Kinh Phật Dạy Tu Tập Mười Nghiệp Lành
Việt dịch: Nguyên Thuận
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật ở tại cung điện của Hải Long Vương, cùng với 8.000 vị đại Tỳ-kheo và 32.000 vị Bồ-tát Ma-ha-tát.
Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo long vương rằng:
“Do hết thảy chúng sanh có tâm tưởng khác nhau, nên nghiệp tạo ra cũng khác. Bởi vậy cho nên họ phải luân chuyển trong các nẻo.
Này long vương! Ông có thấy đại chúng ở Pháp hội này với chúng sanh trong biển lớn khác nhau về hình sắc và chủng loại chăng? Muôn sự khác biệt như thế đều là do tâm. Nó khởi sanh thiện hay bất thiện của thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp. Thế nhưng tâm không có hình sắc, không thể thấy, và không thể nắm bắt. Chỉ là do hư vọng mà các pháp tụ tập và sanh khởi. Nó cứu cánh chẳng có chủ tể, không có ngã và ngã sở. Mặc dầu tùy theo mỗi nghiệp mà sở hiện bất đồng, nhưng thật sự nó không có người sáng tác. Cho nên, tự tánh của tất cả pháp đều như huyễn và chẳng thể nghĩ bàn.
Khi người trí đã biết Đạo lý này thì nên tu nghiệp lành. Như vậy lúc sinh ra, thân thể kết hợp bởi năm uẩn, mười hai nhập, và sáu giới đều được đoan chánh; ai trông thấy họ sẽ không bao giờ nhàm chán.
Này long vương! Ông hãy quán thân của Phật; thân ấy là do từ trăm ngàn ức phước đức mà sanh ra. Tướng hảo của Phật trang nghiêm. Hào quang sáng rực che khuất các đại chúng và cho đến quang minh của vô lượng ức vị Phạm Vương tự tại cũng thảy đều chẳng hiện. Phàm ai chiêm ngưỡng thân tướng của Như Lai thì mắt của họ không hề nháy.
Tiếp đến, ông hãy quán sắc thân vi diệu và trang nghiêm thanh tịnh của chư đại Bồ-tát nơi đây; tất cả đều do phước đức của tu tập thiện nghiệp mà sanh ra.
Lại nữa, hàng thiên long bát bộ với uy thế lớn, họ cũng nhân do phước đức của thiện nghiệp mà sanh ra.
Hiện tại tất cả chúng sanh ở trong biển lớn với hình sắc thô bỉ, hoặc lớn hay nhỏ, đều là do muôn thứ tưởng niệm của tự tâm mà làm các nghiệp bất thiện qua thân khẩu ý. Cho nên tùy theo nghiệp mà ai nấy tự thọ quả báo.
Ông nay hãy tu học như vậy. Ông cũng nên khiến chúng sanh thấu rõ nhân quả và tu tập nghiệp lành. Ông nên kiên cố bất động nơi chánh kiến, và cũng đừng sa vào đoạn kiến hay thường kiến. Đối với các phước điền, ông hãy hoan hỷ, tôn kính, và trưởng dưỡng. Như thế, các ông cũng sẽ được trời người tôn kính và cúng dường.
Này long vương! Ông nên biết Bồ-tát có một Pháp mà có thể đoạn trừ hết thảy mọi thống khổ của ác đạo. Một Pháp này là gì?
Đó là ngày đêm trong mỗi niệm luôn tư duy và quán sát Pháp lành, khiến các Pháp lành niệm niệm tăng trưởng, và đừng bao giờ xen lẫn chúng với việc bất thiện, dẫu chỉ nhỏ như đường tơ. Như thế mới có thể vĩnh viễn đoạn trừ những điều ác, viên mãn Pháp lành, và thường được thân cận chư Phật Bồ-tát cùng những vị thánh chúng khác. Thân của trời người, Bồ-đề của Thanh Văn, Bồ-đề của Độc Giác, và Bồ-đề vô thượng của chư Phật–đều nương Pháp này dùng làm căn bổn mà được thành tựu. Cho nên gọi là Pháp lành. Pháp này tức là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Những gì là mười?
Đó là vĩnh viễn không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đâm thọc, nói lời ác, nói thêu dệt, tham dục, sân khuể, và si mê.
Này long vương! Nếu ai không sát sanh thì liền được thành tựu mười điều thoát ly khổ não. Những gì là mười?
1. Rộng thí vô úy cho các chúng sanh.
2. Luôn khởi tâm đại từ đối với chúng sanh.
3. Vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí của sân khuể.
4. Thân chẳng mắc bệnh.
5. Thọ mạng lâu dài.
6. Luôn được loài phi nhân hộ vệ.
7. Giấc ngủ an vui và không gặp ác mộng.
8. Diệt trừ oán kết và hận thù sẽ tự giải.
9. Không sợ rơi vào ác đạo.
10. Khi mạng chung sẽ sanh lên trời.
Đây là mười điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ được chư Phật gia hộ, thọ mạng tự tại, và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, long vương! Nếu ai không trộm cắp thì liền được mười điều tin sâu vững chắc. Những gì là mười?
1. Tài phú giàu sang và không bị vua chúa, trộm cướp, nạn nước lửa, hay con cái ngỗ nghịch đoạt mất.
2. Được nhiều người thương nhớ.
3. Không bị người lấn hiếp.
4. Mười phương ngợi khen.
5. Không lo gặp phải việc tổn hại.
6. Tiếng thơm vang khắp.
7. Không khiếp sợ bởi uy đức của đại chúng.
8. Tài bảo, thọ mạng, và sắc lực an lạc; đầy đủ biện tài và không chút khiếm khuyết.
9. Trong lòng thường mong muốn bố thí.
10. Khi mạng chung sẽ sanh lên trời.
Đây là mười điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ chứng đắc trí tuệ thanh tịnh của đại Bồ-đề và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, long vương! Nếu ai không tà dâm thì liền được bốn điều mà người trí tán thán. Những gì là bốn?
1. Các căn điều phục.
2. Vĩnh viễn thoát ly việc náo loạn.
3. Được khắp thế gian khen ngợi.
4. Vợ hoặc chồng không thể bị người dụ dỗ.
Đây là bốn điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ được tướng mã âm tàng của bậc đại trượng phu và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, long vương! Nếu ai không nói dối thì liền được tám điều mà chư thiên tán thán. Những gì là tám?
1. Miệng luôn thanh tịnh như hương thơm của hoa sen xanh.
2. Được mọi người trong thế gian tin tưởng và khâm phục.
3. Lời nói chánh trực và trời người kính mến.
4. Luôn dùng ái ngữ để an ủi chúng sanh.
5. Được niềm vui thù thắng và ba nghiệp thanh tịnh.
6. Lời nói không nhầm lẫn và tâm thường hoan hỷ.
7. Lời nói ra được trời người tôn trọng và phụng hành.
8. Trí tuệ thù thắng và chẳng ai có thể chế phục.
Đây là tám điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ được lời nói chân thật của Như Lai và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, long vương! Nếu ai không nói đâm thọc thì liền được năm điều chẳng thể hủy hoại. Những gì là năm?
1. Được thân bất hoại mà không ai có thể hại.
2. Được quyến thuộc trung nghĩa mà không ai có thể phá.
3. Được tín tâm vững chắc do thuận theo bổn nghiệp.
4. Được Pháp hành vững bền do sự tu hành kiên cố.
5. Được Thiện Tri Thức lâu dài do không hề dối trá.
Đây là năm điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ được quyến thuộc thành tựu mà chúng ma ngoại đạo chẳng thể cản trở hay phá hoại và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, long vương! Nếu ai không nói lời ác thì liền được tám nghiệp thanh tịnh. Những gì là tám?
1. Lời nói sẽ không trái nghịch.
2. Lời nói đều có lợi ích.
3. Lời nói thảy đều hợp lý.
4. Lời nói rất mỹ diệu.
5. Lời nói đáng lãnh thọ.
6. Lời nói có tín dụng.
7. Lời nói không thể khinh chê.
8. Lời nói luôn mãi được yêu thích.
Đây là tám điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ đầy đủ tiếng Phạm âm của Như Lai và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, long vương! Nếu ai không nói thêu dệt thì liền được ba điều nhất định. Những gì là ba?
1. Nhất định được người trí kính mến.
2. Nhất định có thể dùng trí tuệ để trả lời câu hỏi chính xác.
3. Nhất định được uy đức tối thắng trong hàng trời người và tuyệt đối không hư vọng.
Đây là ba điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ không bao giờ quên lãng những việc đã thọ ký của Như Lai và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, long vương! Nếu ai không tham dục thì liền được thành tựu năm điều tự tại. Những gì là năm?
1. Ba nghiệp tự tại do các căn đầy đủ.
2. Tài vật tự tại do hết thảy oán tặc chẳng thể cướp đoạt.
3. Phước đức tự tại do mọi vật mong muốn đều được cung cấp.
4. Vương vị tự tại do các kỳ trân diệu bảo đều được phụng hiến.
5. Vật dụng có được sẽ thù thắng gấp trăm lần so với sở cầu ban đầu do thuở xưa không keo kiệt và ganh ghét.
Đây là năm điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ được khắp Tam Giới đều tôn kính cúng dường và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, long vương! Nếu ai không sân khuể thì liền được tám điều vui sướng trong lòng. Những gì là tám?
1. Tâm không có sự tổn hại và khổ não.
2. Tâm không khởi nóng giận.
3. Tâm không sanh tranh tụng.
4. Tâm nhu hòa và ngay thẳng.
5. Được tâm từ của bậc thánh.
6. Tâm luôn làm lợi ích và an ủi chúng sanh.
7. Thân tướng đoan nghiêm và mọi người đều tôn kính.
8. Mau sanh về cõi Phạm Thiên do nhu hòa và kiên nhẫn.
Đây là tám điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ được tâm vô ngại, chúng sanh chiêm ngưỡng không chán mỏi, và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, long vương! Nếu ai không si mê thì liền được thành tựu mười điều công đức. Những gì là mười?
1. Được niềm vui và bạn bè chân thiện.
2. Tin sâu nhân quả và dẫu có mất thân mạng thì cũng không bao giờ làm ác.
3. Chỉ quy y Phật và không quy y với bất cứ vị trời nào khác.
4. Trực tâm chánh kiến và vĩnh viễn lìa xa tất cả lưới nghi về sự kiết hung.
5. Luôn sanh về cõi trời người và không còn đọa vào ác đạo.
6. Vô lượng phước tuệ thù thắng sẽ triển chuyển gia tăng.
7. Vĩnh viễn lìa xa tà đạo và tu hành thánh Đạo.
8. Chẳng dấy khởi thân kiến và xả bỏ các nghiệp ác.
9. An trụ ở cái thấy không chướng ngại.
10. Không rơi vào tám nạn.
Đây là mười điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ mau chứng tất cả Phật Pháp, thành tựu thần thông tự tại, và cuối cùng sẽ thành Phật.”
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo long vương rằng:
“Nếu có vị Bồ-tát nào đương lúc tu Đạo mà nương theo thiện nghiệp này, thì do bởi không sát sanh và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Họ sẽ được trường thọ, không bị chết yểu, và không bị bất cứ oán tặc nào tổn hại.
Do bởi không trộm cắp và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Họ là bậc tối thắng không ai sánh bằng và khéo có thể tu tập Pháp tạng của chư Phật.
Do bởi không tà dâm và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Gia đình của họ sẽ chánh trực và hòa thuận; không ai có thể đem lòng dâm dục mà dòm ngó cha mẹ, vợ chồng, hay con cái của họ.
Do bởi không nói dối và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Họ sẽ không bị người khác hủy báng. Họ sẽ nhiếp trì Chánh Pháp. Mọi việc làm sẽ như thệ nguyện của họ và đều được kết quả mỹ mãn.
Do bởi không nói đâm thọc và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Quyến thuộc của họ sẽ hòa mục, có những niềm vui giống nhau và không bao giờ tranh cãi.
Do bởi không nói lời ác và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Tất cả mọi người sẽ vui vẻ nương tựa và đều tín thọ lời nói của họ mà chẳng ai khán cự hay trái nghịch.
Do bởi không nói thêu dệt và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Lời nói của họ sẽ không giả dối, người nghe đều cung kính và tin tưởng. Với thiện xảo phương tiện, họ có thể đoạn trừ những điều nghi hoặc cho người khác.
Do bởi không tham dục và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Đối với hết thảy vật sở hữu, họ đều dùng trí tuệ mà xả bỏ. Họ có tín giải kiên cố và đầy đủ đại uy lực.
Do bởi không sân khuể và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Họ sẽ mau tự thành tựu trí tuệ vô ngại. Các căn của họ đoan nghiêm và ai thấy đều kính mến.
Do bởi không si mê và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Họ sẽ luôn sinh ra ở trong gia đình có chánh kiến, cung kính, và tín tâm. Họ sẽ thấy Phật, nghe Pháp, và cúng dường chư Tăng. Họ sẽ không bao giờ quên mất Bồ-đề tâm rộng lớn.
Đây là Mười Nghiệp Lành của các bậc Đại sĩ khi tu Bồ-tát Đạo.
Này long vương! Nói chung, phàm ai tu hành Mười Nghiệp Lành, do dùng bố thí trang nghiêm, nên họ được lợi ích lớn lao như vậy.
Do dùng trì giới trang nghiêm, nên họ đầy đủ đại nguyện, có thể thông hiểu nghĩa thú và đạt được lợi ích của hết thảy Phật Pháp.
Do dùng nhẫn nhục trang nghiêm, nên họ được Phạm âm viên mãn của Phật và đầy đủ các tướng tốt.
Do dùng tinh tấn trang nghiêm, nên họ có thể phá trừ ma oán và nhập Pháp tạng của Phật.
Do dùng thiền định trang nghiêm, nên họ có thể sanh trí tuệ Bát-nhã, biết hổ thẹn, và được khinh an.
Do dùng Bát-nhã trang nghiêm, nên họ có thể đoạn trừ tất cả sự phân biệt của cái thấy hư vọng.
Do dùng từ trang nghiêm, nên họ chẳng khởi não hại đối với chúng sanh.
Do dùng bi trang nghiêm, nên họ luôn thương xót và không bao giờ rời bỏ chúng sanh.
Do dùng hỷ trang nghiêm, nên khi thấy người tu thiện, lòng họ không hề ganh ghét.
Do dùng xả trang nghiêm, nên đối với thuận cảnh hay nghịch cảnh, tâm họ không nảy sanh tham ái hay sân khuể.
Do dùng Tứ Nhiếp Pháp trang nghiêm, nên họ luôn ân cần nhiếp thọ và giáo hóa tất cả chúng sanh.
Do dùng Tứ Niệm Xứ trang nghiêm, nên họ khéo có thể tu tập quán tưởng bốn nơi–thân, thọ, tâm, pháp.
Do dùng Tứ Chánh Cần trang nghiêm, nên họ đều có thể đoạn trừ hết thảy pháp bất thiện và thành tựu tất cả Pháp lành.
Do dùng Tứ Thần Túc trang nghiêm, nên họ luôn khiến thân tâm an lạc và khinh an.
Do dùng Ngũ Căn trang nghiêm, nên họ có tín tâm kiên cố, tinh tấn không ngừng, vĩnh viễn không mê muội, tịch nhiên điều thuận, và đoạn trừ các phiền não.
Do dùng Ngũ Lực trang nghiêm, nên họ diệt trừ tận mọi oán hận và không ai có thể phá hoại.
Do dùng Thất Bồ-đề Phần trang nghiêm, nên họ luôn khéo giác ngộ hết thảy các pháp.
Do dùng Bát Chánh Đạo trang nghiêm, nên họ luôn được trí tuệ chân chánh hiện tiền.
Do dùng chỉ trang nghiêm, nên họ đều có thể trừ sạch mọi kết sử.
Do dùng quán trang nghiêm, nên họ có thể biết như thật của tự tánh các pháp.
Do dùng phương tiện trang nghiêm, nên họ mau được thành tựu viên mãn của vô vi an lạc.
Này long vương! Phải biết Mười Nghiệp Lành này có thể khiến Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, 18 Pháp Bất Cộng, và hết thảy Phật Pháp đều được viên mãn. Cho nên các ông cần phải tu học.
Này long vương! Ví như tất cả thành thị xóm làng đều nương đại địa mà an trú. Hết thảy dược thảo, cây cối, và rừng rậm cũng đều nương nơi đất mà được sanh trưởng. Mười Nghiệp Lành này thì cũng lại như vậy. Tất cả trời người đều nương vào đó mà an lập. Tất cả Bồ-đề của Thanh Văn và Độc Giác, các hạnh nguyện của Bồ-tát, và hết thảy Phật Pháp đều nương vào đại địa của Thập Thiện mà được thành tựu.”
Khi Phật thuyết Kinh này xong, Hải Long Vương cùng các đại chúng, tất cả trời, người, và a-tu-la trong thế gian đều sanh tâm đại hoan hỷ và tín thọ phụng hành.