục, khi đã lắng trong thì không còn cặn, đó là biểu thị tánh nước trong sạch, chứ không phải nói là không có nước.
Như vậy Pháp thân xen lẫn phiền não, nếu trừ khổ tập[54], thì sẽ không còn tất cả tập khí[55], đó là biểu thị Phật tánh vốn tịnh, chứ chẳng phải nói không có thể tánh. Ví như hư không bị mây khói che, nếu trừ hết thì hư không trong sạch, chứ chẳng phải cho không có hư không. Pháp thân cũng vậy, trừ sạch khổ não, nên nói thanh tịnh, chứ chẳng phải nói không có thể tánh. Như người nằm mộng, thấy mình đang trôi trên con sông lớn, vận động tay chân cắt dòng mà qua, đến được bờ kia; đó là do thân tâm đều nỗ lực vậy. Nhưng khi tỉnh giấc, không thấy có sông, bờ này bờ kia, chứ chẳng thể cho là không có tâm. Vọng tưởng sanh tử đã trừ diệt hết, giác tánh thanh tịnh sẽ tự hiển bày, chứ không thể cho là không có giác. Pháp giới cũng vậy, vọng tưởng không sanh thì nói thanh tịnh, chứ không phải Phật không có thật thể.
Này thiện nam tử! Hoặc chướng[56] thanh tịnh thì hiện Ứng thân, nghiệp chướng[57] thanh tịnh thì hiện Hóa thân, trí chướng[58] thanh tịnh thì hiện Pháp thân. Ví như nương hư không mà có chớp, từ chớp phát ra ánh sáng. Cũng giống như vậy, nương nơi Pháp thân mà hiện Ứng thân, nương nơi Ứng thân mà hiện Hóa thân. Do tánh thanh tịnh nên hiện Pháp thân, trí tuệ thanh tịnh nên hiện Ứng thân,• tam-muội thanh tịnh nên hiện Hóa thân. Ba pháp tịnh này là pháp như như, bất dị như như[59], nhất vị như như[60], giải thoát như như, cứu cánh như như. Cho nên thể của chư Phật không khác. Nếu có người nói Như Lai là bậc Đại sư của mình, và có lòng tin quyết định như thế, người này hiểu rõ Pháp thân Như Lai không có sai biệt.
Vì thế nên khi đoạn trừ tất cả suy nghĩ không đúng về tất cả pháp, liền biết pháp ấy không có hai tướng, cũng không phân biệt; đó là pháp tu hành của bậc thánh. Trừ hết chướng ngại, đối với các pháp không thấy hai tướng; chân chánh tu hành như vậy như vậy, thì tất cả chướng thảy đều trừ diệt; đoạn tất cả chướng như vậy như vậy, thì Pháp như như và Trí như như vô cùng thanh tịnh; pháp giới thanh tịnh, chánh trí thanh tịnh như vậy như vậy, sẽ được tự tại, hoàn toàn đầy đủ, nhiếp thọ tất cả. Vì tất cả chướng đều đã trừ diệt, vì tất cả chướng đều đã thanh tịnh, cho nên gọi là tướng chân thật của chân như chánh trí. Thấy biết như vậy, là sự thấy biết của các bậc thánh, cũng được gọi là chân thật thấy Phật. Vì sao như thế? Vì như thật thấy được Pháp như như, và cũng từ đó, các đức Như Lai có năng lực thấy tất cả Như Lai. Còn các Thanh văn và hàng Duyên giác, tuy vượt ba cõi[61], nhưng không thể thấy cảnh giới chân thật. Các bậc thánh này mà còn không biết, thì hàng phàm phu hẳn phải nghi ngờ, phân biệt sai lầm, không thể giải thoát. Như thỏ không thể tự vượt biển khơi, vì sức quá yếu. Phàm phu cũng vậy, không thể thông hiểu được Pháp như như. Nhưng tâm Như Lai vốn vô phân biệt, hoàn toàn tự tại với tất cả pháp, đầy đủ trí huệ thanh tịnh sâu xa. Đó là phạm vi riêng của các Ngài, người khác không có. Cho nên biết rằng, các đức Như Lai đã từ vô lượng a-tăng-kì[62] kiếp, không tiếc thân mạng, tu các hạnh khổ vô cùng khó làm, mới được Pháp thân tối diệu tối thượng, không gì sánh bằng, vượt ngoài ngôn ngữ, vắng lặng nhiệm mầu, không còn lo sợ.
Biết Pháp như như thì không còn các việc sanh già bệnh, thọ mạng vô lượng, không cần ngủ nghỉ, cũng không đói khát, tâm luôn an định, không có loạn động. Đối với Như Lai mà tranh luận thì không thấy Như Lai. Vì giáo pháp mà Như Lai nói ra đều làm lợi ích tất cả chúng sanh; những ai nghe thấy đều được giải thoát, không gặp ác thú, ác quỉ-ác nhân. Do sức nghe pháp, nên phước vô tận. Nhưng các Như Lai không tâm vô kí, không có tâm muốn biết tất cả pháp, không có tất cả ý niệm phân biệt sanh tử niết-bàn ; những điều Như Lai nói đều quyết định. Tất cả hành động, đi đứng nằm ngồi của các Như Lai đều từ trí huệ; tất cả việc làm đều xuất phát từ tâm đại từ bi. Tất cả đều vì lợi ích an lạc cho các chúng sanh.
Này thiện nam tử! Nếu người nào nghe và tin hiểu kinh Kim quang minh này, sẽ không rơi vào địa ngục ngạ quỉ, súc sanh tu-la, thường được sanh vào những nơi cao quí trong cõi trời người, gần gũi phụng sự các đức Như Lai, nghe nhận chánh pháp, sau khi mạng chung, sanh vào cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh. Vì sao như thế? Vì đã nghe được kinh sâu xa này. Những người như thế Như Lai đã biết, và đã thọ kí[63] không lui sụt đạo Vô thượng bồ-đề. Nếu những người nào tai vừa nghe qua kinh nhiệm mầu này, người ấy sẽ không phỉ báng Như Lai, không phá chánh pháp, không xem thường Tăng. Nếu người ấy chưa gieo trồng thiện căn, thì sẽ được gieo; đã gieo thì giúp tăng trưởng cho đến hoàn toàn thành thục, lại khuyên chúng sanh trong khắp thế giới tu tập sáu độ.
Bấy giờ bồ-tát Hư Không Tạng, Phạm vương-Đế Thích, và Tứ thiên vương… từ tòa đứng dậy, y lộ vai phải, cung kính chắp tay, đảnh lễ chân Phật, rồi đồng thưa rằng:
Bạch đức Thế Tôn! Nếu nơi nào giảng kinh Kim quang minh thật vi diệu này, thì toàn cõi ấy có bốn lợi ích:
-• Quân đội hùng mạnh, không có kẻ giặc, không bị bệnh tật, tuổi thọ kéo dài.
-• Hoàng hậu thứ phi, vương tử đại thần, luôn luôn vui hòa, không còn tranh cãi, tâm không dua nịnh, thường được quốc vương yêu thương quí trọng.
-• Sa-môn Phạm chí, nhân dân trong nước đều tu tập theo chánh pháp của Phật, không bệnh-an ổn, không bị chết oan, luôn gieo trồng vào ruộng phước.
-• Bốn đại điều hòa, chư thiên bảo vệ, có lòng từ bi bình đẳng, không khởi tâm làm tổn hại chúng sanh, lại khuyên chúng sanh kính tin Tam bảo, tu đạo Bồ-đề.
Bạch đức Thế Tôn! Chúng con hôm nay cũng vì hoằng truyền bộ kinh vua này, nên luôn theo sát người thọ trì kinh để bảo vệ họ, đồng thời cũng giúp cho trụ xứ ấy được mãi an lạc
Đức Phật khen rằng: Quí thay, quí thay! Đúng thế, đúng thế! Các ông phải nên một lòng truyền bá kinh vi diệu này, giúp cho chánh pháp trụ lâu ở thế gian.
PHẨM 4: MỘNG THẤY TRỐNG VÀNG PHÁT TÂM SÁM HỐI
Bồ-tát Diệu Tràng, sau khi đích thân nghe Phật nói pháp, lòng rất vui mừng, một lòng suy nghĩ nghĩa lí sâu xa, rồi về trụ xứ. Đêm đó bồ-tát nằm mộng thấy một chiếc trống bằng vàng, phát ra ánh sáng vô cùng rực rỡ giống như mặt trời. Trong vầng ánh sáng có vô lượng Phật ngồi tòa lưu li nơi cội cây báu, đang thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh. Lúc ấy có một vị Bà-la-môn đánh vào trống vàng, phát ra âm thanh chuyển tải rất nhiều bài kệ nhiệm mầu. Bài kệ này nói về pháp sám hối. Diệu Tràng nghe xong, liền ghi nhớ kĩ, định tâm an trụ. Đến sáng hôm sau, bồ-tát cùng với vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh, mang các vật cúng, rời thành Vương Xá đến núi Linh Thứu. Khi đến trước Phật, tất cả đều lễ nơi chân Như Lai, bày biện hoa thơm, nhiễu quanh ba vòng, rồi ngồi một bên, chắp tay chiêm ngưỡng tôn dung Đức Phật, rồi đồng bạch rằng:
– Bạch đức Thế Tôn! Đêm qua trong mộng, con thấy một vị Bà-la-môn kia đánh chiếc trống vàng, từ trống phát ra âm thanh chuyển tải lời kệ nhiệm mầu về pháp sám hối, bây giờ con vẫn còn ghi nhớ rõ. Cúi xin Thế Tôn rủ lòng từ bi cho phép con được nói lại bài kệ. Thế Tôn chấp nhận, bồ-tát Diệu Tràng, ở trước Đức Phật lặp lại bài kệ:
Đêm trước con nằm mộng
Thấy một chiếc trống vàng
Thật vô cùng đẹp lạ
Toàn chiếc trống phát sáng
Như mặt trời giữa trưa
Ánh sáng thật rực rỡ
Chiếu soi khắp mười phương.
Khắp nơi đều có Phật
Ngồi trên tòa lưu li
Nơi cội cây trân bảo
Vô lượng trăm ngàn chúng
Đang cung kính vây quanh.
Lại có Bà-la-môn
Cầm dùi đánh trống ấy
Phát ra các âm thanh
Diễn nói kệ nhiệm mầu.
Trống Kim quang minh phát diệu âm
Vang đến khắp cùng cõi tam thiên[64]
Diệt trừ tội nặng trong ba cõi
Và các khổ nạn chốn nhân gian.
Do sức oai thần tiếng trống vàng
Các phiền não chướng thật đã tan
Sợ hãi cũng trừ, luôn an lạc
Tâm được tự tại, giống Năng Nhân..
Trong biển tử sanh chuyên tu tập
Nhất thiết trí[65] thành, chứa hạnh lành
Lại giúp chúng sanh tròn giác đạo
Biển công đức ấy, trọn đưa về.
Do trống vàng này phát tiếng mầu
Khiến người nghe rõ được Phạm âm
Chứng đắc Bồ-đề, quả tối thượng
Chuyển đại pháp luân thật tịnh thanh.
Số kiếp thọ mạng chẳng nghĩ bàn
Tùy cơ thuyết pháp lợi chúng sanh
Đoạn trừ phiền não, lìa các khổ
Tham sân si độc cũng không còn.
Nếu có chúng sanh trong cõi ác
Lửa lớn đốt cháy khắp thân hình
Mà nghe âm thanh của trống ấy
Lập tức lìa khổ nương Phật-đà.
Sau đó chứng đắc trí Túc mạng[66]
Nhớ lại quá khứ kiếp trăm ngàn
Lòng luôn nhớ nghĩ Mâu-ni Phật
Nghe Ngài thuyết pháp thật sâu mầu.
Do nghe âm thanh tiếng trống này
Thường được gần gũi Phật Thế Tôn
Nên luôn xa lìa các nghiệp ác
Chỉ thanh tịnh tu các việc lành.
Tất cả trời người, chúng hữu tình
Những ai tha thiết, nguyện chí thành
Được nghe diệu âm của trống ấy
Tất cả mong ước trọn đủ đầy.
Những kẻ rơi vào ngục Vô gián[67]
Nổi khổ lửa dữ đốt cháy thân
Chẳng ai cứu thoát luân hồi khổ
Nếu nghe tiếng trống khổ nạn tan.
Trời người, ngạ quỉ và bàng sanh
Những kẻ hiện đời gặp khổ nguy
Nếu được nghe qua tiếng trống ấy
Xa lìa khổ nạn được an lành
Các bậc Lưỡng Túc Tôn[68]
Thường trụ trong mười phương
Xin dùng tâm đại bi
Nhớ nghĩ thương xót con.
Chúng sanh không chốn nương
Cũng không ai cứu giúp
Xin vì những kẻ này
Làm nơi nương tựa vững.
Tội con tạo đời trước
Các nghiệp ác cực nặng
Nay quì trước các Ngài
Chí thành xin sám hối.
Tội không tin chư Phật
Cũng không kính mẹ cha
Không chịu tu pháp thiện
Thường tạo các việc ác.
Hoặc tự cậy tôn quí
Giòng họ, tiền, địa vị
Tuổi trẻ, quen buông lung
Mà tạo các nghiệp ác.
Tâm hằng khởi tà kiến
Miệng luôn nói lời dữ
Không nhận ra lỗi lầm
Mà tạo các nghiệp ác.
Quen theo thói phàm phu
Vô minh che lấp tâm
Kết bạn với kẻ xấu
Mà tạo các nghiệp ác.
Hoặc do quá vui đùa
Hoặc do lòng sầu não
Bị tham sân si buộc
Cho nên con tạo ác.
Gần gũi kẻ bất thiện
Hoặc do tâm bỏn xẻn
Bần cùng và dua nịnh
Cho nên con tạo ác.
Tuy không thích tội lỗi
Nhưng do tâm sợ hãi
Và chẳng làm chủ mình
Cho nên con tạo ác.
Do ăn uống và mặc
Và yêu thích người nữ
Bị lửa phiền não thiêu
Cho nên con tạo ác.
Đối với Phật pháp tăng
Tâm con không cung• kính
Gây các tội như thế
Nay con xin sám hối.
Ngu si chê chánh pháp
Bất hiếu với mẹ cha
Tạo tội lỗi như thế
Nay con xin sám hối.
Do ngu si kiêu mạn
Và sức ép tham sân
Con tạo tội như thế
Nay đều xin sám hối.
Con nay xin cúng dường
Vô số Phật mười phương
Xin các Ngài giúp con
Nhổ trừ các khổ nạn.
Cầu cho mọi hữu tình
Đều trụ nơi Thập địa
Đầy đủ phước trí rồi
Thành Phật độ quần mê.
Con vì các chúng sanh
Khổ hạnh trăm ngàn kiếp
Dùng sức đại trí huệ
Giúp họ vượt biển mê.
Con vì các chúng sanh
Giảng nói kinh sâu mầu
Tối thắng Kim quang minh
Có sức trừ nghiệp ác.
Nếu người trăm ngàn kiếp
Tạo các tội cực nặng
Tạm thời thật sám hối
Các ác liền tiêu trừ.
Y kinh Kim quang minh
Thực hành pháp sám hối
Thì tất cả nghiệp khổ
Sẽ chóng được tiêu trừ.
Trăm ngàn loại thiền định
Tổng trì chẳng nghĩ bàn
Căn, lực, đạo, giác chi[69]
Tu tập không mỏi mệt.
Con sẽ chứng Thập địa
Đến nơi nhiều báu vật
Tròn đầy công đức Phật
Vượt qua dòng tử sanh.
Đối với biển chư Phật
Tạng công đức sâu xa
Diệu trí chẳng nghĩ bàn
Con đều đã đầy đủ.
Xin chư Phật mười phương
Soi xét giúp đỡ con
Rũ lòng đại từ bi
Thương nhận con sám hối.
Do từ trong nhiều kiếp
Con tạo nhiều nghiệp ác
Vì thế sanh khổ não
Xin Phật thương giúp trừ.
Do con tạo nghiệp ác
Trong lòng luôn lo sợ
Mọi cử chỉ, hành động
Chẳng bao giờ an vui.
Chư Phật đại từ bi
Giúp chúng sanh hết sợ
Xin nhận con sám hối
Khiến lìa được sợ lo.
Con có phiền não chướng
Và cả những nghiệp báo
Xin dùng nước đại bi
Rửa thân tâm con sạch.
Quá khứ và hiện tại
Con tạo bao nghiệp ác
Nay trước Phật tỏ bày
Cầu mong được trừ sạch.
Con cũng nguyện giữ gìn
Vị lai không khởi ác
Dẫu nay lỡ gây tạo
Trọn không dám che dấu.
Thân nghiệp ba, miệng bốn
Nơi ý cũng có ba
Trói buộc các hữu tình
Xưa nay chưa đoạn dứt.
Do thân miệng và ý
Tạo ra mười nghiệp ác
Nay con xin sám hối
Những tội lỗi như thế.
Con tạo các nghiệp ác
Phải tự nhận khổ báo
Hôm nay quì trước Phật
Xin chí thành sám hối.
Tại cõi Diêm-phù này
Và các thế giới khác
Được bao nhiêu nghiệp thiện
Con• xin vui thuận theo.
Nguyện lìa mười nghiệp ác
Tu tập mười nghiệp thiện[70]
An trú trong Thập địa
Hằng thấy Phật mười phương.
Những phước trí có được
Do tu tập ba nghiệp
Con xin nương vào đó
Mong chóng thành Phật huệ.
Nay con đối trước đấng Thập Lực[71]
Bao nhiêu nạn khổ con tỏ bày:
Nạn phàm ngu mê nơi ba cõi
Nạn gây tạo biết bao trọng ác
Nạn chứa nhóm dục tình, tà kiến
Nạn thường khởi tham ái lưu chuyển
Nạn luôn đắm trước cõi thế gian
Nạn tất cả phàm phu phiền não
Nạn tâm cuồng, tán loạn, đảo điên
Cùng nạn thân gần những bạn ác
Nạn tham nhiễm trong chốn tử sanh
Nạn giận ngu, tối tăm tạo tội
Nạn sanh vào tám chỗ không an[72]
Nạn chưa từng chứa nhóm công đức
Nay con đối trước đấng Tối Thắng
Sám hối vô biên tội nghiệp này.
Thiện Thệ[73] tôn kính, con về nương
Lễ bậc biển đức thật vô thượng
Như núi vàng lớn chiếu khắp nơi
Xin Ngài từ bi thương nghĩ tưởng.
Thân màu vàng ròng luôn sáng sạch
Mắt như lưu li đẹp trong xanh
Uy đức cát tường[74] thật lừng lẫy
Đại bi, trí huệ diệt tối tăm.
Mặt trời Phật sáng, chiếu muôn nơi
Thuần tịnh, sáng soi, chẳng bụi nhơ
Vầng nguyệt Mâu-ni hằng mát dịu
Dứt trừ phiền não, trọn thanh lương.
Thân ba hai tướng thật đoan nghiêm
Tám mươi tùy hình thật vẹn tuyền
Phước đức vô biên không gì sánh
Như mặt trời kia chiếu muôn nghìn.
Thân như lưu li không tì vết
Giống như mặt nguyệt giữa hư không
Lưới pha lê hồng, ánh thân vàng
Tạo vô số sắc màu rực rỡ.
Trong dòng thác tử sanh đau khổ
Già bệnh, sầu lo cuốn chúng sanh
Biển khổ như thế, thật khó kham
Mặt trời Phật chiếu cho khô cạn.
Nay con đảnh lễ Nhất thiết trí
Đấng hi hữu trong cõi ba ngàn[75]
Thân sắc vàng ròng, soi rực rỡ
Với bao tướng quí đẹp trang nghiêm.
Giống nước biển lớn thật khó lường
Hạt bụi trên đất cũng khó biết
Như núi Diệu Cao[76] không thể lượng
Như cõi hư không thật vô bờ.
Công đức chư Phật cũng như thế
Tất cả hữu tình chẳng thể hay
Dù vô lượng kiếp suy nghĩ kĩ
Không sao biết được công đức này.
Tất cả núi non trên mặt đất
Nghiền nát thành bụi còn tính được
Lại cũng tính xong bao nước biển
Mà công đức Phật chẳng thể lường.
Tất cả chúng sanh đồng ca ngợi
Uy danh, công đức của Như Lai
Tướng quí, vẻ đẹp tự nghiêm thân
Chẳng thể tính lường, biết giới hạn.
Tất cả nghiệp thiện con có được
Hồi hướng mau chứng Vô thượng tôn
Nguyện thuyết chánh pháp lợi chúng sanh
Khiến họ thoát khỏi bao đau khổ.
Hàng phục ma vương và quân chúng
Chuyển bánh xe pháp thật vô cùng
Thường trụ thế gian vô số kiếp
Ban phát chúng sanh vị cam lồ.
Giống như chư Phật thời quá khứ
Đầy đủ sáu pháp ba-la-mật[77]
Diệt trừ tham dục và sân si
Hàng phục phiền não, trừ các khổ.
Con luôn nguyện được trí túc mạng
Nhớ lại quá khứ kiếp trăm ngàn
Cũng hằng nhớ nghĩ Mâu-ni Phật
Được nghe diệu pháp của Như Lai.
Con xin đem hết nghiệp thiện này
Phụng sự vô biên đấng tối tôn
Lại lìa tất cả nhân bất thiện
Luôn được tu hành pháp sâu mầu.
Nguyện cả chúng sanh các thế gian
Xa lìa nạn khổ được bình an
Những người các căn không đầy đủ
Giúp họ thân tướng được vẹn toàn.
Nếu có chúng sanh gặp bệnh khổ
Thân thể ốm gầy, chẳng chốn nương
Con nguyện giúp họ trừ diệt hết
Toàn thân sắc lực được tràn đầy.
Người phạm quốc pháp, sắp hành hình
Khổ lo bức ép, lòng buồn đau
Trong lúc đớn đau và buồn ấy
Không người cứu giúp và tựa nương.
Người bị gông cùm và đánh đập
Các loại hình cụ bức ép thân
Lúc chịu muôn ngàn đau khổ ấy
Bức ép thân tâm chẳng mảy vui.
Con nguyện giúp họ thoát tất cả
Nỗi khổ gông cùm và đánh đập
Người sắp hành hình, được toàn mạng
Xa lìa vĩnh viễn những khổ đau.
Nếu có chúng sanh bị đói khát
Con giúp họ được thức ăn ngon
Giúp mù được sáng, điếc được nghe
Người què vững bước, câm trọn lời.
Chúng sanh bần cùng được kho báu
Của cải đầy nhiều, hết thiếu nghèo
Tất cả đều giúp cho thuốc tốt
Không còn một ai chịu khổ đau.
Trời người khắp nơi đều muốn thấy
Dung nghi hòa nhã, lại đoan nghiêm
Hiện đời thân tâm vui vô lượng
Thọ dụng trọn vẹn, phước đức đầy.
Nếu những chúng sanh thích âm nhạc
Âm thanh tuyệt diệu liền hiện tiền
Những người đang khát, nước trong hiện
Sen vàng trải khắp mặt hồ ao.
Tùy thuận chúng sanh lòng nghĩ đến
Nào là y phục cùng uống ăn
Giường nằm, lưu li và vàng bạc
Anh lạc trang nghiêm tự hiện đầy.
Không để chúng sanh nghe lời ác
Cũng không để thấy điều trái lòng
Thân tướng đoan nghiêm và xinh đẹp
Luôn khởi lòng từ thương yêu nhau.
Vật dụng và• nhạc cụ thế gian
Tùy tâm nghĩ đến liền có đủ
Tiền của có được, con không tiếc
Phân phát hết cả cho chúng sanh.
Hương đốt, hương bột và hương xoa
Và các tạp hương nhiều màu sắc
Mỗi ngày ba thời nhặt từ cây
Tùy tâm thọ dụng lòng vui vẻ.
Nguyện khắp chúng sanh đều cúng dường
Tất cả Như Lai trong mười phương
Pháp môn tịnh diệu chính ba thừa[78]
Bồ-tát, Độc giác cùng Thanh văn.
Thường nguyện không sanh nơi hèn kém
Và nơi tám nạn cũng chẳng vào
Sanh trong loài người nơi tôn quí
Hằng được phụng sự Phật mười phương.
Nguyện luôn sanh vào nhà sang giàu
Của tiền, báu vật thảy đầy kho
Dung mạo, tiếng tăm không ai sánh
Thọ mạng kéo dài chẳng tính lường.
Nguyện cho người nữ biến thành nam
Thông minh trí huệ lẫn oai hùng
Tất cả luôn hành bồ-tát đạo
Siêng tu sáu độ đến bờ kia.
Thường gặp vô lượng Phật mười phương
Đồng ngự nơi cội cây Bảo vương[79]
Tại tòa sư tử lưu li đẹp
Chính thân nghe Phật chuyển pháp luân.
Nếu từ quá khứ đến hôm nay
Luân hồi ba cõi tạo nghiệp nhân
Chiêu cảm đường ác thật nhàm chán
Nguyện được tiêu trừ chẳng còn chi.
Tất cả chúng sanh nơi biển hữu[80]
Vướng lưới sanh tử thoát chẳng ra
Nguyện dùng kiếm trí mà rạch nát
Giúp chóng lìa khổ chứng bồ-đề.
Chúng sanh trong cõi Diêm-phù này
Hoặc tại bất kì thế giới nào
Tất cả phước điền họ đã tạo
Hôm nay con nguyện được vui theo[81].
Tất cả phước đức vui theo này
Cùng các pháp thiện ba nghiệp tạo
Nguyện cho ngày đêm luôn tăng trưởng
Để con mau chóng chứng bồ-đề.
Tất cả công đức khen ngợi Phật
Với lòng thanh tịnh, không bợn nhơ
Hồi hướng phát nguyện phước vô biên
Vượt qua đường ác mười sáu kiếp.
Nếu có người nam và người nữ
Dòng họ tôn quí Bà-la-môn…
Chắp tay một lòng khen ngợi Phật
Đời đời nhớ được việc đã qua.
Các căn thanh tịnh, thân hoàn hảo
Công đức to đẹp đều trọn thành
Nguyện rằng bất cứ nơi sanh đến
Cũng được trời người cùng ngưỡng chiêm
Chẳng phải nơi một, hay mười Phật
Phải từ trăm ngàn đức Như Lai
Gieo trồng vô số những căn lành
Mới nghe được pháp sám hối này.
Thế Tôn nghe nói đoạn kệ này xong, liền khen Diệu Tràng: “Hay thay, hay thay! Âm thanh trống vàng khen ngợi công đức chân thật của các Như Lai Thế Tôn, và pháp sám hối mà ông mộng thấy, nếu ai nghe được, phước đức rất nhiều, còn làm lợi ích cho các hữu tình, diệt trừ tội chướng. Ông nên biết rằng, sự nghiệp quí này đều do nhân duyên phát nguyện khen ngợi ở đời quá khứ, và do uy lực của Phật gia hộ. Về nhân duyên này, Ta sẽ giảng nói cho ông biết sau”.
Nghe pháp này rồi, tất cả đại chúng vui mừng tin nhận, cung kính hành trì.
Chú thích:
[1] Hóa thân, Ứng thân, Pháp thân: Ba thân của Phật. Hóa thân là thân tuỳ căn cơ chúng sanh mà biến hóa, thị hiện nhiều hình để cứu độ; Ứng thân hay Báo thân là thân viên mãn công đức, báo đáp vô lượng hạnh nguyện khi tu nhân, thân này ứng hiện cho hàng bồ-tát tam hiền-thập thánh thấy; Pháp thân là thân chân thật của Phật, không sanh diệt, vô lậu vô vi, hai thân trên đều từ thân này thị hiện.
[2] Chân đế: nghĩa chắc thật của chân lí, tức thật nghĩa mà bậc thánh chứng ngộ.
[3] Trí như như như như: tức pháp thân.
[4] Giả danh hữu: các hiện hữu (pháp) do nhân duyên hòa hợp, không có thật thể, chỉ có tên suông.
[5] Chân thật hữu: những hiện hữu chân thật, không do nhân duyên hoà hợp, không sanh diệt, không thuộc tạo tác, không biến chuyển.
[6] Pháp như như: tất cả các pháp khế hợp với trí như như.
[7] Trí như như: tức trí huệ thể đạt nhị không, cũng tức là thật tướng bát-nhã.
[8] Định Vô tâm: tức Diệt tận định, khi vào định này sẽ không còn tâm thức phân biệt loạn động.
[9] Niết-bàn hữu dư: niết-bàn vẫn còn nương thân bốn đại; tức đã đoạn tận phiền não, chấm dứt nhân sanh tử vị lai, chứng niết-bàn, nhưng thân quả báo đời này chưa hết; đó là mới diệt trí chứ chưa diệt thân.
[10] Niết-bàn vô dư: niết-bàn đã hoàn toàn không còn nơi nương tựa, tức đã đoạn trừ phiền não, chấm dứt thân năm uẩn; đã diệt thân diệt trí.
[11] Niết-bàn vô trụ: niết-bàn mà không lìa sanh tử cũng không trụ niết-bàn.
[12] Tướng Biến kế sở chấp: trạng thái chấp trước, suy lường, tính toán tất cả các pháp, là đặc tánh của vọng tâm phàm phu.
[13] Tướng Y tha khởi: tánh nương vào nhân duyên mà sanh khởi, hoặc diệt tận.
[14] Tướng Thành tựu: tánh chân thật, thành tựu viên mãn tất cả công đức.
[15] Tâm khởi sự: tâm tương ưng với phiền não kiến tư hoặc; khi các phiền não này phát khởi, khiến tạo tác các sự nghiệp, cảm quả dị thục. Hoặc cho rằng phiền não chướng và các sự nghiệp do nó phát khởi là tâm khởi sự. Tức sáu thức trước duyên với sáu trần, sanh khởi các pháp nhiễm tịnh.
[16] Tâm y căn bản: tức thức tứ bảy, vì thức này nương căn bản mà sanh, cùng với thức thứ tám truyền dẫn khởi các pháp nhiễm tịnh.
[17] Tâm căn bản: tức thức thứ tám, vì thức này hàm chứa các chủng tử thiện ác, khiến phát sanh các pháp nhiễm tịnh.
[18] Phục đạo: đạo hữu lậu hay vô lậu chế phục phiền não tuỳ miên, không cho hiện hành.
[19] Đoạn pháp đạo: gọi tắt là Đoạn đạo, đạo vô lậu chế phục, đoạn trừ phiền não và có năng lực đưa đến chứng ngộ.
[20] Tối thắng đạo: tức vô thượng bồ-đề.
[21] Sự-Ý-Thể: sự tức sự tướng, ý tức tâm , thể tức thật tánh.
[22] Pháp bất cộng: những pháp chỉ riêng Phật mới có, không chung với Thanh văn, Bồ-tát, như mười tám pháp bất cộng…
[23] Hữu vi: những pháp do tạo tác mà thành, tức những pháp do nhân duyên sanh.
[24] Diệt thanh tịnh: cảnh sở chứng thanh tịnh, tức niết-bàn rốt ráo thanh tịnh. Trí năng chứng thanh tịnh gọi là huệ thanh tịnh.
[25] Thập địa: tức Thập thánh, mười giai vị trong quá trình tu tập của bồ-tát để tiến lên quả vị Phật: Hoan Hỷ địa, Li Cấu địa, Minh địa, Diệm địa, Nan Thắng địa, Hiện Tiền địa, Viễn Hành• địa, Bất Động địa, Thiện Huệ địa và Pháp Vân địa.•
[26] Vô sở hữu:: •còn gọi là vô sở đắc, tên khác của không.•
145 Tướng và tướng xứ: tướng tức là trí, xứ tức là cảnh; tướng xứ tức là cảnh sở quán của trí. Hoặc cho rằng tướng là nhân ngã, tướng xứ là pháp ngã.
[28] Đạo đế: con đường chắc thật dẫn đến sự diệt khổ, tức phương pháp mà hành giả cần phải tu tập để đạt đến niết-bàn.
[29] Diệt đế: cảnh giới của sự diệt khổ, tức niết-bàn. Cũng là kết quả đạt được sau khi tu tập thành tựu đạo đế.
[30] Bất thoái địa: giai vị không còn lui sụt, ở đây chỉ cho giai vị bồ-tát Sơ địa.
[31] Nhất sanh bổ xứ: chỉ cho bồ-tát Đẳng giác, vì bồ-tát này cần phải một lần sanh đến nhân gian mới thành Phật.
[32] Kim cang tâm: tâm cuối cùng của bồ-tát, giai vị bồ-tát Đẳng giác.
[33] Tam-muội: còn gọi định, chính định. Trạng thái tâm an trụ vào một chỗ, một cảnh.•
[34] Bốn thiền-bốn định: bốn thiền cõi Sắc: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền; bốn định Vô Sắc: Không vô biên, thức vô biên, Vô sở hữu, Phi tưởng phi phi tưởng. •
[35] Thủ-lăng-nghiêm định: môn thiền định gom giữ bền chắc tất cả pháp, là môn thiền định mà Phật và bồ-tát Thập địa đạt được.•
[36] Niệm xứ: niệm là trí huệ, xứ là đối cảnh, tức trí huệ quán xét đối cảnh. Như bốn niệm xứ: quán thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp; hoặc sáu niệm…
[37] Đại niệm pháp: tức niệm pháp trong sáu niệm: Phật, pháp, tăng, thí, giới, thiên.
[38] Đà-la-ni: Trung Quốc dịch là Tổng trì, tức năng lực của trí tuệ tóm thâu, giữ gìn vô lượng Phật pháp không để quên sót.
[39] Mười lực: mười năng lực siêu việt của đức Phật: 1. Xứ phi xứ trí lực; 2. Nghiệp dị thục trí lực; 3. Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực; 4. Căn thượng hạ tri lực; 5. Chủng chủng thắng giải tri lực; 6. Chủng chủng giới trí lực; 7. Biến thố hành trí lực; 8. Túc trụ tùy niệm trí lực; 9. Sinh tử trí lực; 10. Lậu tận trí lực.
[40] Bốn vô sở úy: bốn tâm tự tin, không sợ hãi mà lại an định, dõng mãnh thuyết pháp trước đại chúng của chư Phật và đại bồ-tát. Đó là: Chư pháp hiện đẳng giác vô úy, Nhất thiết lậu tận trí vô úy, Chướng pháp bất hư quyết định thọ kí vô úy, Vị chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tánh vô úy.
[41] Bốn vô ngại biện: bốn năng lực diễn đạt ngôn từ và giảng giải nghĩa lí thông suốt, không ngăn ngại của Phật và bồ-tát: 1.Từ vô ngại; 2. Ngữ vô ngại; 3. Nghĩa vô ngại; 4. Nhạo thuyết vô ngại.
[42] Mười tám bất cộng: mươi tám năng lực chỉ Phật mới đạt được: 1. Thân vô thất; 2. Khẩu vô thất; 3. Niệm vô thất; 4. Vô dị tưởng; 5. Vô bất định tâm; 6. Vô bất tri dĩ xả tâm; 7. Dục vô giảm; 8. Tinh tấn vô giảm; 9. Niệm vô giảm; 10. Huệ vô giảm; 11. ••••••••••••••Giải thoát vô giảm; 12. Giải thoát tri kiến vô giảm; 13. Tất cả thân nghiệp tùy trí tuệ mà thực hành; 14. Tất cả khẩu nghiệp tuỳ trí huệ mà nói năng; 15. Tất cả ý nghiệp tuỳ trí huệ mà tư duy; 16. Trí huệ thấy biết quá khứ vô ngại vô chướng; 17. Trí huệ thấy biết vị lai vô ngại vô chướng; 18. Trí huệ thấy biết hiện tại vô ngại vô chướng.
[43] Trung đạo: con đường trung chính, xa lìa cực đoan, không thiên về bất cứ bên nào, quan điểm nào, phương thức nào.
[44] Sở thủ-năng thủ: chủ thể nhận thức (năng thủ) và đối tượng nhận thức (sở thủ). Tâm ý thức có khả năng nhận thức gọi là năng thủ; ngoại cảnh như sắc… là đối tượng bị nhận thức, nên gọi là sở thủ.
[45] Học xứ: những điều mà các tì-kheo, tì-kheo-ni cần phải học, phần nhiều chỉ cho giới luật.
[46] Trạo hối: tức là trạo và hối. Trạo là trạng thái tâm lăng xăng, loạn động không yên; hối là tâm lo buồn, hối tiếc với việc mình đã làm. Hai thứ phiền não này làm cho tâm không yên tĩnh, chướng ngại thánh đạo.
[47] Sơ địa: tức Hoan hỉ địa, giai vị đầu tiên của mười địa, cũng là giai vị thứ bốn mươi mốt trong năm mươi hai giai vị nói trong kinh Hoa nghiêm.
[48] Thiện phương tiện: phương pháp khéo léo, thích hợp với mọi loài, mọi nơi chốn và thời gian.
[49] Chân tục: chân đế và tục đế. Chân đế chỉ cho lí chân thật bình đẳng; Tục đế là đạo lí thế gian, tức đạo lí mà tất cả người đời đều biết.
[50] Hành tướng: trạng thái ảnh tượng hiển hiện nơi tâm, hoặc tác dụng nhận thức của tâm và tâm sở khi đối cảnh.
[51] Tướng diệt: tướng hoại diệt của các pháp hữu vi, trong khoảng sát-na liền trở về quá khứ.
[52] Tướng sanh: khiến cho pháp hữu vi từ vị trí chưa hiện hữu chuyển thành hiện hữu.
[53] Lục thông: sáu năng lực thù thắng của bậc thánh tam thừa: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mệnh thông và lậu tận thông.• •
[54] Khổ tập: khổ đế và tập đế. Khổ đế là đạo lí chắc thật về sự khổ thế gian; Tập đế là đạo lí chắc thật về nguyên nhân của khổ.
[55] Tập khí: những thói quen hình thành nơi tâm do tư tưởng và hành vi tương tục huân tập vào;
nói cách khác, đó là những kinh nghiệm, thói quen mà con người tích luỹ được.
[56] Hoặc chướng: những phiền não mê lầm chướng ngại Thánh đạo.
[57] Nghiệp chướng: những tư tưởng, hành vi bất thiện của thân miệng và ý chướng ngại thánh đạo
[58] Trí chướng: những sở tri chướng ngại cho trí huệ giác ngộ.
[59] Bất dị• như như: ba pháp hoặc, nghiệp, trí thanh tịnh bình đẳng, không sai biệt.
[60] Nhất vị như như: chỉ thuần một vị vô lậu.
[61] Ba cõi: cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc.•
[62] A-tăng-kì: một đơn vị số lượng của Ấn Độ, là số cực lớn không thể tính đếm được.•
[63] Thọ kí: lời báo trước cho một người sẽ chứng quả, cùng danh hiệu, cõi nước của vị đó ở đời vị lai.
[64] Cõi tam thiên: tức tam thiên đại thiên thế giới; một thế giới được thành lập bởi một ngàn tiểu thế giới, một ngàn trung thế giới và một ngàn đại thế giới.
[65] Nhất thiết trí: trí huệ thông đạt tất cả pháp, tức trí Phật, một trong ba trí.
[66] Trí túc mạng: trí nhớ biết những việc đời trước của mình.
[67] Ngục Vô gián: địa ngục nằm dưới cùng trong số tám địa ngục chồng lên nhau rất sâu bên dưới cõi Diêm-phù-đề. Người phạm một trong các tội ngũ nghịch, sau khi chết sẽ bị đọa ngay vào địa ngục A-tì mà không qua thân trung ấm, chịu khổ ngày đêm, không phút giây gián đoạn trong một kiếp.
[68] Lưỡng Túc Tôn: danh hiệu của Phật, gồm hai nghĩa: một, đấng tôn quí nhất trong loài chúng sanh hai chân; hai, đấng đầy đủ phước và trí.
[69] Căn, lực, đạo, giác chi: năm căn: tín, tấn, niệm, định, huệ; năm lực: tín, tấn, niệm, định, huệ; tám giác đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; bảy giác phần: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỉ, khinh an, định và xả.
[70] Mười nghiệp thiện: mười hành vi lành giúp con người sau khi chết sanh về cõi trời: không sát sinh; không trộm cướp; không tà dâm; không vọng ngữ; không ỷ ngữ; không lưỡng thiệt; không ác khẩu; không tham; không sân; không si.•
[71] Đấng Thập Lực: Đức hiệu của chư Phật, vì Phật đầy đủ mười năng lực.
[72] Tám chỗ không an: tám nơi mà hữu tình sanh vào, sẽ khó gặp Phật, nghe pháp: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, Bắc Câu-lô châu, trời Trường Thọ, điếc đui câm ngọng, trí huệ thế gian luận biện thông suốt, sanh trước hoặc sau Phật.
[73] Thiện Thệ: từ tôn xưng Đức Phật; cũng là một trong mười hiệu của Phật, nghĩa là Như Lai đã thật đến bờ kia, nhưng khéo trở lại biển sanh tử độ chúng sanh.
[74] Cát Tường: tướng chữ Vạn trên thân Đức Phật, một kí hiệu của điềm lành.
[75] Cõi ba ngàn: tức tam thiên đại thiên thế giới.
[76] Diệu Cao: núi Tu-di, vốn là ngọn núi trong thần thoại Ấn Độ, được Phật giáo sử dụng. Núi này là trung tâm của tiểu thế giới, có tám lớp núi và chín lớp biển vây quanh.•
[77] Sáu pháp ba-la-mật: Sáu pháp đưa hành giả đến bờ giải thoát bên kia: bố thí, giữ giới, tinh tiến, nhẫn nhục, thiền định và trí huệ.
[78] Ba thừa: ba cổ xe, tức là ba phương tiện đưa người đến chốn giải thoát: Thanh văn, Duyên giác và bồ-tát.
[79] Cây Bảo vương: một loại cây báu ở tịnh độ Phật.
[80] Biển hữu: biển ba cõi.
[81] Vui theo: tùy hỉ, tức vui theo việc làm hoặc thành quả của người khác.