1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Kinh 21: Đức Phật Thuyết Giảng Kinh Thần Chú Kiết Tường

Nghe như vầy:

Một thời Đức Phật du hóa ở thành Xá-vệ, nơi ấy có tên là Chuyển pháp luân, không gì có thể vượt hơn được. Đất ấy rộng lớn, bao quát, nếu có kẻ đến quấy nhiễu, Đức Phật đều thuyết phục. Nay đang lúc thuyết giảng, các bậc Đại nhân, Thánh hiền đều quy tụ về đó.

Lúc ấy, Đức Phật bảo Hiền giả A-nan:

-Ta Vì ông mà nói thần chú là vua của các thứ thần chú, ông phải hết lòng thọ trì vì đây là chú của các Đức Phật đã nói! Khi thực hành phải chí thành, thực hành theo đúng nẻo đạo pháp, thực hành theo mười hai nhân duyên, thực hành theo hàng tháng, hàng ngày, các vị Hiền giả đều thực hành, ngày tháng luôn thực hành. Vậy ông hãy lắng nghe và khéo ghi nhớ.

Hiền giả A-nan thưa:

-Con xin vâng theo lời dạy và lắng nghe.

Thần chú như vầy:

Hưu lâu – Ni lâu – A ca la – Bài la – Mạc ca đát la bạt đề – Ba la linh ba sô a ni tha – Da đề a ni – Da đề a đề tà đề át đế mạt đế lô. Lô la la bạt đề ma na la la ba di trá.

Đây là pháp Tổng trì vô lượng, vua của các ấn chú mà chư Phật đã nói. Phải chí thành mà thực hành, phải đúng theo đường tu tập mà thực hành, theo dấu bình đẳng mà thực hành, phải ngày thực hành, tháng thực hành, ngày tháng đều thực hành, không hề gián đoạn.

Đức Phật nói với Hiền giả A-nan:

-Câu Tổng trì này là câu chú của Phật, là câu chú tôn quý hơn hết, là câu chú phải học, là câu chú của Thánh hiền, là câu chú đem lại diệu nghĩa lợi lạc, là câu chú luôn mang theo bên mình, là câu chú không hề bị trở ngại. Như các vị Tộc tánh tử, Tộc tánh nữ, nếu hội nhập được câu chú này là vào được trăm, ngàn cánh cửa giải thoát, có thể phân biệt để thuyết giảng.

Đức Phật bảo Hiền giả A-nan:

-Ở mé Nam núi Tuyết, có vị nữ thần lớn tên là Thiết-đà-lân- ca-ê (Nhiếp Thanh), có năm trăm người con và đám quyến thuộc, nghe được kinh này, liền cùng đứng lên kêu oán: “Than ôi, đau đớn lắm thay! Hỡi ôi! Sao mà dữ dội đến thế! Thân ta vốn lấy cái tinh chất của hàng trăm hàng ngàn người để ăn uống, hại mạng người để phục vụ mình, đến nay thì không làm gì được, không thể xâm phạm nữa! Sa-môn Cù-đàm vì bốn bộ chúng mà nêu bày, hộ trì. Vì sao? Là vì nếu các hàng thiện nam, tín nữ nhận được thần chú này thì những đồng nam, đồng nữ khi vào các quận, huyện, thôn, xóm trong nước, dốc trì tụng chú kiết tường này thì không có gì có thể nhiễu hại được. Vì sao như vậy? Là vì nay ông Sa-môn Cù-đàm nói thần chú ấy đã xua đuổi bọn phi nhân, diệt trừ các thứ hoạn nạn.”

Đại nữ thần ở đây mà thường xuất hiện ở cung ma, bọn ma xấu nói: “Thiên vương nên biết, Sa-môn Cù-đàm, đã lấy sạch cảnh giới của ông rồi. Nay các Thiên vương đều phải mặc áo giáp đồng, dẫn theo cả đám đông cùng binh lính giống như hồi Bồ-tát mới bắt đầu tham thiền bên gốc cây Bồ-đề.” Bọn ma liền mặc áo giáp đồng, cùng đám binh lính đến thẳng chỗ Phật.

Khi đó, Đức Thế Tôn nói với Hiền giả A-nan:

-Đó là đại nữ thần Thiết-đà-lân-ca-ê ở tại phía Nam núi Tuyết, cùng với năm trăm người con đông đủ, từ xa nghe Đức Như Lai nói thần chú Tổng trì ấn chú này mà sợ hãi cuống lên, lông tóc dựng đứng, nên đã huy động tất cả đám quân ma lớn nhỏ cùng các thứ ma khác.

Bấy giờ, bọn ma mặc áo giáp có lông cánh cùng đám quyến thuộc đến thẳng chỗ Đức Thế Tôn, mang theo tâm ý ác độc đến chỗ Sa-môn Cù-đàm. Khi ấy, vị Bồ-tát tên là Hàng Khí Ma đã hàng phục được ma vương, ma quan và đám quyến thuộc, đến thẳng chỗ Đức Phật cung kính đảnh lễ bậc Đại thánh, chắp tay hướng về Đức Phật, bạch Đức Thế Tôn:

-Con đã nhiếp phục, chế ngự được bọn ma và đám quyến thuộc của chúng, gom bọn Đại thần nữ Thiết-đà-lân-ca-ê lại để chế ngự, như thế là chúng chẳng còn dám làm điều sai trái, hoặc nhiễu hại các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ, chẳng những không dám hại mà chúng không còn có chỗ để hại nữa. Lành thay! Thưa Đức Thế Tôn, nguyện xin Ngài nói pháp Ân tổng trì cho bốn bộ chúng để họ đều được sự hộ trì khiến luôn được yên ổn. Xin Đức Phật tăng thêm từ bi làm cho thần chú này phổ cập đến dân chúng khiến cho họ cũng được muôn phần yên ổn.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn vì nhằm nói ra thần chú ấy, bỗng mỉm cười. Hiền giả A-nan hỏi Đức Phật:

-Thưa Thế Tôn, vì cớ gì Ngài cười? Chắc phải có ý gì đấy thì Ngài mới cười?

Đức Phật bảo Hiền giả A-nan:

-Ông hãy xem kìa, Bồ-tát Hàng Khí Ma đạo hạnh hết sức thù thắng đặc biệt, đã hàng phục được ma quân, ma vương và đám quyến thuộc, trừ diệt hết tà thuật của Đại thần nữ Thiết-đà-lân-ca-ê, khiến bọn chúng luôn lo sợ nên bỗng nhiên biến mất, không hiện ra nữa.

Đã đến lúc nói về Ấn tổng trì, bấy giờ Đức Thế Tôn nghĩ về Ấn tổng trì này là vua trong các pháp Tổng trì, có thể nhiếp phục tất cả các loại quỷ thần xấu ác cùng các thứ yêu mị, trừ dứt được tất cả mọi sự nhiễu hại. Câu chú Tổng trì ấn vương như sau:

‘Phục cưu, phục cưu, Hưu phù hưu lâu a kì đề.”

Đối với các nơi chốn có Quỷ thần, Thần nữ, Cưu hoàn long, Kim sí điểu và các loài thú hung dữ, các thứ yêu mị có ý tìm đến nơi đường đi để giết người, ăn tươi nuốt sống, thì với câu chú ấy có thể khiến chúng phải đi theo con đường sáng suốt, dốc cả tâm ý làm điều thiện, huống chi việc nhỏ nhặt thì không thể ẩn giấu được. Các đức lớn của phép Tổng trì ấy là không hề lựa chọn, phân biệt, không tối tăm mà cũng không có chỗ dứt bỏ. Trong lòng đọc tụng mười sự việc kia dẫn đến cái cười của Ta hôm nay. Đấy là việc phải làm, không hề có chọn lựa.

Đức Phật bảo Hiền giả A-nan:

-Thần chú này là câu chú không chọn lựa, câu chú Tổng trì, câu chú không có chỗ tuyển lựa, câu chú yên ổn, câu chú hộ trì, câu chú giúp mọi người không bị quấy nhiễu, câu chú không bị hại, câu chú cấm ngăn chế ngự, câu chú cho mọi người đọc tụng, câu chú làm cho bốn bộ chúng luôn được hộ trì giúp đỡ, Nhân và Phi nhân không thể xâm phạm được, cả những khi ra vào, ngủ nghỉ cũng không ai dám quấy nhiễu. Huống chi Đức Phật đã nói: Ai được nghe chú này cũng đều được an ổn.

Đức Phật đã thuyết giảng như vậy, mọi người đều hoan hỷ lãnh hội và lui ra.


Kinh 22: Đức Phật Thuyết Giảng Kinh Tổng Trì

Nghe như vầy:

Một thời, lúc Đức Phật mới thành đạo, Ngài du hóa ở nước Ma-kiệt, trụ chốn pháp nhàn, nơi gốc cây Bồ-đề, cùng với hàng vạn vị Bồ-tát, tất cả đều đã đạt được mọi thành tựu. Như Bồ-tát Phổ Hiền, hành nơi vô nguyện, giải thoát rốt ráo và các vị Bồ-tát như: Bồ-tát Không Vô, Bồ-tát Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Hành Tạng, Bồ-tát Diệu Diệu, Bồ-tát Kim Cang Tạng, Bồ-tát Lực Sĩ Tạng, Bồ-tát Vô Câu Tạng, Bồ-tát Điều Định Tạng, đại thể có tới một vạn vị Bồ-tát như thế, cùng với số lượng chúng Bồ-tát vô kể nơi một thế giới của chư Phật trong cõi Tam thiên đại thiên, mỗi vị từ cõi Phật khác cùng đến họp mặt nơi chúng hội này. Tới nơi, chư vị đều hóa ra tòa ngồi sư tử, cung kính đảnh lễ Phật xong, thì an tọa nơi tòa sư tử phía trước Đức Phật. Bấy giờ, các vị Đại sĩ Bồ-tát ấy, không còn phân biệt tôi-ta, thảy đều thanh tịnh không chút cáu bẩn, đều suy nghĩ: “Do nhân duyên chẳng thể nghĩ bàn gì mà chư Phật, Thế Tôn có được cảnh giới không thể nêu bày lượng tính hết được? Do từ cái sở nguyện gốc của chư Phật, Thế Tôn mà có được những sự thù thắng đặc biệt như thế chăng? Do nhân duyên gì mà chư Phật Như Lai đạt được sự cảm ứng như vậy? Sao gọi đó là việc làm không thể nghĩ bàn, hành động không hề bị ngăn ngại? Làm sao mà Đức Thế Tôn đã dứt sạch mọi niệm, tưởng, đạt được những sự việc đặc thù ấy?”

Lúc ấy, Đức Thế Tôn biết các vị Bồ-tát trong lòng đang có những suy nghĩ: Các vị Bồ-tát đang an tọa, chư Phật không có nơi chốn mà luôn thường trụ, các vị ấy muốn hỏi Đức Như Lai về tất cả sự sáng suốt của uy thần của chư Phật và về đức của uy thần ấy luôn tinh tấn không gì vượt hơn được, nhờ đó mà tất cả đã thành tựu, đã hội nhập vào được các pháp Tổng trì của chư Phật, là nẻo giác ngộ rộng lớn của bậc Thánh, tất cả chốn hội nhập ấy là đặc biệt thù thắng như vậy, không chỗ nào bị ngăn ngại, nẻo hội nhập của thân cũng đều như thế. Những người thân cận với chư Phật, từ bỏ các lỗi lầm, theo đúng giáo pháp chư Phật mà không chấp vào những gì đã đạt được thì thường được yên ổn.

Khi ấy, Bồ-tát Liên Hoa Tạng chứng nhập vào các pháp mà tâm hướng tới không còn những thứ ngăn ngại, chỗ nghĩ về các pháp môn không còn chút ngăn che, hạnh của các vị Bồ-tát là hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, đó là sự tập hợp đầy đủ các hạnh nguyện. Nếu an trụ một cách thích hợp nơi đó thì chứng nhập được giáo pháp của chư Phật, thấy được Phật trong mười phương, phát khởi tâm đại bi, cứu độ chúng sinh đến cùng, dắt dẫn họ dứt bỏ hết các đường ác. Tất cả các vị Bồ-tát nhờ pháp Định, Tam-muội, mà thấy rõ cõi gốc của mình, nhờ vào trí tuệ của chư Phật mà phát hạnh nguyện đến vô cùng, chúng sinh không ai là không quy phục. Đích cuối cùng của con đường trí tuệ giác ngộ đều nhằm soi tỏ các pháp Tổng trì để phân biệt các nẻo giải thoát trong kho tàng hoa sen vi diệu.

Các vị Bồ-tát-ấy đã vâng theo Thánh chỉ của Đức Phật, mỗi người tự nêu bày:

-Chư Phật đã nghe thấu hết, hạnh nguyện của chư Phật Thế Tôn thật là không thể lường hết, biến hóa thật vĩ đại, tùy theo bản tướng của các Ngài, thông tỏ các pháp, biết hết tất cả, chư Phật thật là siêu việt, kỳ lạ, không gì có thể che khuất được. Chư Phật Thế Tôn trùm khắp pháp giới, hội nhập trong pháp giới của các cõi Phật, có hay không có xứ sở, không một chỗ nào bị ngăn ngại. Những gì là mười? Chẳng hạn như Đức Thích-ca tại cung trời Đâu- thuật, thị hiện thọ mạng sau cùng của mình, bỗng nhiên biến mất khỏi cảnh giới ấy, không gì ngăn cản hay chế ngự được, cũng không biết ở nơi chốn nào, đã vào thai mẹ, đủ mười tháng sinh ra, rồi bỏ gia đình mà vui vẻ ra đi tìm đạo, lòng an vui tự tại, đến ngồi bên gốc cây Bồ-đề, tu thành Phật và tích lũy tất cả giáo pháp của chư Phật, chỉ trong khoảnh khắc, Ngài đã thị hiện khắp các cõi Phật, tạo ra sự cám ứng thể hiện qua các điềm lành, thường chuyển pháp luân, vun trồng và phát huy gốc của công đức, phân biệt theo căn cơ mà giảng giải cho chúng sinh, nên gặp được lúc có Phật thì đủ điều kiện để thành Bồ-tát, chính là do đạo pháp mà thành tựu. Chư Phật Thế Tôn luôn an trụ trong diệu lý “Vô sở trụ”, thường ở nơi trí tuệ mà kiến lập nên. Đã là Phật tử, thì không vướng mắc vào xứ sở, nơi chốn, phải thấu đạt diệu lý vô sở trụ. Lại nữa, với Phật tử, các Đức Phật, Thế Tôn có mười điều nêu dạy.

Mười điều đó là:

-Giáo hóa tất cả chúng sinh, nhằm đưa họ đến bờ giải thoát.

-Giải trừ hết tất cả những pháp không có trí tuệ.

-Hằng tu tập theo hạnh đại bi.

-Có được mười thứ diệu lực.

-Chuyển bánh xe pháp khắp nơi chốn để giáo hóa mọi người.

-Điều phục, dẫn đắt chúng sinh để đạt được giác ngộ bình đẳng.

-Khai mở, chỉ dẫn cho muôn loài khiến đạt được diệu lý “Không chốn trụ”.

-Ở đó, tự quay về nương tựa theo nẻo “Vô hành” đốì với tướng pháp.

-Đạt được cảnh giới tịch tĩnh, an nhiên.

-Đạt được đạo quả rồi thì quyết giáo hóa cho mọi người khác cũng đạt đến giác ngộ, giải thoát.

Đó là mười điều. Lại nữa, Đức Phật còn có mười việc mau gặp Đức Như Lai. Mười việc đó là: Vừa gặp chư Phật thì những chúng sinh ấy liền:

-Bỏ hết tất cả các nơi chốn hướng về trước đây của mình, chỉ giữ lấy lời dạy trọng yếu của chư Phật.

-Mau chóng có được phước đức cùng quyến thuộc.

-Chóng thọ lãnh được cái gốc của mọi đức hạnh.

-Liền được thanh tịnh, không còn những thua kém, thiếu thốn, dứt hết các hồ nghi.

Vừa gặp được Chư Phật thì tất cả những chúng sinh ấy:

-Được chỉ dẫn con đường đi đến Đại thừa.

-Khiến dứt hết mọi nẻo sợ hãi.

-Liền được thành tựu pháp “Bất thoái chuyển”.

-Phân biệt, nhận rõ căn nguyên của chúng sinh để khai thị, độ thoát cho.

-Giáo hóa khắp thế gian, làm thanh tịnh các căn của chúng sinh.

-Vừa gặp được chư Phật Thế Tôn thì mọi chúng sinh liền dứt hết bao thứ che phủ, ngăn ngại.

Đức Phật thuyết giảng như thế, các vị Bồ-tát nghe kinh thảy đều vui mừng lãnh hội.


Kinh 23: Đức Phật Thuyết Giảng về Thích Tử Sở Hân

Nghe như vầy:

Một thời Đức Phật du hóa tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp Cô Độc thuộc nước Xá-vệ, cùng với chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị.

Bấy giờ, Sở Hân, con cháu dòng họ Thích (Sở Hân Thích tử) nhiều lần lui tới đây, ra vào không giờ giấc, dựa vào chỗ là đến với họ hàng, nên việc đến, đi của ông thật không thể tính kể, khi thì sáng sớm, lúc thì tối trời, hoặc sớm đến, tối đi. Lức ấy, các Hiền giả A-nan, Ưu-đà, Bạc-câu-lô… hội họp lại một nơi, gọi ông Thích tử Sở Hân đến bảo:

-Này Hiền giả, sao ông hay đi lại không giờ giấc gì cả thế? Sao ông đến đây, vào ra không theo đúng giờ giấc, đáng ra thì ông phải biết tự điều tiết số lượng đi lại ấy chứ?

Ông Thích tử Sở Hân liền tuông ra những lời thô tục, mắng chửi các vị Hiền giả:

-Các ông là những kẻ vô trí, chỉ biết vọng động quấy rối, không thể tự an, hô hoán ác khẩu. Các ông là hạng lười nhác, chẳng làm gì cho chúng Tăng được hưng thịnh. Ta nay ra vào, thường vì chúng Tăng nghiêm túc bàn luận về những việc phải, các ông không cho đó là công lao ư? Cái chính là vì chúng Tăng có chỗ cần biện luận, chớ nên gọi ta là kẻ hay lý sự. Các Hiền giả nhiều chuyện, tỏ ra quá đáng đối với cá nhân ta, Thích tử Sở Hân này. Vả lại, các ông có chỗ muốn cùng biện luận, thế các ông có biết ta đã biện luận về việc của chúng Tăng ra sao không?

Khi ấy, các vị Tỳ-kheo cùng suy nghĩ: “Ba vị kia thì lời nói dịu dàng, mềm mỏng, uy đức hơn người, dựa vào gốc của phước đức mà thực hiện, nên chỗ đạt đến được rất nhiều, vượt hẳn người kia. Còn Thích tử Sở Hân chỉ là một gã nam tử ngu độn, liều mạng, ngớ ngẩn tự đề cao mình, chỗ mong cầu có vẻ quá đáng nhưng không được như ý muốn.”

Vào một ngày khác, Thích tử Sở Hân đến nhà một ông Trưởng giả, được cúng dường một bữa trưa hết sức thịnh soạn. Hiền giả A- nan đến nơi ấy sau nên đã tới nhà ông Trưởng giả khác, dùng lời nói dịu dàng để nêu bày về sự bền chắc của công đức vun trồng từ kiếp trước, lại vì họ mà thuyết giảng kinh pháp, khiến cho mọi người trong gia đình ấy hết sức hoan hỷ. Từ đấy, đi khất thực đến đó, Hiền giả A-nan luôn được cúng dường nhiều, họ tự nguyện bố thí không chút phô trương hay mong cầu gì.

Bấy giờ, các vị Tỳ-kheo đem đầu đuôi câu chuyện này thưa rõ với Đức Phật. Đức Phật nói với các vị ấy:

-Đối với bốn người ấy, chẳng phải chỉ đời này mới xảy ra chuyện tranh nhau trong việc khất thực, ở đấy, chỉ có một người được cúng dường ít, còn những người còn lại thì được cúng dường nhiều hơn. Tỳ-kheo A-nan luôn được mọi người khuyến trợ nên thảy đều được yên ổn.

Đức Phật kể:

-Về thời xa xưa đã lâu lắm, ở vùng đất lạ kia, có bốn người rất thân thiết, cùng nhau chung sống một chỗ. Khi ấy, có người thợ săn, bắt được một con nai, muốn đem vào thành để bán. Bốn người này thấy sự việc ấy, liền bàn với nhau: “Chúng ta nên tìm cách đi theo người thợ săn kia để mong có được thịt nai! Thử xem ai sẽ kiếm được nhiều nhất!”

Bàn xong thì bốn người cùng xuất phát ra đi. Lời hỏi xin của người thứ nhất thật thô lỗ mà còn cao ngạo:

-Ê! Người đàn ông kia, hãy cho ta thịt nai ấy đi, ta muốn ăn đấy.

Người thứ hai nói:

-Thưa anh, cho xin một ít thịt, em muốn thưởng thức món thịt đó.

Người thứ ba thưa:

-Vị nhân đức đáng kính, có thể cho bớt tôi một ít thịt ấy, tôi vốn rất thích.

Người thứ tư nói:

-Thưa vị thân thiết, nhân hậu, có thể bỏ bớt đi một ít thịt! Xin thông cảm mà bố thí cho, tôi muốn được ăn lắm vì cả bọn tôi đều đói khát!

Lúc ấy, người thợ săn xét lời nói của bốn người, rồi tùy theo lời của từng người mà dùng kệ đáp lại. Kệ đáp người thứ nhất như sau:

Lời người rất thô lỗ

Thịt nào lại cho ngươi

Nói xin như ra lệnh

Cho ngươi cái sừng thôi.

Ông lại dùng kệ đáp người thứ hai:

Người này thì hay lắm

Gọi ta là huynh đài

Lời kia như thủ túc

Sẵn ta cho một đùi.

Ông cũng dùng bài kệ đáp người thứ ba:

Đem ái kính cho ta

Lòng từ bi bao la

Lời nói như tâm phúc

Lấy tim gan làm quà.

Ông lại dùng kệ đáp người thứ tư:

Lấy ta làm thân thích

Thân kia được hòa đồng

Lời ấy hợp ý lắm

Lấy hết thịt cho ông.

Thế rồi người thợ săn, tùy theo ngôn từ của từng người, hoặc thô vụng, hoặc tế nhị mà cho họ các phần thịt. Khi ấy, có vị trời khen ngợi:

Ngôn từ của nam tử

Dịu ngọt quy về thân

Chớ nói lời thô lỗ

Lợi hại chẳng rời thân.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

-Người thứ nhất với ngôn từ thô lỗ ấy nay là ông Thích tử Sở Hân, người thứ hai nay là ông Bạt-đà-hòa-lê, người thứ ba nay là ông Hắc-ưu-đà, người thứ tư chính là ông A-nan, còn vị trời nói bài kệ đó chính là bản thân Ta. Ngày trước đã gặp nhau, đến nay cũng như thế.

Đức Phật thuyết giảng như vậy, không ai là không vui mừng lãnh hội.


Kinh 24: Đức Phật Thuyết Giảng Chuyện Vị Quốc Vương Và Năm Người Con

Nghe như vầy:

Một thời Đức Phật du hóa tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp Cô Độc thuộc nước Xá-vệ, cùng với chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị.

Bấy giờ, các vị Tỳ-kheo tôn trưởng, mỗi người đều tự bày tỏ những ý nghĩ từ lòng mình. Hiền giả Xá-lợi-phất, Hiền giả A-na- luật, Hiền giả A-nan, Hiền giả Du Luân và chúng đệ tử năm trăm người đã cùng một lúc lìa bỏ gia đình để học đạo, dứt mọi nẻo tham muôn, chí quyết không màng sự giàu sang ở đời, thảy đều làm Sa- môn.

Lúc ấy, Hiền giả Xá-lợi-phất tán thán:

-Trí tuệ được xem là bậc nhất hơn hết, nhờ đó dứt trừ mọi hồ nghi, hòa giải mọi sự tranh giành, xâu xé, phân biệt rõ được đạo nghĩa, không có chỗ nào là không thông đạt, cũng như trong chỗ tối tăm có được cây đuốc sáng soi tỏ khắp chốn.

Hiền giả A-na-luật tán thán:

-Tay nghề khéo léo chính là người thợ giỏi đối với mọi người, nhờ đó đã đem lại sự thành tựu ở nhiều lãnh vực, thể hiện được biết bao là kỹ thuật tinh xảo, khiến mọi người đều thích thú, cho nên công xảo là hơn hết.

Đến lượt Hiền giả A-nan tán thán về cái dáng vẻ đoan chánh bậc nhất:

-Dung nhan tươi đẹp hơn hết khiến ai thấy cũng đều hân hoan, được mọi người quý trọng, tất cả đều tôn kính như là Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt.

Còn đây là ý kiến của Hiền giả Du Luận:

-Luôn chuyên cần tu tập, chưa từng biếng trễ, đức tinh tấn ấy thật đáng ca ngợi, trong thế gian không ai sánh kịp. Nhờ đó lại có thể đi vào trong biển cả, thành tựu được rất nhiều việc lớn. Như Đức Như Lai Thế Tôn, đã thị hiện sinh vào dòng họ Thích, rồi bỏ đất nước, ngai vàng dốc chí tu tập, thành tựu đạo quả Phật, đoan nghiêm không gì sánh, hình tướng, sắc diện là bậc nhất như mặt trăng trong đám tinh tú, tươi sáng còn hơn cả mặt trời, thân cao một trượng sáu, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tiếng nói vang tỏa khắp tám bộ chúng, nói ra hàng vạn ức âm thanh để giảng thuyết kinh pháp cho các loài trời, rồng, quỷ, thần, người, vật… đều được khai thị, thông tỏ, đều đạt được sở nguyện của mình. Những anh em con chú bác của Đức Phật, tuy mỗi người có tiếng tăm uy tín riêng, nhưng đều quy mạng Đức Phật, xin làm đệ tử của Ngài, công đức của Đức Phật thật không thể nêu bày, xưng tụng hết được. Từ vô số trăm ngàn vạn ức kiếp, Ngài đã tích lũy công đúc, tự tu tập để chứng được quả Phật, rồi vì tất cả mọi người, mà chỉ ra con đường chân chánh.

Tất cả các vị trong chúng hội cùng nhau đến thẳng chỗ Đức Phật, hỏi rõ về nguồn gốc việc này:

-Bạch Thế Tôn, ai là người được xem là bậc nhất. Chúng con đã tụ hội lại và mỗi người đã tự nói lên cái sở trường của mình, mong Ngài minh xét.

Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Những người ấy chẳng phải chỉ mới đời này tự xưng tán về cái danh dự bậc nhất vô song của bản thân mình, mà đời trước cũng thế. Chỗ quy về của các đời nơi họ thảy đều thuận phục nơi Ta, hết lòng tôn quý Ta. Vì sao như vậy? về thời quá khứ xa xưa, có một vị quốc vương tên là Đại Thuyền, cõi nước rộng lớn, đất đai mầu mỡ, dân chúng no đủ, các vị đại thần cũng như bá quan đều hết lòng giúp nước. Nhà vua có năm người con: Người thứ nhất có trí tuệ, người thứ hai có tài khéo léo, người thứ ba rất đoan chánh, người thứ tư rất tinh tấn, còn người thứ năm thì đầy đủ phước đức.

Mỗi người con đều tự ca ngợi về chỗ sở trường của mình. Người con có trí tuệ, ca ngợi cái trí tuệ bậc nhất trong thiên hạ ấy bằng bài kệ:

Trí tuệ là hàng đầu

Hồ nghi giải quyết, mau

Phân rõ được nghĩa khó

Giải mọi oán kết lâu.

Hãy dùng quyền phương tiện

Giúp người hiểu được nhau

Mọi người đều hoan hỷ

Cùng ca ngợi ân sâu.

Người con thứ hai ca ngợi tài khéo của mình bằng bài kệ:

Kỹ thuật từ khéo tay

Nhiều việc thành tựu ngay

Máy móc làm người gỗ

Như người thật không sai.

Cử động co duỗi được

Người xem thấy khen hay

Được thưởng ngần ấy báu

Tài đó chính nhờ đây.

Người con thứ ba ca ngợi về sự đoan chánh của mình bằng bài kệ:

Đoan chánh bậc nhất rồi

Sắc hình cũng hơn thôi

Mọi người xem diện mạo

Người gần, kẻ xa xôi.

Đều biết đến tôn kính

Ân cần việc mọi người

Họ thờ như thờ Phật

Vắng mây, rạng mặt trời.

Người con thứ tư ca ngợi sự tinh tấn của mình bằng bài kệ:

Tinh tấn lấy làm đầu

Tinh tấn vào biển sâu

Hay vượt các hoạn nạn

Của báu được rất nhiều.

Lắm tài và dũng mãnh

Do đó, ngại gì đâu

Nghiệp nhà đều nên cả

Bà con mừng kính yêu.

Người con thứ năm ca ngợi về phước đức của mình bằng bài kệ:

Phước đức là tối cao

An nhiên tự tại vào

Giàu sang không bờ vực

Đời đời phước đức gieo.

Phước được làm Đế Thích

Luân vương, Phạm thiên cao

Nếu được thành Phật đạo

Làm Pháp vương đạo mầu.

Mỗi người đã tự nói lên cái sở trường của mình, ai cũng tự cho tài của mình là số một, không có thể quyết đoán được vì không ai chịu phục ai, rồi quay ra nói với nhau:

-Chúng ta mỗi người phải tự thi thố tài đức của mình, thể hiện rõ tướng thật của kẻ trượng phu bằng cách viễn du đến các nước, tới những nước khác ấy thì mới biết được cái thù thắng đặc biệt của ai là hạng nhất.

Bấy giờ, người con có trí tuệ vào được đất nước khác rồi, ông tìm hỏi về dân chúng nước đó lành dữ thế nào, lương thực nhiều ít, sang hèn, giàu có hay nghèo cùng. Ông lại nghe trong nước ấy có hai ông trưởng giả giàu có không ai bì kịp, trước thì rất thân thiết nhau, sau lại bất hòa, bị mọi người đâm thọc xúi bậy, họ lại càng chống đối nhau, trở thành oán thù chất chứa nhiều năm, không thể hòa giải được. Người con có trí tuệ kia liền bày ra một phương sách khéo léo, mang hàng trăm thức ăn ngon lành đến thẳng nhà ông trưởng giả, yêu cầu gặp mặt để dâng tặng. Ông trưởng giả liền ra gặp, người con có trí tuệ bèn dâng hết thức ăn ngon lành đã mang theo cho ông trưởng giả, rồi đem chuyện đã nghe được về ông trưởng giả ấy, từ tốn hỏi han:

-Việc trước kia hai bên mất lòng nhau là do không kịp suy nghĩ, bị kẻ khác đâm thọc nên kết thành oán thù lâu năm, không được gặp gỡ, nói chuyện với nhau, nghĩ rằng đối mặt hầu chuyện là rất khó khăn, cho nên chủ tôi sai tôi mang mấy món ăn uống đến để biếu tặng, xin đại nhân nhận cho, chớ nên quở trách, đây cũng không phải là oán thù truyền đời của cha mẹ, nên chủ tôi sai tôi đến để tỏ rõ ý nhau.

Vị trưởng giả này nghe xong tỏ ra hân hoan, vồn vã:

-Tôi rất muốn hòa giải từ lâu rồi, chỉ tại không có người thân cả hai bên để bày tỏ ý nhau, nay lại tin tôi, khiêm tôn giải bày, thành ý này thật ngoài chỗ mong ước. Tôi xin đón nhận ý nhân hậu ấy và xin thuận theo điều đã nêu bày, chẳng dám trái mạng.

Người con có trí tuệ đã giải hết mọi nghi ngờ của ông trưởng giả, xong thì từ tạ ra về.

Tìm đến nhà ông trưởng giả thứ hai, cũng lại như vậy, người con có trí tuệ ấy giải bày mọi ý nghĩ như đã nêu rõ với ông trưởng giả trước. Xong rồi, hẹn thời gian và nơi chốn để cả hai gặp gỡ. Lúc ấy, dân chúng tụ họp đông đảo để tham dự việc hòa giải oán cừu, cùng lúc tổ chức nào yến tiệc, nào ca hát tưng bừng, cùng nhau vui vẻ, hai bên hỏi nhau gốc ngọn về ý kiến hòa giải này, mới hay là do người kia khéo bày đặt ra để hòa giải oán thù cũ, kết thân họ lại như xưa. Mỗi người tự nghĩ: “Ta làm mất lòng nhau đã lâu, người trong một nước mà không hòa giải nổi, nay người này từ xa đến đã làm được công việc khó khăn ấy, ân đức này khó mả lường hết, không có lời nào diễn tả trọn vẹn được!” Rồi mỗi người xuất ra trăm ngàn lượng vàng để dâng tặng cho người đã làm công việc hòa giải. Anh ta liền mang của báu ấy về cho anh em, dùng lời kệ khen:

Có đầy đủ ngôn từ

Biện giải thành kinh điển

Bậc Chánh sĩ biết rộng

Rốt ráo được an ổn.

Xem ta dùng trí tuệ

Đạt được báu dường này

Ăn mặc tự đầy đủ

Bố thí rồi còn dư.

Lúc đó, người con thứ hai có tài khéo léo đi đến nước khác, gặp khi quốc vương xứ ấy ham thích các kỹ thuật, anh ta liền lấy gỗ tốt chế tạo một người máy bằng gỗ, hình dạng đoan chánh không khác gì người sống, y phục, dung mạo, trí tuệ không gì so sánh được, có thể làm các việc ca múa, cử động như con người thật. Anh ta có lời ca rằng: “Con trai ta sống đã ngần ấy năm, trong nước thảy cung kính, nhiều nơi đều mang quà tặng cho”.

Quốc vương nghe được, ra lệnh cho anh ta biểu diễn tài nghệ của mình. Nhà vua cùng phu nhân lên lầu cao ngồi xem cuộc biểu diễn ấy. Người con thứ hai này đã cho người gỗ do mình tạo ra diễn đủ các mục, ngần ấy động tác còn hơn cả người sống, vua và phu nhân hoan hỷ vô cùng. Nhân đấy anh chàng người gỗ máy bèn nháy mắt đắm nhìn nhan sắc của phu nhân, nhà vua từ xa trông thấy, lòng rất phẫn nộ, liền ra lệnh cho người hầu:

-Chém đầu hắn mang lại cho ta. Tại sao hắn dám nháy mắt nhìn phu nhân của ta, rõ ràng là có ý xấu, không còn nghi ngờ gì nữa!

Người cha của hắn khóc kể, nước mắt chảy ròng ròng, quỳ dài cầu xin:

-Con chỉ có một đứa con trai, nên rất thương yêu quý mến nó, ngồi đứng, tới lui nhờ nó mà khuây khỏa buồn lo, vì dại dột chẳng kịp nghĩ nên có thất thố với nhà vua, nếu đại vương giết nó thì xin cho con cùng chết, xin hãy thương xót, con biết đây là tội đáng chết.

Gặp nhà vua rất giận nên chẳng chịu nghe. Anh ta lại thưa với vua:

-Như đại vương chẳng chịu tha cho thì con xin tự tay mình giết nó khỏi phải sai người khác.

Nhà vua liền đồng ý. Anh ta liền chém sả một bên vai, máy móc bung ra rơi rớt lung tung xuống đất. Nhà vua mới kinh ngạc nói:

-Sao bản thân ta lại đi giận dữ với cây gỗ? Người này thật là xảo diệu, thiên hạ vô song, chế tạo được người với những ba trăm sáu mươi chi tiết, hơn cả người sống thật!

Thế là nhà vua liền ban thưởng hàng ức vạn lượng vàng. Người con thứ hai mang vàng về cho anh em để tiêu dùng, làm bài kệ khen:

Xem nghề khéo của ta

Thành tựu nhiều lắm đa!

Làm người sống bằng gỗ

Người sống chẳng vượt qua.

Người lớn rất hoan hỷ

Ngắm nó đàn, múa ca

Được thưởng nhiều châu báu

Ai bậc nhất bằng ta?

Người con thứ ba là người đoan chánh đi đến nước khác. Dân chúng nghe có người đoan chánh từ xa lại, sắc diện hình tướng vào hạng bậc nhất, thế gian ít có, nên họ cùng nhau kéo tới để nghinh đón, dâng tặng bao thứ của ngon vật lạ cùng ngọc ngà châu báu. Anh này bèn trổ tài khiến mọi người càng thêm vui thích, càng chiêm ngưỡng cái nhan sắc như vầng trăng trong muôn sao. Những người con gái của các gia đình quý phái giàu sang, vàng bạc châu báu đầy kho đã mang đến tặng biếu cho anh vô số ức các vật báu châu ngọc kỳ lạ. Được của báu rồi, anh ta đem về cho anh em mình và dùng lời kệ khen:

Đẹp thay sắc như hoa!

Tướng đoan chánh dễ ưa

Nữ nhân đều kính trọng

Yên ổn mãi bên ta.

Mọi người đều chiêm ngưỡng

Như vầng trăng trong sao

Nay được bao của bấu

Bố thí và tiêu pha.

Người con thứ tư là người có chí tinh tấn đi dần đến nước khác, tới gần bờ một dòng sông, trông thấy một cây chiên-đàn theo dòng nước trôi đi, anh ta liền cởi áo lao xuống nước, bơi theo chận lại, vớt lấy. Người nhà của quốc vương lúc ấy đang gấp tìm kiếm cây chiên- đàn, ông liền mang lên dâng cho vua, được thưởng hàng trăm vạn lượng vàng, cùng các thứ châu báu nhiều không thể tính kể được, bèn đem về cho anh em và dùng lời kệ khen:

Tinh tấn thật tuyệt vời

Dũng mãnh vào biển khơi

Được nhiều của quý giá

Cung cấp cho gia tộc.

Nhờ nổi trên sông nước

Vớt cây chiên-đàn trôi

Được vàng hàng ngàn lượng

Ăn tiêu và cho người.

Người con thứ năm là người nhiều phước đức, cũng đi đến một nước lớn, gặp lúc trời nóng bức, anh ta nằm nghỉ dưới bóng cây, khi mặt trời đã nghiêng xế, các bóng cây khác đều dời chỗ, nhưng chỗ người ấy nằm thì bóng cây không dời.. Người ấy rõ là thân cao lồng lộng, đoan chánh, tươi đẹp như mặt trời, mặt trăng. Vua nước đó mất, không có thái tử nối ngôi, mọi người bàn:

-Phải cầu người hiền để làm chủ nước, phải cho người đi khắp nơi trong cõi để tuyển chọn người có thể lập lên làm vua.

Sứ giả đi tìm, thấy nơi gốc cây có một người như thế, cho là ở đời thật hiếm có: nằm dưới gốc cây mà bóng cây không dời chỗ, lòng họ tự nghĩ: “Đây quả là một người khác thường, đáng làm vị Quốc chủ.” Những người đi tìm kiếm người hiền bèn trở về thưa với các quan đại thần, nói rõ đầu đuôi. Bấy giờ, quần thần liền chỉnh đốn oai nghi, mang theo xe ngựa, ấn tín, mũ khăn xa giá, y phục đến để nghinh đón. Tắm rửa, xông hương, mặc áo, đội mão, phục sức cho người ấy xong xuôi, tất cả mọi người đều bái yết xưng thần. Vị vua mới lên xe vào cung, hướng mặt về phương Nam tuyên chiếu lên ngôi vua, từ đó đất nước liền được thái bình, mưa gió thuận hòa. Nhà vua tức thời ban chỉ ra ngoài triệu bốn người: một là người có trí tuệ, hai là người có tay nghề tài khéo, ba là người đoan chánh, bốn là người tinh tấn, tất cả bốn người ấy đều được mời vào trong cung, phong giữ chức thị vệ. Vị vua Phước Đức bèn làm bài kệ:

Người có phước đức nhiều

Làm Đế Thích cao siêu

Làm vua, Chuyển luân vương

Trời Phạm cũng ngự triều.

Người trí và kẻ khéo

Tinh tấn và mỹ miều

Đều đến cửa phước đức

Làm thị vệ đứng hầu.

Lúc ấy, vua Phước Đức liền dựa vào ngôi cao của mình phong cho anh em mỗi người ai cũng được địa vị tốt.

Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Người trí tuệ thời ấy, bây giờ là ông Xá-lợi-phất, người công xảo là ông A-na-luật, người đoan chính là ông A-nan, người tinh tấn là ông Du Luân, còn vị vua Phước Đức là bản thân Ta đấy! Các ông ấy, thời đó mỗi người đều tự xưng tụng cái sở trường của mình cho là bậc nhất, đến hôm nay thì cũng như thế. Các ông ấy thời bấy giờ đều chẳng bằng Ta, mỗi người chỉ tự ca tụng tài nghệ của mình, còn Ta thì dốc tu tập, nay đã thành Phật đạo, là bậc Tôn quý trong ba cõi, nay tất cả họ đều quy ngưỡng nơi Ta, làm đệ tử, nhờ Phật mà được giải thoát.

Đức Phật thuyết giảng như thế, không ai là không hoan hỷ lãnh hội.


Kinh 25: Đức Phật Thuyết Giảng về Con Cáo Độc Và Con Quạ Đen

Nghe như vầy:

Một thuở Đức Phật du hóa tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp Cô Độc thuộc nước Xá-vệ, cùng với chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị.

Bấy giờ, Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Ông Điều-đạt là người hung hăng, nguy hiểm, hay khen ngợi những điều ngược ngạo chẳng hợp lý. Tỳ-kheo Câu-ca-lợi khen ngợi ông Điều-đạt, ông Điều-đạt cũng lại ca ngợi ông Câu-ca-lợi, hai ông này ngang ngược ca ngợi nhau, không có nghĩa lý gì cả.

Các vị Tỳ-kheo nghe xong, liền thưa với Đức Thế Tôn: -Kính thưa Bậc Đại Thánh, xem ra như ông Tỳ-kheo Câu-ca- lợi do nương tựa vào giáo pháp kinh điển và giới luật để tin tưởng xuất gia làm Sa-môn, lại làm chuyện ngược đời, đi ca ngợi ông Điều-đạt, lấy trái làm phải, chẳng có nghĩa lý gì cả. Rồi ông Điều- đạt thì lại khen ngợi ông Tỳ-kheo Câu-ca-lợi, lấy trái làm phải, lấy phải làm trái.

Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Những hạng người ngu si ấy, chẳng phải chỉ mới đời này ngang ngược ca ngợi nhau, lấy trái làm phải, lấy phải làm trái đâu, mà từ đời trước chúng cũng đã như vậy.

Đức Phật kể:

-Thuở quá khứ xa xưa, có người từng giữ một chức quan nhỏ, khi chết được bà con đem bỏ trong rừng cây tạp. Khi ấy, có con cáo độc và con quạ đen cùng đến ăn thịt xác chết ấy, rồi cùng nhau ca ngợi. Đậu trên cành cây, con quạ vì con cáo mà nói kệ:

Thân giống như sư tử

Đầu như vị Tiên nhân

Chân như chân nai chúa

Tinh hoa đẹp tuyệt trần.

Con cáo độc liền đến bên gốc cây đọc bài kệ khen:

Trên cây, vị nào đấy?

Trí tuệ thật tuyệt vời

Ánh sáng mười phương chiếu

Sắc tía như vàng tươi.

Con quạ đáp:

Chính là sư tử lớn

Muốn đến đây gặp thôi,

Chân ấy, chân nai chúa

Được lợi nghĩa, hay thay

Con cáo độc lại ca ngợi:

Biết nhau thật thành tín

Khen nhau rất thật lòng,

Cùng tía như vàng bột

Ăn mặc đây phải không?

Bấy giờ, cách đó không xa, có một vị Đại tiên sống từ lâu nơi chốn vắng vẻ, tịch tĩnh, dốc tu tập hành đạo, nghe con cáo độc và con quạ đen tán tụng nhau, lòng thầm nghĩ: “Bọn này ngang ngược, bày đặt chuyện khen ngợi nhau toàn là những lời rỗng tuếch, không một chút thành thật”, nên dùng kệ nói:

Ta thường thấy nơi đây

Miệng lưỡi của chúng mày

Giấu mình trong cây cối

Ăn xác chết mỗi ngày.

Con quạ giận dữ, làm kệ đáp vị Tiên nhân:

Sư tử và Khổng tước

Cũng lấy thịt làm mồi

Bọn chúng đầu trọc hết

Muốn sống phải thế thôi.

Vị Tiên dùng kệ đáp lại:

Rừng tạp thôi vô ngần

Chim sợ đều lánh thân

Chỗ bọn nai nương tựa

Lìa xa xác huỳnh môn.

Bọn bây là hạ tiện

Tụ về đây kiếm phần

Cùng ăn xác thối rữa

Mà xưng là thượng nhân.

Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Con cáo độc ngày ấy bây giờ là ông Điều-đạt, con quạ là ông Câu-ca-lợi, còn vị Tiên nhân ấy chính là Bồ-tát. Thời ấy, bọn chúng đã khen ngợi nhau, lấy trái làm phải, lấy phải làm trái, nay thì cũng vậy.

    Xem thêm:

  • Kinh Duyên Sinh - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bảo Sinh - Kinh Tạng
  • Kinh Đại thừa Duyên Sinh - Kinh Tạng
  • Kinh Sinh Ra Tâm Bồ Đề - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 23 – Tứ Sinh - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán - Kinh Tạng
  • Kinh Sư Tử Nguyệt Phật Bản Sinh - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Duyên Của Vua Đảnh Sinh - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Từ Thị Sở Thuyết Đại Thừa Duyên Sinh Thí Dụ Cây Lúa - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Phật Mẫu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Kinh Thiên Tử Ta Vạt Nẵng Pháp Quy Y Tam Bảo Khỏi Sinh Vào Ác Đạo - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 30 – Tiểu Kinh Thí Dụ Lõi Cây (Cùlasàropama sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 40 – Tiểu Kinh Xóm Ngựa (Cùla-Assapura sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 5 – Kinh Không Uế Nhiễm (Anangana sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 29 – Ðại Kinh Thí Dụ Lõi Cây (Mahasaropama-sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Ma Nhiễu Loạn - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 11 – Phá Trai - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 16 – Phóng Sanh - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 12 – Phú Quí - Kinh Tạng
  • Kinh Thần Chú Hộ Mạng Pháp Môn - Kinh Tạng