QUYỂN 10
Phẩm 26: Xả Bỏ Thân Mạng
Nói cho đại hội về chuyện xưa của mười ngàn thiên tử rồi, đức Thế tôn lại bảo Bồ đề thọ thần và đại hội, rằng trong quá khứ, Như lai đi theo đường đi bồ tát, chẳng những cho nước cho ăn để cứu mạng bầy cá, mà đến nỗi cái thân tiếc nuối cũng xả bỏ. Sự thể như vậy đáng cùng nhau quan sát.
Bấy giờ đức Thế tôn – bậc như lai ứng cúng chánh đẳng giác, bậc cao nhất tôn nhất trên trời dưới trời, bậc hàng trăm hàng ngàn ánh sáng chiếu khắp thế giới mười phương, bậc hoàn hảo nhất thế trí và viên mãn đại công đức — đem các vị Bí sô và cả đại hội đến khu dân cư Bát giá ra, đi vào một cánh rừng. Ở đây đất bằng phẳng, không có gai góc, hoa danh tiếng, cỏ mềm mại, bủa khắp mặt đất. Đức Thế tôn bảo trưởng lão A nan đà hãy trải tọa cụ cho Như lai dưới gốc cây kia. Trưởng lão vâng lời, trải tọa cụ rồi, thưa, bạch đức Thế tôn, con đã trải tọa cụ sắp chỗ ngồi rồi, xin đức Thế tôn biết cho đã đến lúc thích hợp. Đức Thế tôn đến ngồi xếp bằng trên chỗ ấy, thẳng mình, chính niệm, bảo các vị Bí sô, các vị muốn thấy xá lợi của Bồ tát khổ hạnh thời xưa không? Các vị Bí sô thưa, chúng con muốn thấy. Đức Thế tôn liền dùng cái tay trăm phước trang nghiêm mà ấn xuống đất. Tức thì đại địa chấn động với sáu hình thức, và nứt ra, một ngôi tháp thất bảo bỗng nhiên xuất hiện, phủ lên trên là mạng lưới kết ngọc. Đại hội thấy vậy lấy làm hiếm có. Đức Thế tôn tức thì đứng dậy khỏi chỗ Ngài ngồi, làm lễ bảo pháp, nhiễu quanh theo chiều bên phải, rồi trở lại chỗ ngồi, bảo trưởng lão A nan đà hãy mở cửa tháp. Trưởng lão mở ra, thấy có cái hộp thất bảo, được trang sức bằng những trân bảo kỳ lạ. Trưởng lão bạch đức Thế tôn, có cái hộp thất bảo, trang sức bằng các loại ngọc. Đức Thế tôn bảo hãy mở ra. Trưởng lão tuân mệnh, mở ra, thì thấy có xá lợi trắng như bạch mã não, như tuyết, như sen trắng (100) . Trưởng lão bạch đức Thế tôn, trong hộp có xá lợi, màu đẹp khác thường. Đức Thế tôn bảo hãy đem xá lợi của đại sĩ lại đây. Trưởng lão A nan đà liền lấy xá lợi ấy kính trao cho đức Thế tôn. Ngài cầm lấy mà bảo các vị Bí sô, các vị hãy nhìn xá lợi của Bồ tát khổ hạnh. Ngài lại nói chỉnh cú:
(1) Đức cao của Bồ tát
tương ứng có tuệ giác,
dũng mãnh mà tinh tiến
viên mãn cả sáu độ.
Thường xuyên tu không ngừng
và chỉ vì bồ đề,
không rời sự kiên cố
tâm không có mệt mỏi.
Các vị Bí sô, hãy cùng nhau kính lạy xá lợi của Bồ tát. Xá lợi này được xông bởi vô lượng hương liệu giới định tuệ, là ruộng phước tối thượng, cực kỳ khó gặp. Các vị Bí sô, và cả đại hội, đều nhất tâm, chắp tay, cung kính mà đảnh lễ xá lợi ấy, tán dương hiếm có. Bấy giờ trưởng lão A nan đà bước tới, lạy ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, Ngài là vị thầy cao cả, vượt trên hết thảy, được hết thảy chúng sinh tôn kính, tại sao lại lạy linh cốt xá lợi này? Đức Thế tôn dạy, trưởng lão A nan đà, Như lai nhờ xá lợi này mà tốc chứng vô thượng bồ đề. Để báo ơn xưa nên Như lai kính lạy. Ngài lại bảo, An nan đà, Như lai sẽ giải trừ hoài nghi cho trưởng lão, và cả đại hội, mà nói chuyện cũ của xá lợi này. Các người hãy khéo nghĩ, hãy chuyên nhất tâm trí mà nghe. Trưởng lão A nan đà thưa, chúng con ước muốn được nghe. Xin đức Thế tôn khai thị cho chúng con.
Đức Thế tôn dạy, trưởng lão A nan đà, quá khứ có một quốc vương tên Đại xa, giàu lớn, lắm của, kho lẫm đầy ắp, quân binh vũ dũng, ai cũng khâm phục. Quốc vương lại thường xuyên đem chánh pháp mà khai hóa đến cả những người đen đủi. Quốc dân đông đảo, không có giặc thù. Hoàng hậu sinh được ba con trai, đẹp, nghiêm, ai cũng thích nhìn. Thái tử tên Ma ha ba la, thứ tử tên Ma ha đề bà, ấu tử tên Ma ha tát đỏa. Bấy giờ quốc vương xuất du núi rừng. Ba vương tử cũng tùy tùng. Ham tìm hoa trái nên ba anh em tách ra, đi quanh quẩn đến nhằm khu rừng tre lớn, nghỉ ngơi ở đây. Vương tử thứ nhất nói, anh cảm thấy sợ hãi, chỗ này có mãnh thú hại chúng ta chăng? Vương tử thứ hai nói, chưa bao giờ em tiếc thân mình, chỉ sợ người thân có cái khổ biệt ly. Vương tử thứ ba thưa hai anh.
(2) Đây là nơi chốn
thần tiên cư trú.
Em không sợ hãi,
không khổ biệt ly.
Thân và tâm em
tràn ngập hoan hỷ,
cái điềm sẽ được
công đức đặc thù !
Ba vương tử nói linh tính mình rồi đi tới, thấy con cọp sinh bảy con. Sinh mới mấy ngày mà cọp mẹ bị bầy con quấn quýt nên đói khát, thân hình gầy ốm, có vẻ sắp chết. Vương tử thứ nhất nói cọp này thật đáng thương, bị con quấn quýt, không đi kiếm ăn được, đói quá chắc phải ăn đến con. Vương tử Tát đỏa hỏi anh, cọp mẹ này thường ăn thứ gì? Vương tử thứ nhất nói với em
(3) Cọp báo sói sư tử
chỉ ăn thịt máu nóng
chứ không ăn gì khác
mà qua cơn đói này.
Vương tử thứ hai nghe thế, nói con cọp này đói sắp chết, nhưng chúng ta làm sao kiếm được thực phẩm như anh nói? Ai chịu bỏ thân mạng mà cứu cơn đói của nó? Vương tử thứ nhất nói, không có gì khó bỏ cho bằng thân mình. Vương tử Tát đỏa nói, chúng ta tiếc nuối thân mạng, lại không trí tuệ, không làm được gì lợi cho kẻ khác. Nhưng bậc đại sĩ thì có đại bi tâm, thường vì lợi người mà bỏ mình. Vương tử Tát đỏa nghĩ riêng, thân ta đây hàng trăm hàng ngàn đời vất bỏ thối rã mà chẳng được ích gì, tại sao ngày nay ta không bỏ để cứu cái khổ cơn đói. Cả ba vương tử nói với nhau như trên kia, ai cũng thương xót, ái ngại nhìn cọp đói, bồi hồi bỏ đi. Nhưng vương tử Tát đỏa lại liên tiếp nghĩ riêng, nay chính là lúc thích đáng cho ta bỏ thân này. Tại sao?
(4) Vì xưa đến nay
ta giữ thân này,
cái thân xú uế
không thể thích được.
Ta cấp đồ nằm
cùng với đồ mặc,
cung đốn xe ngựa
và bao của quí.
(5) Nhưng thân hư rã
vì vốn vô thường,
cầu hoài không thỏa
giữ mãi vẫn chết.
Ta cung dưỡng nó
nó lại hại ta,
cuối cùng bỏ ta
chẳng biết ơn nghĩa!
Thêm nữa, thân này không bền, vô ích cho ta. Thân này đáng sợ như giặc, dơ bẩn như phân. Ngày nay ta sai cái thân này làm cái việc cao cả. Trong biển sinh tử, nó phải là thuyền tàu to lớn. Nó phải bỏ luân hồi, đạt đến giải thoát. Vương tử lại nghĩ, bỏ thân này là bỏ không ít ác bịnh và bao nhiêu kinh hãi. Thân này chỉ có phân giải. Nó mong manh như bóng nước. Nó, nơi sâu giòi tập hợp, sống chỉ vì gân cốt huyết mạch dính líu với nhau. Vậy ta nên bỏ, để cầu Niết bàn tối thượng và cứu cánh. Ở đó vĩnh biệt vô thường, vĩnh ly sinh tử, vĩnh đoạn trần lụy. Ở đó huân tu bằng định lực và tuệ lực, trang nghiêm với cả trăm phước đức. Ở đó hoàn thành nhất thế trí, chứng đắc diệu pháp thân. Hoàn thành và chứng đắc như vậy rồi đem cho chúng sinh vô biên pháp lạc. Vương tử Tát đỏa bấy giờ nổi dậy sự đại dũng mãnh, phát ra sự đại thệ nguyện, và tăng cường tâm mình bằng sự đại từ bi. Nhưng vương tử sợ hai anh lưu luyến sợ hãi mà cản trở, nên nói, hai anh đi trước, em đi sau một chút. Vương tử Ma ha tát đỏa liền trở lại khu rừng, đến chỗ cọp đói, thoát hết y phục mắc trên cây tre, phát nguyện như vầy.
(6) Ta vì chúng sinh
khắp cả pháp giới,
chí cầu Bồ đề
tuệ giác tối thượng.
Khởi tâm đại bi
không thể dao động,
mà bỏ cái thân
phàm phu luyến tiếc.
(7) Trạng huống Bồ đề
không có nóng bức,
ai người có trí
đều rất ưa thích.
Bao nhiêu chúng sinh
trong biển khổ lớn,
ta nguyện cứu vớt
đưa lên Bồ đề.
Vương tử phát nguyện như vậy rồi đến nằm buông mình trước cọp đói. Nhưng do uy thế từ bi của Bồ tát, cọp không làm gì được. Thấy vậy, Bồ tát chạy lên núi cao mà gieo mình xuống, thì thần tiên tiếp đỡ nên không thương tổn gì. Vương tử nghĩ, cọp đói lả, không ăn ta nổi. Liền đứng dậy tìm dao, dao không có. Nên vương tử lấy tre khô thích cổ chảy huyết, đi lại bên cọp. Bấy giờ đại địa chấn động với sáu hình thức, như gió khích nước, vọt lên dội xuống không yên. Mặt trời không sáng, như bị la hầu che. Khắp nơi mờ tối, không còn ánh sáng. Chư thiên rải xuống danh hoa và diệu hương khắp cả khu rừng. Trong không gian, chư thiên nhìn cảnh tượng như vậy thì tâm tùy hỷ, than hiếm có, cùng khen lành thay bậc đại sĩ! Họ ca tụng
(8) Đại sĩ vận dụng
đại bi cứu vật,
nhìn toàn chúng sinh
coi như con một;
mạnh mẽ hoan hỷ,
lòng không tiếc nuối,
xả thân cứu khổ,
việc thật khó lường!
(9) Quyết định đạt đến
chân thường siêu việt,
thoát bỏ sinh tử
mọi thứ buộc ràng;
mau chóng chứng được
tuệ giác Bồ đề,
vắng lặng yên vui
thể hiện Vô sinh.
Bấy giờ cọp đói ngửi thấy huyết từ cổ Bồ tát chảy ra thì liếm lấy, và ăn hết thịt Bồ tát, còn lại chỉ có xương.
Vương tử thứ nhất thấy đất động thì nói với em hai
(10) Đại địa núi sông
chấn động tất cả,
bốn phía mờ tối
không ánh mặt trời,
thiên hoa rơi xuống
khắp cả không gian,
chắc chắn là điềm
em ba bỏ mình.
Vương tử thứ hai nghe anh nói rồi, tự nói chỉnh cú
(11) Em nghe Tát đỏa
nói lời từ bi,
khi thấy cọp đói
thân thể ốm xọp,
đói hành nó quá
chắc ăn cả con.
Em nghi em ba
xả thân mất rồi.
Vương tử thứ hai rất buồn rầu đau khổ, khóc lóc than thở. Tức khắc cùng anh trở lại chỗ cọp. Thì thấy y phục của em treo để trên tre, còn xương với tóc thì vung vãi ra. Máu thấm đỏ cả đất. Thấy thế ngất đi, không tự chủ được. Rơi mình trên xương em, hồi lâu mới tỉnh, dơ tay, kêu gào, khóc lớn, than thở:
(12) Em ta dung mạo đẹp,
cha mẹ thương hơn hết,
tại sao cùng ra đi
giờ bỏ mình, không về!
(13) Nếu cha mẹ ta hỏi,
ta phải nói thế nào?
Thà ta cùng bỏ mình,
chứ sống để làm gì?
Hai anh em vương tử khóc lóc áo não, tạm rời mà về. Trong khi những kẻ tháp tùng của vương tử út thì bảo nhau, vương tử đi đâu, chúng ta phải tìm.
Còn hoàng hậu thì ngủ trên lầu cao. Trong mộng thấy hiện tượng bất tường. Nhũ bộ bị cắt cả đôi. Răng rụng hết. Được ba con bồ câu non, một con bị cắt bắt, hai con kinh hoàng. Khi động đất, hoàng hậu thức, thì trong lòng sầu não:
(14) Tại sao hôm nay
đại địa chấn động,
sông ngòi rừng rú
đều rung lắc cả,
mặt trời mờ tối
như bị che khuất,
mắt máy vú động
khác hơn ngày thường?
(15) Tim như trúng tên
lo sợ bức xúc,
cả người run rẩy
không kềm chế được.
Hiện tượng bất tường
mà ta mộng thấy,
tất có tai biến
phi thường nào đây!
Nhũ bộ của hoàng hậu bỗng nhiên chảy sữa. Bà nghĩ tất có biến quái. Bấy giờ thị nữ nghe người ngoài nói tìm vương tử chưa được thì sợ quá, tức tốc vào tâu với hoàng hậu, rằng xin hoàng hậu biết cho, ở ngoài người ta bổ ra đi tìm vương tử khắp cả mà chưa thấy. Hoàng hậu nghe thế càng lo sợ, nước mắt đầy tròng, đến chỗ quốc vương mà tâu: Đại vương, thần thiếp nghe người ngoài nói đứa con nhỏ nhất mà chúng ta thương nhất đã mất đâu rồi. Quốc vương nghe thì kinh hoàng, nấc lên: Khổ quá, ta mất đứa con yêu thương rồi. Nhưng ông phải lau nước mắt mà an ủi hoàng hậu: Hiền thủ, đừng khóc nữa. Chúng ta cùng đi tìm đứa con yêu thương của chúng ta. Rồi ông cùng hoàng hậu và thần dân ra khỏi hoàng thành, phân tán tìm tòi khắp nơi. Một lát, một đại thần bước tới, tâu rằng đã nghe các vương tử hãy còn, xin vương thượng đừng lo. Chỉ vương tử nhỏ nhất thì tìm chưa thấy mà thôi. Quốc vương nghe vậy, than thở khổ thay cho ta, ta mất đứa con thương yêu nhất rồi!
ta vui mừng ít,
giờ con mất đi
ta khổ sở nhiều.
Ai làm con ta
sống còn lại được,
thì mất mạng ta
ta cũng không khổ.
Hoàng hậu nghe thì như bị trúng tên bắn, than thở
(17) Con ta ba đứa
đi với thị tùng,
cùng vào trong rừng
thưởng ngoạn cảnh trí.
Giờ đứa nhỏ nhất
mình nó không về,
chắc chắn có điều
tai biến mất rồi!
Kế tiếp, vị đại thần thứ hai đến chỗ quốc vương, vương hỏi ngay, con ta đâu? Đại thần áo não, lưỡi khô, cổ rát, miệng không nói được, không biết trả lời làm sao. Hoàng hậu bảo
(18) Thượng quan nói gấp,
con ta ở đâu?
Ta nóng cả người
như thiêu như đốt,
kinh hoàng hoảng hốt
mất cả bình tâm,
đừng để bụng ta
rách vỡ cả ra!
Vị đại thần phải đem việc vương tử xả thân mà tâu quốc vương. Quốc vương với hoàng hậu nghe rồi, bi thiết không thể chịu nổi, nhắm chỗ vương tử xả thân mà chạy tới. Đi đến rừng tre, chỗ Bồ tát xả thân. Thấy xương vung vãi, ai cũng gieo mình xuống đất, cơ hồ sắp chết. Họ như đại thọ bị gió mạnh xô ngã. Họ bất tỉnh. Đại thần rưới nước, một lát tỉnh lại. Họ lại dơ tay, khóc, than:
(19) Tai họa cho con!
con đẹp đẽ lắm!
tại sao cái chết
áp bức con trước?
Phải chi nếu cha
được chết trước con
thì đâu phải thấy
khổ quá thế này!
Hoàng hậu hơi tỉnh, lại đầu bù tóc rối, hai tay đấm bụng, quằn quại dưới đất. Như cá trên đất, như bò mất con, hoàng hậu buồn thảm:
(20) Ai giết mất con ta
mà chỉ còn xương cốt?
ta mất con yêu thương
bi thiết chịu sao nổi!
(21) Ai giết mất con ta
gây ra cảnh bi thảm?
lòng ta phi kim cương
làm sao không tan nát!
(22) Trong mộng ta đã thấy
nhũ bộ ta bị cắt,
răng cũng rụng mất cả,
nay khổ quá thế này!
(23) Lại mộng ba bồ câu
một bị cắt bắt đi,
ra ta mất con quí,
ác mộng thật không sai!
Bấy giờ quốc vương, cùng hoàng hậu với hai con, ai cũng gào khóc, bỏ cả chuỗi ngọc. Họ cùng quốc dân thu nhặt xá lợi của Bồ tát, tôn trí trong tháp để hiến cúng. Trưởng lão A nan đà, các người nên biết, đây là xá lợi ấy của Bồ tát.
Đức Thế tôn lại bảo trưởng lão A nan đà, xưa kia, Như lai đủ cả tham sân si, mọi thứ phiền não, vậy mà ngay trong năm nẻo đường dữ, Như lai vẫn tùy cảnh ngộ cứu vớt chúng sinh ra khỏi chỗ ấy; huống chi nay đây Như lai đã hết cả phiền não, thói quen cũng không còn, được gọi là bậc Thiên nhân sư, đủ Nhất thế trí, mà không thể vì mỗi một chúng sinh trải qua nhiều kiếp ở ngay trong địa ngục, và bao chỗ khác, thay họ chịu khổ, làm cho họ thoát ly sinh tử, phiền não và luân hồi hay sao. Bấy giờ đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
(24) Như lai nhớ quá khứ
vô lượng vô số kiếp,
khi thì làm quốc vương
khi thì làm vương tử.
(25) Thường làm bố thí lớn,
cho cả thân đáng tiếc,
nguyện thoát sinh tử khổ
đi đến đại bồ đề
(26) Xưa có quốc gia lớn
quốc vương tên Đại xa,
vương tử tên Dũng mãnh
bố thí không tiếc lẫn.
(27) Vương tử có hai anh
Đại cừ với Đại thiên.
Ba anh em xuất du,
đi lần vào núi rừng.
(28) Thấy cọp mẹ bị đói
thì nghĩ như thế này,
cọp bị đói hành hạ
mà không có gì ăn.
(29) Đại sĩ thấy như thế
sợ nó ăn con nó,
nên xả thân không tiếc
để cứu cả mẹ con.
(30) Đại địa và núi non
đồng thời chấn động cả,
sông biển cũng sôi sục
sóng dữ mà nước ngược.
(31) Trời đất mất ánh sáng
mờ tối không thấy gì.
Cầm thú rừng, đồng nội
bay chạy mất chỗ ở.
(32) Hai anh quái mất em
lo buồn đến bi thảm,
tức khắc cùng thị tùng
tìm khắp cả lùm rừng.
(33) Hai anh bàn với nhau
hãy trở lại núi sâu,
nhìn quanh không có em
chỉ thấy con cọp đói.
(34) Cọp mẹ với bảy con
miệng toàn có vấy máu,
còn xương tàn với tóc
thì vung vãi mặt đất.
(35) Lại thấy có huyết chảy
dính nhằm mấy cây rừng.
Hai anh thấy như thế
lòng sinh đại sợ hãi.
(36) Ngã đất mà chết giấc
mê man hết biết gì,
bụi đất lấm cả người
giác quan mất ý thức.
(37) Thị tùng hai vương tử
khóc lóc lòng lo sợ,
lấy nước rưới tỉnh lại
lại dơ tay gào khóc.
(38) Khi Bồ tát bỏ mình
thì mẹ ở trong cung,
cùng năm trăm thế nữ
đang hưởng thụ vui thú.
(39) Hai nhũ bộ hoàng hậu
bỗng nhiên chảy sữa ra,
cả người như kim chích
đau đớn rất bất an.
(40) Đột nhiên nghĩ mất con
sợ như tim trúng tên,
tức khắc tâu vua hay
nỗi khổ bà đang có.
(41) Khóc lóc không nhịn được
thảm thiết nói với vua,
vua nên biết cho thiếp
thiếp đang khổ vô cùng.
(42) Nhũ bộ bỗng chảy sữa
ngưng lại cũng không được,
cả mình như kim chích
nóng bực bụng muốn vỡ.
(42) Điềm ác mộng trước đây
biết chắc mất con yêu.
Xin vua cứu mạng thiếp
tìm biết con còn mất.
(44) Mộng thấy ba bồ câu
nhỏ nhất là con cưng,
bỗng bị cắt bắt mất
đau buồn khó nói hết.
(45) Thiếp ngập trong lo sợ
đi mau đến cái chết,
e con không toàn mạng
xin vua đi tìm gấp.
(46) Lại nghe người ngoài nói
con út tìm không thấy,
lòng thiếp rất bồn chồn
xin vua thương xót thiếp!
(47) Hoàng hậu tâu vua rồi
cả người quị xuống đất,
đau đớn tâm mê man
hôn mê hết hay biết.
(48) Thế nữ thấy hoàng hậu
ngất xỉu xuống mặt đất
thì cất tiếng khóc lớn
bàng hoàng mất chỗ dựa.
(49) Vua nghe hoàng hậu nói
cũng lo không chịu nổi,
ra lịnh cho quần thần
tìm kiếm con thương nhất.
(50) Vua tôi ra hoàng thành
chia nhau mà truy tìm,
gặp ai cũng khóc hỏi
thấy vương tử ở đâu.
(51) Vương tử còn hay mất?
ai biết đi chỗ nào?
làm sao cho ta thấy
giải cho ta lo sợ.
(52) Ai cũng nghe nói chuyền
rằng vương tử chết rồi.
Ai nghe cũng thương cảm
buồn đau khó chế ngự.
(53) Bấy giờ Đại xa vương
kêu than mà đứng dậy
đến chỗ hoàng hậu ngất
lấy nước rưới thân bà.
(54) Hoàng hậu được nước rưới
lát lâu mới hồi tỉnh,
khóc thảm mà hỏi vua
con của thiếp còn không?
(55) Vua nói với hoàng hậu
ta đã phái mọi người
bốn hướng tìm vương tử
nhưng chưa có tin tức.
(56) Vua lại bảo hoàng hậu
hậu đừng quá phiền muộn,
cố bình tỉnh một chút
để cùng đi tìm con.
(57) Vua cùng với hoàng hậu
xa giá đi mau tới,
với tiếng kêu thê thảm
lo như lửa đốt lòng.
(58) Cả ngàn vạn dân chúng
cùng đi theo nhà vua,
cùng muốn tìm vương tử,
tiếng kêu than không ngớt.
(59) Vua cố tìm con yêu,
mắt nhìn cả bốn phía,
thấy một người bước đến,
tóc xõa mình đầy máu,
(60) khắp mình dính đất bụi,
buồn khóc đi ngược lại.
Vua thấy ác tướng ấy
càng nóng ruột lo sợ.
(61) Vua giơ cả hai tay
gào thảm không tự chế.
Vị đại thần thứ nhất
vội vàng đến chỗ vua,
(62) gắng gượng mà tấu bạch,
xin đừng quá bi thương,
vương tử vua thương nhất,
hiện vẫn chưa tìm được,
(63) nhưng lát nữa chắc đến
để giải lo cho vua.
Vua lại đi tới nữa
gặp đại thần thứ hai.
(64) Vị này đến chỗ vua
chảy nước mắt mà tâu,
hai vương tử hiện còn
nhưng đang bị quá lo.
(65) Còn vương tử thứ ba
vô thường nuốt mất rồi.
Cọp đói mới sinh con
sắp ăn chính con nó.
(66) Tiểu vương tử Tát đỏa
thấy vậy lòng thương xót,
nguyện cầu đạo vô thượng
quảng độ cho tất cả.
(67) Chuyên tâm đại bồ đề
rộng sâu như biển cả,
nên lên trên núi cao
gieo mình trước cọp đói.
(68) Cọp yếu nên không thể
vồ mà ăn vương tử,
vương tử phải dùng tre
tự thích cổ đổ máu.
Cọp liếm, ăn vương tử,
chỉ còn lại xương cốt.
(69) Vua cùng với hoàng hậu
nghe rồi cùng ngất xỉu,
lòng ngập trong đau thương
trong lửa dữ phiền não.
(70) Đại thần lấy nước hương
rưới vua và hoàng hậu,
hồi tỉnh lại thét gào
tự tay đấm ngực bụng.
(71) Vị đại thần thứ ba
tâu vua như thế này,
đã thấy hai vương tử
ngất xỉu ở trong rừng.
(72) Hạ thần rưới nước lạnh
hai vương tử mới tỉnh,
nhìn khắp cả bốn phía
thấy như lửa lan tràn.
(73) Nên dậy rồi lại ngã,
gào khóc không ngưng nổi,
và giơ tay mà than
em tôi thật hiếm có.
(74) Vua nghe nói như vậy
lo càng nung nấu hơn.
Hoàng hậu gào lớn lên
mà than vãn như vầy.
(75) Con út của ta
ta thương xiết bao,
nay thì đã bị
quỉ chết nuốt rồi!
Hai đứa con lớn
tuy vẫn hiện còn,
nhưng bị thiêu đốt
bởi lửa lo buồn.
(76) Ta phải đi mau
đến dưới núi kia,
an ủi cho chúng
bảo tồn mạng sống.
Hoàng hậu tức khắc
rong xe đi tới,
cố mong đến gấp
chỗ út bỏ mình.
(77) Trên đường gặp con
vừa đi vừa khóc,
đấm bụng áo não
mất hết uy phong.
Cha mẹ thấy vậy
buồn thảm ôm con,
cùng vào núi rừng
chỗ út bỏ mình.
(78) Khi đến cái chỗ
Bồ tát xả thân,
cả nhà gào khóc
đau đớn cùng cực,
cởi bỏ chuỗi ngọc,
cùng nhau bi thương
thu nhặt xương cốt
của thân Bồ tát.
(79) Rồi cùng mọi người
chung nhau hiến cúng:
đem xá lợi trên
đặt trong hộp này,
xây dựng tại đó
ngôi tháp thất bảo,
mới về hoàng thành
với sự đau buồn.
(80) Trưởng lão A nan đà,
Tát đỏa xưa kia ấy
nay là ta, Mâu ni,
đừng nghĩ là ai khác.
(81) Quốc vương là Tịnh phạn,
hoàng hậu là Ma da,
thái tử là Từ thị,
thứ tử là Mạn thù,
(82) Cọp là Đại thế chúa (101) ,
năm con: năm Bí sô (102) ,
một nữa: Mục kiền liên
một nữa: Xá lợi phất.
(83) Như lai nói việc cũ
để thấy phải lợi tha
mới là bồ tát hạnh,
là nhân tố thành Phật:
toàn thể đại hội này
phải học tập như vậy.
(84) Khi Bồ tát xả thân
thì đã phát đại nguyện,
nguyện xương cốt của mình
sẽ lợi ích lớn lao
cho bao nhiêu chúng sinh
trong bao kiếp sau đó.
(85) Và địa điểm này đây
chính là chỗ xưa kia
Bồ tát đã xả thân,
là chỗ tháp thất bảo,
vì trải qua nhiều kiếp
nên vùi sâu xuống đất.
(86) Do nguyện lực xưa kia,
rằng tùy theo cơ hội
mà tế độ chúng sinh,
nên nay vì ích lợi
cho bao nhiêu nhân thiên
mà bảo tháp xuất hiện.
Khi đức Thế tôn nói về chuyện cũ này thì cả đại hội, bao gồm vô số nhân loại và chư thiên, ai cũng vô cùng bi cảm, hoan hỷ, tán dương là sự thể chưa bao giờ đã có, và cùng phát tâm vô thượng bồ đề. Đức Thế tôn lại bảo Bồ đề thọ thần, Như lai vì trả ơn mà kính lạy. Rồi Ngài thu hồi thần lực thì bảo tháp trở lại lòng đất.
Phẩm 27: Bồ Tát Tán Dương
Khi đức Thích ca mâu ni thế tôn tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim, thì mười phương quốc độ có vô lượng bồ tát, đều từ quốc độ của mình mà đến đỉnh Thứu phong, chỗ đức Thế tôn, năm bộ phận gieo xuống sát đất, đảnh lễ Ngài rồi nhất tâm chấp tay, khác miệng cùng tiếng mà tán dương.
(1) Sắc thân Thế tôn
như màu hoàng kim,
ánh sáng trải khắp
như núi vàng thật,
trong sạch ôn nhu
như là hoa sen,
với bao màu sắc
trang sức tuyệt đẹp.
(2) Ba mươi hai tướng
trang hoàng cả người,
tám mươi nét đẹp
trang sức toàn hảo,
ánh sáng rực rỡ
không ai đồng đẳng,
trong suốt tựa như
vầng trăng tròn đầy.
(3) Tiếng Ngài trong thanh
cực kỳ tinh tế,
oai như sấm nổ
như sư tử gầm,
với tám đặc tính (103)
thích ứng mọi người,
hơn cả tiếng chim
tần dà vân vân.
(4) Trang nghiêm hình dung
bằng trăm phước mầu,
ánh sáng toàn hảo
không gợn vẩn đục,
tuệ giác lắng trong
in như biển cả,
công đức rộng lớn
in như không gian.
(5) Viên quang chiếu khắp
mười phương quốc độ,
tùy duyên hóa độ
vô lượng sinh linh,
ái nhiễm thì đến
thói quen cũng hết,
đuốc Pháp thường đốt
không bao giờ tắt.
(6) Xót thương ích lợi
bao loại chúng sinh,
hiện tại vị lai
đều cho yên vui,
thường tuyên thuyết cho
đệ nhất nghĩa đế,
làm cho thể chứng
Niết bàn chân tịnh.
(7) Thế tôn nói pháp
cam lộ siêu việt,
đem cho nghĩa lý
cam lộ nhiệm mầu,
dẫn vào thành trì
cam lộ niết bàn,
làm cho thụ hưởng
cam lộ pháp lạc.
(8) Thường xuyên ở trong
biển cả sống chết,
cứu vớt đau khổ
cho bao chúng sinh,
làm họ đứng vững
đại lộ yên ổn,
đem cho cái vui
như ý khó lường.
(9) Biển cả công đức
cực kỳ sâu rộng,
không phải ví dụ
có thể minh họa,
thường nổi đại bi
đối với chúng sinh,
phương tiện hóa độ
không lúc nào ngừng.
(10) Biển cả tuệ giác
không có ngoại biên,
nhân loại chư thiên
cùng nhau ước lượng,
giả sử đến cả
ngàn vạn ức kiếp
cũng không biết được
một phần chút ít.
(11) Chúng con ước lược
tán dương Phật đức,
chỉ là một giọt
trong biển đức ấy,
hướng khối phước này
về cho chúng sinh,
nguyện cùng tốc chứng
bồ đề diệu quả.
Khi ấy đức Thế tôn bảo chư vị bồ tát, lành thay, chư vị khéo tán dương như vậy đối với phẩm chất của Phật, lợi ích chúng sinh, quảng tác việc Phật: diệt được vô lượng ác nghiệp, sinh được vô lượng phước báo.
Phẩm 28: Diệu Tràng Tán Dương
Lúc ấy bồ tát Diệu tràng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay hướng về đức Thế tôn mà tán dương.
(1) Tướng hảo Thế tôn
trăm phước viên mãn,
vô lượng công đức
tự trang nghiêm mình,
thanh tịnh bàng bạc
ai cũng thích nhìn,
ánh sáng chiếu tỏa
như ngàn mặt nhật.
(2) Ánh sáng rực lên
với bao màu sắc,
tướng hảo uy nghi
như khối ngọc quí,
như mặt trời mọc
chiếu sáng không gian,
với màu hồng, trắng
xen màu hoàng kim.
(3) Và như núi vàng
trải rộng ánh sáng
khắp mọi nơi chốn
trăm ngàn quốc độ,
diệt cho chúng sinh
vô lượng đau khổ,
đem cho chúng sinh
an vui siêu việt.
(4) Tướng hảo đầy đủ
và rất nghiêm tịnh,
chúng sinh thích nhìn
không ai biết chán.
Tóc thì mềm mịn
với màu xanh sẫm,
như ong đen huyền
họp trên hoa đẹp.
(5) Đại hỷ đại xả
rất là trang nghiêm,
đại từ đại bi
rất là viên mãn,
tướng hảo tuyệt diệu
trang sức thân thể,
là do các pháp
giác phần tạo thành.
(6) Ban cho chúng sinh
bao nhiêu phước đức,
để họ thường được
yên vui lớn lao.
Và được trang hoàng
bằng các diệu đức,
nên trải ánh sáng
ngàn vạn quốc độ.
(7) Ánh sáng, tướng hảo
cùng cực viên minh,
nên như mặt trời
sáng rực không trung.
Và như tu di
công đức đủ cả,
biến thể cùng khắp
mười phương quốc độ.
(8) Miệng vàng tuyệt đẹp
và rất uy nghiêm.
Răng trắng, đều, khít
giống như tuyết, ngọc.
Và cả khuôn mặt
không ai sánh bằng,
với tướng bạch hào
uốn theo chiều phải;
(9) sáng nhuận tươi trắng
in như pha lê,
lại như trăng tròn
lồng lộng không trung.
Đức Thế tôn bảo bồ tát Diệu tràng, bồ tát tán dương Phật đức như vậy thật bất khả tư nghị, lợi ích chúng sinh, làm cho những người trước đây chưa biết đến đều tùy thuận tu học.
Phẩm 29: Thọ Thần Tán Dương
Bấy giờ Bồ đề thọ thần cũng sử dụng chỉnh cú tán dương đức Thế tôn.
(1) Kính lạy tuệ giác
cực kỳ thanh tịnh,
kính lạy tuệ giác
thường cầu chánh pháp,
kính lạy tuệ giác
tách rời phi pháp,
kính lạy tuệ giác
vĩnh siêu phân biệt.
(2) Hiếm có cái hạnh
không có biên cương,
hiếm có khó thấy
như hoa ưu đàm,
hiếm có như biển
trấn cho núi chúa (104) ,
hiếm có ánh sáng
không có số lượng.
(3) Hiếm có cái nguyện
từ bi rộng lớn,
hiếm có cái sáng
vượt quá thái dương,
tuyên thuyết kinh này
ngọc trong các kinh,
thương tưởng lợi ích
cho bao sinh linh.
(4) Thể hiện vắng lặng
giác quan định tĩnh,
hội nhập vắng lặng
thành trì niết bàn,
sống trong vắng lặng.
các pháp đẳng trì (105) ,
thấu triệt vắng lặng
lĩnh vực sâu xa.
(5) Trú ở ở trong
cái Không siêu việt,
đệ tử cũng thấy
bản thân là không,
cũng thấy các pháp
toàn không tự tánh,
cũng thấy chúng sinh
toàn là vắng lặng.
(6) Con thường nhớ đến
chư vị Thế tôn,
con thường thích nhìn
chư vị Thế tôn,
con thường thiết tha
đối với Thế tôn,
con thường gặp được
mặt trời Thế tôn.
(7) Con thường kính lạy
chư vị Thế tôn,
khao khát ước nguyện
lòng không rời bỏ,
cảm kích rơi lệ
lòng không gián đoạn,
nguyện được phụng sự
lòng không nhàm chán.
(8) Xin đức Thế tôn
khởi tâm đại bi,
cho con thường thấy
dung nghi Thế tôn,
nguyện cầu Thế tôn
cùng Thanh tịnh chúng
thường xuyên tế độ
vô lượng nhân thiên.
(9) Thân Ngài rỗng sáng
in như không gian,
biến thể thì như
ảo tượng, trăng nước (106) .
Xin Ngài tuyên thuyết
niết bàn cam lộ,
để phát sinh ra
cái khối công đức.
(10) Lĩnh vực thanh tịnh
của đức Thế tôn,
từ bi, chánh hạnh
toàn bất tư nghị;
Thanh văn Độc giác
đã không lường nổi,
mà chư Bồ tát
cũng không lường thấu.
(11) Xin đức Thế tôn
thương tưởng đến con,
thường cho con thấy
thân đấng Đại bi.
Con đem ba nghiệp
không hề mệt mỏi
thờ đức Đại từ,
nguyện con mau chóng
thoát khỏi sinh tử
hội về chân như.
Đức Thế tôn nghe những chỉnh cú tán dương này rồi, dùng tiếng Phạn âm mà bảo Bồ đề thọ thần, lành thay thiện nữ; thiện nữ có thể có những lời tán dương tự lợi lợi tha như vậy, tán dương diệu tướng của pháp thân Như lai, cái thân chân thật, không dối, trong sáng. Do công đức tán dương này làm cho thiện nữ mau chóng chứng được bồ đề tối thượng, lại làm cho chúng sinh cùng tu tập như thiện nữ. Ai nghe được những lời tán dương này thì nhập vào Cam lộ, vào cửa Vô sinh.
Phẩm 30: Biện Tài Tán Dương
Vào lúc bấy giờ Đại biện tài thiên nữ tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, chắp tay cung kính, đem những trực từ dưới đây mà tán dương đức Thế tôn.
Con xin kính lạy Ngài, đức Thích ca mâu ni, đấng Như lai, đấng cúng, đấng Chánh đẳng giác. Thân màu hoàng kim. Cổ như xa cừ. Mặt như trăng rằm. Mắt như sen xanh. Môi và miệng đỏ và đẹp như pha lê. Mũi cao, dài và thẳng như đỉnh vàng. Răng trắng, đều và khít như sen trắng. Ánh sáng thân thể chiếu tỏa như trăm ngàn mặt trời. Màu sắc ánh sáng ấy như vàng Thiệm bộ.
Nói không sai lầm. Mở ba cửa giải thoát và chỉ ba đường giác ngộ. Tâm thường thanh tịnh, ý thích cũng vậy. Chỗ Ngài ở và chỗ Ngài đi (107) cũng thường thanh tịnh. Không thiếu uy nghi, cử chỉ không sơ suất. Hành khổ hạnh sáu năm, chuyển pháp luân ba vòng, hóa độ chúng sinh khốn khổ, làm cho trở về bờ giác. Thân tướng giống như câu đà đại thọ. Sáu độ huân tu, ba nghiệp toàn hảo. Đủ nhất thế trí, viên mãn tự lợi lợi tha. Nói gì cũng là vì chúng sinh. Nói không vô ích, làm đại sư tử họ Thích. Kiên cố, dũng mãnh, hoàn thiện tám pháp giải thoát.
Nay con tùy khả năng của mình mà tán dương chút ít phẩm chất của đức Thế tôn. Việc ấy chỉ như muỗi mòng uống nước biển cả. Nhưng con xin đem cái phước này hồi hướng cho tất cả chúng sinh, nguyện cùng vĩnh ly sinh tử khổ, thành tựu vô thượng đạo.
Đức Thế tôn bảo Đại biện tài thiên nữ, lành thay thiện nữ; thiện nữ tu tập đã lâu và có đại hùng biện, nay lại trình bày sự tán dương đối với Như lai. Việc này làm cho thiện nữ tốc chứng pháp môn tối thượng, tướng hảo viên minh, ích lợi tất cả.
Phẩm 31: Ký Thác Kinh Vua
Khi ấy đức Thế tôn phổ cáo đại hội, gồm có vô lượng bồ tát, nhân loại và chư thiên, rằng các người nên biết, trong vô số đại kiếp, Như lai siêng tu khổ hạnh, mới được cái Pháp cực sâu — cái Pháp làm nhân tố chính yếu cho tuệ giác bồ đề, và nay đã đem nói cho các người. Các người ai có chí dũng mãnh mà cung kính giữ gìn Pháp ấy? Như lai nhập niết bàn rồi, đối với Pháp ấy ai là người có khả năng quảng bá lưu thông, làm cho tồn tại lâu dài trên thế giới này?
Trong đại hội, bấy giờ, có sáu mươi câu chi bồ tát và sáu mươi câu chi chư thiên, khác miệng cùng tiếng mà tác bạch như vầy, bạch đức Thế tôn, chúng con ai cũng hân hoan, thích thú, không tiếc tính mạng để kính giữ cái Pháp cực sâu — cái Pháp làm nhân tố chính yếu của tuệ giác bồ đề, mà đức Thế tôn tu hành khổ hạnh trong vô số đại kiếp mới đạt được. Sau khi đức Thế tôn nhập niết bàn, đối với Pháp ấy, chúng con sẽ quảng bá lưu thông, làm cho tồn tại lâu dài trên thế giới này. Các vị đại bồ tát tức thì đối trước đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.
(1) Thế tôn nói chân thật,
trú ở pháp chân thật:
chính sự chân thật ấy
hộ trì cho kinh này.
(2) Đại bi làm áo giáp,
đại từ làm đất đứng:
do từ bi lực ấy
hộ trì cho kinh này.
(3) Viên mãn phước tư lương,
thì sinh trí tư lương;
chính sự viên mãn ấy
hộ trì cho kinh này.
(4) Chiến thắng các loại ma,
hủy diệt các tà thuyết,
loại trừ các ác kiến,
hộ trì cho kinh này.
(5) Thiên vương và Đế thích,
Phạn vương và tám bộ,
chư thiên thiện thần ấy
hộ trì cho kinh này.
(6) Trên đất và trong không,
ở lâu những chỗ này,
kính tuân lời Phật dạy
hộ trì cho kinh này.
(7) Thích ứng bốn phạn trú,
trang hoàng bốn thánh đế,
chiến thắng bốn loại ma,
hộ trì cho kinh này.
(8) Hư không thành chất ngại,
chất ngại thành hư không,
nhưng Pháp mà Phật giữ
thì không thể khuynh đảo.
Bốn vị Thiên vương nghe đức Thế tôn hỏi sự hộ trì Pháp, thì ai cũng tùy hỷ, hộ trì Pháp ấy, và cùng lúc cùng tiếng mà nói chỉnh cú.
(9) Đối với kinh pháp này,
chúng con và quyến thuộc
đều nhất tâm hộ trì
cho lưu thông rộng rãi.
(9) Có ai trì kinh này,
tạo bồ đề chính nhân,
chúng con từ mọi phía
hộ vệ và phụng sự.
Đế thích chắp tay cung kính mà nói chỉnh cú.
(10) Thế tôn chứng Pháp này,
rồi muốn báo ơn đức
nên tuyên thuyết kinh này
lợi ích cho bồ tát.
(11) Con đối với Thế tôn
thường nghĩ sự báo ơn,
nên hộ vệ kinh này
cùng những người thọ trì.
Đỗ sử đa thiên tử chắp tay cung kính mà nói chỉnh cú.
(12) Thế tôn thuyết kinh này,
nếu ai thọ trì được
thì ở ngôi tuệ giác
mà sinh Đỗ sử đa.
(13) Thế tôn, con hân hoan
bỏ lạc thú chư thiên
mà ở trong Thiệm bộ
tuyên dương kinh vua này.
Phạn vương chủ thế giới Sách ha chắp tay cung kính mà nói chỉnh cú.
(14) Các định có vô lượng,
các thiền, các giải thoát,
toàn xuất từ kinh này,
nên kinh này phải nói.
(15) Ngay chỗ nói kinh này,
con bỏ vui của con,
để được nghe kinh này,
thường hộ vệ chỗ ấy.
Con trai của Ma vương tên là Thương chủ, chắp tay cung kính mà nói chỉnh cú.
(16) Những ai trì kinh này,
bản kinh thuận chánh hạnh,
thì không tùy ma hành,
và diệt trừ ma nghiệp.
(17) Nên đối với kinh này
chúng con cũng hộ vệ;
chúng con đại tinh tiến
tùy chỗ mà quảng bá.
Ma vương chắp tay cung kính mà nói chỉnh cú.
(18) Những ai trì kinh này,
đàn áp các phiền não,
thì những người như vậy
con giữ cho yên vui.
(19) Những ai giảng kinh này
thì ma không được dịp;
do uy thần Thế tôn
con sẽ hộ vệ họ.
Diệu cát tường thiên tử cũng đối trước đức Thế tôn mà nói chỉnh cú.
(20) Tuệ giác của Thế tôn
được nói trong kinh này,
nên ai trì kinh này
là hiến cúng Thế tôn.
(21) Con sẽ trì kinh này
giảng nói cho chư thiên,
ai cung kính lắng nghe
thì khuyên đến bồ đề.
Di lạc từ tôn chắp tay cung kính mà nói chỉnh cú.
(22) Những ai đứng vững vàng
nơi bản thể bồ đề,
thì vì họ con làm
người bạn không cần mời;
cho đến bỏ tính mạng
mà hộ trì kinh vua.
(23) Con nghe Pháp này rồi
trở về Đỗ sử đa,
do Thế tôn da trì
mà nói cho nhân thiên.
Đại ca diếp ba thượng thủ chắp tay cung kính mà nói chỉnh cú.
(24) Đức Thế tôn đã nói
rằng con ít trí tuệ,
nên con tùy sức mình
mà hộ trì kinh này.
(25) Ai trì được kinh này
thì con sẽ thu nhận,
trao cho từ vô ngại
cùng với biện vô ngại (108) ,
và con thường tùy hỷ
tán dương rằng lành thay.
Trưởng lão A nan đà chắp tay hướng về đức Thế tôn mà nói chỉnh cú.
(26) Đích thân từ Thế tôn
con nghe vô số kinh,
nhưng chưa từng được nghe
kinh vua của các kinh.
(27) Con nghe được kinh này
là thân nghe trước Ngài,
ai ưa thích tuệ giác
con quảng bá cho họ.
Bấy giờ đức Thế tôn thấy chư vị bồ tát, chư thiên và nhân loại, cùng cả đại hội, ai cũng phát tâm quảng bá hộ vệ kinh vua này, khuyến tiến bồ tát và quảng lợi chúng sinh, nên đức Thế tôn tán dương rằng lành thay, đối với kinh vua này các người chân thành quảng bá được như vậy, đến nỗi sau khi Như lai niết bàn cũng nguyện không để kinh vua này mất đi. Việc làm này chính là nhân tố chính yếu của vô thượng bồ đề, và công đức đạt được thì nói mấy kiếp cũng không cùng tận. Bốn bộ đệ tử của Như lai, và những thiện nam hay thiện nữ khác, biết hiến cúng, tôn kính, sao chép, lưu hành và giải thích đối với kinh vua này, thì công đức đạt được cũng là như vậy. Do vậy, đại hội các người hãy siêng năng thực thi sự khuyến khích của Như lai.
Bấy giờ cả đại hội nghe đức Thế tôn huấn dụ, thì ai cũng đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
Chú thích:
(100) Chính văn là câu vật đầu. Có người nói là sen trắng, có người nói là sen hồng, có người nói chưa nở thì trắng, nở rồi hồng đậm. Ở đây ý kiến sen trắng thích hợp hơn.
(101) Đại thế chúa (Mahaprajabati) (?) (102) Là 5 vị tỷ kheo đầu tiên của Phật.
(103) Có 3 kinh nói đến, tôi chọn 1: kinh Phạn ma dụ. Kinh ấy nói 8 đặc tính của tiếng Phật là tuyệt diệu, dễ hiểu, sâu xa, dịu ngọt, không dối, không lầm, tuệ giác, điều hòa (Chính 39/337).
(104) Lẽ ra nên nói trái lại.
(105) Đẳng trì: dị danh của định.
(106) Lược bớt 1 ví dụ là sóng nắng (chỉ để cho chỉnh chữ). Ảo tượng, sóng nắng, trăng dưới nước, là biến thể muôn vàn.
(107) Chỗ Phật ở chỗ Phật đi là chân như và tuệ giác chân như.
(108) Từ là lời tiếng (gồm cả ngữ văn). Biện là hùng biện.